Ỹ
Ế
M T S CÔNG TRÌNH M THU T
Ậ KI N TRÚC DÂN GIAN
Ộ Ố
THỜI LÊ - TRỊNH Ở VIỆT NAM VÀ HẢI PHÒNG
Đồng Thị Hồng Hoàn
NHÀ TRỊNH
ờ
ậ
Tập đoàn phong kiến Chúa Trịnh (1545 – 1787) đã kiểm soát toàn bộ quyền lực
nhà nước Đại Việt thời nhà Hậu Lê, với khẩu hiệu “phù Lê diệt Mạc”, đến 1592,
con cháu triều Mạc chạy lên Cao Bằng. Trịnh Tùng chiếm lại Thăng Long, cai trị
toàn cõi Đàng Ngoài, đặt phủ chúa với hệ thống quan lại riêng, định chế độ cha
truyền con nối, thu tóm mọi quyền hành bên cạnh triều đình vua Lê bù nhìn.
Chúa Trịnh vừa phải chống chúa Nguyễn ở Đàng Trong, lại đánh dẹp nhiều
cuộc nổi dậy của nông dân đàng ngoài, nhưng họ vẫn ra sức ổn định tình hình
kinh tế, xã hội, văn hóa và ngoại giao, biến Thăng Long thành một kinh đô giàu có
và văn hiến. Có thể khẳng định thời Lê - Trịnh đã chứng kiến hai thế kỷ phát triển
rực rỡ của kinh tế, văn hóa, chính trí, giúp họ Trịnh giữ gìn xã hội Đại Việt ổn định
và thăng tiến trong gần 2 thế kỷ.
Hải Phòng xưa tự hào vì có đến 3 vị trạng nguyên th i H u Lê
là: Lê Ích Mộc-
Thủy Nguyên;Trần Tất Văn, An Lão và trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Vĩnh Bảo.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là người đã đưa ra lời tiên đoán, khuyên giúp các nhà
Nguyễn, Mạc, Trịnh, Lê phân vùng ổn định, tránh được những cuộc tàn sát và
cùng tồn tại phát triển trong một thời gian dài.
Ạ
Ễ
Ỉ
Ả
TR NG TRÌNH NGUY N B NH KHI ÊM,
H I PHÒNG
V I NHÀ LÊ TR NH
Ớ Ị
Nhà Lê suy yếu. Năm 1556, vua Lê Trung Tông
mất sớm không có con nối dõi), Trịnh Kiểm định
đoạt nhà Lê nhưng ngại dư luận, đã cho người
đến hỏi Nguyễn Bỉnh khiêm. Nguyễn Bỉnh Khiêm
nói với chú tiểu (thực ra là nói với bề tôi họ
Trịnh): "Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản“.
Trịnh Kiểm hiểu ý Nguyễn Bỉnh Khiêm, cho
người tìm tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh
Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông.
Họ Trịnh tôn nhà Lê nhưng nắm thực quyền
điều hành chính sự, còn nhà Lê nhờ họ Trịnh vẫn
có hư danh, hai bên nương tựa lẫn nhau tồn tại
hơn 200 năm, củng cố và xây dựng đất nước
phồn vinh. Điều này còn thể hiện ở các công
trình kiến trúc, mỹ thuật còn sót lại thời Lê Trịnh
cho đến ngày nay.
Ỹ
Ỹ Ậ TH I Ờ TH I Ờ
Ế
Ậ
Ế
CÁC CÔNG TRÌNH KI N TRÚC M THU T
CÁC CÔNG TRÌNH KI N TRÚC M THU T
ủ
ị
ề
ư
ộ
ế
ậ
ưỡ
ủ
ụ ụ
ị
ư ẫ ượ ả
ự
ặ
c xây d ng ho c trùng tu th i Lê Tr nh x a v n đ
ế
ể
ụ
ế
ầ
ổ
ề
ề
ả
ắ
ụ
ươ
ư
ả
ề
ấ
LÊ TR NHỊ
LÊ TR NHỊ
ế
ậ
ỹ
Các công trình ki n trúc m thu t cung đình c a nhà Lê
ạ
ị
Tr nh đã b các tri u đ i sau phá h y. Nh ng th t may, có m t
ố
s công trình ki n trúc dân gian ph c v tín ng
ng tôn giáo,
ờ
ượ
c b o
đ
ư
ồ
t n đ n ngay nay, tiêu bi u nh : chùa Keo Thái Bình; chùa
Th y, đình Chu Quy nHà Tây; chùa Bút Tháp, đình Ph Lão,
đình Di m, đình B ng B c Ninh; đình Th Tang, đ n Phú Đa
ề
Vĩnh Phúc; chùa Chuông, đ n chúa M a H ng Yên; đình
Hàng Kênh, đình Ki n Bái, đình Tr n D ng H i Phòng…
CHÙA KEO
THÁI BÌNH
Chùa Keo được xây dựng lớn từ năm 1630 và
hoàn thành vào năm 1632 theo phong cách kiến
trúc thời Lê, nhờ sự vận động của bà Lại Thị
Ngọc, vợ Tuần Thọ Hầu Hoàng Nhân Dũng và
Đông Cung Vương phi Trịnh Thị Ngọc Thọ. Chùa
được trùng tu nhiều lần, vào các năm 1689 , 1707,
1941... Lần trùng tu năm 1941 có sự giúp đỡ của
Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp
Chùa Chuông được xây dựng từ thế kỷ 15,
Nhưng phải tới năm 1707, chùa mới được
trùng tu lớn với quy mô hoàn chỉnh như
hiện nay. Trong cuốn “Hưng Yên tỉnh nhất
thống chí” của Trịnh Như Tấu, thời Nguyễn
có ghi rằng: “Chùa Chuông - Phố Hiến đệ
nhất danh lam”.
Ư
Ư CHÙA CHUÔNG – H NG YÊN
CHÙA CHUÔNG – H NG YÊN
Ư
Ư Ụ
Ụ Ề
Ề Đ N BÀ CHÚA M A H NG YÊN
Đ N BÀ CHÚA M A H NG YÊN
Đền thờ Bà chúa Mụa thờ bà Trần Thị Ngọc
Am, là Vương phi đệ nhị cung tần của Thanh
Đô Vương Trịnh Tráng, tên hiệu là Pháp Tiên,
có nhiều công đức xây dựng chùa tháp nên
được các tín đồ tôn làm "Thánh Quang Bồ
Tát". Cửa đền có bia “Trần Thị Tiên phả bi”
ghi khái quát về lý lịch của bà. Trên mặt trước
bia “Chiêu Ân tháp bi” và mặt sau “Tào Lục
xã bi” năm 1650.
CHÙA NINH PHÚC (BÚT THÁP) BẮC NINH
Chùa Ninh Phúc (Bút Tháp) được đại trùng tu khi Hoàng thái hậu Trịnh Thị
Ngọc Trúc (Diện Viên) rời bỏ cung thất đến đây tu hành. Bà cùng con gái là
công chúa Lê Thị Ngọc Duyên (Diệu Tuệ), xin phép Chúa Trịnh Tráng, bỏ tiền
của, ruộng lộc ra công đức để xây dựng chùa lớn như ngày nay. Đến năm
1647, chùa xây dựng và sửa chữa xong.
Kiến trúc chùa theo kiểu "Nội Công Ngoại Quốc“, để trở thành một quần thể
hoàn chỉnh trên một trục dài hơn 100 mét. Phía bên phải chùa có tháp Bút
(Báo Nghiêm) bằng đá xanh năm tầng, cao trên 13 mét; Kiệt tác điêu khắc gỗ
dân gian tô điểm cho chùa là pho tượng gỗ “Phật Bà Quan Âm ngàn mắt ngàn
tay”- (Quan âm thiên thủ thiên nhãn), cao tới 3,70 mét (1656) và tập hợp 91
bức chạm đá trên lan can bao quanh tòa thượng điện với những đề tài đa
dạng (động vật, cỏ cây, mây nước...).
Về cơ bản, quy mô và cấu trúc của chùa Bút Tháp hiện nay chính là ngôi
chùa được xây dựng trong thời kỳ Lê – Trịnh.
Ắ
Ắ
CHÙA NÀNH – B C NINH
CHÙA NÀNH – B C NINH
Chùa Nành còn có tên là chùa Pháp Vân, thuộc xã Ninh Hiệp (huyện Gia Lâm, Hà
Nội). Đây là một trong bốn chùa lớn ở nước ta thời Hậu Lê: chùa Dâu, chùa Keo,
Chùa Đậu, chùa Nành. Chùa Nành được xây theo lối chữ “Công” gồm 100 gian,
trước mặt có sân rộng trải dài tới sát tam quan rất bề thế. Đối diện có tòa thủy
đình để diễn rối nước trên một hồ nước nhỏ. Chùa Nành được xây dựng từ thời
Lý. Trải qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa thời Lê Trung hưng. Hiện, chùa còn lưu
giữ được nhiều di vật quý triều Lê Trịnh như: Tượng, bia đá, chuông đồng
(1653), khánh đồng (1733). Chùa Nành đã được Bộ Văn hóa-Thông tin xếp hạng
là Di tích cấp quốc gia.
Ắ
ĐÌNH B NG Ả
ĐÌNH B NG Ả
ẮB C NINH
B C NINH
Đình Bảng do Nguyễn Thạc Lượng
(từng làm trấn thủ Thanh Hóa) và
vợ là Nguyễn Thị Nguyên hiến gỗ,
đứng ra tạo dựng, nhân dân và thợ
trong vùng thi công góp sức. Đình
được khởi công vào năm 1700, và
phải ba mươi sáu năm, tức năm
1736, mới hoàn thành.
Đình Diềm xưa khá bề thế, gồm 3 gian hai chái khép kín thành một chỉnh thể thống
Đình Diềm xưa khá bề thế, gồm 3 gian hai chái khép kín thành một chỉnh thể thống
nhất và hài hòa. Đình được xây dựng vào cuối thế kỷ 17 để thờ Đức thánh Tam
nhất và hài hòa. Đình được xây dựng vào cuối thế kỷ 17 để thờ Đức thánh Tam
Giang, Dân làng lấy năm Nhâm Thân 1692 (năm dựng mái) làm năm xây đình. Sau
Giang, Dân làng lấy năm Nhâm Thân 1692 (năm dựng mái) làm năm xây đình. Sau
này do chiến tranh, nhiều kiến trúc độc đáo đã bị phá huỷ, hiện đình chỉ còn 1 gian 2
này do chiến tranh, nhiều kiến trúc độc đáo đã bị phá huỷ, hiện đình chỉ còn 1 gian 2
chái. Ngay từ năm 1964, đình Diềm đã được Nhà nước ta công nhận danh hiệu di
chái. Ngay từ năm 1964, đình Diềm đã được Nhà nước ta công nhận danh hiệu di
tích cấp Quốc gia.
tích cấp Quốc gia.
Nét độc đáo của đình Diềm chủ yếu ở chiếc cửa võng và chiếc nhang án thờ nơi
Nét độc đáo của đình Diềm chủ yếu ở chiếc cửa võng và chiếc nhang án thờ nơi
gian giữa. Chiếc nhang án nằm phía trong cửa cấm, theo các nhà nghiên cứu thuộc
gian giữa. Chiếc nhang án nằm phía trong cửa cấm, theo các nhà nghiên cứu thuộc
có thể đưa
Cục bảo vệ di sản (Bộ Văn hóa-Thông tin), giá trị của nó về một số mặt “có thể đưa
Cục bảo vệ di sản (Bộ Văn hóa-Thông tin), giá trị của nó về một số mặt “
vào danh sách các bảo vật Quốc gia”. ”.
vào danh sách các bảo vật Quốc gia
Cửa võng đình được trang trí thành các tầng diềm có nhiều hình rồng, vân mây, hoa
Cửa võng đình được trang trí thành các tầng diềm có nhiều hình rồng, vân mây, hoa
bốn cánh với kỹ thuật chạm lộng, chạm nổi, chạm thủng. Hai bên là ván chạm thủng
bốn cánh với kỹ thuật chạm lộng, chạm nổi, chạm thủng. Hai bên là ván chạm thủng
hình “Song nghê triều dương” (hai con nghê chầu mặt trời), và 4 con rồng chầu vào
hình “Song nghê triều dương” (hai con nghê chầu mặt trời), và 4 con rồng chầu vào
vòng sáng nhọn đầu của chữ “Phúc”. Bên cạnh các hình chạm khắc này, nhang án
vòng sáng nhọn đầu của chữ “Phúc”. Bên cạnh các hình chạm khắc này, nhang án
còn có những hình chạm rất đặc sắc, trong đó có cả hình tượng các cô thôn nữ xinh
còn có những hình chạm rất đặc sắc, trong đó có cả hình tượng các cô thôn nữ xinh
đẹp, yểu điệu. Điều đó chứng tỏ người dân làng Diềm xưa không hề bó buộc, câu nệ
đẹp, yểu điệu. Điều đó chứng tỏ người dân làng Diềm xưa không hề bó buộc, câu nệ
mà đưa cả những cảnh sinh hoạt đời thường vào trang trí tại một nơi thâm nghiêm
mà đưa cả những cảnh sinh hoạt đời thường vào trang trí tại một nơi thâm nghiêm
như đình, chùa
như đình, chùa
Ắ
Ắ Ề
Ề ĐÌNH DI M – B C NINH
ĐÌNH DI M – B C NINH
Ề
Ề Ắ
Ắ Ổ
Ổ
Đ N GIÓNG – PHÙ Đ NG, B C NINH
Đ N GIÓNG – PHÙ Đ NG, B C NINH
Đền thờ Thánh Gióng đã có từ thời Hùng Vương và được dựng trên nền nhà cũ
của mẹ Gióng. Đến cuối thế kỷ XI, Lý Thái Tổ cho tu bổ thêm và ra lệnh tổ chức
hội Gióng. Phía trước đến là thủy đình được dựng theo kiểu "mái chồng" từ thời
Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII). Phía trước đền có đôi rồng đá, phía sau có đôi sư tử
đá tạo vào năm Ất Dậu niên hiệu Vĩnh Thịnh, 1705 triều Vua Lê Dụ Tông. Nhà
Thiêu hương do Điền Quận công Nguyễn Huy (1610-1675), Nhà bên trong do Đặng
Công Chất, đỗ Trạng nguyên năm 1661, đứng ra hưng công, Hai ngôi nhà ba gian
phía đông do Đặng Thị Huệ, chúa Trịnh Sâm (thế kỷ XVIII) cung tiến. Đầu bẩy
chạm vào thời Hậu Lê. Đền còn lưu được 12 đạo sắc phong, đời Lê; đền còn lưu
được chiếc ngai thờ từ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII)
Ơ
Ơ
CHÙA MÍA S N TÂY
CHÙA MÍA S N TÂY
Chùa tọa lạc ở làng Mía, xã Đường Lâm, huyện Ba Vì, trên một ngọn đồi đá ong.
Chùa có tên chữ là Sùng Nghiêm tự, được đại trùng tu, xây dựng lại vào năm Đức
Long thứ 4 (1632) thời Lê Thần Tông.
Chùa Mía có tới 287 pho tượng lớn nhỏ, trong đó một nữa bằng gỗ, một nữa
bằng đất luyện. Tất cả được sơn son thếp vàng rất đẹp. Tiêu biểu nhất là 8 bộ Kim
Cang ở tòa thượng điện, bằng đất luyện. Pho tượng "Quan Âm Tống Tử" với
đường nét chạm khắc mềm mại, sinh động, độc đáo là một tác phẩm nghệ thuật
tuyệt tác. Chùa còn lưu giữ nhiều cổ vật như đại hồng chung đúc năm 1743,
khánh đồng (1846), bia Bà Chúa Mía dựng năm 1632.
Ậ
Ậ
CHÙA Đ U HÀ TÂY
CHÙA Đ U HÀ TÂY
Theo văn bia dựng năm Dương Hoà 5,
Chùa Đậu được trùng tu lớn vào năm 1635
đời vua Lê Thần Tông; Kiến trúc chùa được
xây dựng kiểu "nội công ngoại quốc“ như
phần lớn các chùa khác thời Lê - Trịnh.
Tam quan chùa là một gác chuông đẹp, hai
tầng tám mái với các đầu đao cong vút.
Nhiều bộ phận gỗ được chạm khắc hình
rồng, phượng và hoa lá. Ở chùa Đậu có
khá nhiều bia đá từ thế kỷ 16 đến thế kỷ
18. Đặc biệt ở đây có hai tấm biển gỗ sơn
son thiếp vàng khắc bài thơ nôm của chúa
Trịnh Căn (1682 - 1709) và chúa Trịnh
Cương (1709- 1729).
Ầ
CHÙA TH Y HÀ TÂY
Chùa Thầy còn lưu giữ 7 tấm bia đá niên đại vào thế kỷ 17, có bia "Hưng tạo sự
công" dựng năm Dương Đức thứ 7 (1673) nói về việc xây dựng nơi thờ Thánh và
tên người cúng ruộng công đức cho thấy trùng tu lớn nhất vào thế kỷ 17, chùa
mới có dạng "nội công ngoại quốc" như ngày nay. Cũng vào dịp trùng tu thời Lê -
Trịnh, hai cụm kiến trúc thờ Phật và thờ Thánh đã được tách thành hai công trình
riêng biệt, đánh dấu sự ra đời chính thức của kiểu thức chùa tiền Phật - hậu
Thánh, là đặc điểm kiến trúc thời Lê - Trịnh.
CHÙA TRẦM - HÀ TÂY
Chùa Trầm được xây dựng năm Ất Hợi (1515) do Trần Văn Tăng, một
tướng quân xuất gia đi giảng đạo, khởi xướng. Hiên ở núi Trầm còn một bia đá
khắc bài thơ của ông bằng chữ Nôm. Xưa kia toàn bộ khu núi Trầm là nơi vua Lê,
chúa Trịnh đặt hành cung. Núi Tử Trầm có chùa Hang được xây dựng trong động
Long Tiên dưới chân Tử Trầm Sơn với những pho tượng đá, văn bia khắc trên
vách động, trống đá, khánh đá... ; có hang Long Tiên Động rất lớn và bàn thờ Phật
bên trong.
Ngôi chùa được xây dựng với quy mô
chính vào khoảng cuối thế kỷ 17.
Đường xuống hang chùa là một dốc
gồm 120 bậc lát đá. Trên vách trước
cửa động còn lưu giữ bút tích của
Tĩnh Đô Vương - Trịnh Sâm (1770)
đến vãn cảnh chùa, đã tự tay đề 5
chữ Hán 南南南南南 (Nam thiên đệ
nhất động - Động đẹp nhất trời nam).
ƯƠ
ƯƠ CHÙA H
CHÙA H NG – HÀ TÂY
NG – HÀ TÂY
Ớ
Ớ Ế
Ế
Ấ Ứ
Ấ Ứ Ơ
Ơ ĐÌNH CHU QUY N – NGÔI ĐÌNH L N
ĐÌNH CHU QUY N – NGÔI ĐÌNH L N
NH T X ĐOÀI – S N TÂY
NH T X ĐOÀI – S N TÂY
Đình Chu Quyến
được xây dựng
vào khoảng thế kỷ
17. Đình có mặt
chữ
bằng hình
nhất, dài 30m, cột
cái đình có chu vi
đến 2 m, trang trí
xà, cốn, cửa võng,
nhiều tượng tròn
đẹp với các hoạ
tiết rồng hoa lá và
con người. Đình
làm dạng nhà sàn
không tường bao,
có hàng
lan can
xung quanh và hệ
thống sàn hoàn
chỉnh, là một trong
những di tích lớn,
đẹp và nổi tiếng ở
Bắc Bộ hiện nay và
xứ Đoài xưa.
Ổ
Ổ ĐÌNH TH TANG, VĨNH PHÚC
ĐÌNH TH TANG, VĨNH PHÚC
Đình Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Đình được xây dựng vào
thế kỷ 17. Vào năm 1964 đình đã được Bộ Văn hoá - Thông tin Việt Nam xếp hạng
A trong danh mục Di tích Lịch sử Văn hóa tiêu biểu của đất nước, đến năm 1990
được cấp bằng Di tích Lịch sử Văn hoá.
Đình hiện còn 21 bức chạm bằng gỗ nổi tiếng như: cảnh đi cày, chăn trâu, đánh
ghen, vũ nữ cưỡi rồng, vợ chồng lười, cảnh con mọn, cảnh nghỉ ngơi sau giờ lao
động, cảnh đá cầu, đấu vật, múa, bắn hổ, đánh cờ uống rượu… thể hiện nghệ
thuật chạm trổ tinh vi.
Toàn bộ kiến trúc và các bức chạm trổ điêu khắc của đình Thổ Tang đã được
đưa vào lịch sử văn hóa nước nhà như là những điển hình của nghệ thuật kiến
trúc chạm trổ của dân tộc Việt Nam thế kỷ 17 thời Lê Trịnh.
Ề
ỀĐ N PHÚ ĐA – VĨNH PHÚC
Đ N PHÚ ĐA – VĨNH PHÚC
thờ Nguyễn
Phúc
Đền Phú Đa (Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc)
được xây dựng từ thời Lê Cảnh Hưng
(1740-1786), là công trình nổi tiếng của
Vĩnh
Thai.
Mặt bằng kiểu chữ Tam, với hai trụ đá
xanh và nhiều tượng đá chạm khắc
hình người và linh vật bằng đá rất đẹp.
CHÙA KIM LIÊN – HÀ N IỘ
CHÙA KIM LIÊN – HÀ N IỘ
• Chùa Kim Liên có từ thế kỷ 17, được dựng trên dải
đất của làng Nghi Tàm, bên bờ hồ Tây, nay thuộc
phường Nghi Tàm, quận Tây Hồ. Tương truyền nơi
dựng chùa là nền cũ của cung Từ Hoa có từ đời Lý.
• Theo tấm bia hiện còn trong chùa do Bùi Huy Cận
soạn năm 1868 thì chùa vốn có tên là Đại Bi, do vợ
chồng ông Nguyễn Thế Hựu là người phường này xuất
tiền xây dựng vào năm 1631. Bảy năm sau, nhân dân
góp công để mở rộng thêm khu chùa. Đến năm 1771,
chúa Trịnh Sâm sai bọn Huy Đĩnh dỡ chùa Bảo Lâm ở
phía tây kinh thành về tu bổ lại chùa này và đổi tên
chùa là Kim Liên.
CHÙA GIÁM H I D
ữ
Ả ƯƠ
NG
ệ
ơ
ẩ
ẩ
ự
ư
ượ
ớ
ố
th i Lý, nh ng t
ớ
ươ
ớ
ừ ờ
ộ
i cu i TK XVII, chùa đ
ố
ế
ướ ế
ạ
ậ
ướ
ể ề ị
ớ
ượ
ủ
ộ ỳ
ượ
ị
ươ
ả
ự
Chùa Giám tên ch là Nghiêm Quang T xã C m S n, huy n C m Giàng, H i
ạ
c tôn t o
D ng. Chùa xây d ng t
ạ
ờ
ể
ể
ể
v i quy mô l n theo ki u n i công ngo i qu c – ki u ki n trúc tiêu bi u th i
ữ
ệ
ự
ượ
ị
ớ ư
duy ngh
c xây d ng công phu, v i t
Lê Tr nh . Nh ng công trình này đ
ở
ừ
ượ
c đây chùa
thu t cao, đ
ngoài đê
năm 1974. Tr
c x p h ng t
c nhà n
ể
sông Thái Bình, vào năm 1971 chùa Giám đ
c di chuy n v đ a đi m m i này
ạ
và tôn t o. Đây đ
c xem là m t k công c a ngành Văn hoá và nhân dân đ a
ng.
ph
Ả
ĐÌNH HÀNG KÊNH
ĐÌNH HÀNG KÊNH
Ả– H I PHÒNG
– H I PHÒNG
Theo bia ký, đình Hàng Kênh được
khởi dựng vào năm 1719, đời vua Lê Dụ
Tông và trùng tạo từ năm 1841 đến 1850.
Đình lưu giữ hơn 100 mảng điêu khắc
có gần 400 con rồng quấn quýt, hòa
quyện cùng hoa,lá, cỏ cây, chim,
phượng, với kỹ thuật chạm khắc tinh xảo.
Đình Hàng Kênh không chỉ có giá trị
lớn về nghệ thuật kiến trúc điêu khắc, mà
còn bảo lưu được kiểu kiến thức ván sàn
lòng thuyền hiếm có, đưa đình Hàng
Kênh trở thành một di sản văn hóa đặc
sắc trong các ngôi đình Việt Nam.
ĐÌNH KIỀN BÁI – HẢI PHÒNG
ĐÌNH KIỀN BÁI – HẢI PHÒNG
Đình Kiền Bái được xây dựng vào cuối thế kỷ XVII. Đình có cấu trúc kiểu chữ đinh gồm 5
gian tiền đường, 2 gian hậu cung. Tiền đường, trừ gian giữa (khoang thuyền ), 4 gian đều
bưng gỗ, lát ván sàn. Trên cột cái, vì xà chính ghi năm tạo dựng ( 1681) và tên những người
đóng góp công đức.
Đây là công trình kiến trúc điêu khắc tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc thời Lê hiện còn lại ở
Hải Phòng. Điểm nổi bật của đề tài trang trí trên công trình kiến trúc nghệ thuật này là bên
cạnh hình ảnh rồng, phượng, hoa lá cách điệu, tia lửa, lưỡi mác... còn thấy rất nhiều cảnh
sinh hoạt dân gian rất tự nhiên, sinh động. Đó là hình ảnh rồng nối đuôi nhau, trước mặt
rồng có nhiều con thú 4 chân leo trèo trong đám vây rồng; có hình ảnh rồng đan xen với thú
4 chân như thằn lằn, voi ngựa, lơn ăn lá dáy; có mảng là cảnh sinh hoạt hình em bé chăn
trâu ngồi vắt vẻo trên mình trâu...
Đền Trần Quốc Bảo, Thủy Nguyên, Hải Phòng
đã trải qua rất nhiều lần trùng tu. Hiện vật giá
trị nhất có niên đại thời kỳ Lê - Trịnh là văn bia
triều Lê Vĩnh Tộ (1657). Nội dung bia viết là từ
ngày 7 tháng 2 năm Giáp Tí (1624) khởi công
đại trùng tu xây dựng đền thờ Trần Quốc Bảo
và lệnh cấp tạo bia của Nguyên soái thông
quốc chính thanh đô vương Trịnh Tráng.
ĐỀN THỜ TRẦN QUỐC BẢO
ĐỀN THỜ TRẦN QUỐC BẢO
– HẢI PHÒNG
– HẢI PHÒNG
Ậ
Ậ Ỹ
Ỹ Ế
Ế
VĂN HÓA M THU T KI N TRÚC DÂN GIAN
VĂN HÓA M THU T KI N TRÚC DÂN GIAN
THỜI LÊ - TRỊNH ĐÃ ĐẠT TỚI ĐỈNH CAO
THỜI LÊ - TRỊNH ĐÃ ĐẠT TỚI ĐỈNH CAO
ậ ế
ộ ố
ứ
ờ
ấ
ỹ
ị
Nghiên c u m t s công trình m thu t ki n trúc th i Lê Tr nh ta th y:
Văn hóa dân gian được quan tâm và phát triển, Nhiều làng nghề hưng thịnh như làng
Văn hóa dân gian được quan tâm và phát triển, Nhiều làng nghề hưng thịnh như làng
chạm khắc gỗ; chạm bạc; gốm, dệt, tranh khắc... phát triển mạnh.
chạm khắc gỗ; chạm bạc; gốm, dệt, tranh khắc... phát triển mạnh.
Những ngôi đình ngày càng quan trọng, trở thành trung tâm chính trị, văn hoá, xã hội
Những ngôi đình ngày càng quan trọng, trở thành trung tâm chính trị, văn hoá, xã hội
của nhân dân.
của nhân dân.
Thế kỷ 16 và 17, kiến trúc, mỹ thuật phục vụ tín ngưỡng và tôn giáo ở đình, chùa,
Thế kỷ 16 và 17, kiến trúc, mỹ thuật phục vụ tín ngưỡng và tôn giáo ở đình, chùa,
miếu… có những thành tựu mới. Nghệ thuật điêu khắc gỗ phát triển ở đỉnh cao.
miếu… có những thành tựu mới. Nghệ thuật điêu khắc gỗ phát triển ở đỉnh cao.
Nhiều ngôi đình được xây dựng quy mô, có kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc dân gian
Nhiều ngôi đình được xây dựng quy mô, có kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc dân gian
độc đáo, tinh xảo (đình Chu Quyến - Sơn Tây; đình Bảng, đình Diềm - Bắc Ninh; đình
độc đáo, tinh xảo (đình Chu Quyến - Sơn Tây; đình Bảng, đình Diềm - Bắc Ninh; đình
Thổ Hà, đình Phụ Lão – Bắc Giang, đình Thổ Tang - Vĩnh Phúc, đình Hàng Kênh, đình
Thổ Hà, đình Phụ Lão – Bắc Giang, đình Thổ Tang - Vĩnh Phúc, đình Hàng Kênh, đình
Kiền Bái – Hải Phòng…) với những đường nét chạm trổ tinh tế, miêu tả thiên nhiên và
Kiền Bái – Hải Phòng…) với những đường nét chạm trổ tinh tế, miêu tả thiên nhiên và
đời sống sinh hoạt của nhân dân.
đời sống sinh hoạt của nhân dân.
Khá nhiều chùa, đền, miếu… được xây mới hoặc đại trùng tu như chùa Keo- Thái Bình;
Khá nhiều chùa, đền, miếu… được xây mới hoặc đại trùng tu như chùa Keo- Thái Bình;
chùa Bút Tháp, chùa Nành – Bắc Ninh; chùa Đậu, chùa Thây – Hà Tây; chùa Chuông –
chùa Bút Tháp, chùa Nành – Bắc Ninh; chùa Đậu, chùa Thây – Hà Tây; chùa Chuông –
Hưng Yên; Đền Phú Đa – Vĩnh Phúc; đền Gióng – Phù Đổng, Bắc Ninh… là niềm tự hào
Hưng Yên; Đền Phú Đa – Vĩnh Phúc; đền Gióng – Phù Đổng, Bắc Ninh… là niềm tự hào
cho kiến trúc mỹ thuật chạm khắc gỗ dân gian Việt Nam.
cho kiến trúc mỹ thuật chạm khắc gỗ dân gian Việt Nam.
Ẫ
Ả
Ệ
TÀI LI U D N VÀ THAM KH O
1.
2.
Trần Trọng Kim, “Việt Nam sử lược”- NXB Văn hóa thông tin 1999,
trang 281-392,
“Tổng luận về 2 thế kỷ Lê - Trịnh ở Thăng Long” – Web:
http://www.myhanoigroup.com/
3. Viện Sử học, “Nghiên cứu Lịch sử- kỷ niệm 700 năm chiến thắng
Bạch Đằng”- số 3,4-1988, Tòa soan tạp chí NCLS, trang 95, 96
4. Lê Văn Hảo, “Thời Trịnh - Lê Mạt (1592-1788) ” -
Web:chimviet.free.fr/dantochoc/vnvanhien/
5. Web: http://lichsuvn.info/
6. Web: http://dongtac.net/
XIN TRÂN TRỌNG CÁM ƠN QUÝ VỊ
ĐÃ CHÚ Ý LẮNG NGHE!
Đồng Thị Hoàn
Đồng Thị Hoàn