Cửu Lý Hương chữa
sưng đau
Cây Cửu Lý Hương còn tên gọi là vân hương, hương
thảo, tên khoa học là Ruta graveolens L. Thuộc họ Cửu lý
hương hay họ Vân hương, nhưng thường được gọi là h
cam (Rutaceae). Tên dược thảo Herba Rutae. Cây có
nguồn gốc vùng Địa Trung Hải.
Cây mọc hoang dại và được trồng bằng cành giâm hoc hạt ở
một số vùng nước ta để làm thuốc. Còn thấy mọc ở nhiều
nước ôn đới như Pháp, Ý, Bắc Phi. Cây mang hoa tươi được
ghi chính thức dùng làm thuc trong Dược điển Pháp 1949.
Nhưng lại ghi thuốc độc bảng A do tính chất gây sảy thai.
Tác dụng sảy thai người ta cho là do tinh dầu có trong cây.
Là loại cây nhỏ, sống dai, nhiều cành, thân cao tới 0,80m. Lá
mọc so le màu lục nhạt, dài 12cm, xẻ hình lông chim 3 lần ở
gốc, xẻ ít hơn ở phía ngọn. Lá có những chấm trong suốt, vò
có mùi hắc. Cụm hoa hình ngù, nhiều hoa to, màu vàng lục,
lá dài 3 cạnh, 4 cánh hoa, 10 nhị. Quả gồm 4 – 5 quả dính
nhau ở gốc, mở ở đỉnh khi chín bao phấn tự động áp vào đầu
nhụy. Quả khô gồm 4 5 đai, đính ở phía gốc. Hạt màu nâu.
Mùa hoa: Tháng 5 – 8. Bộ phận dùng làm thuc là lá hoặc
toàn cây.
Toàn cây tiết ra mùi khó chịu, vị chát, đắng. Tác dụng gây
sảy thai của cửu lý hương đã được biết từ thời xa xưa. Nhân
dân châu Âu xưa kia thường dùng cửu lý hương để chữa
bệnh dại, lit nửa người, thuốc xổ giun. Hiện nay thấy ít ghi
trong các dược điển. Nhưng cửu hương vẫn được nhân dân
nhiều nước dùng làm thuốc điều kinh với liều 0,05 – 0,1g
mỗi ngày. Có thể gây rong huyết, viêm ruột. Người ta cho
thấy cht độc trong cửu lý hương là chất metylnonylxeton.
Năm 1965, tác dụng chống co thắt (spasmolytique) được xác
định.
Đông y cho rằng, Cửu lý hương có vị cay, hơi đắng, khí
lương, ôn (ấm) không độc. Vào 3 kinh tâm, phế, thận.
công năng hành khí, chỉ thống (giảm đau), hạ nhiệt, tiêu
viêm, hoạt huyết tán ứ, kinh nguyệt không đều, vô kinh.