
Lịch sử điện ảnh
I.Giới thiệu
Lịch sử điện ảnh thế giới là bài viết nói về sự ra đời và phát triển của bộ môn nghệ
thuật này trên phương diện nghệ thuật, thương mại, khoa học của các nhà pháp minh,
làm phim ở khắp nơi trên thế giới.
II.Sơ khai
Đầu thế kỷ 19, các nhà khoa học đã phát hiện một hiện tượng lý thú về khả năng của
đôi mắt chúng ta, nó có khả năng lưu lại hình ảnh của 1 vật trong khoảng một phần
nhỏ giây sau khi vật đó được dời đi. Đó là sự lưu ảnh (Persistence of vision), mắt
người có khả năng nhận ra dư ảnh, và đó là tiền đề cho sự ra đời của điện ảnh (motion
pictures : những bức ảnh chuyển động). Tuy nhiên mối quan hệ giữa nó và nhận thức
về chuyển động vẫn cho đến nay vẫn còn chưa được làm sáng tỏ.
1. Những thực nghiệm ban đầu
Khái niệm về lưu ảnh đã khuyến thích những thử nghiệm đầu tiên với các thiết bị
phim ảnh trong suốt thế kỷ 19. Kể đến đầu tiên là thiết bị có tên slotted disk với những
hình vẽ liên tiếp bao quanh 1 cái đĩa, khi người ta quay chiếc đĩa trước 1 cái gương, và
khi được nhìn qua những khe hở (slots) ta sẽ thấy chuyển động. Zoetrope, một thiết bị
được phát triển vào khoảng những năm 1830, là một cái trống bên trong rỗng với một
dải bức ảnh nằm bên trong bề mặt của nó. Khi quay, nó cho hiệu ứng tương ứng như
Slotted disk. Vào những năm 70 của thế kỷ 19, nhà phát minh người Pháp Émile
Reynaud cải tiến ý tưởng này bằng cách đặt những chiếc gương ở tâm cái trống. Vài
năm sau, ông phát triển ra 1 phiên bản máy chiếu sử dụng gương phản xạ và thấu kín
để phóng to hình ảnh. Năm 1892, ông bắt đầu trình diễn tại Paris, với hàn trăm bức
ảnh đặt trong một cuộn (reel), thông qua thiết bị của mình, ông giới thiệu một loạt ảnh
động liên tiếp trong 15 phút.

Sự phát triển của nhiếp ảnh đến những năm 1830 đã làm cho các nhà phát minh nhận
thức ra được việt kết hợp thiết bị chiếu ảnh chuyển động với thiết bị chụp ảnh để tạo
ra những hình ảnh chuyển động thực sự. Một thực nghiệm nổi tiếng diễn ra tại
California trong những năm 1870, trùm đường sắt Leland Stanford thuê nhà nhiếp ảnh
người Anh Eadweard Muybridge để giải quyết việc đánh cược có hay không 1 lúc nào
đó, 4 chân của con ngựa trong lúc chạy đồng thời không chạm đất. Muybridge đặt 12
máy ảnh trên đường ngựa chạy kèm theo những đoạn chỉ được giăng ngang trên
đường và có 1 đầu nối với cửa chớp của máy chụp. Như vậy khi con ngựa chạy, nó sẽ
làm đứt chỉ và các máy sẽ chụp được những bức ảnh liên tiếp. Dĩ nhiên Leland
Stanford đã có câu trả lời là CÓ, còn với Eadweard Muybridge, ông đã mang những
hình ảnh đó đi công chiếu với 1 thiết bị của ông làm có tên là Zoopraxiscope.
Thực nghiệm của Muybridge đã thôi thúc nhà khoa học người pháp Étienne-Jules
Marey phát minh một thiết bị lưu và phân tích chuyển động của con người và loài vật.
Ông đặt tên cho nó là Chronophotographic, nó có khả năng chụp ảnh này chồng lên
ảnh khác. Công việc vủa Marley được hổ trợ rất nhiều với sự phát triển của vật liệu
phim ảnh. Năm 1885, nhà phát minh người Mỹ George Eastman giới thiệu những tấm
giấy "phim" bắt nhạy tốt hơn thay thế cho bản kính đã được dùng trước đó. Sau này,
ông tiếp tục thay thế nó bằng celluloid, một chất dẻo tổng hợp được tráng bằng 1 lớp
chất bắt ánh sáng galatin (gelatin emulsion).
2. Thomas Alva Edison và William K. L. Dickson
Nhà phát minh nổi tiếng người Mỹ Thomas Alval Edison bắt đầu để ý đến motion
pictures vào những năm 1890, bước tiếp những thành công của Muybridge, Marey và
Eastman. Tại những thí nghiệm của mình ở West Orange, New Jersey, Edison phân
công cho nhân viên người Anh, William K. L. Dickson có nhiệm vụ chế tạo ra chiếc
máy có khả năng ghi lại những chuyển động thật và 1 chiếc máy để xem lại những kết
quả đó. Đến năm 1891, Dickson cho ra mắt một chiếc máy "quay phim" gọi là
Kinetograph và một chiếc máy "chiếu phim" gọi là Kinetoscope.
Kinetogaph hoạt động được nhờ một mô tơ điện làm cho những celluloid film chạy
qua trước ống kính camera. Ban đầu chiếc mô tơ này khá đồ sộ và không di chuyển

được, nhưng sau đó nó nhanh chóng được thay thế bằng tay quay camera có khả năng
di chuyển. Một nhân tố đóng góp vào thành công Dickson là cơ cấu bánh răng có
nhiệm vụ liên kết tới cửa chập camera, cuộn phim sẽ tự động dừng lại sau mỗi "kiểu".
Và khái niệm khung hình (frame) xuất hiện từ đây. Khi mới ra đời, các camera có rất
nhiều tốc độ khác nhau cho 1 frame, nhưng từ năm 1920, 24 khung hình trên giây đã
thành chuẩn.
Đầu năm 1893, Edison lập studio tại phòng thí ngiệm, ngày 5-9-1983 ông tổ chức
buổi công diễn đầu tiên, tuy nhiên một lần chiếu chỉ cho phép được 1 người xem với
máy chiếu Kinetoscope. Kinetoscope như một cái hộp chứa môtơ và cửa chụp y như
camera, nó sẽ cho những đoạn phim dương bản chạy qua nguồn sáng điện, làm rõ
những tấm ảnh rất nhỏ và nó được xem qua một cửa sổ nhỏ. Rõ ràng điều mà Edison
và Dickson nghĩ bây giờ là phải làm sao để máy chiếu của mình có thể chiếu tại khán
phòng lớn, như Émile Reynaud đã làm được ở Paris.
3. Anh em Lumière
Tại Pháp, anh em Auguste và Louis Lumière theo đuổi công việc cải tiến những thành
công của Edison. Đến năm 1895, họ phát triển ra một chiếc camera nhẹ, cầm bằng tay,
có sử dụng máy kẹp để nâng cao cuộn phim. Họ đặt tên cho nó là Cinématographe, và
sớm khám phá ra có thể dùng nó để chiếu trên màn ảnh lớn khi được kết nối với máy
chiếu. Trong suốt năm 1895 họ quay một bộ phim và chiếu thử cho một nhóm người.
Đến ngày 28 tháng 12 cùng năm, những khung hình đầu tiên được chiếu cho công
chúng ở Paris và đây được xem là buổi chiếu phim đầu tiên.
Ở những nơi khác, công việc của các nhà phát minh về chiếc máy quay và máy chiếu
phim vẫn bận rộn. Tại Đức, anh em Emil và Max Skladanowsky chế tạo ra một thiết
bị khác và chiếu phim tại Berlin vào tháng 11 năm 1895. Tại Anh, một thiết bị phát
triển bởi Birt Acres và Robert W. Paul được dùng để chiếu phim tại London tháng 1
năm 1896. Tại Mỹ, một máy chiếu có tên Vitascope được giới thiệu trong khoảng thời
gian này bởi Charles Francis Jenkins và Thomas Armat. Armat sau này tham gia hợp
tác với Edison để sản xuất ra máy chiếu Vitascope. Và nó được cho ra mắt vào tháng
4 năm 1896 tại New York.

Trong những nổ lực tương tự như vậy, anh em Lumière còn nắm giữ một thứ duy nhất
cho mình đó là họ đang trở thành những nhà làm phim chuyên nghiệp. Trong vai trò
mới họ cũng làm tốt như đã từng làm khi còn là nhà phát minh, nhà sản xuất. Các bộ
phim được làm từ năm 1895 đến 1896 chủ yếu là những bộ phim ngắn nhưng rất quan
trọng, những bộ phim đó được xem là cột mốc đầu tiên trong lịch sử hơn một thế kỷ
của ngành điện ảnh. Arroseur et arrosé (Waterer and Watered, 1896) là một đoạn hài
kịch ngắn dựa theo đoạn hoạt hình ở báo, nói về một người làm vườn lấy vòi nước xịt
vào người khác như một trò đùa của con người. La sortie de l usine Lumière à Lyon
(Workers Leaving the Lumiere Factory, 1895) và Arrivée d un train en gare (Arrival
of a Train at La Ciotat, 1896), nói về chuyến tàu tới ga và hành khách xuống tàu , là
những bộ phim mà anh em Lumière gọi là actuality films, phim nói về những sự kiện
có thật hơn là những câu chuyện được đóng bởi diễn viên.
III. One-Reellers
Trong suốt muời năm sau đó là giai đoạn của chiếu phim, phim được chiếu như một
phần của các chương trình tạp kỹ, tại các lễ hội và các buổi họp đông đúc, tại các
giảng đường hay ở nhà thờ và dần dần chỉ cần 1 khoảng không gian là có thể tổ chức
một buổi chiếu phim. Hầu hết các bộ phim dài không quá 10 đến 12 phút, điều này
phản ánh độ dài của mỗi cuốn phim có thể đặt trong 1 cuộn phim chuẩn (reel) ở máy
chiếu (One-Reelers). Có nhiều tác phẩm ở 2 thể loại comedy và actual nối tiếp sau
những thước phim đầu tiên của anh em Lumière. Mục tiêu của những bộ phim này là
sự kinh ngạc, không tưởng, gây cười. Nhưng các nhà làm phim cũng nhanh chóng lập
ra những hướng đi mới cho mỗi bộ phim, đặc biệt là tính hình tượng và tường thuật.
Nhà làm phim, ảo thuật người Pháp Georges Méliès được biết đến với như một nhà
làm phim nổi tiếng ở thể loại phim hình tượng (fantasy) trong buổi đầu của ngành điện
ảnh. Ông khai thác nhiều phương tiện mới nhằm nâng cao những cảnh đầy "huyền bí
ma thuật", đáng kể là kỷ xảo kỷ thuật stop-motion (xem Movie). Trong số hơn 100 tác
phẩm của mình, có thể Le voyage dans la lune (A Trip to the Moon, 1902) là tác phẩm

nổi tiếng nhất của Méliès.
Tại Mỹ, nhà chiếu phim "thời trước" Edwin S.Poster chịu tránh nhiệm gánh việc làm
phim tại công ty Edison vào năm 1901, và ông đã làm những bộ phim dài hơn nói về
những câu chuyện. Và tác phẩm nổi tiếng nhất của Poster và có lẻ nổi tiếng nhất trong
thời kỳ đầu của motion pictures là The Great Train Robbery (1903), nó thiết lập nên
điện ảnh là một phương tiện gải trí mang tính thương mại. Với những cảnh được thay
đổi nhanh chóng, bao gồm những cảnh trên xe lửa đang chạy,bộ phim đã mang tới cho
người xem cái nhìn chính xác và gần gũi, nó đã trở thành tiêu chuẩn của điện ảnh.
The Great Train Robbery và những bộ phim truyện sau này (story films) đã thúc đẩy
việc mở rộng những buổi trình chiếu trên khắp nước Mỹ vào năm 1905, sự xuất hiện
ngày càng nhiều các rạp chiếu nickelodeon, người xem phải trả 5 cent để được vào
xem (nickelodeon : five-cent movie theater) đã đặt ra yêu cầu phải làm ra nhiều phim
và kéo theo đó là chi phí làm phim, ngoài ra nó còn bị những nhà cải cách xã hội phê
phán là thiếu vệ sinh, thiếu an toàn trong các rạp chiếu và những nội dung đồi bại, xấu
xa trong mỗi bộ phim. Năm 1908, Edison đứng ra thành lập Motion Picture Patents
Company (MPPC), liên kết những nhà sản xuất lại với những mục tiêu cơ bản như :
quản lý việc sản xuất và phát hành nhằm loại bỏ các rạp giá rẻ, nâng tiền vé vào cửa
lên, hợp tác với các cơ quan kiểm duyệt, loại bỏ việc lưu trữ phim của các các nhà sản
xuất không phải là thành viên. Dĩ nhiên những nhà sản xuất độc lập ngăn không cho
MPPC kiếm được nguồn liệu và thực hiện các bộ phim nổi tiếng. Họ còn đi tiên
phong theo hướng nhiều cuộn phim (mutli-reels), làm những bộ phim truyện dài. Đến
năm 1915, MPPC chịu sự tấn công của chính phủ Mỹ vì cho rằng đó là độc quyền bất
hợp pháp (cho dù việc này không ăn thua), việc kết hợp lại thành những công ty sẽ
giúp nó thống trị việc làm phim ở Mỹ trong 10 năm tiếp theo.
IV. Phim câm
Với những kinh nghiệm còn thiếu sót, hầu hết các bộ phim đến cuối thập niên 20 của
thế kỷ 20 đều không có tiếng. Nhưng phim câm hiếm khi "câm". Hầu hết các bộ phim
trong thời kỳ đầu được chiếu với phần đệm của đàn piano hay organ, thỉnh thoảng có