
Điện ảnh Thương Mại Việt Nam Trôi
Theo Dòng Lịch Sử
Miền Nam
Khi người Mỹ chính thức tham chiến vào chiến tranh Việt Nam, cùng với quận đội họ
đã mang theo cả văn hóa Âu Mỹ và những công nghệ kỹ thuật mới vào Việt Nam.
Điều này ảnh hưởng đến văn hóa nói chung trong đó có điện ảnh. Một yếu tố khác có
ảnh hưởng tới điện ảnh của miền Nam thời kỳ này là sự phát triển mạnh của cải lương
những năm cuối thập niên 1950, đầu thiệp niên 1960. Rất nhiều nghệ sĩ điện ảnh xuất
thân từ cải lương. Từ năm 1954 tới 1975, có những giai đoạn hoàng kim, như năm
1957, các hãng phim tư nhân điện ảnh miền Nam sản xuất 37 phim một năm.
Chúng tôi muốn sống (1956)
Giai đoạn 1954-1960
Năm 1955, Phòng Điện ảnh được thành lập. Đến năm 1959 Trung tâm Quốc gia Điện
ảnh thuộc Nha Thông tin ra đời, với một đội ngũ những người làm phim gồm 19 đạo
diễn, 13 quay phim, 5 chuyên viên thu thanh và 2 chuyên viên dựng phim. Đa số
những người này được cố vấn Mỹ dạy tại chỗ hoặc đi tu nghiệp ở nước ngoài hai năm
từ 1957 đến 1959. Bên cạnh đó còn mời chuyên gia của Philippines đến Sài Gòn hợp
tác với một số hãng tư nhân thực hiện những phim tuyên truyền cho chế độ. Trung
tâm Điện ảnh chính là nơi đào tạo những chuyên viên điện ảnh đầu tiên của miền
Nam.
Điện ảnh khi đó chủ yếu giành cho giới thành thị. Rạp chiếu bóng, mỗi ngày thường
chiếu theo xuất, thứ bảy có xuất chiều, chủ nhật thêm xuất sáng. Để thu hút khán giả,

các rạp thường mở nhạc các ca sĩ Paul Anka, Andy William, Elvis Presley, Patti
Page... Giới trí thức thành thị khi bị ảnh hưởng bởi lối sống Pháp. Các phim tình cảm
Pháp thịnh hành nhất khi đó, rồi đến những phim miền Tây của Mỹ, phim ca nhạc Ấn
Độ.
Giai đoạn 1955 đến 1958, nhiều hãng phim tư nhân được thành lập, tập trung sản xuất
loại phim tâm lý xã hội, cổ tích và các đề tài gia đình. Đây là giai đoạn nở rộ phong
trào làm phim cải lương, thần thoại, truyền thuyết, với nhiều bộ phim khơi gợi lòng tự
hào của người Việt trong việc ủng hộ phim do người Việt làm ra. Nổi bật nhất trong
phong trào làm phim này là các hãng Việt Thanh thành lập năm 1955, Văn Thế năm
1956, Tân Việt điện ảnh năm 1957 do ông Bùi Diễm làm giám đốc.
Các hãng tư nhân sản xuất phim mạnh mẽ, giới thiệu với công chúng một thế hệ diễn
viên mới như Kim Cương phim Lòng nhân đạo, Ngọc Bồ Đề; Trang Thiên Kim phim
Mục liên thanh đề, Trương Chi; Lê Thị Nam phim Đồng ruộng miền Nam; Kim Lan
phim Người mẹ hiền; Thu Trang phim Lục Vân Tiên; Mai Trâm phim Chúng tôi
muốn sống; Khánh Ngọc phim Ràng buộc, Ánh sáng miền Nam; Xuân Dung phim
Kim trai thời loạn; Kim Hoàng phim Tiền thân Đức Phật Tổ; Thiên Kim phim Huyền
Trân công chúa; Túy Phượng phim Thạch Sanh Lý Thông...
Cuối năm 1956, đạo diễn người Mỹ Joseph L. Mankiewicz tới miền Nam thực hiện
phim Người mỹ trầm lặng, bộ phim chuyển thể đầu tiên từ tác phẩm cùng tên của
Graham Greene. Đạo diễn Vĩnh Noãn - đạo diễn Chúng tôi muốn sống - được mời
hợp tác cho bộ phim này. Nhưng bộ phim không thành công, bị nhận sự phản đối bởi
chính Graham Greene. Diễn viên Laurence Oliver, người được chọn ban đầu, cũng
ủng hộ nhà văn và từ chối tới Việt Nam tham gia bộ phim.
Năm 1957 là năm điện ảnh miền Nam hoạt động mạnh nhất. Chỉ trong năm 1957, các
hãng phim tư nhân đã sản xuất hơn 37 phim. Do điều kiện trong nước yếu kém về mặt
kỹ thuật nên đa số những phim trắng đen, 35 mm. Nếu muốn tạo được sự chuẩn mực
về kỹ thuật đều phải thâu thanh tại nước ngoài. Thành công nhất về doanh thu giai
đoạn này Quan Âm Thị Kính. Một bộ phim ăn khách khác là Kiếp hoa của hãng Kim
Chung với hai diễn viên Kim Chung và Kim Xuân, được xem là phim nội địa hay
nhất. Diễn viên nữ số một là Kim Cương, người tham gia nhiều phim nhất những năm
1954 đến 1960.
Dịp Giáng Sinh 1957, phim Người đẹp Bình Dương của hãng phim Mỹ Vân với chiến
dịch quảng cáo rầm rộ mang đến cho công chúng ngôi sao tương lai Thẩm Thúy
Hằng. Cũng năm 1957, Kiều Chinh lần đầu xuất hiện trong phim Hồi chuông Thiên
Mụ của đạo diễn Lê Dân, hãng Tân Việt.

Nhưng đến cuối năm 1957, hoạt động sản xuất phim chững lại. Giai đoạn 1958 đến
1960 là giai đoạn bị kịch của điện ảnh miền Nam, đỉnh cao là năm 1960. Con số 39
nhà sản xuất phim chỉ còn 9 hãng hoạt động cầm chừng, mỗi năm sản xuất một hai
phim, thiếu vốn, phim lỗ, chính sách thuế... Báo chí cũng không còn ủng hộ điện ảnh
trong nước. Các phim nhập khẩu thao túng thị trường
Giai đoạn 1960-1970
Trong giai đoạn khó khăn, vẫn có những người đam mê điện ảnh. Như nhóm Bọn Trẻ
của Nguyễn Long và Hoàng Anh Tuấn đã cùng bạn bè góp vốn làm phim. Nguyễn
Long với bộ phim dài 100 phút Mưa lạnh hoàng hôn (1961) giới thiệu gương mặt diễn
viên Mai Ly. Hoàng Anh Tuấn với phim Trời không muốn sáng. Để cạnh tranh lại với
phim Ấn Độ, Hồng Kông... Thái Thúc Nha điện ảnh hóa cải lương với những phim
Oan ơi ông Địa (1961), vai chính là Thẩm Thúy Hằng hay Bẽ bàng (1961) với Kim
Cương. Nhưng do yếu kém về kỹ thuật và được thực hiện vội vàng, hai phim này cũng
bị báo giới chê bai.
Khoảng 1962, 1963 điện ảnh miền Nam bắt đầu hồi sinh trở lại. Nhiều hãng phim mới
xuất hiện cùng các dự án làm phim. Thời kỳ này các phim bắt đầu sử dụng kỹ thuât
đơn màu. Hãng phim Alpha tiên phong với Mưa rừng (1962) có Kim Cương cùng
Kiều Chinh. Sau đó là bộ phim tốn kém Đôi mắt người xưa của hãng Liêm Phim,
được thực hiện trong ba năm từ 1962 đến 1964. Đây cũng là phim đầu tiên Thanh Nga
tham gia, tuy nhiên khánh giả lại biết tới cô với Hai chuyến xe hoa được trình chiếu
trước vào 1963.
Đạo diễn Lê Mộng Hoàng cùng kịch sĩ Năm Châu thực hiện Tơ tình do hãng Mỹ Vân
sản xuất năm 1963. Tơ tình có sự tham gia của Thẩm Thúy Hằng, La Thoại Tân, Mai
Ly và nữ ca sĩ Thanh Thúy. Đây là một bộ phim nặng về nhạc, trong phim Thẩm Thúy
Hằng trong vai ca sĩ Lệ Trinh. Sau thành công lớn về mặt doanh thu của Tơ tình, hãng
Mỹ Vân làm tiếp phim Bóng người đi (1964) do Năm Châu đạo diễn. Phim này Thẩm
Thúy Hằng diễn xuất cùng Thành Đuợc, Út Bạch Lan.
Năm 1969, Liên Ảnh Công Ty thực hiện bộ bộ màu màn ảnh rộng Từ Sài Gòn đến
Điện Biên Phủ. Về mặt kỹ thuật đây là bộ phim có những tiến bộ vượt bậc. Ngoài
những diên viên điện ảnh tên tuổi Thẩm Thúy Hằng, Kiều Chinh, Ðoàn Châu, phim
Từ Sài Gòn đến Điện Biên Phủ còn qui tụ các diện viên và soạn giả cải lương như Lê
Khanh, Thanh Cao, Ngọc Ðiệp, Tư Hề, Văn Lượng. Cũng năm 1969, một bộ phim
khác đạt kỷ lúc bán vé là Chiều kỷ niệm. Đây là bộ phim đầu tay của nhóm Thẩm
Thúy Hằng với đạo diễn là Lê Mộng Hoàng, lời thoại do nghệ sĩ Năm Châu viết. Phim

đen trắng, 35 mm dài 1 giờ 45 phút. Ngoài Thẩm Thúy Hằng, Hùng Cường, phim
cũng có sự tham gia của các tên tuổi cải lương Năm Châu, Phùng Há, Bảy Ngọc,
Thanh Tú... Chỉ trong tuần lễ công chiếu đầu tiên tại rạp Rex, Chiều kỷ niệm đã thu về
1 triệu đồng. Sau vài tuần, con số doanh thu lên tới 10 triệu.
Vào những năm này, để có nhạc cảnh và ca khúc trên phim, các hãng thường đặt các
nhạc sĩ như Phạm Duy, Hoàng Thi Thơ, Huỳnh Anh viết. Giọng ca do các ca sĩ như
Thái Thanh, Hoài Trung... thể hiện để diễn viên xuất hiện trên phim nhép miệng.
Nhưng phim khác đáng chú ý trong giai đoạn này có thể kể đến: Loạn, Yêu (1964),
Dang dở (1965), Giã từ bóng tối (1969), Trai thời loạn (1969)... Ngoài Thẩm Thúy
Hằng, Kiều Chinh, Thanh Nga, Kim Cương, điện ảnh còn ghi nhân những tên tuổi
Kim Vui, Mộng Tuyền, Thảo Sương, Kim Xuân, Thanh Lan, Thiên Trang, Ngọc
Minh... Đạo diễn sung sức nhất thời kỳ này là Lê Mông Hoàng. Năm 1966, tại Đại hội
điện ảnh Á Châu lần thứ 13, nữ diễn viên Xuân Dung đã được trao tặng giải thưởng
nữ Diễn viên Xuất sắc nhất với vai diễn trong phim Đôi mắt người xưa do hãng Liêm
Phim sản xuất. Đây là giải thưởng quốc tế lớn đầu tiên của các diễn viên điện ảnh
miền Nam.
Giai đoạn 1970-1975
Cuối thập niên 1960 ở miền Nam, trong khi cải lương ngày càng sa sút thì điện ảnh lại
phát triển mạnh mẽ, bước vào thời kỳ hoàng kim. Với hơn 30 hãng phim hoạt động,
kinh doanh điện ảnh thực sự có lãi. Số lượng phim tăng lên nhanh chóng: năm 1970
có 6 phim, năm 1971 có 24 phim và đỉnh cao là năm 1972 với 29 phim. Các hãng
phim đã nhìn xa trông rộng, biết tìm đối tác, hợp tác cùng tác nước trong khu vưc để
sản xuất. Nếu như trước đây, các hãng phim muốn nhập phim nước ngoài thì phải từ
mình sản xuất một phim trong một năm, thì từ năm 1969, chính quyền Việt Nam Cộng
Hòa cho phép nhập phim tự do. Tuy thế việc làm phim trong nước với nhiều dự án
vấn phát triển mạnh mẽ.
Ngoài các diễn viên cải lương, điện ảnh còn chứng kiến sự lấn sân của các diên viên
kịch, ca sĩ như: Bạch Tuyết với những phim Như hạt mưa sa, Như giọt sương khuya,
Lan và Điệp, Con ma nhà họ Hứa; Băng Châu, Bạch Liên với Men tình mùa hạ, Hoa
mới nở; Như Loan với Đời chưa trang điểm; Phương Hồng Ngọc với Nắng chiều,
Nàng; Phương Hoài Tâm, Thanh Lan với Tiếng hát học trò, Trường tôi; Trang Thanh
Lan với Xa lộ không đèn; Ngọc Đan Thanh với Quái nữ Việt quyền đạo; Mai Lệ
Huyền với Gác chuông nhà thờ, Ly rượu mừng; Tuyết Lan, Quốc Dũng với Trường
tôi; Kiều Phượng Loan, Bạch Lan Thanh...
Từ năm 1970, điển ảnh Việt Nam Cộng Hòa liên tục cử nhiều đoàn đi tham dự các

liên hoan phim quốc tế tại Liên bang Đức, Ấn Độ, Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan,
Campuchia... Được sự quan tâm của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, năm 1970,
Giải thưởng Điện ảnh ra đời. Các hãng Mỹ Vân, Cosunam phim, Việt Nam Phim,
Giao Chỉ phim... xin phép những dự án xây dựng phim trường. Từ cuối 1969, các
phim sản xuất bắt đầu là phim màu, thường được in tráng ở nước ngoài, nhiều nhất là
ở Nhật Bản. Chính phủ còn miễn thuế nhập cảng phim màu, tạo điều kiện cho tác nhà
làm phim. Liên tiếp trong các năm 1971, 1972, 1973, 1974 ở các kỳ liên hoan phim
trong khu vực, Việt Nam Cộng Hòa đều gặt hái được những giải thưởng tôn vinh các
diễn viên Kiều Chinh, Thanh Nga, Thẩm Thúy Hằng, Kim Cương...
Giai đoạn này, đề tài làm phim cũng đa dạng hơn, phục vụ thị hiếu đông đảo khán giả.
Con mà nhà họ Hứa sản xuất trong hai năm 1972 và 1973 là bộ phim kinh dị đầu tiên
của Việt Nam. Bộ phim của Dạ Lý Hương phim, đạo diễn Lê Hoàng Hoa với các diễn
viên Năm Châu, Bạch Tuyết, Thanh Tú, Dũng Thanh Lâm, Tư Rọm... đã thắng lớn về
doanh thu. Những bộ phim hài như Năm vua hề về làng (1974), Tứ quái Sài Gòn
(1973), Sợ vợ mới anh hùng (1974) đều là những phim ăn khách, thu hút khán giả tới
rạp. Khi đó điện ảnh võ thuật Hồng Kông đang có sức hấp dẫn mạnh mẽ nên một số
nhà làm phim cũng đi theo hướng này. Tiêu biểu như Long hổ sát đấu (1972), Hận
thù, Quái nữ Việt quyền đạo.
Một số tác phẩm văn học cũng được các nhà làm phim đưa lên màn ảnh như Trống
mái (1971), Gánh hàng hoa (1971) dựa theo tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn, Điệu
ru nước mắt (1971), Vết thù trên lưng ngựa hoang (1971) của nhà văn Duyên Anh,
Chân trời tím (1970) của Văn Quang. Một đề tài hấp dẫn nữa là khai thác thế giới
giang hồ, vũ nữ với những phim Sau giờ giới nghiêm (1972), Xa lộ không đèn (1972),
Vết thù trên lưng ngựa hoang (1971), Mãnh lực đồng tiền (1971)... Cùng với đó phản
ánh đời sống của giới trẻ thành thị Loan mắt nhung (1970), Hoa mới nở (1974), Hè
72, Anh yêu em...
Loan mắt nhung năm 1970 của đạo diễn Lê Dân được xem là bộ phim chân thực hấp
dẫn phản ánh đúng một bộ phận thanh thiếu niên Sài Gòn thời ấy. Phim dài 1 giờ 45
phút, phỏng theo truyện xã hội đen của Nguyễn Thụy Long, người đã sống một thời
gian dài cùng du dãng và gái điếm. Với các diễn viên Huỳnh Thanh Trà trong vai
Loan mắt nhung, Thanh Nga trong vai Xuân, người yêu của Loan mắt nhung, Ngọc
Phu trong vai Thanh Italy, Kim Xuân vai Dung...phim có nhiều tình tiết éo le, những
cảnh vũ trường ăn chơi của Sài Gòn.
Năm 1970, Liên ảnh công ty bỏ ra một số tiền khổng lồ 14 triệu đồng cho Lê Hoàng
Hoa làm phim Chân trời tím dựa theo tiểu thuyết của Văn Quang. Ban đầu Liên Ảnh
công ty mời Kiều Chinh đóng vai Liên và đạo diễn được chọn là Hoàng Vĩnh Lộc,