intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt - Lý luận và thực tiễn - ĐH Luật TP. HCM

Chia sẻ: Nguyễn Thị Minh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:46

193
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài: "Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt - Lý luận và thực tiễn" trình bày 3 vấn đề lớn về mặt pháp luật đã có những qui định như thế nào để bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, thứ hai về mặt thực tiễn làm rõ thực trạng và việc việc bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt như thế nào, cuối cùng đưa ra các kiến nghị khắc phục những bất cập nhằm bảo vệ trẻ em tốt hơn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt - Lý luận và thực tiễn - ĐH Luật TP. HCM

  1. 1 TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH ------oOo----- CÔNG TRÌNH DỰ THI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN CẤP TRƯỜNG Lần thứ XIII Năm học 2008-2009 TÊN CÔNG TRÌNH : TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN THUỘC NHÓM NGÀNH : KHOA HỌC PHÁP LÝ Họ tên tác giả, nhóm tác giả : Nam/Nữ : Mã số SV: Năm thứ: 1. NGUYỄN THỊ MỸ DUNG NỮ 3160035 3 2. BÙI ĐOÀN DANH THẢO NỮ 3160148 3 3. NGUYỄN THỊ KIM THANH NỮ 3160154 3 Trưởng nhóm: Lớp : B Khoá : 31 Khoa: QUỐC TẾ Người hướng dẫn : Ths NGUYỄN THỊ YÊN
  2. 2 NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CẤP KHOA Tên đề tài : TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Tên tác giả : 1. NGUYỄN THỊ MỸ DUNG 2. BÙI ĐOÀN DANH THẢO 3. NGUYỄN THỊ KIM THANH I. HÌNH THỨC : ............................................................................................................................................................. ............................................................................................................................................................. ............................................................................................................................................................. ............................................................................................................................................................. II. PHƯƠNG PHÁP THU THẬP, XỬ LÝ THÔNG TIN: ............................................................................................................................................................. ............................................................................................................................................................. ............................................................................................................................................................. ............................................................................................................................................................. III. NỘI DUNG KHOA HỌC : ............................................................................................................................................................. ............................................................................................................................................................. ............................................................................................................................................................. ............................................................................................................................................................. IV. TÍNH THỰC TIỄN, TÍNH KHẢ THI CỦA ĐỀ TÀI: ............................................................................................................................................................. ............................................................................................................................................................. ............................................................................................................................................................. ............................................................................................................................................................. ĐIỂM SỐ : XẾP LOẠI : TRƯỞNG KHOA LỜI MỞ ĐẦU
  3. 3 Trẻ em, đối tượng cần được quan tâm đặc biệt do sự non nớt về mặt thể chất và tinh thần, chúng cần được sự bảo vệ của những người trong gia đình và xã hội. Bên cạnh đó trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt còn có nhiều thiệt thòi hơn vì chúng có khuyết tật về mặt thể chất và tinh thần so với trẻ em cùng lứa tuổi khác, chính vì điều đó chúng cần được sự quan tâm đặc biệt hơn. Những năm gần đây đã có nhiều tác phẩm nghiên cứu khoa học về quyền trẻ em, trong những tác phẩm này cũng có một phần nào đó đề cập đến trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nhưng chưa sâu. Nhận thức được trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là đối tượng cần được sự quan tâm, chăm sóc đặc biệt hơn và thực trạng về việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt vẫn còn nhiều bất cập nên nhóm tác giả chúng tôi đã thực hiện công trình nghiên cứu này. Bằng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh chúng tôi muốn làm rõ thực trạng chăm sóc, bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tại Việt Nam so với qui định của pháp luật việt nam, và tinh thần của công ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam là thành viên đã thực sự đạt được những kết quả như luật qui định, hướng tới không?. Và qua bất cập mà Việt Nam còn vướng chúng tôi dựa vào thực tiễn, các qui định của pháp luật hiện hành, tình hình chính trị - kinh tế - xã hội của đất nước và kết hợp với việc tham khảo một số cách bảo vệ trẻ em đã đạt được kết quả cao ở một số nước để đưa ra một vài kiến nghị nhằm bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được tốt hơn, hạn chế những bất cập đang gặp phải. Trong bài viết này chúng tôi trình bày 3 vấn đề lớn về mặt pháp luật đã có những qui định như thế nào để bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, thứ hai về mặt thực tiễn chúng tôi làm rõ thực trạng và việc việc bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt như thế nào, cuối cùng đưa ra các kiến nghị khắc phục những bất cập nhằm bảo vệ trẻ em tốt hơn.
  4. 4 Chương I : CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ BẢO VỆ TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT I/. ĐỊNH NGHĨA 1. Khái niệm - Theo công ước về quyền trẻ em : “ trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có nghĩa là những người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em có qui định tuổi thành niên sớm hơn” - Pháp luật Việt Nam chưa có các qui định thống nhất về khái niệm trẻ em trong từng ngành luật cụ thể. Theo Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2005 của Việt Nam : “trẻ em qui định trong luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Theo BLDS 2005 thì trẻ em là những người dưới 15 tuổi…. - Theo pháp luật liên bang của Hoa kỳ thì “trẻ em là người dưới 18 tuổi” Nhìn chung mỗi nước có qui định khác nhau về độ tuổi để được coi là trẻ em. Việc qui định độ tuổi ở mỗi quốc gia phụ thuộc vào sự phát triển về thể chất, tâm sinh lý của trẻ em ở mỗi quốc gia. Do đó có những quốc gia qui định độ tuổi thành niên sớm hơn hoặc trể hơn 18 tuổi như được xác định trong công ước về quyền trẻ em. Tuy độ tuổi được coi là trẻ em ở mỗi quốc gia khác nhau nhưng nhìn chung trẻ em ở tất cả các quốc gia đều có các đặc điểm sau: - Thể chất và trí tuệ chưa trưởng thành. - Cần có sự chăm sóc, giáo dục của gia đình, nhà trường, xã hội cả về mặt pháp lý. Ngoài ra trong các qui phạm pháp luật Việt Nam còn xuất hiện các khái niệm “người thành niên”, “người chưa thành niên”. Như vậy vấn đề đặt ra là phân biệt giữa các khái niệm trên và khái niệm “trẻ em”. Theo pháp luật Việt Nam: - Người thành niên: là người trên 18 tuổi - Người chưa thành niên: là người dưới 18 tuổi Như vậy khái niệm người chưa thành niên rộng hơn khái niệm về trẻ em, người chưa thành niên bao gồm cả trẻ em và những người từ 16 tuổi đến 18 tuổi. 2. Phân biệt trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt với trẻ em bình thường Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh không bình thường về thể chất và tinh thần, không đủ điều kiện để thực hiện quyền cơ bản và hòa nhập với gia đình và cộng đồng (k1 Đ4 luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2005). Từ định nghĩa trên ta có thể thấy trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt có những đặc điểm sau: - Thể chất và tinh thần không bình thường: đó là các trẻ em có khuyết tật về thể chất, tinh thần. - Không đủ điều kiện thực hiện quyền cơ bản và hòa nhập với gia đình và cộng đồng. Từ những đặc điểm trên chúng ta có thể phân biệt trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt với trẻ em bình thường. 3. Phân loại Căn cứ vào hoàn cảnh của trẻ em ở Việt nam mà có thể chia trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt thành các nhóm sau:
  5. 5 - Trẻ em mồ côi, không nơi nương tựa, bị bỏ rơi. - Trẻ em khuyết tật, tàn tật. - Trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học. - Trẻ em nhiễm HIV/AIDS. - Trẻ em lao động sớm. - Trẻ em lang thang. - Trẻ em bị xâm hại tình dục. - Trẻ em nghiện ma túy. - Trẻ em vi phạm pháp luật. II/. NHỮNG QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT 1. Trẻ em mồ côi, không nơi nương tựa 1.1 Pháp luật quốc tế Cơ sở pháp lý: Điều 20 và 21 Công ước quốc tế về quyền trẻ em . Nội dung: Việc xếp trẻ em mồ côi, không nơi nương tựa, bị bỏ rơi vào một nhóm là vì đặc điểm của nhóm trẻ em này là không có bố mẹ hoặc vì lý do nào đó không được sống cùng bố mẹ: “Trẻ em tạm thời hoặc hoàn toàn không được sống trong môi trường gia đình hoặc vì lý do ảnh hưởng đến lợi ích của một cá nhân không được quyền tiếp tục sống trong môi trường gia đình sẽ có quyền được nhận sự trợ giúp và bảo vệ đặc biệt của Nhà nước” (k1 Đ 20 Công ước về quyền trẻ em) Nguyên nhân khiến trẻ em mồ côi, không nơi nương, bị bỏ rơi tựa là do cha mẹ chết trong tai nạn, bệnh tật, chết trong thiên tai, chiến tranh hay mất tích trong các vụ thiên tai, lũ lụt, hay cha mẹ vì lý do nào đó không nuôi dưỡng chúng, vứt bỏ chúng, hoặc bị thất lạc…. Theo điều 20 qui định, “Các nhà nước thành viên tùy theo luật pháp của quốc gia mình đảm bảo việc chăm sóc bảo vệ cho những trẻ em như vậy.” Tại khoản 3 của điều 20 cũng đưa ra các phương thức giúp đỡ đối với nhóm trẻ em này: “Việc chăm sóc trẻ em bao gồm các hình thức trong đó có hình thức nuôi dưỡng kafalah theo luật pháp của đạo Hồi, nhận làm con nuôi hoặc nếu cần thiết đưa vào các trung tâm chăm sóc trẻ em thích hợp. Trong quá trình xem xét lựa chọn phương án, cần phải tính đến nguyện vọng được giáo dục, dạy dỗ lien tục và cơ sở nền tảng về ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo và dân tộc của trẻ em”. Một trong những phương thức giúp đỡ hữu hiệu đối với nhóm trẻ em này việc cho nhận con nuôi và điều đó đã được Điều 21 của Công ước đã điều chỉnh bằng cách quy định thẩm quyền cho phép nhận con nuôi, điều kiện mà người nhận con nuôi phải tuân thủ… 1.2 Pháp luật Việt Nam Cơ sở pháp lý: Trẻ em mồ côi không nơi nương tựa được quy định tại điều 51 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, điều 65 Hiến pháp 1992. Nội Dung: Tại điều 51 Luật bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em nói về việc giáo dục, chăm sóc nhóm trẻ em mồ côi, không nơi nương tựa với nội dung như sau:
  6. 6 1. Trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi được Uỷ ban nhân dân địa phương giúp đỡ để có gia đình thay thế hoặc tổ chức chăm sóc, nuôi dưỡng tại các cơ sở trợ giúp trẻ em công lập, ngoài công lập. 2. Nhà nước khuyến khích gia đình, cá nhân nhận nuôi con nuôi; cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận đỡ đầu, nhận chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi. 3. Nhà nước có chính sách trợ giúp gia đình, cá nhân hoặc cơ sở trợ giúp trẻ em ngoài công lập nhận chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi. Quy định trên đã thể hiện sự quan tâm của Nhà nước Việt Nam đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nêu trên. Luật đã quy định cụ thể cơ quan có trách nhiệm trong việc giúp đỡ trẻ em tìm nơi nương tựa. Bên cạnh đó, Nhà nước còn có các chính sách trợ giúp các cơ sở chăm sóc trẻ em nhằm mục đích bảo đảm cho nhóm trẻ em này được chăm sóc, giáo dục với những điều kiện tốt nhất. Như vậy Việt Nam đã nội luật hóa các qui định pháp luật của luật quốc tế. 2. Trẻ em lang thang Trẻ lang thang là trẻ em rời bỏ gia đình, tự kiếm sống, nơi kiếm sống và nơi cư trú không ổn định, trẻ em cùng với gia đình đi lang thang(k2 Đ3 luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2005). Đặc điểm trẻ lang thang : - Không sống cùng gia đình - Tự kiếm sống, nuôi sống bản thân. - Nơi cư trú và nơi kiếm sống không ổn định. Nhìn chung Trẻ lang thang là những đứa trẻ thích tự do, không chịu sống trong khuôn khổ, các em thường có tính phòng vệ cao, đôi khi hơi hung hãn. Tuy vậy, các em thường tỏ ra hào hiệp, tương trợ và thông cảm những người cùng cảnh ngộ. Các em có tính tự lập cao và biết cách tổ chức cho cuộc sống riêng của mình . Tâm lý chung của trẻ lang thang : Sự đổ vỡ, tổn thương về tinh thần và tình cảm là điều khó tránh khỏi đối với những trẻ lang thang bước ra từ một gia đình không hạnh phúc hay một sự xâm phạm nặng nề nào đó về tinh thần, thân thể. Cho nên khả năng tin tưởng vào chúng ta rất ít và luôn luôn tỏ ra nghi ngờ. Đó là một thực trạng nhức nhối của trẻ lang thang mà chúng ta đang phải đối mặt. Nhiều và rất nhiều trẻ lang thang ở mọi nơi, mọi hoàn cảnh, các em sẽ tự tìm đến nhau và tập họp thành một nhóm và hoạt động sai trái trong nhiều phạm vi. Trong tâm trạng tất cả đều bị tổn thương, các em sẽ suy nghỉ bi quan là chỉ có các em trong nhóm mới có thể hiểu và thông cảm được với nhau về nỗi đau đớn trong lòng chúng bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng trào sôi một cách mạnh mẽ không lối thoát. Do đó các em sẽ tìm cách lãng quên, thay thế những sự thật phủ phàng mà các em đã gặp phải qua những việc như : khói thuốc và lang bạt một cách ngông cuồng.Từ đó dẫn đến móc túi trấn lột, nghiện hút và tình trạng này cứ kéo dài triền miên nên không ít người trong xã hội nghĩ rằng các em đã mất đi bản tính con người. Và
  7. 7 chính điều đó trẻ em lang thang là một trong những đối tượng cần được sự quan tâm, bảo vệ đặc biệt của nhà nước. 2.1 Pháp luật quốc tế Cơ sở pháp lý: Điều 20 và 21 Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Nội dung: Trẻ em sẽ có quyền được nhận sự trợ giúp và bảo vệ của Nhà nước. Các quốc gia thành viên đảm bảo việc chăm sóc bảo vệ cho những trẻ em lang thang. Phương thức trợ giúp nhóm trẻ em này: nhận làm con nuôi hoặc đưa vào các trung tâm trợ giúp xã hội. 2.2 Pháp luật Việt Nam Cơ sở pháp Lý: Điều 55 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. 1. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi có trẻ em đến lang thang phối hợp với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi có trẻ em đi lang thang trong việc tổ chức, giúp đỡ đưa trẻ em trở về với gia đình; đối với trẻ em lang thang mà không còn nơi nương tựa thì được tổ chức chăm sóc, nuôi dưỡng tại gia đình thay thế hoặc cơ sở trợ giúp trẻ em; đối với trẻ em lang thang của hộ nghèo thì được ưu tiên, giúp đỡ để xoá đói, giảm nghèo. 2. Đối với trẻ em cùng gia đình đi lang thang thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi có trẻ em cùng gia đình đến lang thang có trách nhiệm yêu cầu và tạo điều kiện để gia đình lang thang định cư, ổn định cuộc sống và để trẻ em được hưởng các quyền của mình. 3. Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tạo điều kiện để trẻ em lang thang được sống trong môi trường an toàn, không rơi vào tệ nạn xã hội. Nội dung Qua các quy định tại điều này ta thấy rằng pháp luật Việt Nam đã thực hiện đúng tinh thần của Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Nhà nước đã quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan nhà nước (Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi có trẻ em đến lang thang phối hợp với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi có trẻ em đi lang thang) trong việc giúp đỡ, đưa các em về lại gia đình hoặc được chăm sóc tại các trung tâm bảo trợ trẻ em. Không chỉ dừng lại ở đó, Nhà nước còn có chính sách hỗ trợ đối với các trẻ em đi lang thang cùng với gia đình bằng cách : “Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi có trẻ em cùng gia đình đến lang thang có trách nhiệm yêu cầu và tạo điều kiện để gia đình lang thang định cư, ổn định cuộc sống và để trẻ em được hưởng các quyền của mình” và “trẻ em lang thang của hộ nghèo thì được ưu tiên, giúp đỡ để xoá đói, giảm nghèo”. Điều này cho thấy pháp luật Việt Nam đã có sự linh hoạt trong việc thực thi pháp luật. Các nhà làm luật đã căn cứ vào tình hình thực tiễn của xã hội Việt Nam để có những chính sách hỗ trợ trẻ em một cách thiết thực và hiệu quả nhất. Không chỉ giúp đỡ cá nhân trẻ em mà còn giúp đỡ gia đình của trẻ em đó ổn định cuộc sống. Cách làm này thể hiện tính nhân đạo của pháp luật, chỉ khi nào có một môi trường sống tốt bên cạnh cha mẹ thì trẻ em mới phát triển thể chất và nhân cách toàn diện nhất.
  8. 8 3. Trẻ em khuyết tật, tàn tật Trẻ khuyết tật, tàn tật là đối tượng thiệt thòi nhất trong số những trẻ em thiệt thòi. Trẻ khuyết tật thường được phân thành các nhóm sau: trẻ khiếm thính, trẻ khiếm thị, trẻ khó khăn về học, trẻ khó khăn về vận động, trẻ khó khăn về ngôn ngữ, trẻ đa tật và trẻ có các dạng khuyết tật khác. 3.1 Pháp luật quốc tế Cơ sở pháp lý: Điều 23 Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Nội dung: Trẻ em tàn tật về thể chất và tinh thần được hưởng cuộc sống đầy đủ và tốt đẹp. Các nhà nước công nhận quyền được chăm sóc đặc biệt của trẻ em, tùy điều kiện và giúp đỡ cho trẻ em, người chăm sóc trẻ em này tùy nguồn lực sẵn có. Công nhận nhu cầu đặc biệt của trẻ, sự trợ giúp bảo đảm sao cho trẻ hòa nhập xã hội một cách tối đa, phát triển về thể chất lẫn tinh thần. 3.2 Pháp luật Việt Nam Cơ sở pháp lý: Điều 15, 16, 17 và điều 52 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. -Quyết định số 23/2001/QĐ-TTg ngày 26 tháng 02 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình Hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010. -Quyết định số 65 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt đề án “Chăm sóc trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em tàn tật nặng, trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học và trẻ em nhiễm HIV/AIDS dựa vào cộng đồng giai đoạn 2005 – 2010. Nội dung: Trẻ em tàn tật được gia đình, Nhà nước và xã hội giúp đỡ, chăm sóc, được tạo điều kiện để sớm phát hiện bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng; được nhận vào các lớp học hoà nhập, lớp học dành cho trẻ em khuyết tật, tàn tật; được giúp đỡ học văn hoá, học nghề và tham gia hoạt động xã hội. Đối tượng trẻ em tàn tật nhưng có năng khiếu sẽ được nhận vào các trung tâm giáo dục năng khiếu tương ứng. Nhà nước có chính sách miễn giảm, trợ cấp học phí, miễn các khoản đóng góp cho nhà trường, có chính sách trợ cấp xã hội, cấp học bổng cho đối tượng trẻ em này. Các cá nhân, cơ quan tổ chức được Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện mở trường lớp, trung tâm dạy nghề dành cho trẻ em tàn tật. Qua các quy định pháp luật về trẻ em tàn tật, ta thấy Nhà nước đã có sự quan tâm bằng các chính sách thiết thực đến nhóm trẻ em này. Không chỉ giúp đỡ về vật chất, Nhà nước còn quan tâm đời sống tinh thần của trẻ, bù đắp những thiệt thòi cho các em. Điều này đã thể hiện tính nhân văn, nhân đạo của pháp luật Việt Nam.
  9. 9 4. Trẻ em bị xâm hại tình dục Trẻ em là những người chưa phát triển đầy đủ và toàn diện về mặt thể chất và trí tuệ. Do đó sẽ bị tổn hại về tinh thần và thể chất, ảnh hưởng đến quá trình phát triển toàn diện nếu chúng bị xâm hại tình dục, không những thế những tác động này còn ảnh hưởng lâu dài, trở thành nổi ám ảnh trong đầu trẻ đến cả khi trưởng thành.Chính vì điều đó mà trẻ em cần được chăm sóc đặc biệt hơn khi chúng bị rơi vào những hoàn cảnh đó. 4.1 theo công ước về quyền trẻ em Điều 34 có qui định: “ các quốc gia thành viên cam kết bảo vệ trẻ em chống mọi hình thức bóc lột tình dục và lạm dụng tình dục. Vì mục đích này, các quốc gia thành viên phải đặc biệt thực hiện mọi biện pháp thích hợp ở cấp quốc gia, song phương, và đa phương để ngăn ngừa: a. Việc xúi giục hay ép buộc trẻ em tham gia bất kỳ hoạt động tình dục trái phép nào b. Việc sử dụng có tính chất bóc lột trẻ em trong mại dâm hay các hoạt động tình dục trái pháp luật khác c. Việc sử dụng có tính chất bóc lột trẻ em trong các cuộc biểu diễn hay trong các tài liệu có tính chất khiêu dâm” Theo công ước này các quốc gia thành viên phải có trách nhiệm thực hiện mọi biện pháp thích hợp để chống bóc lột và lạm dụng tình dục trẻ em. Như vậy vấn đề đặt ra là cần phải làm rõ khái niệm bóc lột tình dục trẻ em và lạm dụng tình dục trẻ em. Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm lạm dụng tình dục trẻ em. Theo quan điểm của tác giả Daniel O’Doanel trong “Trẻ em cũng là những con người” thì lạm dụng tình dục là hình thức cưỡng bức một đứa trẻ có quan hệ tình dục với mình, hoặc có quan hệ tình dục với một đứa trẻ mà đối với nó là quá trẻ để có thể chấp nhận mối quan hệ đó, hay đứa trẻ đó chịu sự tác động hoặc kiểm soát của người lạm dụng nó. Nói tóm lại đó là sự tiếp xúc (tương tác) giữa đứa trẻ và người lớn Theo đó những hành vi như vuốt ve, mơn trớn quá đáng thậm chí không sử dụng vũ lực hay cưỡng bức, hoặc xem sách báo, tranh ảnh khiêu dâm, xem trẻ em khi chúng có quan hệ tình dục với nhau, chụp ảnh khoả thân hoặc nhìn các bộ phận sinh dục của trẻ em, hay nói chuyện tình dục với trẻ em mà không có lý do chính đáng, hoặc người lớn phô bày bộ phận sinh dục của mình, hay vuốt ve bộ phận sinh dục, tình dục bằng miệng, giao hợp hay bất cứ hình thức tiếp xúc sinh dục nào đều là những hành vi lạm dụng tình dục trẻ em. Các dấu hiệu và đặc điểm của trẻ em khi bị lạm dụng: - Bệnh về tình dục: những vấn đề ở cổ, ở miệng, đi tiêu khó, những sự xuất tinh, ra chất nhờn nhiều và có những vết bầm ở bộ phận sinh dục hoặc có sự có thai mà không cắt nghĩa được mà đương sự không muốn trao đổi. - Những hành vi biểu hiện bị lạm dụng: có một sự thay đổi nào đó ở đứa trẻ, trẻ đó có thể tự kép kín, rất hung hãn hay bị trầm cảm, thay đổi ứng xử với anh em, đứa trẻ có những hành vi về tình dục không thuộc lứa tuổi của nó, hay đột ngột thấy đứa trẻ sợ người đàn ông khác rờ vào nó. Trẻ không tỏ ra sợ hãi phải ở một mình
  10. 10 với một người nào đó hay không muốn thấy mặt một người đàn ông và có thể gợi cho chúng ta cảm thấy nó có một bí mật mà nó không muốn nói cho mình nghe, hay khi nhắc đến tên ai đó đột nhiên nó bỏ đi Bóc lột tình dục là việc sử dụng trẻ em trong các hoạt động mại dâm, sản xuất tranh ảnh, sách báo khiêu dâm, hoặc sử dụng trẻ em trong các bộ phim khiêu dâm. - Nguyên nhân trẻ em tham gia vào các hoạt động mại dâm trước tiên là do văn hóa thấp, bản thân bị ức chế về tâm lý, các em bị chính cha mẹ đưa đi bán trinh, bị người lớn dụ dỗ, sống trong môi trường có tệ nạn mại dâm. Ngoài ra một phần do các em bị bạn bè rủ rê, hay đua đòi có tiền ăn xài. Hay các quan niệm lỗi thời như “trọng nam khinh nữ”, “mại dâm với trẻ em an toàn, tránh bị AIDS”, giải quyết sinh lý với trẻ em sẽ gặp may mắn trong làm ăn cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc bóc lột tình dục trẻ em. Theo đó hậu quả của những hành vi này đó là trẻ em bị tổn thất nghiêm trọng về mặt tâm lý có thể suốt cuộc đời đặc biệt đối với người lạm dụng là những người thân thích với chúng vì chúng còn non nớt về thể chất và trí tuệ nên khả năng phục hồi thương tổn thể chất, đặc biệt là khả năng thoát khỏi khủng hoảng tinh thần là rất khó nếu không được tư vấn và điều trị kịp thời. Ngoài ra còn có thể bị nhiễm các căn bệnh truyền nhiễm. Chính vì điều này mà công ước về quyền trẻ em đã ràng buộc trách nhiệm cho các thành viên của công ước phải thực hiện các biện pháp để nhằm hạn chế tình trạng trên. Ở Việt Nam tình trạng trẻ em bị xâm hại tình dục đã tồn tại từ lâu và Việt Nam hiện nay là thành viên của công ước về quyền trẻ em do đó Việt Nam đã ban hành các qui phạm pháp luật nhằm bảo vệ trẻ em bị xâm hại tình dục phù hợp với tinh thần của công ước, nhằm giải quyết, hạn chế thực trạng trên. 4.2 theo pháp luật việt nam Theo Điều 56 luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2005 “1. Trẻ em bị xâm hại tình dục được gia đình, nhà nước và xã hội giúp đỡ bằng các biện pháp tư vấn, phục hồi sức khoẻ, tinh thần và tạo điều kiện để ổn định cuộc sống. 2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện các biện pháp giáo dục, phòng ngừa, ngăn chặn và tố cáo hành vi trẻ em bị xâm hại tình dục trẻ em” Luật bảo vệ, chăm sóc, và giáo dục trẻ em 2005 đã qui định trách nhiệm cho gia đình, nhà trường, xã hội phải quan tâm chăm sóc, giúp đỡ, phòng ngừa, ngăn chặn và tố cáo các hành vi xâm hại tình dục trẻ em. Vì gia đình là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến sự phục hồi về thể chất và tinh thần của trẻ em rất lớn, sự quan tâm của gia đình phần nào giúp các em tránh khỏi hành vi bị xâm hại, và là chỗ dựa cho các em, giúp các em thoát khỏi sự khủng hoảng về tinh thần. Bên cạnh việc qui định trách nhiệm cho gia đình, nhà trường và xã hội trong việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em thì nhà nước ta còn đưa ra các chế tài nhằm xử lý những người có hành vi xâm hại tình dục trẻ em: - Theo Đ112, Đ114, Đ115, Đ253 BLHS các hành vi giao cấu với trẻ em bất kể là thuận tình hay không thuận tình thì người có hành vi xâm hại tình dục trẻ em đều bị xử lý hình sự với khung hình phạt rất cao. Ngoài ra các hành vi khiêu khích tình
  11. 11 dục trẻ em cũng bị nhà nước xử lý thể hiện ở Đ116 (hành vi dâm ô), Đ253(hành vi truyền văn hoá phẩm đồi truỵ) BLHS - Ngoài ra Theo Đ254, Đ255 BLHS thì các hành vi bóc lột tình dục trẻ em như chứa mại dâm, môi giới mại dâm cũng bị xử lý hình sự. Nhìn chung những qui định của pháp luật Việt Nam đã phần nào cụ thể hóa tinh thần của Đ34 công ước về quyền trẻ em, Việt Nam đã đưa ra những qui định tương đối hoàn chỉnh và đầy đủ về những hành vi được coi là hành vi xâm hại tình dục trẻ em, các biện pháp nhằm bảo vệ trẻ em và xử lý người có hành vi xâm hại tình dục trẻ em, trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội. 5. Trẻ em nghiện ma tuý Trong quá trình phát triển của mình do muốn chứng tỏ bản thân, trẻ em thường có xu hướng tìm kiếm bản sắc riêng cho mình. Tuy nhiên do nhận thức còn non nớt cùng với đó là sự cám dỗ của bạn bè, hay để hoà nhập vào một nhóm người nào đó, hoặc muốn thoát khỏi sự buồn chán, tẻ nhạt, hoặc thoả mãn trí tò mò, bên cạnh đó thiếu sự quan tâm của gia đình đã thôi thúc các em rơi vào con đường nghiện ngập. Chính vì vậy mà trẻ em nghiện ma tuý cũng là một trong những đối tượng cần được chăm sóc đặc biệt. 5.1 theo công ước về quyền trẻ em Theo điều 33 “các quốc gia thành viên phải thực hiện mọi biện pháp, thích hợp, bao gồm các biện pháp lập pháp, hành chính, xã hội và giáo dục để bảo vệ trẻ em chống laị việc sử dụng bất hợp pháp các chất ma tuý và gây nghiện như đã được xác định trong các điều ước quốc tế liên quan....” Chất sérotonine có trong ma túy có thể gây ra nghiện ngập thông qua vai trò của nó trong việc tạo ra sự bốc đồng (Impulsivité) và sự làm chủ rất kém về hành vi. Do đó việc trẻ em tự mình sử dụng chất ma túy một cách bất hợp pháp để nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình, hay sử dụng chất ma túy trái phép cho trẻ em là hành vi cần phải được quan tâm, ngăn chặn kịp thời. Bởi vì hậu quả của việc sử dụng ma túy lâu dài sẽ dẫn đến trẻ không làm chủ được hành vi, nghiện ngập kéo dài dẫn đến trẻ em có thể gây ra các hành vi phạm tội nhằm có tiền thỏa mãn cơn nghiện của mình…Ngoài ra nó còn có thể mắc bệnh hiểm nghèo như HIV, AIDS.. Do đó theo công ước thì trẻ em có quyền được bảo vệ chống lại việc sử dụng bất hợp pháp các chất ma tuý và các chất gây nghiện như đã được xác định trong các điều ước quốc tế có liên quan. Như vậy ngoài việc sử dụng chất ma tuý, chất gây nghiện với hàm lượng và liều lượng được cho phép thì việc sử dụng ma tuý, chất gây nghiện trong mọi trường hợp đều là bất hợp pháp và trẻ em được bảo vệ để chống lại việc sử sụng bất hợp pháp đó. Các quốc gia thành viên phải có trách nhiệm trong việc chống lại việc sử dụng chất ma túy trái phép Điều này đã được Việt nam ghi nhận và đã được cụ thể hoá thành những qui định pháp luật 5.2 Theo Pháp luật Việt Nam - Theo Đ57 Luật bảo vệ, chăm sóc, và giáo dục trẻ em 2005 có qui định
  12. 12 “1. Cơ quan, tổ chức có liên quan đến hoạt động phòng, chống mà tuý có trách nhiệm tổ chức cai nghiện tại gia đình hoặc tại cơ sở cai nghiện cho trẻ em nghiện ma tuý theo qui định của luật phòng, chống ma tuý. 2.cơ sở cai nghiện có trách nhiệm tạo điều kiện cho trẻ em cai nghiện được tham gia các hoạt động lành mạnh, có ích và phải bố trí cho trẻ em cai nghiện ở khu vực dành riêng cho trẻ em. ........” Như vậy theo luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2005 thì nhà nước đã cụ thể hoá qui định của công ước về quyền trẻ em trong pháp luật việt nam và theo đó nhà nước ta bảo vệ trẻ em khỏi việc sử dụng bất hợp pháp ma tuý bằng cách tổ chức cai nghiện, tạo điều kiện được tham gia các hoạt động lành mạnh cho trẻ em. 6. Trẻ em phạm tội sớm Do những cám dỗ hay do bồng bột thiếu suy nghĩ, hay nhằm thỏa mãn một nhu cầu nào đó của bản thân, hay không làm chủ được mình trẻ em thực hiện các hành vi phạm tội là điều không thể tránh khỏi. Dù đó là những hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng trẻ em phạm tội cũng vẫn cần được bảo vệ do đặc điểm về nhận thức của chúng còn hạn chế, chúng cần có được sự chăm sóc, bảo vệ đặc biệt. 6.1 Theo công ước về quyền trẻ em Theo điều 37 “các quốc gia là thành viên phải đảm bảo rằng: a. Không trẻ em nào phải chịu sự tra tấn, bị đối xử hoặc bị trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay làm mất phẩm giá. Không được xử tử hình hoặc tù chung thân mà không có khả năng phóng thích đối với những hành động phạm pháp do những người dưới 18 tuổi gây ra. b. Không trẻ em nào bị tước quyền tự do một cách bất hợp pháp hoặc tuỳ tiện. Việc bắt, giam giữ hoặc bỏ tù trẻ em phải được tiến hành theo luật pháp và chỉ được dùng đến như một biện pháp cuối cùng và trong thời hạn thích hợp ngắn nhất c. Những trẻ em bị tước quyền tự do phải được đối xử nhân đạo và tôn trọng phẩm giá cố hữu của con người, theo cách thức có tính đến những nhu cầu của những người ở lứa tuổi các em. Đặc biệt, những trẻ em bị tước quyền tự do phải được cách ly với những người lớn, trừ trường hợp không làm như vậy là vì lợi ích tốt nhất cho trẻ em. Các em phải có quyền duy trì sự tiếp xúc với gia đình của mình qua thư từ và các cuộc thăm viếng, trừ những trường hợp ngoại lệ. d. Những trẻ em bị tước quyền tự do có quyền đòi hỏi được nhanh chóng hưởng sự giúp đỡ về pháp lý và những sự giúp đỡ thích hợp khác, cũng như quyền chất vấn tính hợp pháp của việc tước quyền tự do của các em trước một toà án hay một cơ quan khác có thẩm quyền, độc lập và vô tư, và có quyền đòi hỏi một quyết định nhanh chóng về bất kỳ hành đồng nào như vậy.” Theo tinh thần của công ước về quyền trẻ em dù trẻ em là người phạm tội nhưng do đặc điểm về thể chất và nhận thức của chúng cho nên cần có sự đối xử đặc biệt. Trong công ước này các quốc gia thành viên phải có nghĩa vụ đảm bảo: - Không được sử dụng nhục hình đối với trẻ em - Không áp dụng hình phạt tử hình hoặc tù chung thân đối với trẻ em. - Không được tước quyền tự do của trẻ em một cách bất hợp pháp.
  13. 13 - Trẻ em bị tước quyền tự do phải được đối xử một cách nhân đạo, tôn trọng các quyền cố hữu của con người. Trong trường hợp bị cách ly với người thân thì được quyền giữ liên lạc. - Trẻ em bị tước quyền tự do được hưởng sự giúp đỡ về pháp lý. 6.2 theo pháp luật việt nam Bộ luật hình sự 1999 của Việt Nam đã qui định những chế định riêng biệt áp dụng cho trẻ em phạm tội. Theo đó: - Trẻ em phạm tội có thể được đưa đến những cơ sở giáo dưỡng, giáo dục tại xã phường hoặc gia đình. - Không áp dụng các hình phạt tử hình hay tù chung thân cho trẻ em phạm tội - Khung hình phạt áp dụng cho trẻ em bằng ½ hoặc ¾ khung hình phạt áp dụng cho người thành niên tuỳ theo độ tuổi. - Không áp dụng hình phạt cấm cư trú đối với trẻ em phạm tội. Từ những qui định trên chúng ta thấy pháp luật Việt Nam đã thể hiện đúng những cam kết của mình trong công ước về quyền trẻ em. 7. Trẻ em bị bạo hành Với đặc điểm còn non nớt về thể chất và trí tuệ, trẻ em cần sự chăm sóc và bảo vệ của gia đình và xã hội để trẻ phát triển đầy đủ và hài hoà nhân cách của mình. Trẻ em cần được lớn lên trong một môi trường gia đình, trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và thông cảm. 7.1 Theo công ước về quyền trẻ em Theo khoản 1 Điều 19 “Các quốc gia thành viên phải thực hiện mọi biện pháp lập pháp, hành chính, xã hội và giáo dục thích hợp để bảo vệ trẻ em khỏi mọi hình thức bạo lực về thể chất hoặc tinh thần, bị thương tổn hay lạm dụng, bị bỏ mặc hoặc sao nhãng trong việc chăm sóc, bị ngược đãi hoặc bóc lột gồm cả lạm dụng tình dục trong khi trẻ em vẫn nằm trong vòng chăm sóc của cha hay mẹ hoặc cả cha lẫn mẹ, một hay nhiều người giám hộ pháp lý, hoặc của bất kỳ người nào khác được giao việc chăm sóc trẻ em.” Công ước qui định trẻ em có quyền được bảo vệ tránh khỏi mọi hình thức bạo lực về thể chất hoặc tinh thần... theo đó các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ trẻ em khỏi những hình thức vi phạm về thể chất hoặc vi phạm về tinh thần. Do đó ở đây cần làm rõ bạo hành là gì? Bạo hành trẻ em là hành vi đánh đập đến nỗi trẻ bị thương tích. Theo định nghĩa thì bạo hành là hành vi vi phạm về thể chất, nhưng trên thực tế không chỉ có những hành vi vi phạm về thể chất mà những hành vi vi phạm về tinh thần gây thương tích về tinh thần cũng là hành vi bạo hành. Như vậy vấn đề đặt ra những hành vi nào được coi là vi phạm về thể chất, những hành vi nào vi phạm về tinh thần. - Vi phạm về thể chất bao gồm các hành vi đánh đập có thể bằng tay hay bằng một cái gì đó, đấm, đá, ném vào tuờng hay ném xuống cầu thang và làm nghẹt thở, hay cắt tay, cắt chân........ - Vi phạm về tinh thần bao gồm các chỉ trích thường xuyên làm trẻ cảm thấy ngu dốt, xấu xí hay vô dụng hoặc phạt một đứa trẻ và bắt nó nhận tội về việc mà nó không có lỗi.
  14. 14 Nguyên nhân dẫn đến bạo hành trẻ em là do có sự phân chia mơ hồ giữa kỷ luật con cái và đánh đập con cái, giữa cố tình làm hại đứa nhỏ và lỡ đập con cái, hay do hoàn cảnh gia đình khó khăn dẫn đến cha mẹ bị stress, hoặc do thiếu sự quan tâm của cha mẹ. Hậu quả của hành vi bạo hành: đó là vết bầm trên cơ thể, những lằn xước lên da trẻ, và đôi khi cả dấu răng cắn và xương bị nứt, những vết thương trên đầu và những nội thương bên trong của ngũ tạng đứa trẻ. Những thương tích này sẽ ảnh hưởng đến quá trình phát triển bình thường của một đứa trẻ, đặc biệt là khi trẻ em bị chính những người nuôi dưỡng, người chăm sóc là thương tổn hay ngược đãi thì trẻ sẽ bị thương tổn về tâm lý sâu sắc và nghiêm trọng hơn so với người lạ bạo hành chúng, vì những người bạo hành là những người mà chúng tin tưởng, trông dựa và chịu sự quản lý, điều khiển của họ. 7.2 theo pháp luật việt nam Theo điều 104 BLHS 1999 thì đối với các hành vi bạo hành gây cho trẻ em bị xử lý hình sự tuỳ theo mức độ thương tổn gây ra cho trẻ em. Như vậy các qui định trong hệ thống pháp luật việt nam đã được xây dựng trên tình thần các điều ước mà việt nam là thành viên và điều kiện tình hình phát triển ở Việt Nam. điều đó góp phần bảo về chăm sóc trẻ em đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. 8. Trẻ em lao động sớm 8.1. Luật Quốc Tế: Cơ sở pháp lý: công ước về quyền trẻ em, công ước 182 ngày 17/11/2002 của ILO, công ước 138 ngày 26/6/1973. Nội Dung: Trẻ em có quyền được bảo vệ không phải tham gia vào quan hệ lao động sớm để nhằm tránh ảnh hưởng đến sức khoẻ và sự phát triển về tinh thần. Vấn đề này đã được quy định cụ thể tại Điều 32 Công ước về quyền của trẻ em: “Bảo vệ trẻ em không bị bóc lột kinh tế và không phải thực hiện những công việc có thể gây nguy hiểm hoặc cản trở việc học hành của trẻ, hoặc có hại cho sức khoẻ của trẻ, gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển về thể lực, trí tụê, tinh thần, nhân cách hay xã hội của trẻ”. Trẻ em có thể chất và tinh thần chưa phát triển toàn diện nên khi tham gia vào quan hệ lao động sớm thì rất dễ tổn hại đến sức khoẻ, gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển bình thường của trẻ. Bên cạnh đó phải kể đến những công việc gây hại, ảnh hưởng xấu cho sự phát triển nhân cách của trẻ nếu như công việc đó đặt trẻ trong mối liên quan với các hoạt động tội phạm. Nhân loại đang hướng đến việc bảo vệ trẻ em khỏi bị bóc lột, như Điều 19 Công ước về quyền của trẻ em đã quy định: trẻ em cần được tránh khỏi “tất cả các vi phạm về thể xác và tinh thần, gây thương tích hay lạm dụng, sao nhãng hay bóc lột sức lao động”, đồng thời kêu gọi tất cả mọi người hãy chung tay xây dựng một thế giới lành mạnh cho trẻ em. Các Điều 32, Điều 19 của Công ước quy định với nội dung như vậy nhằm mục đích chỉ rõ các Chính Phủ, Nhà Nước cần phải bảo vệ trẻ em khỏi bị cha mẹ, người chăm sóc hay bất cứ ai lạm dụng, buộc trẻ phải tham gia vào quan hệ lao động sớm.
  15. 15 Bên cạnh đó trong khoản 1 Điều 32 đã nêu rõ một số loại hình công việc lao động khác nhau mà trẻ em cần được phải bảo vệ để không phải thực hiện : + Công việc nguy hiểm: là công việc có nguy cơ bị tai nạn cao, tổn hại đến sức khoẻ, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển bình thường của trẻ. Đồng thời công việc đó còn gây cản trở cho việc học tập của các em nếu công việc này phải thực hiện vào các giờ mà đáng lý ra trẻ phải ở trường, hoặc công việc quá mệt và vất vả làm cho trẻ không thể đến trường. Điều 32 còn nhắc đến quyền của trẻ em là được bảo vệ không bị “ bóc lột kinh tế”. + Bóc lột kinh tế: tức là kiếm tiền trên sự lao động, làm việc vất vả của trẻ. Nó bao gồm cả cách kiếm tiền mà không liên quan gì đến lao động hay làm việc theo nghĩa thông thường của cụm từ “làm việc”, như là sử dụng trẻ em đi ăn xin, ăn cắp, buôn bán trẻ em, trẻ em tham gia vào các nghề mang tính nghệ thuật mà không đặt quyền lợi, lợi ích của trẻ em lên hàng đầu thì đây cũng được coi là dạng bốc lột kinh tế. Khác với bóc lột kinh tế, bóc lột sức lao động nó mang nghĩa hẹp hơn: + Bóc lột sức lao động: tức là dùng trẻ em làm việc một cách quá mức, quá nặng, những công việc nguy hiểm, lấy tiền mà trẻ kiếm được để sử dụng cho mục đích bản thân. Như vậy từ phân tích trên ta thấy luật quốc tế đã đề cập nhiều đến vấn đề lao động của trẻ em, tuy nhiên chúng ta không thấy một định nghĩa nào về trẻ em lao động sớm, vậy trẻ em lao động sớm là gì? Từ cách quy định của pháp luật quốc tế chúng ta có thể rút ra cách hiểu trẻ em lao động sớm là: trẻ em phải làm những công việc vượt quá độ tuổi lao động quy định trong pháp luật. - Trước khi Công ước quốc tế về quyền của trẻ em ra đời, tổ chức lao động thế giới (ILO) đã dề ra các tiêu chuẩn về quyền của người lao động, áp dụng một công ước về độ tuổi tối thiểu được đi làm. Vì trong Công uớc quốc tế về quyền của trẻ em không đề cập đến giới hạn tối thiểu cho độ tuổi đi làm cho nên các nước phải theo những hướng dẫn trong Công ước ILO +Công ước ILO quy định độ tuổi tối thiểu để đi làm cả ngày là 15 tuổi hoặc ở những nước nghèo không ít hơn 14 tuổi. Tuy nhiên trẻ em 13 tuổi có thể được phép đi làm những công việc nhẹ, không làm công việc đầy đủ cả ngày những công việc này không ảnh hưởng đến sức khoẻ hay phát tiển của trẻ và không ảnh hưởng đến việc học hành của trẻ (Điều 7 công ước số 138 ngày 26/06/1973). Trong khoản 1 Điều 3 Công ước số 138 “ Đối với mọi loại công việc hoặc mọi loại lao động nào mà tính chất hoặc điều kiện tiến hành có thể có hại đến sức khoẻ, an toàn, phẩm hạnh của trẻ em thì mức tối thiểu không được dưới 18 tuổi”. Bên cạnh đó Khoản 3 Điều 3 cũng ghi nhận rằng: “cho phép sử dụng trẻ em làm việc ngay từ độ tuổi 16 với điều kiện an toàn và phẩm hạnh của họ được đảm bảo đầy đủ, phải có sự dạy dỗ thích đáng hoặc đào tạo nghề cho họ trong ngành hoạt đồng tương ứng”. Cuối cùng Công ước về quyền của trẻ em cũng chỉ ra những giải pháp thực hiện mà các Nhà Nước tham gia Công ước cần phải làm để kiểm soát lao động trẻ em đó là: + Đưa ra một độ tuổi tối thiểu hoặc các độ tuổi tối thiểu được phép đi làm + Đưa ra các quy chế thích hợp về số giờ, và các điều kiện làm việc
  16. 16 + Đưa ra hình phạt hoặc các hình thức thưởng phạt nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả Điều 32 Hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến tranh cãi về việc liệu có thực tế hay không trong việc cấm tất cả trẻ em đi làm, đặc biệt là ở những nước đang phát triển, nơi mà nhiều trẻ em đi làm việc giúp đỡ nuôi sống gia đình. Như vậy ở đây đã xuất hiện sự mâu thuẫn. Trên thực tế thì lại rất phức tạp, việc trẻ em phải đi làm việc là rất nhiều và sự tham gia vào các quan hệ lao động sớm của các em đã phần nào giúp đỡ gia đình, tạo thu nhập cho gia đình, làm cho cuộc sống vật chất của gia đình tăng lên rất nhiều. Mặc dù vẫn còn tồn tại những mâu thuẫn đối lập xung quanh vấn đề lao động của trẻ em nhưng chúng ta đều nhận thấy rằng trẻ em là những người luôn cần được bảo vệ, chăm sóc, phải tạo mọi điều kiện thuận lợi về vật chất lẫn tinh thần, để cho trẻ phát triển một các bình thường, toàn diện. 8.2. Luật Việt Nam: Cơ sở pháp lý :Từ Điều 119 đến Điều 122 chương XI Bộ Luật Lao Động và các điều khác có liên quan Nội Dung: Cũng như nhiều nước trên thế giới, ở Việt Nam tình trạng trẻ em bỏ học tham gia vào quan hệ lao động sớm đang là vấn đề bức xúc. Đặc biệt là ở các vùng quê nghèo. Tuổi còn nhỏ nhưng các em đã phải tham gia làm những công việc nặng nhọc của người lớn, hại sức khoẻ nhưng tiền kiếm được chẳng bao nhiêu. Từ đó dẫn đến việc hoc tập của trẻ cũng bị ảnh hưởng trầm trọng. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là xuất phát từ hoàn cảnh gia đình nghèo khó, nhận thức của cha mẹ thấp và điều đáng quan tâm hơn nũa là khi đất nước ta đang trong thời kỳ phát triển công ngiệp hoá - hiện đại hoá, với nền kinh tế thị trường, quá trình đô thị hoá đã dẫn đến thực trạng là số trẻ em từ nông thôn, những vùng lân cận ra thành phố để kiếm sống khá đông và tạo ra một số lượng lớn trẻ em lang thang, cơ nhỡ, kiếm sống bằng nhiều nghề tự do và vô hình dung đã tạo ra một môi trường thuận lợi để các chủ, những con người vô lương tâm vắt sức lao động của các em. Sau khi tham gia vào Công ước về quyền của trẻ em, thì Việt Nam đã có những chính sách để giúp đỡ tạo điều kiện cho trẻ em nghèo, trẻ em lang thang. Đặc biệt Việt Nam đã có những quy định pháp luật cụ thể về các vấn đề liên quan đến lao động trẻ em, nhằm góp phần hoàn thiện chính sách bảo vệ trẻ em. Cụ thể trong BLLĐ(Bộ luật lao động) đã dành riêng chương XI gồm “ những quy định riêng đối với lao động chưa thành niên” *Về độ tuổi: Điều 119 BLLĐ đã quy định “ người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”. Và khái niệm trẻ em trong BLLĐ được quy định là “ người chưa đủ 15 tuổi” ( Điều 120). Những khái niệm quy định về độ tuổi này cũng không khác với những quy định về độ tuổi người chưa thành niên và trẻ em của tổ chức lao động thế giới (ILO)và tổ chức giáo dục- khoa học- văn hoá của Liên Hiệp Quốc UNESCO. Bên cạnh đó do quán triệt mục đích, chủ trương của Nhà Nước nên chương XI cũng đưa ra quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động chưa thành niên và trẻ em gồm: + Nghiêm cấm lam dụng sức lao động của người chưa thành niên- khoản 2 Điều 119
  17. 17 + Cấm nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc trừ một số nghề và công việc do BLĐ-TB&XH(Bộ lao động thương binh & xã hội)quy định- Điều 120 + Cấm sử dụng lao động chưa thành niên làm những công việc nặng nhọc nguy hiểm, hoặc tiếp xúc với các chất độc hại hoặc chỗ làm việc, công việc ảnh hưởng xấu tới nhân cách của họ theo danh mục do BLĐ-TB&XH và Bộ Y Tế ban hành - Điều 121.Cụ thể Thông Tư 09/ TT-LĐ ngày 13/04/1995, phần C quy định danh mục gồm 81 công việc cấm sử dụng lao động chưa thành niên, lao động là trẻ em. Bên cạnh đó Luật Bảo Vệ chăm Sóc và Giáo Dục Trẻ Em cũng đưa ra quy định tương tự nghiêm cấm hành vi “lạm dụng lao động trẻ em, sử dụng trẻ em làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với chất độc hại, làm những công việc khác trái với quy dịnh của luật về lao động” * Về thời gian, số giờ làm việc: Điều 122 BLLĐ quy định “ người sử dụng lao động chỉ được sử dụng người lao động chưa thành niên làm thêm giờ, làm việc ban đêm trong một số ngành nghề và công việc do BLĐ-TB & XH quy định”. Đặc biệt yêu cầu người sử dụng lao động khi thuê người lao động chưa thành niên phải tôn trọng quy định “ thời giờ làn viiệc của người lao động chua thành niên không quá 7 giờ một ngày hoặc 42 giờ một tuần”- khoản 1 Điều 122. Ngoài ra nhằm bảo vệ quyền lợi trẻ em , khoản 2 Điều 120 BLLĐ quy định “Đối với ngành nghề và công việc được nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc(do BLĐ- TB&XH quy định), học nghề, tập nghề thì việc nhận và sử dụng những trẻ em này phải có sự đồng ý và theo dõi của cha mẹ hoặc người đỡ đẩu” * Về điều kiện làm việc Điều 121 BLLĐ quy định “ nơi có sử dụng người lao động chưa thành niên phài lập sổ theo dõi riêng, ghi đầy đủ họ tên, ngày sinh, công việc đang làm, kết quả những lần kiểm tra sức khoẻ định kỳ và xuất trình khi thanh tra viên có yêu cầu”. Hơn thế nữa “ Người sử dụng lao động chỉ được sử dụng lao động chưa thành niên vào những công việc phù hợp với sức khoẻ để đảm bảo sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách của người đó, phải có trách nhiệm quan tâm chăm sóc người lao động chưa thành niên về các mặt lao động, tiền lương, sức khoẻ, học tập trong quá trình lao động”. - Xét về khía cạnh bảo vệ quyền trẻ em trong luật lao động không chỉ đơn thuần cấm sử dụng trẻ em và người chưa thành niên vào làm những việc làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, trí tuệ và nhân cách của trẻ em mà còn quy định rằng buộc trách nhiệm đối với các đối tượng sử dụng lao động và pháp luật cũng đã quy định rất rõ những chế tài xử phạt vi phạm phát luật lao động. Điều 192 quy định “ người nào có hành vi vi phạm các quy định của BLLĐ thì tuỳ mức độ vi phạm mà bị xử phạt bằng các hình thức cảnh cáo, phạt tiền, đình chỉ hoặc thu hồi giấy phép, buộc phải bồi thường, buộc đóng cữa doanh nghiệp hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật”. Như vậy các qui định của pháp luật Việt Nam đã qui định một cách chi tiết, cụ thể hóa các qui định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. 9. Trẻ em nhiễm chất độc ĐIOXIN 9.1. Luật Quốc Tế:
  18. 18 Cơ sở pháp lý: Công ước về quyền của trẻ em. Công ước Geneva ngày 12/8/1949 về bảo hộ dân thường trong chiến tranh. Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Luật nhân đạo quốc tế và các đạo luật khác. Nội Dung Chiến tranh đã đi qua, nhưng nỗi đau chất độc màu da cam và nguy cơ nhiễm chất độc điôxin vẫn còn đeo bám dai dẳng những số phận, những mảnh đời đang sống. Những người đang sống sót vẫn phải tiếp tục đối mặt với các vấn đề nghiêm trọng về kinh tế xã hội và môi trường do cuộc chiến gây ra, đặc biệt là những hậu quả của chất độc da cam. Trẻ em sinh ra từ các gia đình có người bị nhiễm độc (thuộc thế hệ thứ 3) vẫn bị các dị tật có thể kết luận là do ảnh hưởng điôxin. Lần đầu tiên trong một công ước quốc tế đề cập đến những trẻ em cần được bảo vệ, trẻ em tàn tật, trẻ em trong các cuộc xung đột vũ trang....Các thách thức hay những vấn đề cấp bách mà trẻ em đang gặp phải, đều được công ước chú ý đặc biệt. “ Trẻ em dù ở trong hoàn cảnh nào cũng có quyền được sống và phát triển”-Điều 6. “Được chăm sóc sức khoẻ’- Điều 24. “Được quan tâm dành cho những lợi ích tốt nhất, được học hành, vui chơi giải trí”- Điều 3. “Được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội’- Điều 26. Bên cạnh đó, thông qua Luật Nhân Đạo cộng đồng quốc tế đã thể hiện sự đoàn kết trong việc đưa ra những cơ sở pháp lý nhằm bảo vệ trẻ em khỏi những nguy hiểm do chiến tranh gây ra. Điều 38 công ước về quyền trẻ em quy định “chính phủ các quốc gia ký kết công ước phải đảm bảo tôn trọng và tôn trọng việc thực thi các ngyên tắc quy định tại đạo luật nhân đạo quốc tế được áp dụng ở nước họ đối với các cuộc xung đột… cần có những biện pháp bảo đảm tính mạng và sự an toàn của trẻ em chịu ảnh hưởng của một cuộc xung đột có vũ trang” như vậy Điều 38 đã hạn chế những tác động to lớn của chiến tranh đối với trẻ em, có liên quan mật thiết với đạo luật nhân đạo. Theo điều khoản này, tất cả các chính phủ ở các nước phải làm tất cả những gì có thể nhằm đảm bảo được rằng những trẻ em bị ảnh hưởng bởi chiến tranh đều được bảo vệ và chăm sóc. “Trẻ em bị nhiễm chất độc điôxin cũng như những trẻ em khác,các en cũng phải được hưởng quyền chăm sóc giáo dục tốt - Điều 50 công ước Geneva. “Được quan tâm chăm sóc, được vui chơi giải trí , được cắp sách đến trường- Điều 3, Điều 24 của công ước vế quyền trẻ em đã nêu rõ những quyền trên. Hơn ai hết, trẻ em bị nhiễm chất độc điôxin luôn khao khát được sống được hoà nhập với cộng đồng, các em là những nạn nhân cần được quan tâm của cả cộng đồng. 9.2. Luật Việt Nam: Cơ sở pháp lý: Điều 52 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Nội Dung Chất da cam/điôxin đã có ảnh hưởng về di truyền sinh thái. Đã có khoảng từ 2,1 đến 4,8 triệu người Việt Nam bị nhiễm các chất diệt cỏ, nhất là điôxin. Nguy hiểm hơn, nó không chỉ ảnh hưởng đến những người dân bị phơi nhiễm trong thời gian xảy ra chiến tranh mà còn ảnh hưởng đến thế hệ con cháu tiếp theo của họ. Trẻ em bị nhiễm chất độc da cam luôn cần đến tình thương, đùm bọc che chở của toàn xã hội.
  19. 19 Cũng như các trẻ em khác, trẻ em bị nhiễm chất độc điôxin ở Việt nam vẫn luôn nhận được sự quan tâm chăm sóc của cộng đồng, theo Điều 52 của Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định “trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học được gia đình, nhà nước và xã hội giúp đỡ chăm sóc, được tạo điều kiện để sớm phát hiện bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng, được nhận vào các lớp học, được giúp đỡ học văn hoá, học nghề và tham gia hoạt động xã hội”. Điều 41 quy định rõ hơn về công tác bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em “phải coi trọng việc phòng ngừa, ngăn chăn…, kịp thời giải quyết, giảm nhẹ hoàn cảnh đặc biệt của trẻ, kiên trì trợ giúp trẻ có hoàn cảnh đặc biệt phục hồi sức khoẻ, tinh thần và giáo dục đạo đức…Việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ có hoàn cảnh đặc biệt được thực hiện chủ yếu tại gia đình”. Như vậy trách nhiệm chăm sóc, bảo vệ các em bị nhiễm điôxin vẫn thuộc về gia đình là chủ yếu, ngoài ra điều này cũng đã chỉ rõ cấm gia đình bỏ rơi các em “..xử lý kịp thời các hành vi để trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt”. Bên cạnh đó còn có những quy định bảo trợ cho trẻ em nhiễm điôxin như Điều 19 Nghị định Chính phủ số 36/2005 “bảo trợ cho trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học,để trả chi phí điều trị cao khi chữa bệnh”.Trên cơ sở là giúp đỡ về mặt vật chất, nhà nước ta luôn kêu gọi các tổ chức kinh tế- xã hội, các cá nhân cơ quan trong và ngoài nước hãy hướng về các em, cùng chia sẽ nỗi đau với các em. Và gần đây nhất hành trình đi tìm công lý của các nạn nhân chất độc da cam Việt Nam đã không thu được kết quả như mong đợi, nhưng họ lại nhận được tình cảm và sự ủng hộ nhiệt tình từ phía cộng đồng quốc tế. Đây là sự hỗ trợ mạnh mẽ về mặt tinh thần để giúp họ tiếp tục vững bước trên con đường đi tìm công lý. 10. Trẻ em nhiễm HIV/AIDS 10.1. Luật Quốc Tế: Cơ sở pháp lý: Công Ước Về Quyền Của Trẻ Em Nội Dung: Công ước về quyền của trẻ em có những quy định liên quan đến việc phòng chống HIV/AIDS cho trẻ em và bảo vệ những trẻ em không may bị nhiễm HIV/AIDS. Điều 2 của Công ước có quy định “ các quốc gia tham gia công ước phải thi hành mọi biện pháp thích hợp để đảm bảo cho trẻ em được bảo vệ, tránh khỏi mọi hình thức phân biệt đối xử”. Đây là những quy định rất quan trọng mang tính phổ quát, chi phối toàn bộ các quy định khác của công ước trên mọi phương diện bảo vệ, chăm sóc. Liên quan đến vấn đề HIV/AIDS, quy định này chỉ ra rằng trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS, trẻ em có bố mẹ bị nhiễm HIV/AIDS hay trẻ em vì lý do này hay lý do khác, chịu sự tác động của đại dịch HIV/AIDS phải được bảo vệ và đối xử bình đẳng như tất cả mọi trẻ em khác. Cụ thể Công ước về quyền trẻ em đã đề cập đến những vấn đề mà trẻ em được hưởng trong đó bao gồm cả trẻ em nhiễm HIV/AIDS “ trẻ em dù ở trong hoàn cảnh nào cũng có quyền được sống và phát triển”-Điều 6. “không bị cách khỏi cha mẹ”- Điều 9. “Được chăm sóc sức khoẻ”- Điều 24. “Được quan tâm dành cho những lợi ích tốt nhất”- Điều 3. “Được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội’- Điều 26, được học hành, vui chơi giải trí. Đặc biệt công ước đã quy định trách nhiệm của các quốc gia là “phải bảo vệ trẻ em khỏi sự lạm dụng ma tuý- Điều 33, góp phần phòng ngừa và hạn chế khả năng các em khỏi
  20. 20 sự lây nhiễm HIV/AIDS qua những con đường này. Những điều khoản nói trên, cùng với những quy định có liên quan khác của công ước, được áp dụng trực tiếp nay cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật của các quốc gia về phòng chống HIV/AIDS. Đặc biệt đã đóng vai trò tích cực trong việc bảo vệ trẻ em nói chung và trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS, trẻ em bị tác động bởi đại dịch HIV/AIDS nói riêng, bảo đảm cho trẻ em trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng dược những quan tâm, dành cho sự chăm sóc tốt nhất. 10. 2. Luật Việt Nam: Cơ sở pháp lý: Điều 53 luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Nội Dung: Sớm nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của hành động phối hợp chung có tính chất toàn cầu trong công cuộc ngăn chặn thảm hoạ của đại dịch HIV/AIDS, do đó Việt Nam đã tích cực tham gia và nổ lực phấn đấu cùng cộng đồng quốc tế trong phòng chống HIV/AIDS. Theo UNAIDS cho biết Việt Nam và Inđônêxia đang là những điểm đáng lo ngại về HIV/AIDS. Ở Việt Nam việc quy định quyền lợi cho các trẻ em nhiễm HIV/AIDS ngày càng cụ thể hơn. Trẻ em nhiễm HIV và bị ảnh hưởng bởi HIV được ưu tiên trợ giúp để phục hồi và tái hoà nhập. Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em được sửa đổi và được Quốc Hội Việt Nam thông qua năm 2004, trong đó dành riêng một chương IV với 17 điều quy định trách nhiệm của cá nhân, gia đình, các tổ chức xã hội và nhà nước trong việc bảo vệ chăm sóc trẻ em nhiễm HIV/AIDS và trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV. Trong đó trách nhiệm bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của gia đình, nhà trường, nhà nước, xã hội và công dân, cụ thể trách nhiệm này được nêu rõ trong điều 5 luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em “Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của gia đình, nhà trường, Nhà nước, xã hội và công dân. Trong mọi hoạt động của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân có liên quan đến trẻ em thì lợi ích của trẻ em phải được quan tâm hàng đầu”. Trường hợp bất hạnh nhất là những trẻ em nhiễm HIV/AIDS bị chính cha mẹ, những người thân trong gia đình bỏ rơi, kỳ thị. Chính vì vậy, pháp luật việt Nam cũng đã có những quy định nghiêm cấm đối với những hành vi trái đạo đức, trái lương tâm đó, cụ thể trong điều 7 luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định, cấm “Cha mẹ bỏ rơi con, người giám hộ bỏ rơi trẻ em được mình giám hộ”. Và “Mọi hành vi vi phạm quyền của trẻ em, làm tổn hại đến sự phát triển bình thường của trẻ em đều bị nghiêm trị theo quy định của pháp luật”( Điều 6 luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em). Đặc biệt trong điều 53 luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã nêu lên “đối với trẻ em nhiễm HIV/AIDS không bị phân biệt đối xử được nhà nước và xã hội tạo điều kiện để giúp các em chữa bệnh, nuôi dưỡng tại gia đình hoặc tại cơ sở trợ giúp trẻ em”. Theo luật Giáo dục và Luật phòng chống HIV/AIDS thì mọi trẻ em VN nếu đến tuổi đi học là phải được đến trường, kể cả những em bị nhiễm HIV. Tóm lại nhìn chung Việt Nam đã có những qui định tương thích với luật quốc tế, điều này đã thể hiện Việt Nam đã tuân thủ, thực thi các qui định của pháp luật quốc tế. Về cơ bản nhà nước Việt Nam đã qui định những quyền cơ bản mà trẻ em được hưởng như quyền không phân biệt đối xử, quyền được chăm sóc, quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe điều đó phù hợp với tinh thần và nguyên tắc của luật quốc tế và cụ thể là công ước về quyền trẻ em. Tuy nhiên việc những qui định của pháp luật Việt nam có được thực thi, và đã thực thi như thế nào thì còn phụ thuộc vào
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2