
Việc tiến hành nghiên cứu ở Việt Nam là một trải nghiệm khó khăn, vì (cũng như ở nhiều
xã hội khác) người ta không quen với việc phỏng vấn độc lập và bảo mật thông tin
(Adair, 1995; Yin 1985). Bên cạnh đó, cũng không thể đánh giá thấp vai trò của các mối
quan hệ trong việc bảo mật thông tin từ người quản lý.
Chẳng hạn, trong dự án này, nhờ sinh viên liên hệ, chúng tôi có được danh sách khảo sát
thích hợp cho đề tài – những người ở vị trí lãnh đạo cao. Thực vậy, việc có đến 36 giám
đốc điều hành cấp cao của DNNN đồng ý tham gia vào dự án nghiên cứu khoa học này là
một bước đột phá lớn. Do đó, dù “mẫu” của chúng tôi (n=36) chỉ chiếm 13% tổng số
DNNN (n=280) ở Hà Nội, chúng tôi xem nghiên cứu này là đóng góp đặc biệt và giá trị
cho kho kiến thức học thuật. Trong hoàn cảnh này, cách khả thi nhất để tiếp cận được
nhóm các nhà quản lý cao cấp là thông qua các mối quan hệ. Được hỗ trợ bởi nghiên cứu
của Weiss, chúng tôi thấy rằng tốt hơn hết là tiến hành nghiên cứu thí điểm với mẫu nhỏ,
còn hơn là không nghiên cứu gì. Tuy nhiên, chúng tôi cũng lưu ý những cảnh báo của
Weiss về sự không thích hợp khi khát quát hóa những khám phá này, và chúng tôi sẽ cẩn
trọng khi đưa ra kết luận.
Công cụ nghiên cứu là bảng câu hỏi ngắn, gồm 3 mục được tiến hành thông qua phỏng
vấn trực tiếp. Sau đó dữ liệu sẽ được phân loại và lập những bảng tần số để đưa ra những
đề tài chung.
Mẫu thử gồm 4 ngân hàng, 11 công ty thương mại (xuất/nhập khẩu), 7 công ty tiện ích
công cộng (bất động sản, gas, nước, điện), 2 công ty trong ngành khách sạn và du lịch, 9
nhà máy sản xuất, 1 hãng hàng không, và 2 công ty dịch vụ. Với mẫu thử kết hợp nhiều
công ty thuộc nhiều ngành nghề khác nhau như vậy, chúng tôi không cố gắng trình bày
dữ liệu theo khối/ngành. Người ta thấy rằng, việc các DNNN chịu sự điều phối của các
quy định và điều kiện kinh tế như nhau sẽ đảm bảo tính thống nhất của mẫu. Ngoài ra,
cũng có nhiều tài liệu nghiên cứu xem các DNNN như một mục (hay khối/ngành) riêng.
Các khám phá nghiên cứu
Nhận biết cuộc khủng hoảng châu Á ảnh hưởng sẽ như thế nào tới các DNNN trong
vòng 5 năm tới
Câu hỏi đầu tiên: “Trong năm năm tới, doanh nghiệp của bạn sẽ bị ảnh hưởng như thế
nào bởi cuộc khủng hoảng tài chính hiện tại? … Hãy liệt kê ra những khía cạnh đó”. Có
35 người trả lời và một vài trong số đó đã liệt kê nhiều hơn một khía cạnh. (xem Hình 1).
Từ Hình 1, rõ ràng năng suất là mối quan tâm chính. Mặc dù ở Việt Nam mức lương
tương đối thấp nhưng nhiều ngành công nghiệp do nhà nước quản lý vẫn không có khả
năng cạnh tranh. Cụ thể là ngành dệt may được lựa chọn như một ngành sản xuất bị buộc
phải ký hợp đồng phụ “để tồn tại được trong sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường quốc
tế” (Huong 1998, Manh 1998 ). Ở những ngành khác, chẳng hạn như xi măng, thì chất
lượng thấp và giá kết hợp với nhau khiến cho sản phẩm dễ bị ảnh hưởng bởi sự cạnh
tranh từ bên ngoài (Nyoc 1998). Chính vì thế, tầm quan trọng của năng suất phù hợp với
những kết luận được rút ra từ những tài liệu chuyên môn (Le, 1998).
Về sự lo ngại tăng trưởng quốc nội sẽ chậm lại trong năm năm tới (Hình 1), thị trường
hàng hóa và dịch vụ suy giảm đáng kể, thì hình như nó đã là mối quan tâm lớn từ trước,
khi mà Việt Nam đã dần quen với tỷ lệ tăng trưởng cao. Ví dụ trong năm 1996, xuất khẩu
tăng 33% đạt 7,2 tỷ USD và GDP cũng tăng 9,3%. Sự phát triển đó được so sánh với tăng
trưởng của Trung Quốc 9,7 %, vượt xa các nền kinh tế phương Tây (Canada tăng 1,5%,
Mỹ tăng 2,4%) (theo PECC 1998).