ĐỘT QỤY (STROKE)

Phần 1

15/ NHỒI MÁU Ổ KHUYẾT (LACUNAR INFARCT) LÀ GÌ ?

Ổ khuyết (lacuna) là chữ Latin để chỉ một hốc hay xoang rỗng nhỏ.

Các ổ khuyết não (cerebral lacunes) chỉ nhiều nhồi máu nhỏ do tắc các

nhánh xuyên (penetrating branches) nhỏ (đuờng kính 50- 150 microns) của

huyết quản não lớn.Mô não bị hoại tử mềm ra và bị mục, để lại những xoang

nhỏ ( 1-3 mm đường kính), thấy rõ lúc giải phẫu tử thi. Các ổ khuyết gây ra

các triệu chứng cảm giác và vận động thay đổi tùy theo vị trí của chúng.

Nhiều ổ khuyết có thể đưa đến mất khả năng trí tuệ với thương tổn trí nhớ

gần (recent memory). Trong vài trường hợp sa sút trí tuệ nặng có thể xảy ra.

Có 4 hội chứng ổ khuyết (lacunar syndrome) cổ điển :

1. Liệt nhẹ nửa người thuần vận động (Pure motor hemiparesis) : liệt

thường ảnh hưởng đều nhau mặt, cánh tay, và cẳng chân ở một phía của cơ

thể, với sự bảo tồn chức năng cảm giác, trí tuệ, và ngôn từ.

2. Mất thuần cảm giác nửa người (Pure hemisensory loss) : mất một

cảm giác ở một phía của cơ thể, với sự bảo tồn chức năng vận động, trí tuệ

và ngôn từ.

3. Loạn vận ngôn-hội chứng bàn tay vụng về (Dysarthria-clumsy hand

syndrome) : liệt chủ yếu ở bàn tay và loạn vận ngôn (nói lớ).

4. Thất điều-liệt nhẹ nửa người (Ataxia-hemiparesis) : thất điều và liệt

mặt, cánh tay, và cẳng chân ở một phía của cơ thể, kết hợp với thất điều.

16/ NHỒI MÁU VÙNG BIÊN (WATERSHED OR BORDER-

ZONE INFARCT) LÀ GÌ ?

Một nhồi máu vùng biên (watershed infarct) để chỉ một vùng thiếu

máu cục bộ khu trú não, do giảm áp lực đẩy máu (perfusion pressure). Nhồi

máu vùng biên điển hình xảy ra cả hai bên nơi những vùng biên giới giữa

các huyết quản lớn như động mạch não giữa (middle cerebral artery) và

động mạch não sau (posterior cerebral artery). Nhồi máu vùng biên hai bên

thường là do hạ huyết áp toàn thể. Những nhồi máu vùng biên một bên có

thể được liên kết với hep mạch máu lớn một bên.

17/ NÓI VỀ ĐIỀU TRỊ ĐỘT QỤY DO THIẾU MÁU CỤC BỘ

CẤP TÍNH (ACUTE ISCHEMIC STROKE).

Ngăn ngừa đột qụy qua biến đổi yếu tố nguy cơ, các tác nhân chống

tiểu cầu, và kháng đông bằng warfarin trong trường hợp rung nhĩ đã tác

động một cách thuận lợi lên tỷ lệ xảy ra những tai biến mới. Tuy nhiên , điều

trị hiệu quả đột qụy trong bối cảnh cấp tính đã chứng tỏ là một công việc

khó hơn.

Năm 1995, sự sử dụng liệu pháp tan huyết khối bằng đường tĩnh mạch

(intravenous thrombolytic therapy) chất hoạt hóa plasminogen mô (rt-PA) đã

chứng tỏ cải thiện tiên lượng nơi những bệnh nhân bị đột qụy cấp tính nếu trị

liệu có thể được bắt đầu trong vòng 3 giờ từ khi phát khởi các triệu chứng.

Những thử nghiệm khác dùng rt-PA bằng đường tĩnh mạch đã không chứng

tỏ thành công bởi vì chủ yếu là do time window (đến 5 giờ từ khi phát khởi

triệu chứng). Những thứ nghiệm khác dùng rt-PA bằng đường tĩnh mạch đã

không chứng tỏ thành công bởi vì chủ yếu là do time window (đến 5 giờ từ

khi phát khởi triệu chứng). Mới đây hơn, sự sử dụng prourokinase bằng

đường trong động mạch đã chứng tỏ lợi ích trong điều trị tắc động mạch não

giữa nếu điều trị có thể được bắt đầu trong vòng 6 giờ từ khi triệu chứng

khởi phát. Những nghiên cứu đang được tiến hành để nghiên cứu liệu pháp

phối hợp với rt-PA cho bằng đường tĩnh mạch, được cho tiếp theo sau bởi rt-

PT bằng đường động mạch, để xác định lợi ích cộng lại so với sự sử dụng

riêng rẽ mỗi điều trị.Mục đích là tái lập lưu lượng máu trước khi chết mô.

Biến chứng quan trọng của liệu pháp tan huyết khối là xuất huyết trong não.

Trong công trình nghiên cứu 1995, những tỷ lệ xuất huyết nói những bệnh

nhân nhận rt-PA là trong khoảng 6%, trong khi những bệnh nhân không

nhận rt-PA có tỷ lệ xuất huyết là 0,6%

Sự sử dụng các thuốc chống tiểu cầu trong giai đoạn cấp tính đã được

chứng tỏ cho một lợi ích nhỏ nhưng đáng kể về mặt thống kê, và sự phối hợp

aspirin với rt-PA cũng đã chứng tỏ lợi ích vẻ mặt tái tưới máu, mặc dầu

nguy cơ xuất huyết có thể gia tăng. Sự sử dụng héparine trong giai đoạn cấp

tính của đột qụy đã là một chủ đề được bàn cải trong nhiều năm.Việc sử

dụng héparine được căn cứ trên quan niệm sự lan tràn của cục máu đông hay

nghẽn mạch tái phát (recurrent embolism) từ nguồn gốc tim hay mạch máu,

như là nguyên nhân của sự trở nặng các triệu chứng thần kinh trong đột qụy.

Trị liệu kháng đông đã chứng tỏ lợi ích trong việc làm giảm tỷ lệ đột qụy nơi

những bệnh nhân với rung nhĩ. Tuy nhiên việc sử dụng héparine trong điều

trị đột qụy do thiếu máu cục bộ cấp tính vẫn đang được bàn cãi.

Những phương thức điều trị khác với trị liệu tiêu sợi huyết

(thrombolytic therapy) cũng đang được nghiên cứu. Glutamate đã được

chứng tỏ là một chất trung gian quan trọng của chết tế bào trong các mô hình

đột qụy do thiếu máu cục bộ (ischemic stroke). Các tác dụng của glutamate

được trung gian bởi các thụ thể glutamate, là những kênh calcium nhạy cảm

với điện thế (voltage-sensitive calcium channel). Tiếc thay không có một

công trình nghiên cứu nào xem xét các thuốc phong bế các kênh này đã

chứng tỏ là hữu ích. Những nghiên cứu khác nghiên cứu các tác nhân bảo vệ

thần kinh (neuroprotective agents) cũng không chứng tỏ lợi ích về mặt lâm

sàng

Những cân nhắc điều trị khác gồm có việc tránh giảm huyết áp một

cách quá mức. Bởi vì lưu lượng máu chung quanh những vùng não bố bị

hoại tử vốn đã thấp, sự giảm lưu lượng máu thêm nữa bằng cách hạ huyết áp

có thể dẫn đến một sự lan rộng vùng bị hoại tử. Do đó các huyết áp cao nói

chung được mong muốn trong bối cảnh đột qụy cấp tính, và các cố gắng làm

hạ huyết áp cần nên tránh. Việc sử dụng các thuốc an thân trong bối cảnh đột

qụy cấp tính cũng nên được giảm thiểu, bởi vì sự sử dụng chúng có thể cản

khả năng của thầy thuốc lâm sàng trong việc theo dõi chuỗi các thăm khám

thần kinh.

Sau cùng, những cân nhắc về săn sóc thường quy, như những buổi

luyện tập biên độ vận động (rang-of-motion exercises) đối với các chi bị làm

bất động hay yếu đi do đột qụy ; sự ngăn ngừa hít dịch, nghẽn mạch phổi, và

loét da ; và sự hỗ trợ dinh dưỡng (nutritional support), cũng quan trọng.

18/ MÔ TẢ BỆNH NÃO DO CAO HUYẾT ÁP

(HYPERTENSIVE ENEPHALOPATHY) ?

Thuật ngữ này chỉ một bệnh não (encephalopathy), được đặc trưng

bởi đau đầu, nôn, mửa, rối loạn thị giác, co giật, lú lẫn, và hôn mê trong

khung cảnh cao huyết áp nghiêm trọng. Một lý thuyết gợi ý rằng sự gia tăng

nhanh huyết áp làm mất sự điều hòa tự trị của tuần hoàn não, tạo nên những

vùng co thắt mạch và thiếu máu cục bộ khu trú (focal vasospasm or

ischemia), cùng với những vùng giãn mạch và tăng lưu lượng máu não. Phù

não là một tính chất thường xảy nhưng không hằng định. Những nguyên

nhân liên quan với tuổi tác và gồm có (1) viêm vi cầu thận cấp tính (trẻ em

và thiếu niên), (2) viêm vi cầu thận mãn tính (những người trưởng thành trẻ

tuổi), (3) sản giật (phụ nữ mang thai), và (4) cao huyết áp ác tính (bệnh nhân

hơn 30-40 tuổi). Dấu hiệu luôn luôn có là cao huyết áp toàn thân. Phù gai

mắt (papilledema) hầu như luôn luôn hiện diện, và phải nghi ngờ chẩn đoán

nếu thiếu dấu hiệu này.

19/ TIA LÀ GÌ ?

Một cơn thiếu máu cục bộ tạm thời (TIA : transient ischemic attack)

là một cơn thiếu máu cục bộ có thể hồi phục, không dẫn đến nhồi máu hay

bại liệt vĩnh viễn. Theo định nghĩa, các cơn phải hoàn toàn tan biến trong

vòng 24 giờ ; hầu hết sẽ biến mất trong vòng 1 giờ. Cơn thiếu máu cục bộ

tạm thời động mạch cảnh (carotid TIA) liên kết với bệnh xơ mỡ động mạch

cảnh. Thiếu máu cục bộ trong lãnh vực động mạch cảnh dẫn đến những

khuyết trong thị trường cùng bên hay liệt vận động cảm giác bên đối diện.

Trong trường hợp điển hình, những triệu chứng thị giác và bán cầu não

không xảy ra đồng thời. Mù lòa tạm thời (amaurosis fugax) để chỉ mù một

mắt cùng bên tạm thời do TIA. Các cơn bán cầu đại não tạm thời (transient

hemispheric attack) để chỉ sự thiếu máu cục bộ nơi vùng của động mạch não

giữa với liệt vận động và cảm giác khu trú ở cánh tay và bàn tay đối diện.

20/ BỆNH SỬ TỰ NHIÊN CỦA TIA ?

Bệnh sử tự nhiên của TIA được xác định bởi bệnh lý của động mạch

cảnh cùng bên. Nơi những bệnh nhân với hẹp động mạch nặng (>70%),

nguy cơ bị đột qụy cùng bên trong 24 giờ là 26%. Đối với những bệnh nhân

với hẹp vừa phải (50-69%), nguy cơ là 22% vào lúc 5 năm. Với hẹp tối thiểu

(<30%), nguy cơ là 1% vào lúc 3 năm.

21/ TÁC DỤNG CỦA ASPIRIN LÊN TIA ?

Acetylsalicylic là một chất cản cyclooxygenase, làm giảm sự kết dính

của các tiểu cầu và hạ tỷ lệ mắc phải TIA và đột qụy.

22/ NHỮNG BỆNH NÀO ẢNH HƯỞNG LÊN CÁC ĐỘNG

MẠCH CẢNH ?

Xơ mỡ (atherosclerosis)là thông thường nhất (chịu trách nhiệm 90%

các thương tổn ở các nước Tây Phương). Động mạch cảnh cũng có thể bị

thương tổn bởi loạn sản xơ-cơ (fibromuscular dysplasia), những bệnh động

mạch do viêm (ví dụ Takayasu’s arteritis), đè ép ngoại tại (ví dụ ung thư) và

chấn thương.

23/ NHỮNG TRIỆU CHỨNG THÔNG THƯỜNG NHẤT CỦA

BỆNH ĐỘNG MẠCH CẢNH ?

- TIA (transient ischemic attack : cơn thiếu máu cục bộ tạm thời)

- RIND

- CVA hay Stroke

- Amaurosis Fugax (mù lòa tạm thời).

24/ Ý NGHĨA CỦA HẸP ĐỘNG MẠCH CẢNH ?

Hẹp động mạch cảnh (carotid stenosis) có thể đưa đến thiếu máu cục

bộ não, được thể hiện bởi các đợt thiếu máu cục bộ não (TIA) hoặc, trong

những trường hợp nặng hơn, bởi đột qụy. Thiếu máu cục bộ (ischemia)

thường là kết quả của vi nghẽn mạch do xơ mỡ động mạch (atherosclerotic

microembolism) hơn là nhồi máu phần xa do hẹp động mạch cảnh.

25/ TIẾNG THỔI ĐỘNG MẠCH CẢNH CÓ Ý NGHĨA GÌ ?

Tiếc thay, một tiếng thổi động mạch cảnh (carotid bruit) là một chỉ

dấu tổng quát của chứng xơ vữa động mạch (atherosclerosis) và rất ít đặc

hiệu. Tiếng thổi này có tính chất tiên đoán một biến cố tim hơn là thần kinh.

Mặc dầu một tiếng thổi chỉ nguy cơ gia tăng bị những biến cố thần kinh,

nhưng biến cố này cũng có thể xảy ra ở phía bên đối diện cũng như ở phía có

tiếng thổi.

26/ CƯỜNG ĐỘ CỦA TIẾNG THỔI CÓ TƯƠNG QUAN VỚI

MỨC ĐỘ HẸP ĐỘNG MẠCH HAY KHÔNG ?

Không. Khi một hẹp động mạch tiếng triển, tiếng thổi bị giảm và biến

mắt khi lưu lượng máu dừng lại.

27/ TRẮC NGHIỆM NÀO NÊN ĐƯỢC THỰC HIEN ĐỀ ĐÁNH

GIÁ TIẾNG THỔI ?

Duplex sacnning.

28/ KHI NÀO THÌ PHẪU THẬT ĐƯỢC CHỈ ĐỊNH ĐỔI VỚI

BỆNH ĐỘNG MẠCH CẢNH CÓ TRIỆU CHỨNG ?

Phẫu thuật được chỉ định rõ đối với bệnh động mạch cảnh có triệu

chứng (symptomatic carotid artery disease) liên kết với hẹp > 70%. Sự giảm

nguy cơ tuyệt đối của đột qụy là 17% lúc năm . Những dữ kiện mới đây

cũng gợi ý một lợi ích nhỏ hơn nơi những bệnh nhân với hẹp triệu chứng

50%-69% ( giảm nguy cơ 6,5% lúc 5 năm). Những bệnh nhân với hẹp <

50% không có lợi ích do phẫu thuật.

29/ MỘT BỆNH NHÂN VỚI HẸP KHÔNG TRIỆU CHỨNG CÓ

NÊN ĐƯỢC PHẪU THUẬT HAY KHÔNG ?

Sự giảm tuyệt đối nguy cơ bị đột qụy là 6% trong một thời kỳ 5 năm

nơi những bệnh nhân không triệu chứng với hẹp >60% chịu phẫu thuật cắt

bỏ nội mạc động mạch cảnh (carotid endarterectomy) + aspirin so với những

bệnh nhân được điều trị bởi aspirin đơn độc (5,1% so voi 11%). Do đó CEA

nên được thực hiện đối với bệnh động mạch cảnh không triệu chứng khi

bệnh nhân có hy vọng sống thêm ít nhất 3 năm và khi CEA có thể được thực

hiện với một đột qụy được kết hợp và tỷ lệ tử vong dưới 3%.

30/ HỘI CHỨNG TRỘM DƯỚI ĐÒN (SUBCLAVIAN STEAL

SYNDROME) LÀ GÌ ?

Hội chứng này để chỉ những triệu chứng của bất túc động mạch cột

sống-nền (vertebrobasilar insufficiency) xuất hiện khi thể dục, đặc biệt là

của các cánh tay. Hội chứng phản ánh sự chuyển (hay trộm) máu từ động

mạch đốt sống (vertebral artery) qua động mạch cánh tay (brachial artery).

Khi sự giãn mạch liên kết với thể dục đi đôi với hẹp đoạn gần của động

mạch dưới đòn hay động mạch vô danh (subclavian or innominate artery),

máu có thể chảy ngược lại qua động mạch đốt sống để làm đầy vùng giãn

mạch nơi cánh tay. Hội chứng này được xác nhận khi các triệu chứng được

liên kết với giảm huyết áp nơi một cánh tay và một tiếng thổi trên đòn

(supraclavicular bruit) cùng bên. Hội chứng thường xảy ra về phía trái hơn là

phía phải.

BS NGUYỄN VĂN THỊNH