
1
SỞ LAO ĐỘNG – THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI BÌNH DƯƠNG
TRƯỜNG TRUNG CẤP BÁCH KHOA BÌNH DƯƠNG
Địa chỉ: Số 89 Đại lộ Độc Lập, khu phố Thống Nhất 2, phường Dĩ An,
thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
Điện thoại: 0283.729.6689; Email: bdp.edu.vn@gmail.com
Website: bdp.edu.vn
GIÁO TRÌNH
NGHỀ NGHIỆP VÀ ĐẠO ĐỨC NGƯỜI
ĐIỀU DƯỠNG
DÙNG CHO ĐÀO TẠO: TRUNG CẤP
NGÀNH: ĐIỀU DƯỠNG
LƯU HÀNH NỘI BỘ

2
Bài 1.
KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM NGHỀ NGHIỆP
CỦA NGƯỜI ĐIỀU DƯỠNG
Mục tiêu học tập:
1.
Trình bày được các nguyên tắc tổ chức và điều hành của hệ thống điều
dưỡng.
2.
Vẽ và giải thích được sơ đồ hệ thống điều dưỡng các cấp ở Việt nam.
1.
Mở đầu
Điều dưỡng là một nghề định hướng chăm sóc và phục vụ sức khoẻ nhân
dân, là một nghề chuyên nghiệp, là một ngành học và là một khoa học chăm
sóc. Cũng như mọi ngành nghề khác, nghề điều dưỡng có những đặc điểm sau:
+ Có hệ thống tổ chức điều dưỡng theo chuyên ngành từ Bộ Y tế tới các
đơn vị y tế và thực hiện vai trò quản lý và chỉ đạo theo ngành.
+ Có hệ thống trường đào tạo nghề ở các bậc từ trung học đến đại học và
sau đại học.
+ Có hội nghề nghiệp.
+ Có luật hành nghề và luật đạo đức hành nghề riêng.
Trong hai thập kỷ vừa qua, Bộ Y tế đã quan tâm xây dựng hệ thống điều
dưỡng thành một mạng lưới từ Bộ, Sở Y tế, các bệnh viện đến tận các khoa và
các bộ môn điều dưỡng tại các trường y tế. Hệ thống điều dưỡng trưởng đã
được giao thêm nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm trong việc tổ chức điều hành
các hoạt động chăm sóc và phát huy được hiệu quả góp phần quan trọng vào
việc thực hiện các mục tiêu chăm sóc sức khoẻ của ngành Y tế.
Ở nước ta điều dưỡng đang là nghề mới nên chưa có luật riêng cho điều
dưỡng.
2.
Các nguyên tắc tổ chức và điều hành
2.1.
Điều hành thống nhất
Trong các cơ quan quản lý nhà nước, các bệnh viện đều áp dụng hệ thống
tổ chức theo hình chóp. Trong sơ đồ tổ chức của mỗi đơn vị, mỗi cá nhân chịu
trách nhiệm báo cáo với một người cấp trên trực tiếp phụ trách và giám sát
những người dưới quyền. Sự chỉ đạo của người phụ trách đảm bảo tính thống
nhất và nhất quán. Cấp dưới phải phục tùng chỉ đạo của cấp trên.
-
Tại Bộ y tế, Cục quản lý khám chữa bệnh có phòng điều dưỡng.
-
Tại Sở y tế có điều dưỡng trưởng Sở, một số Sở y tế, điều dưỡng trưởng
sở kiêm phó trưởng phòng nghiệp vụ y.

3
-
Bệnh viện có phòng điều dưỡng với một trưởng phòng, một đến hai phó
trưởng phòng và một số thành viên trong phòng (có bệnh viện gọi là điều dưỡng
trưởng khối), các nước gọi chức danh này là nursing supervior (giám thị điều
dưỡng).
-
Các khoa có điều dưỡng trưởng khoa, điều dưỡng trong một khoa được
chia thành nhiều nhóm chăm sóc, mỗi nhóm có một trưởng nhóm.
2.2.
Phối hợp chặt chẽ và đồng bộ
Phối hợp là điều kiện thiết yếu để một tổ chức phát huy được hiệu quả.
Trong bệnh viện, việc điều trị và chăm sóc cho một người bệnh đòi hỏi sự tham
gia của các bộ phận và nhiều cá nhân, vì vậy cơ chế phối hợp phải mang tính
đồng bộ thống nhất để tránh chồng chéo hoặc tránh bỏ sót các công việc.
2.3.
Có mục đích rõ ràng
Mỗi một tổ chức đều có một mục đích riêng biệt, việc xác định rõ mục
đích của một tổ chức sẽ giúp cho người quản lý đưa ra các hoạt động phù hợp
với mục đích của tổ chức đó. Mục đích cơ bản của hệ thống tổ chức điều dưỡng
là đảm bảo cung cấp dịch vụ chăm sóc có chất lượng cho người bệnh đồng thời
tạo môi trường thúc đẩy chất lượng thực hành, đào tạo và nghiên cứu khoa học
điều dưỡng.
2.4.
Trách nhiệm tương ứng với quyền hạn
Để mỗi người hoàn thành nhiệm vụ được giao cần có quyền hạn nhất định
trong việc sử dụng các nguồn lực của tổ chức. Quyền hạn nói một cách đơn
giản là khả năng yêu cầu người khác thực hiện một điều gì đó theo ý của mình.
Việc sử dụng quyền lực của người lãnh đạo được lồng ghép trong công việc
hàng ngày để tác động vào các thành viên trong tổ chức. Những người có quyền
lực thường mong muốn và dễ dàng đạt được những gì họ muốn.
Người lãnh đào tuỳ thuộc vào các giá trị cá nhân mà có phong cách sử
dụng quyền lực khác nhau trực tiếp từ vị trí của họ trong tổ chức hay sử dụng
quyền lực một cách gián tiếp mà cấp dưới không nhận ra là mình đang bị tác
động.
Ví dụ: điều dưỡng trưởng là người chịu trách nhiệm về chất lượng chăm
sóc người bệnh và được giao quyền hạn trong việc kiểm tra, điều hành công tác
chăm sóc, phục vụ của điều dưỡng, kỹ thuật viên, hộ lý, y công trong đơn vị và
dự trù trang thiết bị chăm sóc.
2.5.
Thông tin hai chiều có hiệu quả
Thông tin nhằm đạt được mục đích nào đó hoặc để đáp ứng nhu cầu nào
đó của tập thể hay cá nhân. Trong một tổ chức, luồng thông tin từ trên xuống
thường nhanh mang tính mệnh lệnh và thường có độ chính xác cao. Trong khi

4
đó luồng thông tin từ dưới lên thường chậm, thiếu chính xác do phải xử lý qua
các trạm trung gian. Hiệu quả thông tin giữa cấp trên và cấp dưới phụ thuộc
đáng kể vào mối quan hệ và mức độ hỗ trợ của cấp trên đối với cấp dưới. Người
điều dưỡng trưởng cần tạo ra bầu không khí và duy trì luồng thông tin giao tiếp
thường xuyên và có hiệu quả đối với mọi cá nhân, nhóm người trong tổ chức
thông qua cải thiện những trở ngại trong thông tin như sự tin tưởng lẫn nhau,
sự chia sẻ và phụ thuộc lẫn nhau, sự hiểu biết và cùng chung mục đích của mọi
thành viên trong tổ chức. Đặc biệt việc chia sẻ thông tin trong chăm sóc và điều
trị người bệnh giữa các đồng nghiệp về người bệnh có ý nghĩa rất quan trọng
để đảm bảo việc theo dõi người bệnh có tính liên tục và hệ thống.
2.6.
Uỷ quyền cho cấp dưới
Uỷ quyền là một yếu tố cơ bản trong chức năng quản lý, là công cụ để
người quản lý đạt được mọi công việc thực hiện qua những nhân viên khác.
Bản chất của uỷ quyền là giao công việc cho người thay thế để thực hiện hoặc
giải quyết một việc gì đó và sau đó phải báo cáo hoặc thông báo cho người uỷ
quyền. Người uỷ quyền vẫn phải chịu trách nhiệm về những nhiệm vụ giao cho
cấp dưới thực hiện. Khả năng uỷ quyền và mức độ uỷ quyền là một trong những
kỹ năng rất quan trọng của người quản lý. Khi giao nhiệm vụ cần giao quyền
hạn và nguồn lực tương xứng để cấp dưới thực hiện nhiệm vụ được giao. Những
yếu tố cản trở dẫn đến không uỷ quyền hoặc uỷ quyền không đủ là do thiếu
niềm tin vào nhân viên.
Người điều dưỡng trưởng cần căn cứ vào trình độ, kinh nghiệm, trách
nhiệm của từng nhân viên để uỷ quyền cho họ và hỗ trợ họ thực hiện những
nhiệm vụ được uỷ quyền.
3.
Hệ thống tổ chức ngành điều dưỡng Việt Nam
3.1.
Quá trình hình thành
Các bệnh viện của Việt Nam đã được hình thành từ đầu thế kỷ XIX, các
bác sĩ người Pháp tuyển người bản sứ để giúp việc cho họ. Họ đào tạo dưới
hình thức cầm tay chỉ việc và làm việc hoàn toàn dưới sự chỉ đạo trực tiếp của
các bác sỹ vì thế không có hệ thống tổ chức riêng cho y tá.
Trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp, để đáp ứng công tác cứu thương,
phục vụ chiến tranh, Việt Nam đào tạo y tá 3 tháng, 6 tháng, một năm và chủ
yếu là những kỹ thuật tiêm thuốc, cho uống thuốc, băng bó, vận chuyển…
Thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, ở Miền Nam, học sinh tốt nghiệp phổ thông
trung học được chính quyền Sài Gòn tuyển dụng đào tạo theo chương trình hai
năm hoặc 3 năm (gọi là cán sự điều dưỡng). Còn Miền Bắc vẫn đào tạo y tá ở
trình độ sơ học.

5
Năm 1965, Bộ y tế đặt ra chức vụ y tá trưởng khoa và y tá trưởng bệnh
viện. Nhiệm vụ chính của họ là kiểm tra chăm sóc và vệ sinh trong các khoa,
bệnh viện. Họ chưa được giao nhiệm vụ quản lý và điều hành công tác chăm
sóc người bệnh.
Năm 1975, thống nhất đất nước, Bộ Y tế và Bộ Giáo dục đào tạo quyết
định đào tạo y tá trung học từ những học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông
thay vì đào tạo y sĩ như trước kia. Bắt đầu từ đây, chương trình đào tạo y tá
được thống nhất trong cả nước và đầu vào là học sinh trung học phổ thông (cấp
III). Năm 1985, khoá đào tạo y tá-nữ hộ sinh-kỹ thuật viên y đại học đầu tiên
được chiêu sinh. Khoá học tương tự được chiêu sinh vào năm tiếp theo, sau đó
ngừng chiêu sinh để rút kinh nghiệm trong đào tạo.
Năm 1987, với sự hỗ trợ của các chuyên gia điều dưỡng huỵ Điển phòng
y tá đầu tiên được thành lập tại bệnh viện Nhi Trung ương và ban y tá được
thành lập tại bệnh viện Việt Nam- Thuỵ Điển Uông Bí. Cũng vào những năm
này Bộ y tế thành lập tổ nghiên cứu công tác y tá quốc gia.
Ngày 26/10/1990 Hội Điều dưỡng Việt Nam ra đời, bà Vi Nguyệt Hồ được
bầu làm Chủ tịch Hội cho đến nay.
Năm 1990, Bộ y tế ban hành quyết định thành lập phòng y tá - điều dưỡng
trong các bệnh viện toàn quốc và giao nhiệm vụ cho phòng y tá tổ chức điều
hành các hoạt động chăm sóc và toàn bộ y tá, hộ lý trong bệnh viện.
Năm 1992, phòng y tá vụ quản lý sức khoẻ nay là Cục Quản lý khám chữa
bệnh được thành lập. Việc ra đời của phòng y tá Vụ điều trị đã mở ra hướng
xây dựng hệ thống điều dưỡng thành một chuyên ngành riêng biệt bên cạnh các
hệ thống Y- Dược trong ngành y tế.
Năm 1999, Bộ trưởng Bộ y tế đã có quyết định ban hành chức vụ điều
dưỡng trưởng Sở y tế và là phó phòng Nghiệp vụ y.
Như vậy, sau gần 20 năm (từ năm 1990) hệ thống tổ chức điều dưỡng Việt
Nam đã được hình thành. Cùng với sự ra đời của hội nghề nghiệp và đưa
chương trình điều dưỡng vào đào tạo trong các trường đại học đã làm cho điều
dưỡng trở thành một nghề - Trong hai thập kỷ vừa qua, Bộ Y tế đã quan tâm
xây dựng hệ thống điều dưỡng thành một mạng lưới từ Bộ, Sở Y tế, các bệnh
viện đến tận các khoa và các bộ môn điều dưỡng tại các trường y tế . Hệ thống
điều dưỡng trưởng đã được giao thêm nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm trong
việc tổ chức điều hành các hoạt động chăm sóc và phát huy được hiệu quả góp
phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu chăm sóc sức khoẻ của ngành
Y tế.