T¹p chÝ D©n téc häc sè 1 2021 13
MẠNG LƯỚI XÃ HỘI TRONG SINH KẾ MỚI CỦA NGƯỜI LÔ LÔ
VÀ NGƯỜI NÙNG Ở VÙNG BIÊN GIỚI TỈNH CAO BẰNG1
TS. Lý Hành Sơn
Viện Dân tộc học
Đt vn đ
Biên giới giữ một vị thết sức quan trọng trên tất c các phương diện: chính trị - ngoi
Mở đầu
Ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng, các tộc người Hmông, Dao... hai tộc người Lô Lô,
Nùng hiện nay vẫn chủ yếu sống bằng trồng trọt kết hợp với chăn nuôi. Đối với người
Lô, dân số chỉ 674 hộ 3.472 người, phân bố ở hai huyện Bảo Lạc và Bảo Lâm, song lại
thuộc diện diện tích đất nông nghiệp rất ít, khoảng 246,5ha, bình quân 750m2/người. Do
tụ cư lâu đời ở khu vực đồi núi cao, hiếm đất canh tác, nhất là thiếu nước để mở rộng diện tích
ruộng bậc thang, nên hiện nay các hộ gia đình Lô Lô vẫn chỉ làm nương là chính. Đất canh tác
1 Bài viết kết qu của đề tài cp Bộ: “Mạng lưới hi ca tộc người Nùng tnh Cao Bng trong
phát trin kinh tế, đảm bo trt t xã hi vùng biên gii ” do Viện Dân tc hc ch trì, TS. Lê Minh Anh và TS.
Th Mùiđng ch nhim.
Tóm tắt: Người (huyện Bảo Lạc) người Nùng (huyện Trùng Khánh) vùng
biên giới tỉnh Cao Bằng hiện tại đều thiếu đất sản xuất nông, lâm nghiệp. Vì vậy, hai tộc người
này đang tận dụng mạng lưới xã hội trong các hoạt động sinh kế mới, bao gồm phát triển dịch
vụ mua bán, làm thuê... để tạo thêm nguồn thu nhập cho gia đình. i viết này trình bày về vai
trò của mạng lưới xã hội đối với hoạt động sinh kế mới của các tộc người Lô Lô và Nùng trong
bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng.
Từ khóa: Mạng lưới xã hội, sinh kế mới, người Lô Lô, người Nùng, vùng biên giới.
Abstract: The Lo Lo people (in Bao Lac district) and the Nung people (in Trung Khanh
district, living in the frontier areas of Cao Bang province, are lack land for agricultural
farming and forestry. Therefore, these two ethnic groups are utilizing their social networks to
develop new livelihood activities, including commercial trade, seasonal labor, etc... to
improve their family income. This article examines the role of the social networks in the
livelihood activities of the Nung and Lo Lo people in the market economy and integration
context in the frontier areas of Cao Bang province.
Keywords: Social network, new livelihoods, Lo Lo people, Nung people, frontier areas.
Ngày nhận bài: 15/12/2020; ngày gửi phản biện: 30/12/2020; ngày duyệt đăng: 29/1/2021
14 Lý Hành Sơn
của họ thường độ dốc cao từ 180 trở lên, nên thường xuyên bị xói mòn hàng năm, nhanh bị
bạc màu (Ban Dân tộc tỉnh Cao Bằng, 2019). Trong khi, người Nùng c xóm đã được khảo
t tại hai Đàm Thủy Khâm Thành thuộc huyện Trùng Khánh lại chyếu làm ruộng
ớc. Do sống khá mật tập với dân số đông, nhưng diện tích nương rẫy không nhiều nên đất
đai của các cộng đồng Nùng nơi đây không được rộng rãi như xóm làng người Lô Lô. Chẳng
hạn, theo trưởng xóm Lũng Phiắc Đàm Thủy, đến tháng 7/2020, cả xóm 261 hộ với
1.050 nhân khẩu đều người Nùng nhưng chỉ 50ha ruộng 60ha đất nương, trung bình
mỗi hộ khoảng 1.000 - 1.500m2 đất nông nghiệp. Do vậy, người dân Nùng gần
đây đều tìm kiếm những cách sinh kế mới để có thêm thu nhập.
Kết quả điền vào tháng 10/2019 tháng 7/2020 cho thấy, mạng lưới hội trong
hoạt động sinh kế của người Lô Nùng ở các huyện Bảo Lạc Trùng Khánh thuộc tỉnh
Cao Bằng diễn ra khá đa dạng. Đặc biệt, gần đây đã sự kết hợp giữa các mạng lưới truyền
thống và hiện đại tùy theo điều kiện từng địa phương mà mỗi cá nhân hay đại diện hộ gia đình
lựa chọn để cho phù hợp với những mối quan hệ, hoàn cảnh công việc cụ thể của mình. Tuy
với mức độ khác nhau, song hệ thống mạng lưới hội này luôn thể hiện nét hầu hết các
hoạt động của đồng bào như sản xuất kinh tế, tổ chức hội, sinh hoạt văn hóa, ứng xử với
môi trường tự nhiên,...
Dựa vào tư liệu điền dã năm 2019 - 2020, bài viết này đề cập đến mạng lưới xã hội trong
hoạt động sinh kế mới, chủ yếu là thương mại và tìm kiếm việc làm mới của hai tộc người
Lô Nùng phạm vi nhân hộ gia đình. Về khái niệm, theo một số nghiên cứu, mạng
lưới hội bao gồm tập hợp các đối tượng và sự miêu tả của mối quan hệ giữa các đối tượng
đó, vì vậy hiểu biết về quan hệ giữa một cá nhân đối với người khác thì có thể đánh giá được
vốn xã hội của cá nhân ấy (Hoàng Bá Thịnh, 2008, tr. 49).
1. Mạng lưới xã hội trong hoạt động thương mại
1.1. Mạng lưới xã hội trong xây dựng và mở rộng thị trường
Th trường là chế để thương mại hoạt động, bao gm: th trường hàng hóa - dch v
tc th trường sản lượng, th trường lao đng, th trường tin t,... V truyn thng, theo li
k ca mt s c già người Lô Nùng, trước kia kinh tế hàng hóa chưa phát triển, nên
ch yếu lấy hàng đổi hàng, mà nay vn tn tại dưới hình thc tr giúp nhau. Chng hn: vic
vay tm thóc giống đến khi thu hoạch thì đem trả; vay tm ln, gạo khi nhà đám, sau đó
đem trả nếu gia đình cho vay công việc tương tự; người nhà mang ln cái đi phối ging
cn mang theo mt vài ng ngô ht hoc gạo cho gia đình lợn đực để cảm ơn; những
người được mi đến giúp sức lao động cho một gia đình đang việc, rồi được gia ch thết
đãi mt bữa ăn,... Đây là những hình thc trao đổi mang tính mua bán nhưng không s dng
đồng tin. Mạng lưới xã hi cho các hình thức trao đổi này là mi quan h cá nhân mang tính
h hàng, xóm ging,...
T¹p chÝ D©n téc häc sè 1 2021 15
Vi s phát trin kinh tế th trường nước ta hin nay, vic mua bán hàng hóa chi
tr cho vic cung cp dch v tại các địa phương đều chuyn sang giao dch bng tin Vit
Nam đồng. Ti vùng biên gii tnh Cao Bng, mt s nơi còn s dng tin ca Trung Quc.
Kết qu khảo sát vào năm 2019 và năm 2020 tại mt s xóm người Lô Lô các xã Hng Tr,
Cô Ba, Kim Cúc (huyn Bo Lạc) và vài xóm ngưi Nùng hai xã Đàm Thy, Khâm Thành
(huyện Trùng Khánh) đã khẳng định vic này. Nhng h gia đình của hai tộc người
Nùng điu kin m dch v bán hàng tại nhà đều giao dch và thanh toán bng tin
Việt Nam đồng; khách mua hàng trong hay ngoài xóm cũng sử dng tin Việt Nam đồng.
V xây dng th trường, hin nay mi vài h gia đình m quán tại nhà để bán các
mặt hàng tiêu dùng, chưa trường hp mua bán buôn mặc dù người Lô Lô Nùng đu có
điều kin buôn bán qua biên gii Vit - Trung, do h sống giáp đường biên. Mt vài h đã
bán hàng hơn 10 năm, thậm chí 20 năm hoặc cũng h mi m quán được 1 năm, nhưng
đều chưa phát triển thành dch v thương mi ln. V s ng, xóm Cc S Dưới,
Hng Trị, năm 2019 4 h người m quán bán hàng tp a ti nhà. Riêng xóm
Khui Khon, xã Kim Cúc, do phát trin du lch nên nhiều gia đình tham gia dt th
cm bán cho du khách. Trong khi xóm Ngàm Lm, xã Ba có 18 h người Lô Lô thì chưa
gia đình nào mở quán bán hàng ti nhà. th do xóm y ch cách trung tâm xã
khong 3km - nơi vài quán của người Kinh người y, nên các gia đình Lô thưng
ra để mua nhng mt hàng cn thiết. Đối vi tộc người Nùng huyện Trùng Khánh, đến
tháng 7/2020, xóm Lũng Phiắc, Đàm Thủy vi 261 h người Nùng, ch 4 h m quán
bán tp hóa tại nhà, trong đó1 h đã bán được 20 năm; xóm Háng Khoang xã Đàm Thy
1 h người Nùng m quán bán hàng do gn một gia đình Nùng khác cho người Kinh
thuê nhà làm dch v homestay thnh thoảng khách đến tr cn mua hàng; xóm Dc
Vung Khâm Thành 2 h người Nùng m quán bán hàng. Như vậy, trong các xóm ca
hai tộc người Lô và Nùng vùng biên gii tnh Cao Bng - nhng cng đồng được kho
sát vào tháng 10/2019 tháng 7/2020, vẫn chưa nhiều gia đình mở quán bán tp hóa ti
nhà, đầu xóm hoc các li r nhiều người qua li. Vic m quán bán các hàng tp hóa
ch để có thêm thu nhp, bi vì trng trọt và chăn nuôi vn gi vai trò ch đạo. Các xóm này
đều xa ch ch th trấn, nên chưa gia đình hay Nùng hội thuê mt
bng bán hàng trong ch.
Phng vấn đại din nhng h gia đình và Nùng điều kin m dch v bán
hàng trong xóm cho thấy, ban đầu các h y đu da vào mạng lưới hội liên quan đến
mi quan h h hàng, thông gia... đã vn, kinh nghim buôn bán thành ph Cao Bng
hay th trn huyn. Nhng nhà buôn bán chuyên nghip y luôn ngun hàng di dào
mun m thêm chi nhánh hoặc đại lý nơi khác. Do đó, h đã gợi ý, tư vn kinh nghim và
tìm đại lý cung cấp hàng hóa cho gia đình Lô Lô hay Nùng có quan h thân thuc trong thi
gian đầu m quán bán hàng ti xóm. Riêng mt s h hay Nùng mi m dch v gn
16 Lý Hành Sơn
đây thì hc kinh nghim ca những gia đình đã thời gian bán hàng nhiều năm trong xóm.
Hơn na, nhng h mi m cửa hàng thường người cùng dòng h hoc anh ch em rut
của gia đình đã nhiều năm bán hàng tạp hóa. Chng hạn, theo trưởng xóm Lũng Phiắc, xã
Đàm Thủy, 4 h người Nùng đang bán hàng trong xóm đu có quan h h hàng; xóm Dc
Vung, xã Khâm Thành cũng vy, hai h m quán bán hàng khô quan h bác và cháu - gia
đình bác đã mở quán được 10 năm, trong khi v chng thế h cháu mi m quán khong 2
năm. Do đó, mt tha thun gia các h y là: nếu nhng mt hàng cùng loại như
tôm, sữa nước đóng bịch... thì bán cùng mt giá, tc không hàng quán bán vi giá thp
hơn để cnh tranh khách hàng mà tùy theo s la chn ca khách hàng.
Ngoài vic m quán bán hàng tạp hóa, rượu, thuc lá... ti xóm, gần đây còn xuất hin
trường hp mua con la non t Trung Quc v bán cho người dân trong xóm Lũng Phic
các xóm lin k thuc Đàm Thủy như Sục M, Háng Khoang..., mt s khác. Khi
m ca biên gii Vit - Trung, ban đầu người dân nơi đây dùng la th qung sang Trung
Quc bán, nên h thích nuôi la để th thóc, ngô lai, đậu tương... đi bán. Song, s người buôn
bán con la không nhiu do phi vn mạng lưới quen biết vi những người làm dch
v Trung Quc. Tại xóm Lũng Phiắc, Đàm Thủy, vào tháng 7/2020 3 người Nùng
buôn bán con la, ch khi người đt mua thì h mi sang Trung Quc ly v. Mi chuyến
có th mang v khong 1 - 3 con la. Các gia đình nuôi con la nếu mun bán nhng con la già
thì bán cho 3 người trên đ h đem sang Trung Quốc bán, bán Vit Nam rt r. Tuy
nhiên, năm 2020 do dịch Covid-19 nên người buôn con la không th hoạt động, h ch giúp
gia đình sản xut nông nghiệp. Như vậy, h buôn bán con la thông qua mạng lưới quan h
vi những người cũng m dịch v này bên Trung Quốc. Do đây hoạt động mua buôn
bán l để kiếm lãi, nên khác bit so vi nhng nhân mang sn phm nông nghip ca gia
đình mình đi bán lấy tiền để trang tri các chi tiêu cho sinh hot hàng ngày hoc đầu m
rng sn xut.
Qua liu trên th thy, vic thiết lp, m rng th trường thương mi vùng
người Nùng được chính đồng bào trc tiếp thc hin, song vn ch yếu da vào
mạng lưới xã hi nhân hay h gia đình tại thành ph th trn huyn. Các mi quan h
thân thuc, h hàng, thông gia... trong vấn kinh nghim luôn gi vai trò đặc bit. Bên
cạnh đó, còn sự góp sc ca các phương tiện công ngh mới như điện thoi, internet...,
vi s kích thích đáng k của các thương người Kinh, người y... do thường xun ch
hàng đến bán lưu động ti các xóm ca hai tộc người Nùng. Song, cũng vì vậy mà
dẫn đến s cnh tranh v th trường tiêu thụ, đặc bit là khách hàng, làm cho vic tiếp tc m
rng th trường hay tăng thêm nhiu dch v thương mại ca các h gia đình hay
Nùng trong xóm có xu hướng gặp khó khăn.
1.2. Mạng lưới xã hội trong phương thức hoạt động thương mại
Tư liệu điền dã năm 2019 và 2020 cho thấy, do số lượng dịch vụ bán hàng tạp hóa vừa
T¹p chÝ D©n téc häc sè 1 2021 17
ít ỏi vừa phân bố nhỏ lẻ tại các xóm của hai tộc người Lô Lô và Nùng, mạng lưới xã hội hoạt
động thương mại chủ yếu dựa vào quan hệ quen biết để có được sự đa dạng nguồn hàng, đặc
biệt nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Trong khi, các gia đình trong xóm vẫn chưa thoát
khỏi sản xuất tự cấp, nên họ chỉ mua những thứ thiết yếu như mì tôm, xà phòng, mắm, muối,
bật lửa, thuốc lá,... Hơn nữa, hàng ngày vẫn thương người Kinh, người y... từ nơi
khác mang hàng đến bán rong tại xóm. Những nơi có đường ô tô, các tư thương còn dùng xe
tải chở các loại hàng hóa đến xóm để y bán. Chưa kể đến những thương dùng xe y
luồn lách tới các nhà để rao bán thịt, cá, rau cỏ, bánh trái, hoa quả, đồ dùng cá nhân,... Đây là
một dạng cạnh tranh đang diễn ra giữa những hộ gia đình là người Lô Lô hay Nùng mở quán
bán tạp hóa, bánh trái, rượu bia... trong xóm của mình. thế, kết quả thảo luận nhóm tại
một số xóm thuộc các Hồng Trị, Ba (huyện Bảo Lạc), Khâm Thành, Đàm Thủy
(huyện Trùng Khánh) cho thấy, trong mỗi xóm bất kể tộc người Lô hay Nùng, những gia
đình nhân lực vốn đều muốn mở quán bán hàng tại nhà, song luôn gặp khó khăn do
người mua không nhiều. Khảo sát tại xóm Lũng Phiắc hay Háng Khoang thuộc Đàm
Thủy cho thấy, đến nay đã khá nhiều hộ người Nùng mở quán bán hàng khô nhưng bày
hàng mãi cũng hết hạn sử dụng mà người mua thì ít nên đành phải dọn dẹp quán, không tiếp
tục bán hàng nữa.
Riêng vài quán hiện nay vẫn tồn tại do gia đình mạng lưới hội đảm bảo về
nguồn hàng được vấn về kinh nghiệm, cách thức hoạt động thương mại. Theo ông B.,
người Nùng xóm Lũng Phiắc, Đàm Thủy, đã kinh nghiệm hơn 20 năm bán hàng
tạp hóa tại nhà, khi mới mở quán thì phải chấp nhận lỗ, đặc biệt cần quan tâm lấy những
mặt hàng đảm bảo chất lượng lâu hết hạn sử dụng, chỉ khi khá nhiều khách mua thì
mới bày bán những mặt hàng khác, đồng thời sổ ghi chép hàng ngày để biết được hàng
nào bán được nhiều, hàng nào bán được ít hoặc không bán được để điều chỉnh cho thích hợp.
Ông B. còn cho biết, đại lý cung cấp hàng cũng phải hỗ trợ, gia đình mở quán bán hàng
trong xóm nơi tiêu thụ hàng của đại lý. Do đó, hai bên trách nhiệm cùng tháo gỡ khó
khăn khi một mặt hàng nào đó đã nhận về nhà để bán nhưng sắp hết hạn sử dụng mà vẫn tồn
đọng chưa bán được. Những mặt hàng nhận về y bán ít người mua hoặc thời hạn sử
dụng không còn lâu thì khi mang hàng khác đến, người của đại lý sẽ mang số hàng tồn đọng
y về giao cho dịch vụ bán lẻ khác có điều kiện tiêu thụ nhanh,... Đây là một trong những bí
quyết để duy thoạt động dịch vụ bán hàng tạp hóa tại nhà trong thời gian đầu mới mở
quán. Nhờ mạng lưới quan hệ đó, hàng quán tạp hóa của ông B. hiện nay luôn đông khách.
Về phương thức hoạt động, y điều kiện giao thông, khâu vận chuyển hàng từ đại lý
đến gia đình mở quán cũng khá linh hoạt. Qua kết quả phỏng vấn, số hộ người Nùng bán
hàng tại xóm Lũng Phiắc, xã Đàm Thủy thường thuê chủ đại lý cho nhân viên mang hàng từ
thành phố Cao Bằng đến xóm bằng ô trả tiền qua người đưa hàng, xóm này cách
thành phố Cao Bằng khoảng 80km và 2/4 gia đình đây đã bán hàng từ khi thị trấn Trùng
Khánh chưa nhiều đại lý bán buôn. Do quan hlàm ăn lâu năm, họ thường trao đổi trước