
1
CƠ SỞ SINH LÝ HỌC CỦA CÁC HOẠT ĐỘNG TÂM LÝ
Ths. Huỳnh Tấn Sơn
Tâm lý học là một ngành khoa học về sức khỏe khám phá và nghiên cứu về nội giới tâm
thức và hành vi của con người dựa trên cơ sở cấu trúc hệ thần kinh cao cấp và bằng
những phương pháp luận logic, khoa học để đưa ra các học thuyết. Tiến trình phát triển
của ngành tâm lý học ngắn ngũi (vào khoảng đầu thế kỹ 19) nhưng có lẽ mầm mống đã
xuất hiện từ lâu đời trước một số các ngành khác của y học. Mầm mống của phương pháp
luận về tâm thức bắt đầu từ các hệ tư tưởng triết học phương đông và phương tây.
Giai đoạn mười năm cuối cùng của thế kỷ XX được gọi là “Thập kỷ của não bộ”, khi nền
khoa học chứng cớ đã khám phá được sự liên quan giữa cấu trúc, chức năng của hệ thần
kinh trung ương và các lĩnh vực tâm lý, tâm thần ở con người. Những vấn đề sinh học,
tâm động học và tâm lý học xã hội đã có thể tìm thấy một ngôi nhà, một ngôn ngữ chung
bởi môn khoa học nhận thức. Khi trẻ mới sinh, tế bào hệ thần kinh là chưa trưởng thành
thật sự nếu như so sánh với các tế bào của các cơ quan khác trong cơ thể như tim hoặc
thận, những tế bào non trẻ này đòi hỏi có sự nuôi dưỡng để phát triển không chỉ bằng các
chất dinh dưỡng mà còn là sự tiếp nhận tri thức giống như não bộ của người lớn trong
một trật tự bắt buộc liên quan đến chức năng của từng vùng của não bộ. Do đó, có thể nói
kinh nghiệm xã hội loài người đã định hình một chương trình “xóa đi những nếp gấp
mang tính di truyền” của não bộ.
Trên nền tản hoạt động của hệ thần kinh cấp cao, con người đã từng bước hoàn chỉnh và
phát triển nhận thức, trí tuệ, cảm xúc và hành vi để chinh phục thế giới tự nhiên của hành
tinh này. Trong tương lai, khó có thể xác định được, liệu các nhà khoa học có thể lý giải,
can thiệp được những hiện tượng mà thời điểm này được cho là những hiện tượng siêu
linh hay không? Với sự phát triển không mệt mõi của trí tuệ loài người, câu trả lời có vẫn
là một khả năng.
A CƠ SỞ Y HỌC CỦA HOẠT ĐỘNG TÂM LÝ
I. CẤU TRÚC GIẢI PHẪU HỌC
Hệ thần kinh là một hệ cơ quan phân hóa cao nhất trong cơ thể người, ở dưới dạng
ống và mạng lưới đi khắp cơ thể, được cấu tạo bởi một loại mô chuyên biệt là mô thần
kinh, gồm các tế bào thần kinh — nơ-ron và các tế bào thần kinh đệm. Cũng chính
các nơ-ron đã tạo ra hai thành phần cơ bản của não, tủy sống và hạch thần kinh.
Đó là chất xám (tập hợp các thân tế bào thần kinh, không có bao Myelin) và chất

2
trắng (tập hợp các sợi trục thần kinh có bao Myelin). Hệ thần kinh ở người được xếp
thành hai nhóm: Hệ thần kinh trung ương và hệ thần kinh ngoại biên. Hệ thần kinh
trung ương (Central Nervous System) bao gồm não và tủy sống. Hệ thần kinh ngoại
biên (Peripheral Nervous System) bao gồm các dây thần kinh và hạch thần kinh bên
ngoài não bộ và tủy sống. Các hoạt động tâm lý ở người đều dựa trên cơ sở hoạt động
của hai hệ thần kinh này, với các hoạt động nhận thức, tư duy, trí tuệ chủ yếu dựa trên
cơ sở hoạt động của hệ thần kinh trung ương.
1. Vỏ não (cortex cerebri)
Vỏ não bao phủ toàn bộ mặt ngoài hai bên bán cầu đại não. là nơi tập trung của các cơ
quan phân tích có nhiệm vụ phân tích các kích thích ở ngoài nội cảnh đưa vào, tổng hợp
lại và biến các kích thích đó thành ý thức
Vỏ đại não khi phát triển sẽ phát sinh ra các rãnh não. Diện tích của vỏ não là 2200 cm2
mà hai phần ba ở sâu trong các rãnh, chỉ có một phần ba là lộ ra ngoài.
Toàn vỏ xám đại não có tất cả độ mười bốn tỉ tế bào sắp xếp thanh 6 lớp. Tùy từng chỗ,
độ dày của vỏ đại não thay đổi từ 1,5 mm đến 4,5mm và sáu lớp tế bào cũng thay đổi.
Các rãnh trên mặt não có loại cố định và loại không cố định. Rãnh không cố định có
nhiều, nhỏ bé và nhiều biến đổi nên sự sắp xếp hình thể các hồi não có thể thay đổi tùy
theo người.
Vỏ não chia làm 52 khu, mỗi khu của vỏ não đảm nhận một chức phần chủ yếu khác
nhau.
- Các vùng vỏ cảm giác chính: nhận các sợi thần kinh từ các trạm nhận đặc biệt của đồi
thị gồm có:
+ Vùng cảm giác thân thể ở hồi sau trung tâm (vùng 3, 1, 2 Brodmann).
+ Vùng thị giác ở hai bên khe cựa (vùng 17 Brod..).
+ Vùng thính giác ở hồi thái dương ngang (vùng 41, 42 Brod.).
+ Vùng vị giác ở nắp đỉnh hồi sau trung tâm (vùng 43 Brod.)
+ Vùng khứu giác quanh thể hạnh nhân của móc hải mã.
+ Vùng tiền đình ở cực thái dương (vùng 38 Brod.).

3
Nằm kế cận các vùng cảm giác chính này còn có các vùng cảm giác phụ, diện tích thường
nhỏ hơn và nếu bị tổn thương chỉ gây rối loạn cảm giác nhẹ.
Các vùng vỏ vận động :
+ Vùng vỏ vận động chính ở hồi trước trung tâm (vùng 4 Brod.) cho ra bó tháp điều khiển
các vận động có ý thức.
+ Vùng vỏ vận động phụ và trước vận động (vùng 6 Brod.) ở ngay trước và ở mặt trong
của vùng vận động chính có nhiệm vụ phối hợp các cử động.
+ Ngoài ra còn có các sợi vỏ ly tâm không thuộc hệ tháp (hệ ngoài tháp) như sợi vỏ lưới,
dải vỏ cầu, sợi vỏ nhân, bó vỏ thị... xuất phát từ các phần khác nhau của,vỏ não.
2. Đoan não (telencephalon): gồm 02 bán cầu đại não
Đa số các thùy não đều liên quan đến hoạt động tâm lý:
Thùy trán
Thùy trán có vai trò quan trọng chú ý và chức năng thực hiện, hứng thú và hành vi. Đánh
giá chức năng thùy trán bao gồm: bộ nhớ làm việc(working memory), phán xét, kiến
thức, tổ chức công việc, tạo ra danh sách tên đồ vật cùng loại.
Thùy thái dương
Thùy thái dương quan trọng trong đáp ứng biểu lộ cảm xúc (amygdala và các kết nối với
hypothalamus và thùy trán) và trí nhớ (hippocampus và các nối kết của hệ viền). Đánh
giá chức năng thùy thái dương là trí nhớ, đặc biệt trí nhớ tường thuật (declarative
memory).
Ngôn ngữ- thùy trán và thùy thái dương
Vùng chính của ngôn ngữ tiếp nhận là vùng Wernicke, ở phần sau của hồi thái dương
trên bán cầu ưu thế. Vùng ngôn ngữ diễn đạt, vùng Broca ở phần sau của hồi trán dưới
bán cầu ưu thế. Vùng tương ứng ở bán cầu không ưu thế có vai trò quan trọng trong giao
tiếp không lời nói theo bối cảnh(non-verbal contextual) và cảm xúc cũng như ngữ
điệu(prosody) của ngôn ngữ.
Thùy đỉnh
Tiếp nhận và hiểu được các thông tin cảm giác đặc biệt cảm giác bản thể, ở bán cầu ưu
thế có chức năng thực hành(praxis), hình thành ý tưởng vận động có chủ đích trong khi
thực hiện vận động thì ở thùy trán. Hội chúng Gerstmann lâm sàng bao gồm mất khả
năng tính toán (acalculia), mất nhận thức ngón tay (finger agnosia), không phân biệt phải
trái và không viết được(agraphia), xảy ra trong tổn thương phần dưới thùy đỉnh ở bán cầu
ưu thế. Chức năng thùy đỉnh còn ảnh hưởng đến sự mất nhận thức(agnosia) như mất khả
năng nhận thức đồ vật bằng xúc giác, thị giác. Mất vận động (apraxia): không thực hiện
được động tác vận động có chủ đích bằng mệnh lệnh. Mất thực hành về cấu

4
trúc(constructional apraxia): không khả năng vẽ đồ vật được yêu cầu dùng thị giác không
gian và test các thành phần của hội chứng Gerstmann
Thùy chẩm
Thùy chẩm có vai trò trong nhận thức thông tin thị giác. Vùng vỏ thị giác liên kết thái
dương dưới nhận thức màu sắc và hình dáng cũng như nhận thức vẽ mặt. Từ thùy chẩm
kéo dài đến vùng đỉnh-thái dương trên nhận thức các đồ vật chuyển động. Thăm khám
thùy chẩm bao gồm thị trường, định danh đồ vật, màu sắc và nhận thức vẽ mặt
Bán cầu đại não được chia thành hai phần đối xứng với nhau và được gọi là bán cầu não
phải và bán cầu não trái.
Bán cầu não phải đảm trách những chức năng: nhịp điệu, màu sắc, hình dạng, bản đồ,
tưởng tượng, mơ mộng.
Bán cầu não trái đảm trách những chức năng: từ ngữ, con số, đường kẻ, danh sách, lý
luận, phân tích.
3. Gian não (diencephalon)
Hay còn gọi là não trung gian, Gian não và đoan não là 2 thành phần chính của não trước
(prosencephalon). Gian não bao gồm vùng dưới đồi (hypothalamus), đồi thị, vùng trên
đồi (epithalamus) bao gồm tuyến tùng (pineal gland) và vùng hạ đồi (subthalamus). Não
trung gian là trạm chuyển tiếp các thông tin cảm giác giữa các vùng trong não bộ và kiểm
soát nhiều chức năng thần kinh tự động của hệ thống thần kinh ngoại biên. Nó cũng nối
kết các thành phần hệ thống nội tiết với hệ thần kinh và kết hợp hệ thống viền (limbic
system) để tạo ra và kiềm chế cảm xúc và trí nhớ. Chức năng não trung gian bao gồm tiếp
nhận các xung động giác quan toàn bộ cơ thể, kiểm soát chức năng thần kinh tự động, nội
tiết, vận động, nội môi (homeostasis), thính giác, thị giác, khứu giác và vị giác, nhận thức
xúc giác.
4. Hệ limbic (hệ viền): Hệ limbic có vai trò quan trọng không riêng trong việc biểu
thị xúc cảm và còn cả trong việc gây ra xúc cảm. Vì lẽ đó, người ta còn gọi hệ limbic là
“não xúc cảm”. Chức năng cơ bản của hệ viền bao gồm: hành vi ăn; “ đáp ứng “ đánh hay
chạy”; tấn công và biểu lộ cảm xúc, chức năng tự động, hành vi, những mặt liên quan đến
nội tiết về đáp ứng tính dục.
5. Hạch hạnh nhân (Agmydal): nằm ở sâu và giữ thùy thái dương, có vai trò trong
tiến trình lưu trữ của trí nhớ, quyết định hành động và phản ứng xúc cảm (bao gồm sợ
hãi, lo lắng, gây hấn). Hạch hạnh nhân được xem như một phần của hệ viền.

5
6. Hồi hải mã hay hồi cá ngựa (hippocampus) là một phần của não trước, là một cấu trúc
nằm bên trong thuỳ thái dương. Nó tạo thành một phần của hệ thống Limbic và có liên quan đến
hoạt động lưu giữ thông tin và hình thành ký ức trong trí nhớ dài hạn và khả năng định hướng trong
không gian. Con người và các loài động vật có vú khác có hai hồi hải mã, mỗi cái ở một bán cầu
não
II. HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THẦN KINH CẤP CAO
1. Hệ thống tín hiệu
Tín hiệu là dạng mã hóa đặc trưng của mọi kích thích ngoại giới được nhận biết bởi hoạt
động của hệ thống thần kinh. Có hai dạng hệ thống tín hiệu:
- Hệ thống tín hiệu thứ nhất:
Mọi kích thích ngoại giới được cảm thụ qua các giác quan (thị giác, thính giác, khứu
giác, vị giác, xúc giác). Hệ thống tín hiệu thứ nhất là các “thông tin” ngoại giới được
các cơ quan cảm giác tiếp nhận và dẫn truyền qua cơ chế dẫn truyền thần kinh để đến
não bộ cảm thụ. Sự dẫn truyền đó là tạm thời, không bền vững. Hệ thống tín hiệu thứ
nhất biểu thị cho tư duy cụ thể
Ví dụ: Màu sắc, hình ảnh; âm thanh; mùi thơm; vị ngọt; cảm giác đau
- Hệ thống tính hiệu thứ hai:
Hệ thống tín hiệu thứ hai được hình thành dựa trên nền tản của tín hiệu thứ nhất, nhưng
không cần thiết phải thông qua các cơ quan cảm giác…Hệ thống tín hiệu thứ hai được
xem là sự khái quát hóa đặc tính của sự vật, hiện tượng, kích thích…được hình thành bởi
bởi hệ thần kinh cao cấp thông qua quá trình cảm thụ, lưu trữ, tái hiện hình ảnh, trí nhớ,
cảm xúc và quyết định hành vi. Hệ thống tín hiệu thứ hai ở con người là ngôn ngữ và chữ
viết, biểu thị cho tư duy trừu tượng
Ví dụ: Khi nghe nói: quả “Me” bạn có thể hình dung hình dạng, đặc tính (chua) của quả
me và có thể làm bạn tăng tiết nước bọt
2. Năng lượng và thông tin
Qúa trình nhận thức được hình thành bởi các thành phần cơ bản sau: Tế bào thần kinh,
chức năng tư duy của tế bào thần kinh, năng lượng và thông tin.
Năng lượng sử dụng của từng tế bào thần kinh, nhóm tế bào thần kinh, hệ thống hoặc
mạng lưới giao diện của nhóm tế bào thần kinh chuyên biệt là một sự chuyển vận phức