
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 475 - THÁNG 2 - SỐ 1&2 - 2019
3
u>10 cm thấp hơn chiếm 48%. Có sự khác biệt
này có thể do nhóm BN trong nghiên cứu của
chúng tôi rộng hơn từ giai đoạn I-III. Trong
nghiên cứu của chúng tôi thể mô bệnh học hay
gặp nhất là UTBM dạng thanh dịch chiếm 67.9%,
thấp hơn là UTBM nhầy chiếm 10.7%, UTBM
dạng nội mạc tử cung chiếm 7.1%, các thể
UTBM khác ít gặp. Kết quả của chúng tôi tương
đương với các tác giả trong nước và ngoài nước
UTBMBT hay gặp nhất vẫn là dạng thanh dịch.
Theo tác giả Du Boi A và cs thì UTBM dạng
thanh dịch chiếm hơn 70%.
4.2. Kết quả nghiên cứu: Với thời gian
theo dõi sống thêm trung bình là 23.1± 11.4
tháng, 28 BN có thông tin đầy đủ. Trong quá
trình theo dõi có 6 bệnh nhân tái phát và 3 bệnh
nhân tử vong do tiến triển bệnh. Trong đó 4
bệnh nhân tái phát là giai đoạn II, 2 BN tái phát
ở giai đoạn III, BN tử vong chủ yếu ở giai đoạn
III. Tỷ lệ sống thêm không bệnh và sống thêm
toàn bộ 3 năm tương ứng là 52.2% và 81.4%.
Kết quả của chúng tôi thấp hơn so với tác giả
Nguyễn Tuyết Mai, trong nghiên cứu của Nguyễn
Tuyết Mai thì lệ sống thêm không bệnh và sống
thêm toàn bộ 3 năm lần lượt là 62.8% và
79.9%. Điều này có thể giải thích do nghiên cứu
của chúng tôi có cả BN ở giai đoạn III, còn
nghiên cứu của Nguyễn Tuyết Mai BN chỉ gồm
giai đoạn IC-II. Kết quả của chúng tôi cao hơn
so với tác giả Paul A Valey và cs, trong nghiên
cứu của Paul A tỉ lệ sống thêm 2 năm là 68.9%,
do trong nghiên cứu này đối tượng nghiên cứu
bao gồm BN từ giai đoạn IC-IV.
Giai đoạn bệnh là một yếu tố tiên lượng rất
quan trọng ảnh hưởng đến kết quả sống thêm
của bệnh nhân UTBMBT. Trong nghiên cứu của
chúng tôi thời gian sống thêm không bệnh và
sống thêm toàn bộ giảm dần theo giai đoạn
bệnh, nghĩa là giai đoạn bệnh càng muộn thì thời
gian sống thêm càng ngắn với p<0.05 có ý nghĩa
thống kê. Điều này cũng đúng với các nghiên
cứu trong nước cũng như trên thế giới. Theo
Germana Tognon và cs thì tỉ lệ sống thêm không
bệnh 10 năm của nhóm giai đoạn IC là 72% còn
ở nhóm giai đoạn IIA là 46%.
V. KẾT LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi với số lượng bệnh
nhân còn ít và thời gian theo dõi còn ngắn tuy
vậy bước đầu cho thấy kết quả sống thêm của
UTBMBT tại Nghệ An cũng rất khả quan.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. National Comprehensive Cancer Network
(2016). Ovarian cancer version 1. 2016.
2. Nguyễn Văn Hiếu (2015). Ung thư buồng trứng.
Bệnh học ung thư
, Nhà xuất bản y học Hà Nội,
235- 255.
3. Howlader, N., et al. (2013), SEER cancer statistics
review, 1975–2010, National Cancer Institute.
Bethesda, MD, based on November 2012 SEER data
submission, posted to the SEER web site.
4. Du Bois A, Luck HJ, Meier W et al (2003). A
randomized clinical trail of cisplatin/paclitaxel
versus carboplatin/ paclitaxel as first-line treatment
of ovarian cancer. J Natl Cancer Inst: 1320-1329
5. Nguyễn Tuyết Mai (2013). Mối liên quan giữa
nồng độ CA125 với một số đặc điểm lâm sàng và
kết quả điều trị ung thư buồng trứng tại bệnh viện
K. Tạp chí ung thư học việt nam, số 1-2013.
6. Fei Deng, Xia xu, et al (2017). Age is associated
with prognosis serous ovarian cancer. Journal of
Ovarian Research.
7. Germana Tognon, Mario Carnazza, et al
(2013). Prognostic factors in early-stage ovarian
cancer. Ecancer: 7: 325.
ĐÁNH GIÁ ĐỘC TÍNH BÁN TRƯỜNG DIỄN CỦA PHÂN ĐOẠN CHIẾT
CÓ HOẠT TÍNH KHÁNG SÂU RĂNG TỪ LÁ SIM
Bùi Hải Ninh1, Nguyễn Thị Minh Ngọc1, Nguyễn Thị Thắm1,
Nguyễn Bảo Trân1, Nguyễn Thị Liên2, Bch Thị Như Qunh1
.
TÓM TẮT2
Phân đoạn chiết ethylacetate (EtOAC) của lá sim
(
Rhodomyrtus Tomentosa
(Aiton) Hassk) trồng ở Việt
Nam đã được phát hiện trong nghiện cứu trước đây là
1Trường Đại học Y Dược Hải Phòng,
2Viện Kiểm nghiệm thuốc Trung Ương
Chịu trách nhiệm chính: Bạch Thị Như Quỳnh
Email: nhuquynha@gmail.com
Ngày nhận bài: 8/12/2018
Ngày phản biện khoa học: 26/12/2018
Ngày duyệt bài: 5/1/2019
có hoạt tính kháng sâu răng thông qua việc ức chế
mạnh sự sinh acid và sự hình thành biofilm của vi
khuẩn
Streptoccocus mutans
. Ngoài ra, phân đoạn
EtOAC không gây kích ứng trên da thỏ. Đây là cơ sở
để có thể đánh giá sâu hơn về độc tính và đặc biệt là
độc tính bán trường diễn trên mô hình in vivo của
phân đoạn tiềm năng này cũng như ứng dụng nó
trong các sản phẩm vệ sinh răng miệng. Kết quả thử
độc tính bán trường diễn thu được cho thấy không có
dấu hiệu ảnh hưởng của mẫu thử ở hai mức liều
1,86mg/kg/ngày trên thỏ (tương ứng với liều 0,6
mg/kg/ngày trên người) và 7,44mg/kg/ngày trên thỏ
(tương ứng với liều 2,4mg/kg/ngày trên người) lên