
vietnam medical journal n02 - MARCH - 2020
152
trong 4 ca tử vong có 3 ca tử vong trong vòng
24h sau phẫu thuật bởi vì tổn thương gan diện
rộng, tổn thương tĩnh mạch gan, tĩnh mạch chủ
dưới không thể khắc phục. 1 ca tử vong sau 24h
nguyên nhân do đa chấn thương phối hợp chấn
thương sọ não, chấn thương ngực. Viêm phổi có
4 trường hợp, tất cả trường hợp này đều chấn
thương ngực tràn máu màng phổi dập phổi,
trong quá trình hậu phẫu xuất hiện viêm phổi
nặng. Bệnh nhân đã được điều trị tích cực, có 2
trường hợp phải mở khí quản. Có 1 ca suy gan
sau mổ sau đó được hồi sức tích cực lọc máu kết
quả bệnh nhân ổ định.
4.4. Kết quả gần. Trong bảng 3.8 cho thấy
kết quả tốt chiếm 68,8%, kết quả trung bình
15,6%, kết quả xấu (kể cả tử vong) 15,6%. Kết
quả 1 số tác giả trong nước: Nguyễn Quốc Hùng,
kết quả tốt đạt 64,82%, có biến chứng là 35,18%.
Dương Trọng Hiền, tỷ lệ biến chứng là 29,98%.
Trịnh Hồng Sơn, tỷ lệ biến chứng là 56,06%.
Nguyễn Tiến Chấn kết quả tốt chiếm 66,7%, trung
bình 20,8%, kết quả xấu chiếm 12,5[9].
V. KẾT LUẬN
Chấn thương gan là cấp cứu ngoại khoa,
phẫu thuật điều trị vỡ gan chỉ định đối với những
bệnh nhân không có chỉ định điều trị bảo tồn.
Việc chỉ định kịp thời, đúng phương pháp đem lại
hiệu quả tốt cho bệnh nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Bình Giang (2013), Chấn thương bụng,
Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, tr. 53-114.
2. Tôn Thất Bách (2005), Thương tích gan do chấn
thương và vết thương gan, Phẫu thuật gan mật,
NXB Y học Hà Nội.
3. Muhammad Saaiq, Niaz-ud-Din, Muhammad
Zubair, Syed Aslam Shah (2013), “Presentation
and outcome of surgically managed liver trauma:
experience at a tertiary care teaching hospital”, J
Pak Med Assoc, 63(4), pp. 436-9
4. Nguyễn Văn Hải (2007), “Kết quả điều trị vỡ
gan chấn thương”, Tạp chí Y học TP Hồ Chí Minh,
11(1), tr. 127-133.
5. K. Takasaki (1998), “Glissonean pedicle
transection method for hepatic resection: a new
concept of liver segmentation.,” J. Hepatobiliary.
Pancreat. Surg., vol. 5, no. 3, pp. 286–91.
6. Trịnh Văn Minh (1982), Những biến đổi giải
phẫu của hệ tĩnh mạch cửa trong gan người dưới
quan điểm phân thuỳ gan hiện đại, Luận án phó
tiến sĩ Y học, Trường đại học Y Hà nội.
7. Nguyễn Tiến Quyết, Dương Trọng Hiền,
Nguyễn Quang Nghĩa (2007), “Chấn thương gan,
các yếu tố quyết định thái độ điều trị tại Bệnh viện
Hữu Nghị Việt Đức”, Tạp chí Ngoại khoa, 1,tr.34-44.
8. Trần Vĩnh Hưng; Nguyễn Văn Nghĩa; Nguyễn
Văn Phùng; Lê, Tống Khôi Việt, (2008), “Điều
trị bảo tồn không mổ chấn thương gan do chấn
thương bụng kín”, Y học thực hành, số 1 tr.70-74
9. Trịnh Hồng Sơn, Tôn Thất Bách và cộng sự
(1999), Chấn thương và vết thương gan phân loại
mức độ tổn thương, chẩn đoán và điều trị.(198
trường hợp trong 6 năm 1990-1995), Y học thực
hành, 1: 40-46.
ĐẶC ĐIỂM SỬ DỤNG THUỐC CỦA NGƯỜI BỆNH GLÔCÔM
THEO DÕI NGOẠI TRÚ TẠI PHÒNG KHÁM NGOẠI TRÚ GLÔCÔM
BỆNH VIỆN MẮT TRUNG ƯƠNG
Bùi Thị Vân Anh1, Trịnh Trang Nhung2, Hoàng Thị Kim Huyền3
TÓM TẮT40
Mục tiêu:
Đánh giá tình hình sử dụng thuốc trên
bệnh nhân glôcôm góc mở được theo dõi tại phòng
khám ngoại trú khoa Glôcôm, bệnh viện Mắt trung
ương.
Đối tượng và phương pháp:
Nghiên cứu mô
tả được thực hiện trên mắt bệnh nhân glôcôm góc mở
nguyên phát đang được quản lý tại phòng khám ngoại
trú khoa Glôcôm từ tháng 2 đến tháng 8/2018.
Kết
quả:
188 bệnh nhân có tuổi trung bình 50,65 ± 17,83
1Bệnh viện Mắt trung ương
2Bệnh viện đa khoa Ninh Bình
3Đại học Dược Hà Nội
Chịu trách nhiệm chính: Bùi Thị Vân Anh
Email: buivananh@yahoo.com
Ngày nhận bài: 7.01.2020
Ngày phản biện khoa học: 27.2.2020
Ngày duyệt bài: 6.3.2020
được đưa vào nghiên cứu. 30,85% bệnh nhân làm
nghề nông, 40,02% có trình độ đại học và sau đại
học, 3,19% có tiền sử bệnh glôcôm trong gia đình,
7,89% có tiền sử cao huyết áp. Sau 6 tháng theo dõi
đa số các trường hợp có thị lực, nhãn áp, giai đoạn
bệnh và tình trạng lõm đĩa ổn định. 94,35% cần dùng
thuốc điều trị và thuốc phối hợp chiếm tỷ lệ cao nhất
có 114 mắt bệnh nhân (32,48%), nhóm prostaglandin
chiếm tỉ lệ cao nhất trong số những mắt dùng 1 thuốc
đơn, có 27/372 mắt (7,26%) cần bổ sung phẫu thuật
hoặc laser. 32,11% trường hợp có nguyên nhân cần
thay đổi điều trị do nhãn áp cao.
Kết luận:
Bệnh
nhân glôcôm góc mở nguyên phát được theo dõi trong
phòng khám Ngoại trú Bệnh viện Mắt trung ương có
tình trạng bệnh tương đối ổn định và việc dùng thuốc
được điều chỉnh hợp lý tùy theo tình trạng bệnh.
Từ khóa:
glôcôm góc mở nguyên phát, theo dõi
lâu dài, nhãn áp ổn định