
DANH HOẠ BÙI XUÂN PHÁI -
NGƯỜI NGHỆ SĨ T
ÀI HOA VÀ
LẶNG LẼ
Họa sĩ Bùi Xuân Phái sinh ngày
1 tháng 9 năm 1920 tại Hà Nội,
làng Kim Hoàng, xã Vân Canh,
huyện Hà Tây, tỉnh Hà Đông,
một làng nổi tiếng với tranh kh
ắc
gỗ dân gian Kim Hoàng. Ông
xuất thân trong một gia đình tiểu
tư sản trung lưu nhà ở phố Hàng
Thiếc, sau chuyển về 87 Hàng
Bút nay gọi là phố Thuốc Bắc.
Chính vì vậy mà ông đã thuộc
lòng từng con đường, ngõ ngách
của 36 phố phường Hà Nội.
Thủa nhỏ, ông học Trường Trí Tri ở phố Hàng Quạt, có năng khiếu về
môn văn, và rất thích vẽ. ở tuổi học sinh ông đã được báo “Cậu ấm Cô
chiêu” đặt vẽ tranh vui thường kỳ...
BÙI XUÂN PHÁI-Tốp nhạc chèo-
sơn dầu, 19x26cm

Sau thời gian học lớp dự bị, năm 1941 ông thi đỗ vào Trư
ờng Cao đẳng
Mỹ thuật Đông Dương, khoá 15 (1941 - 1946), cùng với các họa sĩ
Nguyễn Tư Nghiêm, Huỳnh Văn Gấm, Tạ Thúc Bình... Khi còn là sinh
viên ông đã bắt đầu vẽ phố và gửi tranh tham dự triển lãm ở Tokyo.
Cách mạng Tháng Tám thành công, Bùi Xuân Phái tham gia các hoạt
động mỹ thuật phục vụ cách mạng, vẽ chân dung Chủ tịch Hồ Chí
Minh và nhiều chân dung các nhân vật trong tuần lễ văn hoá đón phái
đoàn Đồng Minh tại Nhà hát lớn Hà Nội, đồng thời tham gia Triển lãm
Văn hoá tháng 9/1945. Sau đó ông tham gia Triển lãm Mỹ thuật Tháng
Tám 1946 với các tranh Mẹ con, Đường đi, Giếng nước, Người nằm và
Góc phố, với màu sắc lạ, hoà hợp với chất liệu sơn dầu quánh bện trên
vải, và đã đoạt giải Văn hoá Cứu quốc (trị giá 1000đ).
Bùi Xuân Phái có một kỷ niệm mà bao năm ông vẫn nâng niu trân
trọng. Đó là vào năm 1946, khi ông là nhân viên báo Cứu Quốc, được
cùng đi với đồng chí Xuân Thủy đến dự buổi họp báo có sự tham gia
của Bác Hồ. Được gặp Bác một cách bất ngờ, được đón, nghe từng lời
Bác, ông xúc động và đã không bỏ lỡ dịp may hiếm có vẽ chân dung vị
Chủ tịch Nước vào sổ ghi chép. Sau đó, ông chọn một bức mà ông cho
là đạt nhất, xin chữ ký của Bác. Trên bức họa nhanh của ông đã được
lưu bút tích của Người. Tiếc thay, đến toàn quốc kháng chiến, cuốn sổ
đã bị thất lạc cùng với nhiều tài liệu khác mà ông đã tập hợp trong
nhiều năm. Nhưng hình ảnh thiêng liêng của Người vẫn đọng m
ãi trong
ông.

Cuối năm 1946, khi Trường Mỹ thuật Việt Nam được thành lập tại phố
Lò Đúc, nhiều học sinh đang học Trường Mỹ thuật Đông Dương được
trở về tiếp tục học tập. Bùi Xuân Phái cùng các họa sĩ Nguyễn Tư
Nghiêm, Tạ Thúc Bình về trường làm bài thi tốt nghiệp, nhưng bị dở
dang vì kháng chiến bùng nổ.
Cũng như nhiều văn nghệ sĩ khác, họa sĩ Bùi Xuân Phái lên chiến khu.
Những ngày đầu ở Bắc Kạn, ông làm họa sĩ cho báo Vui Sống và Nhà
Thông tin do ông Nông Quốc Chấn phụ trách. Năm 1947, quân Pháp
nhảy dù xuống Bắc Kạn, Bùi Xuân Phái chuyển về Thanh Hoá (vùng t
ự
do Liên khu IV), nơi có nhiều văn nghệ sĩ đang làm việc, trong đó có
các họa sĩ Nguyễn Văn Tỵ, Nguyễn Sỹ Ngọc, Phạm Văn Đôn, Nguyễn
Thị Kim..., đi thực tế ở Thanh Hoá (Cầu Thiều, Quán Giát).
Năm 1948, ở Việt Bắc, ông sáng tác các tác phẩm Cây đa nước chảy
(Tuyên Quang), Phố Thầu Cao Bằng, vẽ nhiều tranh chân dung và
phong cảnh.
Năm 1949, Bùi Xuân Phái cùng với Lương Xuân Nhị, Lê Qu
ốc Lộc, Tạ
Tỵ dạy lớp vẽ ở Phù Lưu Chanh (Hà Nam). Lớp học có các học viên
như Văn Đa, Anh Thường, Lê Toàn, Hoàng Quy, Nguyễn Văn Tý (Tý
Bo)... Tham gia Triển lãm Mỹ thuật do Uỷ ban Kháng chiến Liên khu
III tổ chức với hai tác phẩm Dân quân - sơn dầu và Đóng thuế nông
nghiệp - tranh cổ động.
Năm 1951, Bùi Xuân Phái trở lại Thanh Hoá và lấy vợ là bà Nguyễn
Thị Sính (sinh năm 1927, nguyên là nữ sinh Đồng Khánh, Huế). Do

chớm bị lao phổi, sức khoẻ yếu, vợ lại sắp sinh con đầu lòng, n
ăm 1952
ông trở lại Hà Nội sống cùng gia đình tại 87 Thuốc Bắc. Chuyến hồi
gia này làm ông bị Pháp bắt giam tại nhà tù Hoả lò 15 ngày vì nghi là
cán bộ Việt Minh vào hoạt động nội thành. Năm 1953, ông mở xưởng
vẽ ngay tại nhà mình, có sự tham gia của các họa sĩ Hoàng Tích Chù,
Hoàng Lập Ngôn, Nguyễn Trọng Niết, Tạ Tỵ... Thời gian này ông vẽ
nhiều tranh chân dung, đa số là vẽ vợ con, bạn bè, thân hữu, chân dung
tự họa và thiếu nữ khoả thân, bằng bút chì than... phác nhanh và tình
cảm theo khuynh hướng lập thể. Vẽ chân dung là thú vui yêu thích của
ông trong nhiều năm, kể cả sau này khi ông vẽ bằng sơn dầu và bột
màu, và đây cũng là một thành t
ựu sáng tác quan trọng trong nghệ thuật
của ông.
Ngoài ra Bùi Xuân Phái còn làm minh họa, vẽ tranh đả kích v
à sáng tác
mỹ thuật theo yêu cầu hoạt động kháng chiến ở nội thành thông qua
mối liên hệ với ông Nguyễn Bắc (sau là giám đốc Sở Văn hóa Hà Nội).
Bùi Xuân Phái minh họa cho báo Dân ý, do Ban cán sự vận xuất bản v
à
nhà in Kuy Sơn (phố Thuốc Bắc) phát hành. Báo Dân ý in ở Nhà in Lê
Cường phố Hàng Bồ (ông Lê Cường không lấy tiền giấy và công in),
nhưng báo chỉ ra được năm số, đến số thứ sáu thì Sở mật thám phát
hiện tịch thu và ra lệnh đình bản (tháng 4/1954).
Sau khi hoà bình lập lại, họa sĩ Bùi Xuân Phái tham gia các hoạt động
của giới mỹ thuật thủ đô. Tại Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc 1954 do
Hội Văn nghệ tổ chức, qui tụ hơn 500 tác phẩm của 152 họa sĩ, được
đánh giá là triển lãm lớn nhất từ trước đến thời gian đó ở nước ta, Bùi

Xuân Phái đã gửi đến ba tác phẩm, trong đó có hai tác phẩm bột màu:
Tình quân dân và Em yêu hoà bình cùng một áp phích Ngư
ời Việt Nam
tiêu tiền Việt Nam.
Khi Trường Mỹ thuật Việt Nam được mở lại tại Hà Nội, ông được mời
về làm giảng viên và đã giảng dạy tại trường từ 1956 đến 1957. Thời
gian này, ông cùng họa sĩ Lưu Văn Sìn dẫn sinh viên đi thực tập ở Cao
Bằng, vẽ loạt ký họa về những phụ nữ dệt vải, cảnh chợ phiên, người
miền núi, ngựa... Tác phẩm tiêu biểu Phố chợ Nguyên Bình đã được
xây dựng từ một số trong những ghi chép đó. Sau đó, Bùi Xuân Phái l
ại
cùng họa sĩ Nguyễn Tiến Chung dẫn các sinh viên Trần Thị Thanh
Ngọc, Vũ Giáng Hương, Ngọc Thọ, Trọng Cát... đi thực tế ở Sài Sơn,
Sơn Tây. Tại đây, ông vẽ loạt tranh về nông thôn, phần lớn l
à tranh sơn
dầu, bột màu, cùng những ký họa chì, bút sắt, thể hiện một làng quê
Việt Nam với những nét đặc trưng đồng bằng Bắc bộ và bằng tình cảm
yêu mến của người họa sĩ.
Cùng thời gian dạy học, ông tham gia minh họa cho một số tờ báo,
trong đó có bức minh họa truyện ngắn Con ngựa già của Phùng Cung
trên báo Nhân Văn số 4 và bức tranh vui đăng trên báo Nhân Văn số 6
đã làm hệ luỵ đến ông. Vì vậy, tháng 10/1957 ông thôi dạy ở Trường
Mỹ thuật và trở thành họa sĩ tự do. Trong sổ tay của mình, Bùi Xuân
Phái dùng bút sắt vẽ chân dung và ghi câu nói của Cézanne bằng tiếng
Pháp: “ Đời không hiểu ta và ta không hiểu đời, vậy nên ta xin thu
mình lại”.

