Đề cương mỹ học
Câu 1: Đối tượng của mỹ học là gì? Các dạng biểu hiện của đời sống thẩm mỹ
Mỹ học một ngành khoa học nghiên cứu về cái đẹp cảm thụ cái đẹp trong tự nhiên, hội nghệ
thuật. Nó khám phá mối quan hệ giữa con người với cái đẹp các quy luật hình thành, phát triển của các hiện
tượng thẩm mỹ. Từ đó, mỹ học góp phần nâng cao đời sống tinh thần và trình độ thẩm mỹ của con người.
Đối tượng nghiên cứu của mỹ học toàn bộ đời sống của con người, bao gồm các giá trị, quan hệ hoạt
động liên quan đến cái đẹp, cái cao cả, cái bi, cái hài,… trong tự nhiên, đời sống hội nghệ thuật. Không
chỉ dừng lại việc nghiên cứu tác phẩm nghệ thuật, mỹ học còn nghiên cứu hành vi sáng tạo, tiếp nhận, đánh
giá và biểu hiện cái đẹp trong mọi mặt của đời sống.
Các dạng biểu hiện của đời sống thẩm mỹ rất đa dạng và phong phú, có thể kể đến:
- Cái đẹp trong tự nhiên: như vẻ đẹp của hoa lá, núi rừng, biển cả…
- Cái đẹp trong xã hội: như vẻ đẹp trong lối sống, hành vi, đạo đức, quan hệ giữa người với người
- Cái đẹp trong lao động sản xuất: ví dụ như sự khéo léo trong thủ công, kỹ thuật chế tác
- Cái đẹp trong nghệ thuật: được thể hiện tập trung, tinh luyện và có giá trị thẩm mỹ cao
- Hoạt động sáng tạo thưởng thức cái đẹp: đời sống thẩm mỹ còn thể hiện qua thị hiếu, phong cách,
nhu cầu và khả năng cảm thụ thẩm mỹ của từng cá nhân, từng cộng đồng.
Việc nhận thức đối tượng các biểu hiện của đời sống thẩm mỹ giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về vai
trò của cái đẹp trong đời sống tinh thần, từ đó biết cách trân trọng, sáng tạo phát triển các giá trị thẩm mỹ.
Ứng dụng trong giáo dục thẩm mỹ, mỹ học góp phần hình thành nhân cách, thị hiếu, lối sống văn minh cho con
người
Câu 2: Mối quan hệ của mỹ học với các khoa học khác. Lấy ví dụ cụ thể với nghệ thuật học
Mỹ học là một ngành khoa học có tính liên ngành cao. Trong quá trình nghiên cứu cái đẹp và đời sống thẩm
mỹ, mỹ học không thể tách rời khỏi các lĩnh vực khoa học khác như triết học, nghệ thuật học, tâm lý học, xã hội
học… Sự liên hệ này tạo điều kiện để mỹ học phát triển toàn diện hơn và áp dụng hiệu quả trong nhiều lĩnh vực
Mỹ học có mỗi quan hệ chặt chẽ với nhiều ngành khoa học:
- Với triết học, mỹ học được xem một ngành của triết học, nghiên cứu các phạm trù thẩm mỹ (như cái
đẹp, cái bi, cái hài…) trong mối quan hệ giữa con người và hiện thực.
- Với tâm lý học, mỹ học phân tích cảm xúc thẩm mỹ, nhu cầu và thị hiêu thẩm mỹ của con người
- Với hội học, mỹ học nghiên cứu vai trò của cái đẹp trong đời sống cộng đồng, gắn với các thiết chế
xã hội, chuẩn mực văn hóa.
- Với nghệ thuật học, mỹ học và nghệ thuật học có mỗi quan hệ tương hỗ. Nếu nghệ thuật học chuyên sâu
vào phân tích từng loại hình nghệ thuật (như văn học, hội hoa, âm nhạc…) thì mỹ học cung cấp cơ sở
luận chung về cái đẹp, tiêu chuẩn thẩm mỹ, giúp soi sáng và định hướng cho nghệ thuật học
Chẳng hạn, khi nghiên cứu một tác phẩm hội họa, nghệ thuật học sẽ chú trọng phân tích về chất liệu, phong
cách, kỹ thuật tạo hình, lịch sử phát triển… . Trong khi đó, mỹ học sẽ tập trung khám phá giá trị thẩm mỹ, cảm
xúc mà bức tranh mang lại, mối quan hệ giữa hình thức và nội dung, giữa người sáng tạo và người thưởng thức.
Hai ngành này kết hợp sẽ giúp ta hiểu sâu sắc hơn về bản chất của tác phẩm nghệ thuật và tác động của nó đến
đời sống tinh thần.
Mối quan hệ của mỹ học với các ngành khoa học khác, đặc biệt nghệ thuật học, ý nghĩa rất lớn trong
việc phát triển tư duy thẩm mỹ toàn diện. Nhờ đó, mỹ học không chỉ alf lý thuyết suông mà còn trở thành công
cụ thiết thực để nâng cao chất lượng giáo dục, sáng tạo nghệ thuật, và đời sống văn hóa xã hội nói chung.
Câu 3: Mô hình phổ quát của khách thể thẩm mỹ.
Trong mỹ học, việc nghiên cứu khách thể thẩm mỹ giữ vai trò quan trọng trong việc lý giải bản chất của cái
đẹp và quá trình cảm thụ thẩm mỹ. Khách thể thẩm mỹ là một phạm trì trung tâm, dùng để chỉ tất cả những đối
tượng hiện thực (hoặc tưởng tượng) mang trong mình khả năng gợi lên cảm xúc thẩm mỹ, tạo ra sự rung cảm,
thích thú, suy tưởng ở con người. Để hiểu rõ hơn về cấu trúc và đặc điểm của khách thể thẩm mỹ, mô hình phổ
quát của khách thể thẩm mỹ được xây dựng nhằm phản ánh đầy đủ các yếu tố mối quan hệ trong quá trình
thẩm mỹ.
Khái niệm khách thể thẩm mỹ
Khách thể thẩm mỹ là hiện tượng hoặc sự vật trong tự nhiên, xã hội, hay nghệ thuật, vốn tồn tại khách quan
và có khả năng gợi ra cảm xúc thẩm mỹ cho chủ thể. Nó không nhất thiết phải đẹp theo chuẩn mực cố định, mà
quan trọng là nó gợi được cảm xúc thẩm mỹ, dẫn đến sự chiêm nghiệm, rung động nơi người tiếp nhận
Mô hình phổ quát của khách thể thẩm mỹ
- Khách thể vật chất (đối tượng tồn tại khách quan):
Đây tầng bản nhất, bao gồm sự vật, hiện tượng trong tự nhiên hoặc hội như một bông hoa, một
khuôn mặt, một hành động, một tác phẩm nghệ thuật… nền tảng vậ thực thể thể cảm nhận được
bằng các giác quan
- Khách thể biểu tượng (hình ảnh thẩm mỹ):
sự chuyển hóa của khách thể vật chất thành hình tượng mang giá trị thẩm mỹ thông qua cảm nhận chủ
quan. dụ, một bức tranh không chỉ sự kết hợp của màu sắc đường nét, còn mang giá trị biểu tượng:
gợi lên tình yêu, nỗi nhớm khát vọng, triết lý sống… Tầng này phản ánh ý nghĩa và biểu cảm của khách thể
- Khách thể giá trị (ý nghĩa thẩm mỹ):
Đây là cấp độ cao nhất, thể hiện giá trị văn hóa, nhân văn, đạo đức hay tinh thần mà khách thể truyền tải.
dụ, một tượng đài chiến thắng không chỉ tác phẩm điêu khắc (vật chất), còn biểu tượng của lòng yêu
nước, hy sinh và khát vọng tự do. Cấp độ này là trái tim của khách thể thẩm mỹ - nơi mà nội dung thẩm mỹ đạt
tới chiều sâu tư tưởng
Mối quan hệ với chủ thể thẩm mỹ
Khách thể thẩm mỹ chỉ thực sự phát huy giá trị khi có sự tương tác với chủ thể thẩm mỹ - người tiếp nhận.
Mỗi người với bối cảnh văn hóa, kinh nghiệm cảm xúc riêng sẽ tiếp nhận khách thể theo những cách khác
nhau. Do đó, khách thể thẩm mỹ là một phạm trù động, không tĩnh tại, và luôn biến đổi tùy thuộc vào góc nhìn
và cảm thụ của chủ thể.
hình phổ quát củ khách thể thẩm mỹcông cụ hữu hiệu giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về cấu trúc và
giá trị của cái đẹp trong đời sống nghệ thuật. Việc phân tích khách thể qua ba cấp độ - vật chất, biểu tượng,
và giá trị - giúp người học, người sáng tạo và người thưởng thức nghệ thuật nắm bắt được bản chất của quá trình
cảm thụ thẩm mỹ. Ứng dụng hình này trong thực tiễn góp phần nâng cao năng lực thẩm mỹ, phát triển
duy nghệ thuật và làm giàu đời sống tinh thần của con người.
Câu 4: Khái niệm cái hài? Nêu các đặc trung cơ bản của cái hài? Cho ví dụ minh họa
Trong đời sống thẩm mỹ, con người không chỉ hướng đến cái đẹp, cái cao cả hay cái bi, còn đặc biệt
quan tâm đến cái hài một phạm trù thẩm mỹ mang tính chất đặc biệt, phản ánh mối quan hệ phức tạp giữa
hiện thực cảm xúc. Cái hài thường gắn liền với tiếng cười, nhưng không đơn giản chỉ gây cười; mang
nội dung phản biện, phê phán hoặc thể hiện sự trào lộng, châm biếm, góp phần tạo ra giá trị nhận thức giáo
dục thẩm mỹ sâu sắc
Khái niệm cái hài
Cái hài một phạm trù thẩm mỹ đặc thì, phản ánh những mặt mâu thuẫn, bất hợp lý, phi logic trong đời
sống, nhưng được thể hiện bằng hình thức nhẹ nhàng, gây cười, giải tỏa.
Khác với cái đẹp vốn tạo ra sự hài hòa, cái hài nảy sinh từ sự bất cân xứng, sự đối lập giữa hình thức và nội
dung, hoặc giữa kỳ vọng và thực tế.
Tiếng cười cái hài tạo ra không chỉ để giải trí, còn mang nội hàm phê phán, lật tẩy, hoặc giễu nhại
những điều giả dối, lỗi thời, phi lý trong xã hội
Các đặc trung cơ bản của cái hài
- Tính mâu thuẫn
Cái hài luôn phát sinh từ mâu thuẫn nội tại giữa hình thức nội dung, giữa cái nên cái đang có,
giữa cái cao cả và cái tầm thường. Chính sự trái khoáy, không tương xứng này tạo ra hiệu ứng gây cười
- Tính nhận thức và phê phán xã hội
Tiếng cười không đơn thuần để mua vui, nhằm vạch trần cái sai, cái xấu, cái phi lý, từ đó nâng cao ý
thức thị hiếu thẩm mỹ của công chúng. Đặc biệt trong nghệ thuật, cái hàithể trở thành công cụ phê phán
xã hội sắc bén (hài châm biếm, biếm họa)
- Tính nhân văn và giáo dục
Cái hài không nhằm hạ thấp con người thường mang tính chất sửa sai, thức tỉnh, bao dung, giúp con
người tự nhìn lại mình, từ đó tiến bộ hơn. Cái hài nhân văn không gây tổn thương mang đến cảm giác nhẹ
nhàng, vui vẻ, dễ tiếp nhận
- Tính giải tỏa và thư giãn
Tiếng cười từ cái hài giúp con người giải tỏa căng thẳng, áp lực tinh thần. Trong bối cảnhhội nhiều mâu
thuẫn, cái hài đóng vai trò như một “liều thuốc tinh thần”
Ví dụ
Một tiểu phẩm hài nổi tiếng của nghệ sĩ Xuân Hinh – “Người ngựa, ngựa người” – kể về một anh chàng làm
nghề kéo xe thuê, luôn mộng làm quan nhưng lại lười biếng, dốt nát, nói chuyện trống rỗng, sáo rỗng như
một quan chức giả hiệu
Về mặt hình thức, người xem bật cười những lời nói “văn vẻ nhưng nghĩa”, trang phục lố bịch, hành
động khoe khoang không đúng chỗ. Đây là sự lệch pha giữa hình thức và nội dung, tạo nên tính hài.
Về nội dung, tiểu phẩm phê phán sâu sắc những người tưởng “ăn không ngồi rồi”, sống bằng ảo
tưởng, hay những kẻ “giả danh trí thức”, học không đến nơi nhưng thích làm sang
Đồng thời, cái hài ở đây không phải làm người ta căm ghét, mà lại gợi nên sự thức tỉnh nhẹ nhàng, bởi nhân
vật chính tuy đáng chê những vẫn rất “người”, rất gần gũi và đáng thương
Qua đó, có thể thấy rằng cái hài không chỉ mang tính giải trícòn là phương tiện nhận thức hiện thực
cảm hóa con người
Cái hài một phạm trù thẩm mỹ độc đáo, thể hiện sức mạnh ngôn ngữtrí tuệ con người trong việc tiếp
cận, xử các nghịch hội một cách nhẹ nhàng, sâu sắc. Việc vận dụng cái hài trong nghệ thuật, truyền
thông, giáo dục góp phần làm cho đời sống tinh thần phong phú hơn, giúp con người biết cười đúng lúc, hiểu
đúng vấn đề, và sống có chiều sâu văn hóa hơn
Câu 5: Phân tích các đặc trưng thẩm bản của cái hài được thể hiện cụ thể qua hình tượng
Acpagong trong kịch bản Lão hà tiện, hình tượng Giuốc Đanh trong Trưởng giả học làm sang của Molie?
Cái hài một phạm trù thẩm mỹ phản ánh những mâu thuẫn, nghịch trong cuộc sống, nhưng được thể
hiện thông qua hình thức gây cười, giễu nhại, giúp người xem nhận thức phê phán hiện thực hội. Trong
nghệ thuật sân khấu, Moliere nhà viết kịch đại của Pháp thế kỷ XVII đã xây dựng nhiều hình tượng hài
kịch đặc sắc, tiêu biểu Acpagong (Harpapon) trong “Lão tiện” Giuốc Đanh (Monsieur Jourdain) trong
“Trưởng giả học làm sang. Thông qua hai nhân vật này, những đặc trưng thẩm mỹ của cái hài được thể hiện một
cách rõ nét và đặc sắc
Đặc trưng “tính mâu thuẫn” – giữa hình thức và nội dung, lời nói và hành động
Acpagong là một ông lão giàu có nhưng cực kỳ keo kiệt, đến mức bệnh hoạn. Mâu thuẫn nằm ở chỗ: ông ta
tiền, nhưng lại sống như một kẻ nghèo khổ, thậm chí sẵn sàng hy sinh tình cảm gia đình để giữ tiền. Việc
một người cha “bán” con để lấy tiền hồi môn, hay lục lọi bếp múc để tìm dấu vết của “kẻ trộm nồi” khiến khán
giả vừa bật cười vừa phẫn nộ.
Giuốc Đanh thì ngược lại: ông là một người trưởng giả giàu lên nhờ buôn bán, nhưng lại muốn làm quý tộc.
Mâu thuẫn giữa vị trí xã hội thực sự (một thương gia phàm tục) và mong muốn hão huyền (được là quý ông quý
tộc) khiến ông trở thành trò cười. Cách ông học triết học, kiếm thuật, âm nhạc… đầy vụng về khoa trương
tạo nên tiếng cười trào phúng sâu cay
Đặc trưng “tính phê phán xã hội” – hài kịch như một công cụ vạch trần hiện thực
Acpagong là biểu tượng của giai cấpsản keo kiệt, đầy tham lam và vô nhân đạo, sẵn sàng hy sinh cả đạo
đức để bảo vệ tiền bạc. Nhân vật này không chỉ đáng cười mà còn đáng ghét, ông ta đại diện cho sự tha hóa
đạo đức do ám ảnh vật chất
Giuốc Đanh thì phê phán một kiểu người trưởng giả học làm sang, những kẻ tiền nhưng quáng chạy
theo địa vị, bị giới quý tộc lợi dụng lừa gạt. Moliere giễu cợt những người muốn trèo cao nhưng thiếu nền
tảng văn hóa và trí tuệ, tạo nên một hình tượng bi hài: vừa đáng cười, vừa đáng thương
Đặc trưng “tính nhân văn – tính bao dung và thức tỉnh”
Mặc Acpagong là nhân vật tiêu cực, nhưng cái hài ông không mang tính triệt tiêu. Người xem cười để
nhận ra sự thái quá, từ đó biết tiết chế lòng tham, đề cao tình cảm gia đình, đạo lý
Giuốc Đanh nhân vật dễ gây thiện cảm hơn. Người xem bật cười trước sự ngu dốt nhưng hồn nhiên của
ông. Cái hài trong nhân vật Giuốc Đanh không châm biếm cay độc, mà mang tính chất nhắc nhở nhẹ nhàng: nếu
không có tri thức, không có nhân cách, thì giàu có cũng chỉ khiến người ta trở thành trò cười
Đặc trưng “tính giải trí và thư giãn”
Cả hai vở kịch đều khai thác tối đa tình huống gây cười: đối thoại ngây ngô, hành động phi lý, sự trùng hợp
trớ trêu, tính cách cực đoan… khiến người xem được thư giãn. Nhưng tiếng cười ở đây không đơn thuần là mua
vui, mà ẩn chứa những thông điệp xã hội sâu sắc.
Thông qua hai hình tượng Acpagong và Giuốc Đanh, Moliere đã thể hiện rõ bản chấy và chức năng của cái
hài trong nghệ thuật: không chỉ để gây cười mà còn để phê phán, giáo dục, và làm con người tỉnh thức. cái hài
giúp vạch trần những thói tật xấu của hội đương thời, đồng thời thể hiện cái nhìn nhân văn, vị tha của
nghệ sĩ chân chính. Việc khai thác hiệu quả đặc trưng thẩm mỹ của cái hài đã khiến các tác phẩm của Moliere
trở thành kiệt tác kịch nói châu Âu, có giá trị vượt thời gian.
Câu 6: Khái niệm cái đẹp? Bản chất của cái đẹp?
Trong đời sống thẩm mỹ nghệ thuật, cái đẹp một phạm trù trung tâm, đồng thời cũng đối tượng
nghiên cứu cơ bản của mỹ học. Từ xa xưa đến nay, con người không ngừng đi tìm cái đẹp, sáng tạo và cảm thụ
dười nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, cái đẹp không phải một khái niệm tuyệt đối, mang tính
lịch sử, văn hóa, xã hội và chủ quan
Khái niệm cái đẹp
Cái đẹp là sự thống nhất hài hòa giữa nội dung và hình thức, giữa lý trí và cảm xúc, giữa cái phổ quát và cái
cá biệt, trong một chỉnh thể mang lại sự thỏa mãn thẩm mỹ cho con người.
Nói cách khác, cái đẹp là sự biểu hiện của sự hoàn hảo, hài hòa và hợp lý, khiến người cảm thụ có cảm giác
dễ chịu, rung động, say mê, yêu thích
dụ: một bức tranh sơn dầu tả cánh đồng lúa vàng dưới ánh nắng chiều không chỉ đẹp màu sắc hài
hòa, bố cục cân đối, còn đẹp chỗ gợi cảm xúc thanh bình, sự gắn với quê hương. Như vậy, cái đẹp
nằm ở cả hình thức thị giác và nội dung biểu cảm
Bản chất của cái đẹp
- Cái đẹp là một giá trị thẩm mỹ
Khác với cái đúng (giá trị nhận thức), cái tốt (giá trị đạo đức), cái đẹp là giá trị đặc thù gắn với cảm xúc
cảm nhận thẩm mỹ. Con người hướng tới cái đẹp vì nhu cầu tinh thần, vì sự hoàn thiện và hài hòa
- Cái đẹp là sự thống nhất giữa nội dung và hình thức
Một hiện tượng chỉ đẹp khi nội dung mang ý nghĩa tích cực, nhân văn, hình thức biểu hiện tương xứng,
phù hợp. Nếu hình thức đẹp nhưng nội dung tầm thường, hoặc ngược lại, thì không tạo nên cái đẹp trọn vẹn
dụ: Một con người có ngoại hình đẹp nhưng nhân cách xấu sẽ không được coi “đẹp” theo nghĩa thẩm
mỹ toàn diện
- Cái đẹp mang tính khách quan – chủ quan
Cái đẹp tồn tại khách quan ở hiện thực – trong tự nhiên, xã hội, nghệ thuật, nhưng việc cảm nhận cái đẹp lại
mang tính chủ quan, tùy thuộc vào trình độ thẩm mỹ, văn hóa, tâm lý của từng cá nhân hay cộng đồng
dụ: Một bức tranh trừu tượng thể rất đẹp với người yêu nghệ thuật hiện đại, nhưng lại bị coi “vô
nghĩa” với người chưa quen tiếp nhận loại hình này