1.4. Giới, tình dục và sinh sản ở Việt Nam

Catherine Scornet, LPED (Phòng nghiên cứu Dân số, Môi trường và Phát triển) Ban nghiên cứu hỗn hợp Đại học Aix Marseille và Viện Nghiên cứu Phát triển

(nội dung gỡ băng)

1.4.1. tình dục, một quá trình xây dựng mang tính xã hội

Chủ đề về tình dục rất hay được nhắc đến trong các chuyện trò hàng ngày của người Việt Nam: ở văn phòng, ở chợ, quán cơm bình dân, quán cà phê, v.v. Tôi muốn nhấn mạnh các nghiên cứu của Lê Bạch Dương và Khuất Thu Hồng về các vấn đề tình dục, nhất là một trong nhiều công trình của các tác giả đã xuất bản năm 2009 « Tình dục, chuyện dễ đùa, khó nói ». Tiêu đề của cuốn sách này rất rõ ràng để giới thiệu về chủ đề tình dục ở Việt Nam; việc nói đến tình dục theo kiểu đùa cợt cho thấy những mối quan hệ về giới riêng biệt.

Trước tên, tôi xin được nhắc đến Michel Foucault và tác phẩm Lịch sử tình dục (Histoire de la sexualité) (Foucault, 1976), trong đó cho rằng tình dục không phải là một chức năng sinh lý có ý nghĩa bất biến: tình dục đáp ứng một tiến trình xã hội chứ không phải các yếu tố sinh học. Tình dục không phải tự nhiên mà có, nó là một sản phẩm của lịch sử. Như vậy, những giới hạn của cái được coi là tình dục thay đổi khác nhau giữa các xã hội và ngay trong lòng mỗi xã hội. Xã hội học tình dục là một công việc được thực hiện nhằm xác định bối cảnh văn hóa xã hội để xác lập các quan hệ giữa các hiện tượng tình dục và các tiến trình xã hội khác; cái mà chúng ta có thể gọi là « quá trình xây dựng mang tính xã hội của tình dục ». Những phức tạp trong các biến động của tình dục có liên quan đến việc chúng phải được hiểu và phân tích theo những biến động của bối cảnh xã hội, kinh tế và văn hóa.

Trong phần đầu của tham luận, tôi sẽ đưa ra cơ sở lý luận, các vấn đề đặt ra và một số giả thuyết trong các nghiên cứu hiện nay của tôi. Ở phần tiếp theo, tôi sẽ bàn đến các điều kiện để cho các vấn đề về tình dục xuất hiện trong các trao đổi thảo luận ở Việt Nam: điều kiện về dân số với mức sinh giảm và chính trị hóa tình dục; sự xuất hiện của chủ đề tình dục trong các tranh luận xã hội. Các vấn đề tình dục đã xuất hiện trở lại ở Việt Nam trong bối cảnh nào? Chúng ta sẽ thấy là các vấn đề này bắt đầu xuất hiện từ những năm 1990, có liên quan đến các vấn đề về y tế. Ở phần cuối, tôi sẽ giới thiệu một vài kết quả nghiên cứu của tôi. Quá trình xây dựng mang tính xã hội này thực hiện xoay quanh các hành vi tình dục, tương tác giữa các đối tác, cảm xúc, hình ảnh đại diện; các yếu tố này rất đa dạng, tùy thuộc vào các chuẩn mực văn hóa và phụ thuộc vào lịch sử.

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 116

vi quan hệ tình dục đồng giới hay khác giới trong suốt cuộc đời một con người.

Qua các nghiên cứu thực hiện tại đảo Samoa, nhà nhân học Margaret Mead (1928) là một trong số các tác giả đầu tiên bảo vệ luận thuyết theo đó các yếu tố xã hội tham gia vào quá trình xây dựng tình dục nhiều hơn các yếu tố sinh lý. Tôi cũng muốn nhắc đến Alfred Kinsey (1948, 1953), tác giả này đã chứng minh rằng bản sắc tình dục không phải là bất biến. Ông cũng là một trong những người đầu tiên nghiên cứu về hành vi tình dục của con người trong những năm 1930, tại Viện nghiên cứu tình dục của trường Đại học Indiana. Ông đã đưa ra khái niệm « hành vi tình dục » theo đó tách bạch hoạt động tình dục và hoạt động sinh sản. Đây là một khái niệm cực kỳ mới vào thời kỳ đầu thế kỷ 20 vì lần đầu tiên tình dục được tách ra khỏi phạm trù sinh sản. Năm 1938, Kinsey thực hiện một cuộc điều tra xã hội học quy mô lớn, kết quả của điều tra được xuất bản thành hai cuốn sách, một về tình dục nam giới, xuất bản năm 1948, và một về tình dục nữ giới, xuất bản năm 1953 (Kinsey, Pomeroy, Martin, 1948 và 1953). Sự sung sướng của phụ nữ được thừa nhận và được tách ra khỏi nghĩa vụ sinh đẻ. Kinsey coi là bình thường những điều mà một số người gọi là « hành vi sai trái » hoặc « hành vi biến thái » và không chấp nhận tách bạch tình dục đồng giới và tình dục khác giới. Ông đề xuất một thang xếp loại gồm bẩy bậc, liên quan đến tất cả các khả năng tình dục trong cuộc đời một cá nhân: bậc 0 liên quan đến những người chỉ quan hệ khác giới và bậc 6 liên quan đến những người chỉ quan hệ đồng giới. Như vậy, một con đường mở ra cho một cái nhìn hoàn toàn mới về tình dục: con đường đa dạng. Theo đó, bậc 2 liên quan đến những người « chủ yếu là quan hệ khác giới, đôi khi có quan hệ đồng giới », bậc 5 là những người « chủ yếu là quan hệ đồng giới, nhưng đã có các quan hệ khác giới », v.v. Như vậy, ông đưa ra ý kiến rằng hoàn toàn có thể có nhiều hành Trong phần này tôi cũng nhắc đến Anthony Giddens, trong nghiên cứu của mình « Thay đổi sự riêng tư: tình dục, tình yêu và khêu gợi trong các xã hội hiện đại », xuất bản năm 1992, đã nói: « Ý định ban đầu của tôi là tự vấn về tình dục, nhưng dần dần, tôi ngỡ ngàng khi thấy mình viết nhiều đến như vậy về tình yêu cũng như về sự phân biệt giữa nam và nữ » (Giddens, 1992). Ở Việt Nam cũng như nơi khác, những thay đổi trong sự riêng tư xảy ra đồng thời với những thay đổi trong lĩnh vực gia đình, đời sống lứa đôi, chính trị và quan hệ về giới. Tiếp theo với lý thuyết của Giddens, tôi muốn nhắc đến nhà nhân học Maurice Godelier, tác giả này đã viết trong tạp chí Esprit năm 2001 như sau  «  Tình dục con người luôn che giấu trong nó nhiều điều khác hơn là chỉ bản thân nó ». Phương pháp tiếp cận nhân học đưa ra ở đây cho rằng cái quan trọng trong tình dục được đặt dưới tác động của những thách thức của việc tạo ra các quan hệ khác về xã hội, kinh tế và chính trị. Ông cũng nói rõ rằng phạm trù tình dục vẫn còn có bất bình đẳng, nhất là bất bình đẳng nam nữ, dẫn tới các bất bình đẳng khác tồn tại lâu dài trong các phạm trù xã hội khác. Theo hướng này, và cũng theo lời của Nathalie Bajos và Michel Bozon (2008), cách nhìn phân biệt về tình dục như vậy – xác định nguồn gốc sự khác nhau giữa nam và nữ trong tự nhiên – cho phép lý giải sự tồn tại của các thói quen và hành vi tình dục vẫn còn bất bình đẳng giữa các giới tính trong các phạm trù xã hội khác. Luận thuyết về vai trò quyết định của sinh lý, có thể rất phổ biến ở Việt Nam, ví dụ như trong vấn đề ham muốn, việc cho rằng nam giới có nhu cầu tình dục thường xuyên hơn nữ giới khiến cho các thói quen và hành vi tình dục mang tính bất bình đẳng được xây dựng dần trong xã hội.

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 117

dục có thể xảy ra. Trong tình dục con người, không phải điều gì cũng có thể và không phải lúc nào cũng có thể, hoặc có thể với bất kỳ ai, trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Các kịch bản văn hóa quyết định điều có thể và điều không được làm trong vấn đề tình dục, các kịch bản đó sẽ được diễn giải và hiểu bởi các tác nhân xã hội.

Một trong các giả thuyết nghiên cứu mà tôi đặt ra là để tìm hiểu « cách mà các yếu tố cấu trúc nên các quan hệ giữa nam và nữ (đặc biệt tất cả những gì xây dựng nên sự khác biệt về quyền lực giữa họ) góp phần vào việc xây dựng một phong cách tương tác về tình dục trong bối cảnh quản lý rủi ro và phòng ngừa – thai sản, bệnh lây qua đường tình dục – khiến cho các đối tác không ở trong vị thế bình đẳng » (Bajos, Bozon, 2008). Chẳng hạn, trong việc sử dụng các biện pháp tránh thai, liệu ở Việt Nam có việc một cô gái yêu cầu đối tác của mình sử dụng bao cao su ngay từ lần quan hệ đầu tiên hay không? Đây là câu hỏi tôi đặt ra khi tìm hiểu về số ca phá thai rất cao ở các cô gái Việt Nam, thậm chí có người nạo thai 3 đến 4 lần trước khi thực sự làm mẹ.

Tuy nhiên, mỗi tác nhân xã hội sẽ diễn giải và hiểu theo cách riêng của mình, tùy theo bối cảnh xã hội và lịch sử. Chẳng hạn, trong một bối cảnh truyền thống nơi chủ nghĩa cá nhân không mạnh, mức độ ứng tấu theo đó sẽ ít. Cùng với sự đi lên của lịch sử và xã hội, các kịch bản văn hóa dần dần mất đi tính đồng nhất, các chuẩn mực tình dục cũng sẽ mù mờ hơn, ít bất biến hơn. Các cá nhân có thể tự hiểu và diễn giải theo ý mình và ở trong các hoàn cảnh ứng tấu và thích nghi lẫn nhau, dần tách rời ra khỏi chuẩn mực văn hóa. Chẳng hạn, ta có thể nói đến sự trinh tiết trước khi cưới ở Việt Nam. Trước đây, đây là một giá trị chung và mọi người đều đồng nhất về tầm quan trọng của nó. Ngày nay, nhiều cá nhân đã tách mình khỏi giá trị này. Vậy điều gì đã khiến họ tách ra khỏi một mô hình chung được chia sẻ như vậy? Toàn cầu hóa và dân chủ hóa liệu có đóng vai trò gì trong việc này? Ai là những người đầu tiên vi phạm những chuẩn mực riêng biệt này?

Một khái niệm cơ bản của các phong trào nữ quyền ở phương Tây chính là «  riêng tư là chính trị  ». Điều này dẫn tôi tới dân chủ tình dục. Riêng tư nhào nặn chính trị, vì các nguyên tắc quyết định các mối quan hệ nam nữ – trong khuôn khổ sự thu hút về tình dục, tình yêu, cuộc sống đời thường – sẽ nhào nặn các quan hệ tương tác giữa các giới tính trong lĩnh vực công cộng. Có sự phụ thuộc Trong phần này tôi cũng muốn nhắc đến hai nhà xã hội học người Mỹ đã cộng tác nghiên cứu từ cuối những năm 1960 với viện Kinsey Institute là John Gagnon và William Simon. Hai tác giả đã cùng nhau đưa ra lý thuyết về các kịch bản tình dục trong công trình Sexual Conduct. The Social Sources of Human Sexuality (1973). Theo hai tác giả, tất cả các trải nghiệm tình dục của chúng ta đều được xây dựng như các kịch bản, có nghĩa là các hành vi đó phải được học, được mã hóa, ghi dấu trong ý thức, cấu trúc và xây dựng như những câu chuyện. Các trải nghiệm tình dục đó là kết quả của việc trải qua những quy tắc, những điều cấm đoán và thấm nhuần nhiều câu chuyện, kịch bản tình dục; cứ như là các kỹ năng về tình dục theo đó mà tích lũy được. Các cá nhân học cách xác định và tạo ra các tình huống có tiềm năng tình dục, bối cảnh của một kịch bản tình dục, có diễn viên, cốt truyện, hoàn cảnh câu chuyện có thể tạo ra mức độ sẵn sàng cho tình dục. Như vậy, các kịch bản đó thông báo một câu chuyện tình

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 118

điện của tình dục, của thái độ và thói quen, hành vi tình dục trong bối cảnh xã hội Việt Nam đang biến đổi rất nhanh? Tất nhiên, lý tưởng và thực tế không phải là một. Có phải chúng ta đã bước từ một bối cảnh chuẩn mực cứng nhắc với những chuẩn mực tình dục nguyên khối, không tách rời, được quy định bởi truyền thống, đạo đức, tôn giáo sang một bối cảnh có sự đa dạng về con đường tình cảm và hôn nhân vợ chồng và xu hướng cá nhân hóa ngày càng gia tăng về các chuẩn mực? Ngay khi xuất hiện cá nhân hóa các thói quen và hành vi, chúng ta phải đối mặt với những mệnh lệnh nhiều khi hoàn toàn trái ngược nhau.

Đâu là bối cảnh xuất hiện trở lại của chủ đề tình dục? Ở Việt Nam, điều gì đã thay đổi khiến cho tình dục trở thành một đối tượng thảo luận và tranh luận?

1.4.2. Điều kiện xuất hiện của các vấn đề tình dục ở Việt nam

lẫn nhau giữa lĩnh vực công cộng và lĩnh vực riêng tư. Tôi xin lại nhắc đến Giddens, tác giả này khẳng định « Nói tới giải phóng tình dục là nói tới dân chủ tình dục ». Theo ông, giải phóng tình dục tương ứng với dân chủ hóa tất cả những gì thuộc về cá nhân và lĩnh vực riêng tư. Dân chủ hóa ở đây không chỉ liên quan đến tình dục, nó còn mở rộng sang các mối quan hệ giữa hai người, giữa bố mẹ, giữa con cái, giữa bạn bè. Trật tự dân chủ gắn bó trước hết với việc xây dựng và thăng hoa của tính cá nhân. Giddens khẳng định rằng dân chủ hóa lĩnh vực công cộng cung cấp các điều kiện chính cho dân chủ hóa cuộc sống cá nhân. Khẳng định điều ngược lại cũng đúng: dân chủ hóa các quan hệ cá nhân cung cấp các điều kiện chính cho dân chủ hóa lĩnh vực công cộng. Sự phát triển của tự chủ cá nhân trong cặp vợ chồng có thể có tác động tới thực tiễn dân chủ trong cả một cộng đồng. Chẳng hạn, ở Việt Nam, các đại từ xưng hô đều không bình đẳng; người ta xưng hô với người tiếp chuyện tùy theo vị trí xã hội, tuổi tác, v.v. của người đó.

Mức sinh giảm là một trong những điều kiện và là kết quả của sự thay đổi trong tương quan về giới và trong tình dục (M. Bozon, 2002). Phụ nữ không còn bị bó hẹp trong vai trò sinh sản, tình dục cũng không còn chỉ nhằm một mục đích cuối cùng là sinh sản, nó còn có các mục đích khác nữa như sự hưởng thụ và sung sướng.

Trong khuôn khổ chính sách Đổi mới bắt đầu áp dụng từ năm 1986, một trong những thách thức lớn đối với những thay đổi của hệ thống chính trị đó là sự xuất hiện của các không gian phản biện xã hội, nhất là tại Quốc hội – nơi phải trở thành chỗ thực sự dành cho tranh luận xã hội (Salomon, 2004). Logic dân chủ phải được áp dụng ở mọi nơi, kể cả trong lĩnh vực tình dục, cùng với một đòi hỏi kép: tự do và bình đẳng. Tiếp theo chính sách này, liệu chúng ta có phải đối mặt với những luật chơi và đàm phán mới trong tình dục? Đâu là những thay đổi về hình ảnh đại Ở Việt Nam, tỷ lệ sinh và tỷ lệ tử giảm đã làm thay đổi cơ cấu dân số theo độ tuổi như thế nào? Quá độ về dân số là giai đoạn chuyển từ tỷ lệ sinh và tỷ lệ tử cao – khoảng 40 ‰ – sang mức thấp hơn. Ở thời kỳ đầu của quá độ dân số, tỷ lệ tử giảm là một yếu tố làm trẻ hóa dân số, vì nó thường bắt đầu bằng việc giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh – từ 0 đến 1 tuổi – và tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi. Những năm được thêm chủ yếu là những năm ở độ tuổi nhỏ, còn với lứa tuổi già hơn, số lượng năm được tăng thêm không đáng kể. Trong suốt

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 119

giai đoạn giảm tỷ lệ tử ban đầu này, dân số có xu hướng trẻ hóa [5], vì tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh giảm có tác động tương tự như tỷ lệ sinh tăng đối với cơ cấu dân số theo độ tuổi.

C c u tu i c a dân s Vi t Nam qua b n

t t ng i u tra dân s

Cơ cấu dân số theo tuổi ở Việt Nam qua 4 đợt điều tra

Bảng

23

1979

1989

1999

2009

42

39

33

25

dân s < 15 tu i (%)

53

56

61

68

dân s 15-64 tu i (%)

5

5

6

7

dân s > 65 tu i (%)

Nguồn: Các cuộc điều tra dân số ở Việt Nam, giai đoạn 1979-2009

Vi t Nam t n m 1979 n n m 2009

Tu i th trung bình khi sinh

Tuổi thọ trung bình ở Việt Nam giai đoạn 1979 - 2009

Bảng

24

trạng y tế của một đất nước. Sau giai đoạn giảm mạnh, tỷ lệ này có xu hướng ổn định kể từ cuối những năm 1970. Ước tính ở mức 300‰ năm 1936, tỷ lệ này giảm mạnh xuống 105‰ trong những năm 1960 (Lâm Thanh Liêm, 1987), sau đó xuống 45 ‰ năm 1979 và 1989[6], 37 ‰ năm 1999 và 16 ‰ năm 2009. Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh, số ca tử vong trẻ sơ sinh từ 0 đến 1 tuổi trên 1000 ca sinh, được công nhận là một chỉ báo tốt về tình

Chung

Nam

N

1979

66,1 tu i

63,7 tu i

67,9 tu i

1989

65 tu i

63 tu i

67,5 tu i

1999

68,2 tu i

66,5 tu i

70,1 tu i

2009

72,2 tu i

70,2 tu i

75,6 tu i

Nguồn: Các cuộc điều tra dân số ở Việt Nam, giai đoạn 1979-2009

[5] Xem thêm Kỷ yếu khóa học Tam Đảo 2010: Antoine, P., B. Formoso, M. Segalen., Chuyển đổi dân số và chuyển đổi về gia đình, Lagrée S. (biên tập khoa học), Op. cit., tr. 291-364. Bản điện tử có trên website của AFD, ÉFEO và trên www.tamdaoconf.com – bổ sung của ban biên tập.

[6] Số liệu về tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh có khác nhau giữa các nguồn.

Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam cũng tăng nhanh và đều đặn, từ 50 tuổi trong những năm 1970 (Banister, 1992) lên 72,8 tuổi theo số liệu của đợt tổng điều tra mới nhất của năm 2009. Hiện nay dân số đang già hóa liên tục từ đáy tháp tuổi, tức là tỷ lệ những người trẻ giảm – trong khi năm 1979 những người dưới 15 tuổi chiếm 42% tổng dân số. Năm 2009, tỷ lệ này giảm xuống còn 25%, trong khi tỷ lệ người

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 120

Chuy n

i v dân s

Bảng

25

Di n bi n t l sinh và t trong dân s Vi t Nam Chuyển đổi dân số. Diễn biến về tỷ lệ sinh và tỷ lệ tử trong th k XX và u th k XXI ở Việt Nam trong thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21.

già tăng lên. Ở Việt Nam, xu hướng này đặc trưng cho thời kỳ thứ 2 trong giai đoạn quá độ dân số, nhưng xu hướng này còn chưa rõ rệt. Trong vòng 20 năm, từ 1979 đến 2009, tỷ lệ người già trên 65 tuổi đã tăng nhẹ, từ 5% lên 7%.

T l t thô (*)

T l t ng dân s t nhiên (*)

T l sinh thô (*)

Th i k &

1930-1940 1955-1959 1960-1964 1965-1969 1970-1974 1975-1979 1980-1984 1985-1989 1990-1994 1999 2005 2009

45 45 43,9 42,3 35,5 33,2 33,5 31 27,4 19,9 18,6 17,6

26 12 12 15 15 11 8 7 7 7,3 7,0 6,8

1,9 3,3 3,2 2,7 2,0 2,2 2,5 2,4 2,0 1,3 1,2 1,1

Nguồn: Nguyễn Đức Nhuận, 1984; J. Banister, 1985; Điều tra Dân số và Nhà ở 1999, TCTK, Hanoi, 2001. Điều tra dân số năm 2009.

Bảng này giới thiệu giai đoạn chuyển đổi dân số ở Việt Nam, có so sánh song song diễn biến tỷ lệ sinh và tỷ lệ tử trong thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Chúng ta có thể thấy trong những năm 1930, tỷ lệ sinh cao, khoảng 45‰,  và tỷ lệ tử đã bắt đầu giảm mạnh. Trong những năm 1960, tình hình đối lập hoàn toàn giữa tỷ lệ sinh và tỷ lệ tử, kết quả là tỷ lệ tăng dân số tự nhiên tăng rất cao, trung bình vào khoảng 3%/năm. Do vậy, sau Ấn Độ và Trung Quốc, chính phủ Việt Nam cũng đã ban hành các nghị định hạn chế sinh đẻ. Nghị định đầu tiên được ban hành năm 1961, tiếp theo là năm 1963 đánh dấu việc áp dụng biện pháp hạn chế quy mô hộ gia đình và tiêu chuẩn đầu tiên về khoảng cách giữa các lần sinh: các gia đình ở Việt Nam được khuyên chỉ nên có 2 hoặc 3 con, mỗi con cách nhau từ 5 đến 6 năm (nghị định 99/TTg ngày 16 tháng 10 năm 1963) (C. Scornet, 2000). Chính sách này được áp dụng đại trà trong những năm 1990 bằng quy định « Mỗi gia đình chỉ có một hoặc hai con  » (Nghị định 162 ngày 18 tháng 10 năm 1988 của Hội đồng Bộ trưởng).

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 121

gian T – thể hiện số con trung bình của một thế hệ phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có các mức sinh của năm quan sát. Chỉ số theo trục dọc có thể được sử dụng thêm là số con cuối cùng: số con thực có của một phụ nữ tính đến hết tuổi sinh đẻ. Một trong những đặc thù của Việt Nam, và cũng là một yếu tố giúp giải phóng phụ nữ, là mức sinh giảm nhanh. Việc giải phóng phụ nữ kéo theo việc họ có quyền tự chủ trong gia đình, trong kinh tế hay trong tình dục. Chỉ số được sử dụng là tổng tỷ suất sinh. Đây là chỉ số theo hàng ngang – được tính theo thời

Di n bi n c a t ng t su t sinh

Vi t Nam, 1959-2009

Bảng

26

Diễn biến tổng tỷ suất sinh ở Việt Nam, giai đoạn 1959-2009

Giai o n

T ng t su t sinh (s con trên m i ph n )

1959-1964

6,4

1964-1969

6,8

1969-1974

5,9

1974-1979

5,3

1979-1984

4,7

1984-1989

4,0

1989-1994

3,3

1999

2,3

2009

2,0

Nguồn: Điều tra Dân số và Nhà ở năm 1999, NXB Thống kê, Hà Nội, 2001; Điều tra Dân số và Sức khỏe Việt Nam 2002, Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, Tổng cục Thống kê, Hà Nội, tháng 09 năm 2003; Tổng điều tra dân số năm 2009.

Chỉ số này diễn biến như thế nào? Trong những năm 1960, tổng tỷ suất sinh cao hơn 6, sau đó giảm nhanh và hiện nay ổn định ở mức 2 con / phụ nữ. Chênh lệch giữa các vùng nông thôn và thành thị thấp – thành thị là 1,8 và nông thôn là 2,1 con/phụ nữ.

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 122

Bảng

Vi t Nam, t 1999 n 2009

Tổng tỷ suất sinh (TTSS) theo vùng ở Việt Nam, 27 T ng t su t sinh theo vùng giai đoạn 1989-2009

Vùng n m 1989

Vùng n m 1999

Vùng n m 2009

TTSS 1989

TTSS 1999

TTSS 2009

4,17

Vùng núi và trung du B c b

2,24

Vùng núi và trung du B c b

3,07 3,07

ông B c Tây B c

ng b ng sông H ng

3,03

ng b ng sông H ng

2,35

ng b ng sông H ng

2,11

B c Trung b Ven bi n mi n Trung b

B c Trung b Ven bi n mi n Trung b

2,21

4,29 4,61

2,7 2,49

Ven bi n Trung b

5,98

Cao nguyên Trung b

3,56

Cao nguyên Trung b

2,65

Cao nguyên Trung b

ông Nam b

2,89

ông Nam b

2,16

ông Nam b

1,69

ng b ng sông C u Long

3,89

ng b ng sông C u Long

2,21

ng b ng sông C u Long

1,84

Vi t Nam

3,8

Vi t Nam

2,33

Vi t Nam

2,03

Ngu n : các

t i u tra dân s n m 1989, 1999 và 2009

Nguồn: Tổng điều tra dân số các năm 1989, 1999 và 2009.

Chênh lệch về mức sinh giữa các vùng miền là rất lớn trong những năm 1980, sau đó đã giảm dần, nhưng vẫn còn tồn tại. Năm 1989, ở các tỉnh Tây Nguyên và miền Trung, trung bình mỗi phụ nữ có gần 6 con so với 2,9 con ở vùng miền Đông Nam Bộ – tức là chênh nhau 3,09 con. Giai đoạn chuyển đổi về mức sinh diễn ra rất mạnh đối với phụ nữ các tỉnh Tây Nguyên vì vào năm 2009, mức sinh ở các tỉnh này là 2,65 con/phụ nữ. Như vậy, chênh lệch giữa các vùng miền còn lớn nhưng có xu hướng giảm. Khoảng cách giữa mức sinh cao nhất – 2,65 con/phụ nữ ở các tỉnh Tây Nguyên – và mức sinh thấp nhất – 1,69 con/ phụ nữ các tỉnh miền Đông Nam Bộ – chỉ còn là 0,96 con.

khỏe (ĐTDS&SK) đầu tiên được tiến hành năm 1988, tiếp theo đó là một đợt điều tra năm 1994, và đợt ĐTDS&SK lần 2 vào năm 2002. Từ năm 1988, các câu hỏi liên quan đến mức sinh và tránh thai chỉ được đặt cho các phụ nữ có gia đình. Điều tra hàng năm do Tổng cục Thống kê (TCTK) thực hiện liên quan đến các biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình cũng vẫn theo quy tắc đó: đợt điều tra gần đây nhất, thực hiện năm 2010, không đặt các câu hỏi này cho các phụ nữ không có gia đình. Do vậy, không có thông tin về các biện pháp tránh thai được sử dụng ở các phụ nữ độc thân, ly hôn, chia tay hoặc góa chồng trên toàn quốc. Tất nhiên, ở Việt Nam, mức sinh chính là số con sinh có giá thú. Trong hầu hết các trường hợp, con cái thường được sinh trong khuôn khổ quan hệ hôn nhân của bố mẹ. Khi nghiên cứu về diễn biến mức sinh ở Việt Nam, chúng tôi thường vấp phải vấn đề nguồn số liệu. Đợt điều tra dân số và sức

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 123

Tu i trung bình k t hôn l n âu theo gi i

Vi t Nam t n m 1989 n2009

Bảng

28

Tuổi trung bình kết hôn lần đầu theo giới tính ở Việt Nam, giai đoạn 1989-2009

N m

Nam

N

1989

24,5

23,2

1999

25,4

22,8

2009

26,2

22,8

Nguồn: Các cuộc điều tra dân số ở Việt Nam, giai đoạn 1989-2009

T l

c thân theo gi i tính và

tu i, 1989, 1999 và 2009

Bảng

29

Tỷ lệ độc thân theo giới tính và độ tuổi, giai đoạn 1989-2009

26,2 tuổi năm 2009 –, còn tuổi kết hôn của phụ nữ thì tương đối ổn định – 23,2 tuổi năm 1989 và 22,8 tuổi năm 1999 và 2009. Tuổi kết hôn trung bình được tính toán từ ba đợt điều tra gần đây nhất không có thay đổi lớn. Nam giới kết hôn hơi muộn hơn một chút – trung bình từ 24,5 tuổi năm 1989 lên

N m

Nam

N

T l

c thân

T l

c thân

15-19 tu i 20-24 tu i 45-49 tu i 15-19 tu i 20-24 tu i 45-49 tu i

1989

95,5

62,4

1,4

88,6

42,5

3,3

1999

97,5

69,6

1,5

90,7

45,7

5,8

2009

97,8

75,6

2,1

91,5

50,8

5,6

Nguồn: Các cuộc điều tra dân số ở Việt Nam, giai đoạn 1989-2009

Ngu n : các

t t ng i u tra dân s

Kết hôn là một hiện tượng phổ biến ở Việt Nam. Năm 2009, 2,1% nam giới từ 45 đến 49 tuổi độc thân, con số này là 5,6% ở nữ giới.

Việc xuất hiện biện pháp kiểm soát sinh đẻ cho thấy «  xuất hiện sự tính toán cân nhắc trong quan hệ giữa các cá nhân với việc sinh đẻ và cuộc sống cũng như trong quan hệ nam nữ, góp phần vào việc đưa các vấn đề về tình dục và giới ra khỏi phạm trù hiển nhiên và tự nhiên » (Bozon, 2002). Lần đầu tiên, phụ nữ có khả năng tách bạch tình dục với việc sinh đẻ liên tục. Chính trong bối cảnh có sự phân biệt dần dần giữa tình dục và những yêu cầu về nghĩa vụ sinh đẻ mà chủ đề về tình dục bắt đầu xuất hiện.

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 124

cách nói của Henri Leridon trong cuốn Những đứa con của sự ham muốn (Leridon, 1995). Đứa con trở thành đối tượng ham muốn của các cặp vợ chồng và việc mang thai không còn bị xem như sự e ngại. Tuy nhiên, ở Việt Nam, với số lượng các ca phá thai cao ở các phụ nữ trẻ, có vẻ như việc mang thai trước khi kết hôn vẫn còn là điều cấm kỵ. Ở Việt Nam, sự phát triển và phổ biến nhanh chóng của các biện pháp tránh thai đã góp phần rất nhiều vào việc giảm mức sinh. Theo điều tra mới nhất ngày 01 tháng 04 năm 2010 về biến động dân số, hơn 3/4 phụ nữ Việt Nam (78%) sử dụng một biện pháp tránh thai. Cùng với việc các biện pháp tránh thai trở nên phổ biến, người ta chuyển từ « đẻ con không cần đếm » sang « đứa con là quan trọng » theo

Di n bi n t l tránh thai theo bi n pháp, t n m 1988 n n m 2002

19

hình

Diễn biến tỷ lệ tránh thai theo biện pháp sử dụng, giai đoạn 1988-2002

Nguồn: Điều tra dân số và sức khỏe, 1988, 1997 và 2002; Điều tra dân số 1994.

với các biện pháp tránh thai hiện đại như sử dụng bao cao su (13%) hoặc viên thuốc ngừa thai (15%). Cần phải nhắc lại rằng các điều tra này chỉ thực hiện với các phụ nữ có gia đình. Như vậy, việc phổ biến các biện pháp tránh thai cho thấy có hai hiện tượng: gia tăng các biện pháp tránh thai « nam » phụ thuộc vào ý muốn và ý thức của nam giới (xuất tinh ngoài âm đạo, bao cao su) và việc sử dụng ngày càng nhiều các phương pháp tránh thai do nữ giới kiểm soát, phương pháp tránh thai Vậy thì, theo các cuộc điều tra dân số và sức khỏe, việc sử dụng các biện pháp tránh thai đã thay đổi như thế nào? Phải nhận thấy là tỷ lệ đặt vòng tránh thai rất cao: 38%. Thế nhưng, việc đặt vòng tránh thai chỉ được các phụ nữ đã sinh con sử dụng. «  Phương pháp » tránh thai thứ hai hay được sử dụng là xuất tinh ngoài âm đạo hoặc không xuất tinh. Phụ nữ Việt Nam, đặc biệt là các cô gái trẻ vẫn còn phụ thuộc rất nhiều vào ý thức tốt (hay kém) của nam giới. Điều tra hàng năm của TCTK đưa ra các con số cao hơn đối

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 125

có sự can thiệp của y tế, chắc chắn hơn (đặt vòng, uống thuốc tránh thai).

pháp tiếp cận dự phòng y tế. Thường đó là các nghiên cứu về các vấn đề sức khỏe liên quan đến tình dục. Vẫn còn nhiều lực cản như việc kiên quyết không đặt các câu hỏi, trên quy mô toàn quốc, về việc tránh thai đối với phụ nữ không có gia đình. Thực tế này còn tồn tại là vì các quyền liên quan trực tiếp đến quan hệ giữa nam giới và nữ giới.

Ngược lại, ở phương Tây, việc chính trị hóa sự riêng tư và đời sống tình dục diễn ra qua các phong trào xã hội và nữ quyền trong những năm 1960 và muộn hơn sau đó là qua các phong trào của người đồng tính trong những năm 1980. Các phong trào này đòi sự bình quyền và hợp pháp hóa các biện pháp tránh thai và bỏ thai. Ở Pháp, mãi đến khi có luật Neuwirth năm 1967, biện pháp tránh thai bằng đường uống mới được hợp thức hóa, sau đó luật Veil năm 1975 đã bỏ chế tài đối với hành vi phá thai dưới một số điều kiện. Với yêu sách đòi bình quyền và quyền làm chủ cơ thể, các phong trào nữ quyền đã tham gia vào việc hợp pháp hóa các biện pháp trên, điều này khác hoàn toàn với thực tế ở Việt Nam, nơi tránh thai và phá thai đã rất phổ biến.

Ngày nay, nhiều nghiên cứu được thực hiện về những hình ảnh đại diện của tình dục (người ta nghĩ gì về tình dục) và các thói quen, hành vi tình dục, tách hẳn khỏi các vấn đề về sức khỏe hoặc phòng tránh thai – theo như nghiên cứu của Lê Bạch Dương và Khuất Thu Hồng (2009).

Đến cuối thế kỷ 20, các nghiên cứu về tình dục ở Việt Nam vẫn còn hiếm. Trong lĩnh vực dân số, các nhà hoạch định chính sách và nghiên cứu vẫn quan tâm chủ yếu đến gia tăng dân số và các biện pháp kiểm soát tăng dân số (C. Scornet, 2009). Hiện nay, các vấn đề về tình dục bắt đầu xuất hiện trong các tranh luận xã hội, đặc biệt là vấn đề tình dục ở giới trẻ. Điều thay đổi hiện nay chính là việc chính trị hóa tình dục, chính trị hóa lĩnh vực riêng tư và sự riêng tư. Các vấn đề về tình dục bắt đầu xuất hiện trong các tranh luận xã hội và việc chính trị hóa tình dục như vậy diễn ra dưới ảnh hưởng của các tổ chức quốc tế như Quỹ dân số LHQ UNFPA, Chương trình phát triển LHQ UNDP, Tổ chức y tế thế giới WHO và các tổ chức phi chính phủ NGO, sau Hội nghị Cairo năm 1994 và Hội nghị phụ nữ quốc tế tổ chức tại Bắc Kinh năm 1995 khi khái niệm sức khỏe sinh sản bắt đầu được đưa ra. Các hội nghị này thiết lập các cơ chế xuyên quốc gia dẫn tới việc ra đời các hình thức pháp chế siêu quốc gia theo sáng kiến của các nước phía Bắc, có những tác động ưu đãi tới các nước phía Nam. Tình dục ở Việt Nam trở thành một đối tượng chính trị chính đáng gắn với sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản; trong khi đó, các vấn đề tình dục riêng tư cho đến thời điểm đó vẫn được coi là chuyện không nên nói đến trong gia đình. Trong những năm 1990, các cuộc điều tra đầu tiên về sức khỏe sinh sản bắt đầu được thực hiện, nhưng vấn đề tình dục ở giới trẻ thì vẫn chưa trở thành một đối tượng nghiên cứu đúng nghĩa cần phải tách bạch ra khỏi sinh sản và đời sống hôn nhân. Tình dục chỉ được nghiên cứu theo hướng mang lại các nguy cơ về sức khỏe như mang thai, bệnh lây truyền qua đường tình dục, và tập trung vào phương Cuối cùng, điều quan trọng là phải phân biệt, ở Việt Nam hiện nay, giữa tình dục sớm ở nam giới – một thời kỳ riêng biệt và được xã hội chấp nhận, theo đó các nam thanh niên có thế có quan hệ tình dục với những phụ nữ không nhất thiết phải là vợ mình – và tình dục trước hôn nhân ở nữ giới – vẫn chưa thực sự được xã hội chấp nhận, và được coi như giai

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 126

BANISTER J. (1992), Viet-Nam Population Dynamics and Prospects, Center for International Research, U.S. Bureau of the Census, Washington D.C.

BOZON, M. (1995), «  Pékin: utilités et limites d’une conférence mondiale », La chronique du Ceped, n°19, oct-déc. Pp. 4-6. BOZON, M. (2002), Sociologie de la sexualité, Paris, Collection 128, Nathan.

Central Population and Housing Census, Steering Committee, The 2009 Vietnam Population and Housing Census: Major Findings, Hanoi, June 2010.

la

CHAMBOREDON J.C. (1985), « Adolescence et post-adolescence: juvénisation  » in A.M. Alléon, O. Morvan, S. Lebovici (dir.), Adolescence terminée, adolescence interminable, PUF, Paris, pp. 13-28.

FOUCAULT, M. (1976), Histoire de la sexualité, Tome 1, La volonté de savoir, Paris, Gallimard. GAGNON, J., SIMON W. (1973), Sexual Conduct. The Social Sources of Human Sexuality, Aldine, Chicago.

GIDDENS, A. (1992), The transformation of Intimacy, Sexuality, Love and Eroticism in Modern Societies, Polity Press, Blackwell Publishing Ltd, Oxford. GIDDENS A. (pour (2004) đoạn chuẩn bị cho hôn nhân (Chamboredon, 1985). Tình dục chỉ có chỗ đứng khi cặp vợ chồng đã kết hôn, đặc biệt đối với các cô gái trẻ. Cần phải thành vợ chồng trước khi có quan hệ tình dục. Do đó, giữa hai người phải có một giai đoạn quan hệ giữ gìn trinh tiết trước khi cưới rồi sau đó mới được thực sự có quan hệ tình dục. Quan hệ tình dục tồn tại phụ thuộc vào quan hệ vợ chồng. Ngược lại, nam giới lại có tiêu chuẩn kép về hình mẫu tình dục vợ chồng và ích kỷ cá nhân. Nếu một số cô gái trẻ không còn nghĩ đến việc phải giữ gìn trinh tiết cho đến khi cưới và dần dần có được quyền thử nghiệm tình dục, bản thân họ cũng không có quyền tự do hành động hay khẳng định bản thân trong chuyện tình dục như nam giới (Löwy, 2006). Những khác biệt trong hành vi tình dục được giám sát bởi người lớn như bố mẹ, hàng xóm, thầy cô giáo, nhân viên y tế, v.v. vẫn còn được duy trì do áp lực tập thể từ phía bản thân người trẻ, do cơ chế tin đồn, thanh danh về tình dục, nhất là đối với các cô gái trẻ. Người ta có thể có điều tiếng không tốt về vấn đề tình dục đối với một cô gái, nhưng lại không phải như vậy đối với nam giới. Sự bất đối xứng này xuất phát từ sự ngự trị của nam giới trong cách nghĩ về tình dục.

la traduction française), La transformation de l’intimité. Sexualité, amour et érotisme dans les sociétés modernes, Hachette Littératures.

GODELIER, M. (2001), «  La sexualité est toujours autre chose qu’elle-même », Esprit, mars-avril, pp. 96-104.

tài liệu tham khảo

Chúng ta cũng đang chuyển từ một mô hình chuyển giao về tình dục theo chiều dọc – bố mẹ, người lớn, trường học, v.v. – dựa trên quyền lực sang một mô hình chuyển giao theo chiều ngang – bạn bè và các phương tiện truyền thông – dựa trên các nguyên tắc ít cứng nhắc hơn. Sự chuyển đổi về tình dục đang diễn ra.

KHUAT, Thu Hong, LE, Bach Duong, NGUYEN, Ngoc Huong (2009), Sexuality in Contemporary Vietnam. Easy to Joke about but Hard to Talk about, Knowledge Publishing House, Hanoi.

KINSEY A, POMERY W., MARTIN C. (1948), in the Human Male, Sexual Behaviour Saunders, Philadelphie. BAJOS N. et BOZON M. (sous la direction de), 2008, La sexualité en France. Pratiques, genre et santé, La Découverte.

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 127

thảo luận…

Jean-Luc Maurer, ihEiD KINSEY A, POMERY W., MARTIN C. (1953), Sexual Behaviour in the Human Female, Saunders, Philadelphie.

LAM Thanh Liem, (1987) «  La Planification familiale au Viêt-Nam », in Population, n° 2, p. 321-336.

Có thể giải thích thế nào về tỷ lệ sử dụng thuốc tránh thai rất thấp? Liệu thực tế quan sát được ở Việt Nam có đặt vấn đề xem xét lại cách tiếp cận của Giddens gắn dân chủ hóa tình dục với dân chủ hay không? LERIDON, H. (1995), Les enfants du désir. Une révolution démographique, Collection Pluriel, Hachette Littératures, Paris. Jean-pierre cling, iRD-DiaL

LOWY I. (2006), L’emprise du genre: masculinité, féminité, inégalité, Coll. Le Genre du monde, La Dispute, 2006.

MEAD M. (1928) (1976), Coming of Age in Samoa. a Psychological Study of Primitive Youth For Western Civilisation. Harper Collins Publisher, New York.

Có sự phân biệt ngày càng tăng giữa tình dục và sinh sản. Tôi thấy là nghịch lý khi sự phân biệt này lại đi cùng với sự phát triển theo nhiều hướng giữa bình đẳng trong lĩnh vực tình dục và bất bình đẳng trong lĩnh vực sinh sản. Tôi nghĩ đến việc phá thai lựa chọn giới tính ở Việt Nam. Vấn đề này đang ngày càng nghiêm trọng. Chương trình về chính sách bình đẳng giới không dẫn đến việc ổn định tỷ lệ nam / nữ trong dân số - vốn đã rất chênh lệch, mà ngược lại còn làm cho chênh lệch đó tăng lên. SALOMON M. (2004), «  Les arcanes de la «  démocratie socialiste  » vietnamienne. Évolution des assemblées populaires et du système juridique depuis le lancement du Dôi Moi. », Les Etudes du CERI, n° 104, Centre d’études et de recherches internationales, Sciences Po.

Yves perraudeau, Đại học nantes

SCORNET C. (2000), « Un exemple de réduction de la baisse de la fécondité sous contraintes: la région du delta du fleuve Rouge au Viêt- Nam » in Population, 55(2), pp.265-300.

Tôi muốn biết có hay không các nghiên cứu về việc sử dụng các biện pháp khêu gợi tình dục trong quảng cáo ở Việt Nam như đã từng thấy ở Pháp? Liệu có khác biệt về hành vi tình dục giữa các vùng miền hay không?

catherine Scornet

SCORNET, C. (2009), « State and the Family » in M. Barbieri, D. Bélanger (ed.), Reconfiguring Families in Contemporary Vietnam, Series on Contemporary Issues in Asia and the Pacific, Stanford University Press, Stanford, pp. 47-74.

Về câu hỏi liên quan đến việc sử dụng viên thuốc tránh thai, các dữ liệu tôi có chỉ liên quan đến các phụ nữ có gia đình và loại trừ phụ nữ độc thân. Theo điều tra về kế hoạch hóa gia đình và biến động dân số năm 2010 thì 2,1% phụ nữ Việt Nam sử dụng các biện pháp tránh thai trước khi có con. Điều đó cho thấy vị trí và việc chứng tỏ khả năng sinh đẻ là rất quan trọng ngay sau đám cưới. Nhìn chung, các biện pháp tránh thai không được

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 128

thành một yếu tố đánh dấu sự bất bình đẳng giới. Hiện tượng này không nhất thiết đi kèm với việc rút ngắn khoảng cách để có được sự bình đẳng nam nữ tốt hơn. sử dụng trước khi có đứa con đầu tiên. Ngoài ra, có nhiều đồn đại không hay về viên thuốc tránh thai, chẳng hạn dùng thuốc tránh thai có thể gây vô sinh, điều này khiến cho biện pháp này trở nên không phổ biến. câu hỏi

Điều kiện phá để phá thai hay phá thai lựa chọn giới tính thai nhi là gì?  Phá thai có dễ hay không? Ngoài ra, liệu có tình trạng phá thai để điều chỉnh mức sinh hay không? Phụ nữ phá thai có bị kỳ thị hay không? Trong luật Việt Nam có quy định tội danh cưỡng hiếp trong vợ chồng hay không? Về câu hỏi liên quan đến mối liên hệ giữa dân chủ hóa tình dục và dân chủ hóa chính trị, đây cũng là câu hỏi mà bản thân tôi cũng đã đặt ra. Cơ sở lý thuyết của Giddens rất thú vị. Liệu dân chủ hóa các mối quan hệ trong gia đình có ảnh hưởng tới dân chủ hóa của lĩnh vực công cộng hay không? Vấn đề này vẫn còn để ngỏ.

christophe Gironde, Đại học Genève

Để trả lời cho câu hỏi của anh Jean-Pierre, tôi không nghĩ rằng phụ nữ Việt Nam phân biệt đời sống tình dục với đời sống sinh sản, nhất là khi ta thấy số lượng các ca phá thai rất lớn. Một trong những đặc điểm lớn của những lần quan hệ tình dục đầu tiên ở Việt Nam và đặc biệt là của lần quan hệ tình dục đầu tiên là hai người không có sự chuẩn bị hay bảo vệ để phòng ngừa các hậu quả có thể có.

Tôi có một câu hỏi liên quan đến những thay đổi khác nhau của mức sinh. Liệu có liên quan đến các yếu tố kinh tế như mức sống, điều kiện sinh hoạt, v.v. hay liên quan nhiều đến các yếu tố văn hóa? Mặt khác, tác giả đã đề cập đến trường hợp tổng tỷ suất sinh giảm mạnh nhất ở các tỉnh Tây Nguyên: liệu có quan hệ gì với việc đây là vùng có lượng người Kinh di cư đến nhiều nhất? Ngoài ra, tôi tự hỏi phải giải thích như thế nào về việc chuyển đổi các hành vi tình dục có liên quan nhiều đến dân chủ hóa phát ngôn hơn là dân chủ hóa hành vi, điều này có thể làm méo mó thực tế.

catherine Scornet

Còn về câu hỏi chênh lệch giới tính khi sinh theo hướng nam nhiều hơn nữ – ở mức 110 nam so với 100 nữ năm 2009 –, cần phải có nhiều điều kiện mới dẫn tới sự chênh lệch theo hướng nhiều nam hơn này: trước hết, mức sinh phải đạt ở mức thấp, phải có các phương tiện phát hiện giới tính thai nhi và tâm lý trọng nam khinh nữ vẫn tồn tại. Cũng có thể thấy có sự khác nhau giữa các vùng miền, việc lựa chọn giới tính thai nhi ở miền Bắc nhiều hơn ở miền Nam.

Về câu hỏi liên quan đến việc phá thai, trước đây đó là một phương tiện để kiểm soát sinh đẻ, rất dễ tìm một nơi để làm các thủ thuật phá thai. Theo điều tra dân số và sức khỏe năm 1988, phá thai nằm trong danh sách các biện pháp tránh thai. Tuy nhiên, năm 1994, phá thai đã ra khỏi danh sách này. Ở các nước không thực sự có khung pháp lý, biện pháp phá thai được sử dụng phổ biến mà không có biện pháp hạn chế. Còn về câu hỏi liên quan Còn về câu hỏi sử dụng khêu gợi tình dục trong quảng cáo, chắc chắn hiện tượng này phát triển rất nhanh. Khêu gợi hóa các hành vi ngày nay được công khai không chút ngại ngần trong các tạp chí, trên truyền hình hay Internet, v.v. Cơ thể con người càng ngày càng được khêu gợi hóa, điều này có thể trở

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 129

đến tội danh cưỡng hiếp trong vợ chồng, tôi nghĩ là nguyên tắc này được ghi trong Luật bình đẳng giới năm 2007.

Thực sự là có nhiều khác biệt về mức sinh ở các dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, tôi không biết liệu việc tổng tỷ suất sinh giảm có phải là do thay đổi về hành vi của người dân tộc thiểu số hay do di cư của người Kinh.

câu hỏi, học viên campuchia Việc quan hệ tình dục sớm ở nữ giới có thể bắt đầu phổ biến, nhưng nó chưa được toàn xã hội chấp nhận. Việc có nhiều ca phá thai không có nghĩa là việc quan hệ tình dục ở các cô gái trẻ không được chấp nhận trước khi kết hôn. Thực ra đây là dấu hiệu của việc từ chối có con ngoài giá thú, mặc dù điều này cho chúng ta thấy là đang có sự tự do hóa các hành vi tình dục trước hôn nhân. Mọi thứ thay đổi nhanh chóng, hiện nay chúng ta đang trong giai đoạn chuyển đổi.

Bà sử dụng phương pháp nào để tính các trường hợp phá thai? Bà có tính các vụ phá thai chui hay không?

Emmanuel pannier, Đại học provence – aix- Marseille

Phá thai trước khi kết hôn liệu có phải là dấu hiệu của việc quan hệ tình dục sớm ở nữ giới?

catherine Scornet

Điều tra toàn quốc về tình hình dân số năm 2010 ước tính tỷ lệ phá thai trung bình là 0,8 ca với mỗi phụ nữ có gia đình. Chắc chắn là khó có được các con số chính thức về phá thai vì các cơ sở tư nhân cũng cung cấp dịch vụ này.

Tôi kết thúc tại đây và xin nhấn mạnh rằng các phỏng vấn mà tôi thực hiện cho đến nay cho thấy thông tin về sức khỏe sinh sản còn rất thiếu trong các chương trình giảng dạy hoặc nếu có thì các giáo viên cũng rất e dè khi đề cập đến vấn đề này. Chúng ta đang phải đối mặt với một thực tế: một mặt có sự tự do hóa tình dục và khêu gợi hóa cơ thể trong thanh niên Việt Nam, nhưng mặt khác vẫn duy trì một cách bề ngoài những vấn đề đạo đức liên quan đến luyến ái phi tình dục. Việc thiếu thông tin cũng là do các phương pháp sử dụng, chẳng hạn các phương pháp sử dụng trong đợt tổng điều tra biến động dân số toàn quốc đã không tính các phụ nữ độc thân trong bảng hỏi về sử dụng các biện pháp tránh thai.

[ ] tháng 07 năm 2012 / Khóa học Tam Đảo 2011 / © aFD 130