
200
| Tạp chí KHCN YD | Tập 3, số 1 - 2024
Tổng Biên tập:
TS. Nguyễn Phƣơng Sinh
Ngày nhận bài:
12/9/2023
Ngày
chấp
nhận đăng bài:
18/10/2023
Ngày xuất bản:
27/3/2024
Bản quyền: @ 2024
Thuộc Tạp chí Khoa học
và công nghệ Y Dƣợc
Xung đột quyền tác giả:
Tác giả tuyên bố không có
bất kỳ xung đột nào về
quyền tác giả
Địa chỉ liên hệ: Số 284,
đƣờng Lƣơng Ngọc Quyến,
TP. Thái Nguyên,
tỉnh Thái Nguyên
Email:
tapchi@tnmc.edu.vn
HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ BỔ SUNG TESTOSTERON DẠNG
GEL TRÊN BỆNH NHÂN ĐÁP ỨNG KÉM VỚI
KÍCH THÍCH BUỒNG TRỨNG
Hoàng Quốc Huy, Hồ Sỹ Hùng , Nguyễn Thu Thuỷ,
Nguyễn Thị Hồng
1 Trƣờng Đại học Y Dƣợc, Đại học Thái Nguyên
2 Trƣờng Đại học Y Hà Nội
* Tác giả liên hệ: huyquochoang@gmail.com
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Các giải pháp điều trị bệnh nhân đáp ứng kém với
kích thích buồng trứng còn ít hiệu quả và chƣa đạt đƣợc đồng
thuận. Trong đó, sử dụng testosteron dƣới dạng gel đã đƣợc một
số nghiên cứu chứng minh làm tăng số noãn thu đƣợc, tăng tỷ lệ
có thai lâm sàng và tăng tỷ lệ trẻ sơ sinh sống ở các phụ nữ đáp
ứng kém với kích thích buồng trứng. Mục tiêu: So sánh kết quả
thụ tinh trong ống nghiệm giữa nhóm có sử dụng testosteron gel
với nhóm không sử dụng testosteron gel trên bệnh nhân đáp ứng
kém với kích thích buồng trứng. Phƣơng pháp: Nghiên cứu can
thiệp có đối chứng. Bệnh nhân đáp ứng kém với kích thích buồng
trứng tham gia nghiên cứu đƣợc lựa chọn theo tiêu chuẩn có 2
trong 3 tiêu chuẩn: (1) Tuổi phụ nữ ≥ 40 hoặc có bất kỳ yếu tố
nguy cơ khác của đáp ứng buồng trứng kém. (2) Có tiền sử đáp
ứng kém (Số noãn chọc hút đƣợc nhỏ hơn 3 với phác đồ kích
thích buồng trứng tiêu chuẩn). (3) Xét nghiệm dự trữ buồng
trứng giảm (AFC < 5 – 7 hoặc AMH < 0,5 – 1,1 ng/ml). Phân
ngẫu nhiên vào 2 nhóm, nhóm nghiên cứu (n=62) bệnh nhân
đƣợc sử dụng 12,5mg testosteron gel bôi ngoài da trong 4 tuần
trƣớc khi kích thích buồng trứng, nhóm chứng (n=60) không sử
dụng testosteron. Cả hai nhóm, bệnh nhân đƣợc kích thích buồng
trứng bằng phác đồ antagonist với FSH tái tổ hợp và đƣợc chuyển
phôi tƣơi vào ngày 3. So sánh tổng số noãn thu đƣợc, số noãn
trƣởng thành, số phôi thu đƣợc, tỷ lệ thai lâm sàng giữa hai
nhóm. Kết quả: Tổng số noãn thu đƣợc giữa nhóm chứng và
nhóm can thiệp (5,10±2,27 so với 5,74±2,88; p=0,18) và số noãn
trƣởng thành (4,23±1,89 so với 4,65±2,57; p=0,96) có xu hƣớng