
đến 80% lượng mưa cả năm , mùa mưa thường với mùa bão lớn nên thường gây
ra lũ lụt, ngập úng nhiều vùng. Mùa hè mưa ít, nên nhiệt độ cao gây hạn nặng, ở
một số cửa sông bị nước mặn thâm nhập.
Mặt khác, do khí hậu ở Đà Nẵng khắc nghiệt, dễ hạn hán cũng như dễ bị lũ lụt
thiên tai, điều đó dẫn đến sự phân công lao động trong nông nghiệp cũng bị hạn
chế.
Nông nghiệp chỉ phát triển chậm do đó kéo theo một lượng lao động nông nghiệp
hàng năm giảm xuống trong khi đó điều kiện khí hậu này ít ảnh hưởng đến sự phát
triển của ngành dịch vụ và ngành công nghiệp do đó ở hai ngành này có khả năng
phát triển qua đó thu hút một lượng lớn lao động.
d.Tài nguyên
Nguồn nước: Nguồn nước cung cấp cho Đà Nẵng với khối lượng chủ yếu là sông
Cu Đê, Cẩm Lệ và Vĩnh Điện. Hạ lưu các sông Cu Đê, Cẩm Lệ đều ảnh hưởng
mặn do thuỷ triều chủ yếu vào mùa khô ( tháng 5,6). Các tháng trong năm nguồn
nước và chất lượng nước các sông trên đáp ứng được yêu cầu kinh tế và sinh hoạt.
Nguồn nước mạch ở bán đảo Sơn Trà chỉ có khả năng cấp nước cục bộ, quy mô
vừa.
Về nước ngầm: theo kết quả tìm kiếm dưới đất của Tổng cục địa chất cho thấy
nước ngầm ở vùng Đà Nẵng đa dạng phức tạp có dấu hiệu bị nhiễm mặn theo
sườn và chiều sâu. Các khu vực có triển vọng khai thác là: nguồn nước tệp đá vôi
Hoà Hải- Hoà Quí ở chiều sâu tầng chứa nước là 50-60m có thể đảm bảo cho nhà
máy nước 5000 đến 10.000m3/ ngày đêm, nguồn nước có thể cung cấp cho khu