
vietnam medical journal n02 - APRIL - 2019
150
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ XẠ TRỊ U TUYẾN YÊN TÁI PHÁT
HOẶC CÒN SAU MỔ BẰNG DAO GAMMA
Nguyễn Văn Đô*, Vũ Văn Hòe*,
Nguyễn Văn Hưng*, Nguyễn Văn Khôi*
TÓM TẮT42
Đặt vấn đề: U tuyến yên (UTY) chiếm 10 – 15%
các u nguyên phát trong sọ, là u lành tính. Xạ trị u
tuyến yên cho thấy có kết quả rất tốt trong việc điều
trị u tuyến yên: giảm các triệu chứng lâm sàng và
kiểm soát kích thước u. Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu can thiệp lâm sàng không đối chứng trên
81 bệnh nhân với chẩn đoán xác định là adenoma
tuyến yên tái phát hoặc không phẫu thuật được tại
đơn vị Gamma Knife, Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 01
năm 2012 đến tháng 12 năm 2016. Kết quả: Qua 81
BN chúng tôi ghi nhận có 23 BN u tăng NTT và 58 BN
u không tăng NTT. Tuổi trung bình 43.35±11.98 tuổi,
nhỏ nhất 18 tuổi, lớn nhất 73 tuổi. Thể tích u tuyến
yên trung bình 5553.73 ± 2991.15mL. 15 TH tăng tiết
PRL và 10 TH u tăng GH. Sau xạ trị có 52 trường hợp
u đáp ứng điều trị với xạ trị, chiếm tỉ lệ 64,2%. Ghi
nhận thời điểm điểm u bắt đầu giảm kích thước đáp
ứng với xạ trị từ tháng thứ 12 sau xạ trị. Nghiên cứu
có 2 TH bệnh nhân tăng kích thước u sau thời gian
theo dõi, tỉ lệ kiểm soát u là 79/81 = 97,5%. Ghi nhận
nồng độ GH về mức bình thường là 13,3%, 46,7% từ
tháng thứ 36 và 40 sau xạ trị. Thời điểm đáp ứng điều
trị của nồng độ GH là từ tháng 12 sau xạ trị. Ghi nhận
nồng độ PLR về mức bình thường là 10%, 20% từ
tháng thứ 18 và 36 sau xạ trị. Thời điểm đáp ứng điều
trị của nồng độ PRL là từ tháng 6 sau xạ trị. Biến
chứng sau xạ trị chiếm 66,7%. Kết luận: Xạ trị u
tuyến yên có kết quả tốt, tỉ lệ kiểm soát u rất cao sau
trong thời gian theo dõi dài. Các triệu chứng lâm sàng và
nồng độ nội tiết trong máu đáp ứng với điều trị xạ trị.
Từ khoá:
u tuyến yên, xạ trị, Gamma Knife
SUMMARY
EVALUATED THE RESULTS OF
RADIOSURGERY RECURRENT OR RESIDUAL
ADENOMA PITUITARY TUMOR BY GAMMA KNIFE
Introduction: The pituitary tumor accounts for
10-15% of the primary brain tumors, which is benign.
Due to the anatomical location and endocrine function
of the pituitary gland, pituitary adenomas are only
diagnosed when causing disturbances, there are two
common syndromes: tumor syndrome and endocrine
syndrome. Methods: Non-controlled clinical
intervention study on 81 patients with definite
diagnosis of recurrent or residual pituitary adenoma
tumor at Gamma Knife unit, Cho Ray Hospital from
January 2012 to December 2016. Results: Through
*Bệnh viện Chợ Rẫy
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Văn Đô
Email: docrhvn@yahoo.com
Ngày nhận bài:
Ngày phản biện khoa học:
Ngày duyệt bài:
81 patients, we recorded 23 patients with NTT and 58
patients with no increase in NTT. The average age is
43.35 ± 11.98 years, the youngest is 18, the largest is
73 years old. Average volume of pituitary
adenocarcinoma 5553.73±2991.15mL. 15 TH increase
in PRL and 10 GH increase. After radiation therapy, 52
cases of tumors responded to radiation therapy,
accounting for 64.2%. Note the time when the tumor
started to decrease in response to radiation therapy
from the 12th month after radiotherapy. The study
had 2 patients who increased the tumor size after the
follow-up period, the rate of tumor control was 79/81
= 97.5%. Recorded GH concentrations at normal
levels of 13.3%, 46.7% at 36 and 40 months after
radiotherapy. The time of treatment response to GH
concentration is from December after radiotherapy.
Recorded PLR levels of 10%, 20% in the 18th and
36th months after radiation therapy. The treatment
response time of PRL concentration is from June after
radiotherapy. Complications after radiation therapy
accounted for 66.7%. Conclusion: Radiation therapy
for recurrent or residual pituitary adenomas has good
results, the rate of tumor control is very high after
long observation period. Clinical symptoms and
endocrine blood levels respond to radiation therapy..
Keywords:
pituitary tumors, radiotherapy,
Gamma Knife.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
U tuyến yên (UTY) chiếm 10 – 15% các u
nguyên phát trong sọ, là u lành, phát triển từ mô
tuyến yên hay từ vết tích phôi thai của túi
Rathke, ước tính tỉ lệ bệnh lưu hành từ 15 –
18/100000 dân và đứng hàng thứ ba sau u tế
bào thần kinh đệm và u màng não [1]. Do đặc
điểm vị trí giải phẫu và chức năng nội tiết của
tuyến yên nên các u tuyến yên chỉ được chẩn
đoán khi gây nên các xáo trộn, có hai hội chứng
thường gặp là hội chứng khối u và hội chứng nội
tiết. Tuy nhiên, khá nhiều khối u không gây ra
triệu chứng gì và vì thế không bao giờ được chẩn
đoán trong suốt cuộc đời. Trong những năm gần
đây nhờ sự phát triển của ngành chẩn đoán hình
ảnh, nhất là MRI mà UTY ngày càng được phát
hiện nhiều hơn. Mục đích chính của các phương
pháp điều trị là loại bỏ hoặc khống chế được
khối u, nhưng vẫn đảm bảo được chức năng nội
tiết của tuyến yên, ức chế hoặc giảm bài tiết
hormon do u gây ra, ít xâm hại nhất đến tổ chức
xung quanh [2] [3]. Xạ trị u tuyến yên đã được
thực hiện trên thế giới từ những năm 1900, liên
tục cải tiến, phát triển kỹ thuật và cho kết quả
khả quan về hiệu quả sớm cũng như việc theo