FLUCONAZOLE VÀ ITRACONAZOLE

TÓM TẮT

Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả điều trị bệnh nấm móng do Candida của Fluconazole và

Itraconazole.

Phương pháp và đối tượng: Thử nghiệm lâm sàng không mù, có đối chứng được

tiến hành trên 62 bệnh nhân bị viêm móng do Candida điều trị tại BV Da Liễu TP.

HCM từ 12/2006 đến 12/2007. Đối tượng nghiên cứu được chia ngẫu nhiên vào 2

nhóm phác đồ Fluconazole (150mg/ tuần x 6 tháng đối với móng tay, 9 tháng đối với

móng chân) và Itraconazole (200mg  2 lần/ngày  7 ngày mỗi tháng x 2 tháng đối

với móng tay, 3 tháng đối với móng chân). Chúng tôi so sánh tỉ lệ đáp ứng lâm sàng

(có cải thiện lâm sàng), tỉ lệ sạch nấm (cấy âm tính) và các tác dụng phụ giữa 2 nhóm.

Kết quả: 62 trường hợp viêm móng do Candida có biểu hiện lâm sàng đa dạng, ở

móng tay và móng chân, bao gồm thể nấm dưới móng bờ xa và rãnh bên (58,1%),

nấm dưới móng phần gốc (29,0%), nấm móng trắng trên bề mặt (12,9%). Các loài

Candida spp. khác (59,7%) chiếm ưu thế hơn Candida albicans (40,3%). Tỉ lệ đáp

ứng lâm sàng ở nhóm Fluconazole là 93,6%, không khác biệt với nhóm Itraconazole

là 96,8% (p=1,00) nhưng Fluconazole cho tỉ lệ sạch nấm cao hơn có ý nghĩa thống kê

(80,7% so với 48,4%, p=0,008). Tác dụng phụ trên lâm sàng đều nhẹ ở cả 2 nhóm

(19,4% và 16,1%, p=0,50); Còn tỉ lệ tăng men gan của Fluconazole và Itraconazole

lần lượt là 3,2% và 0% (p=0,31). Các tác dụng phụ không khác biệt có ý nghĩa thống

kê.

Kết luận: Trên bệnh nấm móng do Candida, Fluconazole hiệu quả hơn Itraconazole.

ABSTRACT

THE EFFICACY OF FLUCONAZOLE AND ITRACONAZOLE IN THE

TREATMENT

OF ONYCHOMYCOSIS CAUSED BY CANDIDA

Pham Thi Mai Anh, Nguyen Tat Thang, Nhu Thi Hoa

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 - Supplement of No 1 - 2009: 332 - 338

Objective: To assess the efficacy of the oral antifungal agents Fluconazole and

Itraconazole in the treatment of the onychomycosis caused by Candida.

Patients and Methods: We conducted an open, randomized controlled trial involving

62 patients with onychomycosis due to Candida, from December, 2006 to December,

2008, at Dermatology-Venereology Hospital, Ho Chi Minh City. These patients were

randomly assigned to receive one of two therapies: Fluconazole (150mg per week,

within 6 months with fingernail, or 9 months with toenail) or Itraconazole (200mg

bid, within 7 continuous days per month, within 2 months with fingernail, or 3

months with toenail). The main outcomes were clinical responses, mycological cure,

and adverse effects.

Results: Of the 62 patients in the study, there were various clinical types of Candida

infection, including distal and lateral onychomycosis (58.1%), proximal subungal

onychomychosis (29.0%), and, superficial white onychomychosis (12.9%) on both

fingernail and toenail. Other Candida spp. (59.7%) predominated over Candida

albicans (40.3%). At the end of the study, there was no significant difference of

clinical responses between Fluconazole group and Itraconazole group (93.6% vs

96.8%, p=1.00). However, the mycological cure rate in the Fluconazole group is

significantly higher than Itraconazole group (80.7% vs 48.4%, p=0.008). The clinical

adverse effects were mild in two groups (19.4% and 16.1%, respectively, p=0.50);

And liver enzym elevation of Fluconazole group and Itraconazole group are 3.2% and

0%, respectively (p=0.31). There was no statistical difference of adverse effects.

Conclusions: Fluconazole is more efficacious than Itraconazole in the treatment of

onychomycosis caused by Candida.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Viêm móng do vi nấm là một bệnh phổ biến, chiếm 20-50% các trường hợp bệnh lý ở

móng, gây mất thẩm mỹ, có thể ảnh hưởng đến các công việc giao tiếp của bệnh nhân

nhất là tổn thương ở móng tay(Error! Reference source not found.). Ba tác nhân gây bệnh chủ

yếu bao gồm vi nấm ngoài da, nấm men và nấm mốc(Error! Reference source not found.). Gần

đây, nhiều báo cáo ở Mỹ chứng tỏ tỉ lệ viêm móng do vi nấm hạt men có khuynh

hướng tăng dần, khoảng 5-17% các trường hợp nấm móng(Error! Reference source not found.).

Tương tự, tại Ấn Độ, Mishra Minati khảo sát 120 bệnh nhân viêm móng đã phát hiện

Candida spp. chiếm 19-21% (7); thậm chí, Jesudanam T. M. phân lập được 58,82%

mẫu nhiễm Candida spp., cao hơn hẳn Dermatophytes (38,2%)(Error! Reference source not

found.). Trong số các loài Candida spp. gây viêm móng, C. albicans là tác nhân thường

gặp nhất, chiếm 70% các trường hợp(Error! Reference source not found.). Tuy nhiên, sự phân bố

C. albicans và Candida non-albicans thay đổi rất nhiều theo vị trí gây bệnh và theo

các vùng địa lý khác nhau(Error! Reference source not found.).

Bên cạnh đó, biểu hiện lâm sàng và hiệu quả điều trị của thuốc kháng nấm thay đổi

tùy theo tác nhân gây bệnh. Theo nhiều y văn, hiệu lực điều trị bệnh nấm móng của

itraconazole cao hơn fluconazole(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not

found.,Error! Reference source not found.). Thế nhưng, tại Việt Nam, nhiều trường hợp thất bại khi

sử dụng itraconazole đã được ghi nhận và vấn đề này vẫn chưa được sự quan tâm

đúng mực tại Việt Nam. Vì vậy khảo sát được tiến hành nhằm xác định hiệu quả điều

trị về lâm sàng và vi nấm của fluconazole và itraconazole đối với bệnh nấm móng do

Candida.

Tổng quan tài liệu

Điều trị nấm móng

Nấm móng là bệnh khó điều trị vì thời gian điều trị kéo dài, chi phí cao và biểu hiện

cải thiện chậm chạp (nhiều tháng) sau khi đã điều trị sạch nấm. Điều quan trọng đầu

tiên là loại bỏ những yếu tố thuận lợi ngoại sinh như tránh tiếp xúc các hóa chất, giữ

móng khô ráo bằng cách mang găng tay và đi ủng… Đồng thời, điều trị các bệnh làm

giảm sức đề kháng như tiểu đường, ngưng kháng sinh và corticoide(Error! Reference source

not found.).

Tại chỗ

Có nhiều thuốc trị nấm men dưới nhiều dạng thuốc bôi như dung dịch màu castellani,

kem ketoconazole... Nhưng có một điều nghịch lý là trong khi khuyên bệnh nhân nấm

móng tránh ẩm ướt, thì lại có chỉ định thoa kem kháng nấm tại móng hai lần một

ngày. Còn dung dịch màu thì gây mất thẩm mĩ trong giao tiếp. Hiện nay, các dung

dịch sơn móng như ciclopirox 8%, amorolfine… có thể tránh những khuyết điểm này,

thuốc trong suốt và khô sau vài phút sơn lên bề mặt móng. Thuốc có chỉ định trong

nấm móng mức độ nhẹ đến vừa và chưa ảnh hưởng liềm móng, nhưng khi dùng đơn

độc, thuốc đạt hiệu quả kém(Error! Reference source not found.). Hơn nữa, ciclopirox chi phí

khá đắt và chưa lưu hành rộng rãi trên thị trường Việt Nam.

Tóm lại tỉ lệ thành công của thuốc uống hầu hết vượt trội hơn thuốc thoa và nấm

móng do nấm men thường đòi hỏi thuốc uống toàn thân. Nếu cần điều trị kết hợp,

chỉ nên sử dụng dung dịch sơn móng hoặc không chỉ định thuốc thoa khác.

Toàn thân

Các nhóm kháng nấm cũ

Trước năm 1990, griseofulvine, amphotericine B và ketoconazole là những thuốc đầu

tay để điều trị bệnh nấm. Nhưng griseofulvine không có khả năng diệt nấm men.

Ketoconazole thuộc nhóm kiềm nấm phổ rộng nhưng thuốc có nguy cơ gây độc cho

gan, kể cả gây tử vong do hoại tử tế bào gan, nhất là khi trị liệu nấm móng kéo dài.

Hiện nay, những nhóm kháng nấm mới đang thay thế các thuốc kháng nấm cũ trong

điều trị nấm móng vì tính an toàn và hiệu quả của các nhóm thuốc này(Error! Reference

source not found.).

Nhóm triazole

Họ azoles có hai nhóm thuốc gồm nhóm imidazole (ketoconazole) và nhóm triazoles

(fluconazole và itraconazole). Cơ chế tác dụng của họ azoles là ức chế hệ thống men

tiểu thể cytochrome p450 của vi nấm, cụ thể là men 14-- demethylase có vai trò

chuyển hóa lanosterol thành ergosterol. Hậu quả là tích tụ 14--methylsterol, làm suy

giảm khả năng thấm của màng, khả năng gắn kết với men của màng và ngưng trệ sự

phát triển của tế bào nấm(Error! Reference source not found.).

Năm 1995, FDA đã chứng nhận Itraconazole trong phác đồ điều trị liên tục nấm

móng tay-chân do dermatophyte. Bên cạnh đó, FDA còn khuyến cáo phác đồ điều trị

từng đợt nấm móng tay: uống 200mg  2 lần/ ngày trong 1 tuần của mỗi tháng, điều

trị trong 2 tháng, một số ít nghiên cứu dùng trong 3 tháng(Error! Reference source not found.)

Nhiều nghiên cứu đã chứng minh hiệu quả của phác đồ điều trị từng đợt nấm móng

chân, uống trong 3-4 tháng nhưng chưa được FDA khuyến cáo(Error! Reference source not

found.).

Các nghiên cứu này ghi nhận tỉ lệ thành công như nhau giữa hai phác đồ điều trị liên

tục và từng đợt. Tỉ lệ sạch nấm từ 45%, 70% đến 90% và tỉ lệ lành bệnh trên lâm sàng

từ 35% - 82%(Error! Reference source not found.).

Fluconazole là thuốc đầu tay trong điều trị nhiễm Candida(Error! Reference source not found.),

nhưng theo Thappa D.M., itraconazole là thuốc hiệu quả nhất trong điều trị nấm

móng do Candida. Fluconazole được FDA chứng nhận trong điều trị bệnh candidiasis

hệ thống (ngoại trừ do tác nhân C. krusei), nhiễm Candida thực quản và hầu

họng(Error! Reference source not found.). Và phòng ngừa bệnh candidiasis ở bệnh nhân AIDS

và ghép tạng(Error! Reference source not found.). Vùng Bắc Mỹ sử dụng fluconazole rộng rãi để

điều trị bệnh nấm móng nhưng FDA vẫn chưa chứng nhận hiệu quả của fluconazole.

Những tính chất về dược động học cho phép thuốc dùng một lần/ tuần. Liều từ 150

mg, 300 mg đến 450 mg mỗi tuần, kéo dài trong 3-6 tháng với móng tay và 6-12

tháng với móng chân(Error! Reference source not found.). Có tác giả đề nghị uống 1viên 150

mg/ tuần cho đến khi móng khỏi bệnh(Error! Reference source not found.).

Nhóm allylamine

Đây là nhóm kháng nấm mới. Trong đó, terbinafine là thuốc đầu tay trong điều trị

nấm móng do Dermatophytes nhưng lại ít hiệu quả với Candida spp. và nấm

mốc(Error! Reference source not found.). Hiện nay, thị trườngViệt Nam vẫn chưa chính thức lưu

hành terbinafine.

ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Thử nghiệm lâm sàng đối chứng, không mù, được thực hiện trên các trường hợp nấm

móng do Candida spp. đến khám và điều trị tại BV Da Liễu TP. HCM từ 12/2006

đến 12/2007. Để có 80% cơ hội chứng minh rằng hiệu quả điều trị nấm móng của

itraconazole là 92% cao hơn 67% của fluconazole ở mức ý nghĩa 5%, cỡ mẫu tối

thiểu cần cho mỗi nhóm là 31 đối tượng. Tất cả bệnh nhân thỏa tiêu chí chọn mẫu sẽ

được đưa vào khảo sát: ≥12 tuổi, có tổn thương móng, xét nghiệm bệnh phẩm chỉ tìm

thấy Candida spp. (sợi tơ nấm giả hoặc/và > 4 tế bào hạt men/quang trường 40 trong

quan sát trực tiếp; thử nghiệm sinh ống mầm và bào tử bao dày dương tính), không

uống hoặc bôi thuốc kháng nấm trong vòng, lần lượt, 6 tháng hoặc 4 tuần trước thời

điểm nghiên cứu, SGOT≥ 37 U/L, SGPT ≥ 42 U/L, urê và creatinine trong giới hạn

bình thường, không dị ứng hoặc không thuộc nhóm chống chỉ định với các thuốc

nghiên cứu, đồng ý tham gia và tuân thủ điều trị. Các bệnh nhân được chia ngẫu nhiên

theo thứ tự vào 2 nhóm: bệnh nhân đầu tiên vào nhóm 1, kế tiếp vào nhóm 2, tiếp

theo vào nhóm 1 …, lần lượt như thế cho đến khi đủ cỡ mẫu. Nhóm 1 sử dụng phác

đồ fluconazole 150mg/ tuần x 6 tháng đối với móng tay, 9 tháng đối với móng chân;

nhóm 2 điều trị với itraconazole 100mg  2 lần/ngày  7 ngày/1 tháng x 2 tháng đối

với móng tay, 3 tháng đối với móng chân. Sau khi kết thúc điều trị, bệnh nhân được

theo dõi thêm hai tháng liên tục về lâm sàng và về vi nấm.

Các dữ kiện được thu thập bằng phỏng vấn trực tiếp, thăm khám lâm sàng, xét

nghiệm bệnh phẩm trước và sau điều trị dựa trên bảng câu hỏi cấu trúc. Nhập số liệu

bằng Epi data và phân tích bằng Stata 8.0. Khả năng đáp ứng lâm sàng (có sự cải

thiện về lâm sàng), sạch nấm (cấy nấm âm tính) và các tác dụng phụ được mô tả bằng

tần số, tỉ lệ cho từng nhóm can thiệp. So sánh hiệu quả giữa 2 nhóm phác đồ bằng

phép kiểm 2, ước lượng nguy cơ tương đối (RR) và khoảng tin cậy 95% của RR.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Tổng số có 62 đối tượng tham gia nghiên cứu, mỗi nhóm gồm 31 bệnh nhân.

Đặc điểm của mẫu nghiên cứu

Bảng 1. Đặc điểm dịch tễ học của đối tượng nghiên cứu

Nmẫu=62 N1 = 31 N2 = 31

Đặc tính p

n (%) n (%) n (%)

< 25 8(12,9) 5(16,1) 3 (9,7)

25 - Tuổi 0,75 48(77,4) 23(74,2) 25(80,6) 60

> 60 6 (9,7) 3(9,68) 3 (9,7)

Nữ 46(74,2) 23(74,2) 23(74,2)

Giới 1,00

Nam 16(25,8) 8(25,8) 8(25,8)

NC 12(19,4) 5(16,1) 7(22,6) cao

NC Nghề 0,77 28(45,2) 14(45,2) 14(45,2) thấp

NT- 22(35,5) 12(38,7) 10(32,2)

HT

< Cấp 26(41,9) 12(38,7) 14(45,2)

3 Trình

0,61 độ ≥ Cấp 36(58,1) 19(61,3) 17 (4,8)

3

* NC: nguy cơ; NT-HT: nội trợ-hưu trí

Tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu là 42,5  14,93 (18-84)

Tỉ số Nữ: Nam = 2,87: 1

Các yếu tố dịch tễ học phân bố đồng đều ở hai nhóm

Bảng 2. Đặc điểm lâm sàng của đối tượng nghiên cứu

Thể

Nmẫu= 62 N1 = 31 N2 = 31

p lâm n (%) n (%) n (%)

sàng

DLSO 36(58,1) 15(48,4) 21(67,7) 0,11

SWO- 26(41,9) 16(51,6) 10(32,3) PSO

0,12

SWO 8(12,9) 3 (9,7) 5(16,1)

PSO 18(29,0) 13(41,9) 5(16,1)

* DSLO (distal-lateral subungal onychomycosis): nấm dưới móng bờ xa và rãnh

móng; SWO (superficial white onychomycosis): nấm móng trắng bề mặt; PSO

(proximal subungal onychomycosis): nấm dưới móng phần gốc móng.

Về giá trị của men gan trước khi tham gia nghiên cứu, các bệnh nhân đều có kết quả

SGOT (20,5 ± 7,2 U/L) và SGPT (20,8 ± 8,8 U/L) nằm trong giới hạn bình thường và

sự khác biệt không ý nghĩa thống kê.

Bảng 3. Tỉ lệ phân bố các loài Candida albicans và Candida non-albicans.

Nmẫu= N1 = 31 N2 = 31 62 p

n (%) n (%) n (%)

25 14 11 C. albicans (40,3) (45,1) (35,5)

0,44

C. non- 37 17 20

albicans (59,7) (54,9) (64,5)

Candida non-albicans chiếm ưu thế trong toàn bộ mẫu khảo sát. Không tìm thấy khác

biệt về phân bố các loài Candida spp. giữa hai nhóm điều trị.

Bảng 4. Tỉ lệ đáp ứng lâm sàng của hai phác đồ điều trị

Tổng N1 = 31 N2 = 31 Đáp ứng

p lâm sàng n (%) n (%) n (%)

29 Có 30 (96,8) 59 (95,2) (93,6)

1,00 Không 2 (6,5) 1 (3,2) 3 (4,8)

Tổng n 31 (100) 31 (100) 62 (100) (%)

Bảng 5. Tỉ lệ đáp ứng lâm sàng theo thời gian của hai phác đồ điều trị

% N1 = 29 N2 =30 Sau % p tích

n (%) n (%) thời tích lũy

gian lũy

14 19 1 tháng 48,3 63,3 0,23

(48,3) (63,3)

2 tháng 8 (27,6) 75,9 8 (26,7) 90,0 0,94

3 tháng 5 (17,2) 93,1 3 (10,0) 100 0,41

4 tháng 2 (6,9) 100 0 (0) 0,14

100% bệnh nhân có đáp ứng lâm sàng sau 3 tháng điều trị ở nhóm 2 và sau 4 tháng

đối với nhóm 1. Tỉ lệ đáp ứng lâm sàng theo từng tháng khác nhau không có ý

nghĩa thống kê giữa 2 nhóm can thiệp.

Bảng 6. Tỉ lệ sạch nấm của hai phác đồ điều trị

Tổng N1 = 31 N2 = 31

Sạch nấm p

n (%) n (%) n (%)

25 Có 15 (48,4) 40 (64,5) (80,6)

0,008 Không 6 (19,4) 16 (51,6) 22 (35,5)

Tổng n 31 (100) 31 (100) 62 (100)

(%)

RR = 1,67 (1,11 – 2,49)

Tỉ lệ sạch nấm giữa hai nhóm khác biệt có ý nghĩa thống kê.

Bảng 7. Trường hợp bị tác dụng phụ trên lâm sàng của hai nhóm

Tác dụng

phụ Tổng N1 = 31 N2 =31

p

n (%) n (%) n (%) về lâm

sàng

25 Khơng 26 (83,9) 51 (82,3) (80,6)

0,50 Có 6 (19,4) 5 (16,1) 11 (17,7)

Tổng n 31 (100) 31 (100) 62 (100) (%)

Tác dụng phụ trên lâm sàng ở hai nhóm đều nhẹ và khác biệt không có ý nghĩa

thống kê; bao gồm: rối loạn kinh nguyệt, ngủ khó, nhức đầu, mệt, cồn cào, ăn mất

ngon, táo bón, mụn trứng cá. Trong nhóm 2, một bệnh nhân nữ 19 tuổi, tiền căn bị

trĩ độ 1, bị tiêu ra máu sau 2-3 ngày uống itraconazole ở cả hai đợt điều trị đầu.

Bảng 8. Tỉ lệ tăng men gan khi kết thúc điều trị

Tổng N1 = 31 N2 = 31 Tăng men

p gan n (%) n (%) n (%)

30 31 61 Không (96,8) (100) (98,4)

0,31 Có 1 (3,2) 0 (0) 1 (1,6)

31 Tổng n (%) 31 (100) 62 (100)

(100)

Tỉ lệ tăng men gan giữa hai nhóm không khác biệt về mặt thống kê. Bệnh nhân

duy nhất bị tăng men gan ở nhóm 1 có tiền căn điều trị Albendazole trước khi

tham gia nghiên cứu. Khi kết thúc phác đồ, kết quả SGOT trung bình của 62 bệnh

nhân là 25,38 ± 9,91 U/L và SGPT là 25,40 ± 14,87U/L.

BÀN LUẬN

Đặc điểm dịch tễ học của đối tượng nghiên cứu

Tuổi trung bình của các bệnh nhân là 42,514,9, chủ yếu tập trung trong độ tuổi lao

động từ 25 – 60 (77,4%). Do đó, những nghề hoặc công việc hàng ngày liên quan đến

tình trạng ẩm ướt của bàn tay, bàn chân đều tạo thuận lợi cho viêm móng do Candida

spp. phát triển. Mặt khác, theo sinh lý của móng, tốc độ mọc móng tăng dần từ sau 15

tuổi và đạt cực đại trước 25 tuổi. Ở lứa tuổi này, tiến trình đẩy phần móng bệnh khá

nhanh, hỗ trợ cho điều trị, thậm chí có thể giúp lành bệnh tự nhiên. Sau 25 tuổi, tốc độ

mọc móng giảm 0,5% mỗi năm và chậm nhất sau 60 tuổi. Vì thế, tổn thương viêm

móng thường lâu lành ở những bệnh nhân từ 25 – 60 tuổi, đòi hỏi thơi gian điều trị

kéo dài.

Về nghề nghiệp, đa số đối tượng thuộc nhóm nghề ít nguy cơ bị nấm móng (45,2%)

như sinh viên, giáo viên, nhân viên văn phòng... Bên cạnh đó, tỉ lệ bệnh nhân học 

cấp 3 (58,1%) nhiều hơn nhóm < cấp 3 (41,9%), khác biệt so với y văn mô tả trước

đây. Có lẽ trình độ và ý thức chăm sóc sức khỏe của những người lao động trí óc cao

hơn, đồng thời những ngành nghề này đòi hỏi giao tiếp nhiều, nên sự mất thẩm mỹ

của móng tay sần sùi sẽ khiến bệnh nhân mất tự tin và thôi thúc họ đến gặp bác sĩ

nhiều hơn.

Đặc điểm lâm sàng

Dạng lâm sàng chủ yếu là nấm dưới móng phần xa và cạnh bên (DSLO, 58,1%).

Nấm dưới móng phần gần (PSO) chỉ chiếm 29,0%. Kết quả này khác với y văn. Phải

chăng các loài Candida sp. gây bệnh đã chi phối hiện tượng này? Thật vậy Candida

non-albicans ngày càng vượt trội trong bệnh lý do Candida spp. Cần thực hiện những

khảo sát rộng hơn để khẳng định.

Tỉ lệ phân bố các loài Candida albicans và Candida spp. khác

Theo y văn, hầu hết các trường hợp nhiễm C. albicans đều có nguồn gốc nội sinh.

Đây là vi nấm hoại sinh bắt buộc trong cơ thể người và động vật, luôn ở trạng thái cân

bằng với các chủng vi sinh thường trú khác. Khi có yếu tố thuận lợi làm mất sự cân

bằng như ngâm tay chân trong nước lâu ngày, suy giảm miễn dịch …, mầm bệnh sẵn

có từ cơ thể sẽ dễ dàng bộc phát và gây bệnh. Trong khi đó, nhóm Candida non-

albicans từ ngoại cảnh, phải xâm nhập vào cơ thể, kết hợp với yếu tố thuận lợi tại chỗ

hay toàn thân mới có khả năng gây bệnh. Dụng cụ làm móng gồm kềm cắt, giũa, cọ

sơn, khăn, thau ngâm… dùng chung cho nhiều khách hàng có thể là những vật truyền

bệnh nấm móng do Candida spp.

Tỉ lệ nhiễm Candida non-albicans của toàn bộ mẫu nghiên cứu (59,7%) cao hơn C.

albicans (40,3%). Theo y văn, C. albicans chiếm 85 – 90% các trường hợp nhiễm

nấm men ở ngoại biên cũng như hệ thống. Sự vượt trội của Candida non-albicans

(59,7%) trong 62 trường hợp viêm móng được khảo sát phải chăng báo hiệu khả năng

phát triển của chúng hiện nay? Điều này rất đáng lo ngại vì có thể sẽ ảnh hưởng đến

hiệu quả điều trị nấm móng trên lâm sàng nói chung.

Tỉ lệ đáp ứng lâm sàng

Tỉ lệ đáp ứng lâm sàng của hai nhóm điều trị khác biệt không có ý nghĩa thống kê.

Tiêu chí đánh giá đáp ứng lâm sàng của nghiên cứu này là khi biến mất một trong

các sang thương lâm sàng của nấm móng tại bất kỳ vị trí của móng như bản móng,

giường móng hay xung quanh móng. Nghiên cứu của chúng tôi không sử dụng

Chỉ số đánh giá lâm sàng bệnh nấm móng (SCIO). Vì chỉ số này phù hợp với dạng

DLSO, trong khi đó, nấm móng do Candida biểu hiện lâm sàng đa dạng gồm dạng

DSLO, PSO và SWO.

Tỉ lệ đáp ứng lâm sàng ở hai nhóm xuất hiện cao nhất ngay trong tháng đầu tiên. Nếu

có đáp ứng với Itraconazole, các bệnh nhân đều biểu hiện cải thiện lâm sàng trước

tháng thứ 3; tương tự kết quả của tác giả Antonella Tosti. Trong khi đó, với

Fluconazole, cần đến tháng 4, tất cả bệnh nhân có đáp ứng mới biểu hiện sự thuyên

giảm. Vì vậy, trên thực tế lâm sàng, khi chưa có điều kiện làm kháng nấm đồ, không

nên vội vàng kết luận điều trị thất bại và ngưng hoặc đổi thuốc ngay, cần chờ kết quả

thể hiện rõ trong tháng thứ 3, thứ 4.

Tỉ lệ sạch nấm của từng phác đồ điều trị

Các báo cáo trên thế giới về tác dụng vi sinh của các thuốc kháng nấm rất khác

nhau vì vùng địa lý khác nhau có thể chi phối sự phân bố chủng nấm gây bệnh, từ

đó ảnh hưởng lớn đến hiệu quả điều trị. Cụ thể, Aditya ghi nhận Fluconazole

(70,8%) hiệu quả tương tự Itraconazole (65,6%), còn Gupta lại kết luận

Itraconazole (91,7%) vượt trội hơn Fluconazole (66,7%). Theo bảng 6, khả năng

diệt nấm của phác đồ Fluconazole cao gấp 1,67 lần phác đồ Itraconazole (KTC

95% của RR = (1,11 – 2,49); p = 0,008).

Tỉ lệ tác dụng phụ của hai phác đồ điều trị

Tỉ lệ tác dụng phụ trên lâm sàng và tỉ lệ tăng men gan của hai nhóm khác biệt không

có ý nghĩa thống kê. Không có bệnh nhân nào ngưng thuốc vì tác dụng phụ. Phần lớn,

tác dụng phụ ở cả hai phác đồ đều nhẹ và giảm dần theo thời gian. Cả hai phác đồ đều

an toàn khi sử dụng trong điều trị bệnh nấm móng.

KẾT LUẬN

Với thiết kế nghiên cứu thích hợp, các nhóm can thiệp được phân chia ngẫu nhiên nên

các yếu tố có khả năng tương tác, gây nhiễu được phân bố như nhau ở cả 2 nhóm, các

đối tượng đều tuân thủ điều trị và không xảy ra mất dấu, vì vậy, độ tin cậy của các kết

quả thu được từ nghiên cứu ở mức độ cao.

Candida non-albicans chiếm ưu thế trong 62 trường hợp khảo sát, báo hiệu sự phát

triển đáng lo ngại của nhóm Candida spp. này trên bệnh nấm móng tại BV Da Liễu

hiện nay. Trong khi đó, phác đồ Fluconazole hiệu quả hơn phác đồ Itraconazole, xét

về tiêu chí vi nấm học và chi phí điều trị. Vì thế, nên chỉ định Fluconazole trong điều

trị bệnh nấm móng do Candida spp. cho các trường hợp đến khám tại BV Da Liễu TP

HCM.