Hoa điểu
Tranh hoa điểu ngư trùng (hoa cỏ, chim chóc, cá, côn trùng)
của Trung Quốc có nguồn gốc lâu đời. Kể từ đời Đường và
đời Tống trở về sau, loại tranh này kết hợp giữa hội họa và
văn học. Ở Âu Châu, từ thời Phục Hưng cho tới nay loại
tranh đề tài bướm, thảo trùng, hoa c không phải là hiếm.
Nhưng những đề tài này trong lối họa sơn dầu Tây phương
không hàm ý nghĩa tượng trưng văn học. Đó là nét đặc trưng
của hội họa truyền thng Trung Quốc, khác biệt với lối họa
sơn dầu Tây phương. Đã bao triều đại qua, các họa gia cũng
rất thường là thi nhân, văn sĩ, dùng hội họa để tải đi những
thi t của mình. Khuynh hướng này đặc biệt hiện rõ trong
loại tranh hoa điểu.
Văn nhân Trung Quốc thường gán cho từng loại hoa một đức
tính, một ý nghĩa tượng trưng văn học nào đó, và các họa gia
đã tiếp thu toàn bộ những quan niệm này. Chẳng hạn Chu
Đôn Di 周惇頤, mt đại nho đời Tống, từng nói: «Trong các
loài hoa, cúc là kẻ ẩn dật, mẫu đơn là kẻ phú quý và sen là
bậc quân tử vậy.» (Cúc, hoa chi ẩn dật giả dã; mẫu đơn, hoa
chi phú quý giả dã; liên, hoa chi quân tử giả dã.
菊花之隱逸者也牡丹花之富貴者也
).
Tranh T Bạch Thạch (1863-1957)
Quan niệm cúc là kẻ ẩn dật có lẽ phát xuất từ Đào Tiềm 陶潛
tức Đào Uyên Minh 陶淵明 đời Tấn, một thi sĩ vĩ đại, chán
cảnh làm quan luồn cúi, treo áo từ quan, hưởng thú điền viên,
vui cảnh nghèo, thích ung rượu chơi cúc và nhàn du. Người
đời khen ông là bậc ẩn dật cao khiết. Trong bài m Tửu 飲酒
của ông có nhắc đến hoa cúc: «Hái cúc dưới giậu đông, thơ
thới nhìn núi Nam.» (Thái cúc đông ly hạ, du nhiên kiến Nam
Sơn. 採菊東籬下悠然見南山.) Người ẩn sĩ này uống rượu
ngắm cúc để quên cảnh náo nhiệt, trầm luân trong đời, cho
nên hoa cúc cũng là biểu tượng của kẻ ẩn dật lánh đời vậy.
Người giàu có ưa chuộng màu sắc lộng lẫy rực rỡ của mẫu
đơn. Mẫu đơn là loài hoa quý hiếm, chỉ có bậc quyền quý đài
các mới chơi hoa này. Cho nên mẫu đơn là biểu tượng của sự
giàu sang phú quý. Hoa sen là cốt cách của bậc quân tử. Đẹp
và ngát hương, gần bùn mà chẳng tanh bùn. Dù cuộc đời ô
trọc, nhân tình ấm lạnh, bậc quân tử vẫn giữ được tiết tháo
của mình, thơm tho và tinh khiết như đóa sen kia.
Hoa kết hợp với điểu, thảo trùng, cá, đá và các khí vật khác
cũng tăng thêm thi ý cho tranh, tạo cho tranh có chủ đề mới.
Thường đó là lời chúc nguyện cát tường. Chẳng hạn: «Tùng
hạc diên niên» 松鶴延年 (tùng và hạc sống lâu) là chủ đề
tranh dùng chúc thọ, bởi vì theo truyền thuyết, người Trung
Quốc tin rằng hạc sống đến ngàn năm (Hạc thọ thiên tuế
鶴壽千). Người Trung Quốc có thói quen tặng tranh tùng
hạc mừng lễ thượng thọ của các bậc trưởng thượng.
Thi nhân cho rng chim én là loài chim nhỏ có cảm tình, mùa
thu và mùa đông bay đi tìm cái ấm áp của miền nhiệt đới và
mùa xuân quay v tổ cũ. «Xuân phong yến hỉ» 春風燕喜
(chim yến vui trong gió xuân) mô tả một đôi én về tổ trong
cành liễu xanh phất phơ hay cành đào hồng thắm. Một bức
tranh với đôi én hoặc một bức tranh với cặp hồng nhạn 鴻雁
hay đôi uyên ương bơi lội trong ao sen chính là biu tượng
tình nghĩa vợ chồng, gia đình khang lạc. Dưới cội mai vàng
(biểu tượng của Phúc) là đôi chim cun cút hoặc một đàn gà
con cùng gà trng gà mái cũng là biểu tượng của ân nghĩa tao
khang, quan hnhân luân. Tranh phụ đề «ân nghĩa tại sinh
tiền» 恩義在生 (ân nghĩa đối với nhau lúc còn sống) thật
là cảm động và thâm trầm biết bao!
Tranh «Thập toàn báo hỉ» 十全報喜 v mười con chim
khách đậu trên phiến đá và trên cây tùng hót líu lo báo tin