BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT
VŨ XUÂN LỰC
ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC – KIẾN TẠO KHỐI CẤU TRÚC TẠ KHOA, Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG DỰ BÁO VÀ TÌM KIẾM KHOÁNG SẢN ĐỒNG – NIKEN - VÀNG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐỊA CHẤT
Hà Nội - 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT
VŨ XUÂN LỰC
ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC – KIẾN TẠO KHỐI CẤU TRÚC TẠ KHOA, Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG DỰ BÁO VÀ TÌM KIẾM KHOÁNG SẢN ĐỒNG – NIKEN - VÀNG
Ngành: Kỹ thuật Địa chất Mã số: 62.52.05.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐỊA CHẤT
NGƢỜI HƢỚNG D N KHOA HỌC:
1. PGS. TS Trần Thanh Hải
2. PGS.TS Lƣơng Quang Khang
Hà Nội – 2016
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Vũ Xuân Lực
ii
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các hình
Danh mục các ảnh
Danh mục các bảng
Danh mục chữ viết tắt
MỞ ĐẦU............................................................................................................1
Chƣơng 1: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT KHỐI CẤU TRÚC TẠ KHOA VÀ LỊCH
SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT KHU VỰC………...............................................7
1.1. Khái quát về vùng nghiên cứu..................................................................7
1. 2. Lịch sử nghiên cứu địa chất khu vực.................................................... 19
1.3. Đặc điểm địa chất khu vực........................................................................8
1.3.1. Đặc điểm chung.....................................................................................8
1.3.2. Địa tầng..................................................................................................8
1.3.3. Magma xâm nhập.................................................................................15
1.3.4. Khoáng sản.......................................................................................... 16
Chƣơng 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..... 22
2.1. Cơ sở lý luận.......................................................................................... 22
2.1. Cách tiếp cận...........................................................................................29
2.3. Các phương pháp nghiên cứu................................................................. 30
Chƣơng 3: ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC – KIẾN TẠO KHỐI CẤU TRÚC TẠ
KHOA......................................................................................................................34
3.1. Khái quát chung......................................................................................34
3.2. Các khối cấu trúc……………………………………………………….34
3.3. Các tổ hợp thạch kiến tạo……………………………………………....36
3.4. Đặc điểm các pha biến dạng.............................................................................38
3.5. Đặc điểm giao thoa biến dạng Khối cấu trúc Tạ Khoa.......................................51
iii
3.6. Sơ lược đặc điểm lịch sử nhiệt động khu vực……………………..…............56
3.7. Đặc điểm biến chất đi cùng biến dạng.................................................................57
3.8. Lịch sử phát triển địa chất khu vực.......................................................................62
Chƣơng 4: ĐẶC ĐIỂM QUẶNG HOÁ ĐỒNG - NIKEN, ĐỒNG - VÀNG
KHỐI CẤU TRÚC TẠ KHOA VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI CÁC CẤU TẠO ĐỊA
CHẤT........................................................................................................................................68
4.1. Đặc điểm quặng quặng hóa Khối cấu trúc Tạ Khoa …………...……...68
4.2. Mối quan hệ giữa khoáng hóa đồng - niken và đồng - vàng với các cấu
tạo địa chất..............................................................................................................................101
Chƣơng 5: TRIỂN VỌNG QUẶNG ĐỒNG - NIKEN VÀ ĐỒNG - VÀNG
KHỐI CẤU TRÚC TẠ KHOA TRÊN QUAN ĐIỂM CẤU TRÚC KIẾN
TẠO........................................................................................................................................120
5.1. Phân vùng triển vọng quặng đồng – niken và đồng – vàng khu vực Khối
cấu trúc Tạ Khoa…………………………………………..........................................120
5.2. Định hướng công tác tìm kiếm và thăm dò quặng đồng – niken và đồng
– vàng khu vực Khối cấu trúc Tạ Khoa..................................................................137
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...................................................................147
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO, CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC
GIẢ ………………………………………………………………………...…….149
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................151
iv
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình1.1 A: Vị trí Khối cấu trúc Tạ Khoa ở miền Bắc Việt Nam. B: Vị trí 7
Khối cấu trúc Tạ Khoa trong mối quan hệ với các yếu tố cấu trúc
lớn của Tây Bắc Bộ
Hình 1.2 Sơ đồ địa chất khoáng sản Khối cấu trúc Tạ Khoa 9
Hình 3.1 Sơ đồ cấu trúc – kiến tạo khối cấu trúc Tạ Khoa 35
Hình 3.2 Mô hình giao thoa biến dạng trong khối cấu trúc Tạ Khoa 53
Hình 3.3 Đặc điểm giao thoa biến dạng khu vực Sập Việt-Bản Nguồn trong 54
khối cấu trúc Tạ Khoa
Hình 3.4 Vị trí mặt cắt địa chất Tuyến II, III, IV, XI, 49800E, 50050E, 50100E, 50300E, 55
50550E, 51200E, trên bình đồ địa chất khu vực mỏ quặng niken Bản Phúc.
Hình 3.5 Đồ thị concorrdia thể hiện kết quả phân tích tuổi tuyệt đối U-Pb cho 58
các đá trong khu vục nghiên cứu.
Hình3.6. A. Kết quả tổng hợp thống kê tuổi cho các mẫu pegmatit 59
B. Thống kê tuổi của phần riềm các hạt zircon và tuổi của các hạt
monazit trong đá
Hình 3.7 Đồ thị điều kiện nhiệt áp tóm tắt mối quan hệ giữa biến dạng, biến 62
chất và tuổi tương đối của chúng tác động tới các đá trầm tích biến
chất thuộc phần nhân phức nếp lồi Tạ Khoa.
Hình 3.8 Mô hình trật tự các pha biến dạng theo thời gian khu vực Khối cấu 67
trúc Tạ Khoa
Hình 4.1 Mặt cắt địa chất Tuyến XI mỏ quặng niken Bản Phúc trong đó thể hiện 70
các thân quặng 1, 2 và 3.
Hình 4.2 Mặt cắt địa chất tuyến 49800E trong đó thể hiện các thân quặng I và 71
II.
Hình 4.3 Mặt cắt địa chất tuyến III trong đó thể hiện các thân quặng 1a, 1, 2, 3 và 75
4.
Hình 4.4 Mặt cắt tính trữ lượng tuyến 50050E trong đó thể hiện các thân quặng 77
I, II và III
v
Hình 4.5 Sơ đồ địa chất khoáng sản Điểm mỏ quặng Bản Xang. 82
Hình 4.6 Biểu đồ minh họa quá trình tạo quặng Mỏ Bản Phúc. A.Sự xâm 88
nhập của dung thể komatit – bazan về phía bề mặt với sự thành tạo
thể á núi lửa và sự tập trung của dung dịch sulfur gần phía đáy. B.
Sự thành tạo của các thân quặng dạng mạch ở Mỏ Bản Phúc, với
dung thể sulfur được cung cấp từ một thể trung gian.
Hình 4.7 Sơ đồ địa chất khoáng sản khu vực Biểu hiện khoáng sản Vàng Suối 90
Chát.
Hình 4.8 Sơ đồ địa chất khoáng sản khu vực Khoáng sàng quy mô nhỏ Đồng 96
(vàng) Suối On.
Hình 4.9 Sơ đồ địa chất khoáng sản khu vực Khoáng sàng quy mô nhỏ Đồng 99
(vàng) Bản Lẹt.
Hình 4.10 Sơ đồ địa chất khoáng sản khu vực Khoáng sàng quy mô nhỏ Đồng 102
Đá Đỏ
Hình 4.11 Sơ đồ địa chất khoáng sản khu vực Biểu hiện khoáng sản Đồng Suối 105
Bâu
Hình 4.12 Mặt cắt địa chất tuyến 5 trong đó thể hiện Thân quặng 1,2,3 và 4 116
Hình 4.13 Mặt cắt địa chất tuyến 50100E trong đó thể hiện Thân quặng I 121
Hình 4.14 Mặt cắt địa chất Tuyến 50300E-Suối Đán trên bình đồ địa chất khu 123
vực mỏ quặng niken Bản Khoa
Hình 4.15 Mặt cắt địa chất Tuyến 51600E-Suối Đán trên bình đồ địa chất khu vực 124
mỏ quặng niken Bản Khoa (theo Nguyễn Ngọc Hải, 2013) [14]).
Hình 4.16 Mặt cắt địa chất Tuyến 51200E-Suối Đán trên bình đồ địa chất khu vực 124
mỏ quặng niken Bản Khoa
Hình 5.1 Sơ đồ phân vùng triển vọng khóng sản Khối cấu trúc Tạ Khoa
vi
DANH MỤC CÁC ẢNH
Ảnh 3.1 Sự giao thoa cấu tạo do hậu quả chồng lấn của nhiều cấu tạo được hình 39
thành trong nhiều biến dạng khu vực, quan sát được gần cầu Tạ Khoa.
Ảnh 3.2 Đới milonit (My) trong pha biến dạng 1 đi cùng nếp uốn hẹp tới 41
đẳng tà U1 phát triển trong các đá trầm tích biến chất hệ tầng Nậm
Sập khu vực Mỏ Bản Phúc bị tái uốn nếp bởi một nếp uốn thế hệ
thứ 4 vòm mở phương đông - bắc tây nam
Ảnh 3.3 Đới milonit trong pha biến dạng 1có chứa các bao thể kiến tạo (B) được bao 41
quanh bởi các phiến milonit (My) tại khu vực phía nam khối Bản Phúc
Ảnh 3.4 Mạch thạch anh trong đới trượt pha biến dạng 1 bị ép dẹt, kéo dài 41
và đứt đoạn tạo thành các bao thể kiến tạo, xung quanh được bao
bởi các phiến milonit, tất cả lại bị uốn nếp bởi các nếp uốn hệp gần
nằm ngang pha biến dạng 2 tại khu vực phía nam khối Bản Phúc
Ảnh 3.5 Sự giao thoa giữa các nếp uốn thế hệ 1và các nếp uốn thế hệ 2 được 42
thể hiện trên mặt cắt lóc lò L.105. Trong đó So là phân lớp ban đầu
Ảnh 3.6 Các nếp uốn vỏ U3 đi cùng đới trượt chờm thuộc pha biến dạng 43
thứ 2, sau đó lại bị uốn nếp, đi bởi nếp uốn thế hệ 3 tại vết lộ
YC.3070. Vùng Chiềng On, Mai Sơn, Sơn La.
Ảnh 3.7 Giao thoa uốn nếp kiểu 3 giữa nếp uốn thế hệ 2 và thế hệ 3 tại vết 43
lộ YC.3070 vùng Chiềng On, Mai Sơn, Sơn La.
Ảnh 3.8 Một đới trượt (My) thuộc pha biến dạng thứ 2, trong đó có chứa 44
các bao thể kiến tạo với nhiều thành phần khác nhau và được bao
quanh bởi các phiến milonit
Ảnh 3.9 Một đới trượt (My) thuộc pha biến dạng thứ 2, trong đó có chứa các 44
bao thể thạch anh bị đới trượt pha biến dạng 3 làm biến dạng khá rõ.
Ảnh 3.10 Ảnh vi cấu tạo cho thấy một đới trượt dẻo bị mylonit hoá hoàn toàn 45
thuộc pha biến dạng 2 có các thể porphyroclast xoay rõ ràng với đuôi
chỉ rõ hướng dịch chuyển của đới trượt tại khu vực gần đèo Chẹn
Ảnh 3.11 Đá vôi hệ tầng Bản Cải (D3) phủ chờm lên các đá phun trào hệ tầng 45
vii
Viên Nam (P3-T1)bởi đứt gãy pha biến dạng 2 (F2) sau đó chúng bị
tái uốn nếp bởi các nếp uốn pha biến dạng 3 (U3) khu vực Suối Sập
Ảnh 3.12 Một đới trượt (My) thuộc pha biến dạng thứ 2 dọc theo ranh giới giữa 46
thân siêu mafic (Mf) và trầm tích lục nguyên biến chất vùng đông nam
khối Bản Phúc
Ảnh Các đới trượt thuộc pha biến dạng thứ 2 làm biến dạng các khối siêu 46
3.12a mafic Bản Phúc tại trung tâm khối Bản Phúc.
Ảnh 3.13 Ảnh lát mỏng cấu tạo phiến S1 cấu tạo bởi silimanit và biottit bị uốn nếp 47
bởi nếp uốn U2 và U3 trong đá phiến sillimanit. Một phần của biotit và
sillimant bị thay thế bởi muscovit do hậu quả của biến chất giật lùi.
Ảnh 3.14 Các bao thể kiến tạo được thành tạo trong pha biến dạng thứ 2, 48
trong đó các lớp đá cứng bị đứt và ép kéo dài được bao quanh bởi
phiến mylonit
Ảnh 3.15 Ảnh lát mỏng cấu tạo C/S thể hiện chiều dịch chuyển khá rõ trong 48
đới trượt pha biến dạng thứ 3 tại khu vực Cầu Suối Sập
Ảnh 3.16 Ảnh lát mỏng cấu tạo có các thể porphyroclast xoay rõ ràng với 49
đuôi chỉ rõ hướng dịch chuyển của đới trượt pha biến dạng 3 tại
khu vực Bản Pưn, Bắc Yên, Sơn La
Ảnh 3.17 Nếp uốn vòm mở pha biến dạng thứ 4 làm uốn nếp các đá trầm 50
tích biến chất vùng phía đông khối Bản Phúc
Ảnh 3.18 Giao thoa cấu tạo đường giữa đường trục nếp uốn thế hệ 2 và 4 50
Ảnh 3.19 Các vết xước, mặt trượt liên quan tới biến dạng dòn trong pha 51
biến dạng thứ 5 khu vực phía nam khối Bản Phúc
Ảnh 3.20 Đứt gãy thuận pha biến dạng thứ 5 cắt và làm dịch chuyển đới 51
biến dạng pha thứ nhất phía đông bắc khối Bản Phúc.
Ảnh 3.21 Ảnh chụp CL cho thấy hình thái của các hạt zircon và monazit 56
điển hình trong các mẫu định tuổi tuyệt đối ở vùng Tạ Khoa và
các vị trí định tuổi của chúng
Ảnh 3.22 Đá phiến sillimanite chứa các tập hợp fibrolit thế hệ thứ nhất có 60
viii
sự định hướng song song với phiến S1, sillimanit thứ 2 bao gồm
các tinh thể đơn lẻ dạng kim mọc chồng lên cấu tạo S1
Ảnh 3.23 Ảnh lát mỏng Staurolit mọc thay thế fibrolit trong đá phiến sillimanit. 60
Sự thay thế có thể đánh dấu sự bắt đầu của biến chất giật lùi
Ảnh 3.24 Ảnh lát mỏng cho thấy Sự thay thế hoàn toàn của sillimanit bởi 61
muscovit và sau đó sự mọc chồng của tourmaline trên nền
muscovit là sản phẩm của biến chất giật lùi liên tục pha iến dạng 3
Ảnh 4.1 Minh họa đặc điểm quặng đồng niken đặc sit tại khu vực Mỏ Bản 72
Phúc, Phù Yên, Sơn La, trong đó
Ảnh 4.2 Minh họa đặc điểm quặng đồng niken đặc sit tại khu vực Mỏ Bản 75
Khoa, Phù Yên, Sơn La
Ảnh 4.3 Minh họa đặc điểm quặng đồng niken xâm tán trong đáy và vách khối 78
siêu mafic Bản Phúc tại khu vực Mỏ Bản Phúc, Phù Yên, Sơn La
Ảnh 4.4 Minh họa đặc điểm quặng đồng vàng tại khu vực Mỏ Suối Trát, 91
Phù Yên, Sơn La
Ảnh 4.5 Minh họa đặc điểm quặng đồng vàng tại khu vực Mỏ Bản Lẹt, 100
Phù Yên, Sơn La
Ảnh 4.6 Minh họa đặc điểm quặng đồng vàng tại khu vực Mỏ Đá Đỏ, Phù 104
Yên, Sơn La
Ảnh 4.7 Một bao thể đá siêu mafic ven rìa có chứa quặng sulfur nằm trong 117
đới biến dạng cao thuộc pha 2 bị uốn nếp bởi pha biến dạng 3
Ảnh 4.8 Một phần thân quặng sulfur dạng đặc sít trong đới đá biến dạng 118
cao pha, biến dạng thứ 2 trong đá lục nguyên biến chất nằm cạnh
khối siêu mafic Bản Phúc
Ảnh 4.9 Thân quặng sulfur dạng đặc sít trong đới đá biến dạng cao trong 119
đá lục nguyên biến chất hệ tầng Bản Cải
Ảnh 4.10 A: Quặng sulfur dạng đặc sít trong đới đá biến dạng cao trong đá lục 120
nguyên biến chất hệ tầng Nậm Sập đi cùng với nếp uốn hẹp. Tất cả
chúng bị các nếp uốn Pha 3 hoặc 4 có mặt trục thẳng đứng làm tái uốn
ix
nếp B: Ảnh mài láng phần rìa quặng đặc sít, trong đó quặng đồng niken
phân bố cả trong mạch thạch anh và trong đá phiến bị biến dạng thuộc
pha biến dạng 2, sau đó chúng lại được tích tụ trong các mạch thạch
anh muộn hơn thuộc pha 3? có phương gần vuông góc với nhau.
Ảnh 4.11 Ảnh lát mỏng cho thấy mối quan hệ giữa các cấu tạo phiến và sự phân 121
bố quặng sulfur trong đới biến dạng thuộc pha 2 trong đó quặng có xu
hướng nằm song song cấu tạo phiến. Các cấu tạo phiến pha biến dạng
thứ 3 có chứa các dải quặng song song cùng phương phát triển chồng
lấn lên các thành tạo quặng và phiến pha biến dạng 2.
Ảnh 4.12 Ảnh lát mỏng các thành tạo quặng đồng - niken được thành tạo 122
trong pha biến dạng 2 được tái tập trung trong các thành tạo pha
biến dạng thứ 3?. Các thành tạo pha biến dạng 3 cắt và làm dịch
chuyển các phiến của pha biến dạng 2 khá rõ (mũi tên chỉ chiều
dịch chuyển) tại khu vực mỏ Bản Phúc
Ảnh 4.13 A: Một phần thân quặng sulfur chứa đồng (niken?) hình thành trong 125
đới biến dạng cao thuộc pha biến dạng thứ 3 vùng Suối Đán. B. Đới
trượt pha biến dạng thứ 3 có chứa quặng đồng (niken?) tại khu vực Bản
Phúc
Ảnh 4.14 Minh họa tại đới biến dạng chứa quặng thuộc pha biến dạng thứ 3 tại 127
khu vực mỏ Bản Lẹt, Phù Yên, Sơn La., trong đó: A. Đới đứt gãy
nghịch của pha biến dạng thứ 3 có chứa quặng đồng vàng khu vực mỏ
Bản Đá Đỏ Phù Yên, Sơn La. B. Ảnh lát mỏng đới trượt của pha biến
dạng thứ 3 cócấu tạo C/S và thể hiện chiều dịch chuyển khá rõ C. Ảnh
lát mỏng các thành tạo quặng đồng vàng được thành tạo trong pha biến
dạng 3 được tái tập trung trong các khe nứt thuộc pha biến dạng 5?
Ảnh 4.15 Minh họa tại đới biến dạng chứa quặng thuộc pha biến dạng thứ 3 127
tại khu vực mỏ Đá Đỏ, Phù Yên, Sơn La
x
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1 Tóm tắt đặc điểm biến dạng khu vực Khối cấu trúc Tạ Khoa 39
Bảng 4.1 Bảng thống kê chiều dày quặng và đá kẹp theo điểm công trình 73
cắt qua
Bảng 4.2 So sánh sự khác nhau đặc điểm thành phần khoáng vật giữa 84
quặng sulfur đặc sít và xâm tán
Bảng 4.3 So sánh sự khác nhau về hàm lượng các kim loại chính trong các 85
khoáng vật giữa quặng sulfur đặc sít và xâm tán.
Bảng 4.4 so sánh hàm lượng và tỷ số của các kim loại chính trong các 86
khoáng vật giữa quặng sulfur đặc sít và xâm tán
Bảng 4.5 Ma trận tương quan của các kim loại chính trong quặng sulfur đặc 86
sít
Bảng 4.6 Ma trận tương quan của các kim loại chính trong quặng sulfur 87
xâm tán
Bảng 4.7 Đặc điểm các biểu hiện khoáng sản, khoáng sàn khu vực Khối cấu 99
trúc Tạ Khoa
xi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ni: Niken
Cu: Đồng
Co: Coban
Pt: Platin
Cr: Crom
Ag: Bạc
Pb: Chì
Zn: Kẽm
As: Arsen
Sb: Antimon
Sn: Thiếc
Qđs: Quặng đặc sít
My: Mylonit
QT: Thân quặng
NCS: Nghiên cứu sinh
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khối cấu trúc Tạ Khoa nằm ở miền Tây bắc Bộ, có diện tích thuộc địa bàn các
huyện Bắc Yên, Yên Châu, Phù Yên và Mộc Châu tỉnh Sơn La. Khối cấu trúc này
thuộc một phần đới cấu trúc Sông Đà, miền cấu trúc Tây Bắc Bộ (Nguyễn Văn
Hoành và nnk, 2005). Các kết quả nghiên cứu cho thấy Khối cấu trúc Tạ Khoa có
đặc điểm địa chất rất phức tạp, với nhiều phân vị địa tầng, phức hệ magma xâm
nhập có tuổi và nguồn gốc khác nhau; bị biến dạng và biến chất mạnh mẽ dưới tác
động của nhiều chế độ vận động kiến tạo diễn ra trong nhiều thời kỳ địa chất khác
nhau.
Những bằng chứng thu thập được gần đây trên một phần của Khối cấu trúc Tạ
Khoa cho thấy cấu trúc khu vực hiện tại là hậu quả của mối quan hệ chồng lấn của
các loại cấu tạo được hình thành bởi nhiều pha biến dạng có môi trường, đặc điểm,
cường độ và thời gian biến dạng khác nhau.
Đi cùng các thành tạo địa chất này là các khoáng hóa niken, đồng, và vàng có ý
nghĩa kinh tế. Các khoáng sản này có quan mật thiết và được khống chế chặt chẽ bởi
các cấu tạo địa chất.
Do đặc điểm địa chất đặc biệt và triển vọng khoáng hóa khu vực mà vùng
này đã được nhiều nhà địa chất thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau tập trung nghiên
cứu từ thời Pháp thuộc đến nay.
Tuy vậy, do tính phức tạp của cấu trúc khu vực và mức độ nghiên cứu sơ
lược trước đây cũng như việc áp dụng các tư duy nghiên cứu địa chất khu vực còn
chưa theo kịp các lý luận và luận thuyết hiện đại nên các nghiên cứu chuyên sâu,
đặc biệt là về cấu trúc địa chất cũng như mối liên quan và vai trò của các yếu tố cấu
tạo với sự phát triển và phân bố quặng hóa nội sinh trên toàn đới cấu trúc hiện vẫn
chưa được tiến hành hoặc ở mức độ hết sức sơ lược.
Từ những tồn tại và các đòi hỏi mang tính cấp thiết nói trên tác giả lựa chọn
đề tài nghiên cứu "Đặc điểm cấu trúc-kiến tạo Khối cấu trúc Tạ Khoa, ý nghĩa của nó
2
trong dự báo và tìm kiếm khoáng sản đồng - niken -vàng" để xây dựng luận án tiến sĩ
của mình.
2. Mục tiêu của luận án
- Làm rõ đặc điểm biến dạng khu vực, xây dựng mô hình tiến hoá kiến tạo và
tái lập lịch sử phát triển kiến tạo khu vực nghiên cứu;
- Xác định mối quan hệ giũa khoáng hóa nội sinh với các cấu tạo địa chất,
đặc biệt là với đồng, niken và vàng, làm cơ sở để dự báo triển vọng và định hướng
tìm kiếm chúng.
3. Đối tƣợng nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các thành tạo và cấu tạo địa chất gồm
các thành tạo trầm tích biến chất và magma xâm nhập, các cấu tạo địa chất, các
khoáng hóa nội sinh niken - đồng - vàng có mặt trong vùng Khối cấu trúc Tạ Khoa.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Vùng nghiên cứu thuộc địa bàn các huyện Bắc Yên, Yên Châu, Phù Yên và Mộc
Châu tỉnh Sơn La, bao gồm chủ yếu là diện tích của Khối cấu trúc Tạ Khoa và một
phần Khối cấu trúc Mai Sơn (tương đồng đới cấu trúc Sông Đà theo phân chia của
Nguyễn Văn Hoành và nnk, 2005; hoặc các thành tạo Bồn sau cung theo Metcalfe I.,
2005) và một phần của Khối cấu trúc Tú Lệ (tương đồng đới cấu trúc Tú Lệ theo phân
chia của Nguyễn Văn Hoành và nnk, 2005) nơi tập trung chính các điểm quặng đồng –
niken và đồng – vàng trong khu vực.
5. Nhiệm vụ của luận án
- Nghiên cứu đặc điểm thành phần, quan hệ không gian, tuổi, đặc điểm biến
chất, của các thành tạo địa chất. Thu thập số liệu định luợng về các dạng cấu tạo,
phân chia các thế hệ cấu tạo trên cơ sở đặc điểm hình thái, môi trường thành tạo,
bản chất, mối quan hệ chồng lấn giữa các cấu tạo khác nhau.
- Xác định vị trí phân bố, đặc điểm quặng hoá, quy luật phân bố và mối quan
hệ không gian giữa khoáng hóa niken, đồng và vàng với các loại cấu tạo.
- Xây dựng mô hình tiến hoá kiến tạo và khôi phục lịch sử tiến hoá địa chất khu
vực.
3
- Phân vùng triển vọng và định hướng công tác tìm kiếm quặng hóa đồng –
niken, đồng – vàng trong khu vực nghiên cứu trên quan điểm cấu trúc kiến tạo.
6. Những điểm mới có ý nghĩa khoa học của luận án
- Kết quả đã phân lập được 5 pha biến dạng kiến tạo một cách chi tiết đã tác
động lên các đá của vùng Khối cấu trúc Tạ Khoa. Trong đó Pha 1 là biến dạng dẻo
hoàn toàn. Pha 2 diễn ra trong môi trường dẻo. Pha 3, 4 xảy ra trong môi trường từ
dẻo tới dòn-dẻo. Pha 5 là pha biến dạng dòn diễn ra muộn nhất.
- Đã xác định được hai pha biến chất liên quan tới quá trình biến dạng. Trong
đó, Pha biến chất 1 (M1) thuộc tướng amphibolit chúng đi cùng sự biến dạng của Pha
biến dạng 1 và 2. Pha biến chất 2 (M2) thuộc tướng phiến luc diễn ra vào cuối Pha
biến dạng thứ 3.
- Đã xác định được tuổi của Pha biến dạng 1 diễn ra từ giữa Carbon (khoảng
300Tr. năm) và kéo dài tới đầu Triat (khoảng 250Tr.năm). Pha biến dạng thứ 2 diễn
ra sau 250 Tr.năm (từ 230-240 Tr.năm). Pha biến dạng thứ 3 và các pha muộn hơn
diễn ra sau 230 Tr.năm.
- Đã làm rõ được các thành tạo quặng hoá đồng - niken liên quan tới 2 loại cấu
tạo là: kiểu quặng đồng - niken dạng xâm tán phân bố trong cấu tạo đáy và vách của
các khối xâm nhập siêu mafic và kiểu quặng sulfur đồng - niken đặc sít nằm trong
các đới trượt thuộc Pha biến dạng 2 và 3. Quặng đồng - vàng được khống chế chặt
chẽ bởi các đới trượt thuộc Pha biến dạng 3 và 4
- Đã phân chia khu vực ra được 4 diện tích rất triển vọng, 6 diện tích triển vọng
và 3 diện tích chưa rõ triển vọng và còn lại là các diện tích không triển vọng đối với
quặng đồng, niken và vàng.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
7.1. Ý nghĩa khoa học
- Luận án không chỉ góp phần vào việc luận giải và khôi phục lịch sử địa
chất khu vực mà còn có ý nghĩa quan trọng trong dự báo sinh khoáng nội sinh.
4
- Luận án đã góp phần quan trọng trong việc bổ sung số liệu địa chất mới và
luận giải lịch sử kiến tạo của khu vực Tây Bắc Bộ trên quan điểm kiến tạo mới nói
chung.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Từ đặc điểm và sự chồng lấn của các pha biến dạng có thể giúp ta hình dung
được cấu trúc chung của vùng và từ đó luận giải trong việc vẽ bản đồ địa chất.
- Từ các kết quả phân tích mẫu tuổi tuyệt đối, cho phép định tuổi lại một số các
thành tạo địa chất, từ đó bổ sung và xác lập các số liệu định lượng về địa chất của vùng.
- Luận án sẽ đem lại những hiểu biết mới về sự hình thành và phát triển của
các cấu trúc với sinh khoáng nội sinh, trong đó có niken, đồng và vàng trong khu
vực nghiên cứu phục vụ cho việc định hướng công tác tìm kiếm và dự báo khoáng
sản.
8. Các luận điểm bảo vệ của luận án
Luận điểm 1: Cấu trúc địa chất vùng Tạ Khoa được tạo thành bởi sự giao
thoa chồng lấn của 5 pha biến dạng kiến tạo. Trong đó Pha 1 là biến dạng dẻo
hoàn toàn, diễn ra từ khoảng 300 Tr đến khoảng 250 Tr.năm. Pha 2 là biến dạng
trong môi trường dẻo, diễn ra sau 250 Tr (từ 230-240 Tr.năm); Pha 3, 4 xảy ra trong
môi trường từ dẻo tới dòn - dẻo, diễn ra sau 230 Tr. năm. Pha 5 là pha biến dạng
dòn diễn ra muộn nhất.
Luận điểm 2: Quặng hóa đồng - niken, đồng - vàng trong khu vực Khối cấu
trúc Tạ Khoa liên quan mật thiết với các cấu tạo do biến dạng trong vùng. Trong đó,
các đới trượt thuộc các Pha biến dạng 2, 3 và 4 có vai trò khống chế sự di chuyển
dung dịch quặng, làm giầu hoặc tích tụ quặng hóa. Kiểu quặng đồng – niken nằm
dạng xâm tán phân bố trong cấu tạo đáy và vách của các khối xâm nhập siêu mafic,
kiểu quặng sulfur đồng - niken đặc sít bị khống chế bởi các đới trượt thuộc Pha biến
dạng 2 và 3; Kiểu quặng hóa đồng - vàng được khống chế chặt chẽ bởi các đới trượt
thuộc Pha biến dạng 3 và 4.
5
9. Kết cấu của luận án
Nội dung của luận án ngoài phần mở đầu và kết luận, gồm 5 chương:
Chương 1. Đặc điểm địa chất khối cấu trúc Tạ Khoa và lịch sử nghiên
cứu địa chất khu vực.
Chương 2. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Chương 3. Đặc điểm cấu trúc – kiến tạo khối cấu trúc Tạ Khoa
Chương 4. Đặc điểm quặng hóa đồng – niken, đồng – vàng Khối cấu
trúc Tạ Khoa và mối quan hệ với các cấu tạo địa chất.
Chương 5. Triển vọng quặng đồng – niken và đồng – vàng khối cấu
trúc Tạ Khoa trên quan điểm cấu trúc kiến tạo.
10. Cơ sở tài liệu của luận án
Luận án được hoàn thành trên cơ sở các nguồn tài liệu thu thập trong
công tác đo vẽ bản đồ địa chất khu vực ở các tỷ lệ khác nhau và các k ết quả
tìm kiếm thăm dò từ năm 1965 tới nay. Các tài liệu NCS đã thu thập bao
gồm: các tài liệu được thu thập từ các báo cáo đo vẽ bản đồ địa chất khu
vực tỷ lệ 1: 500 000, tỷ lệ 1: 200 000, tỷ lệ 1: 50 000. Các tài liệu tìm kiếm
đánh giá, thăm dò đồng – niken, các tài liệu tìm kiếm đánh giá đồng –
vàng. Các nghiên cứu chuyên đề về magma, kiến tạo, sinh khoáng. Các tài
liệu về mô hình về biến dạng, tạo quặng đồng – niken trong nước và trên
thế giới trên các tạp chí chuyên ngành, sách xuất bản, các luận văn, luận á n
của các tác giả khác nhau. Ngoài ra, trong quá trình thực địa, ngoài khảo
sát thu thập các tài liệu về địa tầng, magma, biến chất, kiến tạo và khoáng
hóa, NCS còn lấy, gia công và phân tích bổ sung: 6 mẫu tuổi tuyệt đối cho
các thành tạo trầm tích biến chất, đá mạch pegmatit. Các mẫu đã được gửi
tại Phòng thí nghiệm SHRIMP của Viện Khoa học Cơ bản Hàn Quốc
(KBSI), tại Chung Buk; 23 mẫu khoáng tướng, 9 mẫu mài láng, 37 mẫu lát
mỏng thạch học cấu tạo được thu thập, để nghiên cứu lịch sử phát triển
nhiệt động và đặc điểm thành phần khoáng vật, vi cấu tạo, đặc điểm quặng
6
hóa trong khu vực. Đây là số liệu rất tin cậy phục vụ việc luận giải các nội
dung của luận án..
11. Nơi thực hiện đề tài
Luận án được hoàn thành tại bộ môn Tìm kiếm - Thăm dò, khoa Địa chất,
Trường Đại học Mỏ - Địa chất dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Trần Thanh
Hải và PGS.TS Lương Quang Khang.
Trong quá trình hoàn thành luận án, NCS đã nhận được sự quan tâm, tạo điều
kiện của lãnh đạo Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Phòng Đào tạo Sau Đại học, Bộ
môn Tìm kiếm - Thăm dò và Bộ môn Địa chất thuộc Khoa Địa chất; Lãnh đạo Liên
đoàn Bản đồ Địa chất miền Bắc. Tác giả cũng nhận được sự động viên, giúp đỡ tận
tình của PGS.TS Đặng Xuân Phong, PGS.TS Nguyễn Phương, PGS.TS Nguyễn
Quang Luật, PGS. TS Nguyễn Văn Lâm, TS Nguyễn Tiến Dũng, TS Đào Thái Bắc,
TS Ngô Xuân Thành và nhiều nhà khoa học cùng các đồng nghiệp khác.
NCS xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy hướng dẫn, lãnh đạo các
cơ quan và cá nhân các nhà khoa học nêu trên.
7
Chƣơng 1 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT KHỐI CẤU TRÚC TẠ KHOA VÀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT KHU VỰC 1.1. Khái quát về vùng nghiên cứu
Vùng nghiên cứu thuộc địa bàn các huyện Bắc Yên, Yên Châu, Phù Yên và
Mộc Châu tỉnh Sơn La, bao gồm chủ yếu là diện tích của Khối cấu trúc Tạ Khoa và
một phần Khối cấu trúc Mai Sơn (tương đồng Đới cấu trúc Sông Đà theo phân chia của
Nguyễn Văn Hoành và nnk, 2005; hoặc Các thành tạo bồn sau cung theo Metcalfe I.,
2005) và một phần của Khối cấu trúc Tú Lệ (tương đồng đới cấu trúc Tú Lệ theo phân
chia của Nguyễn Văn Hoành và nnk, 2005) (Hình 1.1).
Vùng có toạ độ địa lý như sau:
210 09' 53'' đến 210 13' 10'' vĩ độ bắc
1040 17' 17'' đến 1040 22' 37'' kinh độ đông
B
A
Hình 1.1. A: Vị trí Khối cấu trúc Tạ Khoa ở miền Bắc Việt Nam. B: Vị trí Khối cấu trúc Tạ Khoa trong mối quan hệ với các yếu tố cấu trúc lớn của Tây Bắc Bộ: 1-Đới Sông Hồng; 2-Đới Hà Nội; 3-Đới Fan Si Pang; 4-Đới Tú Lệ; 5-Đới Sông Đà; 6-Đới Nậm Cô; 7- Đới Sông Mã; 8-Đới Sầm Nưa; 9-Đới Điện Biên; 10-Đới Pu Si Lung; 11-Đới Mường Tè. (theo Nguyễn Văn Hoành và nnk., 2005
8
1.2. Lịch sử nghiên cứu địa chất khu vực
Khu vực Tây Bắc nói chung và vùng nghiên cứu nói riêng đã được nhiều nhà
địa chất quan tâm nghiên cứu. Theo thời gian, có thể khái quát lịch sử nghiên cứu
địa chất của vùng qua hai giai đoạn lớn như sau.
1.2.1. Giai đoạn trƣớc năm 1954
Các công trình nghiên cứu của người Pháp gồm Deprat (1914); Fromaget
(1939, 1941) [27]; Jacob (1921), các tác giả đã gọi vùng nghiên cứu là "móng kết
tinh cổ", "cửa sổ Tạ Khoa", hay "lớp phủ địa di Sông Đà" liên quan tới các đới trượt
chờm trên đó các thể địa di dịch chuyển với các khoảng cách lớn từ vị trí nguyên
thủy của chúng.
1.2.2. Giai đoạn sau năm 1954
Giai đoạn này khu vực đã được nghiên cứu một cách có hệ thống và đồng bộ
hơn, trong đó đáng chú ý các công trình nghiên cứu sau:
1.2.2.1. Các công trình nghiên cứu địa chất khu vực
Trong Bản đồ địa chất miền Bắc Việt Nam tỷ lệ 1:500.000, Dovjikov và nnk
(1965) [3] đã xếp vùng nghiên cứu vào phụ đới cấu trúc Tạ Khoa, thuộc đới cấu
trúc Sông Đà trong đó các đá trầm tích biến chất ở đây được xếp vào các thành tạo
có tuổi Trias sớm-giữa hoặc Trias giữa. Về kiến tạo, các tác giả này cho rằng khu
vực phát triển khá nhiều các “cấu tạo dạng vảy” được tạo thành bởi các đứt gãy
nghịch, chờm nghịch. Tuy nhiên các cấu tạo này không được thể hiện trên các bản
đồ liên quan đến công trình này.
Trong Bản đồ địa chất tờ Vạn Yên tỷ lệ 1:200.000, Nguyễn Xuân Bao và nnk
(1969) [1] đã xem vùng nghiên cứu thuộc cấu trúc "Nếp lồi Tạ Khoa". Các thành
tạo trầm tích biến chất tạo nên phần nhân của cấu trúc được xếp vào các phân vị địa
tầng có tuổi Devon với 3 đới biến chất: sừng pyroxen ở phần nhân, sừng hornblend
vây quanh và ngoài rìa là đới sừng anbit-epidot. Công tác nghiên cứu kiến tạo ở đây
chưa được chú trọng và trên sơ đồ chỉ thể hiện một số đứt gãy và nếp uốn nhưng
không giải thích tính chất của chúng.
9
Bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản tỷ lệ 1: 50 000 nhóm tờ Vạn Yên do
Nguyễn Công Lượng và nnk thực hiện (1995) [19] và nhóm tờ Yên Châu do Lê
Thanh Hựu và nnk thực hiện (2008) [10] là công trình nghiên cứu chi tiết nhất về
địa chất khu vực cho đến nay. Trong công trình này, các phân vị địa tầng tầng được
phân chia khá chi tiết và chính xác hoá về tuổi trên cơ sở các hoá thạch và các quan
hệ mới được nhận dạng. Về kiến tạo, bước đầu đã ghi nhận được một số các yếu tố
cấu tạo liên quan tới các quá trình biến dạng khác nhau, mối quan hệ giao thoa
chồng lấn của các cấu tạo và đã phân chia được một số pha biến dạng. Tuy nhiên
các công trình này mới đề cập hết sức sơ lược về sự liên quan của các cấu tạo với
lịch sử biến dạng khu vực cũng như quan hệ giữa cấu tạo địa chất với các thành tạo
quặng hoá nội sinh.
1.2.2.2. Các công trình nghiên cứu chuyên đề
Ngoài các công trình nghiên cứu tổng hợp nói trên, nhiều công trình nghiên
cứu chuyên đề cũng đã được thực hiện trong phạm vi hoặc lân cận khu vực nghiên
cứu. Đáng kể nhất là các công trình của các tác giả sau: Trần Thanh Hải và nnk
(2005) [6], Vũ Xuân Lực và nnk (2009) [16], Vũ Xuân Lực và nnk (2010) [17], Vũ
Xuân Lực (2010) [15], Vũ Xuân Lực và nnk (2012) [18] bước đầu đã ghi nhận được
một số đặc điểm biến dạng, biến chất, các dấu hiệu liên quan của quặng đồng – niken với
các yếu cấu tạo trong vùng; Trần Trọng Hòa và nnk (1998) [9], Poliakov và nnk
(1996) [24] đã đưa ra được một số đặc điểm về thành phần và nguồn gốc của các đá
nagma xâm nhập siêu mafic - mafic và phun trào mafic có liên quan tới quặng đồng
– niken và đồng - vàng có trong vùng; Đinh Hữu Minh (2003) [20], Nguyễn Ngọc
Hải (2013) [4] đã chỉ ra được đặc điểm vè cấu trúc khu vực và quặng hóa đồng –
niken có trong vùng.
1.2.2.3. Công tác nghiên cứu khoáng sản
Trên diện tích khu vực nghiên cứu, công tác nghiên cứu, điều tra khoáng sản đã
được tiến hành khá sớm đối với các loại hình khoáng sản, trong đó trọng tâm hơn là
khoáng sản đồng, niken và vàng và được thể hiện trong các công trình của Đoàn
Nhật Tộng, Lưu Chính Công (1965) [23], Đặng Công Thành (1988) [22], Đinh Hữu
10
Minh (2006) [21]; Nguyễn Đắc Lư và nnk (2003) [14], Dương Hữu Luật (2001)
[13], Trịnh Xuân Cam (1994) [2]. Quá trình nghiên cứu và thăm dò đã phần nào xác
vị trí phân bố không gian của các thân quặng và đã nghiên cứu được khá chi tiết đặc
điểm thành phần vật chất quặng hoá đồng-niken có trong khu vực. Tuy nhiên việc
nghiên cứu mối liên quan của quặng hoá với cấu trúc trong khu vực cũng đã được
đề cập nhưng với mức độ còn sơ lược, bởi vậy việc hiện quy luật phân bố của chúng
chỉ mang tính nội suy đơn giản chưa có cơ sở khoa học cho nên công tác thăm dò
chưa thực sự đạt hiệu quả cao.
Các tồn tại: Một số công trình công tác nghiên cứu kiến tạo chưa được chú
trọng. Một số công trình công tác nghiên cứu kiến tạo tuy đã có tiến hành nhưng
mới ở mức độ sơ lược. Về mối liên quan của quặng hoá với cấu trúc trong khu vực
cũng đã được đề cập nhưng với mức độ còn sơ lược, bởi vậy việc hiện quy luật
phân bố của chúng chỉ mang tính nội suy đơn giản chưa có cơ sở khoa học cho nên
công tác thăm dò chưa thực sự đạt hiệu quả cao.
1.3. Đặc điểm địa chất khu vực
1.3.1. Đặc điểm chung
Khu vực Trung tâm Khối cấu trúc Tạ Khoa được đặc trưng chủ yếu bởi các thành tạo
trầm tích biến chất ở các mức độ khác nhau, từ tướng phiến lục đến amphibolit tuổi Devon
sớm, bị phủ bởi các thành tạo trầm tích lục nguyên-carbonat-silic biến chất yếu tuổi Devon
giữa - Carbon sớm và các đá phun trào và nguồn phun trào tuổi Permi muộn-Trias sớm và
đôi chỗ bị xuyên cắt bởi các thành tạo xâm nhập có thành phần từ siêu mafic đến axit. Các
vùng lân cận phía nam, tây nam gồm các thành tạo lục nguyên, lục nguyên silic, lục nguyên
carbonat và carbonat tuổi từ Permi tới Triat muộn bị phủ bên trên bởi các thành tạo lục
nguyên hạt thô mầu đỏ tuổi Kreta và lục nguyên chứa dầu tuổi Neogen. Các vùng lân cận
phía bắc gồm chủ yếu các thành tạo lục nguyên phun trào và phun trào có thành phần từ
bazơ tới á kiềm có tuổi từ Jura muộn tới Kreta muộn và đôi chỗ bị xuyên cắt bởi các thành
tạo xâm nhập bazơ có tuổi Kreta muộn. Các tài liệu nghiên cứu gần đây xếp chúng vào các
phân vị địa chất sau (Hình 1.2):
11
1.3.2. Địa tầng
*Hệ tầng Nậm Sập (D1-2ns)
Hệ tầng Nậm Sập do Dovjikov (1965) [3] xác lập ở vùng Tạ Khoa. Trong
khu vực nghiên cứu, hệ tầng lộ ra ở trung tâm và tạo thành nhân của Nếp lồi Tạ
Khoa (Hình 1.2), bao gồm các thành tạo lục nguyên carbonate bị biến chất tới tướng
amphibolit. Hệ tầng này gồm 3 tập từ dưới lên trên như sau:
Tập 1 gồm đá phiến thạch anh hai mica chứa silimanit, phiến thạch anh -
felspat – biotit-silimanit +/- cordierit xen ít quarzit.
Tập 2 gồm đá phiến thạch anh mica, calcit chứa mica, và đá hoa mầu xám, xám đen.
Tập 3 gồm đá phiến thạch anh felspat diopsid, xen các lớp đá phiến chứa
epidot và calcit, actinolit, hoặc đá phiến thạch anh mica.
Hệ tầng có quan hệ cuyển tiếp với hệ tầng Bản Cải nằm trên, quan hệ dưới
chưa rõ. Tuổi của hệ tầng được xếp vào Devon sớm-giữa trên cơ sở hóa thạch Tay
cuộn: Modiolopsis sp.,(cf. M. yunnanensis); Limoptera sp., (cf. yunnanensis) và Bọ
ba thùy: Proetus sp.,
*Hệ tầng Bản Cải (D3bc)
Hệ tầng do Nguyễn Xuân Bao (1969) [1] xác lập. Trong khu vực nghiên cứu,
hệ tầng lộ ra ở các cánh của nếp lồi Tạ Khoa, và phủ chỉnh hợp lên Hệ tầng Nậm Sập
(Hình 1.2). Thành phần chủ yếu của hệ tầng gồm các đá trầm tích lục nguyên, lục
nguyên carbonat và carbonat bị biến chất yếu, được chia thành 2 tập sau:
Tập 1 gồm cát bột kết, sét bột kết, đá phiến sét màu xám, xám sẫm ở phần
dưới, đôi nơi chứa di tích Vỏ nón. Phần trên gồm đá phiến giàu silic màu xám đen
xen sét bột kết và lớp mỏng mangan.
Tập 2 gồm đá vôi, đá vôi sét phân lớp mỏng đến trung bình xen lớp mỏng đá
phiến silic màu xám, xám đen.
Hệ tầng có quan hệ chuyển tiếp với hệ tầng Nập Sập nằm dưới và hệ tầng Đa
Niêng nằm trên. Tuổi của hệ tầng được xếp vào Devon muộn trên cơ sở hoá thạch
Vỏ nón: Dacryoconouda s.
12
Hình 1.2 Sơ đồ địa chất
13
*Hệ tầng Đa Niêng (C1đn)
Hệ tầng do Nguyễn Xuân Bao (1969) [1] xác lập. Trong khu vực nghiên cứu,
hệ tầng lộ ra ở rìa phía tây và đông bắc của vùng nghiên cứu (Hình 1.2), bao gồm
chủ yếu là đá vôi vi hạt tới hạt nhỏ màu xám đen phân lớp trung bình đến dày phủ
bất chỉnh hợp trên Hệ tầng Bản Cải. Phần trên là đá vôi dạng khối xen ít đá vôi sét,
đá vôi silic phân lớp mỏng màu xám.
Hệ tầng có quan hệ chuyển tiếp với hệ tầng Bản Cải nằm dưới, bên trên bị hệ
tầng Viên Nam phủ không chỉnh hợp lên. Tuổi của hệ tầng được xếp vào Carbon
sớm trên cơ sở hóa thạch Trùng lỗ Vicinesphaera ex. gr. angulata Antrop;
Tetrataxis cf. torosus Post., Brunsia sigmoides Raus., Septalomos Septalomospiranella
compressa Li, Endothyra sp., Septatourneyella cf. segmentata Dain.
*Hệ tầng Yên Duyệt (P3yd)
"Điệp" Yên Duyệt do Phan Cự Tiến xác lập năm 1977 [26] tại mỏ than cùng
tên. Trong khu vực nghiên cứu, hệ tầng lộ thành một dải hẹp nằm kẹp giữa hai đứt
gãy phương á kinh tuyến phân bố ở khu vực Cò Nòi phía tây nam vùng nghiên cứu
(Hình 1.2). Thành phần gồm chủ yếu là đá phiến sét, đá phiến sét silic, đá silic xen
ít đá vôi chứa hoá thạch tuổi P3 được xếp vào hệ tầng Yên Duyệt.
Hệ tầng có quan hệ kiến tạo với các hệ tầng trẻ hơn xung quanh. Tuổi của hệ
tầng được xếp vào Permi muộn trên cơ sở hoá thạch Bọ ba thuỳ và Tay cuộn.
*Hệ tầng Viên Nam (T1vn)
Hệ tầng do Phan Cự Tiến xác lập năm 1977 [26]. Hệ tầng gồm các thành tạo
phun trào và trầm tích phun trào phân bố bao quanh phần trung tâm nếp lồi Tạ Khoa
(Hình 1.2), được phân thành các tướng sau:
Tướng phun trào thực sự gồm bazan, bazan hạnh nhân, andesitobazan. Trong
thành phần cùa bazan có hàm lượng khá cao của magne [24].
Tướng phun nổ: gồm tuf bazan màu xám xanh;
Tướng á núi lửa gồm trachydacit porphyr, ryodacit.
Hệ tầng phủ bất chỉnh hợp lên các đá cổ hơn trong khu vực nghiên cứu. Tuổi
của hệ tầng được xếp vào Triat sớm trên cơ sở kết quả phân tích tuổi tuyệt đối của
14
Vũ Xuân Lực và nnk, 2014 [18] và của Trần Trọng Hoà và nnk., 1998, 2004 [9] cho
250 triệu năm.
*Hệ tầng Cò Nòi (T1cn)
Hệ tầng Cò Nòi do Dovjikov và Bùi Phú Mỹ (1965) [3] xác lập năm. Trong
khu vực nghiên cứu, hệ tầng lộ ra tại Cò Nòi, Bô Cop, Nậm Sập ở phía tây nam vùng
nghiên cứu, tạo thành các dải hẹp kéo dài theo phương TB-ĐN (Hình 1.2). Thành
phần gồm:
Tập 1 cát kết tuf hạt nhỏ-vừa xen sét kết màu nâu tím, tím nhạt và sét bột kết
màu vàng nhạt. Dày 120m.
Tập 2 đá vôi sét, đá vôi lẫn sét màu tím nhạt, xám nhạt xen các lớp mỏng sét
kết, sét bột kết màu xám vàng, tím nhạt và thấu kính đá vôi, đá vôi vi hạt, đá vôi
vón cục màu xám nhạt, đá vôi sét màu tím đỏ phân lớp 1-2cm. Dày 390m.
Hệ tầng có quan hệ kiến tạo với hệ tầng Yên Duyệt nằm dưới và bị các thành
tạo hệ tầng Đồng Giao phủ chỉnh hợp bên trên. Tuổi của hệ tầng dược xếp vào Trias
sớm trên cơ sở tập hợp hoá thạch Chân rìu [10].
*Hệ tầng Đồng Giao (T2ađg).
Hệ tầng Đồng Giao do Jamoida và Phạm Văn Quang xác lập năm 1965 [26].
Trong khu vực nghiên cứu, hệ tầng lộ ra ở khu vực Hát Lót, Chiềng Ban phía tây
nam vùng (Hình 1.2). Thành phần gồm:
Tập 1: đá vôi màu xám đen, xám sáng xen ít đá vôi vi hạt bị nhiễm sét, đá vôi
chứa sét và đá vôi sét, phân lớp mỏng đến trung bình, đá vôi vi hạt màu xám đen,
xám sáng, phân lớp mỏng đến trung bình. Dày 610m.
Tập 2 đá vôi vi hạt màu xám, xám sáng, phân lớp dày đến dạng khối,
dolomit, đá vôi dolomit màu xám trắng, xám tro, xám phớt tím, phân lớp dày đến
dạng khối. Dày 590m.
Hệ tầng có quan hệ chuyển tiếp trên hệ tầng Cò Nòi nằm dưới, bên trên có
quan hệ kiến tạo với hệ tầng Nậm Thẳm. Tuổi của hệ tầng được xếp vào Triat giữa
trên cơ sở các hoá thạch Chân rìu và Cúc đá [10].
15
*Hệ tầng Nậm Thẳm (T2lnt)
Hệ tầng Nậm Thẳm được Nguyễn Xuân Bao và nnk (1969) [1]. Trong khu
vực nghiên cứu, hệ tầng lộ ra ở phía tây nam và đông vùng tạo thành các dải hẹp
kéo dài theo phương TB-ĐN (Hình 1.2). Thành phần gồm: chủ yếu sét kết xen ít sét
silic, cát kết hạt nhỏ-vừa, cát kết hạt không đều phân lớp mỏng màu xám, xám vàng
nhạt, sét kết xen ít sét bột kết, đá vôi vi hạt, đá vôi sét phân lớp mỏng đến trung
bình màu xám, xám vàng nhạt. Dày 420m.
Hệ tầng có quan hệ kiến tạo với các thành tạo xung quanh. Tuổi của hệ tầng
được xếp vào Triat giữa trên cơ sở hoá thạch Chân rìu và Cúc đá.
*Hệ tầng Nậm Mu (T3cnm)
Hệ tầng do Dovjikov và Bùi Phú Mỹ (1965) [3] xác lập. Trong khu vực
nghiên cứu, hệ tầng lộ một diện hẹp phía nam của bản Tắt Héo, có đặc điểm mặt cắt
chỉ tương ứng với phần cao so với mặt cắt Nậm Mu chuẩn. Thành phần gồm chủ yếu
là bột kết, cát kết, sét kết và lớp mỏng, đá vôi sét màu xám đen, cát kết, đá vôi vi hạt,
trong sét kết, bột kết, có chứa hoá thạch Chân rìu. Dày >160m.
Hệ tầng có quan hệ dưới không rõ, bên trên bị các thành tạo hệ tầng Pacma phủ
chỉnh hợp lên. Tuổi của hệ tầng được xếp vào Trias muộn trên cơ sở hoá thạch Chân rìu
[10].
*Hệ tầng Pác Ma (T3cpm)
Đá vôi Pác Ma được Mansuy phát hiện năm 1912 [26] ở cửa sông Nậm Ma,
bờ trái Sông Đà, gần bản Pác Ma, Quỳnh Nhai, Sơn La. Trong khu vực nghiên cứu,
hệ tầng lộ ra từ Tắt Héo kéo dài qua Mường Thường về phía đông nam đến Chi
Đẩy. Thành phần gồm đá vôi màu hồng, màu trắng, màu xám có chứa hoá thạch
Tay cuộn, đá vôi chứa cát bột, ít lớp đá sét bột kết vôi.
Hệ tầng có quan hệ chuyển tiếp trên hệ tầng Nậm Mu, quan hệ trên không rõ.
Tuổi của hệ tầng được xếp vào Trias muộn trên cơ sở hoá thạch Chân rìu, Tay cuộn
và Cúc đá [10]
16
*Hệ tầng Suối Bàng (T3n-rsb)
Hệ tầng do Dovjikov (1965) [3] xác lập. Trong khu vực nghiên cứu, hệ tầng lộ ra với
diện tích hẹp có phương tây bắc - đông nam tại Tắt Héo (Hình 1.2). Thành phần gồm:
Tập 1 (T3n-rsb1): cát kết hạt vừa, nhỏ màu xám tím, xám sáng, phân lớp dày, cát
bột kết, đá phiến sét màu xám chứa hóa thạch, bột kết vôi, đá vôi chứa bột. Dày 140m.
Tập 2 (T3n-rsb2): sạn kết, cát kết màu xám chuyển lên các lớp phiến sét, đá phiến
sét than màu xám đen xen các vỉa than dạng thấu kính dày đến hơn 10,4m. Dày 90m.
Hệ tầng có quan hệ kiến tạo với các thành tạo cổ hơn, quan hệ trên chưa rõ.
Tuổi của hệ tầng được xếp vào Trias muộn, Nori-Ret trên cơ sở các tập hợp hóa
thạch [10].
*Hệ tầng Suối Bé (J3-K1 sb)
Hệ tầng Suối Bé do Nguyễn Xuân Bao (1969) [1] xác lập. Trong khu vực
nghiên cứu, hệ tầng lộ ra ở phía bắc và đông bắc vùng, tạo thành dải kéo dài theo
phương TB-ĐN từ Pắc Ngà qua Chim Vàn đến thị trấn Bắc Yên (Hình 1.2). Thành
phần gồm:
Phần dưới: cát bột kết tuf, cát kết tuf, cuội sạn kết, bột kết chứa cuội màu
xám, xám nâu, sét bột kết màu xám tím, nâu tím đá phun trào axit màu xám. Đá phân
lớp vừa đến dày, bị ép nén khá mạnh. Dày >500m.
Phần trên: bazan màu xám, xám xanh xen ít tuf phun trào bazan màu xám,
xám đen, thấu kính ryolit màu xám, xám sẫm. Dày 600m.
Hệ tầng có quan hệ kiến tạo với các thành tạo cổ hơn và bị các thành tạo hệ
tầng Tú lệ phủ chỉnh hợp bên trên. Tuổi của hệ tầng được xếp vào Jura muộn-Creta
sớm trên cơ sở tuổi tuyệt đối các đá bazan phân tích bằng phương pháp Rb-Sr cho
1474 triệu năm, và các đá núi lửa mafic á kiềm cho tuổi 1640,8-176,30,8 [10].
*Hệ tầng Tú Lệ (K2tl)
Hệ tầng do Phạm Đức Lương xác lập (Trần Văn Trị và nnk., 1977) [25].
Trong khu vực nghiên cứu, hệ tầng phân bố thành dải kéo dài theo phương TB-ĐN
ở góc bắc-đông bắc vùng (Hình 1.2). Thành phần gồm các tướng:
17
- Tướng phun trào và phun nổ: ryolit, ryolit porphyr ryodacit porphyr,
trachyt, trachyt porphyr, tuf phun trào axit, tuf trachyt. Dày khoảng 2000m.
- Tướng á núi lửa: ở dạng mạch, khối nhỏ rộng vài mét tới vài chục mét với
thành phần là trachyt porphyr ban tinh lớn, xuyên cắt các đá thuộc tướng phun trào
thực sự, đôi khi xuyên cắt cả các đá hệ tầng Suối Bé.
Hệ tầng có quan hệ kiến tạo với hệ tầng Suối Bé, quan hệ trên không rõ. Tuổi
của hệ tầng được xếp vào Creta muộn trên cơ sở tuổi tuyệt đối các đá trachyt
porphyr là 903 triệu năm [10].
*Hệ tầng Yên Châu (K2yc)
Hệ tầng được Nguyễn Xuân Bao và nnk (1969) [1]. xác lập. Trong khu vực
nghiên cứu, hệ tầng lộ ra thành các dải hẹp kéo dài phương tây bắc đông nam ở góc
tây nam vùng (Hình 1.2). Thành phần gồm:
-Tập 1 (K2yc1): gồm: cuội kết đa khoáng, sạn kết, cát kết, sét kết và ít lớp
mỏng sét bột kết vôi màu nâu đỏ. Tập có chiều dày từ 140-760m.
-Tập 2 K2yc2): gồm: bột kết, sét kết, cát bột kết, cát kết hạt nhỏ đến vừa, sét
bột kết vôi màu nâu đỏ xen thấu kính sạn kết, cuội kết đa khoáng. Tập có chiều dày
từ 540- 750m.
Hệ tầng phủ không chỉnh hợp trên các thành tạo cổ hơn và bị các thành tạo hệ
tầng Sài Lương phủ không chỉnh hợp bên trên. Tuổi của hệ tầng được xếp vào Creta
muộn trên cơ sở các hóa thạch động vật, thực vật và đối sánh với các vùng lân cận
[10].
*Hệ tầng Sài Lƣơng (E2-3sl)
Hệ tầng được Lê Thanh Hựu (2008) [10] xác lập năm. Trong khu vực nghiên
cứu, hệ tầng phân bố thành các diện nhỏ ở phía tây bắc vùng (Hình 1.2). Thành
phần chủ yếu là sét kết chứa cát bột, bột kết, đá phiến sét, màu xám đen, xám tro
phân lớp mỏng xen kẹp ít đá vôi, đá vôi lẫn sét.
Hệ tầng phủ không chỉnh hợp trên hệ tầng Yên Châu, quan hệ trên không rõ.
Tuổi của hệ tầng được xếp vào Paleogen muộn trên cơ sở hoá thạch thực vật Thân
đốt và bảo tử phấn hoa [10].
18
1.3.3. Magma xâm nhập *Phức hệ Phia Bioc (G, pG, aG/aT1npb) Phức hệ do Izokh xác lập năm 1965 [26]. Trong khu vực nghiên cứu, phức hệ
phân bố rải rác ở phần trung tâm và phía tây bắc vùng nghiên cứu (Hình 1.2). Thành
phần gồm granit biotit, granit biotit dạng porphyr, granit hai mica, granit-pegmatit, aplit
granit màu xám, hạt vừa đến lớn, tạo thành các thân nhỏ xuyên cắt vào đá vây quanh và
phân bố rải rác trong vùng nghiên cứu. Trong các đá này thường có các thể tàn dư của đá
vây quanh và ranh giới của chúng với đá vây quanh ở nhiều nơi mang tính chuyển tiếp.
Tuổi của phức hệ được xếp vào Trias sớm trên cơ sở kết quả phân tích tuổi tuổi
tuyệt đối cho 250 triệu năm [18].
*Phức hệ Ba Vì (U-Gb,Gb/ T1bv)
Phức hệ do Phan Viết Kỷ xác lập năm 1978 [26]. Trong khu vực nghiên cứu,
phức hệ tập trung khu vực trung tâm của Khối (Hình 1.2), bao gồm các đá xâm nhập có
thành phần từ mafic tới siêu mafic. Điển hình là khối Bản Phúc và Bản Khoa có diện
tích lớn hơn cả, còn lại là khối nhỏ, phân bố trong các thành tạo hệ tầng Nậm Sập, Bản
Cải, Đa Niêng và Viên Nam. Thành phần thạch học gồm các đá dunit, verlit, peridotit,
gabro peridotit, gabro, gabrodiabas, diabas. Trong khu vực Nếp lồi Tạ Khoa, các đá
thuộc phức hệ Ba Vì thường bị biến dạng mạnh mẽ, ranh giới của chúng với đá vây
quanh thường trở thành các ranh giới kiến tạo với biểu hiện là các đới trượt.
Tuổi của phức hệ được xếp vào Trias sớm trên cơ sở mối quan hệ không gian và
thời gian với các thành tạo phun trào mafic hệ tầng Viên Nam, đồng thời xuyên cắt các
đá vây quanh của hệ tầng Nậm Sập, Bản Cải, Đa Niêng.
*Phức hệ Nậm Chiến (Gb/K2nc)
Phức hệ do Nguyễn Vĩnh xác lập năm 1972 [26]. Trong khu vực nghiên cứu,
phức hệ phân bố ở phía đông bắc vùng, trong đới cấu trúc Tú Lệ, gồm nhiều khối nhỏ
dạng thấu kính và các đai mạch, kéo dài theo phương TB-ĐN, hoặc theo phương ĐB-
TN (Hình 1.2). Thành phần thạch học gồm: gabro, gabrodiabas, diabas, gabrodiorit có
màu xám xanh, xanh đen. Chúng có quan hệ xuyên cắt các đá hệ tầng Tú Lệ (K2tl).
19
Tuổi của phức hệ được xếp vào Kreta muộn trên cơ sở tuổi đồng vị cho 982
và 881 triệu năm [10].
1.3.4. Khoáng sản
Trên khu vực Khối cấu trúc Tạ Khoa đã ghi nhận được nhiều loại hình quặng hoá nội
và ngoại sinh, trong đó đáng chú ý nhất là các đồng-niken và quặng đồng-vàng.
Quặng đồng – niken: Trong Khối cấu trúc Tạ Khoa, đã ghi nhận được nhiều
điểm quặng đồng – niken như khu vực Bản Phúc, Bản Khoa, Bản Trạng, Bản
Mông, Bản Vở....Trong đó điểm Bản Phúc, Bản Khoa là có triển vọng hơn cả và đã
được nghiên cứu chi tiết hơn. Các kết quả nghiên cứu cho thấy, quặng đồng - niken
trong vùng tồn tại 3 kiểu chính như sau [15, 16, 17, 18, 20, 21, 22, 23]:
1. Quặng đồng - niken nằm trong các đới biến dạng cao phân bố trong các đá
trầm tích biến chất gần các khối xâm nhập siêu mafic. Loại này gồm 2 kiểu sau:
- Quặng sulfur đồng-niken đặc sít dạng mạch nằm trong các đới biến dạng
cao, xuyên cắt gần trùng với mặt phân lớp của đá trầm tích biến chất thuộc hệ tầng
Nậm Sập, Bản Cải.
- Quặng sulfur đồng-niken nằm trong các đới biến dạng cao xâm tán xung
quanh mạch quặng sulfur đồng-niken đặc sít phân bố trong đá trầm tích biến chất và
các đai mạch siêu mafic bị tremolit hoá nằm tiếp giáp với mạch sulfur đồng-niken,
sự hình thành quặng liên quan chặt chẽ với magma siêu mafic.
2- Quặng sulfur đồng - niken xâm tán trong khối siêu mafic thuộc phức hệ
Ba Vì, thuộc kiểu mỏ magma dung ly.
3- Quặng silicat Ni dạng xâm tán trong khối siêu mafic được hình thành do
quá trình phong hoá của đá siêu mafic, thuộc kiểu mỏ phong hoá
Trong 3 loại quặng trên chỉ có loại quặng sulfur đồng-niken đặc sít dạng
mạch và quặng sulfur đồng-niken xâm tán xung quanh mạch phân bố trong đá trầm
tích biến chất là có giá trị công nghiệp hơn cả tại thời điểm hiện tại. Hai loại quặng
trên, trong chuyên đề này được gộp chung gọi là quặng sulfur đồng-niken đặc sít.
20
Quặng đồng – vàng: Các thành tạo đồng – vàng trong Khối cấu trúc Tạ
Khoa chủ yếu nằm trong các đới biến dạng cao phân bố trong các đá phun trào hệ
tầng Viên Nam, bao gồm các điểm quặng Suối Chát, Đá Đỏ, Bản Lẹt, Suối On,
Suối Bâu, Suối Sập, Bản Nhọt, Đá Mài, Chim Thượng, Cầu Suối Sập. Các đá phun
trào hệ tầng Viên Nam có thành phần là bazan, bazan aphyr, trachyt, trachyt
porphyr. Các đá vây quanh và trong thân quặng hầu hết bị biến đổi propylit hóa
(cholorit-calcit-albit), berezit hóa, lisvenit hóa, chlorit hóa, artinolit hóa đôi khi là
kaolin hóa khá mạnh mẽ, làm cho đá thường có mầu xám lục, xám xanh, xanh lục,
đôi chỗ xám trắng. Các điểm quặng trên có đặc điểm khá tương đồng nhau, nằm cả
trong mạch thạch anh và trong các phiến milonit của đới biến dạng. Các thân quặng
ở dạng mạch và thấu kính gồm các mạch hoặc tập hợp các mạch thạch anh cùng các
đá biến đổi chứa quặng.
Đá phiến cháy: Trong khu vực đã ghi nhận được Biểu hiện khoáng sản đá
phiến cháy Sài Lương. Đá phiến cháy phân bố diện hẹp ở khu Sài Lương, nằm trong
thành tạo hệ tầng Sài Lương (E2-3sl). Đã xác định được lớp đá phiến cháy dày 3-5m
kéo dài theo phương bắc-nam không liên tục trên 3km; chiều ngang khoảng 200-
300m, thế nằm 240 5. Đá bột kết ép phiến và đá phiến cháy có màu đen phân lớp
mỏng, có thể tách ra thành tấm, trên mặt lớp có di tích thực vật, khi đập ra có mùi khét,
đốt cháy có nhiều khói.
Than đá: Trong khu vực đã ghi nhận được Khoáng sàng than đá Tô Pan.
Vùng Tô Pan đã phát hiện được 3 vỉa than phân bố ở tập 2-hệ tầng Suối Bàng.
Trong đó chỉ có vỉa 1 đạt giá trị công nghiệp.
Kim loại uran-đất hiếm: Trong khu vực đã ghi nhận được điểm khoáng hoá kim loại uran-đất hiếm Làng Chiếu. Quặng phân bố trên diện tích 3,5km2 vùng
Làng Chiếu các nguyên tố xạ hiếm tập trung trong đá ryolit phong hoá dở dang màu
trắng. Qua khảo sát và đo 11 tuyến địa vật lý xạ, đo xạ trong các công trình hào, đã
ghi nhận có 3 dải dị thường xạ, kéo dài theo phương ĐB-TN
21
Kaolin: các biểu hiện Kaolin Phu Si Pan, Phiêng Ban, Bản Trò B và khoáng
sàng kaolin Păng Khúa đều liên quan đến vỏ phong hoá các đá phun trào axit hệ
tầng Tú Lệ
Thạch anh khối: Trong khu vực đã ghi nhận được Biểu hiện khoáng sản
thạch anh khối Văn Bàn. Thân quặng là 1 mạch thạch anh dạng khối, kéo dài theo
phương TB-ĐN khoảng 200m, rộng 50-60m. Ngoài ra về phía đông bắc còn gặp hai
mạch có kích thước dày 1-2m, dài 20m
Đá ốp lát: Trong khu vực đã ghi nhận được các điểm quặng sau:
Đá vôi vân dải ốp lát Bản Buối: Tầng đá vôi vân dải vi hạt, hạt nhỏ thuộc hệ
tầng Bản Cải dày 40m, kéo dài theo phương TB-ĐN khoảng 1000m. Đá vôi vân dải
ít nhiều có chứa silic màu loang lổ. Đá rất bóng ít bị nứt nẻ (Ảnh VI-14) có thể cưa
cắt thành các khối kích thước 533m
Đá bazan màu đen ốp lát Cao Đa: Xác định được thân đá bazan thuộc hệ
tầng Viên Nam rộng 20m kéo dài hơn 1.000m theo phương TB-ĐN. Bazan màu
xanh đen đến đen
Đá dăm dung nham bazan ốp lát: đã ghi nhận được 2 điểm là điểm Đèo
Chẹn và điểm Kéo Bò: đá ốp lát thuộc các thành tạo dăm dung nham bazan tướng
họng núi lửa hệ tầng Viên Nam. Đá có màu lục đậm, phớt tím, hạt của dăm và nền
có độ mịn gần như nhau.
Nước ấm: Trong khu vực nghiên cứu đã ghi nhận được 2 điểm là điểm Bản
Pe và điểm Nà Luông thuộc loại hình nước ấm bicarbonat-sulfat-calc; bicarbonat-
sulfat-calci-magne.
22
Chƣơng 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Các khối cấu trúc
Một khối cấu trúc được tạo nên từ các tổ hợp thạch kiến tạo có nguồn gốc
khác nhau, nhưng được kết cấu trong cùng một không gian và sinh thành trong những
bối cảnh kiến tạo tương đồng nhau, được ngăn cách với các khối liền kề bởi các đứt
gãy sâu. Trong đó một khối cấu trúc có thể được phân ra thành các đơn vị cấu trúc
nhỏ hơn gọi là “phụ khối cấu trúc”. Một phụ khối cấu trúc được đặc trưng bởi sự có
mặt những tổ hợp thạch học và đặc điểm biến dạng kiến tạo của chúng là tương đối
đồng nhất, ranh giới giữa các phụ khối cấu trúc là các đứt gãy hoặc đới trượt.
2.1.2. Khái niệm tổ hợp thạch kiến tạo
Theo Kondie, 1989: Tổ hợp thạch kiến tạo bao gồm các tổ hợp đá có quan hệ
không gian gần gũi nhau, được thành tạo trong những khoảng thời gian kề cận nhau
và trong những môi trường được đặc trưng bởi bối cảnh kiến tạo nhất định và đại
diện cho một giai đoạn tiến hoá địa chất nhất định được gộp vào một tổ hợp thạch
kiến tạo. Như vậy, mỗi tổ hợp thạch kiến tạo này sẽ bao gồm một hoặc một số tổ
hợp đá nhất định có đặc điểm thạch hoá, tướng đá, nguồn gốc hoặc môi trường
thành tạo riêng biệt.
2.1.3. Khái niện về biến dạng của đá
Biến dạng của đá là sự biến đổi vị trí tương quan giữa các phần tử tạo nên vật
thể do đó làm biến đổi hình dạng, có khi làm biến đổi cả thể tích của vật chất. Hiện
tượng biến dạng của các đá có thể gây nên do các lực cơ học bên ngoài (lực kiến
tạo) và cũng có thể do những nguyên nhân khác như sự thay đổi của nhiệt độ, sự
biến đổi về tướng khoáng vật liên quan với sự thay đổi thể tích, hiện tượng từ hóa
(hiệu ứng từ câm) hay sự xuất hiện điện tích….
2.1.4. Khái niệm về đới trƣợt
Đới trượt được hiểu theo định nghĩa nêu trên các văn liệu chuyên khảo tiêu
chuẩn được xuất bản gần đây như của Ramsay and Huber, Marshak anh Mitra,
23
Barker, Hanmer and Passchier và Passchier and Trouw để mô tả một dạng cấu tạo
dạng tấm hình thành do sự biến dạng phát triển trong vỏ Trái đất ở những độ sâu
khác nhau (Trần Thanh Hải, 2007 [6]). Chế độ biến dạng ưu thế tạo nên các đới này
là biến dạng trượt (shear strain) làm cho đá ở cánh của 2 bên đới bị dịch chuyển
tương đối với nhau theo 2 chiều ngược nhau theo phương song song với ranh giới
của đới. Nhìn chung, các đới trượt thường là các đới tương đối hẹp, có ranh giới gần
song song với nhau, nằm giữa các thân đá bị biến dạng kém hơn và có cấu trúc bên
trong không đồng nhất. Các đới hoặc mặt trượt không liên tục có thể kết nối với
nhau tạo ra các đới biến dạng cao vây quanh các khối đá có mức độ biến dạng thấp
hơn. Mặc dù biến dạng trượt kiểu thuần túy (pure shear; biến dạng không xoay) có
thể đóng vai trò quan trọng trong đới trượt nhưng cơ chế biến dạng chủ đạo trong
các đới trượt là kiểu trượt thường (simple shear): tức là yếu tố trượt và sự dịch
chuyển song song với ranh giới của trượt đóng vai trò chủ đạo.
Sự dịch chuyển trong đới trượt có quy mô hết sức khác nhau, từ vi mô tới
hàng chục, thậm chí hàng trăm km. Ở quy mô khu vực, các đới trượt thường có
dạng tấm hoặc dạng mặt và thường có tỷ lệ chiều dài/chiều dày trên bình đồ lớn hơn
5/1, mặc dù có sự biến đổi cục bộ theo đường phương. Biểu hiện hình thái và quy
mô của đới trượt tại thực địa phụ thuộc vào mức độ xuất lộ của đá ở các độ sâu khác
nhau. Các đới trượt được thành tạo ở những độ sâu lớn trong vỏ Trái đất, nơi đá có
mức độ biến chất cao hơn, thường có quy mô lớn hơn nhiều so với các đới trượt
hình thành trong chế độ biến chất thấp ở gần mặt đất.
Trong các đới trượt, cơ chế biến dạng tích cực phụ thuộc vào nhiều yếu tố
hóa – lý khác nhau, bao gồm điều kiện nhiệt độ, áp suất thạch tĩnh (lithostatic
pressure) và áp suất cục bộ tại vị trí biến dạng, thành phần và đặc tính chảy dẻo của
đá (flow), thành phần và nhiệt độ của dung dịch biến chất, tốc độ của biến dạng
tổng tác động lên đá, hướng dịch chuyển và lich sử biến dạng của đới trượt. Tất cả
những yếu tố đó thường thay đổi một cách có quy luật theo độ sâu của vỏ Trái Đất.
Sự biến dạng tích cực trong các đới trượt trong những điều kiện khác nhau sẽ tạo
24
nên sự phát triển của các sản phẩm có đặc điểm và hình thái khác nhau, thể hiện bởi
sự tồn tại các cấu tạo điển hình và các tổ hợp đá hoặc khoáng vật đặc trưng.
Đặc điểm hình thái của các cấu tạo trong đới trượt, hình thái của các hệ
thống đới trượt, và sản phẩm biến dạng của chúng thường có biểu hiện giống nhau ở
bất kỳ khu vực nào của vỏ Trái Đất có điều kiện biến dạng tương tự. Ở tất cả các
quy mô, đặc điểm dễ nhận thấy nhất là các đới kế tiếp nhau có trình độ biến dạng rất
cao phân chia các đới dạng thoi hoặc thấu kính có mức độ biến dạng thấp hơn
nhiều. Dựa trên nghiên cứu một cách có hệ thống cấu tạo đặc trưng và các sản phẩm
có mặt trong các đới trượt, hiện nay các quy luật về sự hình thành của các đới trượt,
các yếu tố động lực liên quan tới chúng, các sản phẩm điển hình cũng như các dấu
hiệu bản chất và hướng dịch chuyển của đới trượt đã được thiết lập.
2.1.5. Các đới trƣợt trong các điều kiện biến dạng và biến chất khác nhau
Các đới trượt phát triển trong lớp vỏ hoặc phần trên của manti của Trái Đất,
nơi tập trung cả các phần biến dạng dòn và biến dạng dẻo. Dựa vào đặc tính biến
dạng của đá dọc theo chiều sâu của các đới trượt có thể được phân thành các loại
sau: đới trượt dòn (thường được gọi là đứt gãy hoặc đới đứt gãy), đới trượt dẻo, và
trung gian giữa chúng là một đới chuyển tiếp, được gọi là đới trượt dòn – dẻo trong
đó sự trượt diễn ra trong môi trường bán dòn (hay dòn – dẻo).
Đới trượt dẻo (ductile shear zone)
Đây là loại đới trượt trong đó sự biến dạng là liên tục và cường độ biến dạng
trượt biến đổi một cách có hệ thống khi đi qua chiều rộng của đới. Những kết quả
quan trọng trong nghiên cứu đới trượt gần đây dẫn tới sự thừa nhận cơ chế biến
dạng dẻo trong sự thành tạo các đới trượt ở những độ sâu lớn trong vỏ Trái Đất,
khác với những quan niệm ra đời sớm hơn chỉ trú trọng tới việc phân tích các khe
nứt (và do đó chỉ chú ý khía cạnh dòn của đới trượt). Biến dạng trong các đới này là
biến dạng dẻo chứ không phải là các dập vỡ dạng dòn. Các đới trượt dẻo thường
thành tạo ở những độ sâu có mức độ biến chất cao hơn hẳn (thường là lớn hơn
15km đối với các loại đá có đặc tính cơ lý rắn chắc) So với các đới trượt dòn hoặc
dòn – dẻo và đi cùng là quá trình biến chất trong điều kiện nhiệt độ biến chất cao.
25
Các đới trượt dẻo hình thành trong môi trường biến dạng ổn định và liên tục,
đi kèm là sự biến chất tương đối cao trong đó tính liên tục của thân đá luôn được
duy trì. Trong những điều kiện nhất định, sự biến dạng của đá trong các đới trượt
dẻo thường dẫn tới sự giảm thể tích đáng kể (ép dẹt) theo phương vuông góc với
ranh giới còn hướng dịch chuyển chung của các cánh có thể không song song mà
tạo thành một góc nhỏ với ranh giới của đới trượt. Đi cùng với sự biến dạng là sự
thay đổi cấu trúc bên trong của thân đá: các khoáng vật tạo đá bị biến dạng mạnh
mẽ bởi sự chảy dẻo của tinh thể khoáng vật (Crystal plastic flow), trong đó các
dòng chảy có xu hướng đồng nhất ở phạm vi nhỏ, dẫn tới sự thành tạo các sản phẩm
điển hình của loạt mylonit và tạo thành những đới có chiều dày lớn trong vỏ Trái
Đất. Các sản phẩm thuộc loạt mylonit nói chung có độ hạt nhỏ phân phiến mạnh mẽ
và bao gồm cả các cấu tạo tuyến kéo dài (stretching lineation)
Đới trượt dòn - dẻo (brittle - ductile shear zone)
Những đới trượt trong đó có sảy ra sự dập vỡ hoặc dịch chuyển làm mất đi
tính liên tục của các thân đá bị biến dạng dẻo một phần được gọi là đới trượt dòn -
dẻo. Sự không liên tục này có thể là các đới khe nứt riêng rẽ dọc theo đó sự dịch
chuyển xảy ra, hoặc có thể là một dãy của các khe nứt dạng cánh gà (en-echelon) do
căng giãn (tension gashes). Đới trượt dòn – dẻo thường phát triển trong đá ở những
độ sâu nhất định trong vỏ Trái Đất, bên dưới các đới trượt dòn, nơi nhiệt độ biến dạng của đá có thể lên tới hơn 300oC và tương ứng với độ sâu tới 15km tùy thuộc
loài đá và các yếu tố hóa lý khác.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng biến dạng trong các đới dòn – dẻo
hình thành dưới mức độ biến dạng ổn định từ vài mm tới vài cm/năm trong môi
trường biến dạng không tạo ra sự dập vỡ đáng kể, hay mất đi tính liên tục của thân
đá. Trên thực tế, các sản phẩm đá cà nát và mylonit đều có thể thành tạo trong cùng
một đới trượt dòn – dẻo ở quy mô lớn khi đới này cắt qua nhiều phần có độ sâu
khác nhau của vỏ Trái Đất, hoặc có sự thay đổi chế độ nhiệt động trong quá trình
biến dạng của đá.
26
Các loại sản phẩm cơ bản có thể được thành tạo trong môi trường của các đới
trượt dòn dẻo là đá cà nát và giả tachylit (pseudotachylite), và đôi nơi là các thể
mylonit bán dẻo. Đá giả tachylit hình thành từ sự nóng chảy cục bộ của đá dọc theo
mặt đứt gãy dưới tác dụng của nhiệt độ cao hình thành bởi ma sát trượt hoặc trong
một số trường hợp, bởi quá trình nghiền nát mạnh mẽ các vật liệu với sự tăng cao của nhiệt độ có thể vượt quá 1000oC trong những đới dày khoảng vài mm. Đá giả
tachylit thường không đi cùng các mạch thạch anh, nhưng lại tương đối phổ biến
trong các đá có độ lỗ hổng thấp như gabro, gneis hoặc amphibolit… Các đá trầm
tích có độ rỗng cao thường chứa nhiều dung dịch hơn và làm giảm đáng kể ứng suất
nén (normal stress) lên các mặt bị cọ sát và do đó không tạo ra lượng nhiệt ma sát
cần thiết để tạo ra sự nóng chảy cục bộ để hình thành giả tachylit.
Đới trượt dòn (brittle shear zone)
Đới trượt dòn là những đới dạng tấm gồm nhiều mặt vỡ không liên tục thành
tạo ở bất cứ nơi nào mà đá bị biến dạng dòn, đi cùng là sự hình thành của các mặt
vỡ hoặc khe nứt mà dọc theo chúng, đá ở một cánh bị dịch chuyển tương đối theo
hướng ngược với cánh kia. Sự hình thành các đới trượt dòn thường đi cùng với sự
dập vỡ và mất đi tính liên tục của thân đá tại vị trí biến dạng. Tuy nhiên các đá ở
hai bên cánh của các đới trượt này thường không có sự thay đổi đáng kể nào về hình
thái và hướng, hay nói cách khác, phục hồi được trạng thái trước biến dạng.
Các đới trượt dòn thường xuất hiện ở phần trên cùng của vỏ Trái Đất ở độ
sâu thường nhỏ hơn 10km, nơi mà nhiệt độ và áp suất thạch tĩnh tương đối nhỏ.
Trong môi trường biến chất thấp hoặc không đáng kể, sự biến dạng của đá chủ yếu
diễn ra dưới hình thức dập vỡ dòn ở nhiều quy mô khác nhau. Đây là đới biến dạng
không ổn định, trượt dính sinh chấn, trong đó sự dịch chuyển diễn ra dọc theo các
mặt đứt gãy hoặc dập vỡ không liên tục với tốc độ biến dạng địa chấn tới vài
milimét hoặc mét trên giây, xen kẽ là các giai đoạn ngưng nghỉ dài với sự tích lũy
ứng suất chậm chạp. Điều kiện biến dạng thường ở gần mặt đất trong điều kiện
không biến chất hoặc biến chất ở mức độ rất thấp.
27
Trong đới trượt dòn, hàng loạt sản phẩm khác nhau có thể được thành tạo,
trong đó có thể bao gồm 2 loại chính thuộc loạt dăm và loạt đá cà nát (cattaclasite).
Sản phẩm thuộc loạt dăm bao gồm dăm và mùn: những sản phẩm nghiền vụn không
gắn kết, trong khi đó các sản phẩm thuộc loạt đá cà nát bao gồm các sản phẩm dăm
hoặc mùn sắp xếp hỗn độn, nhưng được gắn kết chặt chẽ. Đá cà nát được thành tạo
ở độ sâu lớn hơn nơi sự dập vỡ thường đi cùng với sự tiêm nhập của nhiều loại dung
dịch, dẫn đến sự gắn kết của các mảnh dăm bởi các hệ thống mạch hoặc đám vật
chất thứ sinh phân dị từ các dung dịch này (phổ biến là thạch anh và calcit)
2.1.6. Nhận dạng các cấu tạo do biến dạng kiến tạo
Các cấu tạo biến dạng được hình thành do các quá trình biến dạng tạo ra và
có những đặc điểm khác biệt với các cấu tạo nguyên thủy. Để phân biệt được giữa
cấu tạo do biến dạng tạo ra và các cấu tạo nguyên thủy cần phải nhận biết và phân
biệt được các tiêu chí nhận dạng cơ bản sau:
+ Các cấu tạo nguyên thủy là những cấu tạo được hình thành trong quá trình
lắng đọng vật liệu để tạo đá hoặc trong quá trình thành đá gồm cả các cấu tạo trầm
tích, phun trào và xâm nhập (cấu tạo phân lớp, cấu tạo đồng trầm tích, bất chỉnh
hợp, thớ chẻ đồng trầm tích, nếp uốn đồng trầm tích, đứt gãy đồng trầm tích, cấu tạo
dòng chảy của đá phun trào, ranh giới xâm nhập, ….)
+ Các cấu tạo do biến dạng tạo nên gồm: các nếp uốn, đứt gãy, các cấu tạo
mặt (cấu tạo phiến, các khe nứt, mặt trượt…), cấu tạo đường (đường thớ nhíu,
đường căng kéo khoáng vật và kéo dài…)
2.1.7. Phân chia các pha biến dạng
Để phân chia được các pha biến dạng ta phải biết được, mỗi một pha biến
dạng tạo ra một thế hệ cấu tạo được hình thành có các đặc điểm đặc trưng, một thế
hệ được thành tạo là tập hợp các cấu tạo được thành tạo trong cùng một khoảng thời
gian, dưới tác dụng của cùng một trường ứng suất. Trong một pha biến dạng tiến
triển, một số thế hệ cấu tạo có thể được thành tạo. Một sự kiện biến dạng bao gồm
một hay một số pha biến dạng có nguồn gốc và thời gian liên quan với nhau. Các
thế hệ cấu tạo xác định một sự kiện biến dạng thường được thành tạo theo một trình
28
tự thời gian nhất định. Một sự kiện tạo núi bao gồm một hoặc nhiều sự kiện biến
dạng liên quan tới một giai đoạn kiến tạo hoặc tạo núi chính.
Như vậy, một khu vực biến dạng nhiều lần có thể là hậu quả của một pha
biến dạng tiến triển, một sự kiện biến dạng nhiều pha, hai sự kiện biến dạng hoặc
nhiều hơn, có thể nhưng không nhất thiết có thời gian tách biệt nhau, hoặc hai sự
kiện tạo núi hoặc hơn.
2.1.8. Xác định tuổi của các sự kiện biến dạng
Tuổi của các sự kiện biến dạng gồm có tuổi tương đối và tuổi tuyệt đối.
Tuổi tương đối: là tuổi xác định các các tạo được thành tạo trước hoặc sau.
Các thế hệ cấu tạo xác định một sự kiện biến dạng thường được thành tạo theo một
trình tự thời gian nhất định, các thế hệ cấu tạo được thành tạo sau sẽ tác động lên
các thế hệ cấu tạo được thành tạo trước và làm biến dạng chúng đó tạo nên các cấu
tạo giao thoa chồng lấn.
Tuổi tuyệt đối: là tuổi xác định thời gian cụ thể mà pha biến dạng đó xảy ra.
Để xác định tuổi tuyệt đối thường sử dụng phương pháp định tuổi U-Pb cho zircon
và monazit trong các đá biến chất và các thể pegmatit.
2.1.9. Khái niệm về biến chất của đá
Hoạt động biến chất các đá là sự biến đổi ở trạng thái cứng thành phần
khoáng vật cũng như kiến trúc và cấu tạo của đá, dưới tác dụng của các quá trình
nội sinh xảy ra ở những độ sâu khác nhau trong vỏ trái đất. Hoạt động biến chất chủ yếu xảy ra trong khoảng nhiệt độ từ 3000C đến 10000C và áp suất từ vài trăm bar
đến 15-20kbar. Trong những điều kiện đặc biệt, hoạt động biến chất kèm theo sự
nóng chảy từng phần các đá, đôi khi nóng chảy với quy mô lớn. Đó là hoạt động
siêu biến chất, có thể dẫn đến sự thành tạo magma acid. Hoạt động biến chất có kèm
theo sự biến đổi thành phần hóa học của các đá nguyên thủy, được gọi là hoạt động
biến chất trao đổi. Các đá biến chất là sản phẩm của quá trình lý hóa phức tạp đạt
đến đến một trạng thái cân bằng trong những điều kiện vật lý nhất định như nhiệt
độ, áp suất và tác dụng của dung dịch tuần hoàn trong đá.
29
2.1.10. Khái niệm về ngoại lai (allochthonous)
Một khối địa chất ngoại lai là một khối có quan hệ kiến tạo với đá vây quanh
(thường là các đá nằm dưới nó), không có quan hệ về địa tầng, magma, nguồn gốc,
tuổi hoặc tất cả các yếu tố trên với các đá nằm dưới nó. Các khối này thường được
vận chuyển từ những khoảng cách lớn và phủ chờm lên các đá nằm dưới. Các đá
nằm dưới được xem là các thể bản địa (autochthonous) hay không bị dịch chuyển ra
khỏi vị trí nguyên thủy của chúng tương đối so với khối ngoại lai.
2.2. Cách tiếp cận
- Tiếp cận kế thừa:
Theo quan điểm của các tác giả đã nghiên cứu cho rằng khu vực Khối Tạ
Khoa được cấu tạo từ một phức nếp lồi lớn có đặc điểm địa chất rất phức tạp, có các
phân vị địa tầng tuổi từ Devon tới Neogen và các phức hệ magma xâm nhập tuổi từ
Permi muộn tới Kreta muộn với nhiều nguồn gốc khác nhau. Các đá trên bị biến
dạng khá mạnh và biến chất nhiệt động mạnh mẽ mang tính phân đới từ tướng
amphybolit tới tướng đá phiến lục. Khu vực Khối Tạ Khoa có cấu trúc địa chất khá
phức tạp chúng thuộc Đới cấu trúc Sông Đà, miền kiến tạo Tây Bắc [1, 3, 8, 25]
hoặc là các "các thành tạo bồn sau cung" của phần rìa mảng và được hình thành từ
sự ghép nối của hai địa mảng Đông Dương và Hoa Nam vào giai đoạn Paleozoi
muộn-Mezozoi sớm dọc theo đới khâu Sông Mã [32]. Bởi vậy, đây là vùng có lịch
sử phát triển địa chất lâu dài và phức tạp, trải qua nhiều biến dạng kiến tạo khác
nhau, các biến dạng sau chồng lên các giai đoạn trước làm cho các cấu tạo bị xóa
nhòa và giao thoa khá phức tạp [15, 16, 17, 18]. Quặng hóa trong vùng khá đa dạng,
xong có ý nghĩa hơn cả là quặng đồng niken và đồng – vàng. Về quặng đồng - niken
trong vùng, hiện tồn tại ở 2 dạng: dạng thứ nhất liên quan tới đáy và vách của các
khối xâm nhập siêu mafic. Dạng thứ 2 liên quan tới các đới trượt. Trong đó dạng
thứ 2 có ý nghĩa kinh tế hơn [15, 16, 17]. Quặng đồng – vàng liên quan tới các đới
biến dạng cao phân bố trong các thành tạo phun trào hệ tầng Viên Nam.
30
- Tiếp cận hệ thống:
+ Các tổ hợp thạch kiến tạo: được phân chia trên cơ sở về đặc điểm thành
phần vật chất, nguồn gốc, môi trường thành tạo, cũng như quan hệ không gian, và
đặc điểm biến dạng của các thành tạo địa chất có trong vùng.
+ Các pha biến dạng: được phân chia trên cơ sở nhận dạng đặc điểm hình
thái, nguồn gốc, quy luật phân bố, tuổi và đặc biệt từ việc xác định mối quan hệ
chồng lấn giữa các loại cấu tạo, để phân lập được các pha biến dạng kiến tạo khác
nhau tác động lên các đá của vùng nghiên cứu. Mỗi pha biến dạng được đặc trưng
bởi một loại hoặc một tổ hợp các cấu tạo có cùng nguồn gốc, được hình thành trong
cùng một thời gian và chế độ biến dạng và đại diện cho một giai đoạn phát triển địa
chất mang tính khu vực. Các cấu tạo của các pha muộn hơn thường tác động và làm
biến dạng các cấu tạo sớm hơn và tạo thành sự giao thoa cấu trúc phức tạp.
+ Về xác định mối liên quan của quặng đồng – niken và đồng - vàng với các cấu tạo
địa chất: các thành tạo đồng - niken thường liên quan tới 3 loại nguồn gốc sau: nguồn gốc
dung li, chúng phân bố ở phần đáy của các khối xâm nhập siêu mafic và mafic; nguồn gốc
nhiệt dịch và nguồn gốc phong hóa từ các đá siêu mafic. Đối với quặng đồng – vàng, trong
khu vực nghiên cứu chúng có nguồn gốc nhiệt dịch liên quan tới các đới biến dạng. Mỗi
nguồn gốc chúng nằm trong một cấu trúc nhất định và bị biến đổi mạnh bởi các biến dạng về
sau. Để xác định mối liên quan của quặng đồng niken và đồng - vàng với các cấu tạo địa
chất cần xác định đặc điểm phân bố của các thành tạo quặng có trong khu vực, xác định các
yếu tố cấu trúc kiến tạo khống chế chúng. Trên cơ sở đặc điểm biến dạng của vùng, xác định
các yếu tố cấu tạo của các pha biến dạng muộn hơn tác động nên các yếu tố khống chế
quặng ban đầu, từ đó xây dựng bình đồ cấu trúc khu vực quặng để xác định sự thay đổi
phương, hướng cắm và sự phân cắt, dịch chuyển của các thân quặng qua các quá trình tác
động quả các pha biến dạng.
2.3. Các phƣơng pháp nghiên cứu
+ Phương pháp khảo sát thực địa
Nghiên cứu sinh đã tiến hành khảo sát thực địa trên toàn khu vực nghiên cứu,
trong đó trọng tâm là khu vực Bản Phúc, Bản Khoa, Suối Chát, Đá Đỏ nơi tập trung
31
chính các điểm quặng hóa trong khu vực. Quá trình khảo sát đã tiến hành thu thập
tất cả các tài liệu về đặc điểm địa chất, các yếu tố cấu trúc kiến tạo, khoáng sản
trong vùng nghiên cứu, đặc biệt là các tài liệu về mối quan hệ của quặng hóa với
các cấu tạo và lấy các loại mẫu phân tích.
Các số liệu đã thu thập được gồm:
- Đã thu thập thông tin, số liệu về đặc điểm thạch học của các thành tạo địa
tầng khác nhau, trật tự giữa các lớp, hệ lớp, giữa các phân vị hệ tầng, quan hệ giữa
các thành tạo trầm tích và các thành tạo magma. Thu thập các số liệu về đặc điểm
thạch học của các thành tạo magma. Thu thập về đặc điểm quặng hoá đồng, niken
và vàng trong khu vực mỏ
- Đã nhận dạng và thu thập các số liệu về các yếu tố cấu trúc kiến tạo như
các nếp uốn, đứt gãy, các dấu hiệu động lực học, quan hệ giữa các các yếu tố cấu
trúc trên với nhau và giữa chúng với quặng hoá đồng, niken và vàng.
- Đã lấy các loại mẫu thạch học, mẫu tuổi tuyệt đối, mẫu vi cấu tạo, khoáng
tướng để phân tích, xử lý phục vụ cho các nghiên cứu về đặc điểm thành phần, tuổi,
đặc điểm biến chất và cấu trúc kiến tạo.
+ Phương pháp gia công và phân tích mẫu
- Gia công, phân tích các mẫu lát mỏng thạch học của các đá trầm tích biến
chất, magma xâm nhập và phun trào để xác định thành phần khoáng vật, đặc điểm
cấu tạo, đặc điểm biến chất của đá cũng như các yếu tố vi cấu trúc có liên quan tới
biến dạng
- Gia công mẫu mài láng: nhằm xác định đặc điểm biến dạng và đặc điểm
phân bố quặng hóa
- Gia công, phân tích mẫu khoáng tướng: xác định thành phần, cấu trúc, kiến
tạo quặng và các giai đoạn tạo quặng.
- Phân tích mẫu vi cấu tạo: nhằm xác định quan hệ cấu tạo và đặc điểm biến
dạng kiến tạo, xác lập trình tự phát triển kiến tạo cũng như quan hệ giữa các cấu tạo
với quặng hoá
32
- Đã tiến hành phân tích mẫu tuổi tuyệt đối bằng phương pháp định tuổi U-
Pb cho zircon và monazit trong các đá biến chất và các thể pegmatit nhằm xác định
tuổi kết tinh, biến dạng và biến chất của đá có trong vùng.
+ Phương pháp xử lý và tổng hợp số liệu:
Trong vùng đã có nhiều công trình nghiên cứu về địa chất và khoáng sản, tuy
nhiên mức độ nghiên cứu về cấu trúc còn hạn chế đặc biệt là về nghiên cứu biến
dạng và mối liên quan giữa các yếu tố cấu trúc với các thành tạo quặng đồng –
niken và đồng - vàng. Để phân tích có hệ thống các đặc điểm cấu trúc kiến tạo ngoài
việc thu thập các số liệu mới, tác giả đã thu thập các tài liệu thực tế đo vẽ bản đồ địa
chất 1: 50 000 vùng Bắc Yên - Yên Châu, Sơn La (Lê Thanh Hựu, 2008), các tài
liệu về công tác thăm dò mỏ đồng - niken khu vực Bản Phúc, các đề tài nghiên cứu
chuyên sâu như Trần Thanh Hải và nnk (2005) [6], Vũ Xuân Lực và nnk (2009)
[16], Vũ Xuân Lực và nnk (2010) [17], Vũ Xuân Lực (2010) [15], Vũ Xuân Lực và
nnk (2012) [18], Đoàn Nhật Tộng, Lưu Chính Công (1965) [23], Đặng Công Thành
(1988) [22], Đinh Hữu Minh (2006) [21]; Nguyễn Đắc Lư và nnk (2003) [14],
Dương Hữu Luật (2001) [13], Trịnh Xuân Cam (1994) [2]…. Trên cơ sở các tài liệu
đã thu thập được tác giả đã xây dựng được bản đồ địa chất và khoáng sản của vùng,
sơ đồ cấu trúc kiến tạo và sơ đồ phân vùng triển vọng khoáng sản cùng nhiều các tài
liệu khác. Cụ thể là:
+ Sơ đồ địa chất: được thành lập dựa trên các tài liệu có trước có bổ sung kết
quả nghiên cứu thực địa nhằm xác định rõ dạng nằm của phân vị địa chất, các cấu
tạo địa chất, và mối quan hệ giữa các đá và cấu tạo khác nhau.
+ Sơ đồ cấu trúc kiến tạo: được thành lập trên sơ đồ địa chất và xử lý, tổng
hợp các số liệu cấu tạo đã được tác giả thu thập. Trên sơ đồ đã thể hiện được các
yếu tố cấu tạo và mối quan hệ chồng lấn giữa chúng, và đã thể hiện được quy luật
phân bố quặng hoá đồng – niken, đồng - vàng với các cấu tạo trong vùng.
+ Mặt cắt địa chất và mặt cắt cấu trúc kiến tạo: Các mặt cắt được xây dựng
nhằm xác định dạng nằm của các lớp đá cũng như các yếu tố cấu trúc, quy luật phân
bố quặng hoá trong khu vực nghiên cứu theo chiều sâu.
33
+ Sơ đồ phân vùng triển vọng khoáng sản: được thành lập trên cơ sở các tiền
đề dấu hiệu tìm kiếm mà nghiên cứu sinh đã tổng hợp phân tích từ các tài liệu đã có
và các tài liệu của tác giả để đưa ra được các vùng có mức độ triển vọng khác nhau,
từ đó làm cơ sở để tính tài nguyên và định hướng cho công tác thăm dò và tìm kiếm
quặng hóa.
+ Phương pháp mô hình hóa
Đây là phương pháp tổng hợp các số liệu, các kết quả của các phương pháp
nghiên cứu trên đây xây dựng thành thành mô hình để thể hiện mối quan hệ không
gian, thời gian, lịch sử phát triển kiến tạo cho các đối tượng địa chất và khoáng sản
nội sinh thuộc khu vực nghiên cứu.
- Về kiến tạo: Đã mô hình hóa sự phát triển được thể hiện trên sơ đồ cấu trúc
kiến tạo, mô hình giao thoa biến dạng. Trên đó đã thể hiện được đặc điểm phân bố
các cấu tạo được hình thành ở các pha khác nhau và sự thay đổi hình thái, phương,
hướng do tác động của các pha muộn hơn.
- Về biến chất: Sử dụng các mô hình giữa nhiệt độ, áp suất để thể hiện đặc
điểm các quá trình biến chất với các pha khác nhau đi cùng các quá trình biến dạng.
- Về khoáng sản nội sinh: trên có sở đặc điểm phân bố của quặng trong các
cấu tạo ban đầu và đặc điểm biến dạng của khu vực, tác giả đã xây dựng được các
sơ đồ và các mặt cắt thể hiện sự thay đổi hình thái, phương, hướng cắm và sự phân
bố của chúng ở trên mặt cũng như ở dưới sâu.
34
Chƣơng 3
ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC - KIẾN TẠO KHỐI CẤU TRÚC TẠ KHOA
3.1. Khái quát chung
Các kết quả nghiên cứu hiện có cho thấy, vùng nghiên cứu có cấu trúc khá
phức tạp và đã trải qua một quá trình phát triển địa chất lâu dài. Các tác giả trước đây
khi thể hiện bình đồ cấu trúc đã có nhiều quan điểm khác nhau như: Fromaget (1941)
[27] coi vùng nghiên cứu là "lớp phủ địa di Sông Đà" liên quan tới các đới trượt
chờm trên đó các thể địa di dịch chuyển với các khoảng cách lớn từ vị trí nguyên thủy
của chúng. Dovjikov (1965) [3] gọi khu vực là "nếp lồi Tạ Khoa" có trục cắm về
đông nam và trên đó có thể hiện nhiều đứt gãy phương tây bắc - đông nam, tuy nhiên
không thể hiện dõ tính chất của chúng. Nguyễn Xuân Bao (1969) [1] coi vùng nghiên
cứu thuộc một phần của "nếp vồng Tạ Khoa" trên đó phát triển một số đứt gãy nghịch
và trượt bằng, đi kèm là các đới biến chất có cường độ giảm dần từ trung tâm nếp
vồng tới phần rìa ngoài. Tuy nhiên mức độ nghiên cứu chi tiết về đặc điểm biến dạng
hầu như chưa được đề cập.
Các kết quả đo vẽ địa chất tỷ lệ 1:50 000 vùng Yên Châu-Bắc Yên của Lê Thanh
Hựu và nnk (2008) [10], và các nghiên cứu chuyên đề của Vũ Xuân Lực (2009, 2010,
2012) [15, 16, 17, 18], Trần Thanh Hải và nnk (2005) [6] cho thấy, khu vực tây bắc nói
chung trong đó có vùng nghiên cứu đã trải qua lịch sử biến dạng kiến tạo và biến chất đa
kỳ mà bình đồ cấu trúc hiện đại có lẽ là hậu quả của sự chồng lấn và giao thoa của hàng
loạt cấu tạo có bản chất, hình thái, nguồn gốc và thời gian thành tạo khác nhau, trong đó
nếp lồi Tạ Khoa được cho là hình thành bởi một pha biến dạng uốn nếp khu vực.
Một số kết quả nghiên cứu và thăm dò trong vùng nghiên cứu như Nguyễn Ngọc
Liên (1995) [12], Đinh Hữu Minh (2003) [20], Nguyễn Đắc Lư ( 2003) [14], Nguyễn
Thanh Liêm (2007) [11] đã bước đầu xác định mối liên quan của cấu trúc với quặng hoá
trong khu vực, tuy nhiên mới ở mức độ hết sức sơ lược.
3.2. Các khối cấu trúc
Vùng nghiên cứu được chia làm 3 khối cấu trúc sau (Hình 3. 1):
35
Hình 3. 1
36
Khối cấu trúc Mai Sơn (thuộc một phần phía nam Đới Sông Đà)
Khối Mai Sơn nằm kẹp giữa hai đứt gãy Sông Đà ở phía tây nam và Xuân Đài-Na Pa
[10] ở đông bắc. Cấu tạo nên phụ khối là các thành tạo có tuổi Paleozoi muộn tới
Kainozoi có thành phần phức tạp của các hệ tầng Yên Duyệt, Cò Nòi, Đồng Giao,
Nậm Thẳm, Nậm Mu, Pác Ma, Suối Bàng, Yên Châu, Sài Lương. Các đá trong khối
bị biến dạng mạnh mẽ, tạo thành các cấu tạo dạng dải có phương kéo dài chủ yếu là
TB-ĐN. Tuy nhiên, mức độ biến chất của chúng là không đáng kể.
Khối cấu trúc Tạ Khoa (thuộc một phần phía bắc Đới Sông Đà)
Đây là Khối cấu trúc tương đối phức tạp, giới hạn bởi hai đứt gãy Xuân Đài-Na Pa ở
phía tây nam và Vạn Yên-Nậm Xe ở phía đông bắc [10]. Các đá lộ ra dưới dạng một
phức nếp lồi có phương kéo dài TB-ĐN, trong đó phần cánh đông bắc của nếp lồi này
lộ ra các đá bị biến dạng mạnh, bị biến chất tới tướng amphibolit và đôi nơi bị
migmatit hoá cục bộ của các hệ tầng Nậm Sập. Phần tây nam của nếp lồi và phần rìa
bao quanh, mặc dù bị biến dạng mạnh mẽ nhưng có mức độ biến chất yếu hơn, đại
diện bởi các đá lục nguyên-carbonat-silic của các hệ tầng Bản Cải, Đa Niêng, và ít
hơn là các thành tạo phun trào của hệ tầng Viên Nam và ít trầm tích molas đỏ của hệ
tầng Yên Châu. Ngoài ra, các thành tạo trầm tích ở trong khối cấu trúc này còn bị
xuyên cắt bởi các thành tạo xâm nhập có thành phần từ siêu mafic (phức hệ Ba Vì)
tới axit (phức hệ Phia Bioc).
Khối cấu trúc Tú Lệ (thuộc một phần phía nam Đới Tú Lệ)
Trong phạm vi vùng nghiên cứu, khối Tú Lệ bao gồm phần diện tích ở phía
bắc của đứt gãy Vạn Yên-Nậm Xe [10]. Cấu tạo nên khối cấu trúc này là các thành
tạo trầm tích phun trào và phun trào của các hệ tầng Suối Bé, Tú Lệ, các thành tạo
này bị phức hệ Nậm Chiến và Phu Sa Phìn xuyên cắt.
3.3. Các tổ hợp thạch kiến tạo
Có thể phân chia các thành tạo địa chất trong vùng thành các tổ hợp thạch
kiến tạo chính sau (Hình 3.1):
THTKT rìa lục địa thụ động Paleozoi giữa: gồm các đá của hệ tầng Nậm Sập
(D1-2ns), Bản Cải (D3bc), Đa Niêng (C1đn) bao gồm các Tổ hợp thạch học sau.
37
Tổ hợp thạch học lục nguyên-silic- carbonat biến chất gồm đá phiến thạch anh
felspat biotit silimanit cordierit, quarzit, đá phiến thạch anh felspat hai mica silimanit,
đá phiến thạch anh felspat diopsid epidot calcit, đá phiến calcit felspat diopsid,
quarzit, phiến sét vôi, đá vôi Hệ tầng Nậm Sập.
Tổ hợp thạch học lục nguyên-silic- carbonat gồm cát bột kết, sét bột kết, đá
phiến sét, đá phiến sét silic, đá vôi, đá vôi sét, đá phiến silic Hệ tầng Bản Cải.
Tổ hợp thạch học carbonat gồm chủ yếu là đá vôi có mức độ phân lớp từ
trung bình đến dày Hệ tầng Đa Niêng
THTKT rìa lục địa tích cực Paleozoi muộn-Mezosoi sớm (PZ3-MZ1) đánh
dấu một thời kỳ hoạt động kiến tạo tích cực trên toàn khu vực. Các thành tạo thuộc
THTKT này gồm các tổ hợp thạch học chính sau:
Tổ hợp thạch học các trầm tích lục nguyên-silic-carbonat của Hệ tầng Yên
Duyệt gồm đá phiến sét, đá phiến sét silic, đá silic xen ít đá vôi.
Tổ hợp thạch học các thành tạo phun trào tương phản của hệ tầng Viên Nam gồm
bazan, bazan hạnh nhân, andesitobazan, tuf bazan, trachydacit porphyr, ryodacit
Tổ hợp thạch học các đá xâm nhập siêu mafic, mafic Phức hệ Ba Vì gồm các
loại đá dunit, pyroxenit, peridotit, pyroxenit, gabro, diabas và các thành tạo á núi lửa
đi cùng
Tổ hợp thạch học trầm tích lục nguyên-carbonat gồm các thành tạo lục
nguyên-carbonat và carbonat của các Hệ tầng Cò Nòi và Đồng Giao, Nậm Thẳm,
Nậm Mu, Pác Ma có tuổi Trias sớm-muộn.
THTKT đồng tạo núi Mezosoi sớm-muộn (MZ1-3) bao gồm một tổ hợp các
thành tạo trầm tích, phun trào, xâm nhập phân bố rộng trên nhiều khu vực khác nhau
và,phát triển trong khoảng thời gian từ Nori–Ret đến Creta muộn. Dựa vào thành phần
và môi trường trầm tích, có thể chia thành các tổ hợp thạch học chính sau:
Tổ hợp thạch học molas xám gồm các thành tạo trầm tích lục nguyên chứa
than tuổi Nori-Ret của Hệ tầng Suối Bàng có nguồn gốc đầm lầy, vũng vịnh.
Tổ hợp thạch học xâm nhập gồm các đá xâm nhập có thành phần axit của các
phức hệ Phia Bioc tuổi Trias muộn.
38
Tổ hợp thạch học phun trào và trầm tích phun trào bao gồm các đá phun trào
có thành phần phức tạp, từ mafic của Hệ tầng Suối Bé đến các đá axit, kiềm của Hệ
tầng Tú Lệ cùng các thành tạo trầm tích phun trào đi kèm với chúng.
Tổ hợp thạch học xâm nhập gồm các đá xâm nhập có thành phần mafic Phức
hệ Nậm Chiến tuổi Creta muộn.
Tổ hợp thạch học molas đỏ bao gồm các thành tạo của Hệ tầng Yên Châu
tuổi Creta muộn thành phần chủ yếu là các tầng trầm tích màu đỏ tướng sông, hồ;
được thành tạo trong các bồn trũng nhỏ giữa lục địa.
THTKT lục địa Kainozoi (KZ): Gồm các thành tạo trầm tích lục địa chứa dầu
và chứa than tuổi Paleogen và Neogen của các Hệ tầng Sài Lương.
3.4. Đặc điểm các pha biến dạng
Trên cơ sở nhận dạng đặc điểm hình thái, quy luật phân bố, và đặc biệt từ
việc xác định mối quan hệ chồng lấn giữa các loại cấu tạo, nghiên cứu này đã phân
lập được 5 pha biến dạng kiến tạo tác động lên các đá trong vùng Khối cấu trúc Tạ
Khoa (Bảng 3.1). Mỗi pha biến dạng được đặc trưng bởi một loại hoặc một tổ hợp
các cấu tạo có cùng nguồn gốc, được hình thành trong cùng một thời gian và chế độ
biến dạng và đại diện cho một giai đoạn phát triển địa chất mang tính khu vực. Các
cấu tạo của các pha muộn hơn thường tác động và làm biến dạng các cấu tạo sớm hơn
và tạo thành sự giao thoa cấu trúc phức tạp (Hình 3.1, Ảnh 3.1).
Bảng 3.1. Tóm tắt đặc điểm biến dạng khu vực Khối cấu trúc Tạ Khoa
Đặc điểm chung (các dạng cấu tạo đi cùng)
Biến chất đi cùng
Pha biến dạng
Tổ hợp thạch kiến tạo bị tác động
B1
Tướng amphibolit
Các đá thuộc tổ hợp thạch kiến tạo trước Carbon giữa
Diễn ra trong chế độ dẻo, tạo nếp uốn đẳng cánh, nếp uốn vỏ/bao kiếm, các phiến khu vực S1, các đới trượt chờm nghịch.
B2
Tướng amphiboit
Các đá thuộc tổ hợp thạch kiến tạo trước Nori - Reti
Diễn ra trong chế độ dẻo, tạo phiến khu vực S2, và nếp uốn kéo theo kiểu tương tự, dạng đẳng cánh nghiêng tới đảo, các đới trượt chờm nghịch lớn.
39
Đặc điểm chung (các dạng cấu tạo đi cùng)
Biến chất đi cùng
Pha biến dạng
Tổ hợp thạch kiến tạo bị tác động
B3
Biến chất cục bộ tướng phiến lục
Các đá thuộc tổ hợp thạch kiến tạo 1, 2, 3 (trước Paleogen)
B4
Tất cả các đá
Biến đổi thứ sinh
B5
Tạo các đới trượt chờm (F3) dẻo tới dòn- dẻo và nếp uốn khu vực dạng song song tới tương tự, mặt trục có độ dốc lớn tới Diễn ra trong chế độ dẻo tới dòn-dẻo, tạo thẳng đứng nếp uốn khu vực vòm mở hoặc nếp uốn gãy (kink) có mặt trục gần thẳng đứng; các đới trượt chờm (F4) dòn-dẻo Diễn ta trong chế độ dòn, tạo các hệ thống dập vỡ và đới trượt dòn, gồm đứt gãy trượt bằng, thuận
Pha biến dạng thứ nhất (B1)
Ảnh 3.1. Sự giao thoa cấu tạo do hậu quả chồng lấn của nhiều cấu tạo được hình thành trong nhiều biến dạng khu vực, quan sát được gần cầu Tạ Khoa. Tại đây các đá trầm tích biến chất giầu silimanit và cả các đai mạch mafic và pegmatit bị xoay song song với cấu tạo phiến khu vực S1 và sau đó bị uốn nếp bởi nhiều thế hệ uốn nếp khác nhau, tất cả lại bị một đứt gãy thuận muộn cắt và làm dịch chuyển. Mf: đai mạch mafic; U2: nếp uốn thế hệ thứ 2; U3: nếp uốn thế hệ thứ 3, F5: đứt gãy pha biến dạng thứ 5 (đứt gãy thuận). (Theo Trần Thanh Hải, 2003)
Pha này được đặc trưng bởi sự biến dạng dẻo hoàn toàn phát triển rất rộng rãi
trong các đá có tuổi trước carbon giữa. Cấu tạo đặc trưng cho pha biến dạng này là
các cấu tạo phiến khu vực (S1) đi cùng các nếp uốn đẳng cánh với đặc trưng là các
nếp uốn hẹp có thế nằm mặt trục gần song song với hai cánh (Ảnh 3.2). Các lớp
trầm tích ban đầu thường bị ép dẹt và song song với các phiến S1. Các cấu tạo phiến
khu vực (S1) thường song song với mặt trục của các nếp uốn dạng đẳng cánh hoặc
các nếp uốn dạng vỏ/bao kiếm (U1); (Ảnh 3.2). Đi cùng các nếp uốn thuộc pha biến
40
dạng 1 là các đới trượt với đặc trưng là các đới trượt chờm, dọc theo đó đá bị
milonit hoá hoàn toàn tạo các phiến khá mỏng bao quanh các bao thể kiến tạo (Ảnh
3.3, Ảnh 3.4). Các bao thể có thành phần khá đa dạng gồm quarzit, đá vôi hay có
thể là các đai mạch (Ảnh 3.1, Ảnh 3.3, Ảnh 3.4). Các phiến và các cánh của nếp uốn
thế hệ này thường có phương song song với các đới trượt được thành tạo trong cùng
giai đoạn này. Trên bình đồ khu vực, các nếp uốn và đới trượt của pha biến dạng
này đã được ghi nhận tại nhiều nơi. Tuy nhiên sự ổn định theo phương kéo dài
thường không lớn khoảng từ 1-10km (Hình 3.1) do chúng bị đới trượt muộn cắt và
phá hủy và bị các nếp uốn nuộn làm uốn nếp đi làm phương của chúng bị thay đổi.
Các đứt gãy phân chia ranh giới giữa các hệ tầng Nậm Sập, Bản Cải, Đa Niêng mà
được thể hiện trên bản đồ bởi các đứt gãy muộn có thể chúng là các đứt gãy pha
biến dạng 1 bị tái hoạt động bởi các pha muộn hơn. Hoạt động uốn nếp tạo ra các
nếp uốn U1 đã làm gia tăng đáng kể chiều dày của các thành tạo trầm tích khác
nhau, vùi sâu các lớp trầm tích xuống độ sâu lớn và dẫn tới sự biến chất mức độ cao
tướng amphibolit được thể hiện bởi các đá phiến giầu silimanit (Ảnh 3.1). Các cấu
tạo pha biến dạng 1 thường bị tái biến dạng bởi các pha muộn hơn (Ảnh 3.1, Ảnh 3.2,
Ảnh 3.4, Ảnh 3.5). Với các đặc điểm cấu tạo và các quá trình biến chất đi cùng chứng
tỏ pha biến dạng 1 diễn ra trong điều kiện nhiệt độ biến dạng khá cao
My
F2
U1
U4
Ảnh 3.2. Đới milonit trong pha biến (My) dạng 1 (F1) di cùng nếp uốn hẹp tới đẳng tà U1 phát triển trong các đá trầm tích biến chất hệ tầng Nậm Sập khu vực Mỏ Bản Phúc bị tái uốn nếp bởi một nếp uốn thế hệ thứ 4 (U4)vòm mở phương đông - bắc tây nam
41
B
My
Ảnh 3.3. Đới milonit trong pha biến dạng 1có chứa các bao thể kiến tạo (B) được bao quanh bởi các phiến milonit (My) tại khu vực phía nam khối Bản Phúc
U2
S1
Ảnh 3.4. Mạch thạch anh trượt trong đới pha biến dạng 1 (S1) bị ép dẹt, kéo dài và đứt đoạn tạo thành các bao thể kiến tạo, xung quanh được bao bởi các phiến milonit, tất cả lại bị uốn nếp bởi các nếp uốn hệp gần nằm ngang pha biến dạng 2 (U2) tại khu vực phía nam khối Bản Phúc
U2
U1
lóc
Ảnh 3.5. Sự giao thoa giữa các nếp uốn thế hệ 1(U1) và các nếp uốn thế hệ 2 (U2) được thể hiện trên mặt cắt lò L.105. Trong đó So là phân lớp ban đầu
So
42
Pha biến dạng thứ hai (B2)
Diễn ra trong chế độ dẻo và phát triển rộng rãi trong hầu hết các thành tạo địa
chất có tuổi trước Nori – Reti trong vùng. Cấu tạo đặc trưng cho pha biến dạng này là
các cấu tạo phiến khu vực (S2) đi cùng các nếp uốn đẳng cánh, các đới trượt chờm.
Các cấu tạo được hình thành trong pha biến dạng này khá phổ biến ở nhiều kích thước
khác nhau. Pha biến dạng này tạo ra sự tái sắp xếp các phiến S1 và hình thành cấu tạo
phiến khu vực mới S2 song song với mặt trục các nếp uốn thế hệ 2 (U2) (Ảnh 3.5, Ảnh
3.6, Ảnh 3.7 ). Các nếp uốn thế hệ 2 thường là các nếp uốn kéo theo kiểu tương tự đẳng
cánh nghiêng tới đảo và làm tái uốn nếp các cấu tạo nếp uốn hình thành trong pha 1
(Ảnh 3.4, Ảnh 3.5). Nhiều nếp uốn thuộc thế hệ này có thể xác định được trên cơ sở
phân tích cấu trúc trên bình đồ với chiều dài từ 1 km đến 5 km (Hình 3.1). Sự giao thoa
của các nếp uốn thuộc pha này lên các nếp uốn thế hệ 1 thường tạo thành kiểu giao
tại vết
thoa nếp uốn kiểu 2 hoặc 3, Ramsay (1967); (Ảnh 3.5, Ảnh 3.7).
F2
Ảnh 3.6: Các nếp uốn vỏ U3 đi cùng đới trượt chờm thuộc pha biến dạng thứ 2 (F2), (đá vôi hệ tầng Đồng Giao trượt chờm lên các đá hệ tầng Cò Nòi) lộ YC.3070. Vùng Chiềng On, Mai Sơn, Sơn La. (Lê Thanh Hựu, 2008)
Các đới trượt trong pha này được quan sát rộng rãi ở nhiều tỷ lệ khác nhau từ
vết lộ tới các mẫu lỗ khoan. Chúng đều là các đới trượt dạng chờm nghịch có hình thái
đa dạng gồm những trượt dẻo riêng rẽ hoặc một tập hợp của hàng loạt đới nhỏ tạo
thành những đới lớn với chiều dày vài mét tới hàng chục mét (Ảnh 3.6, Ảnh 3.8, Ảnh
3.9), chiều dài từ vài km tới hàng chục km (Hình 3.1), dọc theo đó các đá già thường bị
trượt chờm lên đá trẻ hơn (Ảnh 3.11). Nhiều đới trượt có quy mô lớn hình thành trong
giai đoạn này tạo ra các đới melange kiến tạo lớn. Bên trong các đới này, các đá
43
tại vết
(U3)
U2
Ảnh 3.7: Giao thoa uốn nếp kiểu 3 giữa nếp uốn thế hệ 2 (U2) và thế hệ 3 lộ YC.3070 vùng Chiềng On, Mai Sơn, Sơn La. (Lê Thanh Hựu, 2008)
U3
nguyên thuỷ khác nhau kể cả các thể xâm nhập thường bị mylonit hoá hoàn toàn hoặc
bị ép dẹt, kéo đứt tạo thành các cấu tạo khúc dồi (Ảnh 3.12, Ảnh 3.9). Sự dịch trượt
của các đới trượt này đôi khi quan sát được theo các dấu hiệu động lực trực tiếp (Ảnh
3.9) hay trên các mẫu vi cấu tạo (Ảnh 3.10). Các đới trượt pha biến dạng này đã tác
động mạnh mẽ lên các khối xâm nhập siêu mafic, mafic, hiện ranh giới tiếp xúc giữa
các khối siêu mafic, mafic với đá vây quanh thường là ranh giới kiến tạo thuộc đới
trượt pha biến dạng này (Ảnh 3.12 A), các đới trượt này còn làm biến dạng mạnh
ngay ở trong nội khối xâm nhập này (Ảnh 3.12, Ảnh 3.12a). Những cấu tạo đặc biệt
này chứng tỏ các thể siêu mafic trong vùng Tạ Khoa trong đó có khối Bản Phúc là
Ảnh 3.8: Một đới trượt (My) thuộc pha biến dạng thứ 2, trong đó có chứa các bao thể kiến tạo (B) với nhiều thành phần khác nhau và được bao quanh bởi các (Trần phiến milonit Thanh Hải, 2003)
B
My
44
F2
F3
Ảnh 3.9: Một đới trượt thuộc pha biến (My) dạng thứ 2, trong đó có chứa các bao thể thạch anh bị đới trượt pha biến dạng 3 (F3) làm biến dạng khá rõ. Trong đới biến dạng 3 cũng chứa các bao thể thạch anh và có chiều dịch chuyển khá rõ
các thể kiến tạo ngoại lai (alochthonous) được vận chuyển đến vị trí hiện tại bởi các
hoạt động kiến tạo chứ không phải là các thể xâm nhập bản địa (autochthonous)
(Hutchison, 1989) [30].
Quá trình biến dạng thứ 2 diễn ra cũng làm cho các đá trong khu vực bị biến
chất mạnh mẽ và tạo ra các khoáng vật biến chất silimanit thế hệ 2 hoặc đôi nơi là
staurolit, chứng tỏ nhiệt độ duy trì ở mức cao trong giai đoạn biến dạng tiếp theo mặc
dù bắt đầu có sự giảm nhiệt (từ sillimanit tới staurolit).
F2
Ảnh 3.10. Ảnh vi cấu tạo cho thấy một đới trượt dẻo bị mylonit hoá hoàn toàn thuộc pha biến dạng 2 có các thể porphyroclast xoay rõ ràng với đuôi chỉ rõ hướng dịch chuyển của đới trượt tại khu vực gần đèo Chẹn (hướng dịch chuyển theo chiều mũi tên). Hai nicon, phóng đại 2,5 lần. (Lê Thanh Hựu, 2008)
45
U3
D3bc
F2
Ảnh 3.11. Đá vôi hệ tầng Bản Cải (D3) phủ chờm lên các đá phun trào hệ tầng Viên Nam (P3-T1)bởi đứt gãy pha biến dạng 2 (F2) sau đó chúng bị tái uốn nếp bởi các nếp uốn pha biến dạng 3 (U3) khu vực Suối Sập
P3 -T1vn
Đi cùng với các đới trượt pha biến dạng thứ 2, quá trình làm giầu và hình
thành các các thân quặng đồng - niken đạt giá trị công nghiệp đã được hình thành và
phân bố trong các đới biến dạng này.
Các cấu tạo của pha biến dạng này thường chịu tác động mạnh của các pha
biến dạng muộn hơn trong đó có cả các thân quặng (Ảnh 3.2, Ảnh 3.6, Ảnh 3.7,
Ảnh 3.9, Ảnh 3.11, Ảnh 3.13, Hình 1.2, Hình 3.1).
A
My
Mf
Ảnh 3.12. Một đới trượt (My) thuộc pha biến dạng thứ 2 dọc theo ranh giới giữa thân siêu mafic (Mf) và trầm tích lục nguyên biến chất vùng đông nam khối Bản Phúc.
46
C
Ảnh 3.12a. Các đới trượt thuộc pha biến dạng thứ 2 làm biến siêu dạng các khối tại mafic Bản Phúc trung tâm khối Bản Phúc.
Pha biến dạng thứ ba (B3)
Diễn ra trong chế độ dẻo đến dòn-dẻo với sản phẩm là các đới trượt chờm
nghịch/nghịch kéo dài theo phương tây bắc-đông nam và các nếp uốn có mặt trục từ thẳng
đứng tới nằm ngang, và đồng phương với các đới trượt. Sự phát triển rộng rãi của các nếp
uốn và các đứt gãy của pha biến dạng thứ 3 đã góp phần vào sự tạo thành phương cấu trúc
khu vực hướng tây bắc-đông nam.
U2
Mach 1
Mu
U3
S1
Ảnh 3.13. Ảnh lát mỏng cấu tạo phiến S1 cấu tạo bởi silimanit và biottit bị uốn nếp bởi nếp uốn U2 và U3 trong đá phiến sillimanit. Một phần của biotit và sillimant bị thay thế bởi muscovit do hậu quả của biến chất giật lùi. Ảnh lát mỏng chụp dưới 2 nicon, đáy của ảnh dài 6 (Trần Thanh Hải, mm 2006)
47
Các đới trượt hình thành trong giai đoạn này có chiều dày hàng chục cm tới hàng
chục mét, chiều dài từ vài km tới vài chục km và cắt qua tất cả các cấu tạo thuộc các pha
biến dạng từ 1 tới 2 (Ảnh 3.9, Hình 1.2, Hình 3.1). Nhiều đới trượt có quy mô lớn hình
thành trong giai đoạn này tạo ra các đới melange kiến tạo, trong đó các đá bị đứt đoạn
và bị ép kéo dài hoặc xoay trượt (Ảnh 3.14). Trong nhiều trường hợp, các đới trượt thế hệ 3
lặp lại và làm tái hoạt động của các đới trượt pha biến dạng thứ nhất. Nhiều dấu hiệu động
lực trên các vết lộ cũng như trên lát mỏng đã thể hiện khá rõ chiều dịch chuyển của của các
đới trượt (Ảnh 3.15, Ảnh 3.15).
Các nếp uốn thế hệ thứ 3 phát triển rộng rãi ở các tỷ lệ và quy mô khác nhau;
trên vết lộ, chúng thường tạo thành các nếp uốn có hình thái thay đổi giữa dạng nếp
uốn song song và nếp uốn tương tự, khá cân xứng, vòm mở mặt trục gần thẳng đứng
tới ngang và đi cùng với các cấu tạo phiến mặt trục thế hệ 3 (S3) (Ảnh 3.1, Ảnh 3.6,
Ảnh 3.7, Ảnh 3.11) . Các nếp uốn thế hệ thứ 3 thường làm tái uốn nếp các cấu trúc
thuộc pha biến dạng thứ 1 và thứ 2 (Ảnh 3.1, Ảnh 3.7, Ảnh 3.11,...). Giao thoa của
chúng với các nếp uốn thế hệ 1 và 2 thường tạo nên kiểu giao thoa 2 hoặc 3 (Ramsay,
1967), tạo nên sự giao thoa cấu trúc khu vực rất phức tạp (Ảnh 3.7). Các nếp uốn Pha
này thường có quy mô khá lớn với chiều dài từ vài km tới hàng chục km (Hình 1.2,
Hình 3.1). Cấu trúc nếp lồi Tạ Khoa được các tác giả trước đây thể hiện được hình
thành bởi phức nếp uốn thuộc pha này. Các thể mafic, siêu mafic, trong đó có khối lớn
Bản Phúc và các khối khác trong vùng đã bị uốn nếp bởi các nếp uốn thế hệ này. Pha
biến dạng thứ 3 cũng làm biến dạng các thân quặng sulfur Cu-Ni đặc sít thuộc pha biến
dạng thứ hai.
Các tổ hợp khoáng vật biến chất cao trong pha biến dạng 1 và 2, trong pha
biến dạng 3 thường bị thay thế bởi các khoáng vật nhiệt độ thấp hơn là muscovit,
tourmaline hoặc chlorit do quá trình biến chất giật lùi.
Một số khoáng hoá đồng vàng và đồng (niken?) trong khu vực được khống chế bởi
các đới trượt thế hệ 3, chứng tỏ quặng hóa ở đây đã được tái tập trung trong các cấu trúc này.
48
tạo
B
My
Ảnh 3.14. Các bao thể kiến (B) được thành tạo trong pha biến dạng thứ 2, trong đó các lớp đá cứng bị đứt và ép kéo dài được bao quanh bởi phiến mylonit (My)
S
C
Ảnh 3.15. Ảnh lát mỏng cấu tạo C/S thể hiện dịch chiều chuyển khá rõ (mũi tên chỉ chiều dịch chuyển) trong đới trượt pha biến dạng thứ 3 tại khu vực Cầu Suối Sập. Hai nicon, phóng đại 2,5 lần
49
Ảnh 3.16 . Ảnh lát mỏng cấu tạo có các thể porphyroclast xoay rõ ràng với đuôi chỉ rõ hướng dịch chuyển của đới trượt pha biến dạng 3 (mũi tên chỉ chiều dịch chuyển) tại khu vực Bản Pưn, Bắc Yên, Sơn La. Hai nicon, phóng đại 36 lần
Pha biến dạng thứ Tư (B4)
Pha biến dạng này diễn ra trong chế độ dẻo tới dòn-dẻo, đặc trưng bởi các nếp
uốn thế hệ 4 (U4) có dạng nếp uốn mở hoặc uốn gãy (Ảnh 3.17), với mặt trục gần
thẳng đứng, phương kéo dài theo hướng đông bắc - tây nam. Các nếp uốn có thớ chẻ
mặt trục yếu ớt, chủ yếu dạng thớ rỗng. Đi cùng với nếp uốn này là các đới trượt dòn –
dẻo cùng phương với các đới dập vỡ, khe nứt tách và thường được nấp đầy bởi các
mạch thạch anh. Các cấu tạo của pha biến dạng này thường có quy mô trung bình với
chiều dài phân bố từ vài km tới 15 km và làm biến dạng tất cả các đá có mặt trong khu
vực và các cấu tạo hình thành trong pha 1 đến 3 (Ảnh 3.1, Ảnh 3.2, Ảnh 3.17, Hình 1.2,
Hình 3.1). Ở một số nơi, các nếp uốn thế hệ 4 (U4) giao thoa với các nếp uốn cổ hơn
tạo nên giao thoa kiểu 1cấu tạo vòm và bồn trũng hoặc kiểu 2 (trên sơ đồ cẫu trúc)
nhưng phần lớn các nếp uốn này không làm thay đổi đáng kể sự định hướng của các
cấu tạo có trước (Ảnh 3.1, Hình 3.1). Đi cùng với pha biến dạng này, trong các đới
trượt có tích tụ quặng hóa đồng, vàng, chì-kẽm.
Pha biến dạng thứ Năm (B5)
Tất cả các hệ thống đứt gãy và dập vỡ dòn, có độ dốc lớn tới thẳng đứng
trong vùng được xếp chung vào pha biến dạng thứ năm. Các cấu tạo này được đặc
trưng bởi các mặt trượt, vết xước, đới dăm kết, hoặc các đới biến đổi (Ảnh 3.19,
Ảnh 3.19). Các dấu hiệu động học bao gồm các vết xước và các dấu hiệu dịch
50
chuyển cho thấy các đứt gãy thuộc pha này là các đứt gãy thuận hoặc dịch bằng với
nhiều phương phát triển khác nhau (Ảnh 3.19, Ảnh 3.19, Hình 1.2, Hình 3.1). Các
đới dập vỡ phát triển rộng rãi và cắt qua tất cả các thành tạo địa chất và các cấu tạo
thuộc pha 1 tới pha 4 mô tả trên, chứng tỏ chúng là những cấu tạo muộn nhất trong
vùng. Sự dịch chuyển của một số dạng địa hình hiện đại như các nhánh sông, hoặc
nhiều hiện tượng trượt lở liên quan tới một số đứt gãy trong vùng chứng tỏ một số
đứt gãy có tuổi rất trẻ (Hình 1.2, Hình 3.1).
U4
Ảnh 3.17. Nếp uốn vòm mở pha biến dạng thứ 4 (U4) làm uốn nếp các đá trầm tích biến chất vùng phía đông khối Bản Phúc
F2
F4
Ảnh 3.18. Giao thoa cấu tạo đường giữa đường trục nếp uốn thế hệ 2 (F2) và 4 (F4) (Trần Thanh Hải, 2003)
Pha biến dạng thứ Năm (B5)
51
Ảnh 3.19. Các vết xước, mặt trượt liên quan tới biến dạng dòn trong pha biến dạng thứ 5 khu vực phía nam khối Bản Phúc
F5
F1
Ảnh 3.20. Đứt gãy thuận pha biến dạng thứ 5 (F5) cắt và làm dịch chuyển đới biến dạng pha thứ nhất (F1) phía đông bắc khối Bản Phúc.
3. 5. Đặc điểm giao thoa biến dạng Khối cấu trúc Tạ Khoa
Vùng nghiên cứu đã chịu sự tác động của nhiều pha biến dạng với đặc điểm, qui
mô, cường độ và thời gian khác nhau, các pha biến dạng muộn tác động chồng lấn lên các
cấu tạo được hình thành bởi các pha biến dạng sớm hơn tạo ra sự giao thoa cấu trúc phúc
tạp (Hình 3.1, Hình 3.2, Hình 3.3, Hình 3.4). Bình đồ cấu trúc hiện tại của vùng nghiên cứu
chính là kết quả của các quá trình giao thoa hết sức phức tạp này.
Các cấu tạo của pha biến dạng thứ nhất (các cấu tạo phiến, các nếp uốn, các đới
trượt) bị tái biến dạng mạnh mẽ bởi pha biến dạng thứ 2, trong đó các nếp uốn của pha biến
52
dạng 1 khi bị tác động bởi các nếp uốn kéo theo kiểu tương tự, dạng đẳng cánh nghiêng tới
đảo của pha biến dạng thứ 2 có phương của trường ứng suất khác với phương của trường
ứng suất của pha biến dạng 1 tạo ra giao thoa nếp uốn kiểu 2 hoặc 3 (Ramsay, 1967) rất
phức tạp (Ảnh 3.5).
Các cấu tạo phiến và các đới trượt thuộc pha biến dạng 1 cũng đã bị uốn nếp bởi
pha biến dạng thứ 2 (Ảnh 3.4, Ảnh 3.12). Các đới trượt chờm của pha biến dạng thứ 2 đã
phá huỷ mạnh các cấu tạo được hình thành ở pha biến dạng 1 và các thể địa chất có trong
khu vực (Hình 3.1, Ảnh 3.2, Ảnh 3.6). Pha biến dạng thứ 3 gồm các nếp uốn mặt trục
thẳng đứng tới gần thẳng đứng đi cùng các đới trượt chờm có quy mô lớn phương tây bắc -
đông nam đã tác động mạnh mẽ nên các thành tạo thuộc pha biến dạng 1 và 2. Sự giao
thoa của các nếp uốn pha này với các nếp uốn pha 2 và 1 tạo nên giao thoa kiểu giao thoa 2
hoặc 3 (Ramsay, 1967); (Hình 3.1, Ảnh 3.7).
Các đứt gãy của pha biến dạng thứ 3 cũng đã phá huỷ và làm biến dạng khá mạnh
mẽ các cấu tạo có trước trong của pha biến dạng 1 và 2 (Ảnh 3.9). Pha biến dạng thứ 3 có
lẽ có quy mô và cường độ lớn nên đã tác động mạnh mẽ tới cấu trúc của khu vực và hình
thành nên phương cấu trúc cơ bản của cấu trúc hiện tại ngày nay. Các nếp uốn và đới trượt
của pha biến dạng thứ 4 được hình thành trong giai đoạn muộn có chế độ dẻo tới dòn - dẻo
đã tác động nên các cấu tạo của các pha sớm hơn, có lẽ do cường độ yếu nên sự tác động
của chúng là không đáng kể và hầu như không làm thay đổi bình đồ cấu trúc của khu vực.
Sự giao thoa của nếp uốn Pha 4 với nếp uốn pha biến dạng thứ 2, 3 tạo ra giao thoa kiểu 1
cấu tạo vòm và bồn trũng (Hình 3.1) và giao thoa với các nếp uốn cổ hơn tạo ra giao thoa
kiểu 2 tới 3 (Ảnh 3.1, Ảnh 3.2). Các đứt gãy dòn pha biến dạng thứ 5 đã cắt qua và làm biến
dạng tất cả các thành tạo địa chất và các cấu tạo thuộc pha 1 tới pha 4 mô tả trên. Các đứt gãy
này đã làm phức tạp hoá thêm cấu trúc của vùng nhưng cũng ít làm thay đổi bình đồ cấu trúc
chung cúa khu vực.
53
Hình 3.2: Mô hình giao thoa biến dạng trong khối cấu trúc Tạ Khoa (Theo Vũ
Xuân Lực, 2010 [15])
54
Hình 3.3: Đặc điểm giao thoa biến dạng khu vực Sập Việt-Bản Nguồn trong khối cấu trúc Tạ Khoa
55
Hình 3.4: Vị trí mặt cắt địa chất Tuyến II, III, IV, XI, 49800E, 50050E, 50100E, 50300E, 50550E, 51200E, trên bình đồ địa chất khu vực mỏ quặng niken Bản Phúc (thành lập theo tài liệu của Đoàn 17, Đoàn 305, Công ty Mỏ Niken Bản Phúc và các kết quả nghiên cứu của tác giả)
56
3.6. Sơ lƣợc đặc điểm lịch sử nhiệt động khu vực
Kết quả phân tích và định tuổi bằng phương pháp U-Pb các mẫu được tổng
hợp trên Ảnh 3.21 và các đồ thị concorrdia (Hình 3.2). Nhìn chung, các tập hợp
zircon trong các mẫu pegmatit và phiến kết tinh đều có tính đa dạng về tuổi, trong
đó phần nhân và phần riềm có các dị biệt khác nhau về tuổi (Ảnh 3.21). Do mỗi loại
mẫu đều lấy từ cùng một loại đá trong một khu vực nghiên cứu nên quả phân tích
tuổi của các mẫu có thể được thống kê chung trong một đồ thị cho từng loại đá
(Hình 3.3).
A
B
Ảnh 3.21. Ảnh chụp CL cho thấy hình thái của các hạt zircon và monazit điển hình trong các mẫu định tuổi tuyệt đối ở vùng Tạ Khoa và các vị trí định tuổi của chúng (các hình elip).A: zircon trong các đá phiến kết tinh biến chất tướng amphibolit với tính phân đới rõ ràng trong đó phần nhân là phân đới đồng tâm do kết tinh magma còn phần rìa có tính phân đới bất thường, sẫm màu, do quá trình biến chất và biến đổi. Phần nhân thường cho tuổi già hơn nhiều so với phần riềm. B: các hạt zircon trong đá pegmatit cũng có hình thái tương tự trong đá phiến kết tinh mặc dù một số hạt bị tái kết hinh gần hoàn toàn. C: Các hạt monazit bị biến đổi manh mẽ và chỉ còn sót lai một số phần nhỏ đồng nhất có thể định tuổi.
57
Kết quả thống kê cho thấy có 3 khoảng tuổi chính thu được từ các hạt zircon và
monazit (Ảnh 4, Hình 3.5, Hình 3.6).
Khoảng tuổi 1 dao động từ 411 tr. năm đến 2.5? tỷ năm có mặt trong phần nhân của
các hạt zircon là tuổi kết tinh của zircon trong quá trình thành tạo magma.
Khoảng tuổi 2 gồm các tuổi thu được từ phần rìa của các hạt zircon và trong
một số hạt monazit. Giá trị trung bình khoảng tuổi này trong các đá pegmatit là
250±5 Tr.n còn trong các mẫu đá phiến kết tinh là 245,5 ±4 Tr.n. Như vậy, có thể
thấy tuổi biến chất của đá trong khu vực ở khoảng 245-250 Tr.n, ứng với giai đoạn
cuối cùng của Permi.
Khoảng tuổi 3 gồm các kết quả phân tích có tuổi trẻ hơn 246 Tr.n, thường riềm
của các hạt zircon hoặc monazit có tuổi phổ biến 230-240 Tr.n và do đó thể hiện
sự tiếp tục tái kết tinh của các hạt này khi quá trình biến chất chồng tiếp tục diễn
ra dưới điều kiện nhiệt - áp duy trì ở mức độ cao hoặc tác dụng cục bộ của các pha
biến dạng về sau. Tuy nhiên, do mức độ ít phổ biến của các tuổi này trong các
mẫu nên không thể xác định được quy luật phân bố tuổi của các giai đoạn biến
dạng muộn hơn.
3.7. Đặc điểm biến chất đi cùng biến dạng
Các đá trong khu vực Khối cấu trúc Tạ Khoa bị biến chất mạnh mẽ, thể hiện ở sự
có mặt của tổ hợp các khoáng vật gồm sillimanit đặc trung có trình độ biến chất tới tướng
amphibolit trong các đá phiến kết tinh [15, 17, 18]. Trên cơ sở nghiên cứu mối quan hệ
giữa biến dạng kiến tạo và sự hình thành tổ hợp khoáng vật biến chất, có thể nhận thấy khu
vực nghiên cứu bị biến chất chồng bởi các sự kiến (pha) biến chất sau:
Pha biến chất 1 (M1) được đặc trưng bởi sự có mặt của tổ hợp khoáng vật biến
chất cao như biotit + fibrolit silimantit trong các đá phiến kết tinh (Ảnh 3.22). Quá trình
biến dạng Pha biến dạng thứ 1 đã vùi sâu các lớp trầm tích xuống độ sâu lớn kéo theo
sự biến chất khá phức tạp. Các đá nằm trong phần trung tâm "nếp vồng Tạ Khoa" đều bị
biến chất tương đối cao tới tướng amphobolit, trong đó các đá trầm tích sét đã bị biến chất
thành đá phiến kết tinh chứa tổ hợp khoáng vật đặc trưng cho tướng amphibolit như
silimanit. Các fibrolit thuộc pha biến dạng này hình thành đồng quá trình tạo phiến S1
58
(Ảnh 3.1, Ảnh 3.21) và góp phần tạo nên sự định hướng của cấu tạo phiến này, đặc điểm
này chứng tỏ sự hình thành của khoáng vật biến chất đi cùng sự biến dạng hoặc vào cuối
giai đoạn biến dạng đầu tiên của đá và diễn ra trong điều kiện nhiệt độ khá cao.
Hình 3.5. Đồ thị concorrdia thể hiện kết quả phân tích tuổi tuyệt đối U-Pb cho các đá trong khu vục nghiên cứu: a, b, c là các mẫu trong đá phiến kết tinh còn d, e, f là các mẫu trong đá pegmatit.
59
Tuổi tái kết tinh/ biến chất
Tuổi trầm tích trẻ nhất
Hình 3.6.A. Kết quả tổng hợp thống kê tuổi cho các mẫu pegmatit (a) và đá phiến kết tinh (b) cho thấy sự đa dạng về tuổi của các hạt zircon. Tuy nhiên có thể nhận thấy rõ khoảng tuổi khác biệt ở các mốc thời gian khác nhau, được luận giải là tuổi của các hạt zirocn trầm tích và tuổi tái kết tinh trong quá trình biến chất và thành tạo pegmatit, trong đó khoảng tuổi trầm tích dao động từ mốc 411 Tr.n đến cổ hơn còn các tuổi trẻ hơn là tuổi biến chất hoặc tái kết tinh. B. Thống kê tuổi của phần riềm các hạt zircon và tuổi của các hạt monazit trong đá cho thấy tuổi trung bình của chúng ở khoảng 250 Tr.n cho đá pegmatit (a) và 246 Tr.n cho đá đá phiến kết tinh (b).
Pha biến chất này tiếp tục được duy trì cùng với sự kiện biến dạng thứ 2 trong
điều kiện nhiệt độ của tướng amphibolit thể hiện bởi sự mọc chồng cục bộ của các
tịnh thể silimanit thế hệ 2 lên các khoáng vật thế hệ 1 theo phương của phiến thế hệ 2
(Ảnh 3.22) hoặc đôi nơi là staurolit (Ảnh 3.23), chứng tỏ nhiệt độ vẫn duy trì ở mức
cao trong quá trình biến chất tiếp theo mặc dù bắt đầu có sự giảm nhiệt (từ sillimanit
tới staurolit). Pha biến chất này còn dẫn tới sự nóng chảy cục bộ của đá trầm tích sét
và hình thành các thân granit-pegmanit được xếp vào phức hệ Phia Bioc (Ảnh 3.1).
Như vậy, quá trình biến chất thứ nhất diễn ra trong điều kiện của pha biến dạng 1 và
duy trì ở pha biến dạng 2, nơi nhiệt độ biến chất đạt cực đại.
60
Sill 2
Sill 1
Bi
Sill 1
Mu
Ảnh 3.22. Đá phiến sillimanite chứa các tập hợp fibrolit thế hệ thứ nhất có sự định hướng song song với phiến S1, sillimanit thứ 2 bao gồm các tinh thể đơn lẻ dạng kim mọc chồng lên cấu tạo S1 (góc trái phía trên của ảnh), chứng tỏ chúng hình thành muộn hơn. Ảnh lát mỏng chụp dưới 2 nicon, đáy của ảnh dài 3 mm. (Trần Thanh Hải, 2006)
Staur
Sill1
Ảnh 3.23. Ảnh lát thấy cho mỏng Staurolit mọc thay thế fibrolit trong đá phiến sillimanit. Sự thay thế có thể đánh dấu sự bắt đầu của biến chất giật lùi. Ảnh lát mỏng chụp dưới 2 nicon, đáy của ảnh dài 4 mm. (Trần Thanh Hải, 2006)
Pha biến chất 2 (M2) diễn ra ở nhiệt độ thấp hơn, làm chuyển hóa hầu hết các
khoáng vật biotit thành muscovit và sự thay thế silimanit bởi thạch anh và muscovitt.
Các tinh thể muscovit thay thế giả hình các khoáng vật thế hệ 1, và thường không làm
thay đổi đáng kể kiến trúc của đá. Đôi nơi, các khoáng vật musovit mọc chồng lên
các cấu tạo thế hệ 1 và 2, tạo nên cấu tạo đinh hướng song song mặt trục của nếp uốn
thế hệ 3 (Ảnh 3.24). Bên cạnh đó, sự xuất hiện của tuarmaline đẳng thước chồng lên
các khoáng vật của pha 1 cho thấy pha biến chất này diễn ra trong điều kiện giảm áp
và giảm nhiệt, có thể diễn ra vào cuối pha biến dạng thứ 3 (Ảnh 3.24). Biến đổi mang
61
tính cục bộ chủ yếu dọc theo các đới biến dạng cao, điển hình là các hiện tuợng sericit
hoá, calcit hoá, epidot hoá và đôi chỗ là chlorit hoá (tướng phiến lục) có thể đã được
hình thành vào cuối pha biến dạng này.
Như vậy, có thể thấy sự kiện biến chất cao trong khu vực liên quan tới pha biến dạng 1 và 2
và sau đó, biến chất ở nhiệt độ thấp hơn diễn ra trong các pha biến dạng muộn hơn.
Tour
Mus
Ảnh 3.24. Ảnh lát mỏng cho thấy Sự thay thế hoàn toàn sillimanit bởi của muscovit và sau đó sự mọc của chồng tourmaline trên nền muscovit là sản phẩm của biến chất giật lùi liên tục pha biến dạng 3. Ảnh lát mỏng chụp dưới 2 nicon, đáy của ảnh dài 4 mm
Mối quan hệ và lịch sử nhiệt kiến tạo trong khu vực Khối cấu trúc Tạ Khoa được
tóm tắt trong Hình 3.7. Trong đó giai đoạn biến dạng sớm có thể diễn ra từ giữa
Carbon (khoảng 300 tr. năm) và kéo dài tới khoảng 250 tr. năm, đi cùng là cực điểm
biến chất tiến triển tới tướng amphibolit với sự phản ứng phá hủy muscovit và thạch
anh và xuất hiện của sillimanit (fibrolit) đạt cực đại ở khoảng 250 tr. năm. Sau đó,
pha biến dạng thứ 2 vẫn diễn ra trong điều kiện nhiệt áp cao sau 250 tr (từ 230-240)
và tiếp tục dẫn tới sự hình thành cục bộ các tinh thể sillimanit. Pha biến chất 2 (M2)
diễn ra trong điều kiện giảm nhiệt áp so với pha M1 và dẫn tới sự hình thành muscovit
thế hệ 2 chồng lên các khoáng vật biến chất cao của thế hệ 1. Pha này tương ứng với
sự kiện biến dạng thứ 3 trong vùng nghiên cứu diễn ra sau 230 tr năm. Các pha biến
dạng muộn hơn diễn ra trong điều kiện nhiệt độ và áp suất thấp, không có ảnh hưởng
đáng kể tới sự thay đổi của bình đồ cấu trúc khu vực.
62
Hình 3.7. Đồ thị điều kiện nhiệt áp tóm tắt mối quan hệ giữa biến dạng, biến chất và tuổi tương đối của chúng tác động tới các đá trầm tích biến chất thuộc phần nhân phức nếp lồi Tạ Khoa. Điểm giao cắt của các trường Al2SiO5 (H) theo Holdaway and Mukhopadhyay (1993). Đường cong phản ứng 1 thể hiện ranh giới phản ứng phá hủy muscovit (+thạch anh) để tạo sillimnait + magma theo Carmichael (1978), đường ranh giới phản ứng tạo cordierrit theo Holdaway and Lee(1977) và đường ranh giới phản ứng tạo cordierite + granat + K-feldspar + magma theo Spear et al. (1999) (Trần Thanh Hải et al, 2013 [34]).
3.8. Lịch sử phát triển địa chất khu vực
Sự có mặt của nhiều loại đá có thành phần, môi trường thành tạo, tuổi và
mức độ biến dạng khác nhau trong vùng chứng tỏ khu vực nghiên cứu nằm trong
một bộ phận của vỏ trái đất có lịch sử tiến hoá địa chất lâu dài và phức tạp. Những
quan sát thực địa về mối quan hệ giữa các yếu tố cấu tạo tác động lên đá cho thấy
một qúa trình tiến hoá mang tính đa kỳ của toàn khu vực, từ ít nhất là giai đoạn
Paleozoi giữa và kéo dài tới hiện tại (Hình 3.8)
3.8.1. Giai đoạn Devon sớm tới Carbon sớm (D1 - C1)
Trong giai đoạn Devon sớm tới Carbon sớm, vùng nghiên cứu được đánh
dấu bởi sự lắng đọng của một tổ hợp các trình tự trầm tích lục nguyên, lục nguyên
silic, silic, lục nguyên carbonat, carbonat từ tướng ven rìa lục địa cho tới tướng biển
sâu trong điều kiện của một rìa lục địa thụ động, thể hiện trong phần lớn các tổ hợp
thạch học thuộc tổ hợp thạch kiến tạo 1. Vỏ Trái đất trong khu vực nghiên cứu vào
đầu Devon sớm bị sụt lún và mở rộng bồn đại dương trong một thời gian dài từ giai
đoạn Devon sớm đến Carbon sớm (Metcalfe, 2005) đi cùng là sự thay đổi mang tính
63
Hnh 3.8 Mô hình 2 chiều
64
quy luật của các tướng trầm tích, từ tướng nước nông tới tướng nước sâu với sự
lắng đọng của các tổ hợp thạch học lục nguyên và lục nguyên carbonat của các hệ
tầng Nậm Sập, Bản Páp, và các trầm tích giàu silic có chứa mangan của các hệ tầng
Bản Cải và Đa Niêng. Tuy nhiên, đến giai đoạn đầu Carbon, cấu hình của bồn trầm
tích có thể bắt đầu thay đổi khi mà các trầm tích của hệ tầng Đa Niêng chuyển dần
từ các trầm tích biển sâu (chứa silic phân dải mỏng) thành các trầm tích carbonat
phân lớp dày của tướng biển nông.
3.8.2. Giai đoạn Carbon giữa – Đầu Triat sớm (C2 - T1)
Vào giai đoạn này vùng nghiên cứu chịu ảnh hưởng chung của cả khu vực với
quá trình biển thoái đi cùng với sự thu hẹp lại của bồn trầm tích hay sự triệt thoái
chế độ thềm thụ động của giai đoạn trước. Trong giai đoạn này khu vực nghiên cứu
hoàn toàn vắng mặt các trầm tích và chỉ xảy ra các quá trình nâng cao bào mòn.
Theo các tài liệu nghiên cứu gần đây của Metcalfe (2005), vào giai đoạn Carbon
sớm, bắt đầu mảng Đông Dương và mảng Nam Trung Hoa đã hội nhập với nhau
dọc theo đới khâu Sông Mã. Như vậy, có thể sự hội nhập này chính là nguyên nhân
dẫn tới sự thay đổi cấu hình bồn trầm tích ở hai bên rìa của hai địa mảng, dẫn tới sự
nâng lên của đáy bồn, và quá trình tạo núi diễn ra và dẫn tới sự biến dạng sớm của
các đá thành tạo D1 - C1, tạo ra những bằng chứng đầu tiên của Pha biến dạng thứ 1
và làm cho các đá có nguồn gốc biển sâu bị chờm trượt, uốn nếp và bị chôn vùi
xuống sâu biến chất tới tướng amphibolit. Các đá granit pegmatit trước đây được
xếp vào phức hệ Phia Bioc trong khu vực nghiên cứu là kết quả phân dị tại chỗ của
quá trình biến chất các đá sét ở nhiệt độ cao, ứng với tướng amphibolit này.
3.8.3. Giai đoạn Triat sớm (T1)
Giai đoạn này được đánh dấu sự nghịch đảo hoàn toàn của thềm thụ động của giai
đoạn trước và thay thế bởi một rìa lục địa tích cực. Sự kiện kiến tạo này đã dẫn tới sự
hình thành các đá xâm nhập, phun trào và các thành tạo có liên quan của tổ hợp thạch
kiến tạo 2 gồm các thành tạo magma phức hệ Ba Vì (U-Gb,Gb/ T1bv) và các đá phun
trào có thành phần từ mafic tới á kiềm của hệ tầng Viên Nam (T1vn) trong bối cảnh của
một rìa lục địa tích cực bao gồm một cung magma lục địa và một bồn sau cung.
65
Mặc dù trên diện tích chưa phát hiện được những bằng chứng về magma xâm
nhập liên quan tới một cung magma lục địa, nhưng các thành tạo phun trào của hệ
tầng Cẩm Thuỷ (vùng lân cận) có thể là một phần của cung magma này, tương tự
như các khu vực khác ở Tây Bắc Việt Nam (Nguyễn Văn Nguyên và nnk, 2005;
Trần Thanh Hải và Nguyễn Văn Nguyên, 2006). Hầu hết các nghiên cứu địa chất
khu vực gần đây đều cho rằng phần rìa tây nam của Tây Bắc Việt Nam từng là vị trí
của một rìa lục địa tích cực (Wang, 2000; Lepvrier, 2004; Trần Thanh Hải và
Nguyễn Văn Nguyên, 2006). Bên cạnh đó, sự phát triển của một cung magma lục
địa dọc theo rìa này có thể đã dẫn đến sự tách giãn và sụt lún sau cung để thành tạo
một bồn trũng sau cung Sông Đà (Lepvrier, 2004; Trần Thanh Hải và Nguyễn Văn
Nguyên, 2006), dẫn đến sự thành tạo các tổ hợp thạch kiến tạo rìa lục địa tích cực
Mesozoi sớm mô tả ở phần trên. Sự kiện này diễn ra có lẽ là hậu quả của quá trình
hội nhập của tiểu mảng Sibumasu vào Đông Dương và Nam Trung Hoa để tạo
thành một địa mảng lớn hơn (mảng Cathaysia của Metcalfe, 2005).
3.8.4. Giai đoạn Triat sớm - Triat muộn (T1-3)
Trong giai đoạn này quá trình mở rộng bồn trũng sau cung vẫn tiếp tục và
được lắng đọng bởi các trầm tích lục nguyên-carbonat và carbonat của các hệ tầng
Cò Nòi và Đồng Giao, Nậm Thẳm, Nậm Mu, Pác Ma có tuổi Trias sớm-muộn.
Thành phần thạch học và cấu tạo cho thấy các trầm tích này được thành tạo trong
môi trường biển tương đối nông là chủ yếu nhưng trong khi đó sự có mặt của vật
liệu phun trào trong thành phần lục nguyên và mối quan hệ gần gũi về không gian
với các đá magma phun trào của hệ tầng Viên Nam chứng tỏ các đá lục nguyên của
tổ hợp thạch học này liên quan gần gũi với hoạt động xâm nhập và phun trào trong
môi trường rìa lục địa tích cực. Như vậy, các đá của tổ hợp thạch học đang mô tả này
có lẽ đã được lắng đọng trong bối cảnh của một bồn sau cung tiến hoá từ sự tách giãn
sau cung đã đề cập ở trên.
3.8.5. Giai đoạn Triat muộn - Kreta.
Bắt đầu từ Trias muộn đánh dấu sự nghịch đảo kiến tạo, với sự phá huỷ liên tục
các bồn trầm tích được hình thành trong rìa lục địa tích cực trên, đi cùng là hoạt động
66
biến dạng của vỏ Trái đất dẫn tới sự tạo núi thể hiện bởi sự xuất hiện của các yếu tố cấu
trúc thuộc Pha biến dạng thứ 2 trong các đá có tuổi Carni và cổ hơn. Sự nâng cao của
vỏ Trái đất đã làm cho bồn trũng đại dương bị thu hẹp lại, tạo thành các vũng vịnh và
đầm lầy của các bồn kiểu trước núi, đôi chỗ bị nâng cao tạo thành các mặt bất chỉnh
hợp mà trên đó lắng đọng các trầm tích molas xám của hệ tầng Suối Bàng trong giai
đoạn cuối của Trias.
Quá trình nghịch đảo kiến tạo và tiếp tục trong giai đoạn Jura tới kreta sớm,
đi kèm là sự xâm nhập hoặc phun trào của magma của các tổ hợp thạch học phun
trào và trầm tích, phun trào và xâm nhập (hệ tầng Suối bé, Tú lệ, phức hệ Nậm
chiến, Phu Sa Phìn) trong bối cảnh của chế độ tạo núi. Quá trình này cũng kéo theo
sự khép kín dần các bồn trầm tích, chỉ để lại các bồn trũng lục địa nhỏ dạng các hồ
kín mà trong đó lắng đọng các trầm tích molas đỏ hệ tầng Yên Châu. Quá trình tạo
núi dẫn tới sự nâng cao và biến dạng của vỏ Trái đất, các thành tạo trước đó bị biến
dạng tạo nên Pha biến dạng thứ 3 trong các đá có tuổi trước Kreta muộn.
Toàn bộ quá trình trên diễn ra trong một thời gian dài, kế thừa hoặc chồng
chất nhau, tạo ra sự kiện tạo núi quan trọng ở toàn bộ Đông Dương và Nam Trung
Hoa, và trùng với giai đoạn tạo núi Indosini. Phần lớn các nhà nghiên cứu hiện nay
đều cho rằng giai đoạn tạo núi này diễn ra chủ yếu do sự hội nhập của địa mảng
Sibumasu vào địa mảng Đông Dương-Nam Trung Hoa (Hutchison, 1989; Metcalfe,
2002, 2005) mặc dù một số nghiên cứu khác cho rằng giai đoạn này đánh dấu sự hội
nhập của mảng Đông Dương vào mảng Nam Trung Hoa (Metcafe, 2005). Ngoài ra
sự biến động kiến tạo trong vùng nghiên cứu còn có thể đã chịu tác động của sự
đông độ kiến tạo giữa hai mảng Nam và Bắc Trung Hoa (Metcafe, 2005).
3.8.6. Giai đoạn Kainozoi (KZ)
Trong giai đoạn đầu Kainozoi hoạt động kiến tạo trong khu vực nghiên cứu
được thể hiện bởi các cấu tạo uốn nếp, đứt gãy trong môi trường dòn-dẻo của Pha
biến dạng 4 và sự thành tạo hàng loạt hệ thống đứt gãy dòn của Pha biến dạng 5.
Các nếp uốn dạng gãy đi cùng các đới trượt dòn – dẻo của pha biến dạng 4
có thể xảy ra trước Paleogen giữa khi vùng nghiên cứu đã trải qua quá trình biến
67
dạng kịch điểm (terminant) và vỏ Trái đất đang dần nguội xuống, sau khi đã đạt cực
điểm. Các nếp uốn gãy với mặt trục thẳng đứng, góc liên cánh lớn, và có dạng cặp
đôi thể hiện một trường ứng suất yếu với hai trục biến dạng cực đại và cực tiểu có
phương nằm ngang, chứng tỏ lúc này vỏ Trái đất trải qua giai đoạn biến dạng dịch
ngang là chủ yếu, có thể liên quan tới sự xoay trượt của các địa khối do các tác động
gián tiếp ở tương đối xa như sự kiện tạo núi Hymalaya gây ra bởi sự va chạm giữa
mảng Ấn Độ và mảng Âu-Á. Có thể quá trình này đã hình thành các trũng dọc theo
các đứt gãy lớn (đứt gãy phân khối) mà ở đó đã được lấp đầy bởi các trầm tích lục
nguyên chứa dầu tuổi Paleogen.
Tiếp theo, khi vỏ Trái đất đã nguội lạnh, sự biến dạng của vỏ tạo nên các hệ
thống đứt gãy dòn có nhiều phương và cơ chế dịch chuyển khác nhau. Các hoạt
động đứt gãy dòn trên phạm vi vùng nghiên cứu và có thể cả vùng Tây bắc có lẽ
liên quan tới sự tái phân bố các trường lực. Nhiều nhà địa chất cho rằng trong giai
đoạn cuối Paleogen cho đến hiện tại, lãnh thổ Việt Nam, trong đó có vùng Tây Bắc
bị dịch trượt về phía đông nam dưới tác động trực tiếp của sự va chạm mảng giữa
mảng Ấn Độ với rìa nam của mảng Âu-Á và tạo ra hoạt động đứt gãy trượt bằng rất
phổ biến.
68
Chƣơng 4
ĐẶC ĐIỂM QUẶNG HOÁ ĐỒNG - NIKEN, ĐỒNG - VÀNG KHỐI CẤU TRÚC
TẠ KHOA VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI CÁC CẤU TẠO ĐỊA CHẤT
4.1. Đặc điểm quặng quặng hóa Khối cấu trúc Tạ Khoa
4.1.1. Đặc điểm quặng đồng - niken
4.1.1.1. Đặc điểm quặng đồng – niken khu vực Bản Khoa, Bản Phúc
4.1.1.1.1. Quặng sulfur đồng - niken đặc sít
Trong Khối cấu trúc, chúng tập trung chủ yếu ở phía đông nam khu vực khối
Bản Phúc, Bản Khoa (Hình 1.2, Hình 4.1, Hình 4.1, Hình 4.2). Ngoài ra còn gặp ở các
khu vực khác như khu vực Bản Mông, Bản Trạng,.... Các thành tạo này có đặc điểm
chung là phân bố trong các đới biến dạng cao. Trong các đới này, quặng hóa thường
tập trung dạng các vi mạch hoặc khối đặc sít nằm giữa các thể dăm, melange hoặc
boudins (Ảnh 4.1) hoặc xuyên cắt vào tường của các cánh của đới trượt. Ở một số khu
vực thân quặng thường đi cùng với các thành tạo đồng – niken dung ly phân bố trong
các khối xâm nhập siêu mafic nhưng chúng phân bố độc lập và nằm trong các đá lục
nguyên biến chất bên ngoài khối xâm nhập. Tuy nhiên phần lớn chúng nằm cách khá
xa khối xâm nhập.
Đặc điểm quặng hóa khu vực Bản Phúc
Các thân khoáng trong khu vực Bản Phúc phân bố ở rìa đông nam khối Bản
Phúc và một số khu vực khác (Hình 3.3). Các đới biến dạng chứa quặng cắt qua
các đá lục nguyên carbonat bị biến chất, nằm ngoài và cách đới tiếp xúc giữa thể
xâm nhập với đá trầm tích từ vài mét đến hàng trăm mét. Thân quặng kéo dài theo
phương tây bắc-đông nam và nằm trong các đới biến dạng cùng phương, với chiều
dài hàng chục đến hàng ngàn mét, sâu hàng trăm mét, dày từ vài chục cm tới hàng
chục mét. Kết quả thăm dò của Đoàn 305 (1988) [22] đã xác định được hai thân
quặng (Thân quặng 1 và 2). Kết quả tìm kiếm thăm dò bổ sung của Công ty Mỏ
Niken Bản Phúc năm 2006 [21] đã gộp hai thân quặng trên thành một và được đánh
số trên sơ đồ là Thân quặng số I (Hình 4.1, Hình 4.4).
69
Thân quặng số I
Phân bố ở phía nam Khối Bản Phúc, thế nằm của thân quặng gần trùng với
thế nằm của đá vây quanh, theo hướng cắm ít nhiều bị uốn lượn. Nhìn chung, thân quặng cắm về đông bắc (200-250), rất dốc (700-900), phổ biến từ 750 đến 800. Phần lộ trên mặt cắm rất dốc khoảng: 800-900 đôi chỗ có thế nằm đảo về tây nam (2000- 2050).Đường phương thân quặng khá duy trì, ổn định theo phương tây bắc-đông nam (2900-1150). Riêng phạm vi từ tuyến 50050E đến tuyến 50100E [21], thân
quặng uốn cong, thay đổi đường phương, cắm về tây bắc trong đoạn dài khoảng
50m, sau đó uốn trở lại cắm về đông bắc. Vách, trụ thân quặng chủ yếu là đá trầm
tích biến chất (Ảnh 4.1A).
Thân quặng I có cấu tạo khá phức tạp, hình dáng thân quặng phình to, thu
hẹp lại liên tục và phân nhánh. Chiều dày thân quặng lớn nhất là 38,78m, nhỏ nhất
0,15m [21], có từ 1 đến 5 lớp đá kẹp với chiều dày đá kẹp lớn nhất 7,39m, nhỏ
nhất 1,16m. Các lớp kẹp đều có dạng thấu kính vát nhọn, hoặc lớp kẹp tách (dạng
bao thể kiến tạo).
Thành phần khoáng vật quặng chủ yếu: pyrotin (70%); pentlandit (10%-
20%); chalcopyrit (5%); manhetit (4%); pyrit (3%); violarit (2%-2,5%), các khoáng
vật khác như milerit, sphalerit, nikenin, ramelsbergit rất ít, hiếm gặp (Ảnh 4.1C).
Trong Thân quặng I, ngoài thành phần có ích chính là Ni còn có Cu và Co.
Hàm lượng Ni trong thân quặng I dao động từ 0,03% đến 9,54%. Trong đó, ở
các công trình hào hàm lượng Ni dao động từ 0,01% đến 3,3%, ở lò hàm lượng Ni
nhỏ nhất 0,03%, lớn nhất 8,83%, ở công trình khoan, nhỏ nhất 0,09%, lớn nhất
9,54% [21]. Hàm lượng Ni trong quặng sulfur đồng-niken đặc sít dạng mạch khá
cao, dao động từ 2%-3% đến 6%-7%, cao nhất 9,54%. Hàm lượng Ni trong đới
sulfur đồng-niken xâm tán quanh mạch khá thấp, dao động từ 0,2% đến 0,5%-0,6%,
phổ biến từ 0,2%-0,35% [21]. Hàm lượng Cu theo điểm công trình cắt qua thân
quặng dao động từ 0,03% đến 2,75% trung bình 0,05%. Hàm lượng Co trong thân
quặng I rất thấp, dao động từ 0,001% đến 0,33% hàm lượng trung bình 0,07% [21].
70
Hình 4.1. Mặt cắt địa chất Tuyến XI mỏ quặng niken Bản Phúc trong đó thể hiện các thân quặng 1, 2 và 3 (thành lập theo tài liệu của Đoàn 17 và Đoàn 305 và các kết quả nghiên cứu của tác giả)
71
Hình 4.2: Mặt cắt địa chất tuyến 49800E trong đó thể hiện các thân quặng I và II (thành lập theo tài liệu của Đinh Hữu Minh, 2006. [21] và các kết quả nghiên cứu của tác giả)
72
A
C
Qđs
My
Đá lục nguyên Biến chất
khoáng
Ảnh 4.1. Minh họa đặc điểm quặng đồng niken đặc sít tại khu vực Mỏ Bản Phúc, Phù Yên, Sơn La, trong đó: A. Quặng đồng niken trong đới đá biến dạng cao trong đá lục nguyên biến chất. Trong đó phần bên phải dấu vạch hồng là quặng sulfur đặc sít (Qđs), phần bên trái là đá lục nguyên biến chất và ở giữa là đới biến dạng milonit (My) trong đó cũng chứa nhiều quặng sulfur dạng mạch nhỏ và xâm tán và xa hơn là trầm tích biến chất. Ở đây chiều dịch trượt của đứt gãy được thể hiện khá rõ qua dấu hiệu 2 bên cánh. B. Mẫu quặng đặc sít tại khu vực Mỏ Bản Phúc. C. Ảnh tướng: Pentlandit (Pld) hạt lớn tương đối tự hình tạo tập hợp đặc sít cùng với pyrotin (Pyr) và chalcopyrit (Chp) (mẫu lấy từ L201/1).
Đặc điểm quặng hóa khu vực Bản Khoa
Thân quặng 1a
Đặc điểm cấu trúc khu vực mỏ khá tương đồng với Mỏ Bản Phúc. Theo kết
quả nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Hải (2013)[4] và của tác giả, các thân quặng đặc
73
sít được tìm thấy tại khu vực Suối Đán, chúng phân bố trong các đới biến dạng cao
nằm trong các trầm tích biến chất hệ tầng Nậm Sập, phía đông nam cách khá xa
Khối Bản Khoa và được gọi là Thân quặng 1a (Hình 3.3, Hình 4.3). Ở phía tây bắc thân quặng cắm về đông bắc (300-400), rất dốc (750-800), ở phía đông nam cắm về
tây nam, hoặc dốc đứng đôi khi là đông bắc. Đặc điểm quặng hóa cũng khá tương
đồng với Mỏ Bản Phúc, quặng tạo mạch đặc sít và xâm tán ở xung quang trong các
đá trầm tích biến dạng (Ảnh 4.2A, 5.2B)
Đới chứa quặng kéo dài 2,3km, sâu khoảng 35m, dày 0,08m tới 2,75m; trung
bình 0,9 đến 1m. Thành phần khoáng vất quặng gồm pyrotin (65-70%), pentlandit
(8-10%), chalcopyrit (5%), magnetit (4%), pyrit (3%), violarit (2%), milerit (ít) và
phi quặng (5%) (Nguyễn Ngọc Hải, 2013)[4]. Hàm lượng Ni 0,33-3,44%, Cu 0,15-
1,21%, Co 0,06-0,14% (Nguyễn Ngọc Hải, 2013)[4].
Hình 4.3: Mặt cắt địa chất tuyến III trong đó thể hiện các thân quặng 1a, 1, 2, 3 và 4 (thành lập theo tài liệu của Nguyễn Ngọc Hải, 2003[4], Đoàn 2K[23]), Đoàn 305 [22] và tài liệu của tác giả
74
A A
Sulfur đặc sít
B
Đá lục nguyên Biến chất
Ảnh 4.2.: Minh họa đặc điểm quặng đồng niken đặc sit tại khu vực Mỏ Bản Khoa, Phù Yên, Sơn La, trong đó: A. Quặng đồng niken trong đới đá biến dạng cao trong đá lục nguyên biến chất (Nguyễn Ngọc Hải, 2013).. (F3?) có phương gần vuông góc với nhau. B. Ảnh khoáng tướng:Chalcopyrit (Chp)tạo ổ thay thế gắn kết khoáng vật tạo đá.
4.1.1.1.2. Quặng sulfur đồng-niken xâm tán phân bố trong khối siêu mafic
Thân quặng thường phân bố dưới sâu thể xâm nhập siêu mafic và ở ven rìa
đường tiếp xúc mạch dunit bị serpentin hoá hoàn toàn với đá vây quanh. Đây là các
thân quặng có nguồn gốc magma dung ly. Trong khu vực nghiên cứu, quặng phân bố
chủ yếu ở trong khối xâm nhập siêu mafic Bản Phúc, Bản Khoa và một số thể nhỏ
khác tại các khu vực Bản Mông, Bản Trạng, Bản Vờ, Bản Cải, Bản Nguồn, Núi Hom,
Đèo Chẹn, Suối Páy. Đặc điểm chung của loại này là, quặng xâm tán thưa và khá đều
trong các khối xâm nhập (thuộc phần đáy ban đầu của khối xâm nhập), quy mô các
thân quặng tỷ lệ thuận với kích thước của khối xâm nhập.
Đặc điểm mỏ quặng Bản Phúc
Tại khu vực Mỏ Bản Phúc, theo kết quả thăm dò của Đoàn 305 (1988) [22]
đã xác định được 2 thân quặng và được đánh số là 3, 4 (Hình 4.1), kết quả tìm kiếm
thăm dò bổ sung của Công ty Mỏ Niken Bản Phúc năm 2006 [21] cũng đã xác định
được 2 thân quặng và được đánh số là Thân quặng số II và Thân quặng số III (Hình
75
4.2, Hình 4.4), vị trí của 2 thân quặng theo các tài liệu khác nhau trên cơ bản là
trùng nhau, tuy nhiên về kích thước và mức độ chi tiết có khác nhau.
Thân quặng II
Thân quặng II phân bố ở dưới sâu và được khống chế qua các lỗ khoan và lò.
Kích thước thân quặng II khá lớn, chiều dài theo hướng tây bắc-đông nam 750m,
chiều rộng theo hướng đông bắc - tây nam từ 300m đến 450m. Tổng chiều dày
quặng nhỏ nhất 1,55m, lớn nhất 281,95m [9].
Trong thân quặng II có nhiều lớp đá kẹp, số lớp đá kẹp từ 1 lớp đến 5 lớp [21].
Các lớp kẹp thường có dạng thấu kính (thấu kính kiến tạo?), kéo dài vài chục mét
đến 100m, chiều dày lớp kẹp nhỏ nhất là 3,40 và lớn nhất 12,46m[21].
Thành phần khoáng vật quặng của thân quặng II gồm chủ yếu pentlandit, ít
violarit, pyrotin và rất hiếm chalcopyrit. Các khoáng vật sulfur đồng-niken xâm tán
trong đá dunit (Ảnh 4.3A) nằm trong khoảng trống giữa các hạt olivin và cùng tổ
hợp khoáng vật phlogopit, fuxit, carbonat, antigonit thường có cấu tạo đám, có kích
thước từ trên dưới 1mm đến 5mm-6mm, đôi chỗ có cấu tạo xâm tán dày, kiến trúc
hạt tha hình [21] (Ảnh 4.3B, Ảnh 4.3C).
Thân quặng II có hàm lượng Ni thấp. Hàm lượng Ni nhỏ nhất 0,03%, lớn nhất
4,24%. Đáng lưu ý hàm lượng Mg trong quặng rất cao, phổ biến từ 20% đến 25%. Tại
thời điểm hiện tại thì loại quặng này được coi là không có giá trị công nghiệp.
Hàm lượng Cu và Co trong thân quặng II rất thấp, theo mẫu thì Cu dao động
từ 0,00% đến 1,28% (BP04-10) phổ biến 0,00% đến 0,1% trung bình 0,03%, Co: từ
7ppm đến 663 ppm trung bình 60ppm [21].
Thân quặng III
Thân quặng III phân bố ở phía đông bắc của khối siêu mafic Bản Phúc, có dạng
thấu kính cắm về phía đông bắc (Hình 4.4), phân bố từ độ cao +350m đến +250m,
chiều rộng 50m đến 75m, chiều dài 100m đến 120m. Chiều dày quặng nhỏ nhất 25m,
lớn nhất 48m, có 3 thấu kính đá kẹp với chiều dày lớn nhất 18m, nhỏ nhất 4m [21].
76
Hình 4.4: Mặt cắt tính trữ lượng tuyến 50050E trong đó thể hiện các thân quặng I, II và III (thành lập theo tài liệu của Đinh Hữu Minh, 2006. [21] và tài liệu của tác giả)
C
A
B
Ảnh 4.3 : Minh họa đặc điểm quặng đồng niken xâm tán trong đáy và vách khối iêu mafic Bản Phúc tại khu vực Mỏ Bản Phúc, Phù Yên, Sơn La, trong đó: A. Các thành tạo dunit phức hên Ba Vì có chứa quặng sulfur niken-đồng tại khu vực Lò L201/2 khu vực phí tây nam Mỏ Nam Phúc.
B: Ảnh mài láng mẫu lõi khoan trong thân quặng xâm tán tại Mỏ Bản Phúc (Nguyễn Ngọc Hải, 2013) C: Chalcopyrit (Chp), manhetit (Mt) hạt tha hình xâm tán trên nền đá dunit phức hên Ba Vì tại khu vực Lò L201/2 Mỏ Bản Phúc (Mẫu khoáng tướng L201/2).
77
Thành phần khoáng vật của thân quặng III cũng tương tự thân quặng II. Hàm
lượng Ni dao động từ 0,36% đến 0,66%, trung bình 0,5%. Hàm lượng Cu dao động
từ 0,02 đến 0,14%, trung bình 0,07%. Hàm lượng Co từ 0,01% đến 0,02% trung
bình 0,014% hàm lượng Mg rất cao, từ 21% đến 26% [21].
Cũng như thân quặng II, thân quặng III được đánh giá không có giá trị công
nghiệp trong giai đoạn này.
Đặc điểm mỏ quặng Bản Khoa
Đặc điểm thành phần thạch học và đặc điểm chứa quặng của khối Bản Khoa
khá tương đồng với khối Bản Phúc. Trong khu vực đã ghi nhận được 4 thân quặng
[22, 23], (Hình 4.3):
Thân quặng 1: đây là thân lớn nhất của mỏ, mặt cắt ngang có hình dạng lưỡi
liềm, đường kính 330m, mặt cắt dọc có dạng thấu kính. Quặng kéo dài theo phương ĐB-TN khoảng 300m, cắm nghiêng về đông nam với góc dốc 30-40o, sâu 195m,
dày 1,2-46,45m, trung bình 15,22m. Hàm lượng (%) Ni: 0,5-1,02; Cu: 0,051-0,23;
Co: 0,01-0,025.
Thân quặng 2: mặt cắt dọc và ngang đều có dạng thấu kính, chiều dài 80m,
rộng 50m, dày 10,94m. Hàm lượng Ni: 0,39%.
Thân quặng 3: dạng thấu kính vát nhọn với chiều dài 140m, rộng 50m, dày
6,6m. Hàm lượng Ni: 0,43%.
Thân quặng 4: dạng thấu kính vát nhọn, dài 120m, rộng 50m, dày 5,15m.
Hàm lượng niken: 0,34%
Nhìn chung quặng dạng xâm nhiễm tạo thành các đám nhỏ có hình dạng méo
mó, đôi nơi tạo thành dạng mạch đặc sít, nhưng ít. Thành phần khoáng vật quặng
gồm: pyrotin, pentlandit, chalcopyrit, magnetit, pyrit, sphalerit, galena. Quặng có
cấu tạo xâm tán, mạch nhỏ.
4.1.1.1.3. Quặng silicat-đồng-niken
Hiện mới ghi nhận được quặng phân bố ở Khối Bản Phúc, quặng silicat niken
phân bố khá đều trong lớp đá serpentinit bị phong hoá, gồm các thân quặng:
- Thân quặng 5 (kiểu bề mặt): dài 200m, rộng 155m, dày 6,31m.
78
- Thân quặng 6 (kiểu khe nứt): dài 205m, dày 26,16m, silicat niken nằm
trong khe nứt của đá.
- Thân quặng 7: nằm ngay trong khối dunit bị serpentin hóa.
- Thân quặng 8: nằm ở rìa phía bắc, đông bắc của khối dunit, chiều dài
250m, chiều dày trung bình 20m, chiều sâu >120m.
Thành phần khoáng vật chủ yếu là serpentin, talc, vermiculit và vermiculit
chứa niken (màu lục xẫm). Hàm lượng niken của các thân quặng thay đổi từ 0,6-
2,03%; ngoài ra còn có các nguyên tố cộng sinh như Co, Te, Se, Hàm lượng (%)
Co: 0,022-0,105, Se: 0,0001-0,0015; Te: 0-0,0001, các nguyên tố có hại rất ít Pb: 0-
0,01%; Sn: 0,003-0,011%; As: 0,01% [22].
4.1.1.2. Đặc điểm mỏ quặng Bản Xang (Bản Trạng)
Thuộc xã Mường Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La. Trong vùng đã ghi nhận
được 2 loại quặng. Quặng đồng-niken dạng xâm tán (Thân 1) được thành tạo do magma
dung ly, nằm trong thể gabrodiabas, gabro-peridotit nói trên và quặng đặc sít (Thân 2)
nằm trong các đới biến dạng cáo phân bố trong các đá trầm tích biến chất (Hình 4.5).
Thân quặng 1: Quặng xâm tán trong thể gabro-peridotit. Khoáng vật quặng tập
trung thành các ổ và hạt nhỏ không đều. Hàm lượng đồng và niken: 0,7%.
Thân quặng 2: Là thân quặng đặc sít dày 0,7-2m, dài 100m nằm trong đá phiến
thạch anh biotit màu đen. Hàm lượng đồng và niken: 3,7%.
Khoáng vật quặng gồm pyrotin, pentlandit, chalcopyrit, violarit, pyrit. Ngoài ra
còn có galena, specularit.
4.1.1.3. Đặc điểm mỏ quặng Bản Mông
Thuộc xã Tà Hộc, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Quặng được thành tạo theo kiểu
magma dung ly trong các thành tạo xâm nhập (quặng xâm tán) và nhiệt dịch (quặng đặc
sít) nằm trong các đới biến dạng cao trong đá trầm tích biến chất.
- Loại quặng xâm tán: phân bố trong hai thân mafic:
Thân quặng 1: Khoáng vật quặng xâm tán trong thể mafic thứ nhất, dài 200m,
dày 1-5m. Hàm lượng Ni: 1,33%; Cu: 0,66%. Mẫu kiểm tra cho T.Fe: 12,65%; Cu:
0,1%; Pb: 0,03%; Zn: 0,01% [10].
79
Hình 4.5. Sơ đồ địa chất khoáng sản Điểm quặng Bản Xang (thành lập theo tài liệu
của Đoàn 17, Đoàn 305 và các kết quả nghiên cứu của tác giả)
Thân quặng 2: Khoáng vật quặng xâm tán trong thể siêu mafic thứ hai, dài 450m.
Quặng xâm tán ở giữa và phình ra phía đông nam. Dày 1-2m. Hàm lượng Ni <0,7%.
- Loại quặng đặc sít: gồm một thân dạng mạch phân bố trong đá phiến thạch anh
felspat biotit epidot gần ranh giới của thể mafic. Mạch dài 10-20m, dày 0,1-0,3m. Hàm
lượng Ni+Cu: 7%. Khoáng vật quặng: pyrotin, chalcopyrit, violarit, pentlandit.
4.1.1.4. Biểu hiện khoáng hóa niken, đồng Bản Vờ
Thuộc xã Tà Hộc, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Quặng được thành tạo theo kiểu
nhiệt dịch nằm trong mạch gabrodiabas, kéo dài 400m, chỗ dày nhất 100m, chúng tạo
thành các ổ và mạch nhỏ. Khoáng vật quặng chủ yếu là pyrotin, chalcopyrit, violarit.
Hàm lượng Ni: 0,01-0,07%, trung bình 0,04%); Cu: 0,01-0,5%, trung bình 0,25%.
4.1.1.5. Biểu hiện khoáng hóa đồng - niken Bản Cải
Thuộc xã Chim Vàn, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La. Quặng hóa được thành tạo
theo kiểu nhiệt dịch xâm tán trong thân gabroperidotit xuyên lên đá thuộc tập 1 hệ tầng
Bản Cải. Thân dài 600-700m, chỗ dày nhất >100m. Ngoài ra quặng còn xâm tán thưa
trong hai thân xâm nhập khác xuyên lên đá vôi. Ở đây, trong đá vùng Bản Cải còn gặp
80
vài mạch thạch anh dày 2-3m, chứa quặng xâm tán ở dạng vảy. Khoáng vật quặng là
pyrotin, chalcopyrit, hematit. Hàm lượng quặng Ni: 0,06-0,17%; Cu: 0,01-0,02%.
4.1.1.6. Biểu hiện khoáng hóa đồng - niken Đèo Chẹn
Thuộc xã Mường Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La. Quặng hóa được thành tạo
xâm tán thưa trong đá siêu mafic có thành phần là dunit. Các quá trình biến đổi xảy ra
mạnh mẽ theo chiều dài và rộng của mạch. Khoáng vật quặng chủ yếu là pyrotin và
chalcopyrit. Hàm lượng Ni: 0,01-0,29%, trung bình 0,15%; Cu: 0,01-0,07%, trung bình
0,04%. Hàm lượng niken biến đổi theo chiều ngang và chiều sâu từ 0,01 tới 0,18%.
4.1.1.7. Biểu hiện khoáng hóa niken - đồng Bản Nguồn
Thuộc xã Song Pe, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La. Mạch peridotit bị serpentin hóa
chứa niken - đồng xâm tán kéo dài khoảng 400m, dày 50m. Khoáng vật quặng là
chalcopyrit xâm tán thưa trong đá. Hàm lượng Ni: 0,08-0,21%; Cu: 0,03%. Ngoài ra
trong khu vực còn gặp mạch gabrodiabas dày 5-10m chứa quặng chalcopyrit, pyrit xâm
tán thưa.
4.1.1.8. Biểu hiện khoáng hóa đồng - niken Núi Hom
Thuộc bản Suối Chan, xã Hồng Ngài, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La. Quặng hóa
xâm tán trong thể mạch, khối peridotit gồm 2 thân:
- Thân peridotit Suối Hoa: có chiều dài 500m, dày 130m. Quặng xâm tán không
đều, hạt nhỏ.
- Thân peridotit bản Si Trặng: dài 1.000m, dày nhất 400m, dạng thấu kính,
quặng xâm nhiễm thưa. Khoáng vật quặng: pyrotin, chalcopyrit, pentlandit, cupirit,
magnetit, pyrit, sphalerit...Hàm lượng Ni: 0,03-0,31%; Cu: 0,01-0,05%.
4.1.1.9. Biểu hiện khoáng hóa đồng - niken Cò Mị
Thuộc bản Suối Sắt, xã Tạ Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La. Quặng hóa có dạng
xâm tán hoặc mạch nhỏ, đôi chỗ tập trung đặc sít nằm trong mạch thạch anh dày 0,4m, chiều
dài chưa rõ. Khoáng vật quặng là pyrotin, chalcopyrit. Hàm lượng Ni: 0,08%; Cu: 0,04%.
4.1.1.10. Biểu hiện khoáng hóa đồng - niken Suối Páy
Thuộc xã Tạ Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La. Quặng hóa xâm tán trong hai
mạch gabrodiabas: Mạch thứ nhất dài 1km, dày 60m; Mạch thứ hai dài 300m, dày 25m.
81
Quặng ở dạng xâm tán rất thưa không nhìn thấy bằng mắt thường, đôi chỗ tạo thành
mạch nhỏ dày 0,5mm. Khoáng vật quặng là pyrotin, pyrit. Hàm lượng Ni: 0,02-0,19%;
Cu: 0,02%.
Một số đặc điểm khác nhau giữa quặng sulfur đặc sít và quặng sulfur xâm tán
+ Đối với thành phần khoáng vật: Các kết quả nghiên cứu cho thấy, quặng
sulfur đặc sit và quặng sulfur xâm tán có một số đặc điểm khác nhau về đặc điểm
thành phần khoáng vật, hàm lượng, tỷ lệ và mối quan hệ các nguyên tố kim loại có
sự khác nhau ở mỗi loại như sau (Bảng 4.2)
Bảng 4.2: so sánh sự khác nhau đặc điểm thành phần khoáng vật giữa quặng
sulfur đặc sít và xâm tán
Quặng sulfur đặc sít (%)
Quặng sulfur xâm tán (%)
Khoáng vật
Trung tâm
Ven rìa
Bám đáy Trung tâm khối
Pyrotin
70
40-50
5-7
25
Pentlandit
10
50-60
80-90
1
Chalcopyrit
5
3
2
30
Magnetit
4
Pyrit
3
10
Violarit
2,5
5
15
Milerit
Ít
Sphalerit
Hiếm
Nikelin
Hiếm
Ramelsbergit
Hiếm
Mackinavit
ít
Valerit
5
Phi quặng
5
Từ bảng trên cho thấy:
- Quặng sulfur đặc sít có pyrotin trội hơn hẳn pentlandit so với quặng sulfur xâm tán
82
- Trong quặng sulfur đặc sít có thành phần chủ là pyrotin và pentlandit với cấu
trúc mọc xen và phân hủy dưng dịch cứng (trong các hạt pyrotin thường có
pentlandit tồn tại dưới dạng hạt và dải, cấu trúc ngọn lửa, lamela) nên chúng là sản
phẩm phân hủy từ dung dịch cứng đơn sulfur. Còn trong quặng sulfur xâm tán,
pentlandit nằm tách bạch với pyrotin rất hiểm gặp kiểu mọc xen. Có lẽ do quá trình
ủ nhiệt lâu dài và quá trình phân tách triệt để giữa pyrotin và pentlandit (Đinh Hữu
Minh, 2003) [20]
+ Đối với hàm lượng các kim loại chính: kết quả nghiên cứu đã thể hiện sự
khác nhau như ở Bảng 4.3.
Bảng 4.3: so sánh sự khác nhau về hàm lượng các kim loại chính trong các
khoáng vật giữa quặng sulfur đặc sít và xâm tán
Hàm lƣợng các kim loại
Ni
Cu
Co
Cr
Khoáng
Quặng
Quặng
Quặng
Quặng
Quặng
Quặng
Quặng
sulfur
Quặng
vật
sulfur
sulfur
sulfur
sulfur
sulfur
sulfur
đặc sít
sulfur
đặc sít
xâm tán
đặc sít
xâm tán
đặc sít
xâm tán
xâm tán
0-0,09
0-0,03
0,004-0,4
0,24-
0.058-
Pyrotin
0,827
0,139
28,24-
0-2,4
0,164-
0-1,735
0,012-0,048
0-0,036
Pentlandit
33,5
0,6
0,012-0,194
0,02-
27-31,9
Chalcopyrit
0,185
0,008-0,064
28-33
Violarit
Từ bảng trên cho thấy:
+ Các khoáng vật pyrotin trong quặng sulfur đặc sít có chứa Ni và Cu cao hơn
ở quặng xâm tán
+ Các khoáng vật pentlandit trong quặng sulfur đặc sít có chứa Cu và Co thấp
hơn ở quặng xâm tán
+ Đối với hàm lượng các kim loại chính trong các khoáng vật: Sự khác biệt
được thể hiện ở Bảng 4.4.
83
Bảng 4.4: so sánh hàm lượng và tỷ số của các kim loại chính trong các
khoáng vật giữa quặng sulfur đặc sít và xâm tán
Hàm
Ni
Cu
Co
Pt
Pd
Pt/Pt+Pd
Ni/Ni+Cu
Cu/Cu+Ni
Ni/Cu
Lƣợng
Đặc
Xâm
Đặc
Xâm
Đặc
Xâm
Đặc
Xâm
Đặc
Xâm
Đặc
Xâm
Đặc
Xâm
Đặc
Xâm
Đặc
Xâm
tán
sít
sít
tán
sít
tán
sít
tán
sít
tán
sít
tán
sít
tán
sít
tán
sít
tán
0,04
0,07
0,16
0,028
0,01
0,007
0,01
0,03
0,01
0,03
0,03
0,34
0,28
0,63
0,04
0,03
0,39
1,72
Min
6,16
4,38
5,73
0,68
0,19
0,14
0,96
0,51
1,01
0,48
0,94
0,83
0,96
0,97
0,72
0,37
22,27
31,43
Max
1,18
0,22
0,02
0,09
0,17
0,09
0,17
0,42
0,49
0,71
0,85
0,28
0,15
4,69
7,6
TB
3,64 1,36 0,11 Từ bảng trên cho thấy:
+ Ni, Cu và Co trong quặng đặc sít cao hơn quặng xâm tán còn Pt và Pd ngược lại
+ Tỷ lệ Ni/Cu trong quặng xâm tán cao hơn trong quặng đặc sít.
+ Về mối tương quan giữa các kim loại: được thể hiện ở Bảng 4.5, 4.6
Bảng 4.5: Ma trận tương quan của các kim loại chính trong quặng sulfur đặc sít
Ni Cu
Co
Ag
Au
Pt
Pd
1
0,211
0,97
-0,137
-0,088
0,176
0,113
Ni
1
0,125
0,795
0,136
0,275
0,390
Cu
1
-0,119
-0,048
0,153
0,095
Co
1
0,104
0,228
0,277
Ag
1
0,286
0,071
Au
1
0,067
Pt
1
Pd
Từ bảng trên cho thấy:
+ Hệ số tương quan cao giữa Ni - Co trong quặng đặc sít thể hiện chúng có
nguồn gốc magma dung ly
+ Mối tương quan của Cu với Ni, Co thấp cho thấy sulfur là sản phẩm đã phân dị
kết tinh và thể hiện nguồn gốc phức tạp của chúng trong khu vực, Cu có thể có có cả
nguồn gốc ngoại lai ngoài nguồn gốc dung ly (Đinh Hữu Minh, 2003) [20]
84
Bảng 4.6: Ma trận tương quan của các kim loại chính trong quặng sulfur xâm tán
Ni Cu
Co
Ag
Au
Pt
Pd
1
0,74
0,77
0,46
0,2
0,61
0,57
Ni
1
0,62
0,45
0,19
0,35
0,34
Cu
1
0,16
0,11
0,3
0,16
Co
1
0,19
0,36
0,45
Ag
1
0,16
0,17
Au
1
0,9
Pt
1
Pd
Từ bảng trên cho thấy: Ni có mối tương quan khá tốt với cả Cu và Co, hoàn toàn
trái ngược với quặng đặc sít (Ni có tương quan thấp với Cu). Điều đó cho thấy chúng
được thành tạo trong điều kiện các giọt sulfur chưa tập trung thành bồn mà bị lưu giữ
lại trong các khoảng trống giữa các khoáng vật tạo đá (thành tạo sớm trong đông nguội
magma)(Đinh Hữu Minh, 2003) [20].
Quá trình hình thành quặng đồng – niken trong trong khối cấu trúc Tạ Khoa
- Quặng đồng – niken xâm tán trong khối xâm nhập: Có nguồn gốc dung ly được
hình thành trong quá trình di chuyển và kết tinh của các khối xâm nhập siêu mafic.
- Quặng đồng – niken đặc sít phân bố trong các đới biến dạng cao trong các đá
trầm tích biến chất: đã có nhiều tác giả nghiên cứu, trong đó Đinh Hữu Minh, 2003
đã cho rằng, quặng sulfur xâm tán trong khối siêu mafic và quặng sulfur đặc sít đều
là sulfur magma dung ly được hình thành từ các khối magma siêu mafic. Trong đó
quặng quặng sulfur đặc sít được thành tạo vào giai đoạn phân dị dung ly sớm, còn
sulfur xâm tán là sản phầm phân dị dung ly muộn hơn trong các khối siêu mafic.
Còn theo Glotov A.I et al., 2001 [28] đã cho rằng, quặng đồng – niken trong khu
vực nghiên cứu được thành tạo bởi 2 giai đoạn: Giai đoạn 1: được thành tạo trong
giai đoạn magma thực sự. Giai đoạn 2: liên quan tới quá trình nhiệt dịch sau
magma. (Hình 4.6).
Các nghiên cứu của tác giả và một số người khác tại khu vực cho thấy, các
thành tạo quặng đặc sít nằm trong các đới biến dạng cao thuộc Pha biến dạng thứ 2.
85
Mặt khác các đới biến dạng cao này cắt và làm biến dạng khá rõ các thể xâm nhập
không những ở phần biên giáp với đá trầm tích biến chất (Ảnh 3.12A) mà còn ngay
ở trong nội khối xâm nhập này (Ảnh 3.12 B, C).
Hình 4.6: Biểu đồ minh họa quá trình tạo quặng Mỏ Bản Phúc. A. Sự xâm nhập của dung thể komatit – bazan về phía bề mặt với sự thành tạo thể á núi lửa và sự tập trung của dung dịch sulfur gần phía đáy. B. Sự thành tạo của các thân quặng dạng mạch ở Mỏ Bản Phúc, với dung thể sulfur được cung cấp từ một thể trung gian (Theo Alexander I. Glotov et al, 2001[28] và kết quả nghiên cứu của tác giả).
Trong các đới trượt chứa quặng đặc sít thường ghi nhận được các bao thể kiến
tạo các đá siêu mafic bị tremolit hóa hoàn toàn có chứa quặng xâm tán, đó là phần
tàn dư của của một phần thuộc khối xâm nhập lớn. Từ những đặc điểm nêu trên cho
thấy, các đới biến dạng pha biến dạng thứ 2 hình thành sau và tác động lên khối
xâm nhập, bởi vậy quặng hóa đi cùng với chúng cũng được thành tạo sau quặng
sulfur xâm tán. Có lẽ, sự hình thành các đới trượt lớn Pha biến dạng thứ 2 cắt qua
khối xâm nhập siêu mafic và các trầm tích biến chất đã tạo ra các đới dập vỡ và các
đường dẫn thuận lợi cho quá trình di chuyển, tập trung để tạo thành các thân quặng.
Trong những điều kiện hoá lý thuận lợi, quặng xâm tán đã bị hòa tan và di chuyển
dễ dàng ra khỏi khối siêu mafic dọc theo đới biến dạng cao và tái tập trung khoáng
hóa Ni - Cu trong các đới trượt ở những vị trí thuận lợi.
86
4.1.2. Đặc điểm quặng đồng – vàng
Do đặc điểm phân bố và đặc điểm quặng hóa của các điểm quặng đồng vàng
là khá tương đồng nhau, chúng đều nằm trong các đới biến dạng cao phân bố trong
các đá phun trào hệ tầng Viên Nam, nên NCS chỉ mô tả một số điểm đặc trưng sau:
4.1.2.1. Biểu hiện khoáng sản vàng Suối Chát
Thuộc xã Suối Bau, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Quặng đồng vàng được
thành tạo liên quan đến đới mylonit có phương tây bắc – đông nam. Hệ thống đứt
gãy Đông bắc - Tây nam làm phức tạp bình đồ cấu trúc, chưa rõ mối liên quan với
quặng hóa, nó được tạo sau hệ thống Tây bắc - Đông nam (Hình 4.7).
Hình 4.7: Sơ đồ địa chất khoáng sản khu vực Biểu hiện khoáng sản Vàng Suối
Chát (thành lập theo tài liệu của Đoàn 17, Đoàn 305 và các kết quả nghiên cứu của tác giả)
87
Quặng hóa nằm trong một đới biến dạng, trong đó bao gồm nhiều mạch
thạch anh dạng thấu kính kéo dài, mạch nhỏ được vây quanh bởi các phiến đá
milonit với các biến đổi propylit hóa, sericit hóa, calcit hóa với nguồn gốc ban đầu
là các đá bazan hệ tầng Viên Nam (Ảnh 4.4A, B, C)
Quặng dạng xâm tán và các mạch nhỏ trong các thấu kính, mạch thạch anh
và trong đá biến đổi. Ở trung tâm đới quặng có hàm lượng cao hơn có nhiều mạch
và hạt lớn hơn, ngoài ra chủ yếu xâm tán dạng hạt nhỏ. Quặng có cấu tạo ổ, xâm
tán, mạch, mạng mạch, kiến trúc tha hình, nửa tự hình, tự hình, tàn dư.
Trong dải khoáng hóa này đã khoanh định được 2 đới khoáng hóa (Đới 1 và
Đới 2) [2, 14] (Hình 4.7):
- Đới 1: nằm ở phía Tây bắc dải khoáng hóa có chiều dài 310m, chiều sâu
150m, chiều dày trung bình: 50m. Hệ số chữa quặng: 10,80%. Thể trọng đá chứa
quặng: 2,65. Hàm lượng Au trung bình: 3,16 g/T [14].
- Đới 2: nằm ở phía Đông nam dải khoáng hóa, chiều dài: 337m, chiều dày
trung bình: 50m, chiều sâu 150m. Hàm lượng Au từ 1,7 - 20,61g/T, trung bình
2,93g/T. Chất lượng vàng ở hai đới tương tự nhau, Au: 84-90% [14]. Kết quả phân
tích các giã đãi và mẫu khoáng tướng đã phát hiện vàng trong 7 mẫu từ 7 - 16
hạt/mẫu. Đi cùng vàng còn có các khoáng vật: chalcopyrit: ít - 7%, cá biệt 25%;
galena: ít - 0,5%; pyrit: ít - 70%, magnelit : ít – 2% ; chalcozin : ít – 5%. Ngoài ra
còn có arsenopyrit, sphalerit, bismuthinit: ít - 1%; bornit ít - 0,3%, covelin ít -
0,3%, magnetit, hematit, corindon, pyrotin. Phi quặng có thạch anh, vụn đá phun
trào, calcite [14].
Vàng tồn tài ở dạng bao thể hạt tha hình, nửa tự hình, kéo dài, xâm tán rải rác
trong vết rạn nứt của đá thạch anh và trachyt, hoặc xâm nhiễm trong pyrit,
chalcopyrit (Ảnh 4.4D), đôi nơi dạng hạt có quan hệ tiếp xúc phẳng với chalcopyrit
và bismutin [14]. Kết quả phân tích microsond các hạt vàng cho (%) Au: 94,666 -
98,422; Ag: 0,393 - 0,144; Bi: 0,282 - 0,547; Độ tinh khiết của vàng: 965 - 966;
Chất lượng vàng Au: 92,87%; Ag: 5,07%, Fe: 1,91% [14].
88
A
B
Q3
Q5?
C
D
.
Ảnh 4.4: Minh họa đặc điểm quặng đồng vàng tại khu vực Mỏ Suối Trát, Phù Yên, Sơn La, trong đó: A. Quặng đồng vàng trong trong đới trượt pha biến dạng thứ 3 (Q3) được tái tập trung trong các mạch thạch anh muộn thuộc pha biến dạng 5? (Q5) tại Lò 1 (L.1). B. Ảnh mài láng trong đó quặng đồng vàng phân bố trong đới biến dạng trong đá trachit hệ tầng Viên Nam C: Ảnh mẫu lát mỏng ST.1a: Đá bị biến đổi sericit hóa, calcit hóa (trachit bị biến đổi) khu vực Mỏ Suối Trát. Ảnh lát mỏng chụp dưới 2 nicon, đáy của ảnh dài 4 mm D: Ảnh mẫu khoáng tướng ST1a khu vực Mỏ Suối Trát: Pyrit (Py), chalcopyrit (Chp), vàng tự sinh (Au) tạo thành 1 THCSKV trên nền đá.
89
Kết quả phân tích quang phổ hấp thụ nguyên tử cho kết quả (ppm) Au < 0,1 -
22,3; Ag < 1 - 7; Cu: 18 - 9023; Pb: 2 - 257; Zn: 43 - 198; As < 20 - 632; Sb: 28 -61; có
2 mẫu ( 6027/5, 6027/7) Se < 1; Te < 1; Ni: 33 - 38; Bi: 14 - 222; Co: 31 – 32 [14].
- Kết quả phân tích nung luyện ( g/T) cho Au: 44,67; Ag: < 10.
4.1.2.2. Khoáng sàng quy mô nhỏ Đồng (vàng) Suối On
Thuộc xã Đá Đỏ, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Đới khoáng hóa là một đới
biến dạng cao, có chiều rộng 470m, kéo dài theo phương Tây bắc - Đông nam
khoảng 1420m. Gồm 7 thân quặng (Hình 4.8):
- Thân quặng 8: Mạch thạch anh chứa quặng phình to dạng thấu kính kéo
dài theo phương 140°, chiều dài 536m, chiều dày trung bình 6,3m. Thế nằm thân
quặng 40 - 7060 - 80. Khoáng vật quặng gồm chalcopyrit, chalcozin, covelin,
malachit, hematit, limonit. Quặng có kiến trúc hạt tha hình, cấu tạo dạng xâm tán.
Trong thân quặng có vàng đi kèm với hàm lượng từ 0,5 - 3,7g/T, trung bình:
0,75g/T. Hàm lượng Cu (%): 0,94 - 17,73; trung bình: 8,64.
- Thân quặng 8a: Thân quặng có hình dạng mạch, thấu kính kéo dài theo
phương Tây Bắc - Đông Nam, với chiều dài nội suy là 420m, chiều dày thay đổi từ
3,6 4,1m, trung bình 3,8m. Đá chứa quặng là các mạch thạch anh dạng bao thể
kiến tạo nằm trong bazan bị ép phiến và biến đổi mạch thạch anh, clorit hoá, calcit
hoá, sericit hoá, artinolit hoá. Hàm lượng đồng thay đổi từ 6,7 7,1% trung bình là
6,0%. Trong thân quặng có vàng đi kèm với hàm lượng thay đổi từ 0,5 3,7g/t,
trung bình là 0,62g/t.
- Thân quặng 9: Thân quặng có tổng chiều dài là 440m, theo chiều sâu khống
chế được là 52m. Chiều dày thay đổi từ 2,2 4,25m, trung bình 3,3m. Đá chứa quặng
là bazan ép phiến bị biến đổi thạch anh hoá, clorit hoá, calcit hoá, sericit hoá, trong đó
có chứa các thấu kính thạch anh, calcit nhiệt dịch. Hàm lượng đồng thay đổi từ 1,4
6,06%, trung bình 3,47%. Trong thân quặng có vàng đi kèm với hàm lượng trung
bình là 0,5g/t.
90
Hình 4.8: Sơ đồ địa chất khoáng sản khu vực Khoáng sàng quy mô nhỏ Đồng (vàng) Suối On (thành lập theo tài liệu của Đoàn 17, Đoàn 305 và các kết quả nghiên cứu của tác giả)
- Thân quặng 9a: Thân quặng có chiều dài là 174m. chiều dày 1,5m. Đá
chứa quặng là hệ mạch thạch anh dạng bao thể kiến tạo nằm trong bazan ép phiến bị
biến đổi thạch anh hoá, clorit hoá, calcit hoá, sericit hoá. Hàm lượng đồng trung
bình 1,79%,
- Thân quặng 9b: Thân quặng có tổng chiều dài là 236m, chiều sâu khống
chế được 45m, chiều dày thay đổi từ 0,65 1,25m trung bình 0,95m. Đá chứa
quặng là hệ mạch thạch anh dạng bao thể kiến tạo nằm trong bazan ép phiến bị biến
đổi thạch anh hoá, clorit hoá, calcit hoá, sericit hoá. Hàm lượng đồng thay đổi từ
0,56 1,2% trung bình 0,84%.
- Thân quặng 10: Thân quặng có chiều dài là 140m, chiều dày thay đổi từ
0,59 1,4m trung bình 1,0m, theo chiều sâu chưa có công trình khống chế. Đá chứa
91
quặng là bazan ép phiến bị biến đổi thạch anh hoá, clorit hoá, calcit hoá, artinolit
hoá, sericit hoá. Hàm lượng đồng thay đổi từ 4,4 8,44% trung bình 6,45.
4.1.2.3. Khoáng sàng quy mô nhỏ Đồng (vàng) Bản Lẹt
Thuộc xã Đá Đỏ, Kim Bon, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Trong vùng có hệ
thống đới trượt phát triển theo phương Tây bắc - Đông nam là nơi tích tụ quặng hóa
đồng (vàng) (Hình 4.9).
Hình 4.9: Sơ đồ địa chất khoáng sản khu vực Khoáng sàng quy mô nhỏ Đồng (vàng) Bản Lẹt (thành lập theo tài liệu của Đoàn 17, Đoàn 305 và các kết quả nghiên cứu của tác giả)
92
Quặng đồng (vàng) phân bố trong các mạch thạch anh nằm trùng với phương
ép của đá, các mạch thạch anh có ranh giới rõ ràng với đá vây quanh (Ảnh 4.5A).
Đã phát hiện được 5 thân quặng, các thân quặng kéo dài theo phương Tây bắc -
Đông nam khoảng 200 - 650m. Chiều dày từ 0,9 - 7,8m. Thành phần khoáng vật
quặng chủ yếu là chalcopyrit, chalcozin, covelin, pyrit ít hơn là malachit, magnetit,
bornit. Quặng có cấu tạo xâm tán, kiến trúc hạt tha hình đến nửa tự hình (Ảnh
4.5B). Quan hệ giữa các thân quặng với đá vây quanh thường không rõ ràng:
- Thân quặng 11: Dài 574m, chiều dày 0,9 - 7,8m, trung bình 3,8m, chiều sâu
khống chế 18m, thế nằm thân quặng 5060 - 70. Hàm lượng Cu: 0,52 - 1,58(%), trung
bình: 0,98(%). Thân quặng này cũng có vàng đi cùng với hàm lượng trung bình: 0,75 g/T.
- Thân quặng 11a: Dài 378m, dày trung bình: 1,77m, thế nằm 5060 - 70.
Hàm lượng Cu trung bình: 1,04%. Thân quặng có vàng đi cùng với hàm lượng
trung bình: 0,5g/T.
- Thân quặng 11b: Dài 650m, dày trung bình 1,94m, chiều sâu 32m. Hàm
lượng Cu trung bình: 3,02%. Thân quặng có vàng với hàm lượng 0,5 g/T.
- Thân quặng 20: Dài 200m, dày 1,2 - 2,9m (trung bình: 2,05m). Hàm lượng
Cu trung bình: 4,17%.
B
A
Ảnh 4.5: Minh họa đặc điểm quặng đồng vàng tại khu vực Mỏ Bản Lẹt, Phù Yên, Sơn La, trong đó: A. Quặng đồng vàng trong trong đới trượt pha biến dạng thứ 3 xâm tán trong các mạch thạch anh và đá trachit hệ tầng viên Nam vây. B: Mẫu khoáng tướng: Chalcopyrit (Chp) bị covelin (Cv) thay thế gặm mũn ven rìa bao quanh hạt
- Thân quặng 20a: Dài 145m, dày trung bình 1,6m. Hàm lượng Cu trung bình: 4,22%
(Đoàn 301). Phân tích mẫu quang phổ hấp thụ nguyên tử (ppm): Au < 0,1 - 0,2; Ag: 1- 25; Cu:
93
6577 - 254132; Pb: 27 - 49; Zn: 14 - 116; As < 20 - 160; Sb < 10 - 1462; Se < 1; Te < 1; Ni: 85 -
288; Bi < 5 - 37; Co: 45 - 604. Phân tích mẫu nung luyện: Au < 0,3(g/T); Ag < 10(g/T), nhiệt độ
đồng hóa 152 - 305°C [14].
4.1.2.4. Khoáng sàng quy mô nhỏ Đồng Đá Đỏ
Thuộc xã Đá Đỏ, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Hệ thống các đới trượt trong vùng kéo
dài theo phương Tây bắc - Đông nam tạo thuận lợi cho việc tích tụ quặng hóa (Hình 4.10).
Hình 4.10: Sơ đồ địa chất khoáng sản khu vực Khoáng sàng quy mô nhỏ Đồng Đá
Đỏ (thành lập theo tài liệu của Đoàn 17, Đoàn 305 và các kết quả nghiên cứu của tác giả)
Các thân quặng đồng có dạng thấu kính kéo dài theo phương Tây bắc - Đông
nam và cắm về Đông bắc với góc thay dốc thay đổi từ 40 - 85 % và có đặc điểm khá
94
giống với các điểm quặng trong khu vực Bản Lẹt, Bản Mèo...(Ảnh 4.6A, B). Ranh
giới giữa thân quặng với đá vây quanh thường không rõ ràng.
C
A
B
Ảnh 4.6: Minh họa đặc điểm quặng đồng vàng tại khu vực Mỏ Đá Đỏ, Phù Yên, Sơn La, trong đó: A. Đới biến dạng chứa quặng thuộc pha biến dạng thứ 3 phát triển trong các đá trachit hệ tầng Viên Nam. B. Mẫu mài bóng trong đó thể hiện quặng đồng vàng nằm trong các mạch thạch anh và trong các mặt phiến của một đới milonit. Kích thước đáy ảnh 10cm. C: Chalcopyrit (Chp) bị covelin (Cov), bornit (Bo) thay thế (Mẫu khoáng tướng ĐĐ3/1)
Thành phần khoáng vật quặng: chalcopyrit, chalcozin, covelin, malachit,
azurit, pyrit, limonit. Quặng có kiến trúc tha hình, cấu tạo xâm tán (Ảnh 4.6C). Đã
phát hiện được 3 thân quặng đồng:
95
- Thân quặng 22: Dài 360m, dày 1,1 - 4,2m (trung bình 2,95m). Hàm lượng
Cu: 2,2 - 3,46(%), trung bình 3,01(%).
- Thân quặng 23: Dài 290m, dày trung bình: 2,1m. Hàm lượng Cu: 1,28 -
2,39(%), trung bình 1,84(%).
- Thân quặng 24: Dài 300m, dày trung bình: 2,1m. Hàm lượng Cu trung
bình: 1,44%. Tài nguyên dự báo cấp P1 (334a): 2389 tấn đồng. Nhiệt độ đồng hóa
bao thể 152 - 305°C.
4.1.2.5. Biểu hiện khoáng sản đồng Suối Bâu
Thuộc xã Suối Bâu, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Hoạt động đứt gãy phát
triển kéo dài theo phương Tây bắc - Đông nam là điều kiện thuận lợi thuận lợi cho
tích tụ quặng hóa (Hình 4.11).
Hình 4.11: Sơ đồ địa chất khoáng sản khu vực Biểu hiện khoáng sản Đồng Suối Bâu
(thành lập theo tài liệu của Đoàn 17, Đoàn 305 và các kết quả nghiên cứu của tác giả)
96
Các thân quặng đồng là các hệ mạch, thấu kính thạch anh chứa sulfur xâm
tán dày < 5mm theo phương Tây bắc - Đông nam (310°), nằm theo các mặt phiến
và xuyên cắt theo mặt ép đá bazan. Phần rìa tiếp xúc cũng có biểu hiện khoáng hóa
(không đáng kể), góc dốc đổ về Tây nam 80° hoặc Đông bắc 75 - 80°, có nơi dốc
đứng. Đi cùng với đồng còn có vàng với hàm lượng: 0,01 - 0,1 g/T; niken: 0,005%.
Gồm có 3 thân quặng (được Đoàn 301 đánh số là TQ 13, TQ 14, TQ 15):
- Thân quặng 13: Dài 200m, dày 1m. Hàm lượng Cu: 0,58%.
- Thân quặng 14: Dài 200m, dày 1,47m. Hàm lượng: Cu 4,05%.
- Thân quặng 15: Dài 580m, dày 2,04. Hàm lượng Cu: 2,69%.
Thành phần khoáng vật: Chalcopyrit, chalcozin, pyrit, malachit, azurit,... Kết
quả khảo sát của đề tài năm 2001 - 2003:
- Các mẫu giã đãi trong đá thạch anh chứa sulfur đã phát hiện vàng đi cùng.
- Thành phần khoáng vật quặng gồm: chalcopyrit 3 - 10%, có nơi 30 - 70%,
chalcozin ít - 2%, pyrit: ít, ngoài ra còn có covelin, bornit. Quặng có cấu tạo xâm
tán, kiến trúc tha hình. Thành phần hóa học của chalcopyrit qua phân tích bằng
phương pháp microsond: Cu: 35,88(%); Fe: 29,41(%); S: 34,43(%); tổng: 99,72(%).
- Kết quả phân tích quang phổ hấp thụ nguyên tử trong đá thạch anh chứa
sulfur cho (ppm) có Au < 0,1; Ag < 1-2; Cu: 7603 - 60241; Pb: 20 - 76; Zn: 9 - 28;
As < 20; S: < 10 - 18; Se: 0 - 1,3; Te < 1; Ni: 12; Bi < 5; Co ≤ 2.
- Kết quả phân tích bao thể: khoáng vật chứa bao thể là thạch anh, bao thể
dạng lỏng - khí (L-K): L: 85 - 90%; K: 10 - 15%. Mật độ 50 - 100 bao thể/mm2.
Nhiệt độ đồng hóa 135 - 158°C.
- Kết quả phân tích 6 mẫu tại Nhật Bản năm 1994 của đề án Vạn Yên: Au:
0,01 - 0,036 g/T; Ag < 2 - 32 g/T; Cu: 0,143 - 0,969%; Pb < 0,001%; Zn < 0,001 -
0,014%; Cr: 0,026 - 0,061%; Mn: 0,003 - 0,10%; Ni: 0 - 0,001%.
Ngoài các điểm quặng hóa đã mô tả trên, trong diện tích Khối cấu trúc Tạ
Khoa còn ghi nhận được nhiều điểm quặng khác, các điểm quặng này hoàn toàn có
đặc điểm tương tự nhau và giống với những điểm đã mô tả trên, bởi vậy NCS chỉ
thống kê những đặc điểm chính của chúng mà thôi (xem Bảng 4.7)
97
Bảng 4.7: Đặc điểm các biểu hiện khoáng sản, khoáng sàn khu vực Khối cấu trúc Tạ Khoa
STT
Tên khoáng sàng và
Số hiệu
Quy mô
Đặc điểm thành phần và hàm lƣợng quặng
biểu hiện khoáng sản
thân quặng
Chiều
Chiều dày
trên bình đò
dài (m)
(m)
1
Biểu hiện khoáng sản
Thân quặng 21
200
1,6
Thành phần khoáng vật quặng: chalcopyrit, malachit, pyrit, vàng tự
sinh... Hàm lượng Au: 1,22g/T. Các hạt vàng có kích thước 0,1 -
vàng Bản Sa
0,5mm.
Biểu hiện khoáng sản
Thân quặng 18
15
1,2 - 1,4
Hàm lượng quặng: Giã đãi: Au: 14 - 100 hạt/6kg. Nung luyện: Au: 1,6
2
vàng Bản Pưn
- 6,2g/T. Ag: < 2g/T; Cu: 0,152%.
Khoáng sàng quy mô
Thân quặng 6
250 -
1,1 - 5,1
Hàm lượng Cu: 1,51 - 4,22%; vàng 0,5 - 0,6g/T, trung bình: 0,53g/T
3
nhỏ Đồng (vàng) Phiêng
748
Lương
Thân quặng 7
Hàm lượng Cu trung bình: 4,78%
1,09
394
Thân quặng 7a
Hàm lượng Cu trung bình 0,51%
3,45
260
4
Biểu hiện khoáng sản
1 thân quặng
Thành phần khoáng vật quặng gồm: Pyrit: ít - 15-25%, chalcopyrit: 1-
3
7
đồng (vàng) Suối Thịnh
20%, vàng: 9 hạt, mẫu nung luyện cho vàng với hàm lượng (g/T): Au <
0,1 - 0,2; Ag < 1, cá biệt đến 7; Cu: 298 - 16788
5
Khoáng sàng quy mô
Thân quặng 12
680,
0,25 - 3,3
Hàm lượng Cu: 0,5 - 7,22(%), trung bình: 3,29(%)
nhỏ Đồng Bản Mèo
Thân quặng 12a
Hàm lượng Cu trung bình: 2,26%. Thành phần khoáng vật quặng gồm
430
2,15
chalcopyrit, chalcozin, pyrit, covelin,
6
Biểu hiện khoáng sản
1 thân quặng
0,2-0,7
Khoáng vật quặng: chalcopyrit, galena, malachit, azurit. Hàm lượng:
35
98
STT
Tên khoáng sàng và
Số hiệu
Đặc điểm thành phần và hàm lƣợng quặng
Quy mô
biểu hiện khoáng sản
thân quặng
Chiều
Chiều dày
trên bình đò
dài (m)
(m)
đồng Chim Thượng
Cu: 0,609(%); S:0.11(%); Pb: 0.37(%); As: 0.05(%); Zn: 0.27(%)
Biểu hiện khoáng sản
1 thân quặng
10
0,25
Khoáng vật quặng là chalcopyrit, covelin, cấu tạo xâm tán dày. Hàm
7
lượng Cu : 1,24 – 1,49%
đồng Suối Sập
Biểu hiện khoáng sản
1 thân quặng
30
1
Khoáng vật quặng gồm chalcopyrit, pyrit, bornit, chalcozin, covelin,
8
malachit, azurit, tetrahedrit, specularit. Hàm lượng Cu: 0,04 -
đồng Bản Nhọt
4,45(%); Ni: 0,001 - 0,009(%)
9
Biểu hiện khoáng sản
Thân số 17
200
0,5
Thành phần khoáng vật quặng: Chalcopyrit, covelin, chalcozin, pyrit,
đồng Bản Sa
limonit. Hàm lượng Cu: 0,85%.
10
Biểu hiện khoáng sản
Mạch 1
0,8 - 1,2
Cu: 0,58(%); S: 0,43(%)
6 - 7
đồng Bản Ban
Mạch 2
1 - 1,5
Cu: 0,65 – 4,13(%); Ni: 0,005(%), Au: 0,3 - 0,5(g/T); Ag: 1,84 -
6 - 7
7,76(g/T)
11
Biểu hiện khoáng sản
Thân quặng số 16
200
0,55
Khoáng vật quặng gồm chalcopyrit, pyrit, limonit, galena, malachit,
đồng Suối Chát
sphalerit; Cu: 0,15-7,47%, trung bình: 3,9%; Au: 0,3-0,4 g/T, Cu: 0,15-
7,47%, trung bình: 3,9%; Au: 0,3-0,4 g/T
12
Biểu hiện khoáng sản
Thân quặng số 18
200
0,5
Khoáng vật quặng là chalcopyrit, pyrit, chalcozin, bornit, Hàm lượng
đồng Bản Pưn
Cu: 1,32%; Au: 0,4 - 0,6(g/T); Ag: 0,67 - 51,33(g/T)
394
13
Biểu hiện khoáng sản
Thân quặng 1
1,28
Khoáng vật quặng có chalcopyrit, pyrit, malachit, bornit, covelin.
99
STT
Tên khoáng sàng và
Số hiệu
Đặc điểm thành phần và hàm lƣợng quặng
Quy mô
biểu hiện khoáng sản
thân quặng
Chiều
Chiều dày
trên bình đò
dài (m)
(m)
đồng Nà Lạy
Hàm lượng Cu: 1,04%
Thân quặng 2
Hàm lượng Cu: 2,21%
0,85
356
Thân quặng 3
Hàm lượng Cu: 1,29%
0,9
400
Thân quặng 4
Hàm lượng Cu: 1,06%
4,67
780
Thân quặng 5
Hàm lượng Cu: 1,78%. Au: 0,2 - 0,3 g/T
0,9
80
14
Biểu hiện khoáng sản
Mạch quặng 1
Hàm lượng Cu: 1,236%.
0,96
32
đồng Vạn Sài
Mạch quặng 2
Hàm lượng Cu: 1,236%
0,73
36
51
Mạch quặng 3
Hàm lượng Cu: 1,40%.
0,60
Mạch quặng 4
Hàm lượng Cu: 1,39%
0,68
51
Mạch quặng 5
Hàm lượng Cu: 1,41%
0,7
100
Mạch quặng 6
Hàm lượng Cu: 1,71%.
0,85
50
Mạch quặng 7
Hàm lượng Cu: 2,98%
0,6
18
15
Biểu hiện khoáng sản
1 thân quặng
0,2 – 20cm Ở phần trên chủ yếu là chalcozin: 60%, covelin: 15%, azurit: 5%, phi
15
quặng 20%, ở phần dưới chủ yếu là đồng tự sinh: 80%, chalcozin:
đồng tự sinh Xuân
10%, thạch anh và calcit: 10%, Au: 0,4g/T, Ag: 10g/T
Giằng
16
Biểu hiện khoáng sản
1 thân quặng
30-50
khoáng vật quặng (tetraedrit) 4% ; Cu: 0,64% - 4,73%; Ni: 0,10%.
200-
Đồng Pa Pó
500
100
4.1.3. Đặc điểm biểu hiện khoáng sản đồng – vàng - chì - kẽm
Trong khu vực đã ghi nhận được một số điểm quặng sau:
4.1.3.1. Biểu hiện khoáng sản đồng – vàng - chì - kẽm Cầu Suối Sập
Thuộc xã Suối Bâu, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Thân khoáng là tập hợp hệ
mạch thạch anh nhỏ trong một đới trượt chiều dài vài mét đến 20 - 30cm, xuyên cắt
đá bazan hệ tầng Suối Bé, tập hợp thành đới mạch dày 2 - 2,5m, kéo dài theo
phương 40 - 220° khoảng 200m dọc hệ thống đứt gãy Suối Sập. Thế nằm 31080.
Quặng có cấu tạo xâm tán, ổ, mạch nhỏ, kiến trúc tha hình, ẩn tinh, vi tinh, keo,
phân bố không đều trong thạch anh và trong đá bazan bị biến đổi. Khoáng vật
quặng: Chalcopyrit: 1-3%, chalcozin: 1-2%, galena, shalerit, pyrit, malachit, azurit,
pyromorphit, vàng tự sinh...
Hàm lượng: Cu: 1,38 - 7,63(%), trung bình: 5,18(%); Pb: 10,67 - 15,66(%);
Zn: 0,19 - 0,24(%); Au: 0 - 0,3 g/T.
Hàm lượng vàng trong 4 mẫu nung luyện thì có 2 mẫu đạt: Au: 5,17 và 9,67
g/T; Ag: 366,67 - 627,67 g/T.
Kết quả nghiên cứu của đề án năm 2001 - 2003:
- Phân tích 7 mẫu giã đãi đã phát hiện vàng: 2 - 12 hạt/6kg, kích thước hạt
vàng: 0,02 x 0,05 - 0,02 x 0,01mm.
- Phân tích mẫu khoáng tướng có vàng: 1 hạt.
Thành phần hóa học của khoáng vật chalcopyrit qua phân tích microsond cho
kết quả Cu: 35,46(%); Fe: 29,47(%); S: 34,82(%); tổng: 99,75(%). Thành phần hóa học
của pyrit: S: 53,56(%); Fe: 46,32(%); tổng 99,88(%). Thành phần hóa học của vàng
qua phân tích microsond: Au: 98,82(%); Ag: 0,92(%); Fe: 0,15(%); tổng 99,89(%).
- Phân tích mẫu nung luyện cho Au: <0,03 - 0,67(g/T); Ag: < 10(g/T).
- Phân tích quang phổ hấp thụ nguyên tử mẫu thạch anh sulfur cho hàm
lượng (ppm): Au: < 0,1; Ag: 2 - 58; cá biệt 450 - 906; Cu: 2025 - 97107; Pb: 33 -
135146; Zn: 72 - 7190; As: 29 - 9412; Sb: 10 - 994; Se: < 1; Te: < 1; Ni: 8 - 28; Bi:
< 5 - 27; Co: 2 - 24.
- Đo địa vật lý cho thấy dị thường liên quan với quặng không lớn.
101
4.1.3.2. Khoáng hóa Chì Bản Chéng
Thuộc Xã Song Pe, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La. Năm 1964 Đoàn Địa chất 17
phát hiện và phổ tra sơ bộ, lấy mẫu phân tích quang phổ.
Vây quanh thân quặng là các lớp đá vôi phân lớp mỏng đến trung bình xen
các thấu kính đá silic thuộc tập 2 hệ tầng Bản Cải (D3bc2).
Trên diện tích ghi nhận được 1 mạch chì kẽm nằm trong đá phiến silic hệ
tầng Bản Cải. Chiều dài 4m, dày 1-20cm, có phương đông bắc – tây nam?. Khoáng
vật quặng là galena, ngoài ra không có biểu hiện gì khác.
Kết quả phân tích cho hàm lượng Pb: 17%.
4.2. Mối quan hệ giữa khoáng hóa đồng - niken và đồng - vàng với các
cấu tạo địa chất
Các kết quả nghiên cứu gần đây [15, 16, 17, 18] và kết quả nghiên cứu mới
nhất của tác giả đã cho thấy, các khoáng hóa Cu – Ni, Cu – Au trong khu vực khối
cấu trúc Tạ Khoa liên quan mật thiết với các cấu tạo địa chất trong vùng. Trong đó:
Quặng hoá đồng – niken, chúng liên quan tới 2 kiểu cấu tạo là:
+ Kiểu thứ nhất: các thành tạo quặng sulfur đồng - niken phân bố dạng xâm
tán trong các khối xâm nhập siêu mafic, mafic có nguồn gốc dung ly. Các kết quả
nghiên cứu cho thấy, trong khu vực nghiên cứu phân bố khá nhiều các thành tạo
xâm nhập siêu mafic, mafic phức hệ Ba Vì, có chứa các thân quặng đồng – niken
xâm tán nguồn gốc dung ly.
+ Kiểu thứ hai: gồm các thân quặng sulfur đồng - niken đặc sít nằm trong các
đới biến dạng cao phân bố trong các thành tạo trầm tích biến chất
Quặng hoá đồng – vàng: đều nằm trong các đới biến dạng cao phân bố trong
các thành tạo phun trào bazơ.
Các kết quả nghiên cứu cho thấy, các thành tạo địa chất tại khu vực bị biến
dạng khá mạnh bởi nhiều pha biến dạng khác nhau. Mỗi pha biến dạng sảy ra trong
môi trường khác nhau. Trong nhiều trường hợp, các yếu tố cấu tạo mà chúng tạo ra
có vai trò quan trọng trong việc khống chế sự di chuyển và tích tụ quặng hóa. Các
bằng chứng thực địa của chúng tôi cho thấy có sự tập trung quặng hóa trong các thân
102
sulfur đồng - niken đặc sít liên quan mật thiết với các pha biến dạng chính là Pha 2, 3
và đồng - vàng liên quan mật thiết với các pha biến dạng 3, ngoài ra chúng cũng có
thể liên quan với pha biến dạng muộn hơn (Pha 4?).
Hiện các thân quặng đồng - niken, đồng - vàng đạt hàm lượng công nghiệp
đều thuộc kiểu quặng đặc sít phân bố trong các đới biến dạng.
Do khu vực có lịch sử phát triển địa chất lâu dài và phức tạp, các thành tạo địa
chất trong đó các thể xâm nhập và các thân quặng đã bị tác động mạnh bởi nhiều pha
biến dạng về sau, và bị biến dạng khá mạnh mẽ, làm cho ranh giới, vị trí, hình dạng,
phương và hướng cắm của chúng bị thay đổi mạnh mẽ. Bởi vậy, việc phân tích, giải
đoán cấu tạo chi tiết và có hệ thống không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong luận giải
lịch sử địa chất khu vực và còn có vai trò quan trọng trong dự đoán tiềm năng sinh
khoáng và định hướng tìm kiếm khoáng sản đồng-niken và đồng – vàng trong khu
vực Khối cấu trúc Tạ Khoa và vùng lân cận.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, phân tích đặc điểm phân bố quặng hóa hiện
tại và quá trình biến dạng khu vục. Nghiên cứu sinh đưa ra đặc điểm chung về mối
liên quan của quặng hóa với các yếu tố cấu tạo trong quá trình biến dạng trong khu
vực trong khu vực như sau:
4.2.1. Đối với quặng hoá đồng – niken
4.2.1.1. Đối với quặng hoá đồng – niken xâm tán trong đá siêu mafic
thuộc phức hệ Ba Vì, thuộc kiểu mỏ magma dung ly
Quặng đồng – niken thuộc kiểu này được sinh thành cùng với sự hình thành của
các khối xâm nhập. Bởi vậy quá trình biến dạng về sau tác động nên khối xâm nhập
làm cho chúng thay đổi vị trí, hình dạng, thế nằm cũng dẫn theo các thân quặng trong
các khối này có sự thay đổi tương đồng. Trong khu vực nghiên cứu với 2 khối có chứa
quặng xâm tán điển hình và có quy mô lớn, nên NCS sẽ tập trung nghiên cứu chi tiết ở
2 khối này.
Đặc điểm khối Bản Phúc:
+ Trên bình đồ: Khối siêu mafic có chứa quặng xâm tán có diện lộ khoảng 0,4km2, chiều dài 940m, chiều rộng từ 200 tới 400m, có ranh giới kiến tạo với đá vây
103
quanh được cho là liên quan tới Pha biến dạng 2 (Hình 4.1, Ảnh 4.12A). Khối bị
uốn cong, phần cong nhất lồi về phía tây bắc, phần lõm nhất nằm ở phía đông của
khối. Có đặc điểm này là do chúng đã bị uốn nếp bởi nếp uốn có mặt trục khá dốc,
có đỉnh hướng về tây bắc, đường trục cắm về đông nam thuộc pha biến dạng thứ 3.
+ Trên mặt cắt: theo hướng từ tây bắc tới đông nam khối xâm nhập và các
thân quặng xâm tán có đặc điểm phân bố như sau:
- Ở khu vực phía tây bắc đến trung tâm, trên mặt cắt thân siêu mafic và các
thân quặng sulfur xâm tán đi cùng cũng bị uốn nếp bởi một phức nếp lõm không cân
xứng tương đối hoàn chỉnh dạng chữ W thuộc Pha biến dạng thứ 3 có mặt trục khá
dốc tương đồng với các nếp uốn mà trên bình đồ (Hình 4.1). Ngoài ra tại đây khối
xâm nhập và các thân quặng xâm tán còn bị uốn nếp bởi một số nếp uốn nhỏ dạng
chữ Z có mặt trục khá thoải thuộc các nếp uốn kéo theo của một nếp uốn nằm muộn
hơn (cuối Pha 3?) (Hình 4.2). Trên các mặt cắt này, các thân quặng xâm tán phân bố
chủ yếu ở dưới sâu phần trung tâm nếp lõm và phía cánh tây nam giáp ranh với đới
biến dạng giữa khối xâm nhập và đá trầm tích biến chất (Hình 4.1, Hình 4.2).
- Ở khu vực phía đông nam, các công trình nghiên cứu sâu có lẽ ở đây mới gặp
một phần cánh phía tây nam của phức nếp lõm, còn phần dưới sâu và cánh đông bắc
chưa quan sát được. Bởi vậy, trên các mặt cắt thân siêu mafic và thân quặng chủ yếu
có thế nằm đơn nghiêng và cắm về đông bắc. Đôi chỗ, trên cánh này cũng bị uốn nếp
bởi các nếp uốn nhỏ muộn hơn dạng kéo theo kiểu chữ Z giống như ở phía tây bắc
(Hình 4.4). Trên các mặt cắt ở khu vực này, các thân quặng lộ gần mặt đất hơn, trong
đó Thân quặng số II phân bố ở phần thấp khối xâm nhập tiếp giáp giữa đới trượt và
đá trầm tích biến chất, còn Thân quặng số III lại nằm ngay phần cao của khối xâm
nhập cũng tiếp giáp giữa đới trượt và đá trầm tích biến chất (Hình 4.4).
Đặc điểm khối Bản Khoa:
+ Trên bình đồ: Khối siêu mafic Bản Khoa có diện lộ rộng vài chục mét, dài
400-500m, kéo dài chủ yếu theo phương bắc – nam có cũng có quan hệ kiến tạo với
các đá trầm tích vây quanh. Đặc điểm phân bố, hình dáng, cấu trúc của khối xâm
104
nhập và thân quặng xâm tán cũng có sự thay đổi tương tự như khối Bản Phúc. Khối
xâm nhập và các thân quặng cũng bị uốn cong có đỉnh hướng vế phía tây do chúng
đã bị uốn nếp bởi nếp bởi Pha biến dạng thứ 3 (Hình 4.1).
+ Trên các mặt cắt: theo hướng từ tây bắc tới đông nam khối xâm nhập và
các thân quặng xâm tán có đặc điểm phân bố như sau:
- Ở khu vực phía tây bắc đến trung tâm, các thân siêu mafic và các thân
quặng sulfur xâm tán đi cùng cũng bị uốn nếp bởi một phức nếp lõm không cân
xứng khá hoàn chỉnh dạng chữ W có mặt trục khá dốc được hình thành bởi pha biến
dạng thứ 3 tương đồng với các nếp uốn mà trên bình đồ (Hình 4.3). Các thân quặng
trong khối (Thân 1, 3, 4 và 5) phân bố dưới sâu tập trung ở phần trung tâm nếp lõm
và tiếp giáp với đới trượt giữa khối xâm nhập và đá trầm tích biến chất. Tuy nhiên
Thân quặng số 2 lại nằm ngay giáp với phần nóc của khối xâm nhập nơi tiếp giáp
với các đá trầm tích biến chất qua các đới trượt (Hình 4.3). Ở một số mặt cắt cũng
đã quan sát được một số nếp uốn nhỏ kéo theo muộn hơn giống như khối Bản Phúc
xong chưa rõ chiều dịch chuyển (Hình 4.3)
- Ở các mặt cắt phía đông nam, cũng như khối Bản Phúc, trong một số mặt
cắt đã quan sát được thể siêu mafic và các thân quặng ở dạng một thấu kính kiến tạo
vát nhọn sau đó bị uốn nếp đi bởi nếp uốn có mặt trục gần dốc đứng của pha biến
dạng thứ 3 (Hình 4.12). Ở một số mặt cắt đôi khi cũng mới quan sát được mới gặp
một phần cánh phía tây nam của phức nếp lõm, còn phần dưới sâu và cánh đông bắc
hiện cũng chưa quan sát được tương tự như khối Bản Phúc. Các thân quặng xâm tán
ở đây cũng thường phân bố ở dưới sâu phần trung tâm nếp lõm và cánh đông bắc và
tiếp giáp với đới trượt giữa khối xâm nhập và đá trầm tích biến chất (Hình 4.12).
Ở quy mô vết lộ, cũng đã quan sát được các thể siêu mafic chứa quặng xâm
tán ở dạng thấu kính kiến tạo và bị các đới trượt Pha biến dạng thứ 3 đi cùng với
các nếp uốn trên cắt, dịch chuyển và làm uốn nếp khá rõ (Ảnh 4.7).
Với đặc điểm như trên cho thấy:
105
+ Các khối xâm nhập và các thân quặng xâm tán đi cùng đã bị biến dạng mạnh,
vị trí hiện tại không phải là vị trí nguyên thủy ban đầu, mà chúng là các thể ngoại lai.
+ Thân quặng và khối magma đã bị tác động mạnh mẽ bởi các nếp uốn có
mặt trục thẳng đứng tạo nên một phức nếp lõm khá lớn, Ngoài ra chúng còn bị uốn
nếp bởi các nếp uốn nằm (cuối pha biến dạng 3?) và các nếp uốn vòm mở, mặt trục
gần thẳng đứng phương đông bắc – nam của pha biến dạng thứ 4. Quá trình giao
thoa uốn nếp đã làm cho các khối xâm nhập và các thân quặng dung ly có hướng
cắm và thế nằm thay đổi mạnh làm cho cấu trúc của chúng trở lên hết sức phức tạp.
+ Một số vị trí được cho là đáy của khối magma thực chất chúng là phần đáy
của nếp lõm muộn.
+ Hình dạng phân bố và đặc điểm biến dạng của hai khối này khá tương
đồng nhau và khá gần nhau, có thể đây là một cặp đới trượt đồng sinh.
Hình 4.12: Mặt cắt địa chất tuyến 5 trong đó thể hiện Thân quặng 1,2,3 và 4 (thành lập theo tài liệu của Đàm Nhật Tông, 1965[23]), Đặng Công Thành, 1988 [22] và tài liệu của tác giả)
106
U3
M f
F2
Ảnh 4.7: Một bao thể đá siêu mafic (Mf) ven rìa có chứa quặng sulfur nằm trong đới biến dạng cao thuộc pha 2 (F2) bị uốn nếp bởi pha biến dạng 3 (U3).
4.2.1.2. Đối với quặng hoá đồng – niken nằm trong đới biến dạng cao
Trong dạng khoáng hóa này, thân quặng hoặc khoáng hóa sulfur đồng -
niken đặc sít nằm trong các đới biến dạng cao phân bố trong các loại đá khác nhau
gồm các thành tạo trầm tích biến chất, magma xâm nhập. Các kết quả cứu ở đây
cũng như một số kết quả nghiên cứu trước (Vũ Xuân Lực, 2010; Vũ Xuân Lực và
nnk, 2013) đã xác định được sự tập trung quặng hóa sulfur đồng - niken đặc sít trong
các đới trượt dẻo được hình thành bởi các pha biến dạng thứ 2 và thứ 3 được thể hiện
rõ ở nhiều khu vực khoáng hóa khác nhau (Hình 3.3, Hình 4.1, Hình 4.3) và chúng đã
bị biến dạng mạnh bởi các pha biến dạng muộn hơn.
Khoáng hóa khống chế bởi các cấu tạo thuộc pha biến dạng thứ 2
Trong khu vực nghiên cứu, các đới trượt Pha biến dạng thứ 2 là các đới trượt
dẻo hoàn toàn có chiều dày hàng mét tới hàng chục mét. Các đới này bao gồm một
hỗn hợp các bao thể kiến tạo của các đá xâm nhập và đá trầm tích với nhiều kích
thước khác nhau bị ép dẹt, kéo dài, uốn nếp hoặc xoay, vây quanh bởi các đới phiến
mylonit. Đi cùng với chúng là các nếp uốn hẹp đẳng cánh. Trong một số đới trượt
gần các khối xâm nhập siêu mafic và mafic phức hệ Ba Vì đã ghi nhận được có
quặng đồng – niken đặc sít đi cùng. Trong đó điển hình là khu vực Bản Phúc và Bản
Khoa.
107
Tại khu vực Mỏ Bản Phúc, theo tài liệu của Đàm Nhật Tông, 1965 [23], Đặng
Công Thành, 1988 [22] và Đinh Hữu Minh, 2006 [21] và các nghiên cứu của tác giả
đã xác định được một thân quặng sulfur đồng – niken đặc sít (Thân quặng số I) phân
bố trong đới biến dạng cao thuộc pha biến dạng thứ 2 ở rìa tây nam đến phía đông
nam của khối. Trong các đới này, Các khoáng hóa đồng – niken đặc sít ở đây nằm
hoàn toàn trong đới trượt dẻo thuộc pha biến dạng 2. Khoáng vật quặng tập trung và
là xi măng giữa các mảnh dăm hoặc các thể boudins có kích thước khác nhau (Ảnh
4.8, Ảnh 4.9, Ảnh 4.10) hoặc xuyên cắt vào tường của các cánh của đới trượt.
B
Thân quặng
Ảnh 4.8: Một phần thân quặng sulfur dạng đặc sít trong đới đá biến dạng cao pha, biến dạng thứ 2 trong đá lục nguyên biến chất nằm cạnh khối siêu mafic Bản Phúc; khối B là một tạo boudin (Ảnh cấu Trần Thanh Hải, 2005).
Trên bình đồ: thân quặng phân bố ở phía tây nam và đông nam khối xâm
nhập Bản Phúc trong đới biến dạng cao trong trầm tích biến chất hệ tầng Nậm Sập
(Hình 3.3). Theo hướng từ tây bắc xuống đông nam, thân quặng có đặc điểm phân
bố như sau: Ở khu vực phía tây bắc: thân quặng thường bám sát với khối xâm nhập
Bản Phúc, có phương tây bắc - đông nam cùng phương với đới trượt và khối xâm
nhập. Đôi chỗ do bị uốn nếp bởi nếp uốn vòm mở phương đông bắc - tây nam thuộc
pha biến dạng thứ 4 nên thân quặng có thay đổi chuyển phương tây tây bắc – đông
đông nam. Ở phần trung tâm, thân quặng đổi hướng có phương đông bắc - tây nam
vuông góc với phương trước đó và có hướng cắm về tây bắc. Có sự thay đổi phương,
có thể thân quặng ở đây đã bị uốn nếp bởi một nếp uốn kéo theo dạng chữ S liên quan
108
tới nếp uốn lớn có mặt trục gần thẳng đứng của pha biến dạng thứ 3. Về phía đông
nam, thân quặng dần tách xa dần hẳn khối xâm nhập và đổi hướng trở lại có phương
tây bắc – đông nam, cắm về đông bắc.
Các dấu hiệu dịch chuyển dọc theo đới trượt như trên cho thấy, đới khống chế
quặng hóa có bản chất trượt nghịch chéo trái.
Ảnh 4.9: Thân quặng sulfur dạng đặc sít trong đới đá biến dạng cao trong đá lục nguyên biến chất hệ tầng Bản Cải (Lò L.302)
Trên mặt cắt: Các đới trượt chứa quặng đặc sít cũng bị uốn nếp bởi nếp uốn Pha
3 có mặt trục gần dốc đứng này giống như khối xâm nhập. Tuy nhiên các công trình
nghiên cứu hiện tại mới khống chế được phần cánh phía tây nam, còn phần nhân và cánh
phía đông bắc có thể vẫn tồn tại thân quặng đặc sít mà các công trình hiện tại đều chưa
khống chế tới hoặc chưa có công trình nghiên cứu (Hình 4.1, Hình 4.2). Ngoài ra các
thân quặng đặc sít ở đây cũng bị uốn nếp bởi các nếp uốn muộn hơn với các uốn nếp nhỏ
kiểu nếp uốn kéo theo dạng chữ M, W có mặt trục thoải, có lẽ chúng thuộc phần vòm
của một nếp uốn nằm lớn hơn (cuối pha biến dạng 3?) (Hình 4.1, Hình 4.2, Hình 4.4,
Hình 4.13). Do có các nếp uốn này mà trên mặt cắt đã có thế nằm thay đổi cục bộ như
trên.
109
A
B
F3?
S2
Ảnh 4.10. A : Quặng sulfur dạng đặc sít trong đới đá biến dạng cao trong đá lục nguyên biến chất hệ tầng Nậm Sập đi cùng với nếp uốn hẹp. Tất cả chúng bị các nếp uốn Pha 3 hoặc 4 có mặt trục thẳng đứng làm tái uốn nếp (Ảnh Nguyễn Ngọc Hải, 2013). B: Ảnh mài láng phần rìa quặng đặc sít, trong đó quặng đồng niken phân bố cả trong mạch thạch anh và trong đá phiến bị biến dạng thuộc pha biến dạng 2 (S2),sau đó chúng lại được tích tụ trong các mạch thạch anh muộn hơn thuộc pha 3? (F3?) có phương gần vuông góc với nha, đáy ảnh bằng 10cm.
Ở một số khu vực cũng đã ghi nhận được biểu hiện trên các mẫu mài láng và
lát mỏng có các thành tạo quặng sulfur đồng – niken bị các nếp uốn muộn (cuối pha
biến dạng 3?) có mặt trục khá thoải làm uốn nếp (Ảnh 4.10A) và các đới trượt thuộc
pha biến dạng muộn hơn (Pha 3?) có tích tụ quặng sulfur đồng - niken cắt và làm
dịch chuyển khá rõ các thành tạo quạng đồng – niken thuộc pha biến dạng thứ 2 (Ảnh 4.10B, Ảnh 4.11, Ảnh 4.12). Tuy nhiên trên thực tế tại khu vực này chưa ghi
nhận được các đới trượt Pha 3 có chứa quặng có ý nghĩa.
110
Hình 4.13: Mặt cắt địa chất tuyến 50100E trong đó thể hiện Thân quặng I (thành lập theo tài liệu của Đinh Hữu Minh, 2006 [21], và tài liệu của tác giả)
S2
Quặng
S3
Ảnh 4.11: Ảnh lát mỏng cho thấy mối quan hệ giữa các cấu tạo phiến và sự phân bố quặng sulfur trong đới biến dạng thuộc pha 2 trong đó quặng có xu hướng nằm song song cấu tạo phiến S2. Các cấu tạo phiến pha biến dạng thứ 3 (S3) có chứa các dải quặng song song cùng phương phát triển chồng lấn lên các thành tạo quặng và phiến pha biến dạng 2. Ảnh chụp dưới 2 nicon, đáy của ảnh bằng 8 mm.
111
A
F2
F3
Ảnh 4.12. Ảnh lát mỏng các thành tạo quặng đồng - niken được thành tạo trong pha biến dạng 2 (F2) được tái tập trung trong các thành tạo pha biến dạng thứ 3? (F3). Các thành tạo pha biến dạng 3 cắt và làm dịch chuyển các phiến của pha biến dạng 2 khá rõ (mũi tên chỉ chiều dịch chuyển) tại khu vực mỏ Bản Phúc. Ảnh chụp dưới 2 nicon, đáy của ảnh bằng 6 mm.
Trong khu vực Bản Khoa, cũng tương tự tại khu vực Bản Phúc, theo tài liệu
nghiên cứu của Công ty Mỏ Niken Bản Phúc (Nguyễn Ngọc Hải, 2013) [4] và của
tác giả, đã xác định được một thân quặng (Thân quặng số 1a) phân bố ở rìa phía
nam và đông nam của khối xâm nhập Bản Khoa. Đới chứa khoáng hóa nằm trong
đới trượt dẻo thuộc pha biến dạng 2 gần ranh giới kiến tạo giữa khối siêu mafic với
các đá trầm tích vây quanh, với phương kéo dài chung là tây bắc – đông nam (Hình
3.3, Hình 4.3). Các dấu hiệu dịch chuyển dọc theo đới trượt cho thấy đới khống chế
quặng hóa cũng có bản chất trượt nghịch chéo trái như khu vực Bản Phúc (Hình 1.2,
Hình 3.3).
Cũng tương tự tại khu vực Bản Phúc, hình thái của đới khoáng hóa ở đây
cũng có sự thay đổi trên bình đồ cũng như mặt cắt:
Trên bình đồ: ở phía tây bắc chúng bám gần và song song với ranh giới của
khối xâm nhập với phương chủ đạo là tây bắc – đông nam, đi về phía đông nam
250m, thân quặng hoàn toàn tách khỏi khối xâm nhập và kéo dài tới 1,5km và bị
uốn nếp bởi các nếp uốn vòm mở Pha biến dạng 4 phương đông bắc - tây nam dẫn
tới sự thay đổi phương cục bộ thành gần á vĩ tuyến (Hình 3.3).
Về phía đông nam, đới này bị đứt gãy trượt bằng trái muộn hơn cắt và làm
dịch chuyển nhưng phương kéo dài vẫn khá ổn định theo phương tây bắc – đông
112
nam khoảng 2,5km trên bình đồ. Như vậy phần xuất lộ xa nhất ở phía đông nam của
thân khoáng hóa nằm cách xa khối xâm nhập (trên 2km). Đặc điểm này chứng tỏ
đới trượt cũng có yếu tố dịch trái và đóng vai trò như là một kênh dẫn dung dịch
khoáng hóa quan trọng.
Trên mặt cắt: đới khoáng hóa và thân quặng ở khu vực này cũng bị uốn nếp
và tồn tại dưới dạng 1 phức nếp lõm có mặt trục dốc được tạo ra bởi pha biến dạng
thứ 3. Tuy nhiên cũng như khu vực Bản Phúc, các công trình nghiên cứu sâu cũng mới
nghi nhận được phần cánh phía tây nam của nếp uốn, còn phần trung tâm và cánh đông
bắc chưa khống chế được (Hình 4.3, Hình 4.12). Ngoài ra trên mặt cắt, hướng cắm
của thân quặng đôi khi cũng thay đổi khá mạnh tạo ra các nếp uốn M, W có mặt
trục khá thoải có thể được thành tạo bởi một nếp uốn nằm muộn hơn (cuối pha biến
dạng 3?) (Hình 4.14, Hình 4.15, Hình 4.16) và các đới trượt của pha này cắt và làm
dịch chuyển (Hình 3.3)
Hình 4.14: Mặt cắt địa chất Tuyến 50300E-Suối Đán trên bình đồ địa chất khu vực mỏ quặng niken Bản Khoa (theo Nguyễn Ngọc Hải, 2013) [4] và kết quả xử lý của tác giả )
113
Hình 4.15. Mặt cắt địa chất Tuyến 51600E-Suối Đán trên bình đồ địa chất khu vực mỏ quặng niken Bản Khoa (theo Nguyễn Ngọc Hải, 2013) [4] và kết quả xử lý của tác giả )
Hình 4.16. Mặt cắt địa chất Tuyến 51200E-Suối Đán trên bình đồ địa chất khu vực mỏ quặng niken Bản Khoa (theo Nguyễn Ngọc Hải, 2013 [4] và kết quả xử lý của tác giả)
114
Khoáng hóa khống chế bởi các cấu tạo thuộc pha biến dạng thứ 3?
Các đới trượt Pha biến dạng thứ 3 có đặc điểm là biến dạng từ dẻo tới dòn dẻo,
có chiều dày hàng chục cm tới hàng chục mét và tạo ra các đới melange kiến tạo, trong
đó các đá bị đứt đoạn và bị ép kéo dài hoặc xoay trượt. Các kết quả nghiên cứu khu vực
Bản Phúc và Bản Khoa cho thấy, ở một số các vết lộ đã gặp các đới trượt pha biến
dạng thứ 3 trong đó có xâm tán sulfur, đôi chỗ có đồng (Hình 3.3, Ảnh 4.13), có thể
trong đó có chứa cả quặng niken. Tuy nhiên do mức độ lộ còn hạn chế và chưa được
đầu tư nghiên cứu nhiều nên mới chỉ giả định như vậy. Đới biến dạng chứa quặng có
phương chủ yếu tây bắc – đông nam đôi chỗ chúng bị uốn nếp bởi hệ thống nếp uốn
mở phương đông bắc – tây nam thuộc pha biến dạng thứ 4. Có thể chúng cũng bị uốn
nếp bởi các nếp uốn nằm ngang được thành tạo muộn hơn (cuối pha biến dạng 3?)
xong hiện chưa quan sát được.
Ở khu vực Bản Trạng, Bản Mông, Bản Vờ, các thể siêu mafic chứa quặng
xâm tán tạo thành các khối nhỏ, tạo thành các bao thể kiến tạo dạng kéo dài phân bố
trong một đới biến dạng khá lớn thuộc Pha biến dạng 2 (Hình 1.2, Hình 4.5).
F3
F3
Ảnh 4.13. A. Một phần thân quặng sulfur chứa đồng (niken?) hình thành trong đới biến dạng cao thuộc pha biến dạng thứ 3 vùng Suối Đán. Mũi tên chỉ hướng dịch chuyển. B. Đới trượt pha biến dạng thứ 3 có chứa quặng đồng (niken?) tại khu vực Bản Phúc
Trong các đới biến dạng này cũng đã ghi nhận được một số thân quặng đặc
sít phân bố trong các đá trầm tích biến chất. Trên các mặt cắt, các khối xâm nhập và
các thân quặng có thế nằm đơn nghiêng cắm về đông bắc hoặc tây nam (Hình 1.2).
Có thể ở các khu vực này, các thể siêu mafic chứa quặng xâm tán và các thân quặng
115
đặc sít có thể vẫn còn tồn tại ở lân cận khu vực đã nghiên cứu do các đới trượt Pha 2
ở đây bị uốn nếp bởi nếp uốn Pha 3 vòm mở, có mặt trục gần thẳng đứng phương
tây bắc-đông nam nên đã làm đới trượt thay đổi phương và hướng cắm, nên các
khối xâm nhập và thân quặng cũng thay đổi phương và hướng theo cắm mà chúng
ta chưa ghi nhận được.
Ở các điểm quặng khác, các thể xâm nhập chứa quặng xâm tán có nguồn gốc
dung ly đều có quy mô nhỏ và ranh giới với các đá vây quanh cũng hầu hết là quan hệ
kiến tạo. Trên bình đồ các khối xâm nhập chứa quặng đều lộ ngay trên mặt. Tuy
nhiên do bị phủ nhiều và chưa có công trình nghiên cứu sâu nên việc nghiên cứu cấu
trúc liên quan với chúng còn nhiều khó khăn, chủ yếu là phân tích, suy luận trên bình
đồ. Nhìn chung phương và hướng cắm của các thân quặng khá ổn định theo phương
và hướng cắm của các đới trượt liền kề với phương chủ đạo là tây bắc-đông nam.
4.2.2. Đối với quặng hoá đồng – vàng
Trong dạng khoáng hóa này, thân quặng hoặc khoáng hóa sulfur đồng - vàng
nằm trong các đới biến dạng cao phân bố trong các đá phun trào bazơ. Các kết quả
cứu ở đây cũng như một số kết quả nghiên cứu trước (Nguyễn Đắc Lư và nnk,
2003) đã xác định được sự tập trung quặng hóa đồng - vàng trong các đới trượt dẻo,
dòn - dẻo được hình thành bởi các pha biến dạng thứ 3 và thứ 4 được thể hiện dõ ở
nhiều khu vực khoáng hóa khác nhau (Hình 1.2, Hình 4.7...).
Khoáng hóa khống chế bởi các cấu tạo thuộc pha biến dạng thứ 3
Sự khống chế khoáng hóa bởi các cấu trúc thế hệ 3 được hình thành bởi pha
biến dạng 3 được thể hiện rõ ở nhiều khu vực khu vực khác nhau như Suối Chát, Đá
Đỏ, Bản Lẹt, Suối On, Suối Bâu, Suối Sập, Bản Nhọt, Đá Mài, Chim Thượng, Cầu
Suối Sập. Tại các khu vực này, các thân quặng phân bố trong các đới biến dạng cao
trong đá phun trào bazan, có phương chủ đạo là tây bắc - đông nam (Hình 4.7, Hình
4.8; Ảnh 4.14, Ảnh 4.15) và có hướng cắm về đông bắc hoặc tây nam. Tuy nhiên ở
một số khu vực, trên một số đoạn thân quặng do bị uốn nếp bởi Pha biến dạng thứ 4
dẫn tới sự thay đổi phương cục bộ thành tây tây bắc – đông đông nam (Hình 3).
Ngoài ra, một số thân quặng ở các khu vực này còn bị một số hệ thống đứt gãy muộn
116
(trượt bằng trái hoặc phải) phương đông bắc-tây nam cắt và làm dịch chuyển các thân
quặng đi với khoảng cách khá lớn nhưng phương kéo dài vẫn khá ổn định theo
phương tây bắc – đông nam (Hình 4.7). Do đặc điểm như vậy, nên các tác giả trước
đây đã cho các phần thân quặng bị dịch chuyển này thành các thân quặng khác nhau
[13, 2].
Các khoáng hóa Cu – Au ở đây nằm hoàn toàn trong đới trượt dẻo thuộc pha
biến dạng 3. Khoáng vật quặng tập trung nằm trong các mạch thạch anh đồng kiến
tạo và trong các đới phiến milonit của đới biến dạng (Ảnh 4.14).
Trên mặt cắt ở khu vực phía tây nam (khu Đá Đỏ, Bản Lẹt, Nà Lạy, …) các thân quặng chủ yếu cắm về đông bắc, với góc dốc 500 đến 700 đôi khi dốc đứng. Còn
ở khu vực phía đông bắc (Suối Chát, Suối Bâu) các thân quặng lại cắm về phía tây nam với góc dốc 75 – 800 tạo nên kiểu cấu tạo cặp đới trượt đồng sinh ngược chiều.
B
A
Q5
C
Q3
Ảnh 4.14 Minh họa tại đới biến dạng chứa quặng thuộc pha biến dạng thứ 3 tại khu vực mỏ Bản Lẹt, Phù Yên, Sơn La., trong đó: A. Đới đứt gãy nghịch của pha biến dạng thứ 3 có chứa quặng đồng vàng khu vực mỏ Bản Đá Đỏ Phù Yên, Sơn La. B. Ảnh lát mỏng đới trượt của pha biến dạng thứ 3 (F3) cócấu tạo C/S và thể hiện chiều dịch chuyển khá rõ (mũi tên chỉ chiều dịch chuyển), trong đó chứa quặng đồng vàng trong cả mặt C và S, trong đó mặt C là chủ yếu. C. Ảnh lát mỏng các thành tạo quặng đồng vàng được thành tạo trong pha biến dạng 3 (Q3) được tái tập trung trong các khe nứt thuộc pha biến dạng 4? (Q4)
117
B
A
Ảnh 4.15: Minh họa tại đới biến dạng chứa quặng thuộc pha biến dạng thứ 3 tại khu vực mỏ Đá Đỏ, Phù Yên, Sơn La., trong đó: A. Ảnh khoáng tướng: Covelin (Cv), bornit (Bo) thay thế gặm mòn chalcopyrite (mẫu ĐĐ3/2). B. Ảnh khoáng tướng: Tetraedrit (Tetra) hạt kéo dài xâm tán theo phương phân phiến của đá (mẫu ĐĐ3/2)
Với đặc điểm trên cho thấy, quặng đồng-vàng liên quan tới Pha biến dạng 3
có bị tác động của các biến dạng về sau nhưng ít ngoại trừ các yếu tố trượt bằng
phương đông bắc-tây nam nên chúng phân bố khá ổn định trên bình đồ và mặt cắt.
Khoáng hóa khống chế bởi các cấu tạo thuộc pha biến dạng thứ 4
Đối với quặng đồng - vàng: Các đới trượt dòn - dẻo Pha 4 chứa đồng - vàng
nằm trong các thành tạo phun trào Viên Nam ở khu vực Suối Chát. Các đới khoáng
hóa và thân quặng có phương ổn định là đông bắc - tây nam trùng với phương của
các nếp uốn và các đới trượt dòn – dẻo của pha biến dạng thứ 4 và hầu như ít bị tác
động của pha biến dạng muộn hơn.
Đối với quặng hóa khác (đồng – vàng+/ - chì - kẽm): Các đới trượt dòn dẻo Pha
4 chứa đồng - vàng +/- chì – kẽm nằm trong các thành tạo đá phiến silic hệ tầng Bản
Cải và trong đá phun trào bazan hệ tầng Suối Bé. Cũng như quặng đồng – vàng liên
quan tới pha biến dạng này trong các đá hệ tầng Viên Nam, các đới khoáng hóa và thân
quặng ở đây có phương ổn định là đông bắc - tây nam trùng với phương của các nếp
uốn và các đới trượt của pha biến dạng thứ 4 và hầu như ít bị tác động của pha biến
dạng muộn hơn.
118
MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH
- Hầu hết các thể xâm nhập chứa quặng xâm tán nguốn gốc dung ly trong khu
vực nghiên cứu đã bị biến dạng mạnh, vị trí hiện tại của các thể xâm nhập không phải là
vị trí nguyên thủy ban đầu, mà chúng là các thể ngoại lai. Một số vị trí được cho là đáy
của khối magma thực chất chúng là phần đáy của nếp lõm muộn. Các khối xâm nhập bị
bào mòn mạnh mẽ, trên bình đồ chúng chỉ là phần sót lại của các khối lớn và thường có
quy mô nhỏ. Bởi vậy quy mô của các thân quặng xâm tán nguồn gốc dung ly trong khối
cũng không lớn.
- Đối với các thân quặng đồng-niken đặc sít phân bố trong các đới biến dạng
cao thường có quy mô lớn và nằm cách xa khối xâm nhập. Do được hình thành bởi
các đới trượt nghịch chéo trái, nên phần quặng tập trung chủ yếu ở phía đông nam các
khối xâm nhập. Do bị biến dạng mạnh bởi các pha muộn, đặc biệt là tác động của pha
biến dạng thứ 3 đã làm các thân quặng và đới trượt chứa quặng cũng như khối xâm
nhập gần kề bị uốn nếp tạo thành một phức nếp lõm có mặt trục khá dốc. Các công
trình nghiên cứu hiện tại hầu hết mới dừng ở phần cánh phía tây nam, còn phần nhân
và cánh phía đông bắc có thể các thân quặng nằm sâu nên hầu như chưa được đầu tư
nghiên cứu hoặc có nhưng chưa với tới độ sâu tồn tại của quặng. Bởi vậy cần đầu tư
công trình khoan sâu để xác định xác định sự tồn tại và khống chế chúng.
- Ở các khu vực có các thể xâm nhập nhỏ có chứa quặng dung ly và có biểu
hiện hoặc không có biểu hiện quặng đặc sít như Bản Trạng, Bản Mông, Bản Vờ…,
có thể vẫn tồn tại các thân quặng đặc sít lớn do có thể chúng bị dịch chuyển (về phía
tây nam) với khoảng cách lớn hoặc do bị uốn nếp đi.
- Ở các khu vực khác không có mặt của các khối xâm nhập siêu mafic do bị
bào mòn hoặc bị các đới trượt muộn cắt? mà vẫn có biểu hiện của các đới trượt Pha
biến dạng 2 và các biến đổi silic hóa có thể vẫn tồn tại các thân quặng đặc sít đi cùng.
- Các đới trượt chứa quặng đồng – vàng phương tây bắc - đông nam ở phía
tây nam (khu Đá Đỏ, Bản Lẹt, Nà Lạy,…) và đông bắc (khu Suối Chát, Suối Bâu)
có đặc điểm khá tương đồng nhau và có hướng cắm vào nhau, có thể chúng là các
119
đứt gãy đồng sinh trong quá trình biến dạng nên giao nhau của đứt gãy dưới sâu có
thể là nơi tập trung quặng có quy mô lớn hơn nên cần lưu ý (khu vực Suối Bâu)
- Do các đứt gãy trượt bằng phát triển mạnh nên một số thân quặng một phần
của chúng có thể bi cắt và dịch chuyển đi xa, nên trong quá trình tìm kiếm, thăm dò cần
lưu ý.
120
Chƣơng 5 TRIỂN VỌNG QUẶNG ĐỒNG - NIKEN VÀ ĐỒNG - VÀNG KHỐI CẤU TRÚC TẠ KHOA TRÊN QUAN ĐIỂM CẤU TRÚC KIẾN TẠO
5.1. Phân vùng triển vọng quặng đồng – niken và đồng – vàng Khối cấu
trúc Tạ Khoa
5.1.1. Đặc điểm chung
Diện tích Khối cấu trúc Tạ Khoa có diện tích trùng với phụ đới sinh khoáng
Tạ Khoa thuộc đới sinh khoáng Sông Đà (Lê Thanh Hựu, 2008). Cấu thành phụ đới
sinh khoáng bao gồm các trầm tích lục nguyên chứa carbonat, lục nguyên silic,
carbonat xen ít silic của hệ tầng Nậm Sập, Bản Cải, Đa Niêng và các thành tạo phun
trào mafic hệ tầng Viên Nam, cùng các thành tạo magma xâm nhập siêu mafic, mafic
phức hệ Ba Vì, xâm nhập axit phức hệ Phia Bioc và trầm tích hệ tầng Yên Châu, Sài
Lương. Khoáng sản nội sinh liên quan gồm có nickel, đồng, cobal, chì, vàng (?);
khoáng sản ngoại sinh có đá vôi phân dải, đá bazan, dăm cuội dung nham bazan ốp lát
trong hệ tầng Viên Nam và Bản Cải; đá phiến cháy trong hệ tầng Sài Lương.
Nhìn chung các khoáng sản có mặt trên diện tích của Khối phân bố theo một
quy luật, phụ thuộc vào các yếu tố địa chất đóng vai trò khống chế (như yếu tố địa
tầng, thạch học, magma, cấu trúc, kiến tạo, địa hoá).
Dưới đây, nghiên cứu sinh sẽ giới thiệu các yếu tố chính khống chế sự thành
tạo và phân bố các loại khoáng sản nội sinh trong vùng.
5.1.2. Đặc điểm các yếu tố và dấu hiệu khống chế quặng quặng đồng –
niken và đồng – vàng Khối cấu trúc Tạ Khoa
a- Đặc điểm các yếu tố khống chế quặng
- Yếu tố địa tầng
Yếu tố địa tầng đóng vai trò quan trọng đối với việc thành tạo và phân bố
khoáng sản, quyết định đến qui luật phân bố của các khoáng sản, chúng có nguồn
gốc gắn bó với các địa tầng với tuổi khác nhau. Trong diện tích có ý nghĩa khống
chế là các địa tầng:
121
- Hệ tầng Nậm Sập (D1-2ns): Các đá trầm tích lục nguyên chứa carbonat bị
biến chất mạnh và bị silic hóa thường đi cùng với các đã xâm nhập phức hệ Ba Vì là
nơi tập trung các các đới trượt dẻo trong đó có quặng hóa sulfur đồng – niken đặc sít.
- Hệ tầng Bản Cải (D3bc): Các đá trầm tích lục nguyên carbonat silic hệ tầng
Bản Cải phân bố tạo thành dải bao quanh nếp lồi Tạ Khoa là nơi tập trung các các
đới trượt dẻo trong đó có quặng hóa sulfur đồng – niken đặc sít.
- Yếu tố magma
Các thành tạo magma (xâm nhập và phun trào) trong diện tích rất phong phú
và đa dạng, hiện được xếp vào các phân vị địa chất: hệ tầng Viên Nam và phức hệ:
Ba Vì. Mỗi thành tạo magma đều có đặc trưng riêng về bối cảnh địa động lực thành
tạo và tính chuyên hoá sinh khoáng.
Dưới đây là các đặc điểm cơ bản về khả năng liên quan với các khoáng sản của chúng.
+ Các thành tạo phun trào mafic hệ tầng Viên Nam (T1vn): Tạo thành các
dải kéo dài bao quanh các trầm tích hệ tầng Nậm Sập, Bản Cải, Đa Niêng. Các kết
quả nghiên cứu của nghiên cứu sinh cho thấy, trong các thành tạo phun trào phát
triển khá mạnh mẽ các đới trượt có phương tây bắc dông nam thuộc pha biến dạng
3, trong đó có chứa quặng đồng, vàng. Có lẽ các thành tạo của hệ tầng gồm các
thành tạo phun trào này là môi trường thuận lợi cho sự tập trung quặng hoá đồng,
vàng khi chúng bị biến dạng. Tại một số khu vực như Xuân Giàng, Cò Muông còn gặp
đồng tự sinh gắn bó chặt chẽ với các đá bazan hạnh nhân. Đồng tự sinh thường là các
mảnh, hạt nhỏ phân bố trong hạnh nhân của bazan đi cùng với carbonat. Quặng đồng
kiểu này có thể có nguồn gốc nhiệt dịch phun trào, hình thành gần mặt đất cùng với sự
hình thành các khoáng vật prenit, carbonat trong hạnh nhân bazan. Các đá bazan hệ
tầng Viên Nam thường bị biến đổi propilit hoá, berezit hóa, lisvenit hóa, chlorit hóa,
artinolit hóa đôi khi là kaolin hóa như ở Suối Chát, Bản Lẹt, Đá Đỏ, Suối Bâu, khu
Bản Mòn, Hồng Ngài, Cao Đa. Các biến đổi này thường đi cùng với các đới trượt
có chứa quặng đồng vàng.
+ Phức hệ Ba Vì (U-Gb, Gb/P3-T1bv): được coi là cùng nguồn với phun trào
mafic hệ tầng Viên Nam, có thành phần từ siêu mafic tới mafic. Các thành tạo của
122
phức hệ Ba Vì thường là các khối nhỏ dạng thấu kính, mạch với kích thước thay đổi,
rộng <1m tới vài chục mét đến 250-300m, kéo dài vài trăm mét, chỉ có khối ở Chim Hạ là có kích thước đáng kể (diện tích khoảng >1km2). Thành phần gồm dunit verlit,
peridotit, gabroperidotit, gabro, gabrodabas, diabas hạt nhỏ đến vừa màu xám xanh,
xám đen. Các đá thường bị biến đổi mạnh như serpentin hoá, actinolit hoá, amphibol
hoá, zoizit, epidot hoá, đặc biệt là các đá siêu mafic biến đổi mạnh mẽ. Liên quan với
các xâm nhập có biểu hiện khoáng sản nickel, đồng, cobal (selen, terlur, platin) có giá
trị công nghiệp ở Bản Phúc, Bản Khoa, Bản Mông, Bản Xang (Bản Trạng).
Về địa hoá: tập hợp các nguyên tố họ sắt (Cr, Co, V) đều cao hơn clark: Cr cao
hơn 2-10 lần; Co 2 đến 17 lần, V nhỏ hơn clark, tập hợp các nguyên tố kim loại màu
(Cu, Ni) đều có giá trị lớn hơn clark 1-4 lần
Kết quả phân tích mẫu quang phổ hấp thụ đối sánh với clark ở từng nhóm đá:
Đá siêu mafic: Cu gấp 6,3 lần, Ni ngang bằng; Co, V gấp 2 lần; đá mafic: Cu ngang
bằng, có một số mẫu gấp 2 lần, Ni lớn hơn 1-5 lần; Co 7 lần, Cr 3-7 lần. Kết quả
phân tích mẫu giã đãi gặp các khoáng vật như: pyrit, magnetit, ilmenit, 1 mẫu gặp
đồng tự sinh và 4 mẫu gặp vàng 1-2 hạt.
Khoáng sản liên quan với các đá magma của phức hệ là nickel, đồng, cobal
(selen, telur, platin) có thể có vàng (?).
- Các yếu tố liên quan tới cấu trúc
Yếu tố về cấu tạo khối xâm nhập: Phần đáy của các khối xâm nhập siêu mafic
là nơi quặn đồng - niken được thành tạo theo kiểu dung ly trong quá trình đông kết
magma. Hiện trong khu vực ở các khối Bản Phúc, Bản Khoa, Bản Trạng đã có quặng
hóa đồng, niken được thành tạo theo kiểu này. Theo lý thuyết và thực tế tại các mỏ
trên thế giới, các thân quặng hầu như đều nằm ở đáy các khối xâm nhập mafic –
siêu mafic. Sự tập trung sulfur do tác nhân của trọng lực được biểu hiện bằng sự
tăng dần mật độ sulfur ở đới sát đáy hoặc sự tồn tại của các thân sulfur trong các đới
lõm của lò, bồn, kênh magma. Tuy nhiên ở khu vực nghiên cứu, quá trình tác động
của các quá trình biến dạng về sau đã tác động mạnh lên các thể xâm nhập, nên phần
đáy của khối xâm nhập được trượt đi theo các đứt gãy chờm nghịch và bị uốn nếp đi,
123
sau đó được bóc mòn và lộ trên cao. Các thân quặng đi cùng lộ ở các vị trí này gọi là
các thân quặng nằm trong vách của khối xâm nhập. Bởi vậy việc xác định được phần
đáy của khối xâm nhập sẽ có ý nghĩa cho việc tìm kiếm quặng dung ly xâm tán.
Yếu tố đứt gãy
Theo tính chất của đứt gãy: Các đới trượt dẻo phát triển trong khu vực thường
là nơi tích tụ quặng đồng - niken và đồng – vàng trong khu vực.
Theo thời gian của đứt gãy: Các kết quả nghiên cứu đã xác định được quặng
hóa đồng – niken liên quan tới 2 pha biến dạng chính là Pha biến dạng thứ 2 và Pha
biến dạng thứ 3, quặng đồng – vàng liên quan tới Pha biến dạng thứ 3. Có thể trong
khu vực có quặng Chì kẽm, đồng vàng liên quan tới Pha biến dạng 5?.
Các khoáng hóa đồng - niken liên quan tới pha biến dạng thứ 2
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong khu vực Khối Bản Phúc, Bản Khoa, các
thân quặng sulsur đồng – niken đặc sít chủ yếu phát triển ở rìa phía tây nam khối và
có phương kéo dài về phía đông nam vượt qua diện phân bố của khối xâm nhập khá
xa mà không thấy ở phía đông bắc. Điều đó cho thấy, các đới trượt được hình thành
chủ yếu ở phía tây nam của các khối này có hướng cắm về phía đông bắc và làm
trượt khối xâm nhập trượt lên về phía tây nam theo các đới trượt này kiểu nghịch
bằng trái. Quá trình biến dạng cũng đã làm toàn bộ khối xâm nhập dịch trượt với
các đá vây quanh làn cho ranh giới của chúng với đá vây quanh đều là ranh giới
kiến tao giống như một bao thể kiến tạo lớn. Tuy nhiên mức độ biến dạng giữa khối
xâm nhập với đá vây quanh là không đồng đều mà ở phía tây nam mà đi cùng với
các thân quặng đặc sít gần cạnh mạnh mẽ hơn.
Khoáng hóa đồng-niken nằm trong các đới trượt có quy mô lớn, gần ranh
giới và song song với phương kéo dài của khối xâm nhập. Các kết quả nghiên cứu
hiện tại cho thấy ranh giới tiếp xúc giữa thân siêu mafic Bản Phúc, Bản Khoa và các
đá vây quanh là các đới trượt dẻo (xem phần trên, Hellman, [29]) trong đó có các
tích tụ sulfur đặc sít tập trung và tạo thành các thân quặng có ý nghĩa công nghiệp.
Trong các đới này, quặng hóa thường tập trung dạng các vi mạch hoặc khối đặc sít
124
nằm giữa các thể dăm, melange hoặc boudins hoặc xuyên cắt vào tường của các
cánh của đới trượt.
Sự uốn cong của thân quặng ở góc đông nam khối Bản Phúc, thân quặng
thay đổi đường phương, cắm về tây bắc trong đoạn dài khoảng 50m, sau đó uốn trở
lại cắm về đông bắc có thể chúng bị uốn nếp bởi pha biến dạng muộn hơn, xong
cũng không loại trừ khả năng chúng bị đới trượt muộn hơn (Pha 5) cắt và làm dịch
chuyển phương và hướng cắm đi.
Việc thành tạo các thân quặng đồng – niken đặc sít luôn gắn liền giữa khối
xâm nhập và các đới biến dạng đi cùng. Việc ở Khối Bản Khoa có kích thước khá
nhưng không có các thân quặng đặc sít đạt giá trị công nghiệp cũng phù hợp với các
kết quả khảo sát ở đây ít thấy các đới trượt có quy mô lớn giống như khu vực Khối
Bản Phúc.
Có lẽ, sự hình thành các đới trượt lớn dọc theo ranh giới khối siêu mafic có
xâm tán quặng trong pha biến dạng thứ 2 đã tạo ra các đới dập vỡ và các đường dẫn
thuận lợi cho quá trình di chuyển, tập trung để tạo thành các thân quặng. Trong
những điều kiện hoá lý thuận lợi, quặng xâm tán đã bị hòa tan và di chuyển dễ dàng
ra khỏi khối siêu mafic dọc theo đới biến dạng cao và tái tập chung khoáng hóa Ni -
Cu trong các đới trượt ở những vị trí thuận lợi. Do các đới chứa quặng này đã bị tác
động mạng mẽ của các pha biến dạng về sau, sự uốn nếp của các thể sulfur đặc sít
và các đới trượt thuộc pha 2 bởi pha 3 và các pha muộn hơn nên hình thái, sự phân
bố không gian, và thể tích của các thân quặng sẽ bị chi phối bởi các cấu tạo muộn
hơn, làm cho dạng nằm không gian của chúng bị phức tạp hoá. Hình dạng hiện tại
của khối xâm nhập có lẽ là do tác động của Pha biến dạng 3 đã làm uốn nếp các
thân quặng cùng khối xâm nhập nên đã tạo ra một cấu trúc kiểu dạng chậu giả.
Các khoáng hóa đồng - niken và đồng - vàng liên quan tới pha biến dạng thứ 3
Đối với quặng đồng - niken nằm trong các đới trượt dẻo phương tây bắc-
đông nam thuộc pha biến dạng 3 lộ ra ở các nơi như vùng Suối Đán, Bản Trạng,
Suối Tào. Quặng được tập trung ở trong các đới xi măng gắn kết các thể boudin
hoặc dăm kiến tạo trong các đới trượt nói trên. Vai trò của các đới trượt này có lẽ
125
cũng tương tự như đối với các đới trượt trong Pha 2 trong đó chúng vừa là các
đường dẫn và là cấu trúc chứa quặng. Đôi nơi khoáng hóa tập trung với hàm lượng
cao tạo thành các thân quặng công nghiệp nhưng có quy mô nhỏ hơn so với kiểu
trong đới trượt Pha 2, có lẽ do các đới trượt này nằm xa các khối siêu mafic hoặc sự
biến dạng diễn ra trong điều kiện hóa lý kém thuận lợi hơn.
Đối với quặng đồng - vàng, chúng phân bố khá rộng rãi trên diện tích nghiên
cứu, trong đó tập trung chính ở khu vực Suối Chát, Đá Đỏ, Bản Lẹt phía đông và
đông nam vùng. Ngoài ra cũng gặp rải rác ở khu vực khác như Chiềng Đông, Chim
Vàn....Các đới trượt có nhiều quy mô khác nhau từ nhỏ cho tới khá lớn và phân bố
tập trung chủ yếu ở góc đông nam khu vực nơi phát triển khá dày đặc các đới trượt
thuộc pha này. Đặc điểm của các đới trượt chứa quặng đồng vàng của pha này là
khá giầu các mạch thấu kính thạch anh (dạng bao thể kiến tạo) và các biến đổi đi
cùng propylit hóa (cholorit-calcit-albit), berezit hóa, lisvenit hóa, chlorit hóa,
artinolit hóa đôi khi là kaolin hóa khá mạnh mẽ, làm cho đá thường có mầu xám
lục, xám xanh, xanh lục, đôi chỗ xám trắng.
Các thân quặng này cũng bị tác động bởi các pha biến dạng 4 hoặc 5, biểu
hiện bởi sự uốn nếp yếu hoặc cắt xén, dịch chuyển bởi các đứt gãy dòn. Tuy nhiên
những tác động của các pha biến dạng sau là không lớn nên phương cấu trúc chung
của chúng ít bị thay đổi.
Ngoài mối liên quan giữa quặng hóa đồng – niken và đồng – vàng với 2 pha
biến dạng 2 và 3 nêu trên. Có thể trong khu vực quặng hóa còn liên quan tới một
pha biến dạng muộn hơn nữa (Pha 5?). Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong các đới
biến dạng chứa quặng đồng – vàng Pha 3 có rất nhiều các mạch, thấu kính thạch
anh cắt vuông góc với các cấu tạo của chúng, có lẽ đây là các thành tạo liên quan tới
Pha biến dạng 5? Điểm quặng sulfur đa kim đồng (chì – kẽm) Cầu Suối Sập có phương kéo dài 40-2200 trùng với phương các mạch thạch anh phát triển muộn nói
trên là điều lý giải cho chúng. Tuy nhiên mức độ phổ biến của mối liên quan của
quặng hóa thuộc pha biến dạng này là ít.
Yếu tố cấu trúc nếp uốn
126
Cấu trúc nếp uốn trong khu vực nghiên cứu chỉ có vai trò làm tái biến dạng
của các yếu tố cấu tạo chứa quặng được hình thành trước đó. Trong khu vực hiện đã
xác định được 4 thế hệ nếp uốn liên quan tới các pha biến dạng 1, 2, 3 và 4. Trong đó
các nếp uốn Pha 2 thường đi cùng với các đới trượt Pha 2 có chứa quặng đồng, niken
đặc sít. Các nếp uốn Pha 3 thường đi cùng với các đới trượt Pha 3 trong đó có tích tụ
quặng đồng vàng. Các nếp uốn Pha 3 cũng đã tác động mạnh mẽ nên các nên các cấu
tạo chứa quặng của Pha 2. Bởi vậy trong vùng chứa quặng của Pha 2 (liên quan tới
quặng đồng, niken), việc xác định được các cấu tạo nếp uốn này và sự tác động của
nó tới các yếu tố cấu trúc quặng sẽ có một ý nghĩa khá lớn trong việc định hướng tìm
kiếm quặng hóa. Với các nếp uốn Pha 4, đây là các nếp uốn muộn, vòm khá mở nên
việc tác động của chúng tới các yếu tố cấu trúc quặng không nhiều nên ít ảnh hưởng
trong công tác tìm kiếm quặng hóa.
b- Các dấu hiệu tìm kiếm khoáng sản
Các dấu hiệu tìm kiếm khoáng sản gồm: các dị thường địa hoá, khoáng vật,
các đá biến đổi và các dị thường địa vật lý.
- Các dị thường địa hoá- khoáng vật
Kết quả của việc lấy mẫu trọng sa và trầm tích dòng đã khoanh định được một
số vành phân tán khoáng vật và một số vành phân tán nguyên tố. Trong số các
nguyên tố dị thường đã phát hiện, có ý nghĩa đối với công tác điều tra khoáng sản là
đồng, cobal, nickel, vàng... Các khoáng vật có ý nghĩa đối với công tác điều tra
khoáng sản gồm: vàng, cinabar...Từ tập hợp các vành phân tán có thể khoanh định
được nhiều vùng có khả năng phát hiện khoáng sản.
- Các đới đá biến đổi
Biến đổi nhiệt dịch là dấu hiệu trực tiếp hoặc gián tiếp để tìm kiếm các loại
khoáng sản. Trong diện tích nhóm tờ thường gặp các loại biến đổi nhiệt dịch (tremolit
hóa, propilit hoá, berezit hóa, lisvenit hóa, chlorit hóa, artinolit).
- Các biến đổi serpentin hoá, actinolit hoá, amphibol hoá hoá thường phát triển
trên các đá siêu mafic phức hệ Ba Vì phân bố ở trung tâm diện tích thường liên
quan tới quặng đồng – niken dạng đặc sit.
127
- Các biến đổi propilit hoá, berezit hóa, lisvenit hóa, chlorit hóa, artinolit hóa đôi
khi là kaolin hóa thường phát triển trong các đá phun trào hệ tầng Viên Nam ở phía đông
và đông nam khu vực (Suối Chát, Đá Đỏ, Bản Lẹt….) thường liên quan tới đồng, vàng
Các vết lộ thân quặng
Các vết lộ quặng có ý nghĩa quan trọng tìm kiếm phát hiện, điều tra đánh giá
và điều tra mở rộng mỏ đối với khoáng sản trong khu vực nghiên cứu như sau:
- Đồng - niken: từ vết lộ khu vực hạ nguồn Suối Đán, đã tìm ra dải quặng đồng
– niken khu vực giữa và thượng nguồn (Suối Đán 2).
- Đồng - vàng: từ dấu lộ quặng tại khu Suối On, Bản Lẹt … đã phát hiện dải
quặng đồng – vàng Suối On, Bản Lẹt, Bản Sa….
5.1.3. Phân vùng triển vọng khoáng sản quặng đồng – niken và đồng -
vàng khối cấu trúc Tạ Khoa
Trên cơ sở các tiền đề, dấu hiệu về địa chất khoáng sản đã được nghiên cứu.
Trong diện tích nghiên cứu được phân thành các mức triển vọng khác nhau dưới
đây (Hình 5.1):
5.1.3.1. Diện tích rất triển vọng A
Là diện tích có các khoáng sàng đã được tìm kiếm đánh giá hoặc thăm dò,
cần tìm kiếm thăm dò mở rộng hoặc nâng cấp trữ lượng gồm 4 diện tích: 1A - Bản
Phúc, Bản Khoa, Bản Xang, Bản Mông Ni-Cu-Co (Se, Te, Pt), 2A - Đá Đỏ, Bản
Lẹt, Bản Sa, Xuân Giàng (Cu, Au), 3A - Suối Bâu, Bản Pưn, Bản Ban (Cu, Au), 4A
- Suối Chát (Cu, Au).
+ Diện tích 1A: Thuộc khu vực Bản Phúc, Bản Khoa, Bản Xang, Bản Mông
có diện tích khoảng 44km2.
Trong diện tích phân bố gồm các thành tạo hệ tầng Nậm Sập với thành phần
gồm đá phiến thạch anh hai mica chứa silimanit, phiến thạch anh - felspat – biotit-
silimanit +/- cordierit xen ít quarzit. đá phiến thạch anh mica, calcit chứa mica, và
đá hoa, đá phiến thạch anh felspat diopsid, xen các lớp đá phiến chứa epidot và
calcit, actinolit, hoặc đá phiến thạch anh mica, Tập 1 Hệ tầng Bản Cải gồm cát bột
kết, sét bột kết, đá phiến sét, đá phiến giàu silic xen sét bột kết và lớp mỏng
128
(Hình 5.1):
129
mangan. Trong vùng còn có các thành tạo magma xâm nhập phức hệ Ba Vì với
thành phần từ siêu mafic tới mafic gồm dunit, verlit, peridotit, gabro peridotit, gabro,
gabrodiabas, diabas. Phức hệ Phia Bioc gồm granit biotit, granit biotit dạng porphyr,
granit hai mica, granit-pegmatit, aplit granit. Các đá trầm tích biến chất trong khu vực
bị biến dạng khá mạnh bởi các pha biến dạng: Pha 1 gồm các nếp uốn và các đới
trượt dẻo đi cùng quá trình biến chất tướng amphibolit, Pha dạng 2 gồm các nếp uốn
và các đới trượt dẻo đi cùng quá trình biến chất tướng amphibolit, Pha 3 gồm các
nếp uốn và các đới trượt dẻo đến dòn – dẻo, đi kèm các đá bị biến chất tướng phiến
lục, Pha 4 gồm các nếp uốn mở có phương đông bắc – tây nam.
Khoáng sản chính trong diện tích có đồng – niken (điểm quặn Bản Phúc, Bản
Khoa, Bản Trạng, Bản Mông) gồm 3 loại, quặng phân bố ở đáy và vách các khối xâm
nhập siêu mafic có nguồn gốc dung ly, quặng nằm trong các đới trượt Pha biến dạng
2 có nguồn gốc nhiệt dịch và quặng silicat nằm trong vỏ phong hóa các đá siêu mafic.
Trong vùng còn có 1 vành phân tán khoáng vật sheelit bậc III.
+ Diện tích 2A: Thuộc khu vực Đá Đỏ, Bản Lẹt, Bản Sa, Xuân Giàng có
diện tích khoảng 34km2
Trong diện tích phân bố gồm các thành tạo hệ tầng Viên Nam (T1vn) bao gồm
các thành tạo phun trào bazan, bazan hạnh nhân, andesitobazan, tuf bazan màu xám
xanh, trachydacit porphyr, ryodacit. Tập 2 hệ tầng Bản Cải gồm đá vôi, đá vôi sét phân
lớp mỏng đến trung bình xen lớp mỏng đá phiến silic màu xám, xám đen, ngoài ra còn
ít đá carbonat hệ tầng Đa Niêng, đã lục nguyên hệ tầng Nậm Thẳm.
Các đá trầm tích biến chất trong khu vực bị biến dạng khá mạnh bởi các pha
biến dạng: Pha 1 gồm các cấu tạo phiến đi cùng quá trình biến chất tướng
amphibolit, Pha dạng 2 gồm các nếp uốn và các đới trượt dẻo đi cùng quá trình biến
chất tướng amphibolit, Pha 3 gồm các nếp uốn và các đới trượt dẻo đến dòn – dẻo,
đi kèm các đá bị biến chất tướng phiến lục, Pha 4 gồm các nếp uốn mở có phương
đông bắc – tây nam, Pha 5 gồm các đứt gãy dòn có phương đông bắc – tây nam, Pha
5 gồm các đứt gãy dòn có phương đông bắc – tây nam.
130
Khoáng sản chính trong diện tích có đồng – vàng (gồm các điểm quặng đồng
Nà Lạy, đồng Phiêng Lương, vàng Phiêng Lương, đồng Bản Mèo, đồng Bản Lẹt,
đồng Đá Đỏ, đồng tự sinh Xuân Giàng, vàng Bản Sa, đồng Bản Sa) phân bố trong
các đới trượt Pha biến dạng 3 có phương phát triển tây bắc – đông nam. Trong vùng
còn có 1 vành phân tán khoáng vật vàng (1 hạt), 2 vành phân tán nguyên tố vàng
(>5.77ppb), 1 vành phân tán Niken (0,01%), 1 vành crom (0,01%), 1 vành phân tán khoáng vật pyrit (0,01g/m3), 1 vành phân tán nguyên tố bạc (>0,5ppm), 1 vành phân tán khoáng vật apatit (0,05 g/m3).
+ Diện tích 3A: Thuộc khu vực Suối Bâu, Bản Pưn, Bản Ban, có diện tích 18km2
Trong diện tích phân bố gồm các thành tạo hệ tầng Viên Nam (T1vn) bao
gồm các thành tạo phun trào bazan, bazan hạnh nhân, andesitobazan, tuf bazan màu
xám xanh, trachydacit porphyr, ryodacit.
Các đá trầm tích biến chất trong khu vực bị biến dạng khá mạnh bởi các pha
biến dạng: Pha dạng 2 gồm các phiến đi cùng quá trình biến chất tướng amphibolit,
Pha 3 gồm các đới trượt dẻo đến dòn – dẻo, đi kèm các đá bị biến chất tướng phiến
lục, Pha 4 gồm các nếp uốn mở có phương đông bắc – tây nam, Pha 5 gồm các đứt
gãy dòn có phương đông bắc – tây nam.
Khoáng sản chính trong diện tích có đồng – vàng (gồm các điểm quặng
đồng Bản Ban, đồng Suối Bâu, đồng Bản Pưn, vàng Bản Pưn) phân bố trong các
đới trượt Pha biến dạng 3 có phương phát triển tây bắc – đông nam. Trong vùng còn có 2 vành phân tán khoáng vật pyrit (0,01 g/m3), 2 vành phân tán khoáng vật barit (0,1-1 g/m3), 1 vành phân tán nguyên tố niken (0,005%)
+ Diện tích 4A: Thuộc khu vực Suối Chát, có diện tích khoảng 5km2.
Trong diện tích phân bố gồm các thành tạo hệ tầng Viên Nam (T1vn) bao
gồm các thành tạo phun trào bazan, bazan hạnh nhân, andesitobazan, tuf bazan màu
xám xanh, trachydacit porphyr, ryodacit.
Các đá trong khu vực bị biến dạng khá mạnh bởi các pha biến dạng: Pha 3
gồm các các đới trượt dẻo đến dòn – dẻo, đi kèm các đá bị biến chất tướng phiến lục.
131
Khoáng sản chính trong diện tích có đồng – vàng (gồm các điểm quặng
Vàng Suối Chát, Đồng Suối Chát) phân bố trong các đới trượt Pha biến dạng 3 có
phương phát triển tây bắc – đông nam. Trong vùng còn có 1 vành phân tán khoáng
vật vàng (1 hạt), 1 vành phân tán nguyên tố vàng (5,77ppb), 1 vành phân tán khoáng vật pyrit (0,01 g/m3).
5.1.3.2. Diện tích triển vọng (B)
Là diện tích có các tiền đề thuận lợi, tập trung các dấu hiệu tìm kiếm đồng
thời có các biểu hiện khoáng sản qua giai đoạn điều tra sơ bộ thấy có triển vọng, cần
được điều tra chi tiết hoặc đánh giá gồm 6 diện tích: 1B: Bản Vờ (Cu, Ni, Au), 2B:
Đèo Chẹn, Pa Pó (Cu, Ni, Au), 3B: Bản Nguồn - Núi Hom (Cu, Ni, Co), 4B: Cầu
Suối Sập (Cu, Au), 5B: Suối Páy (Cu, Ni, Au), 6B: Vạn Sài (Cu, Au).
+ Diện tích 1B: Thuộc khu vực Bản Vờ, có diện tích khoảng 29km2.
Trong diện tích phân bố gồm các thành tạo Tập 3 hệ tầng Nậm Sập với thành
phần gồm đá phiến thạch anh felspat diopsid, xen các lớp đá phiến chứa epidot và
calcit, actinolit, hoặc đá phiến thạch anh mica. Hệ tầng Bản Cải gồm cát bột kết, sét
bột kết, đá phiến sét, đá phiến giàu silic xen sét bột kết và lớp mỏng mangan, đá vôi,
đá vôi sét phân lớp mỏng đến trung bình xen lớp mỏng đá phiến silic màu xám, xám
đen. Hệ tầng Viên Nam (T1vn) gồm các đá phun trào bazan hạnh nhân, bazan
(tướng phun trào thực sự), tuf dung nham bazan (tướng phun nổ), phần trên có
dacit, ryodacit, trachytryolit. Trong vùng còn có các thành tạo magma xâm nhập
phức hệ Ba Vì có thành phần peridotit bị serpentin hoá, gabro peridotit, gabro,
gabrodiabas, diabas. Phức hệ Phia Bioc gồm granit biotit, granit biotit dạng porphyr,
granit hai mica, granit-pegmatit, aplit granit màu xám, hạt vừa đến lớn.
Các đá trầm tích biến chất trong khu vực bị biến dạng khá mạnh bởi các pha
biến dạng: Pha 1 gồm các phiến đi cùng quá trình biến chất tướng amphibolit, Pha
dạng 2 gồm các nếp uốn và các đới trượt dẻo đi cùng quá trình biến chất tướng
amphibolit, Pha 3 gồm các nếp uốn và các đới trượt dẻo đến dòn – dẻo, đi kèm các
đá bị biến chất tướng phiến lục, Pha 4 gồm các nếp uốn mở có phương đông bắc –
tây nam, Pha 5 gồm các đứt gãy dòn có phương đông bắc – tây nam.
132
Khoáng sản chính trong diện tích có đồng – niken (điểm quặng Bản Vờ)
phân bố ở đáy và vách các khối xâm nhập siêu mafic có nguồn gốc dung ly và vàng
(dạng biểu hiện). Trong vùng còn có 1 vành phân tán nguyên tố niken-coban bậc II. + Diện tích 2B: Thuộc khu vực Đèo Chẹn, Pa Pó có diện tích 31km2
Trong diện tích phân bố gồm các thành tạo hệ tầng Bản Cải gồm cát bột kết,
sét bột kết, đá phiến sét, đá phiến giàu silic xen sét bột kết và lớp mỏng mangan, đá
vôi, đá vôi sét phân lớp mỏng đến trung bình xen lớp mỏng đá phiến silic màu xám,
xám đen. Hệ tầng Viên Nam (T1vn) gồm các đá phun trào bazan hạnh nhân, bazan
(tướng phun trào thực sự), tuf dung nham bazan (tướng phun nổ), phần trên có
dacit, ryodacit, trachytryolit. Trong vùng còn có các thành tạo magma xâm nhập
phức hệ Ba Vì có thành phần dunit, gabro, gabrodiabas, diabas.
Các đá trầm tích biến chất trong khu vực bị biến dạng khá mạnh bởi các pha
biến dạng: Pha 1 gồm các phiến đi cùng quá trình biến chất tướng amphibolit, Pha
dạng 2 gồm các nếp uốn và các đới trượt dẻo đi cùng quá trình biến chất tướng
amphibolit, Pha 3 gồm các nếp uốn và các đới trượt dẻo đến dòn – dẻo, đi kèm các
đá bị biến chất tướng phiến lục.
Khoáng sản trong diện tích có đồng – niken (điểm quặng Đèo Chẹn, ) phân bố
ở đáy và vách các khối xâm nhập siêu mafic có nguồn gốc dung ly. Ngoài ra còn có
điểm quặng đồng Pa Pó quặng nằm trong dới trượt trong các đá phun trào mafic hệ
tầng Viên Nam và một số điểm biểu hiện vàng gốc, 1 vành phân tán khoáng vật vàng
Bậc I.
+ Diện tích 3B: Thuộc khu vực Bản Nguồn – Nói Hom, có diện tích khoảng 51km2.
Trong diện tích phân bố gồm các thành tạo Tập 1 và Tập 3 hệ tầng Nậm Sập với
thành phần gồm đá phiến thạch anh hai mica chứa silimanit, phiến thạch anh - felspat –
biotit-silimanit +/- cordierit xen ít quarzit, đá phiến chứa epidot và calcit, actinolit, hoặc
đá phiến thạch anh mica, Hệ tầng Bản Cải gồm cát bột kết, sét bột kết, đá phiến sét, đá
phiến giàu silic xen sét bột kết và lớp mỏng mangan, đá vôi, đá vôi sét phân lớp mỏng
đến trung bình xen lớp mỏng đá phiến silic màu xám, xám đen. Trong vùng còn có các
thành tạo magma xâm nhập phức hệ Ba Vì có thành phần peridotit bị serpentin hoá,
133
gabro peridotit, gabro, gabrodiabas, diabas. Phức hệ Phia Bioc gồm granit biotit, granit
biotit dạng porphyr, granit hai mica, granit-pegmatit, aplit granit màu xám, hạt vừa đến
lớn. Các đá trầm tích biến chất trong khu vực bị biến dạng khá mạnh bởi các pha biến
dạng: Pha 1 gồm các phiến đi cùng quá trình biến chất tướng amphibolit, Pha dạng 2
gồm các nếp uốn và các đới trượt dẻo đi cùng quá trình biến chất tướng amphibolit,
Pha 3 gồm các nếp uốn và các đới trượt dẻo đến dòn – dẻo, đi kèm các đá bị biến chất
tướng phiến lục, Pha 4 gồm các nếp uốn mở có phương đông bắc – tây nam, Pha 5 gồm
các đứt gãy dòn có phương đông bắc – tây nam.
Khoáng sản chính trong diện tích có đồng – niken (điểm quặng Bản Nguồn,
Núi Hom) phân bố ở đáy và vách các khối xâm nhập siêu mafic có nguồn gốc dung
ly và Chì Bản Chéng. Trong vùng còn có 1 vành phân tán khoáng vật vàng – cinaba
bậc I.
+ Diện tích 4B: Thuộc khu vực Cầu Suối Sập, có diện tích 61km2
Trong diện tích phân bố gồm các thành tạo hệ tầng Viên Nam (T1vn) bao
gồm các thành tạo phun trào bazan, bazan hạnh nhân, andesitobazan, tuf bazan màu
xám xanh, trachydacit porphyr, ryodacit.
Các đá trầm tích biến chất trong khu vực bị biến dạng khá mạnh bởi các pha
biến dạng: Pha dạng 2 gồm các phiến đi cùng quá trình biến chất tướng amphibolit,
Pha 3 gồm các nếp uốn và các đới trượt dẻo đến dòn – dẻo, đi kèm các đá bị biến
chất tướng phiến lục, Pha 5 gồm các đứt gãy dòn có phương đông bắc – tây nam.
Khoáng sản chính trong diện tích có đồng – vàng (điểm quặng đồng Suối
Sập, đồng Suối Thịnh, đồng Bản Nhọt) phân bố trong các đới trượt Pha biến dạng 3
có phương phát triển tây bắc – đông nam, đồng – niken Bản Cải, đồng Đá Mài,
đồng – (chì – kẽm) Cầu Suối Sập, một số biểu hiện vàng gốc. Trong vùng còn có 1
vành phân tán khoáng vật vàng bậc I, 1 vành bậc II; 1 vành phân táng nguyên tố
vàng (<2,07ppb); 1 vành phân tán khoáng vật bạc bậc I; 2 vành phân tán nguyên tố đồng bậc III và 0,03%; 1 vành phân tán khoáng vật barit bậc (0,1-1g/m3). + Diện tích 5B: Thuộc khu vực Suối Páy có diện tích 40km2
134
Trong diện tích phân bố chủ yếu các thành tạo hệ tầng Viên Nam (T1vn) gồm
các đá phun trào bazan hạnh nhân, bazan (tướng phun trào thực sự), tuf dung nham
bazan (tướng phun nổ), phần trên có dacit, ryodacit, trachytryolit.
Các đá trong khu vực bị biến dạng khá mạnh bởi các pha biến dạng: Pha 2
gồm các nếp uốn và các đới trượt dẻo đi cùng quá trình biến chất tướng amphibolit,
Pha 3 gồm các nếp uốn và các đới trượt dẻo đến dòn – dẻo, đi kèm các đá bị biến
chất tướng phiến lục, Pha 5 gồm các đứt gãy dòn có phương đông bắc – tây nam.
Khoáng sản trong diện tích có đồng – niken (điểm quặng Suối Páy ) phân bố
ở đáy và vách các khối xâm nhập siêu mafic có nguồn gốc dung ly. Ngoài ra còn có
điểm quặng đồng Na Pa quặng nằm trong dới trượt trong các đá phun trào mafic hệ
tầng Viên Nam và một số điểm biểu hiện vàng gốc, 2 vành phân tán khoáng vật
vàng Bậc I, 1 vành phân tán nguyên tố Niken Bậc II.
+ Diện tích 6B: Thuộc khu vực Vạn Sài, có diện tích 10km2
Trong diện tích phân bố gồm các thành tạo hệ tầng Bản Cải Tập 2 gồm đá
vôi, đá vôi sét phân lớp mỏng đến trung bình xen lớp mỏng đá phiến silic màu xám,
xám đen, hệ tầng Viên Nam (T1vn) bao gồm các thành tạo phun trào bazan, bazan
hạnh nhân, andesitobazan, tuf bazan màu xám xanh, trachydacit porphyr, ryodacit.
Các đá trầm tích biến chất trong khu vực bị biến dạng khá mạnh bởi các pha
biến dạng: Pha 1 gồm các phiến đi cùng quá trình biến chất tướng amphibolit, Pha
biến dạng 2 gồm các phiến đi cùng quá trình biến chất tướng amphibolit, Pha 3 gồm
các nếp uốn và các đới trượt dẻo đến dòn – dẻo, đi kèm các đá bị biến chất tướng
phiến lục, Pha 4 gồm các nếp uốn mở có phương đông bắc – tây nam, Pha 5 gồm
các đứt gãy dòn có phương đông bắc – tây nam.
Khoáng sản chính trong diện tích có đồng – vàng (điểm đồng Vạn Sài) phân
bố trong các đới trượt Pha biến dạng 3 có phương phát triển tây bắc – đông nam.
Trong vùng còn có 1 vành phân tán khoáng vật vàng (7 hạt), 2 vành phân tán
nguyên tố đồng (0,03%).
5.1.3.3. Diện tích chƣa rõ triển vọng (C)
135
Là diện tích có tiền đề thuận lợi, có một số dấu hiệu tìm kiếm, có hoặc không
có các biểu hiện khoáng sản, khoáng hoá, song chưa rõ triển vọng, có thể kiểm tra
lại cùng với việc điều tra đánh giá các diện tích lân cận, gồm 3 diện tích: 1C: Tạ
Khoa (Ni, Cu, Co, Pt), 2C: Tà Hộc (Cu, Au), 3C: Hồng Ngài (Cu, Au). + Diện tích 1C: Thuộc khu vực Tạ Khoa, có diện tích 280 km2.
Trong diện tích phân bố gồm các thành tạo hệ tầng Nậm Sập với thành phần gồm
đá phiến thạch anh hai mica chứa silimanit, phiến thạch anh - felspat – biotit-silimanit +/-
cordierit xen ít quarzit. đá phiến thạch anh mica, calcit chứa mica, và đá hoa, đá phiến
thạch anh felspat diopsid, xen các lớp đá phiến chứa epidot và calcit, actinolit, hoặc đá
phiến thạch anh mica, Hệ tầng Bản Cải gồm cát bột kết, sét bột kết, đá phiến sét, đá
phiến giàu silic xen sét bột kết và lớp mỏng mangan, đá vôi, đá vôi sét phân lớp mỏng
đến trung bình xen lớp mỏng đá phiến silic màu xám, xám đen và một ít hệ tầng Viên
Nam gồm bazan, bazan hạnh nhân, andesitobazan, tuf bazan màu xám xanh, trachydacit
porphyr, ryodacit. Trong vùng còn có các thành tạo magma xâm nhập phức hệ Ba Vì với
thành phần từ siêu mafic tới mafic gồm dunit, verlit, peridotit, gabro peridotit, gabro,
gabrodiabas, diabas, Phức hệ Phia Bioc gồm granit biotit, granit biotit dạng porphyr,
granit hai mica, granit-pegmatit, aplit granit màu xám, hạt vừa đến lớn.
Các đá trầm tích biến chất trong khu vực bị biến dạng khá mạnh bởi các pha
biến dạng: Pha 1 gồm các nếp uốn và các đới trượt dẻo đi cùng quá trình biến chất
tướng amphibolit, Pha dạng 2 gồm các nếp uốn và các đới trượt dẻo đi cùng quá
trình biến chất tướng amphibolit, Pha 3 gồm các nếp uốn và các đới trượt dẻo đến
dòn – dẻo, đi kèm các đá bị biến chất tướng phiến lục, Pha 4 gồm các nếp uốn mở
có phương đông bắc – tây nam, Pha 5 gồm các đứt gãy dòn có phương đông bắc –
tây nam.
Khoáng sản chính trong diện tích có đồng – niken (điểm quặng Cò Mi),
quặng phân bố ở đáy và vách các khối xâm nhập siêu mafic có nguồn gốc dung ly
và nằm trong các đới trượt Pha biến dạng 2?. Ngoài ra còn một số điểm biểu hiện
vàng gốc. Trong vùng còn có 1 vành phân tán nguyên tố đồng – niken bậc II, 1 vành
phân tán khoáng vật sheelit bậc III.
136
+ Diện tích 2C: Thuộc khu vực Tà Hộc, có diện tích 170 km2.
Trong diện tích phân bố gồm các thành tạo hệ tầng Viên Nam (T1vn) bao
gồm các thành tạo phun trào bazan, bazan hạnh nhân, andesitobazan, tuf bazan màu
xám xanh, trachydacit porphyr, ryodacit và Tập 2 hệ tầng Bản Cải gồm đá vôi, đá
vôi sét phân lớp mỏng đến trung bình xen lớp mỏng đá phiến silic màu xám, xám
đen. Trong vùng còn có các thành tạo magma xâm nhập phức hệ Ba Vì có thành
phần gabro, gabrodiabas, diabas.
Các đá trầm tích biến chất trong khu vực bị biến dạng khá mạnh bởi các pha
biến dạng: Pha 1 tạo các cấu tạo phiến, Pha dạng 2 gồm các phiến đi cùng quá trình
biến chất tướng amphibolit, Pha 3 gồm các đới trượt dẻo đến dòn – dẻo, đi kèm các
đá bị biến chất tướng phiến lục, Pha 4 gồm các nếp uốn mở có phương đông bắc –
tây nam.
Trong diện tích mới ghi nhận được một số biểu hiện vàng gốc phân bố trong
các đới trượt Pha biến dạng 3 có phương phát triển tây bắc – đông nam. + Diện tích 3C: Thuộc khu vực Hồng Ngài, có diện tích 250 km2.
Trong diện tích phân bố gồm các thành tạo hệ tầng Viên Nam (T1vn) bao
gồm các thành tạo phun trào bazan, bazan hạnh nhân, andesitobazan, tuf bazan màu
xám xanh, trachydacit porphyr, ryodacit và Tập 2 hệ tầng Bản Cải gồm đá vôi, đá
vôi sét phân lớp mỏng đến trung bình xen lớp mỏng đá phiến silic màu xám, xám
đen. Trong vùng còn có các thành tạo magma xâm nhập phức hệ Ba Vì có thành
phần gabroperidotit, gabro, gabrodiabas, diabas.
Các đá trầm tích biến chất trong khu vực bị biến dạng khá mạnh bởi các pha biến
dạng: Pha 1 tạo các cấu tạo phiến, Pha dạng 2 gồm các phiến đi cùng quá trình biến chất
tướng amphibolit, Pha 3 gồm các đới trượt dẻo đến dòn – dẻo, đi kèm các đá bị biến chất
tướng phiến lục, Pha 4 gồm các nếp uốn mở có phương đông bắc – tây nam.
Trong diện tích đã ghi nhận được 1 điểm quặng đồng Chim Thượng. Trong
vùng còn có 4 vành phân tán khoáng vật vàng (1 đến 4 hạt), 1 vành phân tán
nguyên tố vàng (5,77ppb), 2 vành phân tán nguyên tố niken, niken-crom (0,01%).
137
5.1.3.4. Diện tích ít và không có triển vọng (D)
Là diện tích có ít hoặc không có tiền đề, dấu hiệu tìm kiếm, chưa phát hiện
được các biểu hiện khoáng sản, trong giai đoạn hiện tại không cần tiến hành điều tra
tiếp theo. Trong khu vực nghiên cứu chúng phân bố chủ yếu ở góc đông nam và tây
bắc và thường trùng với diện phân bố của hệ tầng Đa Niêng, Nậm Thẳm.
5.2. Định hƣớng công tác tìm kiếm và thăm dò quặng đồng – niken và
đồng – vàng khu vực Khối cấu trúc Tạ Khoa
5.2.1. Hiện trạng công tác tìm kiếm, thăm dò quặng đồng - niken và đồng
- vàng khu vực Khối cấu trúc Tạ Khoa.
- Về quặng đồng - niken: Ở khu vực Mỏ Bản Phúc, hiện Xí nghiệp Liên doanh
mỏ Bản Phúc đã hoàn thành công tác thăm dò tại khu vực mỏ chính Bản Phúc và đã đi
vào khai thác. Xí nghiệp hiện đang tìm kiếm đánh giá và thăm dò mở rộng ra các khu
vực xung quanh. Ở các khu vực khác mới chỉ dừng ở mức tìm kiếm đánh giá và thăm dò.
- Về quặng đồng - vàng: hiện mới dừng ở công tác điều tra đánh giá, hiện
nay một số doanh nghiệp tư nhân đã xin giấy phép để thăm dò và khai thác tại khu
vực Suối Trát, Đá Đỏ, Bản Lẹt.
5.2.2. Định hƣớng công tác tìm kiếm, thăm dò quặng đồng - niken và
đồng - vàng khu vực Khối cấu trúc Tạ Khoa.
a. Định hƣớng công tác điều tra, đánh giá tiềm năng
Công tác điều tra đánh giá khoáng sản rắn nói chung và khoáng sản đồng -
niken và đồng - vàng nói riêng được áp dụng các phương pháp kỹ thuật được quy
định tại Quyết định số 35/2001/QĐ-BCN ngày 20 tháng 06 năm 2001 của Bộ Công
Nghiệp ban hành Quy chế “Đánh giá tiềm năng tài nguyên khoáng sản rắn trong điều
tra cơ bản địa chất về tài nguyên khoáng sản”. So với những yêu kỹ thuật theo các
quy định trên, những kết quả thực hiện các đề án điều tra, đánh giá quặng đồng -
niken và đồng - vàng khu vực Khối cấu trúc Tạ Khoa cho thấy: công tác đánh giá
tiềm năng tài nguyên khoáng sản đông - niken và đồng - vàng tuy thu được nhiều
thành quả, nhưng hầu hết các công trình đánh giá khoáng sản trong khu vực đều thực
hiện trước các quyết định và thông tư nêu trên nên có những hạn chế nhất định. Đó là:
138
- Mạng lưới các công trình thi công đều không đạt được theo yêu cấu của các
quy định hiện hành, trừ một số công trình thăm dò của Mỏ Niken Bản Phúc, Bản Khoa.
- Hầu hết các công trình đánh giá chủ yếu ở trên mặt (các công trình dọn
sạch, hào, giếng), các công trình khoan chủ yếu mới thực hiện được ở khu vực Mỏ
Niken Bản Phúc và Bản Khoa. Vì vậy, chưa đánh giá được tài nguyên đối với nhiều
thân quặng đồng - niken và đồng - vàng ẩn sâu.
- Các đề án điều tra đánh giá quặng đồng - niken và đồng - vàng đều áp dụng
với điều kiện mức độ phức tạp chủ yếu thuộc loại 4 do việc phân chia kiểu mỏ chưa
chi tiết, dẫn đến lãng phí và kết quả điều tra đánh giá kém hiệu quả.
- Trong quá trình đánh giá, việc nghiên cứu về mối liên quan giữa quặng hóa
với các cấu trúc địa chất khu vực hầu như chưa có hoặc có nhưng mới ở mức độ hết
sức sơ lược, dẫn tới việc xác định quy luật phân bố của quặng hóa còn hạn chế, nên
việc đánh giá kém hiệu quả.
Để khắc phục những vấn đề trên, để công tác điều tra, đánh giá tiềm năng có
hiệu quả. Nghiên cứu sinh đề xuất định hướng công tác điều tra đánh giá tiềm năng
quặng đồng - niken và đồng - vàng Khối cấu trúc Tạ Khoa như sau:
b. Định hƣớng công tác tìm kiếm quặng đồng - niken và đồng - vàng khu
vực Khối cấu trúc Tạ Khoa.
Trên cơ sở về mức độ triển vọng, cũng như các dạng công tác đã được tiến
hành. Nghiên cứu sinh dự kiến lựa chọn một số diện tích để tiến hành tiềm kiếm
đánh giá một số diện tích như sau:
+ Diện tích 1B: khu vực Bản Vờ thuộc vùng có triển vọng với diện tích khoảng 29km2.
Trong diện tích đã ghi nhận được các khoáng sản gồm đồng – niken. Quặng
nằm trong mạch gabrodiabas tạo thành các ổ và mạch nhỏ có nguồn gốc dung ly
(phần sót của đáy khối xâm nhập siêu mafic). Để công tác tìm kiếm có hiệu quả,
ngoài tuân thủ các quyết định và thông tư đã được ban hành cần tập trung vào các
cấu trúc thuận lợi chứa quặng sau:
- Trong vùng ngoài thể xâm nhập mafic có chứa quặng đã được nghiên cứu,
còn ghi nhận được khá nhiều các thể khác phân bố rải rác bên trong khu vực, nhiều
139
thể có quy mô khá. Đây là các đối tượng để tìm kiếm quặng đồng - niken xâm tán
có nguốn gốc dung ly.
- Trong vùng đã ghi nhận được nhiều đới trượt pha biến dạng thứ 2 với nhiều
quy mô khác nhau. Đây là đối tượng có chứa quặng đồng - niken đặc sít. Bởi vậy,
khi tiến hành tìm kiếm cần khảo sát chi tiết để để ghi nhận các đới trượt này, đặc
biệt lưu ý các đới trượt ở phía đông nam, có thể có chứa các thân quặng đặc sít nằm
xa các khối xâm nhập giống như khu vực Bản Phúc, Bản Khoa (đứt gãy chứa quặng
thuộc loại nghịch bằng trái).
- Các thành tạo địa chất trong khu vực cũng bị uốn nếp mạnh bới các nếp
uốn đi cùng các đới trượt Pha 3, nên vị trí và thân quặng sẽ luôn không ổn định và
sẽ thay đổi mạnh. Các thân quặng có thể bị tái uốn nếp với các nếp uốn M, W (vị trí
phần vòm của một nếp lồi lớn) có mặt trục ngần thẳng đứng với 2 cánh cắm về
đông bắc và tây nam và bị cắt bởi các đới trượt nghịch bằng trái có phương đông
bắc – tây nam và có hướng cắm thay đổi đông bắc, tây nam. Ngoài ra trong vùng
cũng ghi nhận có một số đới trượt Pha 5, đây là các đứt gãy trượt bằng trái, nên quá
trình tìm kiếm cần xác định tác động của đứt gãy này có thể thân quặng cũng bị cắt
và dịch chuyển theo chúng.
+ Diện tích 2B: Thuộc khu vực Đèo Chẹn – Pa Pó có diện tích 31km2.
Trong diện tích đã ghi nhận được các khoáng sản gồm đồng – niken và đồng.
Quặng đồng - niken ở đây phân bố trong các thể dunit dạng xâm tán có nguồn gốc
dung ly (phần sót của đáy khối xâm nhập siêu mafic). Quặng đồng dạng màng bám
theo mặt khe nứt và mặt lớp của các đá phun trào bazan
Ngoài ra còn ghi nhận được một số điểm rời rạc liên quan tới các đới trượt
nhỏ có chứa vàng với hàm lượng thấp và 1 vành phân tán vàng Bậc I phân bố trong
các đá phun trào hệ tầng Viên Nam. Để công tác tìm kiếm có hiệu quả, ngoài tuân
thủ các quyết định và thông tư đã được ban hành cần tập trung vào các cấu trúc
thuận lợi chứa quặng sau:
- Trong vùng ngoài thể siêu mafic có chứa quặng, còn ghi nhận được một số thể
xâm nhập mafic. Có thể, các thể xâm nhập này là các bao thể kiến tạo nằm trong các
140
đới trượt Pha 3 có phương tây bắc đông nan liền kề. Bởi vậy trong quá trình tìm kiếm
cần lưu ý xác định quy mô và hướng phát triển của các đới trượt này để tìm kiếm rộng
và kéo dài nhằm phát hiện các thân siêu mafic, mafic có thể có chứa quặng.
- Trong vùng cũng đã ghi nhận được nhiều đới trượt pha biến dạng thứ 3.
Đây là đối tượng có chứa quặng đồng vàng. Bởi vậy, khi tiến hành tìm kiếm cần
khảo sát chi tiết để để ghi nhận các đới trượt này, đặc biệt khu vực phía tây nam và
tây bắc, nơi đã ghi nhận được các biểu hiện vàng gốc và vành phân tán vàng Bậc I
có thể liên quan tới các đới trượt pha này.
+ Diện tích 3B: khu vực Bản Nguồn – Nói Hom thuộc vùng có triển vọng
với diện tích khoảng 51km2.
Trong diện tích đã ghi nhận được các khoáng sản gồm đồng – niken. Quặng
ở đây phân bố trong các thể peridotit dạng xâm tán có nguồn gốc dung ly (phần sót
của đáy khối xâm nhập siêu mafic). Để công tác tìm kiếm có hiệu quả, ngoài tuân
thủ các quyết định và thông tư đã được ban hành cần tập trung vào các cấu trúc
thuận lợi chứa quặng sau:
- Trong vùng ngoài các thể siêu mafic có chứa quặng đã được nghiên cứu, còn
ghi nhận được khá nhiều các thể khác phân bố rải rác bên trong khu vực. Đây là các
đối tượng để tìm kiếm quặng đồn ni-ken xâm tán có nguốn gốc dung lý. Trong quá
trình tìm kiếm nếu phát hiện các thể siêu mafic mới chứa quặng cần tiến hành mở
rộng tìm kiếm ra bên ngoài theo hương đó (lưu ý hướng tây bắc nơi đã ghi nhận được
nhiều các thể mafic, siêu mafic và gần với khu vực phân bố với các khối Bản Phúc,
Bản Khoa.
- Trong vùng cũng đã ghi nhận được nhiều đới trượt pha biến dạng thứ 2.
Đây là đối tượng có chứa quặng đồng niken đặc sit. Bởi vậy, khi tiến hành tìm kiếm
cần khảo sát chi tiết để để ghi nhận các đới trượt này, đặc biệt lưu ý các đới trượt ở
phía nam và đông nam gần các khối xâm nhập vì có thể chúng có đặc điểm phân bố
và chứa quặng tương đồng với khu vực Bản Phúc, Bản Khoa. Ở đây cũng lưu ý tới
các đới trượt Pha 3, có thể cũng có chứa quặng đồng-niken.
141
- Các thành tạo địa chất trong khu vực cũng bị uốn nếp mạnh bới các nếp
uốn Pha 3 và 4, nên vị trí và thân quặng sẽ luôn không ổn định và sẽ thay đổi mạnh
đặc biệt là do tác động của Pha 3, các thân quặng có thể bị tái uốn nếp với các nếp
uốn có mặt trục ngần thẳng đứng với 2 cánh cắm về đông bắc và tây nam. Về phía
nam của diện tích gần phần vòm của nếp uốn lớn nên nếu có quặng có thể các thân
quặng này sẽ thay đổi hướng cắm, cắm về đông nam hoặc tây bắc. Ngoài ra trong
vùng cũng ghi nhận có một số đới trượt Pha 5, đây là các đứt gãy trượt bằng trái,
nên quá trình tìm kiếm cần xác định tác động của đứt gãy này có thể thân quặng
cũng bị cắt và dịch chuyển trái theo chúng.
+ Diện tích 4B: Khu vực Cầu Suối Sập, thuộc vùng có triển vọng, có diện tích 62km2.
Trong diện tích đã ghi nhận được các khoáng sản đồng – vàng và đồng -
niken. Quặng đồng - vàng nằm trong các đới trượt pha biến dạng 3 phân bố trong các
thành tạo phun trào hệ tầng Viên Nam, có phương phát triển tây bắc - đông nam, đi
cùng các đới biến dạng chứa quặng này đá bị biến đổi khá mạnh, điển hình là các quá
trình propilit hoá, chlorit hóa, artinolit hóa. Quặng đồng – niken xâm tán trong thân
gabroperidotit phức hệ Ba Vì (dạng dung ly) phân bố trong đới trượt Pha 3. Để công
tác tìm kiếm có hiệu quả, ngoài tuân thủ các quyết định và thông tư đã được ban hành
và các tiền đề, dấu hiệu đã rõ rang, cần tập trung vào các cấu trúc thuận lợi chứa
quặng sau:
- Trong vùng ngoài thể siêu mafic có chứa quặng, còn ghi nhận được một số
thể xâm nhập mafic. Có thể, các thể xâm nhập này là các bao thể kiến tạo nằm trong
các đới trượt Pha 3 có phương tây bắc đông nam liền kề. Bởi vậy trong quá trình tìm
kiếm cần lưu ý xác định quy mô và hướng phát triển của các đới trượt này để tìm
kiếm rộng và kéo dài nhằm phát hiện các thân siêu mafic, mafic có thể có chứa quặng
đồng - niken.
- Các đới trượt pha biến dạng thứ 3 là đối tượng có chứa quặng đồng vàng
trong khu vực. Bởi vậy, khi tiến hành tìm kiếm cần khảo sát chi tiết để để ghi nhận
các đới trượt này, đặc biệt khu vực phía tây nam và tây bắc, nơi đã ghi nhận được
142
các biểu hiện vàng gốc và vành phân tán vàng Bậc I có thể liên quan tới các đới
trượt pha này.
- Các đứt gãy thuộc pha biến dạng 5 trong khu vực cũng phát triển khá mạnh.
Chúng là các đứt gãy trượt bằng trái, trượt bằng phải có thể có yếu tố thuận hoặc
nghịch, nên quá trình tìm kiếm cần xác định tác động của đứt gãy này có thể thân
quặng cũng bị cắt và dịch chuyển trái theo chúng. Ngoài ra có thể trong các đới
trượt Pha 5 có thể có quặng đa kim đi cùng.
+ Diện tích 5B: Thuộc khu vực Suối Páy có diện tích 40km2.
Trong diện tích đã ghi nhận được các khoáng sản gồm đồng – niken và đồng.
Quặng đồng - niken ở đây phân bố trong các thể gabrodiabas dạng xâm tán có
nguồn gốc dung ly (phần sót của đáy khối xâm nhập mafic). Quặng đồng dạng vết
bám theo mặt khe nứt của các đá phun trào bazan
Ngoài ra còn ghi nhận được một điểm rời rạc liên quan tới các đới trượt nhỏ
có chứa vàng với hàm lượng thấp và 2 vành phân tán vàng Bậc I phân bố trong các
đá phun trào hệ tầng Viên Nam. Ngoài ra trong diện tích còn ghi nhận được một số
dị thường nguyên tố đột biến của Ni dọc theo đứt gãy Pha 3 khu vực phía nam của
diện tích. Để công tác tìm kiếm có hiệu quả, ngoài tuân thủ các quyết định và thông
tư đã được ban hành cần tập trung vào các cấu trúc thuận lợi chứa quặng sau:
- Có thể, các thể xâm nhập này là các bao thể kiến tạo nằm trong các đới trượt
Pha 3 có phương tây bắc đông nan liền kề. Bởi vậy trong quá trình tìm kiếm cần lưu ý
xác định quy mô và hướng phát triển của các đới trượt này để tìm kiếm rộng và kéo dài
nhằm phát hiện các thân siêu mafic, mafic có thể có chứa quặng đồng niken và vàng.
- Ngoài ra trong vùng cũng ghi nhận có một số đới trượt Pha 5, đây là các
đứt gãy trượt bằng trái, nên quá trình tìm kiếm cần xác định tác động của đứt gãy
này có thể thân quặng cũng bị cắt và dịch chuyển trái theo chúng.
+ Diện tích 6B: Khu vực Vạn Sài, thuộc vùng có triển vọng, có diện tích 10km2.
Trong diện tíchđã ghi nhận được các khoáng sản đồng – vàng gốc. Quặng
nằm trong các đới trượt pha biến dạng 3 phân bố trong các thành tạo phun trào hệ
tầng Viên Nam, có phương phát triển tây bắc - đông nam, đi cùng các đới biến dạng
143
chứa quặng này đá bị biến đổi khá mạnh, điển hình là các quá trình propilit hoá,
chlorit hóa, artinolit hóa. Để công tác tìm kiếm có hiệu quả, ngoài tuân thủ các
quyết định và thông tư đã được ban hành và các tiền đề, dấu hiệu đã rõ rang, cần tập
trung vào các cấu trúc thuận lợi chứa quặng sau:
- Trong quá trình điều tra cần phải nhận biết và khoanh định được các đới
trượt Pha 3 và khu vực tập trung chính của các đới trượt này vì đây là các yếu tố cấu
trúc chính chứa quặng đồng vàng trong khu vực. Cần lưu ý, trong các khu vực này
thường còn tồn tại các đới trượt Pha 2, có đặc điểm biến dạng dẻo hơn và thường bị
uốn nếp khá mạnh. Hiện trong các đới trượt Pha 2 tại đây chưa phát được quặng hóa
liên quan.
- Trong khu vực cũng đã ghi nhận được các nếp uốn Pha 4 có phương đông
bắc -tây nam. Các nếp uốn này có đặc trưng vòm rất mở, có tác động tới các đới
trượt chứa quặng Pha 3 nhưng sự tác động là không nhiều, xong đôi khi cũng làm
cho các thân quặng có thể thay đổi phương và góc cắm.
- Các đứt gãy thuộc pha biến dạng 5 trong khu vực cũng phát triển khá mạnh.
Chúng là các đứt gãy trượt bằng trái có thể có yếu tố thuận hoặc nghịch, nên quá
trình tìm kiếm cần xác định tác động của đứt gãy này có thể thân quặng cũng bị cắt
và dịch chuyển trái theo chúng.
c. Định hƣớng công tác thăm dò quặng đồng - niken và đồng - vàng khu
vực Khối cấu trúc Tạ Khoa.
Trên cơ sở về mức độ triển vọng, cũng như các dạng công tác đã được tiến
hành. Nghiên cứu sinh dự kiến lựa chọn một số diện tích để tiến hành thăm dò một
số diện tích như sau:
+ Diện tích 1A: Khu vực Bản Phúc, Bản Khoa, Bản Xang, Bản Mông, thuộc
vùng rất triển vọng. Đây là diện tích đã được thăm dò và đánh giá trước đây và mới
nhất là Công ty Nikel Bản Phúc đã thăm dò lại khu vực Bản Phúc và thăm dò mở
rộng một phần về phía đông nam. Quặng phân bố ở 2 dạng: xâm tấn trong các thể
siêu mafic có nguồn gốc dung ly (phần sót của đáy khối xâm nhập siêu mafic) và
quặng đặc sít phân bố trong đới trượt liền kề. Tuy nhiên qua kết quả nghiên cứu cho
144
thấy, khu vực này bị biến dạng hết sức mạnh mẽ. Để công tác thăm dò có hiệu quả,
ngoài tuân thủ các quyết định và thông tư đã được ban hành cần tập trung vào các
cấu trúc thuận lợi chứa quặng sau:
- Trong vùng ngoài thể siêu mafic có chứa quặng đã được nghiên cứu, còn
ghi nhận được khá nhiều các thể khác phân bố rải rác bên trong khu vực. Đây là các
đối tượng để tìm kiếm quặng đồng niken xâm tán có nguốn gốc dung ly. Trong quá
trình thăm dò nếu phát hiện các thể siêu mafic mới chứa quặng cần tiến hành mở
rộng tìm kiếm ra bên ngoài theo hướng đó.
- Trong vùng cũng đã ghi nhận được nhiều đới trượt pha biến dạng thứ 2.
Quặng đặc sít trong khu vực nằm trong các đới trượt Pha 2, phân bố ở phía nam và
đông nam các khối xâm nhập liền kề. Đặc điểm phân bố này cho thấy, các đới trượt
này có lẽ là nghịch bằng trái. Các biến dạng về sau đã tác động mạnh mẽ lên các đới
trượt chứa quặng này, sớm nhất là các nếp uốn nằm có quy mô khá lớn (được hình
thành vào cuối pha biến dạng 2?) với đỉnh hướng về tây nam đã uốn nếp các thân
quặng này đi. Các kết quả khảo sát thực tế của nghiên sinh và công tác thăm dò của
Công ty Niken Bản Phúc cho thấy, phần tây bắc các thân quặng khu vực Bản Phúc,
Bản Khoa có lẽ đã bị bào mòn mạnh, nên chỉ còn quan sát được phần cánh nằm
dưới (cắm về đông bắc), còn ở phía đông nam, có thể vẫn còn tồn tại phần vòm và
cánh phía trên của nếp uốn lớn này. Hiện các kết quả khoan sâu cho thấy, công tác
thăm dò mới chỉ khống chế được phần cánh trên (cắm về tây nam) và phần vòm
(cắm dốc đứng) mà phần cánh dưới (cắm về đông bắc) tương đồng với phần thấp
chưa khống chế hết quặng hóa. Bởi vậy, trong quá trình thăm dò bổ sung về phía
đông nam cần lưu ý và kiểm tra bằng các công trình khoan sâu hơn để phát hiện và
khống chế các thân quặng thuộc cánh dưới này.
- Các thành tạo địa chất trong khu vực cũng bị uốn nếp mạnh bới các nếp
uốn Pha 3, nên vị trí và thân quặng sẽ luôn không ổn định và sẽ thay đổi mạnh. Các
thân quặng có thể bị tái uốn nếp với các nếp uốn có mặt trục ngần thẳng đứng với 2
cánh cắm về đông bắc, tây nam và đường trục cắm về tây bắc. Trên bình đồ hiện tại,
vị trí của một số thân quặng nằm tại gần phần vòm của các nếp uốn lớn. Nên quá
145
trình thăm dò cần khảo sát kỹ để xác định các cánh của nếp uốn mà đới trượt chứa
quặng có thể nằm trùng với các cánh này. Trong đó lưu ý ở khu vực Bản Mông,
Bản Xang cánh cắm về đông bắc có thể là phần kéo dài của thân quặng đặc sít
tương đồng với các điểm quặng Bản Phúc, Bản Khoa.
+ Các diện tích 2A (khu vực Đá Đỏ, Bản Lẹt, Bản Sa, Xuân Giàng), 3A
(khu vực Suối Bâu, Bản Pưn, Bản Ban) và 4A (khu vực Suối Chát) thuộc vùng rất triển vọng, có tổng diện tích 58km2.
Trong các diện tích trên đã ghi nhận được các khoáng sản đồng – vàng gốc.
Quặng hóa ở các khu vực này có đặc điểm phân bố và đặc điểm quặng hóa khá
tương đồng nhau. Quặng đều nằm trong các đới trượt pha biến dạng 3 phân bố trong
các thành tạo phun trào hệ tầng Viên Nam, có phương phát triển tây bắc - đông
nam, đi cùng các đới biến dạng chứa quặng này đá bị biến đổi khá mạnh, điển hình
là các quá trình propilit hoá, berezit hóa, lisvenit hóa, chlorit hóa, artinolit hóa. Để
công tác thăm dò có hiệu quả, ngoài tuân thủ các quyết định và thông tư đã được
ban hành và các tiền đề, dấu hiệu đã rõ rang, cần tập trung vào các cấu trúc thuận
lợi chứa quặng sau:
- Trong quá trình điều tra cần phải nhận biết và khoanh định được các đới
trượt Pha 3 và khu vực tập trung chính của các đới trượt này vì đây là các yếu tố cấu
trúc chính chứa quặng đồng vàng trong khu vực. Các đới trượt chứa quặng pha biến
dạng này thường có góc cắm khá dốc chủ yếu cắm về đông bắc, đôi khi là tây nam.
Cần lưu ý, trong các khu vực này thường còn tồn tại các đới trượt Pha 2, có đặc
điểm biến dạng dẻo hơn và thường bị uốn nếp khá mạnh. Hiện trong các đới trượt
Pha 2 tại đây chưa phát được quặng hóa liên quan.
- Trong khu vực cũng đã ghi nhận được các nếp uốn Pha 4 có phương đông
bắc -tây nam. Các nếp uốn này có đặc trưng vòm rất mở, có tác động tới các đới
trượt chứa quặng Pha 3 nhưng sự tác động là không nhiều, xong đôi khi cũng làm
cho các thân quặng có thể thay đổi phương và góc cắm nhất là ở Diện tích 4, 5 nên
cũng cần lưu ý.
146
- Các đứt gãy thuộc pha biến dạng 5 trong khu vực cũng phát triển khá mạnh.
Chúng là các đứt gãy trượt bằng trái, trượt bằng phải có thể có yếu tố thuận hoặc
nghịch, nên quá trình tìm kiếm cần xác định tác động của đứt gãy này có thể thân
quặng cũng bị cắt và dịch chuyển trái theo chúng. Ngoài ra có thể trong các đới
trượt Pha 5 có thể có quặng đồng - vàng.
147
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Khu vực Khối cấu trúc Tạ Khoa được cấu tạo bởi các thành tạo địa chất có
thành phần đa dạng gồm các trầm tích lục nguyên, lục nguyên carbonat, carbonat, lục
nguyên silic và silic bị biến chất có tuổi trước Carbon và đôi nơi bị phủ trên bởi các
thành tạo phun trào và trầm tích lục nguyên tuổi từ Permi đến Creta. Các thành tạo
trên bị bị xuyên cắt mạnh mẽ bởi các thể xâm nhập có thành phần từ siêu mafic tới
axit. Các đá trên bị biến dạng mạnh mẽ bởi nhiều pha biến dạng khác nhau và đi cùng
sự biến dạng là sự tạo thành đới khoáng hóa đồng-niken và đồng-vàng khá phổ biến
trong khu vực nghiên cứu. Từ những kết quả nghiên cứu của đề tài đặc điểm biến
dạng và mối quan hệ của nó với một số loại hình khoáng hóa đã được xác định một
cách có hệ thống và cơ sở khoa học. Các kết quả mới có thể được tóm lược như sau.
1. Các đá trong khối cấu trúc Tạ Khoa chịu tác động của 5 pha biến dạng kiến
tạo, trong đó Pha 1 là biến dạng dẻo hoàn toàn diễn ra từ giữa Carbon (khoảng 300 tr.
năm) và kéo dài tới đầu Triat (khoảng 250 tr. năm). Pha 2 diễn ra trong môi trường
dẻo, diễn ra sau 250 tr. năm (từ 230-240 Tr.năm). Đi cùng hai pha biến dạng này là
chế độ biến chất tới tướng amphibolit. Các pha biến dạng 3 và 4 diễn ra trong môi
trường từ dẻo tới dòn-dẻo, từ sau 230 tr. năm đến đầu Kainozoi đi cùng là chế độ biến
chất ở tướng phiến lục. Pha 5 là pha biến dạng dòn diễn ra trong Kanozoi. Các cấu
tạo của các pha muộn hơn làm biến dạng các cấu tạo sớm hơn và tạo nên sự giao thoa
cấu trúc khu vực phức tạp.
2. Quặng hóa đồng - niken, đồng - vàng trong khu vực nghiên cứu liên quan mật
thiết với các cấu tạo do biến dạng, trong đó, các đới trượt thuộc các pha biến dạng 2,
3 và 4 có vai trò khống chế sự di chuyển dung dịch quặng, làm giầu hoặc tích tụ
quặng hóa tạo nên một số kiểu khoáng hóa đặc trưng. Ngoài kiểu quặng đồng - niken
dạng xâm tán phân bố trong cấu tạo đáy và vách của các khối xâm nhập siêu mafic,
kiểu quặng sulfur đặc sít được hình thành ngoài các thể siêu mafic và bị khống chế
chặt chẽ bởi các đới trượt thuộc các pha biến dạng 2 và 3; kiểu quặng hóa đồng -
vàng được khống chế chặt chẽ bởi các đới trượt thuộc pha biến dạng 3 và 4. Dưới tác
động của các biến dạng sau tạo quặng của các pha biến dạng muộn hơn, hình thái
148
nguyên thuyển của một số thân quặng hình thành trong các pha biến dạng sớm bị thay
đổi mạnh mẽ hoặc phức tạp hóa.
3. Trên cơ sở nhận dạng quy luật phân bố khoáng hóa, các yếu tố cấu trúc chứa
quặng và quan hệ của chúng với đặc điểm biến dạng khu vực cũng như phân tích các
tiền đề địa chất-cấu trúc có thể khoanh định được 4 diện tích rất triển vọng, 6 diện
tích triển vọng đối với quặng đồng, niken và vàng. Kết quả nghiên cứu mói này góp
phần định hướng cho công tác tìm kiếm, thăm dò quặng hóa trong khu vực một cách
có hiệu quả hơn.
4. Một số kiến nghị
a. Những kết quả nghiên cứu của đề tài này cho thấy chế độ biến dạng trong
khu vực nghiên cứu và vùng lân cận là hết sức phức tạp. Để có thể luận giải một cách
chính xác chế độ biến dạng khu vực, cần có các nghiên cứu và luận giải cấu trúc một
cách định lượng, chi tiết và có hệ thống. Đặc biệt, một số nghiên cứu định lượng về
chế độ biến chất và tuổi của các sự kiện địa chất trong khu vực cần được tiến hành có
hệ thống hơn. Những kết quả này sẽ góp phần luận giải và khôi phục lịch sử địa chất
khu vực một cách định lượng và có cơ sở khoa học vững chắc hơn.
b. Trong khu vực nghiên cứu đã ghi nhận được mối quan hệ khăng khít giữu các
cấu trúc biến dạng với một số loại khoáng hóa sunphua đặc xít và đồng-vàng. Do vậy,
nghiên cứu đặc điểm động học, bản chất và quy luật phân bố của các cấu trúc tương
tự là tiền đề và dấu hiệu quan trọng trong việc định hướng tìm kiếm, thăm dò khoáng
sản trong khu vực và vùng lân cận.
149
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO, CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
Tiếng Việt
1. Lê Thanh Hựu, Vũ Xuân Lực, Nguyễn Anh Tuấn (2004). "Một số kết quả
bước đầu về công tác đo vẽ địa chất ở dải Tây Nam nhóm tờ Yên Châu",
Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Công trình kỷ niệm 45 năm thành lập
liên đoàn Bản đồ Địa chất miền Bắc.
2. Lê Thanh Hựu, Vũ Xuân Lực, Nguyễn Anh Tuấn (2004). "Một số đặc điểm
trầm tích lục địa màu đỏ chứa thạch cao hệ tầng Yên Châu", Địa chất và
Khoáng ản Việt Nam, Công trình kỷ niệm 45 năm thành lập liên đoàn Bản
đồ Địa chất miền Bắc.
3. Vũ Xuân Lực, Trần Thanh Hải, Lê Thanh Hựu (2009). "Đặc điểm cấu trúc
biến dạng kiến tạo vùng Yên Châu - Bắc Yên, Sơn La", Công trình kỷ niệm
50 năm thành lập liên đoàn Bản đồ Địa chất miền Bắc.
4. Vũ Xuân Lực, Trần Thanh Hải, Đinh Hữu Minh, Trần Quang Phương.,
2010. "Đặc điểm biến dạng kiến tạo vùng Tạ Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh
Sơn La", Tạp chí Địa chất loạt A số 320, 9-10/2010, Tr. 96-110. Số đặc biệt
kỷ niệm 65 năm Ngày truyền thống Ngành địa chất Việt Nam.
5. Vũ Xuân Lực, Trần Thanh Hải, Lương Quang Khang, Yoonsup Kim., 2012.
"Tiến hóa kiến tạo của các thành tạo trầm tích biến chất vùng trung tâm nếp
lồi Tạ Khoa và ý nghĩa của nó trong lịch sử địa chất Tây Bắc Bộ". Tuyển tập
tóm tắt các báo cáo Hội nghị khoa học lần thứ 20, tr. 45-47. Trường Đại học
Mỏ - Địa chất.
6. Vũ Xuân Lực., 2014. "Đặc điểm biến dạng kiến tạo khu vực Nhóm tờ Bắc
Giang và mối liên quan của chúng với quặng hóa nội sinh qua kết quả đo vẽ
bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản tỷ lệ 1: 50 000", Tạp chí Địa chất
loạt A số 346-348, 9-11/2014, tr. 136-148.
150
7. Vũ Xuân Lực, Trần Thanh Hải, Lương Quang Khang, Yoonsup Kim., 2014.
"Lịch sử nhiệt động của các thành tạo trầm tích biến chất vùng trung tâm
nếp lồi Tạ Khoa và ý nghĩa của chúng trong tiến hóa Tây Bắc Bộ". Tạp chí
Địa chất loạt A số 346-348, 9-11/2014, tr. 146-159
8. Vũ Xuân Lực, Trần Thanh Hải, Lương Quang Khang., 2015. "Mối quan hệ
giữa các cấu tạo địa chất với quặng hóa Cu – Ni – Au trong Khối cấu trúc
Tạ Khoa. Địa chất và tài nguyên Việt Nam", Tuyển tập báo cáo khoa học
Hội nghị khoa học toàn quốc kỷ niệm 70 năm phát triển, tr.194-207.
Tiếng Anh
9. Tran Thanh Hai, Vu Xuan Luc, Yoonsup Kim., 2013. "New evidence for
the generation of in-situ mentings-type granite in Ta Khoa core complex
and its implication to the tectonic evolution of the central northwest
VietNam tectonic zone", International Symposium, Large igneous provinces
of Asia: Mantle plumes and Metallogeny; 7-11, November 2013, Hanoi,
Vietnam.
151
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Xuân Bao (1969), Địa chất và khoáng sản tờ Vạn Yên tỷ lệ
1:200.000, Lưu trữ Trung tâm Thông tin-Lưu trữ Địa chất, Hà Nội.
2. Trịnh Xuân Cam (1994), Tìm kiếm đồng – vàng vùng Vạn Sài – Suối Chát,
Sơn La, Lưu trữ Trung tâm Thông tin-Lưu trữ Địa chất, Hà Nội.
3. Dovjikov A.E. (1965), Địa chất Miền Bắc Việt Nam, NXb Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội, 1971.
4. Nguyễn Ngọc Hải (2013), Đặc điểm địa chất và các yếu tố khống chế quặng
hóa niken khu vực Đông bắc Mỏ Bản Phúc, Luận văn thạc sĩ địa chất. Thư
viện trường Địa học Mỏ-Địa chất, Hà Nội.
5. Trần Thanh Hải, Hoàng Quang Chỉ, Nguyễn Quang Luật, Nguyễn Văn
Nguyên (2002), Phát hiện mới về sự tồn tại một pha biến dạng sớm liên quan
tới đứt gãy chờm nghịch ở vùng Lai Châu và tác động của nó lên bình đồ cấu
trúc Tây Bắc Việt Nam, Báo cáo Hội nghị khoa học lần thứ 15, trường Đại học
Mỏ-Địa chất, tập 2, trang 54-62.
6. Trần Thanh Hải và nnk (2005), Biến dạng uốn nếp - chờm nghịch và kiến
tạo phủ chờm trong quá trình tạo núi ở tây bắc bộ, sự hiện diện và tác động
của chúng lên bình đồ cấu trúc khu vực, Tuyển tập báo cáo“ Hội nghị khoa
học 60 năm địa chất Việt Nam”, Cục Địa chất và khoáng sản Việt Nam.
7. Trần Thanh Hải, Nguyễn Văn Nguyên (2006), Vị trí kiến tạo của một số
thành tạo magma xâm nhập khu vực lân cận thị xã Mường Lay, tỉnh Điện
Biên, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ-Địa chất. Số 14 : 4-2006. Trường Đại
học Mỏ-Địa chất Hà Nội.
8. Nguyễn Văn Hoành (2005), Kết quả hiệu đính loạt Bản đồ địa chất và khoáng
sản Tây Bắc, tỷ lệ 1:200.000, Lưu trữ Trung tâm thông tin -lưu trữ địa chất Hà
Nội.
152
9. Trần Trọng Hòa (1998), Các tổ hợp bazantoit cao titan Permi-Trias rift
Sông Đà, thành phần vật chất và điều kiện địa động lực hình thành, Tạp chí
Địa chất loạt A số 244 ; 1-2 : 1998. Tr.7-14.
10. Lê Thanh Hựu (2008), Địa chất và khoáng sản nhóm tờ Yên Châu tỷ lệ
1:50.000, Lưu trữ Trung tâm Thông tin Địa chất, Hà Nội.
11. Nguyễn Thanh Liêm (2007), Dự án đầu tư mỏ Niken Bản Phúc, Xí nghiệp
Liên doanh mỏ Niken Bản Phúc.
12. Nguyễn Ngọc Liên (1995), Nghiên cứu quy luật phân bố và dự báo triển
vọng đồng-niken và khoáng sản quý hiếm đi kèm Tây Bắc Việt Nam, chi tiết
hoá một số vùng có triển vọng, Lưu trữ Trung tâm Thông tin-Lưu trữ Địa
chất, Hà Nội.
13. Dương Hữu Luật (2001). Đánh giá đồng – vàng Suối On – Đá Đỏ, Phù Yên
– Sơn La. Lưu trữ Trung tâm Thông tin-Lưu trữ Địa chất, Hà Nội.
14. Nguyễn Đắc Lư và nnk (2003), Nghiên cứu mối liên quan giữa đá núi lửa
vùng Sông Đà, Viên Nam và khoáng hoá đồng, vàng, Lưu trữ Trung tâm
Thông tin-Lưu trữ Địa chất, Hà Nội.
15. Vũ Xuân Lực (2010), Đặc điểm biến dạng kiến tạo khu vực Tạ Khoa và mối
liên quan giữa chúng với các khoáng hóa đồng-niken, Luận văn thạc sĩ địa
chất. Thư viện trường Địa học Mỏ-Địa chất, Hà Nội.
16. Vũ Xuân Lực và nnk (2009), Đặc điểm cấu trúc biến dạng kiến tạo vùng
Yên Châu - Bắc Yên, Sơn La, Công trình kỷ niệm 50 năm thành lập liên
đoàn Bản đồ Địa chất miền Bắc.
17. Vũ Xuân Lực, Trần Thanh Hải, Đinh Hữu Minh, Trần Quang Phương
(2010), Đặc điểm biến dạng kiến tạo vùng Tạ Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh
Sơn La. Công trình kỷ niệm 65 năm Ngành Địa chất.
18. Vũ Xuân Lực, Trần Thanh Hải, Lương Quang Khang, Yoonsup Kim
(2014), Lịch sử nhiệt động của các thành tạo trầm tích biến chất vùng trung
153
tâm nếp lồi Tạ Khoa và ý nghĩa của chúng trong tiến hóa Tây Bắc Bộ, Tạp
chí Địa chất loạt A số 346-348, 9-11/2014, Tr. 146-159.
19. Nguyễn Công Lượng và nnk (1995), Địa chất và khoáng sản tỷ lệ 1:50.000
nhóm tờ Vạn Yên, Lưu trữ Trung tâm Thông tin-Lưu trữ Địa chất, Hà Nội.
20. Đinh Hữu Minh, 2003. Cấu trúc địa chất địa chất và đặc điểm quặng hóa
sulfur đồng-niken mỏ Bản Phúc, Sơn La. Luận án tiến sĩ địa chất. Thư viện
trường Địa học Mỏ-Địa chất, Hà Nội.
21. Đinh Hữu Minh, 2006. Báo cáo thăm dò mỏ niken Bản Phúc, xã Mường Khoa,
huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La. Lưu trữ Trung tâm Thông tin-Lưu trữ Địa chất, Hà
Nội.
22. Đặng Công Thành (1988), Báo cáo địa chất kết quả tìm kiếm sơ bộ đồng- niken khu
Mường Khoa, Tạ Khoa, Sơn La, Lưu trữ Trung tâm Thông tin-Lưu trữ Địa chất, Hà
Nội.
23. Đoàm Nhật Tộng, Lưu Chính Công (1965), Báo cáo tổng kết tìm kiếm thăm dò
khoáng sàng niken Bản Khoa, Sơn La, Lưu trữ Trung tâm Thông tin-Lưu trữ Địa chất,
Hà Nội.
24. Poliakov G.V. và nnk (1996), Các thành tạo mafic-siêu mafic Permi-Trias
miền Bắc Việt Nam, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
25. Trần Văn Trị và nnk (1977), Địa chất Việt Nam - Phần Miền Bắc tỷ lệ
1:1.000.000, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
26. Trần Văn Trị, Vũ Khúc (2008), Địa chất và tài nguyên Việt Nam, Nxb Khoa
học tự nhiên và Công nghệ.
Tiếng Anh
27. Fromaget, J. (1941), L’Indochine Francaise sa structure geologiques ses
mines et leurs relation possibles avec tectonique, Bull. Geol. De I’Ind., vol.
26, Hanoi.
154
28. Glotov A.I et al. (2001), The Ban Phuc Ni – Cu – PGE deposit related to the
phanerozoic komatiite – basalt association in the Song Da rift, Nortwestern
VietNam, The Canadian Minralogist, Vol.39pp.573-589.
29. Hellman, P. L. (2005), Mileral resources update, Bản Phúc Niken-Copper prospect, a
report prepared for Asian Mineral Resources Ltd, Ban Phuc Niken Mines, Ha Noi.
Hutchison C. (1989), Geological Evolution of South-East Asia, Clarendon Press. 30.
Lightfoot, P.C. (2007), Advences in Ni-Cu-PGE sulphide deposit models and 31.
implications for exploration technologies.
32. Metcalfe I. (2005), Southeast. In Elsevier Encyclopedia of Geology, Elsevier Ltd.
33. Ramsay, J. (1967), Folding and Fracturing of Rocks, McGraw-Hill Book
Company, New York.
34. Tran Thanh Hai et al. (2013), New evidence for the generation of in-situ
mentings-type granite in Ta Khoa core complex and its implication to the
tectonic evolution of the central northwest VietNam tectonic zone.
International Symposium, Large igneous provinces of Asia: Mantle plumes
and Metallogeny; 7-11, November 2013, Hanoi, Vietnam.
Các trang web:
35. http://www.idm.go6.vn/nguon_luc/Xuat_ban/2004/B23/b52.htm