Hình tượng con người trong chạm khắc nổi đinh làng Việt Nam cuối thế kỉ XVII

HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI TRONG

CHẠM KHẮC NỔI ĐÌNH LÀNG VIỆT NAM THẾ KỈ 17

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................. 3

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 3

2. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 3

4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 3

5. Dự kiến những đóng góp của đề tài ................................................................. 3

6. Bố cục của đề tài. ............................................................................................ 4

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1: KHÁI QUÁT ĐÌNH LÀNG

I. Đình làng trong Văn hóa cuả người Việt Nam ................................................ 4

1. Vai trò của đình làng .............................................................................. 4

2. Kết cấu đình làng .................................................................................. 4

Chương 2: HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI TRONG CHẠM NỔI ĐÌNH LÀNG VIỆT

NAM THẾ KỈ XVII

I. Hình tượng con người mang yếu tố thần thoại

1.Hình tượng vũ nữ thiên thần …………………………………………………..5

2.Hình tượng tiên nữ cưỡi rồng phượng………………………………...6

1

Lê Trường Bảo

Hình tượng con người trong chạm khắc nổi đinh làng Việt Nam cuối thế kỉ XVII

II. Hình tượng con người phản ánh xã hội đương thời

1. Cảnh đấu vật ………...………………………………………………………7

2. Chuốc rượu……………………………………………………….7

3. Đánh cờ……………………………………………………………7

4. Chèo thuyền…………………………………………………....…8

5. Nam nữ tình tự……………………………….......……………….8

Chương 3: SỰ ĐỘC ĐÁO CỦA NGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC NỔI ĐÌNH LÀNG

1. Tính khái quát cao……………………………………………….8

2. Giàu tính nhân bản……………….....…………………………...9

3. Giá trị nghệ thuật của chạm khắc nổi đình làng thế kỉ XVI…….9

KẾT LUẬN …………………………………………………………........10

TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………........……………..11

PHỤ LỤC................................................................................................12

2

Lê Trường Bảo

Hình tượng con người trong chạm khắc nổi đinh làng Việt Nam cuối thế kỉ XVII

PHẦN MỞ ĐẦU

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Nói đến Nghệ thuật chạm khắc trang trí Đình làng là những tác phẩm của nghệ

nhân nông dân Bắc Bộ. Nghệ thuật của họ xuất phát từ đời sống và cái nhìn có tính bản

năng thuần phác của người nông dân. “Nó được sản sinh trong khoảng khắc lịch sử mà

tinh thần dân tộc vùng dậy tưng bừng nhất, mà nền văn nghệ dân gian thắng thế nhất”.

Người nghệ nhân với kỹ thuật chạm khắc điêu luyện và người nghệ sĩ với sự tự do trong

tưởng tượng, phản ánh, bộc lộ cái cảm tự thân về hiện thực, bằng bất kỳ thủ pháp nào

mà họ cho là phù hợp. Nhiều thủ pháp tạo hình được sử dụng để sáng tạo ra các bức

chạm khắc, thể hiện cái nhìn hồn nhiên, mộc mạc, hóm hỉnh, đầy sức sống như cái nhìn

của trẻ thơ .

Qua những bức chạm của đình làng Việt thế kỷ XVII rất nhiều mặt của đời sống

xã hội được thể hiện qua những tác phẩm như: “đấu vật”, “đánh cờ”..và qua đó nói lên

bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.

2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Đây là đề tài đã được nhiều nhà Văn hóa học, Dân tộc học, Xã hội học đã và đang

nghiên cứu và có khá nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau nhưng điểm chung nhất của

đề tài này là việc tìm hiểu và giữ gìn và phát huy truyền thống, bản sắc, văn hóa dân tộc

Việt Nam

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Mục đích em muốn tìm hiểu thêm về Giá trị nghệ thuật trong Nghệ thuật chạm

khắc nổi Đình làng Việt Nam

4. Phương pháp nghiên cứu, phương pháp đọc tài liệu, phương pháp quan sát,

phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng kết kinh

nghiệm.

3

Lê Trường Bảo

Hình tượng con người trong chạm khắc nổi đinh làng Việt Nam cuối thế kỉ XVII

5. Dự kiến những đóng góp của đề tài

Mong có sự đóng góp thêm ý kiến để em có thể hiểu sâu sắc hơn về bản sắc văn

hóa qua những giá trị nghệ thuật độc đáo của nghệ thuật chạm khắc trang trí nói chung

và nghệ thuật chạm khắc nổi Đình làng thế kỉ XVII

6. Bố cục của đề tài:

Ngoài phần mục lục, tài liệu tham khảo và phụ lục thì còn có chương 1 và chương 2,

chương 3

NỘI DUNG

Chương 1: KHÁI QUÁT ĐÌNH LÀNG

I. Đình làng trong Văn hóa cuả người Việt Nam

1. Vai trò của Đình làng

Mỗi làng Việt Nam đều có một ngôi đình. Đình là nơi thờ thần Thành hoàng của

làng. Thần Thành hoàng thường là những bậc anh hùng có công dựng nước, giữ nước;

hoặc một thần sông, thần núi mang tính huyền thoại như giúp dân trị thuỷ, trừ khử yêu

quái, đem lại cuộc sống yên lành cho mọi người, mọi nhà.

Đình vừa là nhà, vừa là nơi thờ cúng, vừa là nơi hội họp của dân làng, là ngôi nhà

công cộng của mỗi cộng đồng cư dân nông nghiệp làng xã. Mọi tập tục, văn hoá, nếp

sống của làng thường được định ra ở đây, có tên gọi là Hương ước, một thứ luật lệ dưới

luật, nhưng không kém phần nghiêm ngặt với các thành viên của làng.

2. Kết cấu đình làng:

2.1. Kiến trúc đình làng theo kiểu “Vì kèo” có sàn gỗ, hoặc nền đất lát gạch với

những hàng cột lim to khoẻ, vững chãi.

4

Lê Trường Bảo

Hình tượng con người trong chạm khắc nổi đinh làng Việt Nam cuối thế kỉ XVII

2.2. Phân bố các gian của đình thường là 3 gian, hoặc 5 gian, tuỳ theo khả năng làng

to nhỏ, giàu nghèo.

- Mái đình lợp ngói có độ dốc vừa phải. Bốn góc mái thường có đầu đao uốn cong

mềm mại vút lên như cánh chim bay. Hoặc theo kiểu “mái dốc – hai đầu đốc” có hoặc

không có cánh gà nhô lên.

- Bờ nóc của đình thường được trang trí một dải dài hoa văn chạm nổi hoặc chạm

thủng chạy suốt là hoa chanh, hay hoa thị. Bờ nóc thường đắp đôi rồng chầu nguyệt

(hoặc chầu mặt trời).

- Tường bao xây bằng gạch trần nung già “da vải” mạch bắt vữa, hoặc trát vữa

(còn gọi là hồ áo), quét vôi trắng.

- Trước ngôi đình thường có giếng nước hoặc hồ nước - ao làng - theo thuyết

phong thủy âm dương hoà hợp.

- Hồ thường thả sen, hay súng, tới mùa hương hoa toả thơm mát dịu.

- Nằm trong khuôn viên kiến trúc còn có tam quan - cổng đình, có mái lợp ngói

hoặc là bốn trụ có trang trí kiến trúc đứng lộ thiên.

Chương 2: HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI TRONG CHẠM NỔI ĐÌNH LÀNG

KHOẢNG CUỐI THẾ KỈ XVII

I. Hình tượng con người mang yếu tố thần thoại:

Cuối thế kỷ XVII là giai đoạn phát triển đỉnh cao của Nghệ thuật Điêu khắc, kiến

trúc đình làng Việt và nhiều ngôi đình nổi tiếng xuất hiện trong giai đoạn này như: đình

So, đình Chu Quyến (Hà Tây), đình Kiến Bá (Hải Phòng), đình Diềm (Bắc Ninh )

Đi liền với những công trình kiến trúc công cộng làng xã là sự phát triển đến đỉnh

cao của nghệ thuật điêu khắc dân gian, góp phần tạo nên giá trị độc đáo của kiến trúc

đình làng thế kỷ XVII. Trong điêu khắc trang trí trên kiến trúc đình làng giai đoạn này,

hình tượng con người nổi lên như một hình ảnh trung tâm, một điểm nhấn độc đáo.

1. Hình tượng vũ nữ thiên thần:

5

Lê Trường Bảo

Hình tượng con người trong chạm khắc nổi đinh làng Việt Nam cuối thế kỉ XVII

Tượng vũ nữ ở vị trí ván gió cánh gà thường chạm chính diện với khuôn mặt trái

xoan, mũi thấp, môi mỏng, cổ cao thanh tú, đôi khi thể hiện rõ cả 3 ngấn (Đình Diềm –

Bắc Ninh). Có khi tượng vũ nữ lại có những đặc điểm chung là ngực nở bụng thon, cánh

tay dài với những ngón tay búp măng mềm mại.

Đề tài này có mặt rộng rãi trong các kiến trúc, bao gồm hai loại khác nhau: có cánh và

không có cánh. Thông thường với dạng có cánh đều được thể hiện nhìn chính diện, được

chạm thủng hoặc bong kênh, tóc cuộn ngược lên đỉnh thành hai múi tròn có buộc đôi

khi cũng có mũ, mặt đầy đặn có tính chất tượng trưng, tai đeo hoa dài để tỏ sự sang quý.

Tùy từng nơi mà vũ nữ được đeo yếm khác nhau, như hình lá sòi (chùa Đậu – Thường

Tín – Hà Tây) hình cánh sen (đình Đông Lỗ - Ứng Hòa – Hà Tây) hay để trơn (đình

Ngọc Than – Quốc Oai – Hà tây). Tay đặt trong tư thế đang múa, cách của vũ nữ không

ổn định thường giống phượng được mọc ra từ phía sau, lúc thì ngắn (Đông Lỗ) và nhỏ,

chỉ mới ra tới ngón cái; lúc thì vừa phải (đình Kiến Bá – Hải Phòng) lúc lại quá lớn dài

gấp ba lần cánh tay (Chùa Đậu) vũ nữ có ngực nở bụng thon, thắt lưng bằng dải lụa kết

nút trước bụng, váy ngắn và thường được cưỡi rồng.

Vũ nữ thiên thần không có cánh cũng theo cách thể hiện như loại có cánh, song

thân hình có phần uyển chuyển, thon thả hơn, như những vũ cưỡi rồng ở Diệp thượng

(đình Thổ Hà) với váy lượn nhẹ ra sau, tạo thế rướn về phía trước. Cũng như nhiều con

người khác, một số vũ nữ thiên thần không được điểm nhãn. Nhìn chung tượng vũ nữ

thiên thần như đem lại niềm vui cho chính mảng chạm, bới bóng dáng của người nữ đó

cũng là bóng dáng của người thôn nữ.

2. Hình ảnh tiên nữ cưỡi rồng – phượng:

Về biểu tượng tiên cưỡi rồng - phượng, có lẽ không phải đợi đến có lý thuyết về

Nho giáo, mới tràn ngập đình làng. Ban đầu nó đã hiện hữu khá đa dạng trong các kiến

trúc chùa Việt, như các chạm khắc ở chùa Thái Lạc là một điển hình. Các cô tiên nữ

dâng hoa, thổi sáo, đánh đàn để ca ngợi các giáo lý của Phật giáo đã trở thành một hình

ảnh quen thuộc. Đến sự phát triển nở rộ của đình làng sau thế kỷ XVI, bằng tất cả những

lý do kể trên cộng thêm ý nghĩa về sự ca ngợi công đức của vị thánh tổ của làng xã

6

Lê Trường Bảo

Hình tượng con người trong chạm khắc nổi đinh làng Việt Nam cuối thế kỉ XVII

Thành Hoàng làng, mà các cô tiên nữ này cưỡi rồng, phượng thổi tiêu, sáo đã khiến cho

khung cảnh ở đây trở nên linh thiêng.

II. Hình tượng con người phản ánh xã hội đương thời:

Hình ảnh con người đa phần đều mang những nét cơ bản của người bản địa, thuộc

chủng tộc Nam á, với những đặc điểm: người thấp, đậm, mặt tròn, mũi to, sống mũi

thấp, môi cao, và đặc biệt dựa vào trang phục (áo dài, chân đi ủng, đầu đội mũ phớt rộng

vành…), có thể đó là những người phương Tây đến nước ta buôn bán trong giai đoạn

này

Nhìn chung, hình tượng con người trong điêu khắc kiến trúc đình làng thế kỷ XVII

thường có tỷ lệ giữa đầu và thân mang tính ước lệ, chỉ bằng 1/3.

Thông qua tính hiện thực của đề tài, điêu khắc trang trí đình làng Việt thế kỷ XVII

còn thể hiện tính đấu tranh sâu sắc. Dưới chế độ phụ quyền Nho giáo, người phụ nữ bị

khinh miệt, coi rẻ “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, “phụ nhân nan hoá”)... Vì vậy,

người phụ nữ không được tới đình làng. Vậy nhưng điêu khắc đình làng lại dày đặc hình

ảnh người phụ nữ. Họ tự do thể hiện tình yêu với chồng, với con, với bạn bè; tự do vui

đùa, ca hát… Có thể nói, không ở một công trình kiến trúc dân gian nào khát vọng yêu

đương lại được bộc lộ mạnh mẽ như ở đình làng Việt.

1. Cảnh đấu võ:

Cảnh đấu võ, bao gồm đấu vật, đấu khiên, cũng có cảnh cưỡi ngựa đấu giáo…

các hình này rất động và vui, tất cả đều đang trong những động tác cụ thể.

Trong đấu vật, từ cảnh bắt tay vào sới, tới cảnh bóp tay trong thế tấn (đình Liên Hiệp –

Hà Tây), cảnh ôm chân giật giằng (đình Kim Hoàng – Hoài Đức – Hà Tây), cảnh túm

khố, cảnh vật đè ép nhau (đình Phùng – Hà Tây, đình Hoàng Xá - Ứng Hòa – Hà Tây).

Võ sĩ chỉ mặc một chiếc khố, mặt đều quay ra tươi tỉnh, ngộ nghĩnh. Toàn thân của võ

sĩ chỉ dài hơn ba phần đầu một chút, béo tốt, ngực nở, cánh tay không nổi bắp, to vừa

phải. chân thường rất lớn, đôi khi một bắp đùi to ngang thân (đình Kim Hoàng), cơ thể

của các võ sĩ rõ rang không cân xứng, song ở đây động tác có vẻ tự do khoáng đạt đã

tạo cho đề tài trở nên thuận mắt.

7

Lê Trường Bảo

Hình tượng con người trong chạm khắc nổi đinh làng Việt Nam cuối thế kỉ XVII

2. Chuốc rượu:

Cũng là hai nhân vật uống rượu song bằng cách diễn tả sự say sưa hiện rõ trên hai

nét mặt, hai thân hình nghiêng ngả. Ở người mời rượu, đầu và tay tạo thành một đường

thẳng với nét chạm sắc sảo, dứt khoát. Bàn tay được các nghệ nhân cách điệu cong gập

về phía sau…Hai người, người mời, người chối trong tình trang đã say. Tác phẩm đã

được tạo nên từ cảm xúc chân thực, trần đầy của người nhệ sĩ.

3. Đánh cờ:

Hình ảnh con người còn được thể hiện trong tác phẩm “đánh cờ” đình Ngọc Canh

(Vĩnh Phúc). Ở tác phẩm này ta thấy lối tạo hình rất đặc biệt, với lối bố cục cân đối song

tác phẩm không thuận theo qui luật thuận của mắt nhìn. Hai nhân vật phía trước nhỏ,

hai nhân vật phía sau lớn để không tât scar các nhân vât đều không bị che khuất. điều

này cho ta liên tưởng đến sự bình đẳng trong xã hội đương thời.

4. Chèo thuyền:

Là một đề tài quen thuộc trong nhiều di tích ở cuối thế kỉ XVII, như ở đình Hoàng

Xá (Ứng Hòa – Hà Tây), Đình Ngọc Canh (Vĩnh Phú)… thường có hai loại khác nhau:

thuyền rồng và thuyền buôn.

Hình chạm thuyền rồng, thường là một hoạt cảnh vui, mỗi thuyền có một hình

thức ít nhiều khác nhau nhưng đều là những tác phẩm đẹp, dù cho tác phẩm đó cố ý chỉ

biểu hiện như những nét phác. Con người được thể hiện như thế lao động vớ một cường

độ cao. Hình thức này khiến ta liên tưởng đến cảnh đua thuyền rồng vốn vẫn có trong

nhiều làng xã ven song và cũng là hình ảnh sinh hoạt ngày hội của nhiều cư dân trong

vùng. Hình chạm thuyền buôn như ở đình Ngọc Canh.

Ngoài ra còn xuất hiện hình ảnh người phương tây được phản ánh rất rõ nét ở đình

Lỗ Hiệp: đội mũ phớt, mặc âu phục đi ủng, khuôn mặt người tây âu có mũi lõ khoằm,

có ria,…

4. Cảnh nam nữ giao hoan:

8

Lê Trường Bảo

Hình tượng con người trong chạm khắc nổi đinh làng Việt Nam cuối thế kỉ XVII

Mặc cho xã hội Nho giáo là “nam nữ thụ thụ bất thân”, các mảng chạm khắc như:

“trai gái vui đùa”, “tình tự” “tắm sen” cũng không khác bao xa với các cảnh có tính chất

tháo khoán ở trên. Nó cho thấy một mảng khác của đời sống tinh thần. Tính chất vui

tươi dí dỏm được thể hiện ra trong các trò chơi và sinh hoạt dân gian. Lúc này những

cảnh khoả thân có lẽ đã trở nên thường thấy trong các chạm khắc đình làng cuối thế kỷ

XVII, nên việc có mặt của các hoạt cảnh này dường như không cần đến sự hợp thức hóa

của các giá trị phồn thực mới có thể xuất hiện.

Có thể thấy qua những bức chạm của đình làng Việt thế kỷ XVII rất nhiều mặt của

đời sống xã hội: trong lao động – cảnh đi săn thú, trong sinh hoạt – vợ chồng gãi chân

cho nhau, đá cầu, đấu khiên, hát chèo, nam nữ tự tình, uống rượu… nghệ thuật chạm

khắc nổi đình làng đã bộc lộ tất cả những gì người nông dân yêu thích, mơ ước, monng

chờ. Tính hiện thực thể hiện ngay trong từng chi tiết: Khẩu súng kíp, đao, kiếm, cung

của thế kỷ XVII; Y phục của con người thuộc các tầng lớp khác nhau trong xã hội đương

thời: (váy, mũ miện, hạt cườm của phụ nữ; áo dài, ủng, mũ phớt của đàn ông…); Những

nhạc cụ cổ xưa (kèn, sáo, trống, thanh la…) hay các trò chơi dân gian (đấu vật, chọi gà,

đá cầu…) vv… Đó là những tư liệu phong phú, sống động cho các ngành khoa học như:

Dân tộc học, Văn hoá dân gian, Lịch sử quân sự…

Chương 3: SỰ ĐỘC ĐÁO CỦA NGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC NỔI ĐÌNH LÀNG

1. Tính khái quát cao:

Khái quát cao trong thủ pháp tạo hình:

Sự độc đáo của nghệ thuật điêu khắc trang trí đình làng thể hiện ở tính khái quát

cao trong thủ pháp xây dựng tác phẩm như nhấn mạnh trọng tâm, biết chọn những vấn

đề quan trọng nhất để diễn tả, phản ánh, hướng người xem vào nội dung, giản lược về

hình thức, để không ảnh hưởng đến quá trình tri giác. Các chạm khắc đình làng đã bỏ

qua định luật xa gần, những nguyên tắc về giải phẫu, bố cục, tính hợp lý của hiện thực,

để tạo ra một sự hợp lý của nghệ thuật do người nghệ sỹ dân gian sáng tạo ra.

Để đạt được mục đích này người nghệ nhân dân gian đã sử dụng nhiều thủ pháp tạo hình

như: thủ pháp đồng hiện, để mở rộng không gian, thời gian; thủ pháp cường điệu, gây

9

Lê Trường Bảo

Hình tượng con người trong chạm khắc nổi đinh làng Việt Nam cuối thế kỉ XVII

ấn tượng bằng cách nhân cách hóa nhân vật; thủ pháp nhiều điểm nhìn để tạo ra cái nhìn

lập thể đặc sắc; thủ pháp biểu tượng hóa để thể hiện nhân sinh quan, vũ trụ quan. Người

nghệ nhân xưa quan niệm cái đẹp, cái hợp lý tựu trung là phải “thuận mắt”. Gợi, tạo liên

tưởng, quan trọng hơn tả.

2. Giàu tính nhân bản:

Phù điêu trang trí đình làng đồng bằng Bắc Bộ là bài ca về cuộc sống và con

người. Tính trữ tình và biểu cảm tràn ngập trong các bức chạm khắc. Người nông dân

Bắc Bộ sống hoà hợp với thiên nhiên, muông thú. Các môtíp cây-hoa-lá rất nhiều và

luôn quấn quýt xung quanh nhân vật. Những cảnh sinh hoạt được phản ánh rất bình dị

như: mẹ cho con bú, gánh con, chăn lợn, cày ruộng, dắt ngựa, uống rượu, chọi gà, đánh

vật, làm xiếc, hội làng...

Nguyễn Đỗ Cung đã nhận định: “Cảnh vật tự nhiên mộc mạc, cuộc sống và những cuộc

đấu tranh hàng ngày liền được biểu hiện với những hình thức giản dị, trực tiếp, vật và

người trong đời sống bình thường được thể hiện trong nghệ thuật, lấn át những con vật

thần thoại và những nhân vật có tính ước lệ cao”.

3. Giá trị nghệ thuật của chạm khắc nổi đình làng thế kỉ XVII:

Nhìn một cách khái quát, nghệ thuật điêu khắc đình làng ở đồng bằng Bắc Bộ phát

triển từ những bước đầu tiên ở thế kỷ XVI, đạt dấu ấn rực rỡ đỉnh cao ở thế kỷ XVII,

chững lại, chín muồi ở thế kỷ XVIII và thoái trào ở thế kỷ XIX. Có thể nói, giá trị nhiều

mặt mà điêu khắc đình làng để lại tập trung ở di sản điêu khắc đình làng thế kỷ XVI -

XVII. Điêu khắc đình làng của 2 thế kỷ này đại diện điển hình nhất cho toàn bộ nghệ

thuật điêu khắc ở đồng bằng Bắc Bộ.

KẾT LUẬN

Chạm khắc nổi đình làng không những là những tác phẩm điêu khắc tiêu biểu mà

qua những tác phẩm đó còn thấm đượm tính dân tộc, tính nhân văn sâu sắc. các tác phẩm

được những nghệ sĩ vô danh diễn tả mang theo tình cảm, thị hiếu dân gian chân chất,

mộc mạc mà sống động biểu cảm thông qua ngôn ngữ tạo hình dân gian đơn giản, ước

lệ mà sống động vô cùng.

10

Lê Trường Bảo

Hình tượng con người trong chạm khắc nổi đinh làng Việt Nam cuối thế kỉ XVII

Ngày nay, những đề tài mang tính dân gian ngày càng ít dần nhưng sức sống cảu

nghệ thuật dân gian vẫn phát triển mạnh mẽ. cho đến ngày nay nghệ thuật chạm khắc

nổi đình làng vẫn được bảo tồn và giữ nguyên vẹn vẻ đẹp tươi tắn sống động của nó.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hình tượng con người trong Nghệ thuật tạo hình Truyền thống Việt – Trần Lâm Biền 11

Lê Trường Bảo

Hình tượng con người trong chạm khắc nổi đinh làng Việt Nam cuối thế kỉ XVII

2. Chu Quang Trứ (2001) Tượng cổ Việt Nam và truyền thống điêu khắc dân tộc NXB

Mỹ thuật.

3. Lịch sử mĩ thuật Việt Nam – Phạm Thị Chỉnh

4. Tổng hợp các thông tin về văn hóa và du lịch Việt Nam tại www.amazingvietnam.vn

5. Nguồn: www.danangpt.vnn.vn

6. Điêu khắc đình làng ở Việt Nam-Trần Văn Cẩn - Tạp chí VH-NT

PHỤ LỤC

12

Lê Trường Bảo

Hình tượng con người trong chạm khắc nổi đinh làng Việt Nam cuối thế kỉ XVII

1. Hình tượng mang tính thần thoại:

Tiên nữ cưỡi rồng Người cưỡi hổ

(Đình Giẽ Hạ-Phú Xuyên-Hn) (Chùa Đậu – Phú Xuyên – Hà Nội)

2. Hình ảnh con người trong đời sống sinh hoạt

Đánh cờ Chuốc rượu

(đình Ngọc Canh – Vĩnh Phúc) (Đình Hoàng Xá – Hà Tây)

Chèo thuyền đình Hoàng Xá (Ứng

Hòa – Hà Tây), Đình Ngọc Canh

(Vĩnh Phú)

13 Lê Trường Bảo

Hình tượng con người trong chạm khắc nổi đinh làng Việt Nam cuối thế kỉ XVII

Cảnh giao hoan trong lễ hội, chạm

khắc trên cốn đình Ngọc Canh (Vinh

Phúc)

Chạm khắc đình Hương Canh

14

Lê Trường Bảo