ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ TUẤN ANH CƢỠNG CHẾ TÀI SẢN LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở TRONG THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ TUẤN ANH CƢỠNG CHẾ TÀI SẢN LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở TRONG THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số: 8380101.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. HOÀNG THẾ ANH HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả công bố nêu trong Luận văn chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích
dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành các môn học và thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này để đề nghị Khoa Luật xem xét
để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Lê Tuấn Anh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CƢỠNG CHẾ TÀI
SẢN LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ QUYỀN SỞ HỮU
NHÀ Ở TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ................................... 11
1.1. Khái niệm cƣỡng chế ........................................................................ 11
1.2. Khái niệm, đặc điểm cƣỡng chế thi hành án dân sự ..................... 12
1.2.1. Khái niệm về cưỡng chế thi hành án dân sự ...................................... 12
1.2.2. Đặc điểm của cưỡng chế thi hành án dân sự ...................................... 14
1.3. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của cƣỡng chế tài sản là quyền
sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trong thi hành án dân sự .... 19
1.3.1. Khái niệm ........................................................................................... 19
1.3.2. Đặc điểm của cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở
hữu nhà ở ............................................................................................ 21
1.3.3. Phân biệt cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở trong thi hành án dân sự với cưỡng chế quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở trong cưỡng chế hành chính .............................. 24
1.3.4. Vai trò của cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở
hữu nhà ở trong thi hành án dân sự .................................................... 26
1.4. Nội dung pháp luật về cƣỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất
và quyền sở hữu nhà ở ..................................................................... 28
1.4.1. Đối tượng áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng
đất và quyền sở hữu nhà ở .................................................................. 28
1.4.2. Điều kiện áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất
và quyền sở hữu nhà ở trong thi hành án dân sự ở Việt Nam .................. 29
1.4.3. Thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở ......................................................... 33
1.4.4. Nguyên tắc áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng
đất và quyền sở hữu nhà ở trong thi hành án dân sự ở Việt Nam ........... 34
1.4.5. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở ......................................................... 36
1.5. Các yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động cƣỡng chế tài sản là
quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở .................................... 40
1.5.1. Chủ trương chính sách của Nhà nước về thi hành án dân sự và
cưỡng chế thi hành án dân sự ............................................................. 40
1.5.2. Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội ..................................................... 42
1.5.3. Yếu tố phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa và ý thức chấp
hành pháp luật .................................................................................... 43
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 47
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƢỠNG CHẾ TÀI SẢN LÀ QUYỀN
SỬ DỤNG ĐẤT VÀ QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở TRONG THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ ........................................................................... 48
2.1. Một số kết quả chủ yếu trong áp dụng biện pháp cƣỡng chế
đối với tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở tại
Việt Nam thời gian qua .................................................................... 48
2.2. Thực trạng pháp luật về cƣỡng chế tài sản là quyền sử dụng
đất và quyền sở hữu nhà ở trong thi hành án dân sự ở Việt
Nam .................................................................................................... 51
2.2.1. Thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản
là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở ..................................... 51
2.2.2. Điều kiện áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng
đất và quyền sở hữu nhà ở .................................................................. 53
2.2.3. Nguyên tắc áp dụng biện pháp cưỡng chế quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở ............................................................................ 54
2.2.4. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở ......................................................... 58
2.3. Ƣu điểm và hạn chế .......................................................................... 69
2.3.1. Ưu điểm .............................................................................................. 69
2.3.2. Những hạn chế, bất cập còn tồn tại trong việc áp dụng biện pháp
cưỡng chế quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở ....................... 70
2.3.3. Nguyên nhân....................................................................................... 75
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 81
CHƢƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CƢỠNG CHẾ TÀI SẢN LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ
QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở ............................................................... 82
3.1. Quan điểm về cƣỡng chế thi hành án dân sự trong điều kiện
xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ........................ 82
3.1.1. Áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở là biện pháp cuối cùng nghiêm khắc, cần
thiết nhằm thi hành dứt điểm bản án, quyết định của Tòa án ............ 82
3.1.2. Áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở phải gắn với xu thế dân chủ hóa và đảm bảo
quyền con người ................................................................................. 83
3.1.3. Áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở phải được tiến hành phù hợp, đồng bộ với
yêu cầu về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ........... 84
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả cƣỡng chế tài sản là quyền
sử dụng đất và quyền sở hữu nhà trong thi hành án dân sự
ở Việt Nam ........................................................................................ 84
3.2.1. Về thể chế ........................................................................................... 85
3.2.2. Nâng cao chất lượng đội ngũ chấp hành viên .................................... 93
3.2.3. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan hữu quan ............................. 98
3.2.4. Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật .......................... 103
Kết luận chƣơng 3 ....................................................................................... 107
KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................. 108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 110
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 115
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ở Việt Nam hiện nay, bên cạnh những tác động tích cực của sự phát
triển nền kinh tế và xu hướng hội nhập quốc tế thì các quan hệ xã hội cũng có
những diễn biến phức tạp. Các tranh chấp, mâu thuẫn trong quan hệ dân sự,
kinh tế... phát sinh ngày càng nhiều đòi hỏi cần phải được giải quyết, nhằm
bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan và tránh phát sinh thiệt hại. Bên cạnh
việc thỏa thuận, hòa giải thì trong nhiều trường hợp, cần có sự tham gia của
Tòa án nhằm điều chỉnh hành vi và bảo vệ quyền lợi các chủ thể thông qua
quyết định, bản án. Tuy nhiên, không phải lúc nào các chủ thể trong quan hệ
dân sự cũng tự nguyện thực hiện các nghĩa vụ của mình, khiến cho nhiều
trường hợp các cơ quan hữu quan trong đó có cơ quan Thi hành án dân sự
buộc phải sử dụng biện pháp cưỡng chế như một phương tiện để đảm bảo
hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án.
Trong bối cảnh hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang không ngừng đẩy
mạnh việc thực hiện cải cách tư pháp, mục tiêu đến năm 2020. Một trong các
vấn đề lớn trong cải cách hoạt động tư pháp là phải đảm bảo được công tác
xét xử cũng như thực hiện triệt để bản án, quyết định của Tòa án. Do đó, việc
bổ sung và hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về thi hành án dân sự,
trong đó có hoạt động cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở được đặt ra cấp thiết.
Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, các tranh chấp trong quan
hệ dân sự cũng ngày càng nhiều và phức tạp hơn, do đó yêu cầu thi hành án
ngày càng tăng cao. Mặc dù thi hành án dân sự chủ yếu dựa trên tinh thần tự
nguyện, tự thỏa thuận hòa giải giữa các chủ thể có liên quan, nhưng trong
nhiều trường hợp có chủ thể không tự nguyện thi hành án buộc cơ quan có
thẩm quyền phải tiến hành cưỡng chế. Hiện nay biện pháp cưỡng chế kê biên
1
tài sản là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất, đặc biệt là cưỡng chế quyền
sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở vì đây là một trong những tài sản có giá trị
nhất của con người, chỉ được áp dụng khi không còn cách nào khác để buộc
đối tượng phải thi hành nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định của Tòa
án.
Từ khi Luật thi hành án dân sự 2008 có hiệu lực và được sửa đổi bổ
sung năm 2014, Nhà nước đã ban hành nhiều Nghị định, Thông tư hướng
dẫn sửa đổi bổ sung theo hướng hoàn thiện hơn nhằm góp phần hỗ trợ cho
việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Hiện nay, hệ thống các quy định của
pháp luật về cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở đã
tương đối hoàn thiện, đáp ứng cơ bản yêu cầu của hoạt động thi hành án.
Tuy nhiên, bên cạnh đó các quy định pháp luật này còn nhiều điểm chưa phù
hợp, còn nhiều bất cập, vướng mắc. Nhiều quy định về thi hành án dân sự
nói chung và cưỡng chế quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở còn
chung chung, chưa thực sự hợp lý. Mặt khác, sự thiếu thống nhất, thiếu đồng
bộ giữa Luật thi hành án dân sự và các văn bản có liên quan cũng làm ảnh
hưởng đến quá trình thi hành án và hoạt động của cơ quan thi hành án và của
chấp hành viên. Các quy định về trình tự thủ tục cưỡng chế kê biên tài sản
về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu của thi hành án, tuy nhiên vẫn còn một
số bất cập khi áp dụng trong thực tế. Điều này khiến cho việc cưỡng chế thi
hành án dân sự nói chung, cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền
sở hữu nhà ở nói riêng là một trong những hoạt động phức tạp và gặp nhiều
khó khăn nhất trong công tác thi hành án dân sự. Hệ quả là, trong nhiều năm
trở lại đây vẫn tồn tại một số vụ việc chưa được thi hành, hoặc thi hành chưa
hiệu quả gây tranh cãi trong dư luận, ảnh hưởng đến sự công bằng và
nghiêm minh của pháp luật.
Trong những năm qua, đã có nhiều nghiên cứu, bài viết khoa học về thi
2
hành án dân sự ở Việt Nam, góp phần bổ sung cơ sở lý luận cũng như hoàn
thiện áp dụng pháp luật về thi hành án trong thực tiễn. Tuy nhiên, chỉ mới có
một số nghiên cứu như đề tài thạc sĩ Luật học “Kê biên quyền sử dụng đất,
theo pháp luật thi hành án dân sự từ thực tiễn huyện Đan Phượng, thành phố
Hà Nội” của tác giả Lê Quang Tuấn (2016) là đề cập đến khía cạnh cưỡng
chế kê biên tài sản là quyền sử dụng đất. Trong khi đó, cùng với quan hệ dân
sự đang ngày càng phát triển, các tranh chấp mâu thuẫn sẽ tiếp tục có chiều
hướng tăng trong khi các quy định pháp luật còn nhiều bất cập, hạn chế. Từ
đó đặt ra yêu cầu hoàn thiện đối với pháp luật thi hành án dân sự, nhằm giải
quyết những khó khăn, bất cập đó.
Từ những vấn đề trên, tác giả đã chọn đề tài thạc sĩ “Cưỡng chế tài sản
là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trong thi hành án dân sự ở Việt
Nam” là đề tài nghiên cứu của mình, nhằm mục đích tìm hiểu và đánh giá
một cách thấu đáo các khía cạnh của vấn đề này. Thông qua việc khái quát
đặc điểm, tính chất, vai trò và các nhân tố ảnh hưởng, đồng thời xem xét và
đánh giá thực trạng của hoạt động này trong thi hành án dân sự ở Việt Nam,
từ đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần nhỏ vào việc giảm bớt số
vụ tranh chấp tồn đọng, cũng như tăng tính hiệu quả của hoạt động thi hành
án ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Như đã đề cập trong phần trước, nghiên cứu về thi hành án dân sự nói
chung và cưỡng chế kê biên tài sản trong thi hành án dân sự nói riêng có vai
trò quan trọng không chỉ trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh tế,
giảm số vụ thi hành án tồn đọng, mà còn góp phần không nhỏ trong việc đẩy
mạnh hiệu quả của hoạt động thi hành án dân sự, từ đó đảm bảo tính công
bằng và nghiêm minh của pháp luật, đảm bảo quyền lợi và niềm tin của các tổ
chức, cá nhân trong xã hội. Trong những năm qua, đã có nhiều nghiên cứu
3
khoa học có liên quan đến thi hành án dân sự nói chung và hoạt động cưỡng
chế kê biên tài sản nói riêng.
2.1. Nhóm các nghiên cứu chung về thi hành án dân sự
Mặc dù chỉ mới được quan tâm từ sau năm 1993 đến nay, nhưng việc
nghiên cứu về thi hành án dân sự đã cho thấy ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi
hoạt động thi hành án dân sự trực tiếp nhằm vào việc thực thi pháp luật, đảm
bảo cho quyết định của Tòa án và các cơ quan có liên quan được thực hiện,
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan cũng như tính công
bằng của pháp luật. Trong những năm qua, đã có nhiều đề tài nghiên cứu khoa
học về thi hành án điển hình như:
- Đề tài: "Giám sát thi hành án dân sự", Luận án Tiến sĩ Luật học tại
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội của tác giả Hoàng Thế Anh, năm 2015;
- Luận án tiến sĩ Luật học “Pháp luật thi hành án dân sự trong cải
cách tư pháp ở Việt Nam” của tác giả Chu Thị Hoa (2016).
- Luận án tiến sĩ Luật học “Quản lý Nhà nước đối với hoạt động thi
hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Trương Công Lý (2017).
- Đề tài “Đề án kiện toàn mô hình tổ chức và đội ngũ cán bộ thi hành
án để thực hiện hiệu quả Luật thi hành án 2008” của tác giả Nguyễn Văn
Luyện (2010).
- Đề tài “Cơ chế kiểm tra và giám sát từ bên ngoài đối với hoạt động thi
hành án dân sự: Thực trạng và giải pháp” của tác giả Nguyễn Văn Luyện (2011).
- Luận văn Thạc sĩ “Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Giang” tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
của tác giả Nguyễn Văn Công (2012).
- Luận văn Thạc sĩ“Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt
Nam hiện nay” tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội của tác giả Trần
Mạnh Quân (2013).
- Luận văn Thạc sĩ “Pháp luật thi hành án dân sự, thực trạng và giải
4
pháp, liên hệ thực tiễn ở tỉnh Hải Dương” tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội của tác giả Phạm Văn Hùng (2014).
- Luận văn Thạc sĩ “Thi hành án dân sự - qua thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” tại
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội của tác giả Lê Quỳnh Nga (2014).
- Luận văn Thạc sĩ “Thủ tục thi hành án dân sự trong pháp luật thi
hành án dân sự Việt Nam hiện nay” tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
của tác giả Bùi Thị Vân Anh (2016).
- Luận văn Thạc sĩ “Thi hành án dân sự từ thực tiễn thị xã Phổ Yên,
tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Đỗ Thị Vân Ngọc (2016).
- Luận văn Thạc sĩ “Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình” tại
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội của tác giả Nguyễn Thị Mai (2016).
Các nghiên cứu này đã góp phần xây dựng hệ thống lý luận về thi hành
án dân sự ở Việt Nam, là căn cứ để hoàn thiện pháp luật, cũng như bổ sung và
hỗ trợ cho các nghiên cứu trong tương lai.
2.2. Nhóm các nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến nội dung của
đề tài
Các vấn đề liên quan đến kê biên tài sản luôn là những vấn đề có tính
nhạy cảm và phức tạp trong hoạt động thi hành án, cũng khiến cho cơ quan và
các cán bộ thi hành án gặp nhiều khó khăn. Do đó, nghiên cứu về vấn đề kê
biên tài sản trong thi hành án có ý nghĩa thực tiễn và áp dụng rộng khắp trong
thi hành án cả nước. Là cơ sở để giải quyết các tranh chấp và vụ việc còn tồn
đọng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Trong những năm qua,
đã có một số nghiên cứu hướng đến lĩnh vực này bao gồm:
- Luận văn Thạc sĩ Luật học“Biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để
thi hành án dân sự” tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội của tác giả Trần
Công Thịnh (2007).
- Đề tài nghiên cứu khoa học “Khảo sát khoa học về quy trình, thủ tục
thi hành án các bản án có tài sản thi hành là bất động sản và các giải pháp
5
nhằm đảm bảo tính thống nhất cho các quy trình này” của tác giả Đinh Thị
Mai Phương (2010).
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Bán đấu giá tài sản trong thi hành án
dân sự theo pháp luật Việt Nam” tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội của
tác giả Bùi Thị Thu Hiền (2014)
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Biện pháp cưỡng chế kê biên và xử lý tài
sản của người phải thi hành án dân sự” tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội của tác giả Nguyễn Anh Tuấn (2015).
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Kê biên quyền sử dụng đất, theo pháp
luật thi hành án dân sự từ thực tiễn huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội”
tại Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội - Viện Khoa học Xã hội của tác giả Lê
Quang Tuấn (2016).
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn thành phố Hà Nội” tại
Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội - Viện Khoa học Xã hội của tác giả Lê Xuân
Tùng (2016).
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Cưỡng chế thi hành án dân sự thực tiễn ở
tỉnh Nam Định” tại Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội - Viện Khoa học Xã hội
của tác giả Lương Ngọc Hưng (2018).
Trong bối cảnh cùng với sự phát triển của xã hội, vấn đề thi hành án
ngày càng đa dạng, có tính chất khó khăn phức tạp cần phải giải quyết, thì các
công trình nêu trên đều đã có nhiều đóng góp trong việc nghiên cứu các khía
cạnh trong thi hành án dân sự của Việt Nam hiện nay. Đây là căn cứ để tháo
gỡ những khó khăn tồn tại trong lĩnh vực thi hành án, có tác dụng hỗ trợ cơ
quan thi hành án và cán bộ thi hành án trong việc giải quyết nhiều vấn đề còn
tồn đọng. Đồng thời, là cơ sở để các nghiên cứu khác trong lĩnh vực thi hành
án, trong đó có nghiên cứu về hoạt động cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng
6
đất và quyền sở hữu nhà ở trong nội dung đề tài này, tiếp tục được triển khai
và đi vào chiều sâu.
2.3. Đánh giá chung
Các đề tài khoa học, nghiên cứu khoa học kể trên đã góp phần hoàn
thiện lý luận về thi hành án dân sự nói chung và thi hành án bằng biện pháp
cưỡng chế kê biên tài sản nói riêng ở Việt Nam. Đồng thời đưa ra nhiều giải
pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả trong việc hoàn thiện các quy
định của pháp luật, hoàn thiện việc áp dụng pháp luật về thi hành án dân sự và
cưỡng chế kê biên tài sản trong thực tiễn. Tuy nhiên, bên cạnh đó, các nghiên
cứu này chủ yếu nghiên cứu vấn đề thi hành án dân sự nói chung, chứ chưa có
nhiều đề tài đề cập đến các biện pháp cưỡng chế trong thi hành án dân sự.
Cưỡng chế kê biên tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở trong thi
hành án dân sự là một biện pháp cưỡng chế quan trọng, được áp dụng nhiều
trong thi hành án dân sự và do đó cần được quan tâm và cần phải tiếp tục
được triển khai nghiên cứu sâu hơn.
3. Mục đích nghiên cứu
3.1. Mục đích tổng quát
Thông qua việc nghiên cứu cơ sở lý luận của cưỡng chế thi hành án dân
sự nói chung và cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà
nói riêng, từ đó chỉ ra được các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động này. Đây là
căn cứ để đi vào phân tích và đánh giá một cách toàn diện thực trạng pháp
luật và thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động cưỡng chế kê biên tài sản
là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở Việt Nam hiện nay. Từ đó rút ra
kết luận về ưu, nhược điểm của hoạt động này và các nguyên nhân.
3.2. Mục đích cụ thể
Nghiên cứu một cách toàn diện các vấn đề lý luận về cưỡng chế tài sản
là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở trong pháp luật Việt Nam.
Từ những nội dung nghiên cứu ở Chương 1 và Chương 2, cùng với việc
7
nhìn nhận một cách thấu đáo công tác thi hành án dân sự nói chung, và cưỡng
chế thi hành án dân sự trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền hiện
nay. Từ đó đề ra các giải pháp áp dụng trong thực tiễn nhằm nâng cao hiệu
quả của hoạt động cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu
nhà ở Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.
4. Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định của pháp luật dân
sự về cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở trong thi
hành án dân sự ở Việt Nam.
5. Nội dung, phạm vi, cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
của luận văn
5.1. Nội dung nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề
lý luận cũng như hệ thống các quy định pháp luật, đặc biệt là quy định pháp
luật hiện hành và thực tiễn thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự bằng
biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, từ đó
đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như bảo vệ
tốt hơn quyền lợi của các bên liên quan trong hoạt động thi hành án.
5.2. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu đề tài luận văn là các quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về pháp luật, về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
tiến hành cải cách bộ máy Nhà nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nền tư
pháp. Đây là kim chỉ nam cho việc định hướng các phương pháp nghiên cứu
của tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.
Để thực hiện việc nghiên cứu đề tài, luận văn sử dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp thống kê được sử dụng
8
trong việc thống kê số liệu kết quả công tác thi hành án; phương pháp so sánh,
phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp suy luận,… Trong quá trình
nghiên cứu, các phương pháp này được vận dụng một cách linh hoạt và đan
xen lẫn nhau để tạo ra kết quả nghiên cứu.
5.3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian của đề tài là pháp luật về thi hành án dân sự nói
chung và cưỡng chế kê biên tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
nói riêng trong thi hành án dân sự từ năm 2015 đến năm 2017.
Phạm vi không gian của đề tài là thi hành án dân sự bằng biện pháp
cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà trên phạm vi toàn
quốc từ năm 2015 đến năm 2017.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
Luận văn hệ thống hóa, làm sáng tỏ lý luận và thực tiễn hoạt động
cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trong thi hành
án dân sự, phân tích các nhân tố ảnh hưởng cũng như đánh giá một cách toàn
diện việc áp dụng trong thực tiễn.
Luận văn nêu bật khái niệm, đặc điểm, vai trò, điều kiện áp dụng
cũng như quá trình hình thành và phát triển của hoạt động cưỡng chế tài
sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trong thi hành án dân sự ở
Việt Nam.
Luận văn đi sâu vào phân tích cụ thể từng khía cạnh của cưỡng chế tài
sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở bao gồm trường hợp áp dụng,
thẩm quyền, điều kiện áp dụng, trình tự thủ tục, giải quyết khiếu nại tố cáo
cũng như đánh giá về thực tiễn của hoạt động. Đồng thời đánh giá một số kết
quả chủ yếu của hoạt động này trong những năm qua.
Luận văn đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trong giai đoạn
9
tiếp theo.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận, luận văn góp phần làm rõ thêm khái niệm, đặc điểm, nội
dung, ý nghĩa của hoạt động cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền
sở hữu nhà ở và cơ sở của hoạt động này. Phân tích, đánh giá đúng thực trạng
các quy định và thực tế áp dụng của hoạt động cưỡng chế tài sản là quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trong những năm qua.
Về thực tiễn, luận văn đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở và
những kinh nghiệm vận dụng những giải pháp đó trên thực tiễn ở Việt Nam
trong thời gian tới.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia làm 3 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề chung về cưỡng chế tài sản là quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trong thi hành án dân sự.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về
cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trong thi hành
án dân sự ở Việt Nam.
- Chương 3: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cưỡng chế tài sản
là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trong thi hành án dân sự.
10
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CƢỠNG CHẾ TÀI SẢN
LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm cƣỡng chế
Trong từ điển chữ Nôm có giải nghĩa, cưỡng là thúc ép, buộc tuân theo
ý chí của mình [38, tr.381], chế là kìm giữ [38, tr.256]. Như vậy cưỡng chế là
một từ ghép được tạo bởi hai từ có nghĩa nêu trên. Cưỡng chế có thể được
hiểu là thúc ép, buộc ai đó phải thực hiện theo. Theo Cuốn từ điển tiếng Việt của
Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa năm 2012 thì: Cưỡng chế
là dùng quyền lực Nhà nước bắt phải tuân theo pháp luật” [40, tr.309]. Trong
tiếng Anh cưỡng chế là Coerce nghĩa là buộc ai phải làm cái gì [35, tr.284].
Về mặt thuật ngữ pháp lý, cưỡng chế là buộc cá nhân hoặc tổ chức phải phục
tùng một mệnh lệnh, thực hiện một nghĩa vụ, trách nhiệm theo quyết định đã
có hiệu lực của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Cưỡng chế phải được tiến
hành theo thủ tục, trình tự chặt chẽ, biện pháp sử dụng trong cưỡng chế là bạo
lực về mặt vật chất và tinh thần, thường được áp dụng khi quyết định đã có
hiệu lực không được thực hiện một cách tự nguyện [46]. Theo cuốn Từ điển
Luật học do Nhà xuất bản Từ điển bách khoa ấn hành năm 1999 thì cưỡng chế
là “những biện pháp bắt buộc cá nhân hay tổ chức phải thực hiện và phục
tùng mệnh lệnh nhất định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Từ điển
Luật học do Nhà xuất bản Từ điển bách khoa và Nhà xuất bản Tư pháp ấn
hành năm 2006 thì cưỡng chế là:
Buộc cá nhân hay tổ chức phải phục tùng một mệnh lệnh, thực hiện
một nghĩa vụ, trách nhiệm theo quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Chỉ tổ chức hay cá nhân được pháp luật quy định mới
11
được ra quyết định cưỡng chế, quyết định lực lượng cưỡng chế. Cưỡng chế
phải được tiến hành theo thủ tục, trình tự chặt chẽ. Cá nhân hay tổ chức là
đối tượng cưỡng chế có thể bị buộc phải làm hay không được làm một việc
nhất định về quyền tài sản hay quyền nhân thân. Biện pháp sử dụng trong
cưỡng chế là bạo lực về mặt vật chất hoặc tinh thần, thường được áp dụng
khi quyết định đã có hiệu lực không được thực hiện một cách tự nguyện.
Như vậy, mỗi quan niệm cưỡng chế đều có những nội dung khác nhau
nhưng có thể thấy rằng các quan niệm đều có điểm chung là dùng quyền lực
nhà nước, áp đặt ý chí của Nhà nước đối với tổ chức, cá nhân nhất định để
buộc tổ chức, cá nhân đó phải thực hiện hoặc không được thực hiện công
việc nhất định theo ý chí của Nhà nước. Để bảo đảm thực thi pháp luật,
ngoài phương thức giáo dục, thuyết phục mọi chủ thể tự giác tuân thủ, bất
kỳ Nhà nước nào cũng sử dụng sức mạnh cưỡng chế bằng pháp luật. Cưỡng
chế là khái niệm thuộc phạm trù Nhà nước và pháp luật, là hiện tượng gắn
liền với Nhà nước. Cưỡng chế khác với các biện pháp ngăn chặn hay đảm
bảo ở chỗ toàn bộ quá trình áp dụng biện pháp cưỡng chế là việc buộc chủ
thể không tự nguyện phải thực hiện nghĩa vụ của mình. Biện pháp cưỡng chế
là biện pháp giải quyết mang tính bạo lực của Nhà nước, nhằm đảm bảo hiệu
lực của bản án, quyết định được thi hành, đảm bảo tính công bằng, nghiêm
minh của pháp luật.
Như vậy, có thể hiểu khái niệm của cưỡng chế như sau: “Cưỡng chế là
dùng quyền lực nhà nước buộc tổ chức, cá nhân nhất định phải tuân theo, bảo
đảm cho quyền lực Nhà nước được thực hiện bởi biện pháp nhất định và do
chủ thể có thẩm quyền tiến hành”.
1.2. Khái niệm, đặc điểm cƣỡng chế thi hành án dân sự
1.2.1. Khái niệm về cưỡng chế thi hành án dân sự
Cưỡng chế gắn liền với hoạt động quản lý nhà nước và là một trong
12
những phương pháp nghiêm khắc được sử dụng trong hoạt động quản lý nhà
nước. Trong nhà nước Pháp quyền, việc cưỡng chế nhằm mục đích thi hành
pháp luật của Nhà nước, duy trì trật tự xã hội. Nhà nước thực hiện cưỡng chế
thông qua nhiều biện pháp cưỡng chế, những biện pháp cưỡng chế này được
Nhà nước trao quyền cho các cơ quan Nhà nước khác nhau thực hiện như
cưỡng chế hành chính, cưỡng chế trong hoạt động tố tụng của cơ quan điều
tra và Tòa án và cưỡng chế thi hành án dân sự.
Trong hoạt động thi hành án dân sự, cơ quan Thi hành án dân sự cũng
được Nhà nước trao quyền cho sử dụng một số biện pháp cưỡng chế, quy định
tại điều 71 Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 [25].
Giáo trình kỹ năng về thi hành án dân sự (phần chung) của Học viện Tư
pháp, xuất bản năm 2012, đã nêu rõ cưỡng chế thi hành án dân sự là biện
pháp cưỡng bức bắt buộc của cơ quan Thi hành án dân sự, do chấp hành viên
quyết định theo thẩm quyền nhằm buộc người phải thi hành án phải thực hiện
những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định. Cưỡng chế
thi hành án dân sự được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có
điều kiện thi hành và hết thời gian tự nguyện mà không tự nguyện thực hiện
nghĩa vụ theo nội dụng của bản án, quyết định của Tòa án hoặc trong trường
hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản
hoặc trốn tránh việc thi hành án [17, tr.216].
Theo tài liệu bồi dưỡng Chấp hành viên Trung cấp cũng định nghĩa
cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp sử dụng quyền lực Nhà nước để
buộc người phải thi hành án phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về
tài sản theo bản án, quyết định của Tòa án. Biện pháp cưỡng chế do chấp
hành viên quyết định trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi
hành án mà không tự nguyện thi hành án [19, tr.420].
Cưỡng chế thi hành án dân sự có đặc trưng chung của cưỡng chế thi
13
hành án nhưng cũng có đặc thù. Cưỡng chế thi hành án dân sự bao giờ cũng
sử dụng quyền lực nhà nước để buộc cá nhân, tổ chức liên quan trực tiếp đến
việc thực hiện bản án, quyết định, cho dù đó có thể là người được thi hành án,
người phải thi hành án hay cá nhân, tổ chức khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến việc thi hành án dân sự. Nói đến cưỡng chế thi hành án dân sự là nói
đến việc dùng quyền lực nhà nước để thi hành án dân sự. Việc dùng quyền lực
nhà nước trong cưỡng chế thi hành án dân sự phải thông qua chủ thể nhất
định tiến hành bằng những biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự cụ thể.
Chủ thể tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự là chức danh cụ thể bởi vì
tính chất đặc thù của thi hành án dân sự là do chức danh cụ thể tiến hành việc
thi hành án dân sự, ở Việt Nam hiện nay đó là chấp hành viên và thừa phát lại.
Cưỡng chế thi hành án dân sự được đặt ra và tiến hành với mục đích cụ thể là
tổ chức thi hành việc thi hành án dân sự nhưng mục đích chung là thi hành
nghiêm chỉnh bản án, quyết định được thi hành theo thủ tục thi hành án dân
sự, bảo đảm hiệu lực thi hành của bản án, quyết định đó.
Như vậy, từ những nhận định trên có thể định nghĩa: “Cưỡng chế thi
hành án dân sự là việc chủ thể có thẩm quyền sử dụng quyền lực nhà nước
thực hiện biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật về thi hành án
dân sự đối với tổ chức, cá nhân nhằm bảo đảm thi hành trên thực tế quyền,
nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định được thi hành theo thủ
tục thi hành án dân sự”.
1.2.2. Đặc điểm của cưỡng chế thi hành án dân sự
Cưỡng chế thi hành án dân sự mang những đặc điểm sau:
Thứ nhất, cưỡng chế thi hành án dân sự mang tính quyền lực. Cũng
như nhiều loại cưỡng chế khác (cưỡng chế hành chính, cưỡng chế thi hành án
hình sự và cưỡng chế thi hành án hành chính), cưỡng chế thi hành án dân sự
thể hiện quyền lực nhà nước, chỉ có cá nhân thuộc cơ quan chức năng của
14
Nhà nước hoặc người thuộc tổ chức được Nhà nước trao quyền mới có thẩm
quyền tiến hành cưỡng chế. Quyền lực nhà nước được thể hiện thông qua
cưỡng chế thi hành án dân sự bằng việc chủ thể có thẩm quyền ban hành
quyết định cưỡng chế buộc cá nhân, tổ chức nhất định phải chấp hành để thi
hành bản án, quyết định được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự, nếu
không chấp hành thì sẽ bị xử lý nghiêm bằng các phương thức như xử phạt
hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự và bồi thường thiệt hại nếu có, hoặc
các biện pháp buộc khắc phục hậu quả. Cưỡng chế thi hành án dân sự bắt
buộc các tổ chức, cá nhân tôn trọng và phối hợp thực hiện bản án, quyết định,
kể cả sử dụng lực lượng chuyên chính là cảnh sát để bảo vệ cưỡng chế thi
hành án dân sự, trấn áp những cá nhân có hành vi chống đối cưỡng chế thi
hành án dân sự. Theo Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 và
Nghị quyết số 107 2015 QH13 ngày 26 11 2015 của Quốc hội về thực hiện
chế định Thừa phát lại thì điểm khác biệt quan trọng của cưỡng chế thi hành
án dân sự so với các loại hình cưỡng chế khác là chủ thể có thẩm quyền áp
dụng biện pháp cưỡng chế hay còn gọi là tiến hành cưỡng chế thi hành án dân
sự là chấp hành viên và thừa phát lại để thi hành bản án, quyết định. Mặt
khác, xuất phát từ bản chất của thi hành án dân sự là thi hành các bản án,
quyết định về “dân sự” chủ yếu của Tòa án - cơ quan tài phán nên đặc điểm
của cưỡng chế thi hành án dân sự là dùng quyền lực Nhà nước để bảo vệ và
khôi phục các quyền về tài sản, các quyền về dân sự khác cho đương sự và
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo bản án, quyết định có hiệu lực thi
hành chủ yếu của Tòa án.
Thứ hai, cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp thi hành án dân sự.
Biện pháp là cách làm, cách thức tiến hành, giải quyết một vấn đề cụ thể. Bản
án, quyết định được thi hành có nhiều khoản, tùy từng trường hợp cụ thể có
thể tổ chức thi hành một hoặc một số khoản trong bản án, quyết định theo yêu
15
cầu của đương sự hoặc quy định của pháp luật. Việc thi hành án dân sự được
khởi động bằng quyết định thi hành án. Mỗi quyết định thi hành án là một
việc thi hành án dân sự. Việc thi hành án dân sự được thực hiện trước hết
bằng biện pháp tự nguyện thi hành án. Biện pháp tự nguyện thi hành án luôn
được khuyến khích, theo đó người phải thi hành án tự nguyện thực hiện nghĩa
vụ thi hành án trong thời hạn pháp luật quy định hoặc người phải thi hành án
thỏa thuận được với người được thi hành án phương thức thực hiện việc thi
hành án dân sự. Tuy nhiên, trong trường hợp biện pháp tự nguyện không có
kết quả thì phải có sự can thiệp của Nhà nước để buộc người phải thi hành án
thực hiện nghĩa vụ thi hành án bằng việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi
hành án dân sự phù hợp. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân
sự trong trường hợp nhất định, kể cả áp dụng đối với người thứ ba để thi hành
án chính là một biện pháp thi hành án dân sự. Có thể nói, ngoại trừ trường
hợp đặc biệt, cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp thi hành án dân sự chỉ
được thực hiện sau khi đã động viên, thuyết phục người phải thi hành án tự
nguyện thi hành án nhưng họ vẫn không tự nguyện thi hành án. Trường hợp
phải cưỡng chế thì phải thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định pháp
luật. Vì vậy, tự nguyện thi hành án dân sự và cưỡng chế thi hành án dân sự là
hai biện pháp thi hành án dân sự được pháp luật quy định nhưng biện pháp thi
hành án dân sự thực hiện thông qua cưỡng chế thi hành án dân sự chỉ khi
người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án, trừ trường hợp đặc biệt
do cần ngăn chặn hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc hành vi khác nhằm
trốn tránh việc thi hành án dân sự.
Thứ ba, cưỡng chế thi hành án dân sự áp dụng đối với nhiều đối tượng.
Trong thi hành án hình sự, đối tượng phải thi hành án là cá nhân hoặc đại diện
pháp nhân thương mại bị kết án (người phải thi hành án) theo bản án của Tòa
16
án và nhằm mục đích trừng trị người phải thi hành án, đồng thời cải tạo, giáo
dục họ trở thành người tốt, có ích cho xã hội. Thế nhưng, trong thi hành án
dân sự, đối tượng bị cưỡng chế không chỉ là người phải thi hành án mà còn
được áp dụng đối với một số đối tượng khác như người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan, người bảo lãnh,.... Trong nhiều trường hợp, sự chuyển hóa người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia vào quá trình tố tụng trước khi thi
hành án dân sự thành người được thi hành án hoặc người phải thi hành án do
họ được hưởng quyền hoặc phải thực hiện nghĩa vụ theo bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật, khi đó họ bị cưỡng chế thi hành án dân sự nếu họ
thuộc đối tượng là người phải thi hành án hoặc người được thi hành án và tất
nhiên họ phải chịu chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự theo quy định của
pháp luật. Đối tượng bị cưỡng chế thi hành án dân sự có thể là cá nhân hoặc
tổ chức, là người Việt Nam hoặc người nước ngoài, người đang quản lý tài
sản hoặc không trực tiếp quản lý tài sản cưỡng chế thi hành án dân sự. Thông
thường thì đối tượng bị cưỡng chế thi hành án dân sự là người phải thi hành
án bởi họ phải thực hiện nghĩa vụ theo nội dung bản án, quyết định, đó có thể
là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến
việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án của đương sự hoặc là người thứ ba
đang quản lý tài sản thi hành án dân sự mà không tự nguyện giao tài sản để xử
lý bảo đảm thi hành án dân sự hoặc không tự nguyện giao tài sản cho người
mua được tài sản bán đấu giá, người nhận tài sản để thi hành án. Việc thực
hiện cưỡng chế thi hành án dân sự đối với đối tượng không phải là người phải
thi hành án đòi hỏi phải thận trọng, tuân thủ đúng trình tự, thủ tục cưỡng chế
thi hành án dân sự, bởi họ không mong muốn bị cưỡng chế thi hành án dân sự
nhưng không thể thực hiện được sự tự nguyện thi hành án do họ không có
nghĩa vụ thi hành án và có trường hợp họ bị thiệt hại nhất định từ việc cưỡng
17
chế thi hành án dân sự, như trường hợp cưỡng chế tài sản của người phải thi
hành án có chung với người khác hoặc tài sản của người phải thi hành án đang
cho người khác thuê, mượn, nhận cầm cố, thế chấp đang trong thời hạn hợp
đồng thuê, mượn, cầm cố, thế chấp tài sản. Trong một số trường hợp, quyết
định cưỡng chế thi hành án dân sự áp dụng trực tiếp đối với người phải thi hành
án nhưng việc thực hiện quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự lại được tiến
hành đối với người không phải là người phải thi hành án, có trường hợp chỉ là
yêu cầu họ chuyển đồ đạc, di dời tài sản ra khỏi tài sản bị cưỡng chế thi hành
án dân sự của người phải thi hành án, tuy vậy họ vẫn là đối tượng bị cưỡng chế
thi hành án dân sự mặc dù họ không phải là người phải thi hành án.
Thứ tư, cưỡng chế thi hành án dân sự được áp dụng thông qua thực
hiện quyết định có hiệu lực bắt buộc thi hành. Cưỡng chế thi hành án dân sự
được thể hiện cụ thể bằng việc ban hành quyết định của người có thẩm quyền
áp dụng biện pháp cưỡng chế. Tùy từng trường hợp cụ thể, người có thẩm
quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế ra quyết định cưỡng chế thi hành án dân
sự. Với tính chất là một văn bản áp dụng pháp luật, quyết định cưỡng chế thi
hành án dân sự có giá trị bắt buộc thi hành đối với người bị cưỡng chế. Quyết
định cưỡng chế được ban hành trên cơ sở bản án, quyết định được thi hành
theo thủ tục thi hành án dân sự và nhằm thi hành bản án, quyết định đó, vì vậy
nếu quyết định cưỡng chế được ban hành mà không tổ chức thực hiện thì
quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự đó chưa được thực thi trên thực tế,
chưa ban hành quyết định cưỡng chế thì cưỡng chế thi hành án dân sự chưa
được áp dụng. Tuy nhiên, xuất phát từ bản chất của cưỡng chế thi hành án dân
sự là dùng quyền lực nhà nước thì thông qua thực hiện quyết định có hiệu lực
thi hành, cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp hạn chế quyền tự chủ,
định đoạt của chủ sở hữu, sử dụng tài sản nhằm đảm bảo khôi phục quyền và
18
lợi ích hợp pháp của người được thi hành án theo bản án, quyết định có hiệu
lực thi hành. Chính vì vậy, cưỡng chế thi hành án dân sự không chỉ có ý nghĩa
bảo đảm thi hành án mà còn là bảo vệ sự bình đẳng trước pháp luật giữa các
đương sự, cá nhân, tổ chức có liên quan, là căn cứ quan trọng trong việc xử lý
hành vi vi phạm của người phải thi hành án, đặc biệt là trong việc xử lý bằng
trách nhiệm hình sự. Theo quy định của pháp luật hình sự thì người nào có
điều kiện mà không chấp hành bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định của
pháp luật có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không chấp hành án.
Như vậy, bị áp dụng biện pháp cưỡng chế là yếu tố bắt buộc về mặt khách
quan trong cấu thành tội không chấp hành án. Quyết định cưỡng chế thi hành
án dân sự không chỉ có giá trị bắt buộc thi hành đối với người phải thi hành
án, mà tất cả những tổ chức, cá nhân có liên quan phải tôn trọng và thực hiện.
1.3. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của cƣỡng chế tài sản là quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trong thi hành án dân sự
1.3.1. Khái niệm
Cưỡng chế kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế trong thi hành án
dân sự. Theo Từ điển Hán Việt của Trần Văn Chánh viết, kê nghĩa là ghi chép
lại, xem xét, biên nghĩa là sắp xếp, soạn lại. Như vậy cụm từ kê biên có thể
hiểu là việc viết lại, ghi chép lại một cách có hệ thống những nội dung nào đó
lại. Tài sản được liệt kê trong Điều 105 Bộ Luật dân sự năm 2015 bao gồm
vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Trên góc độ pháp lý, kê biên tài sản
được hiểu là tạm thời cấm vận chuyển, chuyển đổi, định đoạt hoặc chuyển
dịch tài sản của người vi phạm pháp luật. Điều này có nghĩa khi kê biên một
tài sản của một người nào đó thì quyền sở hữu tài sản của họ bị hạn chế,
không được chuyển đổi, chuyển dịch, định đoạt tài sản kê biên đó. Mặt khác
tài sản bị kê biên phải là của người vi phạm pháp luật, nếu một người không vi
19
phạm pháp luật thì sẽ không bị kê biên. Kê biên tài sản thể hiện tính quyền lực
của Nhà nước, nhằm răn đe người phải thi hành nghĩa vụ không tự nguyện thực
hiện nghĩa vụ. Như vậy, có thể định nghĩa cưỡng chế kê biên tài sản là biện
pháp cưỡng chế do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện nhằm đảm bảo
cho việc thực hiện một nghĩa vụ tài sản đối với các cá nhân, tổ chức xâm hại
đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở là một trong các loại tài sản
có thể bị cưỡng chế kê biên để đảm bảo thi hành các bản án, quyết định do
Tòa án tuyên hoặc của cơ quan có thẩm quyền theo quy định pháp luật. Các
bản án, quyết định đó bao gồm: Bản án, quyết định dân sự, phần tài sản và
quyết định dân sự trong bản án hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết
định hành chính của Toà án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên
quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh và quyết định của Trọng tài thương mại. Quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở là một trong những loại tài sản có giá trị nhất của con người, được
pháp luật bảo vệ và công nhận. Tuy nhiên, trong trường hợp bên có nghĩa vụ
không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ theo bản án, quyết định của Tòa án hoặc
cơ quan có thẩm quyền khác và khi tài sản khác của người đó không đủ để
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ đó thì buộc phải kê biên quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở.
Do đó, có thể định nghĩa cưỡng chế quyền sử dụng đất và quyền sở hữu
nhà ở như sau: “Cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở
trong thi hành án dân sự là biện pháp cưỡng chế với người phải thi hành án có
điều kiện thi hành sau khi đã hết thời gian tự nguyện mà người phải thi hành
án không tự nguyện thi hành hoặc cần ngăn chặn người phải thi hành án tẩu
tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, do Chấp hành viên tiến hành để xử
lý quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở của người phải thi hành án theo
20
quy định của pháp luật nhằm thực hiện các nghĩa vụ của người phải thi hành
án theo Bản án, quyết định có hiệu lực thi hành”.
1.3.2. Đặc điểm của cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền
sở hữu nhà ở
Cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở là một
biện pháp trong thi hành án dân sự. Cưỡng chế quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở mang đầy đủ các đặc điểm của cưỡng chế thi hành án dân sự, đồng
thời mang một số đặc điểm riêng sau:
Thứ nhất, cưỡng chế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở là một
trong số các biện pháp cưỡng chế trong thi hành án dân sự. Các biện pháp
cưỡng chế trong thi hành án dân sự bao gồm: (i) Khấu trừ tiền trong tài
khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án; (ii) trừ
vào thu nhập của người phải thi hành án; (iii) kê biên, xử lý tài sản của người
phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ; (iv) khai thác tài sản
của người phải thi hành án; (v) buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài
sản, giấy tờ; (vi) buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực
hiện công việc nhất định. Biện pháp kê biên tài sản là biện pháp có tính chất
nghiêm khắc hơn so với các biện pháp khác vì can thiệp trực tiếp vào quyền
sở hữu tài sản của người phải thi hành án. Đồng thời, trong số các loại tài sản
có thể cưỡng chế thì cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở phức tạp và nhạy cảm hơn vì quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở là
những quyền được pháp luật công nhận, quản lý và bảo vệ chặt chẽ thông qua
việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở cho người
dân và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người phải thi hành án và gia
đình của họ.
Thứ hai, cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở
mang tính nghiêm khắc nhất trong các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân
21
sự. Tính nghiêm khắc của cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở
hữu nhà ở thể hiện ở chỗ cơ quan Thi hành án dân sự đã tước bỏ quyền tự
định đoạt đối với quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở của người phải thi
hành án có nghĩa vụ trả tiền theo quyết định, bản án của Tòa án hoặc các
quyết định khác theo quy định của pháp luật. Quyền sử dụng đất và quyền sở
hữu nhà ở là những quyền có giá trị, ảnh hưởng lớn đối với con người. Khi
chấp hành viên ban hành quyết định cưỡng chế quyền sử dụng đất, thì kể từ
thời điểm này người phải thi hành án không được tự mình chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, thế chấp, tặng cho, góp vốn và thừa kế quyền sử dụng đất
và quyền sở hữu nhà ở, nếu người phải thi hành muốn thực hiện các quyền
trên phải thông qua chấp hành viên phụ trách vụ việc và phải được sự cho
phép của chấp hành viên, đồng thời, phải làm theo những điều kiện theo quy
định của pháp luật thi hành án dân sự. Việc hạn chế một số quyền này chấm
dứt khi người phải thi hành án hoàn thành nghĩa vụ tài sản của mình đối với
người được thi hành án, bằng quyết định giải tỏa kê biên quyền sử dụng đất
của chấp hành viên, đến thời điểm này quyền sử dụng đất của người phải thi
hành án mới không bị hạn chế giao dịch. Tính nghiêm khắc của biện pháp này
cũng thể hiện ở biện pháp cưỡng chế. Khi chấp hành viên ban hành quyết
định cưỡng chế, điều đó có nghĩa là chấp hành viên sẽ buộc người phải thi
hành án thực hiện nghĩa vụ thi hành án dù không mong muốn. Đồng thời hoạt
động cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở cũng là
một hoạt động cưỡng chế có tính chất công khai, có sự phối hợp của nhiều lực
lượng chức năng, đồng thời có tính chất mạnh mẽ và răn đe cao đối với người
phải thi hành án nói riêng và đối với xã hội nói chung. Tính chất nghiêm khắc
của cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở còn thể
hiện ở chỗ, đây là biện pháp cuối cùng được áp dụng khi các biện pháp thông
thường khác không đạt được hiệu quả. Thực tế có nhiều tranh chấp được Tòa
22
án giải quyết hiện nay có nghĩa vụ trả tiền, việc áp dụng các biện pháp cưỡng
chế khác như khấu trừ tài khoản, khai thác tài sản của người phải thi hành án,
kê biên, xử lý tài sản cầm cố,thế chấp, diễn ra không phổ biến, không mang
lại hiệu quả cao, gây khó khăn cho chấp hành viên và hầu như không tương
xứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án. Trong hoàn cảnh đó chấp hành
viên phải áp dụng biện pháp cuối cùng trong cưỡng chế thi hành án là cưỡng
chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở. Cuối cùng, tính
nghiêm khắc của cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu
nhà ở thể hiện ở việc trong trường hợp cần thiết, biện pháp này có tác dụng
ngăn chặn việc người phải thi hành án tẩu tán tài sản thi hành án. Ngay cả
khi đang trong thời gian tự nguyện thi hành án, nếu chấp hành viên phát hiện
thấy người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc thực
hiện các biện pháp khác nhằm trốn tránh nghĩa vụ phải thi hành án, thì chấp
hành viên cũng có thể áp dụng ngay biện pháp kê biên quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở để ngăn chặn hành vi nhằm trốn tránh nghĩa vụ của
người phải thi hành án. Khi áp dụng biện pháp kê biên quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở chấp hành viên nhất thiết phải căn cứ vào các điều kiện
nêu trên để áp dụng một cách tốt nhất trong công tác thi hành án của mình
đảm bảo được quyền, lợi ích của các chủ thể.
Thứ ba, cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở
là một quá trình phức tạp hơn so với các biện pháp cưỡng chế khác. Bất kỳ
một hoạt động nào trong quản lý nhà nước đều phải tuân thủ theo một thủ tục
được quy định chặt chẽ. Nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức nào không tuân thủ
theo thủ tục đó thì vi phạm pháp luật và họ sẽ bị chịu một chế tài tương ứng
với những vi phạm đó. Việc kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân
sự không nằm ngoài quy luật đó, chấp hành viên phải thực hiện các thủ tục
chặt chẽ từ khi nhận hồ sơ thi hành án, lập hồ sơ thi hành án, xác minh điều
23
kiện thi hành án, thông báo thi hành án, ra quyết định cưỡng chế quyền sử
dụng đất, định giá quyền sử dụng đất, bán đấu giá quyền sử dụng đất, giao
quyền sử dụng đất đến thanh toán tiền bán đấu giá đều phải theo một trình tự
chặt chẽ do Luật Thi hành án dân sự và các văn bản dưới luật điều chỉnh.
Ngoài ra chấp hành viên còn phải tuân thủ theo các văn bản pháp luật liên
quan đến thi hành án đó là Bộ Luật dân sự, Bộ Luật tố tụng dân sự, Luật Đất
đai, Luật Hôn nhân gia đình, Luật Đấu giá. Như vậy chấp hành viên kê biên
quyền sử dụng đất phải thực hiện theo trình tự chặt chẽ do pháp luật quy định.
Đây cũng là một hoạt động rất nhạy cảm, nếu không được tiến hành một cách
chặt chẽ và đúng đắn thì dễ dẫn đến tranh chấp và khiếu nại, làm tốn kém thời
gian và tiền bạc.
1.3.3. Phân biệt cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở trong thi hành án dân sự với cưỡng chế quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở trong cưỡng chế hành chính
Cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trong thi
hành án dân sự được quy định tại Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi
bổ sung năm 2014 và Nghị định 62 2015 NĐ-CP của Chính phủ ngày
18 7 2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật thi
hành án dân sự. Cưỡng chế quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trong
cưỡng chế hành chính được quy định tại thông tư 16 2010 TT-BTNMT của
Bộ Tài nguyên và Môi trường về quy định trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành
quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai ngày 26 8 2010.
Về căn cứ pháp lý, cưỡng chế quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà
ở trong thi hành án dân sự phải căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án.
Trong khi đó cưỡng chế hành chính chỉ căn cứ vào quyết định hành chính của
người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế hành chính để thực hiện cưỡng
chế.
24
Về mục đích, mục đích của cưỡng chế quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở trong thi hành án dân sự là đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan tổ chức theo đúng nội dung của bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật. Mục đích của biện pháp cưỡng chế quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở trong hành chính là xử phạt hành chính cá nhân, tổ chức vi
phạm pháp luật do phá hủy tài sản có giá trị tương đương. Khôi phục lại các
thiệt hại, lĩnh vực hành chính trong mối quan hệ về đất đai bị xâm hại.
Về thẩm quyền, thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự
là chấp hành viên và thừa phát lại, còn thẩm quyền của cưỡng chế hành chính
là người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính như: Chủ
tịch UBND các cấp, Chánh thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường, Chánh
thanh tra Bộ Tài Nguyên và Môi trường...
Về trình tự thủ tục, mỗi loại cưỡng chế đều có cách thức, trình tự, thủ
tục tiến hành đặc thù ngoài những trình tự, thủ tục chung của quá trình cưỡng
chế là: (i) Xác minh tài sản và điều kiện tài sản (ii) ra quyết định cưỡng chế
kê biên; (iii) thông báo và chuẩn bị; (iv) tiến hành kê biên và lập biên bản kê
biên; (v) giao bảo quản tài sản kê biên; (vi) tiến hành định giá tài sản kê biên;
(vii) đấu giá và chuyển giao quyền sử dụng tài sản kê biên đã đấu giá. Nhưng
bản chất của hai loại cưỡng chế là hoàn toàn khác nhau: Cưỡng chế hành
chính là phương tiện đảm bảo cho việc thực hiện quyền lực nhà nước trong
lĩnh vực hành pháp, bảo vệ các lợi ích hợp pháp của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức. Còn hoạt động cưỡng chế thi hành án
dân sự là sử dụng quyền lực nhà nước để buộc cá nhân, tổ chức liên quan trực
tiếp đến việc thực hiện bản án, quyết định, cho dù đó có thể là người được thi
hành án, người phải thi hành án hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến việc thi hành án dân sự hoặc cá nhân, tổ chức khác.
Như vậy, cưỡng chế quyền sử dụng đất trong lĩnh vực thi hành án dân
sự và trong lĩnh vực hành chính đều mang tính quyền lực nhà nước nhưng về
25
bản chất thì cả hai loại cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở trong thi hành án dân sự với cưỡng chế quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở trong cưỡng chế hành chính đều mang những đặc trưng riêng.
1.3.4. Vai trò của cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở
hữu nhà ở trong thi hành án dân sự
Thứ nhất, cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà
ở trong thi hành án dân sự góp phần đảm bảo lợi ích của các chủ thể trong xã
hội. Hiện nay, sự phát triển của kinh tế xã hội đồng nghĩa với việc ngày càng
nảy sinh nhiều mâu thuẫn, tranh chấp trong các lĩnh vực của đời sống. Hoạt
động thi hành án dân sự nói chung và cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất
và quyền sở hữu nhà ở nói riêng có tác dụng tích cực trong việc đảm bảo
quyền lợi của các bên liên quan, đồng thời đảm bảo tính công bằng và nghiêm
minh của pháp luật. Khi mà các biện pháp thi hành án dân sự thông thường đã
không thể giải quyết được tranh chấp và đảm bảo quyền lợi các bên, chấp
hành viên thông qua thực hiện biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng
đất và quyền sở hữu nhà ở sẽ có tác dụng thi hành triệt để bản án, quyết định
của Tòa án. Do đó, tránh cho việc phát sinh thêm mâu thuẫn và bức xúc trong
dư luận, cũng như bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan, đảm bảo trật tự và
an toàn xã hội.
Mặt khác, cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà
ở là phương tiện có hiệu quả để đảm bảo việc thi hành Bản án, quyết định
trong thi hành án dân sự. Trong nhiều trường hợp người phải thi hành án có
nghĩa vụ thi hành án lớn, và khi người phải thi hành án không chịu thực hiện
nghĩa vụ thi hành án của mình đối với người được thi hành án, hoặc khi các
biện pháp thi hành án khác không đạt được hiệu quả như trong bản án, quyết
định của Tòa án thì việc thực hiện cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở là biện pháp cuối cùng nhằm đảm bảo việc thực hiện
26
nghĩa vụ thi hành án của người thi hành án đạt được hiệu quả. Hoặc trong
trường hợp người phải thi hành án phải thi hành nhiều bản án, thực hiện nhiều
nghĩa vụ thi hành án khác nhau thì việc áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản
là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở sẽ đảm bảo cho tất cả các bản án,
quyết định của Tòa án được thực hiện. Đồng thời, việc áp dụng biện pháp
cưỡng chế quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở cũng đảm bảo quyền lợi
các bên liên quan. Khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng
vì lý do hoặc lợi ích cá nhân nào đó người phải thi hành án không muốn tự
nguyện thi hành án, họ đưa ra nhiều lý do bất hợp pháp để tránh né hoặc kéo
dài việc thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người được thi hành án. Trong
trường hợp này chấp hành viên thực hiện biện pháp cưỡng chế quyền sử dụng
đất và quyền sở hữu nhà ở nhằm bảo đảm cho việc thi hành án diễn ra thuận
lợi, đảm bảo cho lợi ích cả hai bên người phải thi hành án và người được thi
hành án, bởi vì kể từ thời điểm chấp hành viên ra quyết định cưỡng chế quyền
sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở của người phải thi hành án thì các khoản
nợ có đến thời điểm này đều được bảo đảm thanh toán trước.
Thứ hai, thông qua hoạt động cưỡng chế phát hiện những sai sót của
bản án, quyết định của Tòa án. Trong quá trình xét xử không phải bản án,
quyết định nào cũng hoàn toàn đúng. Vì vậy, thông qua hoạt động cưỡng chế
tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở còn có tính chất kiểm tra
lại bản án, quyết định, phát hiện những thiếu sót trong công tác xét xử của
Tòa án đối với vụ việc cụ thể, từ đó đưa ra kiến nghị nhằm điều chỉnh cho phù
hợp đồng thời rút kinh nghiệm nâng cao chất lượng xét xử, góp ý sửa đổi và
bổ sung các quy định của Luật, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng
cao hiệu quả quản lý của Nhà nước.
Thứ ba, cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở
góp phần nâng cao ý thức pháp luật của người dân. Cưỡng chế tài sản là
27
quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở là một biện pháp cưỡng chế nghiêm
khắc phải huy động nhiều lực lượng, liên quan đến nhiều ngành, cấp và được
đưa lên thông tin đại chúng. Vì vậy, thông qua công tác cưỡng chế tài sản là
quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở nhằm răn đe những đối tượng phải
thi hành án cố tình chây ỳ hoặc từ chối không thực hiện nghĩa vụ của mình.
Mặt khác, thông qua công tác cưỡng chế nhằm giáo dục ý thức pháp luật cho
mỗi công dân hiểu biết thêm pháp luật về thi hành án dân sự, từ đó để họ tự
điều chỉnh hành vi của mình trong những trường hợp tương tự và tuân thủ
pháp luật nghiêm minh.
1.4. Nội dung pháp luật về cƣỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất
và quyền sở hữu nhà ở
1.4.1. Đối tượng áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở
Theo quy định pháp luật hiện hành, đối tượng áp dụng biện pháp cưỡng
chế quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trong thi hành án dân sự là
người phải thi hành án, đối tượng tác động của biện pháp cưỡng chế quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở.
Việc xác định đối tượng cưỡng chế là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà
ở khi không còn tài sản nào khác có giá trị để đảm bảo thi hành án. Chấp hành
viên là người có thẩm quyền tiến hành cưỡng chế quyền sử dụng đất của
người phải thi hành án thuộc trường hợp được chuyển quyền sử dụng theo
quy định của pháp luật về đất đai. Như vậy, đối tượng tác động của cưỡng chế
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở chỉ bao gồm quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở được phép kê biên. Bởi một số trường hợp quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở không thể kê biên như đất, nhà ở công, các công trình
phục vụ cộng đồng, vì mục đích từ thiện. Những trường hợp này nếu cưỡng
chế kê biên sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của Nhà nước, quyền lợi của cộng
28
đồng nên không được phép kê biên. Việc cưỡng chế kê biên nhà ở là nơi ở
duy nhất của người phải thi hành án và gia đình chỉ được thực hiện sau khi
xác định người đó không có các tài sản khác hoặc có nhưng không đủ để thi
hành án, trừ trường hợp người phải thi hành án đồng ý kê biên nhà ở để thi
hành án. Khi cưỡng chế kê biên nhà ở phải kê biên cả quyền sử dụng đất gắn
liền với nhà ở. Như vậy mặc dù việc cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở là cần thiết để đảm bảo thi hành án, nhưng pháp luật vẫn
thể hiện tính nhân văn, nhân đạo khi chỉ kê biên nhà ở, đất là nơi ở của người
phải thi hành án trong trường hợp không còn cách nào khác. Như vậy, việc
xác định đối tượng cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu
nhà ở thể hiện quan điểm của pháp luật trong việc bảo vệ quyền lợi của các
bên liên quan, mà trước hết là quyền lợi của người được thi hành án. Mặc dù
quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở là những quyền sở hữu quan trọng
nhất đối với con người, đặc biệt trong trường hợp đất, nhà ở đó là nơi ở duy
nhất của người phải thi hành án. Nhưng để bảo vệ quyền lợi các bên mà trước
hết là quyền lợi của người được thi hành án, đảm bảo tính công bằng nghiêm
minh của pháp luật và thi hành hiệu lực của bản án, quyết định thì có thể tiến
hành kê biên tất cả các loại quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở thuộc sở
hữu của người phải thi hành án, trừ những trường hợp không được chuyển
quyền sử dụng theo quy định của pháp luật. Do việc cưỡng chế tài sản là
quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở động chạm đến những quyền lợi
quan trọng của người phải thi hành án và những người có liên quan nên việc
cưỡng chế thường có diễn biến vô cùng phức tạp, dễ dẫn đến tranh chấp, mâu
thuẫn khiếu nại đòi hỏi chấp hành viên phải có những biện pháp xử lý đúng
đắn, linh hoạt theo quy định của pháp luật và tình hình thực tế vụ việc.
1.4.2. Điều kiện áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng
đất và quyền sở hữu nhà ở trong thi hành án dân sự ở Việt Nam
29
Điều kiện áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở đó là chủ thể thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự phải
là chấp hành viên là người duy nhất và trực tiếp ra quyết định cưỡng chế.
Chấp hành viên là chủ thể được pháp luật trao quyền ra quyết định và thực
hiện cưỡng chế thi hành án dân sự. Người phải thi hành án phải có điều kiện
thi hành án. Điều kiện bao gồm: Người phải thi hành án có tài sản có thể tiến
hành thi hành án, người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án mặc dù
đã hết thời hạn tự nguyện. Cụ thể là người phải thi hành án không thực hiện
nghĩa vụ thi hành án hoặc thực hiện nghĩa vụ thi hành án chậm chạp, không
đủ khiến cho việc thi hành án không đạt hiệu quả trong khi đã hết thời gian tự
nguyện thi hành án.
Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế phải căn cứ vào nội dung, tính chất
mức độ, nghĩa vụ thi hành án, điều kiện của người thi hành án, đề nghị của
đương sự và tình hình thực tiễn ở địa phương. Như đã đề cập trong các phần
trước, biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà
ở là một biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc, có tính răn đe cao, do đó để áp
dụng biện pháp này trong thi hành án dân sự, thì cần phải hội tụ đầy đủ các
yếu tố theo quy định của pháp luật. Chấp hành viên căn cứ vào nội dung, tính
chất, mức độ của vụ việc để quyết định việc thi hành cưỡng chế trong trường
hợp thấy cần thiết, khi việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thông thường
khác trong thi hành án không đạt được hiệu quả. Do đó, việc tiến hành cưỡng
chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở là cần thiết. Đồng
thời, chấp hành viên cần xem xét đánh giá thái độ của người phải thi hành án
đối với nghĩa vụ thi hành án. Nếu người thi hành án có điều kiện thi hành án
nhưng vẫn cố tình chậm trễ hoặc từ chối thi hành án, thì chấp hành viên phải
ra quyết định thi hành án cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở
hữu nhà ở nhằm đảm bảo cho bản án, quyết định của Tòa án, quyền lợi của các
30
bên liên quan. Trong một số trường hợp, do các yếu tố bên ngoài tác động như
tình hình kinh tế, xã hội của địa phương cần thi hành án có ảnh hưởng đến hiệu
quả hoạt động thi hành án, chấp hành viên có quyền quyết định thực hiện biện
pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở nhằm đảm
bảo quyền lợi của các bên liên quan.
Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế sau khi đã hết thời gian tự nguyện
thi hành án. Trừ trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi
tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án. Chấp hành viên có
quyền áp dụng ngay các biện pháp đảm bảo, cưỡng chế thi hành án. Cưỡng
chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở là một biện pháp
nghiêm khắc nhất để đảm bảo công tác thi hành án dân sự, nên nếu trong
trường hợp vẫn có thể giải quyết vụ việc thông qua điều đình, hòa giải thì
chấp hành viên sẽ chưa phải áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở. Điều này thể hiện tính nhân đạo của Nhà
nước, cũng như trách nhiệm và quan điểm linh hoạt của chấp hành viên. Về
bản chất, việc thi hành án dân sự nói chung, và cưỡng chế tài sản là quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở chỉ là nhằm đảm bảo quyền lợi của các bên,
nên khi vẫn có thể tiến hành thỏa thuận hòa giải được thì chấp hành viên sẽ
không áp dụng biện pháp cuối cùng này.
Chỉ kê biên tài sản của người phải thi hành án khi có căn cứ khẳng
định tài sản đó thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng của người phải thi hành
án và do họ đang quản lý sử dụng hoặc do người thứ ba giữ. Điều kiện quan
trọng để chấp hành viên tổ chức thực hiện thi hành án nói chung và cưỡng chế
tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở nói riêng, là người phải
thi hành án phải có tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở để thi
hành án. Để biết được người phải thi hành án có điều kiện thi hành án là
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở hay không chấp hành viên phải tiến
31
hành thủ tục xác minh điều kiện thi hành án. Xác minh điều kiện thi hành án
là một trong vấn đề quan trọng nhất và là căn cứ để chấp hành viên tiến hành
tổ chức thi hành cũng như cưỡng chế. Bởi chấp hành viên chỉ có thể tổ chức
thi hành án khi đã xác định được người phải thi hành án có tài sản là quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở. Chấp hành viên phải tiến hành xác minh quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở kê biên, thu thập các thông tin về quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở của người phải thi hành án sở hữu, nắm rõ các
thông tin đối với quyền sử dụng đất sẽ tiến hành kê biên như: hiện trạng
quyền sử dụng đất, đất đó thuộc quyền sử dụng chung với ai, đất đó có thuộc
trường hợp được kê biên hay không, các giao dịch nào mà người phải thi án
đã hoặc đang thực hiện đối với đất đó, những người có liên quan đối với
quyền sử dụng đất. Kết quả của việc xác minh quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở sẽ kê biên là căn cứ để chấp hành viên lập kế hoạch cưỡng chế và
xác định được các chủ thể có liên quan, từ đó chấp hành viên thực hiện các
thủ tục cần thiết để đảm bảo quyền và lợi ích của những người liên quan trong
quá trình tổ chức thực hiện kê biên quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở đó
để đảm bảo thi hành án. Đối với trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu việc
xác minh quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với kê biên được tiến hành trước
khi nhận đơn yêu cầu thi hành án. Đối với trường hợp chủ động thi hành án
được tiến hành sau khi nhận bản án, quyết định lúc này chi phí xác minh do
ngân sách Nhà nước chi trả. Việc xác minh phải được lập thành biên bản, có
xác nhận của Tổ trưởng tổ dân phố, Uỷ ban nhân dân, công an cấp xã hoặc cơ
quan, tổ chức nơi tiến hành xác minh. Biên bản xác minh phải thể hiện đầy đủ
kết quả xác minh.
Chỉ cưỡng chế quyền sử dụng đất của người phải thi hành án thuộc
trường hợp được chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về
đất đai. Người phải thi hành án chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử
32
dụng đất mà thuộc trường hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
theo quy định của pháp luật về đất đai hoặc thuộc diện quy hoạch phải thu hồi
đất nhưng chưa có quyết định thu hồi thì vẫn được kê biên, xử lý quyền sử
dụng đất đó. Quy định này để tránh những trường hợp người phải thi hành án
viện dẫn chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc quyền sở hữu nhà
ở đối với đất hoặc nhà ở mà người đó sở hữu và thuộc diện được cấp giấy
chứng nhận nhưng chưa được cấp, hoặc với đất và nhà ở thuộc diện thu hồi
mà chưa bị thu hồi, để chậm trễ trong việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Thì
chấp hành viên có quyền đưa ra quyết định cưỡng chế quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở đối với trường hợp này.
1.4.3. Thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở
Việc quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế, ra quyết định cưỡng
chế và tổ chức thực hiện cưỡng chế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
thuộc thẩm quyền của chấp hành viên được giao nhiệm vụ thi hành vụ việc
thi hành án dân sự. Chấp hành viên chính là người được Nhà nước giao
nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định, do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ
nhiệm. Chấp hành viên được giao nhiệm vụ thi hành quyết định thi hành án
của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án ban hành và là người có thẩm quyền
quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế quyền sử dụng đất đối với vụ
việc thi hành án đó. Dựa trên kết quả sự không tự nguyện của người phải
thi hành án và điều kiện về tài sản hiện có là quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở của người phải thi hành án mà chấp hành viên ra quyết định áp
dụng biện pháp cưỡng chế quyền sử dụng đất để đảm bảo thi hành nghĩa vụ
theo bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Cưỡng chế tài sản là
quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở được chấp hành viên quyết định
khi đã hết thời gian tự nguyện thi hành của người phải thi hành án. Nhưng
33
trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án tẩu tán tài sản chấp
hành viên có thể ra quyết định cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất của
người phải thi hành án mà không phải chờ đến thời gian tự nguyện của
người phải thi hành án. Đối với trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu
của người được thi hành án thì thẩm quyền quyết định cũng như trình tự
thủ tục ra quyết định cưỡng chế quyền sử dụng đất cũng được thực hiện
tương tự với trường hợp chủ động thi hành án. Sau khi nhận đơn yêu cầu
cơ quan thi hành án tiến hành kiểm tra, vào sổ nhận đơn và cấp biên nhận
cho người nộp đơn. Tiếp đến Thủ trưởng cơ quan Thi hành án ra quyết
định thi hành án và phân công cho chấp hành viên tổ chức thi hành quyết
định thi hành án đó. Sau khi được phân công chấp hành viên xem xét kết
quả tự nguyện thi hành của người phải thi hành án, dựa vào bản xác minh
tài sản do người nộp đơn cung cấp, hoặc biên bản xác minh do chấp hành
viên tiến hành xác minh, cùng các thông tin do cá nhân, cơ quan có thẩm
quyền cung cấp, căn cứ vào nội dung bản án, quyết định; tính chất, mức độ,
nghĩa vụ thi hành án; đề nghị của đương sự và tình hình thực tế của địa
phương chấp hành viên có thể quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế tài
sản là quyền sử dụng đất để thi hành án (nếu người phải thi hành án có điều
kiện thi hành).
1.4.4. Nguyên tắc áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trong thi hành án dân sự ở Việt Nam
Biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà
ở chỉ được tiến hành theo những nguyên tắc sau:
Chỉ kê biên tài sản tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án
và các chi phí cần thiết khác. Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng có ngoại lệ
được xem xét và cân nhắc khi người thi hành án chỉ có tài sản duy nhất lớn
hơn nhiều lần so với nghĩa vụ phải thi hành án và tài sản đó không thể phân
34
chia được hoặc khi phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản đó. Về
nguyên tắc chấp hành viên chỉ kê biên quyền sử dụng đất và quyền sở hữu
nhà ở tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án. Vì vậy, chấp hành
viên phụ trách vụ việc cần phải cân nhắc kỹ trước khi kê biên quyền sử dụng
đất và quyền sở hữu nhà ở của người phải thi hành án làm sao tương ứng với
nghĩa vụ phải thi hành án. Để thực hiện đúng nguyên tắc này chấp hành viên
phải đánh giá sơ bộ giá trị của quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trước
khi kê biên bằng cách trưng cầu các cơ quan chức năng thẩm định giá. Giá trị
của quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở kê biên sau khi trừ đi các chi
phí và phần nghĩa vụ phải thực hiện phải bảo đảm ngang bằng, tương ứng với
nghĩa vụ phải thi hành án. Tránh trường hợp kê biên quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở với giá quá lớn gây tổn hại đến quyền lợi của người phải
thi hành án. Nguyên tắc này không những bảo vệ quyền lợi của người được thi
hành án mà còn bảo vệ về quyền tài sản của người phải thi hành án, tránh
những tổn thất cho các bên đương sự. Tuy nhiên, trường hợp người phải thi
hành án chỉ có một tài sản duy nhất lớn hơn nhiều lần so với nghĩa vụ phải thi
hành án mà tài sản đó không thể phân chia được hoặc việc phân chia làm giảm
đáng kể giá trị của tài sản thì chấp hành viên vẫn có quyền áp dụng biện pháp
cưỡng chế quyền sử dụng đất của người phải thi hành án để thi hành án.
Không kê biên những tài sản pháp luật quy định không được kê biên.
Trước khi kê biên quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở, chấp hành viên
cần phải xác minh kỹ lưỡng, chi tiết nguồn gốc của quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở. Trong một số trường hợp, pháp luật quy định những tài
sản không được kê biên như: (i) Những đất đai có nguồn gốc Nhà nước giao
cho các tổ chức quản lý, sử dụng vì mục đích phục vụ quốc phòng, an ninh.
(ii) Những tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở do
ngân sách Nhà nước cấp cho cơ quan, tổ chức. (iii) Những quyền sử dụng đất
35
và quyền sở hữu nhà ở, hoặc các tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở mà Nhà nước giao cho tổ chức là doanh nghiệp, hợp tác
xã, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ xây dựng nhà trẻ, trường học, cơ sở y
tế và thiết bị, phương tiện, tài sản khác thuộc các cơ sở này, nếu không phải là
tài sản để kinh doanh. Nhằm mục đích phục vụ phúc lợi, an sinh xã hội, tất cả
những trường hợp nêu trên đều được Nhà nước bảo đảm không được kê biên
trong trường hợp cần phải thi hành án.
Không tổ chức cưỡng chế trong các thời điểm mà pháp luật quy định.
Việc cưỡng chế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở có ảnh hưởng trực
tiếp đến đời sống, nơi ở và sinh hoạt của người phải thi hành án và gia đình.
Do đó, pháp luật thể hiện tính nhân văn, nhân đạo trong việc quy định không
tiến hành cưỡng chế trong một số thời điểm đặc biệt như trước và sau tết
Nguyên đán, các ngày truyền thống đối với các đối tượng chính sách, nếu họ
là người phải thi hành án. Những ngày này đều là những ngày nghỉ ngơi, có ý
nghĩa quan trọng được pháp luật công nhận là một phần trong quyền con
người của các chủ thể trong xã hội. Do đó, quy định này là đúng đắn và cần
thiết. Người phải thi hành án là người chỉ phải thi hành nghĩa vụ trong phạm
vi của mình, chứ không bị xâm phạm đến những quyền lợi khác như quyền
được nghỉ ngơi, quyền được nghỉ lễ, quyền tôn giáo, tín ngưỡng.
1.4.5. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền
sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở
1.4.5.1. Xác minh và hoàn thiện căn cứ
Xác minh tài sản của người phải thi hành án là nội dung quan trọng để
chấp hành viên tổ chức thực hiện thi hành án dân sự nói chung và cưỡng chế
quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở nói riêng. Chấp hành viên phải tiến
hành xác minh quyền sử dụng đất kê biên, thu thập các thông tin về quyền sử
dụng đất của người phải thi hành sở hữu, nắm rõ các thông tin đối với quyền
36
sử dụng đất sẽ tiến hành kê biên như: Làm rõ điều kiện tài sản, hiện trạng
quyền sử dụng đất có thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án hay
không, thuộc quyền sử dụng chung với ai, đất đó có thuộc trường hợp được kê
biên hay không, các giao dịch nào mà người phải thi án đã hoặc đang thực
hiện đối với đất đó, những người có liên quan đối với quyền sử dụng đất. Các
điều kiện khác đảm bảo cho việc cưỡng chế quyền sử dụng đất như quy hoạch
đối với diện tích đất kê biên và khu vực có đất phải kê biên. Đồng thời, nắm
rõ hiện trạng đất cưỡng chế như chủng loại đất, mục đích sử dụng đất theo
quy định của pháp luật.
Việc xác định người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án khi
đã hết thời gian tự nguyện thi hành án là một trình tự quan trọng đối với
cưỡng chế nói chung, và cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở
hữu nhà ở nói riêng. Để chứng minh được nội dung này chấp hành viên
thường căn cứ vào các tiêu chí như trong nhiều trường hợp, người phải thi
hành án có thái độ chống đối mang tính chất kịch liệt, kiên quyết không tự
nguyện thi hành án như từ chối thực hiện các nghĩa vụ thi hành án, tẩu tán và
phá hủy các tài sản để thi hành án thì chấp hành viên buộc phải áp dụng biện
pháp cưỡng chế tài sản quyền sử dụng đất. Trong trường hợp người phải thi
hành án có thực hiện nghĩa vụ thi hành án nhưng thể hiện tính chất chây ỳ,
chậm chạp trong khi đã hết thời gian tự nguyện thi hành án, dẫn đến việc thi
hành án không hiệu quả, quyền lợi của người được thi hành án chưa được
đảm bảo thì chấp hành viên buộc phải ra quyết định cưỡng chế tài sản quyền
sử dụng đất.
1.4.5.2. Ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế
Khi có đầy đủ căn cứ pháp lý cho việc thi hành án và xác minh đầy đủ
các bước tiến hành cưỡng chế thì chấp hành viên tiến hành ra quyết định
cưỡng chế. Thông qua việc lập kế hoạch cưỡng chế và tống đạt các văn bản
37
thi hành án cho các chủ thể liên quan như: Người phải thi hành án, người
được thi hành án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Lập kế hoạch cưỡng
chế một cách kỹ lưỡng, lường trước các tình huống xấu xảy ra trong quá trình
cưỡng chế kê biên để có phương án cùng phối hợp với các cơ quan có liên
quan nhằm hỗ trợ và đảm bảo cho việc cưỡng chế được thành công. Khi tiến
hành cưỡng chế quyền sử dụng đất là hoạt động với nhiều thủ tục phải thực
hiện và đòi hỏi sự phối hợp của nhiều cơ quan ban ngành và đảm bảo tính đầy
đủ, kịp thời và chính xác.
1.4.5.3. Cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở
Trong quá trình cưỡng chế quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở có
nhiều người và nhiều cơ quan hỗ trợ, nhưng chấp hành viên là người chịu
trách nhiệm chính trong việc thực hiện kê biên tài sản. Chấp hành viên cần
kiểm tra đầy đủ thành phần tham gia, sự có mặt của đương sự, người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan.
Khi kê biên quyền sử dụng đất, nếu người phải thi hành án có tài sản
gắn liền tài sản trên đất thì kê biên cả quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
trên đất. Hoặc khi kê biên nhà ở của người phải thi hành án thì phải kê biên cả
quyền sử dụng đất gắn liền với nhà ở đó. Quyền sở hữu đất và quyền sở hữu
nhà ở là những quyền sở hữu có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Do đó, khi
tiến hành kê biên quyền sử dụng đất của một mảnh đất thì phải đồng thời tiến
hành kê biên của nhà ở và những tài sản ở trên mảnh đất đó. Đồng thời, khi kê
biên tài sản là quyền sở hữu nhà ở thì đương nhiên phải tiến hành kê biên cả
quyền sử dụng đất đối với mảnh đất mà nhà ở phải kê biên nằm trên đó.
1.4.5.4. Xử lý tài sản sau khi cưỡng chế quyền sử dụng đất và quyền sở
hữu nhà ở.
Sau khi cuõng chế tài sản, cơ quan thi hành án dân sự phải tiến hành
xác định giá trị tài sản kê biên nhằm thực hiện nghĩa vụ dân sự của người phải
38
thi hành án. Việc xác định giá trị tài sản sau cưỡng chế có thể được tiến hành
theo sự thỏa thuận của các đương sự, thông qua tổ chức thẩm định giá hoặc do
chấp hành viên tự xác định.
Thẩm định giá
Theo khoản 2 Điều 98 Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi bổ sung
năm 2014, việc lựa chọn thẩm định giá trước hết là do đương sự lựa chọn,
đương sự có thể thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá ngay trên địa bàn
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản cưỡng chế kê biên.
Đương sự không lựa chọn được tổ chức thẩm định giá thì chấp hành viên có
quyền lựa chọn thẩm định giá. Chấp hành viên phải xem xét kỹ lưỡng và kiểm
tra tư cách pháp lý chặt chẽ của tổ chức thẩm định giá trước khi ký kết hợp
đồng. Giấy tờ văn bản liên quan, trình tự thủ tục của thẩm định giá được quy
định tại Mục 4 của nghị định 89 2013 NĐ-CP của Chính phủ ngày 06 8 2013
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật giá về thẩm định giá. Trong
thời hạn 05 ngày kể từ ngày kê biên, chấp hành viên phải ký hợp đồng dịch vụ
thẩm định giá với tổ chức thẩm định giá.
Trường hợp không thực hiện được việc ký hợp đồng dịch vụ thẩm định
giá thì chấp hành viên phải lấy ý kiến tham khảo của cơ quan Tài chính, cơ
quan có chuyên môn liên quan trước khi xác định giá của tài sản kê biên.
Trách nhiệm của chấp hành viên rất nặng nề, khi đó chấp hành viên phải tự
xác định giá đối với tài sản kê biên, điều này đòi hỏi sự hiểu biết và am hiểu
thực tiễn mới hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Bán đấu giá
Tại khoản 2 Điều 101 Luật thi hành án sửa đổi bổ sung năm 2014, thì tài
sản kê biên là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở đều là bất động sản
nên phải do tổ chức bán đấu giá thực hiện. Đương sự có quyền tự thỏa thuận về
tổ chức bán đấu giá trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc, kể từ ngày
39
định giá. Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản với tổ chức
bán đấu giá do đương sự thỏa thuận. Trường hợp đương sự không thỏa thuận
được thì chấp hành viên lựa chọn tổ chức bán đấu giá kể ký hợp đồng bán đấu
giá tài sản.
Việc ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản được tiến hành trong
thời hạn 10 ngày kể từ ngày định giá. Việc bán đấu giá đối với tài sản là
quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở là 45 ngày kể từ ngày ký hợp
đồng bán đấu giá.
Trường hợp không có người tham gia đấu giá hoặc bán đấu giá không
thành thì xử lý theo Điều 104 Luật thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ
sung năm 2014. Sau mỗi lần bán đấu giá không thành thì giá trị của tài sản sẽ
bị giảm giá, cụ thể được quy định tại khoản 5 Điều 104, giá tài sản sẽ giảm
không quá 10% giá khởi điểm của lần bán đấu giá liền kề trước đó.
Thanh toán tiền bán tài sản
Sau khi tiến hành bán đấu giá thành công, chấp hành viên làm thủ tục
thanh toán tiền thi hành án và thu phí thi hành án, khoản chi phát phát sinh
trong quá trình cưỡng chế quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở mà phần
tiền hoặc tài sản còn thì sẽ làm thủ tục trả lại tiền, tài sản cho người phải được
thi hành án, được quy định tại Điều 126 Luật thi hành án dân sự năm 2008
sửa đổi bổ sung năm 2014 và Điều 49 Nghị định 62 2015 NĐ-CP của Chính
phủ ngày 18 7 2015 quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật thi
hành án dân sự.
1.5. Các yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động cƣỡng chế tài sản là
quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở
1.5.1. Chủ trương chính sách của Nhà nước về thi hành án dân sự
và cưỡng chế thi hành án dân sự
Hiện nay, nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng và củng cố Nhà nước
40
pháp quyền xã hội chủ nghĩa công bằng, dân chủ, văn minh, cần có một hệ
thống chính sách pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, sát thực tế, phù hợp với
các quy luật khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với
những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, tâm lí, tổ chức mà trong
đó pháp luật sẽ tác động, đáp ứng những nhu cầu đòi hỏi của đất nước ở
mỗi thời kì phát triển. Hoạt động thi hành án dân sự nói chung và hoạt
động cưỡng chế kê tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở là
một hoạt động có tính chất phức tạp, khó khăn dễ gây ra mâu thuẫn, tranh
chấp làm ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật và niềm tin của
nhân dân. Xuất phát từ thực tiễn đó, trong những năm qua, Đảng và Nhà
nước đặc biệt chú trọng đến quản lý và cải cách tư pháp, hướng tới chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động
thi hành án dân sự, giảm số lượng lớn vụ việc tồn đọng, từ đó tiến tới ổn
định tình hình kinh tế xã hội, tạo đà cho phát triển đất nước.
Cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở là một
hoạt động có tính nhạy cảm, cần cơ quan Thi hành án và chấp hành viên thực
hiện một cách chặt chẽ, đúng đắn nhưng không mất đi tính nhân văn và chủ
trương nhân đạo của Nhà nước. Không chỉ bảo vệ quyền lợi của người được
thi hành án, mà còn đảm bảo quyền lợi của người phải thi hành án và các bên
liên quan. Thực tiễn cho thấy khi bắt buộc phải áp dụng biện pháp quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở, cho thấy sự quyết tâm của chấp hành viên
nhằm răn đe, và giải quyết triệt để có hiệu quả vụ việc, bảo vệ quyền lợi của
các bên. Tuy nhiên, nếu chỉ là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc thì chưa tạo
được hiệu quả giáo dục và tạo lòng tin đối với nhân dân, mà chấp hành viên
còn phải thực hiện việc cưỡng chế sao cho có tính uyển chuyển linh hoạt, giúp
người phải thi hành án nhận thức được cái sai của mình, đồng thời, không đẩy
sự việc trở nên quá căng thẳng, phức tạp. Từ đó, thuyết phục được lòng tin
41
của người dân và có tác dụng tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật trong
cộng đồng.
Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, thì không những tăng cường
hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn phải đảm bảo cho pháp luật đi vào thực
tiễn cuộc sống. Các quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự
phải được các cơ quan, tổ chức, công dân tôn trọng, thực hiện và trước hết đòi
hỏi các cơ quan công quyền, các cán bộ công chức cơ quan Nhà nước phải
gương mẫu chấp hành. Những văn bản dưới luật, văn bản hướng dẫn chuyên
ngành phải phù hợp với quy định của Hiến pháp, Luật, nếu có xung đột thì
phải chỉnh sửa và hướng dẫn thực hiện cho đúng luật, các cơ quan cấp trên
phải tăng cường hướng dẫn khi có vướng mắc trong thực tiễn. Kể từ Pháp
lệnh về thi hành án dân sự năm 1993, đến Luật Thi hành án dân sự 2008 sửa
đổi bổ sung 2014, pháp luật về thi hành án dân sự nói chung và các quy định
và văn bản hướng dẫn có liên quan đến hoạt động cưỡng chế tài sản là quyền
sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở nói riêng là cả một quá trình không ngừng
đổi mới, điều chỉnh về Luật sao cho phù hợp. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cùng
với quá trình thi hành án, vẫn còn nhiều quy định chưa hợp lý, còn bất cập
cần phải được phát hiện và chỉ ra. Sự bất hợp lý trong quy định của Luật là
một trong những nguyên nhân khiến tình trạng tồn đọng số vụ việc chưa được
thi hành án, hoặc thi hành án không hiệu quả hoặc hiệu quả không rõ ràng. Từ
đó đặt ra yêu cầu cần đề ra các giải pháp, kiến nghị điều chỉnh nhằm giải
quyết tình trạng tồn đọng vụ việc, tăng cường hiệu quả công tác thi hành án.
Sau khi đã ban hành pháp luật, vấn đề quan trọng có ảnh hưởng tới việc thực
hiện, áp dụng pháp luật là tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho cán
bộ và nhân dân để mọi người nắm được các quy định của pháp luật, từ đó họ
có ý thức tự giác tuân theo pháp luật.
1.5.2. Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội
42
Những chuyển biến của kinh tế - xã hội luôn có ảnh hưởng không nhỏ
đến công tác thi hành án dân sự nói chung, và hoạt động cưỡng chế kê biên tài
sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở nói riêng. Thể hiện trên một
số điểm sau:
Sự phát triển của kinh tế - xã hội dẫn đến vấn đề tranh chấp ngày một
nhiều, do đó số vụ việc cần thi hành án dân sự nói chung và hoạt động cưỡng
chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở ngày một tăng.
Nguyên nhân là do các biện pháp thi hành án khác không có kết quả hoặc kết
quả còn yếu, buộc phải tiến hành cưỡng chế quyền sử dụng đất và quyền sở
hữu nhà ở. Không chỉ tăng về số vụ việc, phát triển kinh tế và xu thế hội nhập
cũng khiến cho tính chất và mức độ của vụ việc cần thi hành án ngày một
phức tạp, rắc rối, gây khó khăn cho công tác cưỡng chế thi hành án. Nhiều vụ
việc nghiêm trọng, phức tạp, liên quan đến nhiều đối tượng, hoặc một đối
tượng liên quan đến nhiều tài sản, nhiều vụ án khác nhau. Kinh tế xã hội cũng
ảnh hưởng đến sức mua, thị trường, từ đó ảnh hưởng đến vấn đề định đoạt giá
trị quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trong hoạt động cưỡng chế tài
sản, dễ gây ra tranh chấp khiếu nại gây khó khăn cho hoạt động thi hành án
dân sự. Hoạt động cưỡng chế quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở là
một hoạt động thi hành án dân sự có tính chất khó khăn, phức tạp, cần sự phối
hợp đồng bộ hiệu quả giữa các ban ngành có liên quan. Do tính chất nghiêm
khắc, răn đe, nên trong nhiều trường hợp dẫn đến phản ứng mãnh liệt của
người phải thi hành án và những người có liên quan, cần các ban ngành chức
năng có sự phối hợp đồng bộ nhịp nhàng, kết hợp cưỡng chế với giải thích,
giáo dục nhằm tránh phát sinh những khúc mắc, tranh chấp gây hậu quả
nghiêm trọng.
1.5.3. Yếu tố phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa và ý thức
chấp hành pháp luật
43
Cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở là hoạt
động cưỡng chế nghiêm khắc ảnh hưởng to lớn đến quyền lợi của người phải
thi hành án. Do đó, đối với đối tượng là người dân tộc thiểu số, người có trình
độ văn hóa thấp thì công tác cưỡng chế tài sản luôn gặp rất nhiều khó khăn.
Đối với các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn miền núi hoạt động xã
hội còn gắn liền với những phong tục, tập quán, thì hoạt động cưỡng chế
quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở ở những địa bàn này sẽ gặp khó
khăn hơn nhiều so với những khu vực thành thị. Khi nghiên cứu tình hình
thực tiễn để đưa ra quyết định thi hành án, đặc biệt là những quyết định có
tính nhạy cảm như quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở, cần chấp hành
viên cân nhắc một cách thận trọng, tìm hiểu đầy đủ thông tin và có ứng xử
đúng đắn phù hợp. Yếu tố tôn giáo cũng là một vấn đề trong công tác thi hành
án. Hiện nay, trên địa bàn cả nước, có nhiều nơi là vùng tập trung đồng bào các
tôn giáo khác nhau, với quan điểm, nhận thức, tín ngưỡng và đặc trưng văn hóa
riêng. Khi đó, phải đưa ra quyết định cưỡng chế quyền sử dụng đất và quyền sở
hữu nhà ở, đòi hỏi chấp hành viên cần có những biện pháp linh hoạt phù hợp
với tình hình địa phương và thực tiễn sự việc.
Bên cạnh yếu tố quy định của pháp luật, thì vấn đề áp dụng và ý thức,
nhận thức quy định của pháp luật nói chung, và cưỡng chế tài sản là quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở nói riêng như thế nào là thuộc về vai trò của
cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền và các đối tượng có liên quan.
Người có thẩm quyền áp dụng có hiểu biết pháp luật càng cao thì hoạt động
áp dụng pháp luật nói chung và pháp luật về cưỡng chế tài sản là quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở của họ càng đúng đắn và hiệu quả. Chủ thể
áp dụng pháp luật nhân danh quyền lực Nhà nước nên hoạt động áp dụng
pháp luật có tính chất bắt buộc với chủ thể bị áp dụng vì thế hoạt động này
không chỉ thể hiện ý thức của người trực tiếp áp dụng pháp luật mà còn đóng
44
vai trò quan trọng trong việc hình thành, thay đổi nhận thức pháp luật của các
đối tượng có liên quan. Nếu họ thực hiện những hành vi sai trái thì vô tình sẽ
dẫn đến thái độ coi thường pháp luật của người dân và nguy hiểm hơn là có
thể làm cho nhân dân không còn niềm tin vào pháp luật và chế độ nữa. Ngược
lại nếu những người áp dụng pháp luật có ý thức pháp luật cao thì nhân dân sẽ
có niềm tin vào pháp luật, thấy được giá trị của việc tôn trọng pháp luật và
thực hiện chính xác, tuân theo pháp luật và vận động người khác làm theo
pháp luật. Hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật đòi hỏi các chủ thể có
thẩm quyền áp dụng pháp luật cần phải hiểu nội dung của quy phạm, xác định
rõ các đặc trưng pháp lí của sự vụ có liên quan để ban hành văn bản áp dụng
pháp luật chính xác, hợp pháp. Mọi sai sót trong quá trình cụ thể hóa quyền,
nghĩa vụ hoặc cá biệt hóa chế tài pháp luật đều có nguy cơ phá vỡ tính đúng
đắn của quá trình áp dụng pháp luật. Vì vậy, chỉ có thể đem lại hiệu quả tốt
nhất cho hoạt động áp dụng pháp luật khi ý thức của các cá nhân có thẩm
quyền được bảo đảm. Nâng cao trình độ văn hóa pháp lý, ý thức pháp luật,
hình thành bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng, là những đòi hỏi cần thiết đới với
những người áp dụng pháp luật trên thực tế. Chấp hành viên cần được trang bị
bản lĩnh, kiến thức nhằm có những phương pháp xử lý đúng đắn mà không
mất đi tính linh hoạt trong một hoạt động có tính phức tạp và khó khăn như
cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và sở hữu nhà ở. Đồng thời, là người
trực tiếp tham gia vào quá trình thi hành án dân sự, chấp hành viên còn có
vai trò thẩm định và đánh giá bản án, quyết định thi hành án trên cơ sở thực
tế, nhằm tránh những sai phạm và bất hợp lý, dẫn đến lãng phí tiền bạc và
thời gian. Thực tế cho thấy, không ít trường hợp do mục đích động cơ cá
nhân hoặc những nguyên nhân khác nhau mà người có thẩm quyền áp dụng
pháp luật đã cụ thể hóa mục đích trái hẳn hoặc không phù hợp với mục đích
xã hội. Do vậy cần có những hoạt động kiểm tra, giám sát thật chặt chẽ quá
45
trình áp dụng pháp luật đồng thời phải có biện pháp xử lí nghiêm minh
những người cố ý áp dụng pháp luật không đúng, không phù hợp với mục
đích xã hội.
46
Kết luận chƣơng 1
Khi có các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật cụ thể
thì quyền và lợi ích của các bên đương sự vẫn chỉ nằm trên trang giấy. Để
thực hiện các bản án, quyết định đó không chỉ đòi hỏi sự tự nguyện của đương
sự mà còn có sự can thiệp của Nhà nước để buộc họ phải thi hành. Để buộc
đương sự thực hiện nghĩa vụ của mình trong một số trường hợp cần sử dụng
biện pháp nghiêm khắc nhất để thi hành, đó là biện pháp cưỡng chế.
Hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự có vai trò rất quan trọng trong
quá trình thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án có tính chất phức tạp.
Các hoạt động cưỡng chế không chỉ bảo vệ được quyền và lợi ích của các bên
mà còn mang tính răn đe, giáo dục tới công dân, đảm bảo pháp chế xã hội chủ
nghĩa, giúp công dân luôn tin tưởng vào pháp luật nước nhà.
Từ trình bày lý luận về cưỡng chế thi hành án dân sự như khái niệm của
cưỡng chế và cưỡng chế thi hành án dân sự, đặc điểm của cưỡng chế thi hành
án dân sự. Phân tích lý luận về cưỡng chế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở trong thi hành án dân sự, bao gồm khái niệm, đặc điểm, vai trò của
cưỡng chế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở trong thi hành án dân sự.
Các vấn đề lý luận trong Chương 1 sẽ là cơ sở để tác giả đề tài đi vào phân
tích thực trạng pháp luật trong Chương 2.
47
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ CƢỠNG CHẾ TÀI SẢN LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ QUYỀN SỞ
HỮU NHÀ Ở TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
2.1. Một số kết quả chủ yếu trong áp dụng biện pháp cƣỡng chế đối
với tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam thời
gian qua
Cưỡng chế tài sản trong đó có cưỡng chế quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở nói riêng, và công tác thi hành án dân sự nói chung là một trong
những hoạt động quan trọng, nhằm khôi phục và bảo vệ quyền lợi chính đáng
của nhà nước, tổ chức và cá nhân. Việc thi hành dứt điểm các bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi
hành ngay trên thực tế có ý nghĩa đặc biệt trong việc đảm bảo trật tự, an toàn
xã hội. Hiện nay, thông qua nghiên cứu các báo cáo về công tác thi hành án
của Ngành thi hành án, cũng như báo cáo về công tác thi hành án ở nhiều địa
phương, cho thấy trong những năm gần đây số vụ việc phải thi hành án nói
chung, và số vụ việc phải tiến hành cưỡng chế quyền sử dụng đất và quyền sở
hữu nhà ở Việt Nam đang có chiều hướng tăng cao. Trong khuôn khổ của đề
tài, nhằm mục đích làm rõ những chuyển biến trong tình hình thi hành án dân
sự nói chung, và thi hành án bằng cưỡng chế quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở nói riêng, tác giả xin đi vào xem xét những số liệu có liên quan
trong giai đoạn 2015 – 2017 gần đây.
Thông qua Phụ lục 1 về tình hình thi hành án dân sự giai đoạn 2015 -
2017, có thể thấy tình hình thi hành án trong cả nước có nhiều diễn biến
phức tạp. Số vụ có điều kiện thi hành án từ năm 2015 đến năm 2017 đã tăng
93.827 vụ việc. Đây là áp lực lớn đối với cơ quan và đội ngũ cán bộ thi hành
48
án ở các địa phương. Tổng số vụ thi hành xong năm 2017 chỉ tăng 15.430 vụ
so với năm 2015. Có nghĩa là vẫn còn rất nhiều vụ việc còn tồn đọng chưa
được thi hành dứt điểm. Bên cạnh đó, tỷ lệ số tiền thi hành án xong có chiều
hướng giảm. Năm 2017 số tiền thi hành án chỉ đạt 42,90% số tiền có điều
kiện thi hành án so với 76% số tiền thi hành xong của năm 2015. Nguyên
nhân là do nhiều vụ thi hành án có tính chất phức tạp, tồn đọng kéo dài, rất
khó khăn trong việc xử lý dẫn đến số tiền bị tồn đọng rất lớn. Như vậy, tổng
kết 3 năm 2015 – 2017, công tác thi hành án ở Việt Nam đã có những thành
tựu nhất định trong việc giải quyết vụ việc và tiền phải thi hành án. Tuy
nhiên, bên cạnh đó, công tác thi hành án cũng gặp nhiều khó khăn, vướng
mắc cần phải tháo gỡ.
Đồng thời, trong giai đoạn 2015 – 2017, tình hình giải quyết thi hành
án dân sự bằng các biện pháp cưỡng chế ở Việt Nam đã có những kết quả
nhất định. Theo Phụ lục 3, từ năm 2015 đến năm 2017, số vụ có quyết định
cưỡng chế tăng từ 10.684 vụ lên đến 11.780 vụ, tăng 1096 vụ, trong số đó
biện pháp cưỡng chế quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở chiếm khoảng
20% tổng số vụ cưỡng chế. Trong tổng số vụ việc có quyết định cưỡng chế thì
số vụ tự nguyện thi hành trước cưỡng chế có chiều hướng tăng, tăng từ 1.310
vụ lên 1.446 vụ, qua đó nói lên tính chất răn đe của biện pháp cưỡng chế tới
người phải thi hành án để thi hành nghĩa vụ của mình. Số vụ việc ngày càng
tăng nhanh cho thấy mức độ khó khăn, tính chất phức tạp trong công tác thi
hành án khiến cho chấp hành viên ra nhiều quyết định cưỡng chế hơn. Tính
chất vụ việc ngày càng phức tạp, vấp phải nhiều sự chống đối của người phải
thi hành án nên tổng số vụ cưỡng chế thành công có chiều hướng giảm, đặc
biệt trong công tác cưỡng chế quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở là
những tài sản mang giá trị cao. Cụ thể là năm 2017, chỉ cưỡng chế thành công
được 9.798 vụ trên tổng số 11.780 vụ đạt 83,17%, so với năm 2015 số vụ đã
49
được cưỡng chế thành công là 9.089 trên tổng số 10.684 vụ đạt 85,07%. Mặc
dù các cơ quan thi hành án và cán bộ thi hành án đã có nhiều cố gắng trong
công tác thi hành án, nhưng bởi tính chất phức tạp của vụ việc, mà nhiều vụ
việc tồn đọng không thể giải quyết trong một sớm một chiều được.
Bên cạnh đó, mặc dù số vụ cưỡng chế thành công trong 3 năm 2015 –
2017 có tỷ lệ trên 80%, thì số vụ việc trong hoạt động cưỡng chế quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở chỉ giải quyết được khoảng 10-20 %. Điều
này cho thấy số vụ cưỡng chế quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở đã thi
hành án xong phần lớn là những vụ có quy mô nhỏ, mức tiền thi hành án chưa
cao. Trong khi đó, nhiều vụ án lớn, phức tạp, có số tiền thi hành án lớn và liên
quan đến nhiều đối tượng thì vẫn chưa được cưỡng chế xong. Năm 2017,
cùng với việc số vụ việc cần phải áp dụng biện pháp cưỡng chế tăng mạnh so
với năm 2015, thì số tiền thi hành án giải quyết được bằng biện pháp này
cũng có chiều hướng tăng.
Ngoài ra, theo Phụ lục 3 cho thấy số vụ việc cưỡng chế không thành
công trên cả nước còn cao, năm 2015 là 273 vụ, năm 2016 là 307 nhưng đến
năm 2017 là 258 vụ cưỡng chế không thành công. Trong hai năm trở lại đây
số vụ cưỡng chế không thành công còn có chiều hướng giảm, qua đó cho
thấy sự quyết liệt hơn của chấp hành viên trong việc cưỡng chế. Nhưng so
với mặt bằng chung thì số vụ cưỡng chế không thành công còn cao vì nhiều
nguyên nhân như: gặp phải sự chống trả của người phải thi hành án và người
nhà của họ mà chấp hành viên không chuẩn bị kỹ lưỡng kế hoạch cưỡng chế,
người phải thi hành án hủy hoại tài sản trước cưỡng chế,.... Đặc biệt số vụ
cưỡng chế không thành công phần nhiều là cưỡng chế kê biên quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở vì đây là những tài sản có giá trị cao cũng
có thể là nơi ở duy nhất của người phải thi hành án nên chấp hành viên gặp
phải sự chống trả quyết liệt.
50
Như vậy, thực trạng trên cho thấy trong những năm qua, hoạt động thi
hành án dân sự nói chung và cưỡng chế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở nói riêng đã có một số kết quả nhất định, đáp ứng được yêu cầu giải quyết
triệt để nhiều bản án, quyết định của Tòa án. Tuy nhiên, bên cạnh đó, thực
tiễn thực hiện kê biên quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở còn gặp phải
một số bất cập, hạn chế cần được giải quyết.
2.2. Thực trạng pháp luật về cƣỡng chế tài sản là quyền sử dụng
đất và quyền sở hữu nhà ở trong thi hành án dân sự ở Việt Nam
2.2.1. Thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế tài
sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở
Để xác định thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế tài sản là quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở, trước hết cần xác định người có thẩm quyền
thi hành án. Theo quy định tại Điều 17 Luật thi hành án dân sự năm 2008 sửa
đổi bổ sung năm 2014 thì chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm
vụ thi hành các bản án, quyết định theo quy định tại Điều 2 của Luật này. Như
vậy, chấp hành viên là người có thẩm quyền và trực tiếp thi hành các bản án,
quyết định của Tòa án. Đồng thời, trong hoạt động thi hành án dân sự nói
chung và đối với cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà
ở nói riêng, chấp hành viên được trao nhiều quyền lực để đảm bảo thực hiện
tốt công tác của mình, được quy định tại Điều 20 Luật thi hành án dân sự sửa
đổi bổ sung năm 2014. Các quyền lực này nhằm hỗ trợ chấp hành viên trong
quá trình thi hành án.
Là người trực tiếp nghiên cứu, theo dõi vụ việc, việc trao các quyền
như trên cho chấp hành viên là cần thiết để đảm bảo công tác thi hành án dân
sự nói chung, và hoạt động cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền
sở hữu nhà ở diễn ra thuận lợi nhằm thi hành bản án, quyết định của Tòa án.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn một số hạn chế, vướng mắc đối với các quy định
về thẩm quyền trong cưỡng chế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, được
51
thể hiện trong một số nội dung sau:
Thứ nhất, hiện nay cơ chế giám sát, kiểm tra, đánh giá thẩm quyền và
hoạt động thi hành án dân sự của chấp hành viên còn chưa thực sự hiệu quả.
Một số trường hợp chấp hành viên thiếu chuyên môn, thiếu kinh nghiệm dẫn
đến việc đưa ra các quyết định không đúng đắn, vượt ra ngoài thẩm quyền của
chấp hành viên. Hoặc lợi dụng thẩm quyền, quyền hạn của mình để đưa ra các
quyết định trái pháp luật để mưu lợi cho bản thân, dẫn đến quyền lợi của
người phải thi hành án bị xâm phạm. Do đó, dẫn tới khiếu nại của người phải
thi hành án làm ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan Thi hành án dân sự và quá
trình thi hành án dân sự. Đây là một trong những nguyên nhân khiến phát sinh
nhiều vụ việc không thể thi hành án hoặc thi hành án không hiệu quả ở Việt
Nam những năm qua. Mặt khác, cơ chế kiểm tra giám sát ở một số địa
phương chưa được chặt chẽ và đạt hiệu quả. Sự giám sát giữa các cơ quan còn
có sự nể nang, không có những chế tài xác đáng để xử lý những sai phạm của
chấp hành viên dẫn đến chấp hành viên buông lỏng và thiếu trách nhiệm.
Thứ hai, thực tế hiện nay cho thấy các chấp hành viên hầu như phải
thực hiện mọi thủ tục trong hoạt động thi hành án. Bao gồm nhiều thủ tục
hành chính gây mất thời gian, làm chấp hành viên không tập trung vào công
tác thi hành án. Ví dụ như quy định về việc chấp hành viên vừa phải xác minh
tài sản, ra các quyết định, thực hiện các quyết định thi hành án. Điều này tạo
nên gánh nặng lớn cho đội ngũ chấp hành viên, nhất là những chấp hành viên
trẻ, chấp hành viên cơ sở. Trong khi đó đội ngũ chấp hành viên hiện nay luôn
trong tình trạng quá tải trong công việc, thậm chí nhiều nơi chấp hành viên
còn yếu về chuyên môn. Mặc dù, ở một số địa phương đã có thư ký giúp việc
trực tiếp cho từng chấp hành viên nhưng do số lượng vụ việc nhiều nên không
phải lúc nào chấp hành viên cũng kiểm soát được hết các vụ việc. Do đó, dẫn
đến trong thực tế, chấp hành viên nóng vội mắc sai lầm làm ảnh hưởng đến
quyền lợi của các bên liên quan.
52
2.2.2. Điều kiện áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở
Theo Luật thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014, các
điều kiện áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền
sở hữu nhà ở được quy định như sau:
Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng khi đã hết thời
gian tự nguyện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án. Điều 45 Luật thi
hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014 quy định thời hạn tự
nguyện thi hành án là 10 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được
hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án. Trường hợp cần ngăn
chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản hoặc trốn
tránh việc thi hành án thì chấp hành viên có quyền áp dụng ngay các biện
pháp quy định tại Chương IV của Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi
bổ sung 2014 là các biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành án.
Theo khoản 1 Điều 46 Luật thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ
sung năm 2014 quy định hết thời hạn quy định thời gian tự nguyện thi hành
án là 10 ngày mà người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự
nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế.
Như vậy, để tiến hành cưỡng chế tài sản đòi hỏi phải đáp ứng được các
điều kiện nêu trên. Tuy nhiên, thực tế áp dụng pháp luật cho thấy những quy
định này vẫn còn một số hạn chế, vướng mắc như sau:
Thứ nhất, pháp luật quy định người được thi hành án có thể yêu cầu
chấp hành viên xác minh điều kiện của người phải thi hành án trong trường
hợp không tự xác minh được. Tuy nhiên, trên thực tế trong nhiều trường hợp
người được thi hành án đều đẩy việc xác minh cho chấp hành viên ngay cả
khi chưa có hành động tìm hiểu, xác minh gì. Việc ỷ lại này dẫn đến gia tăng
gánh nặng cho chấp hành viên phải làm nhiều công việc một lúc.
53
Thứ hai, pháp luật quy định việc xác minh phải được lập thành biên bản
có xác nhận của Ủy ban nhân dân, cơ quan tổ chức nơi tiến hành xác minh.
Tuy nhiên, trong trường hợp cần xác minh ngay do người phải thi hành án có
hành vi tẩu tán hủy hoại tài sản và vào ngày nghỉ lễ, ngày cuối tuần thì các cơ
quan trên không làm việc. Do đó, việc lấy xác nhận của Ủy ban nhân dân, cơ
quan tổ chức gặp khó khăn. Nhiều trường hợp chấp hành viên vẫn tiến hành
xác minh và lấy xác nhận của Ủy ban nhân dân, cơ quan, tổ chức sau đó
nhưng điều này không đúng với quy định của pháp luật.
Thứ ba, pháp luật quy định người phải thi hành án không tự nguyện thi
hành án thì bị cưỡng chế. Tuy nhiên, trong thực tế nhiều trường hợp người
phải thi hành án vẫn tiến hành thi hành án, nhưng chậm không đảm bảo thời
gian vì lý do khách quan như đi chữa bệnh, gặp khó khăn trong việc rao bán
tài sản, mất nhiều thời gian tiến hành thủ tục hành chính, hoặc do cố ý thi
hành án chậm để kéo dài thời gian. Những trường hợp này có được xác định
là không tự nguyện thi hành án không, và những trường hợp chậm thi hành án
vì lý do khách quan thì có được tạo điều kiện thi hành án thêm thay vì tiến
hành cưỡng chế ngay, thì hiện nay pháp luật chưa quy định cụ thể.
2.2.3. Nguyên tắc áp dụng biện pháp cưỡng chế quyền sử dụng đất
và quyền sở hữu nhà ở
Thứ nhất, chỉ được áp dụng biện pháp cưỡng chế sau khi đã hết thời
gian tự nguyện thi hành án. Trừ trường hợp cần ngăn chặn người phải thi
hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án.
Chấp hành viên có quyền áp dụng ngay các biện pháp đảm bảo, cưỡng chế thi
hành án theo như quy định về cưỡng chế thi hành án tại Điều 46 Luật thi hành
án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014. Nguyên tắc này cho thấy
pháp luật vẫn đề cao tinh thần tự nguyện của người phải thi hành án, chỉ trong
trường hợp hết thời hạn thi hành án mà người phải thi hành án không tự
54
nguyện thi hành án. Hoặc người phải thi hành án có biểu hiện tẩu tán phá hủy
tài sản thi hành án thì mới tiến hành cưỡng chế.
Thứ hai, chỉ kê biên tài sản của người phải thi hành án khi có căn cứ
khẳng định tài sản đó thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng của người phải thi
hành án và do họ đang quản lý sử dụng hoặc do người thứ ba giữ. Nguyên tắc
này được quy định tại Điều 89 Luật thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ
sung năm 2014: “Trước khi kê biên tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản phải
đăng ký quyền sở hữu hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của
pháp luật, chấp hành viên yêu cầu cơ quan đăng ký cung cấp thông tin về tài
sản, giao dịch đã đăng ký”. Nguyên tắc xác định đối tượng của cưỡng chế tài
sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở là cần thiết nhằm đảm bảo việc
cưỡng chế đúng đối tượng, đúng trường hợp, không làm ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan.
Thứ ba, nguyên tắc chỉ kê biên tài sản tương ứng với nghĩa vụ của
người phải thi hành án và các chi phí cần thiết khác. Nghĩa vụ của người phải
thi hành án được xác định thông qua bản án, quyết định của Tòa án. Việc xác
định tài sản kê biên tương ứng với nghĩa vụ thi hành án được quy định tại
điều 98 Luật thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014 về định
giá tài sản thi hành án.
Thứ tư, nguyên tắc không được kê biên những tài sản pháp luật quy
định không được kê biên. Đối với việc cưỡng chế kê biên tài sản là quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở, tài sản không được kê biên bao gồm mảnh
đất, nhà ở thuộc trường hợp không chuyển quyền sử dụng. Khoản 1 và điểm b
khoản 3 Điều 87 Luật thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014
cũng quy định các trường hợp tài sản không được kê biên như các tài sản
phục vụ lợi ích công cộng, nhà trẻ, trường học.
55
Thứ năm, nguyên tắc không được tổ chức cưỡng chế trong các thời
điểm mà pháp luật quy định không được cưỡng chế. Nguyên tắc này được quy
định tại khoản 2 Điều 46 Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi bổ sung năm
2014: “Không tổ chức cưỡng chế thi hành án trong thời gian từ 22 giờ đến 06
giờ sáng ngày hôm sau, các ngày nghỉ, ngày lễ theo quy định của pháp luật
và các trường hợp đặc biệt khác do Chính phủ quy định”. Ngoài ra nguyên
tắc này còn được quy định tại khoản 2 Điều 13 Nghị định 62 2015 NĐ-CP
ngày 18 7 2015 của Chính phủ quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật thi hành án dân sự, cơ quan Thi hành án dân sự không được tổ
chức cưỡng chế thi hành án có huy động lực lượng trong thời gian 15 ngày
trước và sau tết Nguyên đán, các ngày truyền thống đối với các đối tượng
chính sách, nếu họ là người phải thi hành án, các trường hợp đặc biệt khác
ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, phong
tục tập quán của địa phương. Nguyên tắc này thể hiện tính nhân đạo của Nhà
nước và pháp luật, không làm ảnh hưởng đến người phải thi hành án hay
những người xung quanh trong thời điểm nhạy cảm như lễ tết hoặc thời gian
nghỉ ngơi của mọi người.
Thứ sáu, nguyên tắc chỉ kê biên quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
của người phải thi hành án thuộc trường hợp được chuyển quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở theo quy định của pháp luật về đất đai. Người phải thi
hành án chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở mà thuộc trường hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở theo quy định của pháp luật về đất đai hoặc thuộc diện quy
hoạch phải thu hồi đất nhưng chưa có quyết định thu hồi thì vẫn được kê biên,
xử lý quyền sử dụng đất đó. Nguyên tắc này được quy định tại Điều 110 Luật
thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014.
Thứ bảy, nguyên tắc khi kê biên quyền sử dụng đất, nếu người phải thi
hành án có tài sản gắn liền trên đất thì kê biên cả quyền sử dụng đất và tài
56
sản gắn liền trên đất. Hoặc khi kê biên nhà ở của người phải thi hành án thì
phải kê biên cả quyền sử dụng đất gắn liền với nhà ở đó. Nguyên tắc này được
quy định lần lượt tại khoản 2 Điều 95 và khoản 2 Điều 111 Luật thi hành án
dân sự năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014.
Hiện nay, hoạt động thi hành án dân sự nói chung, và cưỡng chế tài sản
là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở nói riêng có chiều hướng gia tăng.
Quá trình tiến hành còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong do một phần
do việc áp dụng chưa đúng các nguyên tắc trong cưỡng chế tài sản là quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở. Trong đó phải kể đến những khó khăn điển
hình như:
Thứ nhất, đối với nguyên tắc áp dụng biện pháp cưỡng chế phải căn cứ
vào nội dung, tính chất mức độ, nghĩa vụ thi hành án, điều kiện của người thi
hành án, đề nghị của đương sự và tình hình thực tiễn ở địa phương. Nguyên
tắc này đòi hỏi chấp hành viên phải là những người giàu kinh nghiệm và giỏi
về chuyên môn mới có khả năng nhanh chóng nắm bắt thông tin và đưa ra các
quyết định cưỡng chế. Tuy nhiên, thực tế hiện nay đội ngũ chấp hành viên
trên cả nước vẫn còn thiếu. Số chấp hành viên được bổ nhiệm hàng năm vẫn
chưa đủ đáp ứng được các yêu cầu của công tác thi hành án dân sự ở địa
phương. Đồng thời, các chấp hành viên trẻ này còn thiếu kinh nghiệm, chưa
sát sao với tình hình nên công tác thi hành án dân sự còn gặp nhiều hạn chế.
Thứ hai, đối với nguyên tắc chỉ kê biên tài sản tương ứng với nghĩa vụ
thi hành án. Tuy nhiên, hiện nay công tác định giá tài sản, đặc biệt ở các địa
phương còn gặp nhiều khó khăn. Một số tổ chức định giá độc lập thiếu
chuyên môn dẫn đến việc định giá sai. Đây là một trong những nguyên nhân
chủ yếu gây ra tranh chấp trong việc kê biên tài sản thi hành án, vì người phải
thi hành án cho rằng việc định giá tài sản thi hành án là thấp, không hợp lý.
Thứ ba, đối với nguyên tắc không kê biên tài sản phục vụ mục đích
công cộng như nhà trẻ, theo tác giả đề tài là chưa hợp lý. Vì hiện nay dịch vụ
57
giáo dục tư nhân đang phát triển mạnh trên cả nước, nhiều trung tâm ngoại
ngữ, nhà trẻ, trường tư thục được thành lập ở nhiều nơi. Quan điểm không kê
biên những tài sản phục vụ cộng đồng là hoàn toàn hợp lý nhưng trong trường
hợp người phải thi hành án là chủ sở hữu những nhà trẻ, trường tư thục ấy thì
nghĩa vụ của người đó phải giải quyết như thế nào. Vì nếu không kê biên
những tài sản đó thì sẽ không thể thi hành án theo bản án, quyết định của Tòa
án, thậm chí có thể trở thành cớ để người phải thi hành án không thực hiện
nghĩa vụ của mình.
2.2.4. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền
sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở
Trình tự thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng
đất và quyền sở hữu nhà ở bao gồm các giai đoạn sau:
Thứ nhất là xác minh điều kiện thi hành án. Muốn hiểu rõ người phải
thi hành án đang có những tài sản gì để đảm bảo cho việc thi hành án thì cần
phải xác minh. Xác minh tài sản của người phải thi hành án là nội dung quan
trọng để chấp hành viên tổ chức thực hiện cưỡng chế quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở. Chấp hành viên phải tiến hành xác minh quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở cần kê biên, thu thập các thông tin về quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở của người phải thi hành án, nắm rõ các thông tin đối
với quyền sử dụng đất sẽ tiến hành kê biên. Hiện nay, Điều 44 Luật thi hành
án dân sự đổi bổ sung năm 2014 quy định trường hợp chủ động ra quyết định
thi hành án, chấp hành viên phải tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của
người phải thi hành án. Trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu, nếu người
được thi hành án đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà không thể tự xác
minh được điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì có thể yêu cầu
chấp hành viên tiến hành xác minh. Việc yêu cầu này phải được lập thành văn
bản và phải ghi rõ các biện pháp đã được áp dụng nhưng không có kết quả,
58
kèm theo tài liệu chứng minh. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày chủ động ra
quyết định thi hành án hoặc kể từ ngày nhận được yêu cầu xác minh của
người được thi hành án, chấp hành viên phải tiến hành việc xác minh; trường
hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải xác
minh ngay. Việc xác minh phải được lập thành biên bản, có xác nhận của Tổ
trưởng tổ dân phố, Uỷ ban nhân dân, công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức
nơi tiến hành xác minh. Biên bản xác minh phải thể hiện đầy đủ kết quả xác
minh. Như vậy, việc xác minh điều kiện thi hành án là cần thiết đối với thi
hành án dân sự nói chung, và cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền
sở hữu nhà ở nói riêng.
Ví dụ: Năm 2015, ông Trịnh Văn Công ở Nho Quan, Ninh Bình, do
làm ăn thua lỗ và nợ đối tác là bà Trương Thị Mai 1.654.000.000 VNĐ. Năm
2016, theo quyết định của Tòa án, ông Công phải thực hiện nghĩa vụ thi hành
án dân sự để giải quyết số nợ với bà Mai. Do chậm trễ chây ỳ không thực hiện
nghĩa vụ thi hành án, năm 2017, ông Công bị chấp hành viên chi cục thi hành
án huyện Nho Quan ra quyết định cưỡng chế kê biên tài sản là mặt bằng cơ sở
trồng rau an toàn của ông ở Nho Quan. Trong quá trình xác minh, chấp hành
viên xác định trong diện tích mặt bằng cơ sở trồng rau của ông Công, có một
phần diện tích đất là do ông Công và em trai và Trịnh Văn Tú đồng sở hữu.
Như vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 74 Luật thi hành án dân sự năm
2008 sửa đổi bổ sung năm 2014, chấp hành viên sẽ xác định diện tích đất mà
ông Công và ông Tú sở hữu thuộc sở hữu chung và thuộc trường hợp có thể
cưỡng chế quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, đi sâu vào xác minh, phần đất này
lại là Hội khuyến nông và Hợp tác xã Rau an toàn Nho Quan giao cho ông
Công và ông Tú thuê từ năm 2003 theo chủ trương xây dựng mô hình rau an
toàn trên địa bàn tỉnh. Quyền sử dụng đất này vẫn thuộc về Hợp tác xã. Do
đó, phần diện tích đất này không được tính vào phạm vi quyền sử dụng đất
59
mà ông Công buộc phải thi hành án.
Thứ hai là chấp hành viên phải chứng minh được người phải thi hành
án khi hết thời gian tự nguyện thi hành án không tự nguyện thi hành án. Hoặc
người phải thi hành án khi chưa hết thời hạn tự nguyện thi hành án nhưng có
dấu hiệu tẩu tán, hủy hoại tài sản thi hành án. Chấp hành viên căn cứ vào quy
định tại khoản 1 Điều 45 Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014
về thời hạn tự nguyện: “Thời hạn tự nguyện thi hành án là 10 ngày, kể từ
ngày người phải thi hành án nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết
định thi hành án”. Như vậy, khi hết thời hạn tự nguyện thi hành án thì chấp
hành viên ra quyết định cưỡng chế theo quy định tại khoản 1 Điều 46 của
Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014: “Hết thời hạn quy định
tại khoản 1 Điều 45 của Luật này, người phải thi hành án có điều kiện thi
hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế”. Đối với trường
hợp người phải thi hành án có dấu hiệu tẩu tán, hủy hoại tài sản thi hành án
thì chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp tại Điều 69 Luật thi hành án dân
sự năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014. Cụ thể là trường hợp cần ngăn chặn
hoặc phát hiện đương sự có hành vi chuyển quyền sở hữu, sử dụng, tẩu tán,
huỷ hoại, thay đổi hiện trạng tài sản, chấp hành viên ra quyết định tạm dừng
việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản của
người phải thi hành án và gửi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để
tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài
sản đó. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định, chấp hành viên thực
hiện việc kê biên tài sản hoặc chấm dứt việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển
quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản. Tuy nhiên, trên thực tế,
chấp hành viên gặp nhiều khó khăn trong việc nắm bắt thông tin, hành vi của
người phải thi hành án. Trong nhiều trường hợp, việc tẩu tán, hủy hoại tài sản
diễn ra nhanh khiến chấp hành viên không kịp ngăn chặn dẫn đến việc tài sản
60
hủy hoại. Do đó, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thi hành án và làm phát
sinh mâu thuẫn, tranh chấp.
Ví dụ: Năm 2017, ông Nguyễn Văn Thắng ở Tam Quan, Tam Đảo,
Vĩnh Phúc bị chấp hành viên ra quyết định cưỡng chế kê biên tài sản là ngôi
nhà ở chợ làng Chanh, Tam Quan, Tam Đảo. Thời gian kê biên được xác định
là ngày 18/2/2017. Tuy nhiên, ngày 17/2/2017, ông Thắng cùng gia đình đã
thuê người đến tháo gỡ các thiết bị nội thất trong căn nhà chở đi nơi khác,
đồng thời phá hỏng nguyên bản kết cấu căn nhà. Khi chấp hành viên có mặt
vào sáng 18 2 2017 ông Thắng đã tháo gỡ toàn bộ nội thất như các thiết bị
nhà bếp, nhà tắm, đập phá các cửa và phá hư hệ thống nước của căn nhà. Do
hành vi của ông Thắng diễn ra quá bất ngờ nên chấp hành viên đã không thể
đưa ra biện pháp kịp thời, từ đó có ảnh hưởng đến việc định giá tài sản thi
hành án, và ảnh hưởng đến kết quả thi hành án.
Bên cạnh đó, quy định về việc tạm hoãn thi hành án hiện nay vẫn tồn
tại bất cập. Cụ thể là khoản 2 Điều 48 Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung
năm 2014 quy định Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự ra quyết định
hoãn thi hành án khi nhận được yêu cầu hoãn thi hành án của người có thẩm
quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án,
quyết định của Toà án. Trong khi đó khoản 2, Điều 103 quy định trường hợp
người mua được tài sản bán đấu giá đã nộp đủ tiền mua tài sản bán đấu giá
nhưng bản án, quyết định bị kháng nghị, sửa đổi hoặc bị hủy thì cơ quan Thi
hành án dân sự tiếp tục giao tài sản, kể cả thực hiện việc cưỡng chế thi hành
án để giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá, trừ trường hợp kết
quả bán đấu giá bị hủy theo quy định của pháp luật hoặc đương sự có thỏa
thuận khác. Như vậy, tồn tại vướng mắc trong việc thực hiện nội dung quy
định của 2 điều luật trên, cụ thể là khi người mua được tài sản bán đấu giá đã
nộp đủ tiền, cơ quan Thi hành án chuẩn bị thực hiện cưỡng thi hành án để
61
giao tài sản là đất và tài sản gắn liền với đất thì có yêu cầu hoãn thi hành án
của người có thẩm quyền kháng nghị. Trong trường hợp này, cơ quan Thi
hành án dân sự có được tiếp tục thực hiện cưỡng chế giao đất và tài sản gắn
liền với đất cho người mua được tài sản bán đấu giá không. Nếu hoãn thi hành
án thì ảnh hưởng đến quyền lợi của người mua được tài sản bán đấu giá, nếu
không hoãn thì vi phạm khoản 2 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự năm 2008
sửa đổi bổ sung năm 2014.
Thứ ba là chấp hành viên lập kế hoạch và chuẩn bị các căn cứ pháp lý
cho việc thi hành án. Theo quy định tại Điều 72 Luật thi hành án dân sự năm
2008 sửa đổi bổ sung năm 2014 thì trước khi tiến hành cưỡng chế thi hành án,
chấp hành viên phải lập kế hoạch cưỡng chế, trừ trường hợp phải cưỡng chế
ngay. Kế hoạch cưỡng chế thi hành án bao gồm các nội dung chính sau đây:
(i) Biện pháp cưỡng chế cần áp dụng; (ii) thời gian, địa điểm cưỡng chế; (iii)
phương án tiến hành cưỡng chế; (iv) yêu cầu về lực lượng tham gia và bảo vệ
cưỡng chế; (v) dự trù chi phí cưỡng chế. Kế hoạch cưỡng chế phải được gửi
ngay cho Viện Kiểm sát, cơ quan Công an cùng cấp, Ủy ban nhân dân cấp xã
nơi tổ chức cưỡng chế hoặc cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc cưỡng chế
thi hành án. Căn cứ vào kế hoạch cưỡng chế của cơ quan Thi hành án dân sự,
cơ quan Công an có trách nhiệm lập kế hoạch bảo vệ cưỡng chế, bố trí lực
lượng, phương tiện cần thiết để giữ gìn trật tự, bảo vệ hiện trường, kịp thời
ngăn chặn, xử lý hành vi tẩu tán tài sản, hành vi cản trở, chống đối việc thi
hành án, tạm giữ người chống đối, khởi tố vụ án hình sự khi có dấu hiệu phạm
tội. Cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở là hoạt
động với nhiều trình tự, thủ tục phải thực hiện, không chỉ đòi hỏi chấp hành
viên có chuyên môn nghiệp vụ sâu, khả năng xử lý tình huống linh hoạt mà
còn cần sự phối hợp của nhiều cơ quan ban ngành và đảm bảo tính đầy đủ, kịp
62
thời và chính xác. Bên cạnh đó, khi thực hiện cưỡng chế tài sản là quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở thì dễ động chạm và ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền và lợi ích của các bên liên quan đặc biệt là người phải thi hành án nên
các hành vi cản trở, chống đối không chấp hành án của người phải thi hành
án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan như gia đình của người phải thi
hành án thường diễn ra khá phổ biến.
Ví dụ: Năm 2016, gia đình ông Nguyễn Văn Cảnh ở tổ dân phố Trung,
Tây Tựu, Từ Liêm, Hà Nội bị chấp hành viên ra quyết định cưỡng chế kê biên
tài sản là quyền sử dụng lô đất ở địa chỉ số 15 7 khu 3 tổ dân phố Trung, Tây
Tựu, Từ Liêm, Hà Nội. Ông Cảnh khi nhận được thông báo, đã có hành vi
khiêu khích đe dọa sẽ ngăn cản việc cưỡng chế của chấp hành viên. Sau 3
ngày là thời hạn cưỡng chế thi hành án, nhưng do chưa có sự thống nhất về tổ
chức với lực lượng công an, và chủ quan nên chấp hành viên đã không đưa ra
được kế hoạch cưỡng chế. Đến 8 giờ sáng 5 11 2016, khi chấp hành viên và
một số đại diện các ban ngành có liên quan và 2 đồng chí cảnh sát khu vực
đến làm việc, thì gia đình ông Cảnh đã huy động hơn 30 người bao vây đoàn
công tác, và có biểu hiện khiêu khích, chống đối, ngăn chặn người có thẩm
quyền làm công tác cưỡng chế. Như vậy, trong trường hợp này do chấp hành
viên không lên kế hoạch đầy đủ cũng như có phương án dự phòng trong
trường hợp người phải thi hành án chống đối mạnh, dẫn đến công tác cưỡng
chế bị cản trở. Mặc dù chấp hành viên có thể yêu cầu cơ quan công an tạm
giữ những người có hành vi chống đối công tác thi hành án theo khoản 6 Điều
20 Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014, tuy nhiên, nếu có kế
hoạch đầy đủ từ trước, có sự tuyên truyền đầy đủ và sự liên kết chặt chẽ với
các ngành chức năng khác thì sẽ tránh được vấn đề phức tạp phát sinh. Đây
cũng là bài học cho các chấp hành viên thi hành án dân sự ngay từ khâu chuẩn
bị công tác cưỡng chế thi hành án. Thực tế hiện nay cho thấy số vụ chống đối
63
thi hành án, đặc biệt là thi hành án bằng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền
sử dụng đất diễn ra khá nhiều ở khắp các địa phương.
Thứ tư, ra quyết định cưỡng chế và thông báo về quyết định cưỡng chế
kê biên cho đương sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Như đã trình
bày trong phần trước, việc ra quyết định cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng
đất và quyền sở hữu nhà ở thuộc thẩm quyền của chấp hành viên. Chấp hành
viên ra quyết định cưỡng chế khi hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà người
phải thi hành án không tự nguyện thi hành án, trừ trường hợp người phải thi
hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản thi hành án theo Điều 45, 46 Luật
thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014. Việc ra quyết định
này cần phải được thông báo cho cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức theo các quy
định tại Điều 39, 40, 41 Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi bổ sung năm
2014. Việc thông báo này là cần thiết để các chủ thể có liên quan trong việc
cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở có sự chuẩn bị
trước, nhằm đảm bảo quá trình cưỡng chế diễn ra nhanh chóng, hiệu quả, theo
đúng quy định của pháp luật. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp người phải
thi hành án do chuyển nhà, hoặc vắng mặt khỏi nơi cư trú trong thời gian ra
thông báo. Đến khi chấp hành viên và lực lượng chức năng đến cưỡng chế thì
lại viện dẫn việc chưa được thông báo từ chấp hành viên, để ngăn cản hoặc trì
hoãn quá trình cưỡng chế quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở. Do đó,
thủ tục thông báo quyết định cưỡng chế phải được tiến hành một cách linh
hoạt tùy trường hợp thi hành án cụ thể đúng quy định của pháp luật. Bên cạnh
đó, về việc thực hiện thông báo là hoạt động của chấp hành viên, cán bộ và cơ
quan Thi hành án dân sự nhằm làm cho đương sự, người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan biết được quyền và nghĩa vụ của mình phát sinh trong quá
trình tổ chức thi hành bản án, quyết định. Là hoạt động diễn ra thường xuyên,
vì vậy, việc thông báo trong thi hành án dân sự có ý nghĩa hết sức quan trọng
64
nhằm đảm bảo tính khách quan, minh bạch trong hoạt động thi hành án dân sự
và là cơ sở để áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án. Đây là hình thức
thông báo cuối cùng, có tính chất rộng rãi nhất, nhưng hiện nay, phần lớn các
chấp hành viên và cơ quan Thi hành án dân sự dễ hiểu sai, thực hiện sai các
hình thức thông báo. Điều 43 Luật thi hành án dân sự sửa đổi 2014 quy định
về điều kiện áp dụng hình thức thông báo trên phương tiện thông tin đại
chúng là chỉ khi pháp luật có quy định, hoặc khi đương sự có yêu cầu. Tuy
nhiên, thực tế hiện nay, một số chấp hành viên và cơ quan Thi hành án dân sự
vẫn thực hiện trong trường hợp người được thi hành án yêu cầu cơ quan Thi
hành án dân sự thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng về các quyết
định, văn bản để người được thi hành án nắm được. Điều này là hoàn toàn trái
với quy định của điều luật đã quy định ở trên và hoàn toàn có thể xảy ra khiếu
nại của người phải thi hành án với lý do cơ quan Thi hành án dân sự thông
báo không đúng hình thức, gây ảnh hưởng đến uy tín của họ. Sau khi đã xác
định có đủ cơ sở để áp dụng thì khi đó thông báo mới được thực hiện trên
phương tiện thông tin đại chúng và thủ tục thông báo sẽ được thực hiện theo
khoản 2, 3 Điều 43 Luật thi hành án dân sự sửa đổi 2014. Trong suốt quá trình
tổ chức thi hành bản án, quyết định, việc thông báo về thi hành án diễn ra
không chỉ duy nhất một lần mà có thể phải thực hiện thường xuyên, điều này
ảnh hưởng lớn đến việc đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có
nắm được quyền, nghĩa vụ của mình hay không để thực hiện. Điều đó cũng
quyết định đến hiệu quả của hoạt động thi hành án, đây cũng là một yếu tố
đánh giá chất lượng hoạt động thi hành án dân sự. Vì vậy, việc nhận thức, áp
dụng đúng, đủ các quy định của pháp luật về thông báo thi hành án là rất quan
trọng và cần thiết. Chấp hành viên và cơ quan thi hành án không thể chủ quan
để gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các bên liên quan.
Thứ năm là tiến hành cưỡng chế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
65
ở. Luật thi hành án dân sự hiện nay không có một mục cụ thể về trình tự, thủ
tục trong việc tiến hành cưỡng chế quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở.
Các quy định về tiến hành được quy định rải rác trong nhiều phần của Luật thi
hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014. Các điều luật đó quy định về các
nội dung cơ bản của trình tự thủ tục của cưỡng chế quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở. Tuy nhiên, trên thực tế việc tiến hành thi hành án luôn
gặp nhiều khó khăn và phức tạp hơn, đòi hỏi chấp hành viên phải có trình độ
và kinh nghiệm để giải quyết những khó khăn đó.
Thứ sáu, tiến hành định giá quyền sử dụng đất thuộc diện phải thi hành án
Định giá quyền sử dụng đất là trình tự quan trọng trong quy trình
cưỡng chế quyền sử dụng đất. Định giá quyền sử dụng đất chính là việc xác
định giá trị của quyền sử dụng trong thời điểm nhất định. Định giá do đương
sự tự thỏa thuận, trường hợp các bên đương sự thỏa thuận không thành thì
chấp hành viên ký hợp đồng thuê tổ chức thẩm định giá. Điều 98 Luật thi
hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 về việc định giá tài sản thì ngay khi
kê biên tài sản mà đương sự thoả thuận được về giá tài sản hoặc về tổ chức
thẩm định giá thì chấp hành viên lập biên bản về thỏa thuận đó. Giá tài sản do
đương sự thoả thuận là giá khởi điểm để bán đấu giá. Trường hợp đương sự
có thoả thuận về tổ chức thẩm định giá thì chấp hành viên ký hợp đồng dịch
vụ với tổ chức thẩm định giá đó. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày
kê biên tài sản, chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá
trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có tài sản kê biên
trong các trường hợp sau đây: (i) Đương sự không thoả thuận được về giá và
không thoả thuận được việc lựa chọn tổ chức thẩm định giá; (ii) tổ chức thẩm
định giá do đương sự lựa chọn từ chối việc ký hợp đồng dịch vụ; (iii) thi hành
phần bản án, quyết định quy định tại khoản 1 Điều 36 của Luật thi hành án
dân sự sửa đổi năm 2014; chấp hành viên xác định giá trong các trường hợp
66
sau đây: (i) Không thực hiện được việc ký hợp đồng dịch vụ quy định tại
khoản 2 Điều 98 của Luật thi hành án dân sự sửa đổi năm 2014; (ii) tài sản kê
biên thuộc loại tươi sống, mau hỏng hoặc có giá trị nhỏ mà đương sự không
thoả thuận được với nhau về giá. Chính phủ quy định về tài sản có giá trị nhỏ.
Thực tế việc định giá quyền sử dụng đất là một khâu dễ xảy ra các tranh chấp
trong hoạt động cưỡng chế quyền sử dụng đất. Do người phải thi hành án
không chấp nhận kết quả định giá của tổ chức định giá độc lập.
Ví dụ: Ngày 14 4 năm 2017, ông Nguyễn Thanh Tùng ở Nga Sơn,
Thanh Hóa bị chấp hành viên tiến hành cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất thửa đất rộng 150m2 của ông Tùng. Ông Tùng không đồng ý tự thỏa thuận
giá, cũng không đồng ý nhờ cơ quan thẩm định tài sản. Do đó, chấp hành viên
phải ký hợp đồng với cơ quan thẩm định tài sản của địa phương. Tuy nhiên,
sau 5 ngày, khi cơ quan thẩm định phản hồi cho chấp hành viên và chấp hành
viên thông báo giá trị quyền sử dụng đất để tiến hành đấu giá, thì ông Tùng tiếp tục không đồng ý. Ông Tùng cho rằng 150m2 diện tích đất của ông là đất
thổ cư, được gia đình ông sở hữu trước năm 1990. Tuy nhiên, trong quá trình
tìm hiểu, cơ quan thẩm định đã chứng minh được mảnh đất của ông Tùng
thực chất là đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích ở, và có cách tính giá theo
như quy định tại Điều 18 Luật Đất đai 2013. Cuối cùng, chấp hành viên cho
tiến hành đấu giá dựa trên cách tính giá này.
Trong một số trường hợp khác, chấp hành viên làm công tác thi hành
án dân sự lại có nhiều hành vi bất hợp pháp nhằm điều chỉnh giá tài sản thi
hành án, nhằm thu lợi cá nhân và gây thiệt hại cho các bên liên quan, hoặc
việc định giá chưa hợp lý dẫn đến tranh chấp. Nhằm tránh tình trạng đó, Điều
99 Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014 quy định việc
định giá lại tài sản kê biên được thực hiện trong các trường hợp sau đây: (i)
Chấp hành viên có vi phạm nghiêm trọng quy định tại Điều 98 của Luật thi
67
hành án dân sự sửa đổi năm 2014 dẫn đến sai lệch kết quả định giá tài sản;
(ii) đương sự có yêu cầu định giá lại trước khi có thông báo công khai về
việc bán đấu giá tài sản. Việc định giá lại tài sản kê biên được thực hiện theo
quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 98 của Luật Thi hành án dân sự sửa
đổi bổ sung năm 2014. Tuy nhiên hiện nay, do trình độ chuyên môn của
chấp hành viên ở nhiều nơi còn chưa sâu, chất lượng các Trung tâm thẩm
định giá ở nhiều địa phương còn gây tranh cãi dẫn đến trong quá trình định
giá tài sản kê biên là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở còn gặp nhiều
khó khăn, khiến việc thanh toán tiền thi hành án còn chậm trễ gây bức xúc
cho các bên liên quan đặc biệt là cho người được thi hành án, làm ảnh hưởng
đến tiến độ thi hành án.
Khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại tố cáo về việc áp dụng biện
pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở
Trong hoạt động cưỡng chế quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở,
những đối tượng có liên quan có quyền khiếu nại đối với quyết định, hành vi
của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự, chấp hành viên nếu có căn cứ
cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích
hợp pháp của mình. Các nội dung của hoạt động giải quyết khiếu nại trong thi
hành án dân sự cũng được áp dụng trong việc khiếu nại trong quá trình cưỡng
chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở. Các nội dung chính
bao gồm thời hiệu, thẩm quyền, thời hạn giải quyết, trình tự thủ tục giải quyết
khiếu nại được quy định trong Mục 1 Chương VI từ Điều 140 đến Điều 153
Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014. Bên cạnh đó, công dân có
quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về hành vi vi phạm
pháp luật của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên hoặc
công chức khác làm công tác thi hành án dân sự gây thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
cơ quan, tổ chức. Các nội dung chính bao gồm thời hiệu, thẩm quyền, thời
68
hạn giải quyết, trình tự thủ tục giải quyết khiếu nại được quy định trong Mục
2 Chương VI từ Điều 154 đến Điều 159 Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ
sung năm 2014.
2.3. Ƣu điểm và hạn chế
2.3.1. Ưu điểm
Đối với người được thi hành án
Cưỡng chế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở đã thực hiện một
cách triệt để nhất bản án, quyết định của Tòa án, vì quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở là các tài sản có giá trị cao, do đó, khi xử lý các tài sản đó thì sẽ
có cơ hội khắc phục quyền lợi bị xâm phạm của người được thi hành án, nhờ
đó quyền và lợi ích chính đáng của người được thi hành án được khôi phục và
bảo vệ. Qua đó, tạo niềm tin cho công dân trong việc thực thi pháp luật và
nâng cao chất lượng cuộc sống của công dân khi có pháp luật bảo vệ những
điều công bằng trong xã hội hiện nay.
Cưỡng chế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở ngăn chặn việc
người phải thi hành án tìm cách kéo dài thời gian, trì hoãn, gây khó khăn trong
công tác thi hành án, giúp người được thi hành án khôi phục các quyền và lợi
ích hợp pháp của mình một cách nhanh chóng nhất.
Đối với người phải thi hành án
Biện pháp cưỡng chế quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở đã tạo sự
răn đe buộc người phải thi hành án phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình
theo bản án, quyết định của Tòa án. Giáo dục người phải thi hành án cần có ý
thức tuân thủ pháp luật và thực hiện đầy đủ các trách nhiệm của mình.
Biện pháp cưỡng chế cũng giúp ngăn cản các tranh chấp, mâu thuẫn
tiếp tục bị đẩy lên cao. Về cơ bản người phải thi hành án chỉ có thể trì hoãn
chứ không thể trốn tránh việc thi hành án. Do đó, cưỡng chế quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở sẽ đảm bảo người phải thi hành án sẽ không bị thiệt
69
hại quá nhiều do việc trốn tránh thi hành án.
Qua biện pháp cưỡng chế đã thể hiện được tính nghiêm minh của pháp
luật trong công tác thi hành pháp luật. Ngoài ra còn khẳng định vị thế của cơ
quan thi hành án trong hệ thống các cơ quan thực thi pháp luật nhằm tạo tiền
đề cho công tác thi hành án ngày càng hiệu quả hơn.
Ngoài răn đe buộc người phải thi hành án phải thực hiện các nghĩa vụ
của mình thì người phải thi hành án còn được pháp luật bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của họ. Điều đó thể hiện tính nhân đạo của pháp luật mà còn
mang tính giáo dục, giúp cho người phải thi hành án không mất niềm tin vào
pháp luật và không có những hành vi vi phạm pháp luật, ổn định cuộc sống.
Đối với pháp luật và xã hội
Cưỡng chế kê biên tài sản thông qua việc thi hành triệt để bản án, quyết
định của Tòa án sẽ góp phần bảo vệ và giữ gìn các quan hệ dân sự trong xã
hội, đảm bảo sự ổn định và công bằng giữa các chủ thể với nhau. Góp phần
điều chỉnh hành vi của các chủ thể, đặc biệt là các chủ thể đã vi phạm
hoặc sắp vi phạm quyền và lợi ích của các chủ thể khác. Tạo sự ổn định,
trật tự xã hội, đảm bảo cuộc sống xã hội ngày càng công bằng, văn minh.
2.3.2. Những hạn chế, bất cập còn tồn tại trong việc áp dụng biện
pháp cưỡng chế quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở
2.3.2.1. Xác định căn cứ áp dụng biện pháp cưỡng chế chưa chặt chẽ
Để tiến hành kê biên tài sản của người phải thi hành án thì chấp hành
viên phải có đủ căn cứ để áp dụng biện pháp cưỡng chế. Chấp hành viên phải
tiến hành xác minh tài sản của người phải thi hành án, xác minh hiện trạng và
thông tin của tài sản và phải thực hiện việc trao đổi thông tin liên quan với Ủy
ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn nơi có tài sản và các cơ quan có liên
quan trong lĩnh vực nhà đất như Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất hay
Phòng tài nguyên và Môi trường. Tuy nhiên, trong rất nhiều trường hợp chấp
70
hành viên chưa chú trọng đến việc trao đổi nắm bắt thông tin với chính quyền
địa phương và các cơ quan có liên quan, dẫn đến có trường hợp tài sản là
quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở đã bán đấu giá thành, chấp hành
viên đến cưỡng chế giao tài sản cho người mua trúng đấu giá mới phát hiện ra
nhà đang do người khác quản lý sử dụng từ trước khi kê biên, xử lý tài sản
nên gặp phải sự chống đối.
Khi ra quyết định cưỡng chế, chấp hành viên phải xác định là người thi
hành án có điều kiện thi hành án. Trong một số trường hợp khi chấp hành
viên xác minh người phải thi hành án đang sử dụng và quản lý tài sản là nhà ở
hoặc quyền sử dụng đất thì mặc nhiên đó là tài sản của người phải thi hành án
mà không xác định đã làm thủ tục chuyển đổi sang tên người phải thi hành án
hay chưa. Trên thực tế, việc xác định quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng
đất trong nhiều trường hợp rất khó khăn nhất là trong trường hợp người phải
thi hành án tìm mọi cách để cản trở, trì hoãn việc thi hành án, không có căn
cứ đầy đủ xác định quyền sở hữu đó là của ai, dẫn đến cơ quan Thi hành án
dân sự đã lúng túng trong việc ra quyết định cưỡng chế; áp dụng biện pháp
cưỡng chế không chặt chẽ, xảy ra khiếu nại trong quá trình cưỡng chế.
2.3.2.2. Xác định phạm vi tài sản kê biên chưa đúng thực tiễn
Một số địa phương đã yêu cầu trước khi kê biên tài sản là quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở cơ quan thi hành án dân sự phải có bản vẽ sơ
đồ, hiện trạng. Do đó, chấp hành viên đã thuê các đơn vị, tổ chức có chức
năng đo vẽ bản đồ đến đo vẽ hiện trạng, trên cơ sở bản vẽ để thực hiện việc kê
biên tài sản. Trên thực tế, nhiều chấp hành viên đã thực hiện việc khoán trắng
cho các đơn vị đo vẽ mà thiếu kiểm tra dẫn đến có trường hợp bản vẽ thiếu
diện tích 01 tầng của tòa nhà hoặc một phần của mảnh đất, nhưng chấp hành
viên không phát hiện ra, chỉ đến khi bán đấu giá thành thì người phải thi hành
án khiếu nại mới biết đã kê biên thiếu một phần tài sản so với thực tế.
71
Các đương sự chống đối cản trở nên việc kiểm tra hiện trạng không
thể thực hiện được dẫn đến nhiều trường hợp chấp hành viên căn cứ vào
các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, sử dụng tài sản để quyết định việc
kê biên. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện việc kê biên tài sản đã thực
hiện việc đo vẽ, kiểm đếm tài sản không chặt chẽ dẫn đến tài sản kê biên
không đúng hiện trạng.
Trên thực tế khi tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của người
phải thi hành án trước khi ra quyết định cưỡng chế là một yếu tố rất quan
trọng trong việc cưỡng chế. Khi tiến hành xác minh tại địa chỉ của người phải
thi hành án, bản thân người phải thi hành án và người thân không cung cấp
chính xác thông tin cho chấp hành viên về những tài sản họ quản lý, điều đó
cũng gây khó khăn cho chấp hành viên trong quá trình xác định tài sản. Khi
tiến hành xác minh tại ủy ban nhân dân hoặc thông qua Phòng tài nguyên và
Môi trường cung cấp thông tin chậm hoặc thiếu chính xác gây khó khăn cho
chấp hành viên. Ở nhiều địa phương khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất hay quyền sở hữu nhà ở lại không đúng với thực địa, dễ dẫn tới chấp hành
viên chủ quan không xác minh đo đạc lại thực địa gây ảnh hưởng đến quá
trình cưỡng chế kê biên tài sản cũng nhưng ảnh hưởng trực tiếp đương sự,
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
Trong trường hợp người phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất
lớn hơn nhiều lần so với nghĩa vụ phải thi hành án mà tài sản đó không thể
phân chia được hoặc việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì
chấp hành viên vẫn có quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế để thi hành án.
Tuy nhiên, trong trường hợp này chấp hành viên phải có căn cứ chứng minh
việc không thể phân chia tài sản này hoặc nếu phân chia thì sẽ làm giảm đáng
kể giá trị của tài sản.
Ví dụ: người phải thi hành án có quyền sử dụng đất với diện tích 60m2
(mặt tiền 5m, chiều dài 12m) có giả trị khoảng 2,5 tỷ đồng, người phải thi
72
hành án chỉ phải thi hành số tiền 900 triệu đồng và chi phí cưỡng chế là 15
triệu đồng. Trong trường hợp này, chấp hành viên vẫn có thể kê biên toàn bộ diện tích 60m2 trên của người phải thi hành án nhưng vì theo quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh thì diện tích 60m2 không đủ điều kiện tách thửa, làm ảnh
hưởng đến giá trị tài sản.
2.3.2.3. Xác định thẩm quyền ban hành quyết định cưỡng chế chưa phù
hợp với quy định của pháp luật
Theo Luật thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014 quy
định tại khoản 5 Điều 20 thì quyền hạn của chấp hành viên "quyết định áp
dụng biện pháp bảo đảm thi hành án biện pháp cưỡng chế thi hành án; lập kế
hoạch cưỡng chế thi hành án; thu giữ tài sản thi hành án". Theo đó người có
quyền ra quyết định cưỡng chế kê biên tài sản là chấp hành viên nhưng ở một
số địa phương còn hiểu sai về thẩm quyền, người ra quyết định và ký quyết
định cưỡng chế là Thủ trưởng đơn vị, Phó Thủ trưởng đơn vị. Mặc dù Luật
quy định "Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải là
chấp hành viên". Thủ trưởng đơn vị là người quản lý nhưng khi ra quyết định
cưỡng chế thì phải ký quyết định của chấp hành viên tránh trường hợp chồng
chéo về thẩm quyền cũng như trái với quy định của pháp luật.
Theo khoản 1 Điều 55 Luật thi hành án dân sự quy định: "Thủ trưởng
cơ quan thi hành án dân sự phải ủy thác thi hành án cho cơ quan thi hành án
dân sự nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở".
Nghĩa là khi xác định được người phải thi hành án có tài sản hay quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở tại địa phương khác không thuộc địa giới hành
chính của mình thì phải ủy thác cho cơ quan Thi hành án dân sự nơi có tài sản
thi hành quyết định đó. Nhưng trong một số trường hợp, chấp hành viên đã
tiến hành kê biên tài sản không thuộc địa giới hành chính của mình mà thuộc
đơn vị khác dẫn đến đương sự khiếu nại, ảnh hưởng tới quá trình giải quyết
73
thi hành án.
2.3.2.4. Chưa tuân thủ nghiêm túc trình tự áp dụng biện pháp cưỡng
chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở
Để thực hiện việc cưỡng chế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
được tốt, chấp hành viên cần phải xây dựng kế hoạch cưỡng chế thi hành án
tốt. Trong kế hoạch cưỡng chế thi hành án phải chuẩn bị đầy đủ các nội dung
chính như: Thời gian, địa điểm, các phương án, các tình huống cưỡng chế có
thể xảy ra. Từ đó có yêu cầu lực lượng cưỡng chế, thành phần tham gia và lực
lượng bảo vệ cưỡng chế như thế nào. Cần thiết dự trù kinh phí cho buổi
cưỡng chế là bao nhiêu. Trên cơ sở kế hoạch cưỡng chế đó chấp hành viên
phải tổ chức điều hành buổi cưỡng chế làm sao cho thành công và ít tốn kém
về kinh phí cho đương sự và cho Nhà nước. Tuy nhiên, trên thực tế không
phải chấp hành viên nào cũng có khả năng xây dựng công tác tổ chức tốt, do
đó, có ảnh hưởng nhất định đối với công tác thi hành án nói chung, và cưỡng
chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở nói riêng. Việc định
giá quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở hiện nay còn nhiều bất cập. Do
việc xác minh giá trị tài sản còn được thực hiện một cách sơ sài. Đồng thời,
việc xác minh thông tin gặp nhiều khó khăn dẫn đến định giá tài sản trong
một số trường hợp còn chưa hợp lý. Điều này tạo kẽ hở cho người phải thi
hành án có điều kiện chống đối hoặc khiếu nại kéo dài.
Trước khi tiến hành kê biên tài sản, chấp hành viên phải thực hiện
thông báo về việc kê biên tài sản để thi hành án cho đương sự. Chấp hành
viên cần thông báo về quyết định cưỡng chế và thông báo cả về thời gian tổ
chức cưỡng chế cho đương sự biết. Nhưng trong một số trường hợp, chấp
hành viên không thông báo hoặc không trực tiếp tống đạt văn bản liên quan
đến quá trình cưỡng chế theo quy định của pháp luật, vi phạm trình tự thủ tục
tiến hành cưỡng chế, dẫn tới khiếu nại của đương sự.
74
2.3.3. Nguyên nhân
2.3.3.1. Các quy định của pháp luật còn chồng chéo, mâu thuẫn
Pháp luật về thủ tục, trình tự thi hành án dân sự vẫn chưa đáp ứng
yêu cầu thực tiễn. Các quy định trong Luật thi hành án dân sự và các văn
bản quy phạm pháp luật về thi hành án chưa được pháp điển hóa một cách
khoa học, mặc dù đã có Mục VIII giành riêng quy định về kê biên quyền sử
dụng đất trong Luật thi hành án dân sự nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu trên thực tế về vấn đề kê biên quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà
ở hiện rất phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp. Mặt khác, các
văn bản pháp luật dưới luật chậm ban hành, gây khó khăn, lúng túng cho
người áp dụng pháp luật.
2.3.3.2. Việc xác minh của chấp hành viên còn thiếu chặt chẽ, kịp thời
Trong quá trình xác minh tại địa chỉ của người phải thi hành án thì bản
thân người phải thi hành án và thân nhân của họ không cung cấp những thông
tin chính xác về quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở họ đang quản lý, sử
dụng. Khi xác minh qua địa chính xã có những trường hợp thông tin giữa bản
đồ địa chính xã và trên thực địa có những thông tin sai lệch về số thửa, tờ bản
đồ, diện tích thửa đất, các số liệu có liên quan mà chấp hành viên không tiến
hành thực địa lại dẫn tới số liệu sai lệch và thiếu tính chặt chẽ trong hồ sơ.
Khi xác minh thông qua Phòng Tài nguyên và Môi trường hoặc Văn
phòng đăng ký quyền sử dụng đất nhiều khi thông tin về quyền sử dụng đất
do các cơ quan này cung cấp cho cơ quan Thi hành án dân sự chậm, thiếu
chính xác, gây khó khăn cho chấp hành viên. Sự chậm trễ cung cấp thông tin
về quyền sử dụng đất ở một số địa phương là một trong những nguyên nhân
cũng làm ảnh hưởng đến quá trình xác minh của chấp hành viên.
Trong quá trình xác minh tại các cơ quan, ngân hàng, tổ chức tín dụng,
nơi mà người phải thi hành án đang thế chấp quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
75
nhà ở các cơ quan này nhiều trường hợp không hợp tác với cơ quan thi hành
án dân sự để giao các tài liệu liên quan đến việc thế chấp như các hợp đồng
thế chấp, giấy ủy quyền, hồ sơ công chứng cũng là một khó khăn cho chấp
hành viên tiến hành kê biên cưỡng chế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở. Thực tế có nhiều chấp hành viên, chưa đáp ứng về trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ để thực hiện công tác xác minh một cách khoa học và chính xác
dẫn đến chất lượng của các biên bản xác minh chưa đủ cơ sở pháp lý cho việc
cưỡng chế quyền sử dụng đất của người phải thi hành án. Khi xác minh quyền
sử dụng đất của người phải thi hành án thấy người phải thi hành án đã có hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được phòng công chứng xác nhận,
trong khi đó chấp hành viên xác minh tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng
đất thì đương sự chưa đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất điều
này gây khó khăn cho chấp hành viên tiến hành kê biên quyền sử dụng đất,
bởi vì theo Luật nhà ở thì hợp đồng mua bán nhà có hiệu lực tại thời điểm
công chứng, nhưng theo Bộ luật dân sự năm 2015 thì hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng
đăng ký quyền sử dụng đất. Vấn đề ở đây là do hai văn bản không thống nhất
thời điểm hợp đồng có hiệu lực mặc dù nhà ở nằm trên đất, bản chất nhà ở
cũng là bất động sản và không thể di dời.
2.3.3.3. Cơ chế quản lý tài sản chưa đồng bộ, đầy đủ nhất là đối với
quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở
Hiện nay các cơ quan quản lý đất đai thực hiện việc quản lý cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở chưa được chặt chẽ, để
các công chức, viên chức làm sai lệch hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, cấp sai vị trí, diện tích đất, cấp đất không đúng
nội dung của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sai tờ, thửa bản đồ, sai lệch
trong mô tả kết cấu, vật liệu, kích thước ngôi nhà, do nhiều nguyên nhân diễn
76
ra phổ biến ở một số địa phương vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Công
tác quản lý hồ sơ gốc cấp giấy quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở còn
lỏng lẻo, thiếu kho bảo quản hồ sơ; lưu trữ không đúng theo quy định của
pháp luật làm cho hồ sơ bị mục nát không thể khai thác được thông tin hoặc
thất thoát hồ sơ; sắp xếp hồ sơ lưu trữ thiếu khoa học gây khó khăn cho công
tác tìm kiếm, tra cứu khi cần cung cấp thông tin cho cá nhân, tổ chức. Cơ
quan chuyên trách vấn đề quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở là Văn
phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường và
Phòng Tài nguyên và Môi trường chưa có hệ thống dữ liệu thông tin đầy đủ
về đất đai trên địa bàn để thực hiện dịch vụ cung cấp thông tin. Nhiều cán bộ
ở đây còn có tác phong làm việc chậm chạp, chuyên môn nghiệp vụ chưa cao
hay để xảy ra những sai sót không đáng có.
2.3.3.4. Một số chấp hành viên cũng như công tác quản lý của người
đứng đầu còn hạn chế về năng lực, tinh thần trách nhiệm chưa cao
Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của người đứng đầu một số cơ
quan Thi hành án dân sự chưa thực sự quyết liệt, chưa sâu sát, nhất là việc
bám sát địa bàn, nơi được phân công phụ trách. Một số trường hợp, Thủ
trưởng đơn vị không thường xuyên xem xét các vụ việc phức tạp liên quan
đến cưỡng chế quyền sử dụng đất và quyền sở hữu và chỉ giao phó hết cho
chấp hành viên, không thường xuyên chỉ đạo trực tiếp cũng là một nguyên
nhân khiến cho chấp hành viên lúng túng trong quá trình cưỡng chế. Khi có
vụ việc phức tạp cần có ý kiến của các chấp hành viên trong đơn vị thì phải
họp hội đồng chấp hành viên trong đơn vị, nhưng vì năng lực hạn chế của một
số Thủ trưởng đơn vị không đưa ra được ý kiến đúng đắn, cũng như không
thường xuyên đôn đốc khiến cho quá trình giải quyết vụ việc phức tạp thường
kéo dài. Công tác kiểm tra, tự kiểm tra, nhất là kiểm tra chỉ đạo việc tổ chức
thi hành án đối với từng chấp hành viên, kiểm tra công tác tài chính, kế toán
có nơi chưa được quan tâm đúng mực, hiệu quả còn hạn chế. Một bộ phận cán
77
bộ, công chức, người lao động làm công tác thi hành án còn nhiều hạn chế về
năng lực, kỹ năng làm việc, ý thức trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, đặc biệt
là đội ngũ chấp hành viên.
Chế độ đãi ngộ đối với công chức, cán bộ thi hành án dân sự tuy đã
được quan tâm hơn trước nhưng chưa đồng đều, chưa tạo được động lực trong
khi yêu cầu công việc và chế độ trách nhiệm bị đòi hỏi rất cao. Điều này cũng
gây khó khăn cho công tác tuyển dụng và đào tạo đội ngũ cán bộ.
2.3.3.5. Công tác phối hợp ở một số địa phương và một số cơ quan còn
chưa cao
Công tác phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự với một số cơ
quan liên quan như Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân có nơi còn
chưa chặt chẽ, chưa chủ động tích cực đề xuất tham mưu cho cấp ủy và
chính quyền địa phương.
Sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức và cá nhân với cơ quan Thi hành
án dân sự trong cưỡng chế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở còn chưa
được tốt. Sự phối hợp trong quá trình trao đổi, cung cấp thông tin về quyền sử
dụng đất còn chậm, chưa chính xác của Phòng Tài nguyên và Môi trường,
Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, Ủy ban nhân dân xã và các tổ chức tín
dụng. Nhận thức của một số cơ quan, tổ chức, cá nhân về công tác thi hành án
dân sự chưa đầy đủ, dẫn đến việc coi nhẹ công tác thi hành án dân sự, chưa
thấy tầm quan trọng của việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Vì vậy,
một số cơ quan, tổ chức cá nhân không phối hợp hoặc phối hợp nửa vời thiếu
trách nhiệm với cơ quan Thi hành án dân sự. Sự phối hợp tham gia công tác
xác minh, thẩm định giá, giao quyền sử dụng đất cho người trúng đấu giá
chưa tốt, gây khó khăn cho cơ quan Thi hành án dân sự nhiều khi phải trì
hoãn, kéo dài thời gian thi hành án, gây nên việc tồn đọng việc thi hành án.
Công tác phối hợp trong một số trường hợp hiệu quả chưa cao, như một
số vụ việc chậm chuyển giao bản án hoặc chuyển giao không đầy đủ hồ sơ, tài
78
liệu liên quan, dẫn đến chưa đủ cơ sở để xử lý tài sản thi hành án. Ở nhiều nơi
vẫn còn tình trạng án tuyên không rõ, có sai sót. Sự phối hợp giữa cấp ủy,
chính quyền địa phương trong việc tổ chức cưỡng chế thi hành án đối với
những vụ việc phải huy động lực lượng còn nhiều hạn chế, hiệu quả chưa cao.
Trong hoạt động thi hành án hiện nay, số vụ án chưa có điều kiện thi
hành, vụ án không thi hành được, vụ án tồn đọng từ nhiều năm trước chiếm
lượng lớn trong số vụ việc của hoạt động cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng
đất và quyền sở hữu nhà ở trong thi hành án dân sự. Đặc biệt một số vụ án
trọng điểm, phức tạp kéo dài nhiều năm trong khi điều kiện kinh tế, xã hội và
các quy định của pháp luật liên quan có nhiều thay đổi so với thời điểm giải
quyết vụ việc, cần phải có sự phối hợp, chỉ đạo thống nhất của nhiều cấp,
nhiều ngành, sự đồng thuận của cấp ủy, chính quyền và địa phương.
2.3.3.6. Ý thức chấp hành pháp luật của đương sự chưa cao
Đối với cá nhân đặc biệt là những người phải thi hành án và người có
nghĩa vụ liên quan, họ thường không hợp tác với cơ quan Thi hành án dân sự
trong việc không ký vào các văn bản giấy tờ, không cung cung cấp thông tin
chính xác, không tự nguyện thi hành án, khiếu nại, tố cáo, hành vi của chấp
hành viên và cơ quan Thi hành án dân sự không đúng sự thật, họ lợi dụng các
quyền được hưởng để kéo dài thời gian thi hành án, khi bị cưỡng chế quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và giao quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở cho người trúng đấu giá, họ chống đối bằng mọi thủ đoạn gây khó khăn
cho cơ quan thi hành án dân sự.
Số vụ việc và số tiền thụ lý ngày càng nhiều, năm sau cao hơn năm
trước, dẫn đến hệ quả là số vụ việc cần cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng
đất và quyền sở hữu nhà ở cũng ngày càng tăng. Nhiều vụ việc có tính chất
phức tạp, khiến cho công tác cưỡng chế tài sản còn gặp nhiều khó khăn.
Đồng thời, cưỡng chế tài sản nói chung và cưỡng chế quyền sử dụng đất,
79
quyền sở hữu nhà ở của người phải thi hành án thường vấp phải sự chống
đối của cá nhân người phải thi hành án hoặc cả những người như anh em,
bạn bè, người thân trong gia đình của người phải thi hành án, những việc
cưỡng chế kê biên thuộc sở hữu chung còn phức tạp và thường bị kéo dài
thời gian thực hiện vì nó liên quan đến quyền lợi của nhiều người.
80
Kết luận chƣơng 2
Thông qua việc phân tích, bình luận các quy định pháp luật hiện hành
về cưỡng chế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở trong Chương 2 của đề
tài, tác giả đã giải quyết được một số vấn đề về cưỡng chế quyền sử dụng đất
và quyền sở hữu nhà ở nói riêng và công tác thi hành án dân sự ở Việt Nam
hiện nay nói chung.
Trình bày và phân tích một số kết quả đạt được trong công tác thi hành
án nói chung, và thi hành án bằng biện pháp cưỡng chế quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở trong thi hành án dân sự ở Việt Nam trong thời gian qua
nhằm đánh giá hiệu quả thi hành án trong những năm gần đây. Đánh giá phân
tích các nội dung liên quan đến biện pháp cưỡng chế quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở.
Từ đó, chỉ ra ưu điểm và hạn chế của công tác cưỡng chế quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở trong thi hành án dân sự những năm qua. Đồng
thời trình bày nguyên nhân của những hạn chế đó để đưa ra cơ sở đề xuất một
số kiến nghị, giải pháp trong Chương 3 của đề tài.
81
CHƢƠNG 3
NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CƢỠNG CHẾ
TÀI SẢN LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở
3.1. Quan điểm về cƣỡng chế thi hành án dân sự trong điều kiện
xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa
3.1.1. Áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở là biện pháp cuối cùng nghiêm khắc, cần thiết nhằm
thi hành dứt điểm bản án, quyết định của Tòa án
Biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
là một biện pháp nghiêm khắc nhất chỉ được sử dụng khi không còn biện pháp
nào khác để người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ thi hành án của mình.
Trước hết biện pháp này cần phải được triển khai, áp dụng một cách chính
xác hiệu quả trong từng trường hợp cụ thể nhằm đảm bảo tính nghiêm minh
của pháp luật. Việc cưỡng chế thành công trước hết có tác dụng răn đe với các
đối tượng phải thi hành án trong các vụ việc khác, nâng cao ý thức chung của
cộng đồng đối với việc thực hiện các nghĩa vụ dân sự, trong đó có nghĩa vụ
thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Đối với các tranh chấp giữa người
phải thi hành án với cơ quan tổ chức, và giữa người phải thi hành án với cá
nhân được thi hành án, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở giúp giải quyết dứt điểm vụ án, đảm bảo và
khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan tổ chức, của người được thi
hành án, khắc phục các hậu quả mà người phải thi hành án gây ra. Hiện nay
số vụ việc và số tiền chưa thi hành án được còn nhiều do đó cần cơ quan Thi
hành án dân sự và chấp hành viên tiếp tục nỗ lực hơn nữa, sử dụng các biện
pháp cần thiết như cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở, nhằm giải quyết dứt điểm các bản án, quyết định còn tồn đọng, thanh toán
hết các khoản tiền thi hành án. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là
82
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở trong tương lai còn cần tiếp tục nâng
cao hiệu quả việc giải quyết và bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan như
người có chung sở hữu quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, gia đình của
người phải thi hành án vì quá trình cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở dễ dẫn đến mâu thuẫn. Tranh chấp làm ảnh hưởng đến
quyền lợi, ảnh hưởng đến tinh thần của các đối tượng này. Cuối cùng, áp
dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
nhằm đảm bảo quyền lợi cho tất cả các bên liên quan chính là việc đảm bảo
tính công bằng, bình đẳng cho tất cả các chủ thể trong xã hội, mà cụ thể là
quyền lợi của người được thi hành án và người phải thi hành án. Đồng thời,
một số quy định về thủ tục khiếu nại, và về quyền của chấp hành viên cũng
cần được quy định cụ thể, chi tiết hơn nữa nhằm tránh trường hợp chấp hành
viên có biểu hiện lạm quyền, vi phạm quy định của pháp luật trong thi hành
án dân sự.
3.1.2. Áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở phải gắn với xu thế dân chủ hóa và đảm bảo quyền
con người
Ngày nay, bên cạnh việc phát triển kinh tế, nâng cao đời sống xã hội
của người dân, thì vấn đề hoàn thiện và cải cách hệ thống pháp lý cũng được
coi trọng. Bên cạnh việc đảm bảo thi hành bản án, quyết định, đảm bảo quyền
lợi của các bên thì biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở cũng gắn liền với quá trình dân chủ hóa ở địa phương nói chung, và
dân chủ hóa trong công tác thực thi pháp luật nói riêng. Người dân có quyền
lên tiếng, đề đạt các nguyện vọng của mình đối với hoạt động cưỡng chế tài
sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở. Cụ thể là người được thi hành
án có quyền yêu cầu thi hành án, người phải thi hành án có quyền chủ động
kê khai, định giá tài sản nhằm hỗ trợ công tác thi hành án dân sự diễn ra
83
nhanh chóng, thuận lợi. Đồng thời, các chủ thể khác như người có liên quan,
hoặc người dân tại khu vực nơi người phải thi hành án sống cũng có quyền
được góp ý, đề đạt nguyện vọng và phương án cưỡng chế của chấp hành viên.
Do đó đặt ra yêu cầu nâng cao quyền tham gia giám sát của người dân trong
công tác thi hành án dân sự, thu thập lắng nghi ý kiến của người dân trong
công tác thi hành án dân sự.
3.1.3. Áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở phải được tiến hành phù hợp, đồng bộ với yêu cầu về
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một quá
trình lâu dài. Với quyết tâm chính trị cao của Đảng trong những năm qua, việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã có những thành tựu nhất
định, song trong quá trình xây dựng cũng nảy sinh nhiều vấn đề đòi hỏi chúng
ta cần phải tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, tìm kiếm, thử nghiệm. Do vậy, xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đang là nhiệm vụ
cấp bách đặt ra trước chúng ta. Đối với công tác thi hành án dân sự nói chung,
và việc áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở
hữu nhà ở nói riêng không chỉ nhằm giải quyết vấn đề pháp luật là các bản án,
quyết định còn tồn đọng, mà còn có vai trò ổn định tình hình xã hội, do đó
đảm bảo sự ổn định của Nhà nước. Đối với tình hình hiện nay, khi đất nước
đang trên đà tăng trưởng kinh tế - xã hội và hội nhập với quốc tế, yêu cầu về
xây dựng Nhà nước pháp quyền cần càng phải được đẩy mạnh. Từ thực tế đó,
việc hoàn thiện cơ chế pháp luật về thi hành án dân sự mà cụ thể là thi hành
án dân sự bằng biện pháp cưỡng chế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
càng cần phải được đẩy mạnh một cách có hiệu quả.
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả cƣỡng chế tài sản là quyền
84
sử dụng đất và quyền sở hữu nhà trong thi hành án dân sự ở Việt Nam
3.2.1. Về thể chế
Để nâng cao hiệu quả của việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành
án dân sự trước hết chúng ta cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về thi
hành án dân sự nói chung và các quy định cưỡng chế nói riêng như: Xây
dựng, ban hành đầy đủ, kịp thời các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi
hành luật; ban hành các thông tư liên tịch phối hợp các ngành liên quan; các
quy chế phối hợp liên ngành... Đặc thù của hoạt động thi hành án dân sự liên
quan đến rất nhiều ngành, lĩnh vực, nhất là việc cưỡng chế đòi hỏi tham gia
của nhiều lực lượng phối hợp. Nếu có hành lang pháp lý quy định rõ ràng
trách nhiệm, nhiệm vụ cụ thể của từng cơ quan sẽ dẫn đến tình trạng đùn đẩy
trách nhiệm, tất cả đổ dồn lên cơ quan Thi hành án dân sự và chấp hành viên.
Bên cạnh đó, nhiều văn bản pháp luật khác liên quan cũng cần hoàn thiện
thống nhất, tránh chồng chéo để cơ quan Thi hành án dân sự thuận lợi khi áp
dụng các biện pháp cưỡng chế như: Luật Nhà ở, Luật Công chứng, Luật Các
tổ chức tín dụng, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Đất đai…
Bổ sung quy định tại Điều 9 Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung
năm 2014
Hiện nay pháp luật thi hành án mới chỉ nêu ra người có điều kiện mà
không tự nguyện thi hành án thì phải tiến hành cưỡng chế. Tuy nhiên, trên
thực tế có nhiều trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án
nhưng do nhiều nguyên nhân mà không thể thực hiện nghĩa vụ của mình trong
thời gian tự nguyện thi hành án. Ví dụ như trường hợp người phải thi hành án
tự nguyện thi hành án nhưng do chỉ có tài sản là bất động sản, đã tích cực
trong việc bán tài sản để đảm bảo cho việc thi hành án nhưng do chưa có
người mua hoặc bán tài sản chưa hoàn tất nên không có điều kiện thi hành án
trong thời gian tự nguyện. Hoặc người phải thi hành án có ý thức tự nguyện
85
thi hành án nhưng do thiếu hiểu biết, do trình độ nhận thức còn hạn chế dẫn
đến việc thi hành án một cách tự nguyện diễn ra chậm, không đạt được yêu
cầu thi hành án đặt ra ban đầu. Do đó cần bổ sung khái niệm tự nguyện thi
hành án nhằm có sự phân loại chi tiết hơn đối với từng trường hợp người phải
thi hành án.
Sửa đổi Điều 9 Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014
Tác giả đề tài xin đưa ra giải pháp bổ sung Điều 9 Luật thi hành án dân
sự sửa đổi bổ sung năm 2014 như sau:
“1. Nhà nước khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án.
2. Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện
thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật này.
3.Trường hợp người phải thi hành án vì lý do bất khả kháng mà
không thể tự nguyện thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều 45 của
Luật này, thì có thể làm đơn xin kéo dài thời gian tự nguyện thi hành án
nhưng không quá 14 ngày.”
Hiện nay, quy định thời gian tự nguyện thi hành án là 10 ngày. Tuy
nhiên, theo tác giả đề tài, nếu người phải thi hành án tự nguyện thi hành án
thì thời gian 10 ngày là rất ngắn. Nếu thời gian quá gấp thì sẽ ảnh hưởng đến
quyền lợi của người phải thi hành án, ví dụ như phải bán gấp, bán rẻ tài sản
để thi hành án. Việc thi hành án dựa trên cơ sở tự nguyện của con người, nên
thiết nghĩ nên quy định thời gian tự nguyện thi hành án hợp lý hơn. Theo
Luật Thi hành án dân sự 2008 trước đây, thời gian tự nguyện thi hành án là
15 ngày, khi sửa đổi bổ sung năm 2014 chỉ còn 10 ngày, việc giảm bớt thời
gian như thế theo tác giả đề tài là chưa hợp lý. Trong khi ý thức pháp luật
của người dân Việt Nam ở nhiều nơi còn chưa cao, việc quy định thời gian
thi hành án quá gấp không chỉ gây khó khăn cho người phải thi hành án, mà
còn khiến họ dễ bị bức xúc, có những hành vi chống đối thi hành án.
86
Sửa đổi khoản 1 Điều 36 Luật thi hành án sửa đổi bổ sung năm 2014 về
việc ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu.
Hiện nay, pháp luật thi hành án quy định cụ thể về việc ra quyết định
thi hành án của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự. Trong đó có quy
định thời hạn ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu là 05 ngày làm
việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu thi hành án. Theo tác giả đề tài, 05 ngày
làm việc tương ứng với thời gian một tuần, thời gian quy định như trên là quá
dài không hợp lý. Dựa trên nguyên tắc thi hành án nhanh chóng nhằm đảm
bảo quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án, đồng thời tránh việc
người phải thi hành án có hành vi chống đối việc thi hành án thì nên rút ngắn
thời gian ra quyết định này lại. Cụ thể là tác giả xin đề xuất phương án sửa đổi
có tính chất tham khảo khoản 1 Điều 36 Luật thi hành án dân sự như sau:
"1. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án
khi có yêu cầu thi hành án, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
Thời hạn ra quyết định thi hành án dân sự theo đơn yêu cầu là 03 ngày
làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu thi hành án."
Việc thay đổi xuống còn 3 ngày, mặc dù sẽ tăng áp lực đối với Thủ
trưởng và cơ quan Thi hành án dân sự, tuy nhiên sẽ góp phần không nhỏ trong
việc tiết kiệm thời gian, đảm bảo việc thi hành án diễn ra càng sớm càng tốt.
Đặc biệt, trong trường hợp người được thi hành án nghi ngờ người phải thi
hành án bán tài sản nhà, đất trước khi có quyết định thi hành án nhưng không
có căn cứ chính xác để xác định người phải thi hành án tẩu tán tài sản hay
không. Công tác thi hành án trong tương lai cần phải được hoàn thiện theo
hướng nhanh chóng, chính xác, hiệu quả, thì mới giải quyết được số vụ việc
thi hành án đang ngày một gia tăng như hiện nay.
Cần hướng dẫn cụ thể chi tiết khoản 1 Điều 111 Luật Thi hành án dân
sự sửa đổi bổ sung năm 2014
87
Hiện nay, đối với biện pháp kê biên một phần quyền sử dụng đất có
diện tích đất nhỏ trong tổng diện tích đất của người phải thi hành án, Luật Thi
hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 quy định biện pháp cưỡng chế tài
sản là quyền sử dụng đất để thi hành nghĩa vụ trả tiền theo bản án, quyết định
của Tòa án. Nếu giá trị của quyền sử dụng đất tương ứng hoặc nhỏ hơn nghĩa
vụ thi hành án thì việc kê biên tương đối dễ dàng. Vấn đề đặt ra ở đây là nếu
quyền sử dụng đất có giá trị lớn hơn nghĩa vụ phải thi hành án thì người có
thẩm quyền thi hành án phải xử lý thế nào. Theo quy định, nếu quyền sử dụng
đất lớn hơn giá trị nghĩa vụ phải thi hành thì chấp hành viên vẫn tiến hành
cưỡng chế một phần diện tích đủ thực hiện nghĩa vụ và chi phí cưỡng chế. Tại
khoản 1 Điều 111 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì khi
cưỡng chế quyền sử dụng đất, chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành án,
người đang quản lý giấy tờ về quyền sử dụng đất phải nộp các giấy tờ đó cho
cơ quan Thi hành án dân sự. Sau khi có được giấy tờ về quyền sử dụng đất,
chấp hành viên đến Ủy ban nhân dân có thẩm quyền tiến hành tách thửa đất
để thi hành án tuy nhiên trên thực tế nhiều trường hợp cơ quan này từ chối với
lý do diện tích đất nhỏ, không đủ diện tích tối thiểu mà pháp luật đất đai yêu
cầu để cấp giấy tờ, do đó, việc thi hành án chỉ nằm trên giấy tờ mà không đem
lại hiệu quả trên thực tế. Bên cạnh đó, khi diện tích đất đủ để tách thửa, thì
vấn đề xác định vị trí của thửa đất bị kê biên sẽ xác định ra sao, nếu hai bên
không thống nhất được thì sẽ giải quyết như thế nào, hiện pháp luật chưa có
hướng dẫn cụ thể, dẫn đến việc kê biên trong thực tế bị kéo dài. Trong tương
lai, cần tiếp tục ban hành văn bản hướng dẫn nội dung này vì thực trạng nêu
trên đã xảy ra ở nhiều địa phương trên cả nước, nhất là khu vực thành thị là
nơi đất và nhà ở có giá trị cao, do đó khi chỉ phải kê biên một phần rất nhỏ
trong diện tích sử dụng đất chung thì khiến chấp hành viên gặp nhiều khó
khăn, thậm chí không giải quyết được.
88
Cần thống nhất các quy định pháp luật trong Luật Đất đai, Luật Thi hành
án dân sự đối với việc cưỡng chế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
Hiện nay, đối với biện pháp cưỡng chế quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở gặp nhiều khó khăn trong thực tế. Trong các biện pháp cưỡng chế
quy định tại Điều 71 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì
vấn đề thu hồi đăng ký quyền sở hữu, sử dụng tài sản của đối tượng phải thi
hành án sau khi cưỡng chế thi hành án rất khó khăn. Trong trường hợp tiến
hành cưỡng chế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, nhiều khi người phải
thi hành án đã có hành vi tự hủy hoại quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà
ở để không phải chuyển giao cho chấp hành viên, và gây khó khăn cho chấp
hành viên trong quá trình kê biên tài sản. Trong trường hợp này chấp hành
viên giải quyết các bước tiếp theo, đó là đối quyền sử dụng đất và quyền sở
hữu nhà ở không thể thu hồi được nhưng có thể cấp lại thì chấp hành viên yêu
cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ra quyết định hủy giấy chứng quyền sử
dụng, sở hữu để cấp giấy chứng nhân mới cho người được thi hành án theo
khoản 2 Điều 116 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014. Giải
pháp này đã khắc phục được tình trạng bất hợp tác của người phải thi hành án
nhưng lại gặp phải một khó khăn khác đó là yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền ra quyết định hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng, sở hữu và cấp giấy
chúng nhận quyền sử dụng mới chấp hành viên không được cơ quan có thẩm
quyền chấp nhận. Bởi vì chính quyền địa phương sẽ căn cứ khoản 2 Điều 106
Luật Đất đai năm 2013 và khoản 6 Điều 87 Nghị định số 43 2013 NĐ-CP quy
định chi tiết một số điều Luật Đất đai năm 2013: “Việc thu hồi giấy chứng
nhận đã cấp không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 106 của Luật
Đất đai chỉ được thực hiện khi có bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân
dân đã được thi hành”. Như vậy, chấp hành viên giải quyết theo đúng pháp
luật thi hành án dân sự nhưng lại mâu thuẫn với các văn bản pháp luật khác.
89
Do đó, quy định này chưa đảm bảo quyền lợi cho người được thi hành án trên
thực tế. Đối với giấy tờ không thể thu hồi và cũng không thể cấp lại được thì
Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự ra quyết định trả đơn yêu cầu thi hành
án và hướng dẫn đương sự khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết theo khoản 2
Điều 116 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014. Tuy nhiên,
theo quy định tại khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010;
khoản 1 Điều 3 Thông tư 04 2016 TT-NHNN và khoản 1 Điều 2 Thông tư
01/2012/TT-NHNN quy định: “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa
vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có
giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác".
Nên giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản như giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất; giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở không phải là giấy tờ có giá.
Do đó, người dân có khởi kiện Tòa án cũng không thụ lý giải quyết. Với quy
định của pháp luật như vậy, vụ việc cưỡng chế giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở nhiều khi gặp khó khăn, quyền và lợi ích của
người được thi hành án sẽ không được khôi phục. Do đó, theo tác giả đề tài
trong tương lai cần bổ sung và hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự, đất
đai theo hướng hỗ trợ nhau, tránh việc các quy định không thống nhất khiến
việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn bị ảnh hưởng.
Cần có sự thống nhất giữa các quy định pháp luật trong Luật Đất đai,
Luật Nhà ở, Bộ Luật dân sự, Luật Công chứng với Luật Thi hành án dân sự.
Việc xác định thời điểm có hiệu lực của xác lập quyền sở hữu là xác
định được thời điểm các bên tham gia hợp đồng chính thực bị ràng buộc bởi
các thỏa thuận của mình trong hợp đồng. Tuy nhiên, hiện nay theo quy định
của pháp luật thì việc xác định thời điểm có hiệu của hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất lại khác nhau ở mỗi văn bản luật khác nhau, điều
này đã và đang gây không ít khó khăn trong thực tế hiện nay khi chấp hành
90
viên thi hành các vụ việc liên quan đến quyền sử dụng đất và quyền sở hữu
nhà ở trong thi hành án dân sự hiện nay. Dễ dẫn đến phát sinh khiếu nại tố cáo
trong quá trình giải quyết thi hành án.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Luật Công chứng năm 2014 quy định:
“Văn bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng
dấu của tổ chức hành nghề công chứng”. Theo đó, ta hiểu rằng hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất sẽ có hiệu lực tại thời điểm được công
chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng. Tuy nhiên, tại
khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 lại có quy định: “Việc chuyển đổi,
chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, chế chấp quyền sử
dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký
đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính”. Mặt khác,
theo khoản 1 Điều 122 Luật Nhà ở năm 2014 quy định: Trường hợp mua bán,
tặng cho, đổi, góp vốn, thế chấp nhà ở, chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà
ở thương mại thì phải thực hiện công chứng, chứng thực hợp đồng. Hiệu lực
của hợp đồng là thời điểm công chứng, chứng thực hợp đồng.
Nhưng tại Điều 24 Nghị định 62 2015 NĐ-CP quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2015 quy định:
Kể từ thời điểm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, nếu người
phải thi hành án chuyển đổi, tặng cho, bán, chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố
tài sản cho người khác mà không sử dụng khoản tiền thu được để thi hành án
và không còn tài sản khác hoặc tài sản khác không đủ để đảm bảo nghĩa vụ thi
hành án thì tài sản đó vẫn bị kê biên, xử lý để thi hành án, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác. Khi kê biên tài sản, nếu có người khác tranh chấp
thì chấp hành viên thông báo cho đương sự, người có tranh chấp thực hiện
theo quy định tại Khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự. Trường hợp đã bị
91
áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp bảo
đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án mà tài sản bị chuyển đổi,
tặng cho, bán, chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố cho người khác thì tài sản đó
bị kê biên, xử lý để thi hành án; Chấp hành viên có văn bản yêu cầu Tòa án
tuyên bố giao dịch đối với tài sản đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm
quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch đối với tài sản đó.
Vì không có sự thống nhất giữa các văn bản luật với nhau nên trong
quá trình cưỡng chế quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở gặp nhiều khó
khăn. Trong nhiều trường hợp bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu
lực pháp luật nhưng đương sự làm hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở cho người khác có công chứng, chứng thực hợp đồng,
đồng nghĩa với việc hợp đồng đã có hiệu lực pháp luật. Nhưng khi chấp
hành viên tiến hành kê biên lại xác định đương sự tẩu tán tài sản nên yêu cầu
Tòa án tuyên bố giao dịch đối với tài sản đó là vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan
có thẩm quyền hủy giấy chứng nhận liên quan đến giao dịch đối với tài sản
đó. Quá trình đó làm kéo dài thời gian giải quyết án cũng như gây bức xúc
cho đương sự dẫn đến khiếu nại, tố cáo tới cơ quan Thi hành án làm ảnh
hưởng đến quá trình giải quyết án. Vì vậy, cần có sự thống nhất giữa các quy
định pháp luật trong Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Bộ Luật dân sự, Luật Công
chứng với Luật Thi hành án dân sự với nhau để tránh sự xung đột trong pháp
luật hiện hành.
Bổ sung trường hợp không được kê biên theo quy định tại khoản 2 Điều
95 Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014
Khoản 2 Điều 95 Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014
quy định:
Khi kê biên nhà ở phải kê biên cả quyền sử dụng đất gắn liền với nhà ở.
Trường hợp nhà ở gắn liền với đất thuộc quyền sử dụng của người khác thì
92
chấp hành viên chỉ kê biên nhà ở và quyền sử dụng đất để thi hành án nếu
người có quyền sử dụng đất đồng ý. Trường hợp người có quyền sử dụng đất
không đồng ý thì chỉ kê biên nhà ở của người phải thi hành án, nếu việc tách
rời nhà ở và đất không làm giảm đáng kể giá trị căn nhà.
Như vậy, trong trường hợp người có quyền sử dụng đất không đồng ý
thì không được kê biên. Tuy nhiên, đây không thuộc tài sản không được kê
biên theo quy định chung cơ quan Thi hành án dân sự đã tiến hành kê biên
quyền sử dụng đất để đảm bảo thi hành án nhưng sau đó không thể xử lý tiếp
được. Do đó, theo tác giả đề tài nên ban hành văn bản bổ sung trong đó đưa
những trường hợp này vào diện những tài sản không được kê biên thì sẽ tạo
thuận lợi hơn trong quá trình thi hành án. Như vậy, khi gặp các trường hợp
này chấp hành viên có thể chọn lựa các thức thi hành án khác có hiệu quả
khả thi hơn để tránh vụ việc thi hành án bị kéo dài, ảnh hưởng đến quyền lợi
của các bên liên quan.
Tăng cường kiểm tra giám sát hoạt động của chấp hành viên
Là người có thẩm quyền ra quyết định và tham gia trực tiếp vào quá
trình cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở nên ở nhiều
nơi, chấp hành viên đã có hành vi vi phạm thẩm quyền của mình, thực hiện
những hành vi trái với pháp luật để thu lợi cá nhân. Do đó, cần có một cơ chế
rà soát cụ thể và kiểm tra hiệu quả các hoạt động của chấp hành viên, đặc biệt
là trong những công tác có tính nhạy cảm cao như cưỡng chế quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở. Người dân có nhu cầu khiếu nại về các hành vi vi
phạm của chấp hành viên có thể gọi trực tiếp hoặc gửi thư phản ánh các vấn đề
liên quan đến cưỡng chế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở của chấp hành
viên. Từ đó tránh phát sinh các mâu thuẫn, khiếu nại làm ảnh hưởng đến kết
quả thi hành án và lòng tin của người dân vào pháp luật.
3.2.2. Nâng cao chất lượng đội ngũ chấp hành viên
93
Chấp hành viên là người trực tiếp ra quyết định cưỡng chế thi hành án
dân sự, cũng như nâng cao hiệu quả cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở. Do đó, nhằm nâng cao hiệu quả cưỡng chế tài sản là
quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở, trước hết cần nâng cao chất lượng
đội ngũ chấp hành viên.
Thứ nhất, tăng cường biên chế cho cơ quan Thi hành án dân sự; bổ
sung số lượng, chất lượng chấp hành viên, thư ký thi hành án dân sự và các
cán bộ công chức làm công tác thi hành án dân sự. Xây dựng định mức về số
lượng việc chấp hành viên phải làm hằng năm; xây dựng chế độ đãi ngộ phù
hợp để thu hút những người có năng lực, tâm huyết vào làm việc trong cơ
quan Thi hành án dân sự. Thực hiện cơ chế bổ nhiệm chấp hành viên một
cách thực chất, tránh chạy theo số lượng, quan tâm đến chất lượng để chọn ra
những người có đủ sức khoẻ, đủ đức, đủ tài thực sự để bổ nhiệm vào ngạch
chấp hành viên. Đồng thời, có cơ chế cụ thể bãi nhiệm, miễn nhiệm những
chấp hành viên không đủ tiêu chuẩn đáp ứng được vị trí làm việc của mình để
tuyển dụng những người khác, người có đủ tiêu chuẩn, bổ nhiệm thay thế cho
những người không đáp ứng yêu cầu của công việc. Tổng cục Thi hành án
dân sự cần thực hiện tốt chính sách thi tuyển công chức đầu vào, ưu đãi
những sinh viên ra trường có kết quả học tập cao, để lựa chọn người đầu vào
ngành có chất lượng đào tạo tốt, đồng đều là tiền đề lựa chọn đội ngũ công
chức làm công tác thi hành án dân sự có chất lượng sau này. Ngoài ra, để làm
tốt việc này cần phải tổ chức thi tuyển nghiêm túc, công khai minh bạch từ
khâu thông báo, nộp hồ sơ, tổ chức thi tuyển, chấm điểm, công bố kết quả. Có
như vậy mới tuyển được những người chất lượng vào ngành thi hành án dân
sự trên toàn quốc.
Thứ hai, thường xuyên quan tâm, kiện toàn, nâng cao năng lực cho
đội ngũ chấp hành viên: hàng năm có kế hoạch cho bồi dưỡng nghiệp vụ
94
cho đội ngũ chấp hành viên để đáp ứng công việc trong tình hình mới.
Hàng năm, đều phải tổ chức lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác thi hành án
dân sự, đặc biệt là kỹ năng tổ chức thi hành án cho các chấp hành viên, phổ
biến các quy định mới, những quy định của Luật Thi hành án dân sự và các
văn bản hướng dẫn thi hành còn nhiều cách hiểu khác nhau để có sự áp
dụng thống nhất trong toàn quốc.
Thường xuyên rà soát, cân đối nhu cầu của từng đơn vị thi hành án,
đánh giá khối lượng công việc ở từng đơn vị, từ đó thực hiện việc luân
chuyển, điều động chấp hành viên hỗ trợ cho các đơn vị có khối lượng công
việc nhiều nhằm sử dụng tối ưu nguồn nhân lực hiện có vào công tác thi hành
án dân sự. Bên cạnh đó, công tác quy hoạch luân chuyển và điều động cán bộ
cần có kế hoạch hằng năm và quy định thời hạn cụ thể, đối tượng cần luân
chuyển, điều động để thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách
chấp hành viên tạo điều kiện cho chấp hành viên phát triển toàn diện hơn trên
các mặt theo yêu cầu của ngành đề ra.
Thứ ba, thực hiện tốt chế độ đãi ngộ với chấp hành viên. Hiện nay, chế
độ đãi ngộ với chấp hành viên còn chưa thực sự hợp lý, tình trạng chấp hành
viên xin nghỉ hoặc chuyển công tác trong những năm gần đây có chiều hướng
tăng cao hơn. Đội ngũ chấp hành viên có xu hướng già hóa. Nhà nước có cơ
chế chính sách tăng lương cho đội ngũ công chức trong ngành thi hành án dân
sự, vì đây là một nghề luôn tiếp xúc với mặt trái của xã hội cho nên dễ dẫn
đến vi phạm, việc tăng lương nhằm đảm bảo cho họ có đủ điều kiện tự sống
bằng đồng lương được nhận thì họ sẽ toàn tâm công tác, toàn tâm, toàn lực
phục vụ tốt cho công tác thi hành án dân sự. Nhà nước nên có chính sách
khoán biên chế, khoán lương trao quyền chủ động cho các cơ quan Thi hành
án dân sự tự sử dụng biên chế, kinh phí nhằm nâng cao thu nhập cho đội ngũ
công chức, người lao động trong ngành thi hành án dân sự.
95
Mặt khác, nghề chấp hành viên là một nghề nguy hiểm, nhiều rủi ro
nếu trong một vụ việc mà chấp hành viên không làm cẩn thận, bị sai phạm có
hậu quả xảy ra thì chấp hành viên đó không có cơ hội sửa sai. Do đó, họ đối
mặt với hậu quả pháp lý như bị kỷ luật, thậm chí chịu trách nhiệm hình sự.
Điều này rất khác với thẩm phán, nếu họ có sai sót thì có cơ chế giải quyết
theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm bảo vệ họ. Chính vì lý do đó cần có
cơ chế bảo vệ chấp hành viên giống như cơ chế bảo vệ chức danh thẩm phán
để họ an tâm công tác phục vụ suốt đời cho ngành thi hành án dân sự. Đồng
thời, gắn với việc thường xuyên kiểm tra, giám sát việc làm của các chấp
hành viên này để kịp thời điều chỉnh chuyên môn của họ theo hướng tích cực.
Thứ tư, đẩy mạnh công tác tổ chức phát động, tổng kết phong trào thi
đua. Công tác thi đua, khen thưởng ngày càng trở thành một trong những
công cụ hỗ trợ đắc lực trong quản lý nhà nước; làm tốt công tác thi đua, khen
thưởng không những góp phần tạo ra động lực cho chấp hành viên mà qua
phong trào đó, những nhân tố tích cực được phát hiện và khen thưởng kịp thời
sẽ tác động không nhỏ động viên tinh thần trách nhiệm, lòng nhiệt tình, sự say
mê sáng tạo của chấp hành viên giúp hoàn thành nhiệm vụ công tác đạt chất
lượng cao. Có chương trình, có đăng ký thi đua, có nội dung thi đua và có
những tiêu chí thi đua cụ thể chính là để đảm bảo tính công bằng hợp lý trong
công tác thi đua, một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu của công tác
thi đua khen thưởng. Chính vì vậy, cần đẩy mạnh công tác thi đua khen
thưởng nhằm tạo động lực thúc đẩy các chấp hành viên trong các đơn vị hăng
say, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Ngoài phong trào thi đua thường xuyên theo kế
hoạch của Bộ Tư pháp và của Tổng cục Thi hành án dân sự phát động, Cục
Thi hành án dân sự các tỉnh cần đẩy mạnh hơn nữa các phong trào thi đua các
đợt cao điểm giảm án tồn đọng chào mừng các ngày lễ lớn trong năm, nhất là
các vụ việc khó khăn phức tạp tồn đọng trong thời gian dài có liên quan đến
96
tài sản có giá trị cao như quyền sở hữu đất và quyền sở hữu nhà ở.
Trong việc bình xét thi đua với phương châm khen phải đúng người,
đúng thành tích, theo chỉ đạo của lãnh đạo tới toàn thể cán bộ công chức trong
ngành thi hành án dân sự, bình xét thực tế không có sự cào bằng, khi bình xét
thi đua xét trên kết quả thực của mỗi cán bộ, chấp hành viên. Động viên, khen
thưởng, nêu gương kịp thời các đơn vị, các chấp hành viên có thành tích trong
công tác thi hành án dân sự; kịp thời phát hiện và đưa ra xử lý nghiêm đối với
những trường hợp có biểu hiện tiêu cực, nhũng nhiễu, vi phạm pháp luật và
đạo đức nghề nghiệp. Đồng thời, cần có một cơ chế kiểm tra, giám sát chặt
chẽ việc làm của chấp hành viên để kịp thời điều chỉnh chuyên môn của họ
theo hướng tích cực.
Thứ năm, nâng cao hiệu quả của công tác tiếp dân: khi tiếp xúc với
đương sự thì chấp hành viên sẽ hiểu được tâm tư nguyện vọng của đương sự,
giải quyết những vướng mắc của họ liên quan đến việc thi hành án hay vụ
việc cần cưỡng chế. Tạo niềm tin, tinh thần tự nguyện, thái độ tích cực trong
việc cưỡng chế thi hành án dân sự, đặc biệt là cưỡng chế những tài sản có giá
trị cao như quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở, tránh tình trạng đơn thư
khiếu nại tố cáo kéo dài gây ảnh hưởng đến hoạt động thi hành án dân sự
cũng như hoạt động cưỡng chế quyền sử dụng đất và quyền sở hũu nhà ở.
Trong quá tình tiếp dân, các chấp hành viên, cán bộ thi hành án cần có thái độ
hòa nhã, đúng mực, không hách dịch, chỉ dẫn cụ thể, nhiệt tình tạo tâm lý
thoải mái cho những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến các vụ việc
thi hành án dân sự. Đây là một trong những kinh nghiệm rất hiệu quả trong
công tác tuyên truyền pháp luật về thi hành án và cơ quan Thi hành án dân sự,
đến mỗi người dân của từng địa phương.
Ngoài ra, Nhà nước cần đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động thi hành
án dân sự của chấp hành viên như tăng cường kinh phí, cơ sở vật chất,
97
phương tiện hoạt động trong công tác thi hành án dân sự đặc biệt là trong việc
cưỡng chế tài sản nói chung và cưỡng chế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở. Khi đó chấp hành viên sẽ chú tâm và thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
3.2.3. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan hữu quan
Nâng cao công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và chính
quyền các cấp.
Để hoạt động thi hành án dân sự nói chung và cưỡng chế quyền sử dụng
đất và quyền sở hữu nhà ở nói riêng đạt hiệu quả cần có sự chỉ đạo thống nhất
của cấp ủy Đảng và UBND các cấp, các ban, ngành địa phương phải phối hợp
chặt chẽ với cơ quan Thi hành án dân sự giải quyết dứt điểm những vụ việc có
tính chất phức tạp, khó khăn, vướng mắc, đồng thời hạn chế thấp nhất những
vụ việc tái chiếm lại tài sản sau cưỡng chế, chuyển giao. Hàng năm, chủ tịch
UBND cấp tỉnh, huyện cần có văn bản chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể và
UBND các cấp phối hợp chặt chẽ với cơ quan Thi hành án dân sự.
Để tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với việc
nâng cao chất lượng công tác thi hành án dân sự và hoạt động cưỡng chế
quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở thì các địa phương cần theo tinh
thần Nghị quyết số 49-NQ TW ngày 02 6 2005 của Bộ Chính trị (khóa IX) về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng
bộ các cấp ủy Đảng từ Trung ương đến địa phương trong thời gian tới cần tập
trung nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp ủy cơ sở đối với công tác Thi
hành án dân sự nói chung và cưỡng chế thi hành án nói riêng. Trong đó, cần
định hướng và chỉ đạo đúng đắn về mục tiêu, phương hướng hoạt động trước
mắt và lâu dài của công tác thi hành án dân sự, giải quyết dứt điểm các bản án
tồn đọng, giữ vững kỷ cương xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
nhân dân góp phần xây dựng cấp ủy Đảng, chính quyền trong sạch, vững
mạnh.
98
Tăng cường sự hợp tác giữa cơ quan Thi hành án dân sự với Tòa án
nhân dân trong hoạt động cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền
sở hữu nhà ở.
Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự gặp nhiều khó
khăn, kéo dài một phần do nhiều bản án, quyết định của Tòa án các cấp tuyên
không rõ ràng, khó thi hành trên thực tế. Có trường hợp, chấp hành viên được
giao giải quyết vụ việc khi tiếp nhận phát hiện ra và phải làm văn bản đề nghị
Tòa án giải thích làm kéo dài việc thi hành án. Thậm chí, có trường hợp phức
tạp hơn khi tổ chức cưỡng chế mới phát sinh vướng mắc, không thi hành được
do Tòa án tuyên không rõ. Có không ít các bản án, quyết định của Tòa án
tuyên không rõ ràng, không có tính khả thi, chậm trễ trong việc giải thích các
bản án, quyết định tuyên không rõ ràng dẫn đến giảm hiệu quả của chấp hành
viên trong hoạt động thi hành án dân sự hoặc việc Tòa án không áp dụng các
biện pháp ngăn chặn để cho người phải thi hành án tẩu tán tài sản có giá trị
nhằm trốn tránh nghĩa vụ phải thi hành án. Có những trường hợp, cơ quan Thi
hành án dân sự đã cưỡng chế và đưa ra bán đấu giá thành thì nhận được quyết
định giám đốc thẩm với nội dung quyết định hoàn toàn ngược lại so với bản
án, quyết định đã có hiệu lực trước đó. Hậu quả là phải thi hành án trở lại, gây
bức xúc cho các đương sự, khiếu nại kéo dài. Vì vậy, cần tăng cường quyền
hạn cho Tòa án và yêu cầu Toà án phải có trách nhiệm tích cực trong việc thi
hành các bản án, quyết định của mình. Đặc biệt không để tồn tại quan niệm,
sau khi bản án, quyết định coi như Tòa án hết trách nhiệm, còn việc thi hành
các phán quyết là trách nhiệm của cơ quan Thi hành án dân sự. Đồng thời, khi
quyết định nghĩa vụ của đương sự, Tòa án phải nêu cụ thể, chi tiết, thi hành
được; đặc biệt phải làm rõ hậu quả pháp lý các nghĩa vụ này phát sinh như:
Giấy chứng nhận đăng ký quyền sở hữu nhà ở, giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất,......
99
Tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự với cơ quan
công an trong hoạt động cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở
hữu nhà ở
Để nâng cao hiệu quả thi hành án, cần bổ sung và quy định rõ hơn
nhiệm vụ, quyền hạn của cảnh sát hỗ trợ tư pháp trong thi hành án dân sự. Hỗ
trợ xác minh tài sản của người phải thi hành án theo yêu cầu của cơ quan Thi
hành án dân sự bắt giữ người phải thi hành án và những người khác có hành
vi cản trở, chống đối trong quá trình thi hành nhiệm vụ của chấp hành viên.
Đồng thời, phải có các biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với cảnh sát hỗ trợ tư
pháp nếu nguyên nhân cưỡng chế thi hành án thất bại do không có sự hỗ trợ
đúng mức và kịp thời của cảnh sát hỗ trợ tư pháp. Ngoài ra, theo tác giả cần
thành lập Cục cảnh sát hỗ trợ tư pháp thuộc Bộ Tư pháp có trách nhiệm chỉ
đạo, hướng dẫn nghiệp vụ, quản lý cơ sở vật chất, kỹ thuật, trang thiết bị,
công cụ hỗ trợ và tổ chức bộ máy cơ quan Cảnh sát hỗ trợ tư pháp địa phương
trong hoạt động hỗ trợ thi hành án dân sự.
Đồng thời, việc quy định ra thông báo nhằm tạo sự phối hợp giữa chấp
hành viên với các cơ quan có liên quan mà quan trọng nhất là lực lượng công
an địa phương còn chưa thực sự hiệu quả. Tổ chức lực lượng công an hỗ trợ
cho quá trình thi hành án ở nhiều nơi còn mỏng về lực lượng, và nặng tính
hình thức. Hiện nay đã có một văn bản hướng dẫn xây dựng tổ chức thi hành
án dân sự ở địa phương đó là Thông tư liên tịch 05/2016/TTLT-BTP-BCA-
BTC-TANDTC-VKSNDTC. Tuy nhiên, Thông tư này mới chỉ chú trọng vào
việc xây dựng lực lượng chỉ đạo công tác thi hành án dân sự, chứ chưa quy
định cụ thể về lực lượng trực tiếp làm công tác thi hành án dân sự nói
chung, và cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở nói
riêng ở địa phương. Do đó, cần phải có một văn bản pháp luật hướng dẫn
Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi bổ sung 2014 và Thông tư liên tịch
100
05/2016/TTLT-BTP-BCA-BTC-TANDTC-VKSNDTC nhằm quy định chặt
chẽ trách nhiệm của lực lượng công an, quân đội nhằm đảm bảo quá trình
cưỡng chế.
Tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự với Viện
Kiểm sát nhân dân
Viện Kiểm sát cần phải tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động thi
hành án dân sự qua đó phát hiện kịp thời các vi phạm để đưa ra hướng xử lý
tốt nhất. Viện Kiểm sát nhân dân phải có ý kiến với Toà án nhân dân để giải
quyết những vướng mắc, tranh chấp phát sinh trong thi hành án, giải quyết
hậu quả bất lợi đối với đương sự và cơ quan Thi hành án dân sự do việc
kháng nghị, hoặc đề nghị hoãn thi hành án trái pháp luật gây ra. Khởi tố hoặc
yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố về hình sự khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm
trong quá trình tổ chức thi hành án. Ngoài các cơ quan trên cần tăng cường
phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức khác như: UBND các cấp, Ngân hàng, các
tổ chức tín dụng, kho bạc nhà nước, bảo hiểm xã hội, cơ quan đăng ký tài sản,
quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của từng cơ quan tổ chức đó.
Tạo ra cơ chế phối hợp một cách linh hoạt nhất trong quá trình tổ chức cưỡng
chế tài sản nói chung và cưỡng chế quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở
nói riêng. Đồng thời, cần quy định các biện pháp xử lý, các chế tài áp dụng
đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng quy định trong phối hợp hỗ trợ với cơ quan Thi hành án dân sự. Qua đó
tạo cơ sở pháp lý cho việc xác định trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong việc xử lý các vướng mắc liên quan đến hoạt động thi hành án dân
sự, khắc phục những tồn tại trong hoạt động thi hành án hiện nay. Cần cụ thể
hóa các quy định của Luật về sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan và chính
quyền địa phương trong công tác thi hành án dân sự. Thực tế cho thấy, hiệu
quả của công tác thi hành án dân sự phụ thuộc nhiều vào sự phối hợp của các
101
cơ quan hữu quan và chính quyền cơ sở. Nhưng trong thực tiễn, không phải
lúc nào cũng nhận được sự phối hợp chặt chẽ trong hoạt động thi hành án như
việc tống đạt các quyết định, văn bản, việc xác minh điều kiện thi hành án,
cưỡng chế, định giá tài sản, việc xem xét trả lời những kiến nghị của cơ quan
Thi hành án dân sự.
Nâng cao hiệu quả việc xác minh loại đất, nhà ở được kê biên tại Văn
phòng nhà đất
Hiện nay, một trong những vấn đề khó khăn mà chấp hành viên gặp
phải trong việc xác định đối tượng kê biên quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở đó là việc xác định loại đất, nhà ở cần kê biên thuộc diện nào, thuộc
quyền sở hữu của các chủ thể nào. Việc đăng ký và ghi chép các nội dung về
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở Văn phòng đăng ký đất địa phương
gặp nhiều hạn chế do cán bộ Văn phòng đăng ký đất ghi chép sai các số liệu,
kích thước của mảnh đất, nhà ở, hoặc cán bộ Văn phòng đăng ký đất cố tình
ghi sai, ghi thiếu nhằm chiếm lợi ích, dẫn đến gây khó khăn cho chấp hành
viên. Do đó, tác giả xin đề xuất giải pháp phải xây dựng trung tâm quản lý dữ
liệu về đất đai trên toàn quốc và thông tin công khai trên mạng để các cơ
quan, tổ chức, cá nhân, trong đó có cơ quan Thi hành án dân sự khai thác và
sử dụng, tránh được tình trạng thiếu thông tin hoặc thông tin không chính xác,
tạo điều kiện cho việc một số cán bộ, công chức làm trong lĩnh vực quản lý
đất đai trục lợi cá nhân. Trung tâm quản lý dữ liệu nhà đất của cả nước, nhằm
giúp chấp hành viên có thể dễ dàng tiếp cận và tìm hiểu các thông tin cần thiết
phục vụ cho hoạt động thi hành án dân sự và cưỡng chế quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở. Bên cạnh đó, Nhà nước cần đầu tư cơ sở vật chất cho các
cơ quan có thẩm quyền làm kho lưu trữ tài liệu, hồ sơ liên quan đến việc cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đăng ký quyền sử dụng đất để phục vụ
cho việc tra cứu, nghiên cứu và cung cấp thông tin cho các cơ quan tư pháp
102
khi cần thiết. Đồng thời, cần xây dựng mối liên kết giữa chấp hành viên và cơ
quan nhà đất từng địa phương để hỗ trợ cho công tác xác minh về quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở diễn ra nhanh chóng, hiệu quả phục vụ cho
công tác cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, nhất là
trong các trường hợp cần cưỡng chế ngay thì việc xác minh nhanh chóng
thông tin càng trở nên cần thiết hơn.
Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Ban chỉ đạo THADS
các địa phương
Luật Thi hành án dân sự và nghị định hướng dẫn của Chính phủ quy
định rõ chức năng, nhiệm vụ, thành phần của Ban chỉ đạo thi hành án dân sự
ở địa phương nhằm tập trung chỉ đạo, tháo gỡ khó khăn cho cơ quan Thi hành
án dân sự và phối hợp tổ chức cưỡng chế những vụ án phức tạp. Tuy nhiên,
nhiều địa phương do thiếu sự quan tâm của Trưởng Ban chỉ đạo thi hành án
dân sự nên hoạt động của Ban không thường xuyên, mang tính hình thức. Do
đó, nhiều vụ việc phức tạp, đòi hỏi có sự vào cuộc tích cực của các ban,
ngành địa phương chưa được đôn đốc kịp thời, cơ quan Thi hành án dân sự
chưa tổ chức cưỡng chế theo đúng quy định, việc thi hành án kéo dài. Thậm
chí có nơi do sự thiếu quyết đoán của Ban chỉ đạo nên khi cơ quan Thi hành
án dân sự đưa ra họp bàn phối hợp cưỡng chế, các đơn vị khác đều kêu khó,
trì hoãn nhiều năm trời, gây thiệt hại cho đương sự và bức xúc dư luận. Vì
vậy, mỗi địa phương cần quan tâm duy trì hoạt động của Ban chỉ đạo thi hành
án dân sự đi vào thực chất, chỉ đạo quyết liệt thi hành các vụ án phức tạp, có
giá trị lớn, cưỡng chế với các vụ án đương sự chống đối, kéo dài nhiều năm
hoặc có liên quan đến cán bộ địa phương.
3.2.4. Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
Thi hành án dân sự là một công việc khó khăn, phức tạp, liên quan đến
nhiều lĩnh vực, ảnh hưởng đến quyền về tài sản, nhân thân của các bên đương
103
sự và những người liên quan. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, phổ biến
giáo dục ý thức pháp luật nói chung và Luật thi hành án dân sự nói riêng về
cơ sở sẽ chuyển biến căn bản nhận thức trong nhân dân. Vì vậy, trong những
thời gian tiếp theo cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật.
Công tác tuyên truyền, giáo dục được áp dụng đối với mọi vụ việc,
trong suốt quá trình tổ chức thi hành án cũng như quá trình tiến hành cưỡng
chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở. Để công tác thi hành
án đạt được kết quả cao, trong tuyên truyền giáo dục đòi hỏi người chấp hành
viên và cán bộ thi hành án phải hiểu rõ nội dung từng vụ việc, bản án tuyên,
cần có uy tín, tâm huyết, thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Đồng
thời, ngoài việc tuyên truyền trên phương tiện thông tin đại chúng, các chấp
hành viên cùng cán bộ của đơn vị phải đến tận nhà tìm hiểu bản thân người
phải thi hành án như: độ tuổi, giới tính, trình độ, nghề nghiệp, chức vụ, hoàn
cảnh gia đình...để có biện pháp tuyên truyền hiệu quả nhất. Khi tiếp xúc với
đương sự giải thích quyền lợi và nghĩa vụ của người phải thi hành án để họ so
sánh, đối chiếu, lựa chọn những phương pháp giải quyết tối ưu nhất trong việc
bị cưỡng chế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, làm giảm tổn thất
không đáng có cho công dân, tổ chức và Nhà nước.
Cơ quan Thi hành án dân sự ở địa phương cần phối hợp với Sở Tư
pháp, Đài phát thanh và truyền hình của địa phương xây dựng chương trình
tuyên truyền và phổ biến Luật thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn
thi hành phát trên đài truyền hình, truyền thanh của địa phương, tổ chức
tuyên truyền đến mọi người dân và các cơ quan tổ chức về nội dung của
luật thi hành án và các văn bản hướng dẫn thi hành trong đó tập trung vào
tuyên truyền các quy định về quyền, nghĩa vụ của người phải thi hành án,
người được thi hành án và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan,
trách nhiệm của các cơ quan trong việc phối hợp với cơ quan Thi hành án
104
dân sự, đặc biệt là nhiệm vụ của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các địa phương.
Đồng thời, đưa tin trực tiếp các buổi cưỡng chế quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở để nhân dân hiểu rõ quá trình tổ chức cưỡng chế có
những trình tự thủ tục một cách rõ nhất.
Các cơ quan Thi hành án dân sự cần phát huy sáng kiến và tính chủ
động sáng tạo các loại hình tuyên truyền sâu, rộng Luật Thi hành án dân sự
đến với người dân, góp phần nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp
luật của mỗi người dân, tạo nếp sống văn minh trong cộng đồng, hạn chế mọi
hành vi vi phạm pháp luật, cụ thể các biện pháp như: biên soạn tài liệu tuyên
truyền trên hệ thống đài truyền thanh xã, phường, thị trấn; lập danh sách các
đối tượng phải thi hành án gửi về địa phương để cấp ủy đảng, chính quyền tổ
dân phố nắm bắt kịp thời các đối tượng để vận động, thuyết phục người dân
tự giác chấp hành pháp luật; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật nói chung
cũng như pháp luật về thi hành án nói riêng; duy trì các tủ sách pháp tại các
địa phương; tiến hành in ấn các tờ rơi về quy định pháp luật thi hành án, các
trình tự thủ tục tiến hành cưỡng chế. Đồng thời, các chấp hành viên phụ trách
địa bàn phối hợp với Ủy ban nhân xã, phường, thị trấn chỉ đạo cán bộ, đoàn
thể xã, phường thị trấn tuyên truyền, vận động đến các đối tượng phải thi
hành án, các đối tượng phải tổ chức cưỡng chế tự nguyện thi hành án và chấp
hành, tránh chống đối, gây cản trở cho công tác thi hành án dân sự, cũng như
quá trình cưỡng chế quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở.
Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về thi hành án dân sự đóng
vai trò quan trọng trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng nói chung và
công tác thi hành án dân sự nói riêng - thúc đẩy nhanh hoạt động thi hành án,
tránh sự chống đối, không hợp tác từ các cơ quan liên quan, người phải thi
hành án và gia đình họ, tạo sự ủng hộ của chính quyền, các cơ quan và người
dân đối với hoạt động thi hành án dân sự. Để công tác này thực sự có hiệu quả
105
và giúp nhân dân, đặc biệt là người phải thi hành án và gia đình họ hiểu biết
pháp luật thi hành án dân sự từ đó hình thành ý thức tự nguyện thi hành án,
ủng hộ công tác thi hành án dân sự thì không chỉ đòi hỏi những chấp hành
viên thực sự kiên trì, bền bỉ và hết mình vì công việc mà còn đòi hỏi sự quan
tâm, giúp đỡ của chính quyền các cấp và các tổ chức khác tích cực phối hợp
trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thi hành án dân sự.
Ngoài việc tuyên truyền pháp luật tại địa phương còn cần đưa pháp luật
vào giảng dạy trong các trường học từ bậc tiểu học, trung học cơ sở, trung
học, sơ cấp, trung cấp, cao đẳng và đại học để khi ra trường các học sinh, sinh
viên biết cơ bản về pháp luật nói chung và pháp luật thi hành án dân sự nói
riêng, từ đó họ biết là một công dân thì phải làm gì và họ có những quyền và
nghĩa vụ gì để tự mình thực hiện quyền và nghĩa vụ cho đúng theo pháp luật.
Mở rộng các trung tâm trợ giúp pháp lý miễn phí ở những nơi vùng sâu, vùng
xa cho những đối tượng nghèo, có hoàn cảnh khó khăn ít được tiếp cận những
dịch vụ tư vấn pháp lý để họ có thể hiểu biết thêm về pháp luật, trên cơ sở đó
họ thực hiện pháp luật tốt hơn.
106
Kết luận chƣơng 3
Như vậy, thông qua một số vấn đề lý luận trong Chương 1 và các phân
tích, bình luận quy định pháp luật hiện hành trong Chương 2 của đề tài, tác
giả đã đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả cưỡng chế tài sản là quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở cũng như trình bày quan điểm về cưỡng chế
thi hành án dân sự trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là
quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở nhằm thi hành dứt điểm bản án,
quyết định của Tòa án, từ đó đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà
nước, cơ quan tổ chức, của các bên liên quan. Đồng thời, tiến hành biện
pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở một
cách phù hợp, đồng bộ với yêu cầu về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa.
Qua đó đưa ra một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hoạt động
cưỡng chế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở trong thi hành án dân sự
ở Việt Nam hiện nay và giai đoạn tiếp theo. Góp phần giải quyết vụ việc
tồn đọng trong thời gian dài, nâng cao trình độ năng lực của chấp hành viên
trong giai đoạn cải cách tư pháp. Tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan Thi
hành án dân sự với một số cơ quan liên quan trực tiếp đến quá trình giải
quyết việc thi hành án cũng như cưỡng chế là quyền sử dụng đất và quyền
sở hữu nhà ở. Có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm các phán quyết của
Tòa án được thực thi, tăng niềm tin tuyệt đối của nhân dân vào hệ thống
pháp luật hiện nay.
107
KẾT LUẬN CHUNG
Cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở không
phải là một vấn đề quá mới nhưng luôn có ý nghĩa đặc biệt trong hoạt động
thi hành án dân sự. Với vai trò là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất, sự
tồn tại của hoạt động cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở
hữu nhà ở là cần thiết đối với công tác thi hành án dân sự. Giải quyết được
những vụ việc phức tạp như hoạt động cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng
đất và quyền sở hữu nhà ở là cơ sở để cơ quan Thi hành án dân sự và cán bộ
thi hành án dân sự mà cụ thể là chấp hành viên thúc đẩy hoạt động thi hành
án dân sự. Thông qua đề tài luận văn Thạc sĩ: “Cưỡng chế tài sản là quyền
sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trong thi hành án dân sự ở Việt Nam”,
tác giả đề tài đã đề cập đến một khía cạnh ít được đề cập đến trong các đề tài
nghiên cứu của lĩnh vực thi hành án dân sự. Đó là hoạt động cưỡng chế tài
sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở, một hoạt động cưỡng chế
có tính nghiêm khắc và tiêu biểu trong cưỡng chế thi hành án dân sự. Bởi
tính chất nhạy cảm của nó, hoạt động cưỡng chế này thường dễ phát sinh
tranh chấp, khiếu nại mà trên thực tế đã xảy ra rất nhiều trong phạm vi cả
nước trong nhiều năm qua. Trong Chương 1 của đề tài, tác giả nêu bật
những nội dung quan trọng trong cơ sở lý luận của hoạt động cưỡng chế tài
sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở. Đây là cơ sở để thông qua
nghiên cứu thực trạng và thực tiễn thực hiện pháp luật ở Chương 2, từ đó
đánh giá những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của những hạn chế và
vướng mắc trong hoạt động cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền
sở hữu nhà ở. Từ đó đề ra phương hướng và nhóm giải pháp trong Chương
3, với mục đích tăng cường hiệu quả hoạt động cưỡng chế tài sản là quyền
sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở nói riêng, và hoạt động cưỡng chế thi
hành án dân sự nói chung. Giải quyết khó khăn vướng mắc trong công tác
108
cưỡng chế thi hành án dân sự, sẽ giúp giảm số vụ việc tồn đọng, đồng thời
hiện thực hóa bản án, quyết định của Tòa án và các văn bản có thẩm quyền.
Từ đó góp phần nhỏ trong việc giữ ổn định tình hình kinh tế - xã hội, giữ gìn
tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật, tạo thuận lợi và cơ sở ổn định
cho sự phát triển của đất nước trong những năm tiếp theo.
109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Bùi Thị Vân Anh (2016), Thủ tục thi hành án dân sự trong pháp luật
thi hành án dân sự Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa
Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
2. Nguyễn Công Bình, Nguyễn Triều Dương (2011), Giáo trình Luật thi
hành án dân sự, Nxb Công an nhân dân.
3. Bộ Tư pháp (2009), Quyết định 2235/QĐ-BTP về Ban hành Kế hoạch
triển khai thực hiện Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09 tháng 9 năm
2009 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân
sự, cơ quan thi hành dân sự và công chức làm công tác thi hành án dân
sự, Hà Nội.
4. Bộ Tư pháp (2009), Thi hành án dân sự và vấn đề xã hội hoá, Chuyên đề.
5. Bộ Tư pháp (2010), Thông tư 17/2010/TT-BTP về Quy định phân cấp
quản lý công chức, công chức lãnh đạo cơ quan quản lý thi hành án
dân sự và cơ quan thi hành án dân sự, Hà Nội.
6. Bộ Tư pháp, Bộ Công an (2012), Thông tư liên tịch 03/2012/TTLT-
BTP-BCA về Quy định cụ thể việc phối hợp bảo vệ cưỡng chế trong thi
hành án dân sự, Hà Nội.
7. Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao (2016), Thông tư liên tịch 05/2016/TTLT-
BTP-BCA-BTC-TANDTC-VKSNDTC về Quy định hoạt động của Ban
Chỉ đạo thi hành án dân sự, Hà Nội.
8. Chính phủ (2009), Nghị định 58/2009/NĐ-CP về Quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về thủ tục
thi hành án dân sự, Hà Nội.
110
9. Chính phủ (2013), Nghị định 125/2013/NĐ-CP về Sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 7 năm 2009
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự, Hà Nội.
10. Chính phủ (2015), Nghị định 62/2015/NĐ-CP về Quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự, Hà Nội.
11. Chính phủ (2017), Nghị định 01/2017/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một
số quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai, Hà Nội.
12. Nguyễn Văn Công (2012), Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Giang, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Khoa Luật – Đai học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
13. Cục thi hành án dân sự tỉnh Hà Nam (2017), Báo cáo công tác thi hành
án dân sự 9 tháng đầu năm 2017, Hà Nam.
14. Cục thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình (2017), Báo cáo công tác thi
hành án dân sự năm 2016, Ninh Bình.
15. Cục thi hành án dân sự tỉnh Vĩnh Phúc (2018), Báo cáo công tác thi
hành án dân sự năm 2017, Vĩnh Phúc.
16. Bùi Thị Thu Hiền (2014), Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự
theo pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đai
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
17. Học viện Tư pháp (2012), Giáo trình kỹ năng thi hành án dân sự, Nxb
Tư pháp, Hà Nội.
18. Học viện Tư pháp (2012), Sổ tay nghiệp vụ thi hành án dân sự.
19. Học viện Tư pháp (2014), Tài liệu bồi dưỡng ngạch Chấp hành viên
trung cấp, Hà Nội.
20. Phạm Văn Hùng (2014), Pháp luật thi hành án dân sự, thực trạng và
giải pháp, liên hệ thực tiễn ở tỉnh Hải Dương, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Khoa Luật - Đai học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
111
21. Nguyễn Văn Luyện (2010), Cơ chế kiểm tra và giám sát từ bên ngoài
đối với hoạt động thi hành án dân sự: Thực trạng và giải pháp, Đề tài
nghiên cứu.
22. Nguyễn Văn Luyện (2010), Kiện toàn mô hình tổ chức và đội ngũ cán
bộ thi hành án để thực hiện có hiệu quả Luật thi hành án dân sự năm
2008, Đề án.
23. Đinh Thị Mai Phương (2010), Khảo sát khoa học về quy trình, thủ tục
thi hành án các bản án có tài sản thi hành là bất động sản và các giải
pháp nhằm đảm bảo tính thống nhất cho các quy trình này, Đề án.
24. Trần Mạnh Quân (2013), Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở
Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đai học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
25. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Luật thi
hành án dân sự, Hà Nội.
26. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Nghị
quyết 24/2008/QH12 về việc thi hành Luật thi hành án dân sự, Hà Nội.
27. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật Đất
đai, Hà Nội.
28. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật thi
hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014, Hà Nội.
29. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật Tố
tụng dân sự, Hà Nội.
30. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật Tố
tụng hành chính, Hà Nội.
31. Đặng Đình Quyền (2012), Hiệu quả áp dụng pháp luật trong thi hành
án dân sự ở Việt nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị -
Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
112
32. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (2011), “Thi hành án dân sự”, (chuyên đề).
33. Tạp chí Dân chủ và pháp luật (2012), “Thực hiện luật thi hành án dân
sự”, (chuyên đề).
34. Tổng cục thi hành án dân sự (2015 - 2017), Báo cáo tổng kết công tác
thi hành án dân sự năm 2015, 2016, 2017.
35. Từ điển Việt - Anh 200, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh.
36. Lê Quang Tuấn (2016), Kê biên quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với
đất theo pháp luật thi hành án dân sự từ thực tiễn huyện Đan Phượng,
thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã
hội, Viện Hàn Lâm, Hà Nội.
37. Nguyễn Anh Tuấn (2015), Biện pháp cưỡng chế kê biên và xử lý tài sản
của người phải thi hành án dân sự, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa
Luật – Đai học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
38. Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam (2014), Từ điển chữ Nôm tập 1,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
39. Viện Ngôn ngữ học (1994), Từ điển tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
40. Viện Ngôn ngữ học (2012), Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển bách khoa,
Hà Nội.
II. Tài liệu trang Website
41. Báo pháp luật, http://baophapluat.vn/tu-phap/cuong-che-chuyen-giao-
quyen-su-dung-dat-trong-thi-hanh-an-dan-su-384147.html, truy cập
ngày 8/5/2018.
42. Cổng thông tin của Đại học Kiểm sát Hà Nội http: tks.edu.vn thong-
tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/16.
43. Cổng thông tin điện tử Tổng cục thi hành án dân sự,
http://thads.moj.gov.vn/Pages/home.aspx. Truy cập tháng 4 năm 2018.
113
44. Cổng thông tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang,
http://vksbacgiang.gov.vn/chuyendephapluat/59/7153, truy cập ngày
13/4/2018.
45. Hỏi đáp pháp luật, https://hoidapphapluat.biz/cuong-che-ke-bien-
quyen-su-dung-dat-trong-truong-hop-chua-duoc-cap-giay-chung-nhan-
quyen-su-dung-dat.html, truy cập ngày 22/2/2018.
46. Thư viện pháp luật, https://thuvienphapluat.vn/tnpl/2159/Cuong-
che?tab=0 tra cứu ngày 27 3 2018.
47. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, http://kiemsat.vn/nhung-vuong-mac-
trong-ap-dung-phap-luat-ve-thi-hanh-an-dan-su-49526.html, truy cập
ngày 30/5/2018.
114
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
Công tác thi hành án trên cả nước tính theo vụ việc giai đoạn 2015 - 2017
Đơn vị: việc
Năm
Tỷ lệ thi hành xong/Số có điều kiện
Tổng số phải thi hành
Tổng số có điều kiện thi hành
Tổng số thi hành xong
(đơn vị %)
89,08
791.441
599.436
533.895
2015
78,53
821.216
675.429
530.428
2016
79,25
869.429
693.263
549.415
2017
(Nguồn: Trung tâm thống kê, quản lý dữ liệu và ứng dụng công nghệ thông
tin Tổng cục thi hành án dân sự giai đoạn 2015 – 2017).
Phụ lục 2
Công tác thi hành án trên cả nước tính theo tiền giai đoạn 2015 - 2017
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Tỷ lệ thi hành xong/Số có điều kiện
Tổng số phải thi hành
Tổng số có điều kiện thi hành
Tổng số thi hành xong
(đơn vị %)
125.960
56.342
42.819
76
2015
133.619
86.254
29.088
33,74
2016
163.538
94.745
40.634
42.90
2017
(Nguồn: Trung tâm thống kê, quản lý dữ liệu và ứng dụng công nghệ thông
tin Tổng cục thi hành án dân sự giai đoạn 2015 – 2017).
115
Phụ lục 3
Số việc tiến hành cưỡng chế trong thi hành án dân sự ở Việt Nam giai
đoạn 2015 – 2017
Đơn vị: việc