HOẠ SĨ HOÀNG TÍCH CHÙ (1912 -
2003) GIẢI THƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ VĂN HỌC - NGHỆ THUẬT
Ngày 1/9/2000 Chủ tch Nước
Cộng hoà Xã h
i Chủ nghĩa Việt
Nam Trn Đức Lương ký quyết
định trao tặng hoạ sĩ Ho
àng Tích
Chù Gii thưởng Hồ Chí Minh
về văn học nghệ thuật (đợt 2)
cho các tác phẩm: Tổ đổi công
cấy lúa -n mài (1958), Bác H
trồng cây với thiếu nhi -n mài
(1971), Mùa gặt - sơn mài
(1970), Đêm hậu cứ - sơn mài
(1966). Hội đồng Giải thưởng H Chí Minh đã nhận t: Ông là tác gi
chuyên vẽ tranhn mài về Bác Hồ, về kháng chiến, phong cảnh quê
hương với tình cảm trong sáng và có công phu khai thác v
ốn nghệ thuật
sơn mài Việt Nam. Tác phẩm của ông đã đạt được nghệ thuật cao. Ông
đã có công giảng dạy, đào tạo nhiều học sinh nay trở thành những hoạ
sĩ có tên tuổi ở Việt Nam .
Hoạ sĩ Hoàng Tích Chù sinh ngày mùng 1 tết Nhâm Tý (18 tháng 2
HOÀNG TÍCH CHÙ - Bác Hồ trồng
cây với thiếu nhi - sơn mài, 1972
năm 1912) tại Tân Hồng, Từ n, Bắc Ninh, mất ngày 25 tháng 9 năm
Quý Mùi (22/10/2003), thọ 93 tuổi. Ông sinh trưởng trong một gia đ
ình
có truyền thống yêu nước. Bố là Hoàng Tích Phụng - nhà nho đã đỗ tú
tài, tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, sau làm Tri huyện, về
hưu sớm, mấtm 1940 (73 tuổi). Mẹ là bà Lê Thị Miên - bần nông,
nội trợ, mất năm 1964 (83 tui). Năm hơn 10 tuổi, ông ra Hà Nội ở với
người họ hàng để trọ học. Năm 20 tuổi làm cho một ban kịch để lấy
tiền học vẽ. Sau khi diễn vở Con mèo đen ông không được nhà trường
cho học tiếp.
Năm 24 tuổi ông vào học tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
khoá 11(1936 – 1941), cùng học với ông có các hoạ sĩ Nguyễn Tiến
Chung, Nguyễn n Tỵ, Bùi Trang Chước, nhà điêu khc Trần Văn
Lắm… Khi học năm thứ 2 ông nhận được giải thưởng đi vẽ ở
Campuchia. Ba tháng ở Campuchia ông đã sáng tác được nhiều tác
phẩm về di tích Ăngco, sư sãi, con người cảnh vật của đất nước
Campuchia tại Phnôngpênh, Xiêm Rip và tham gia trưng bày một
triển lãm cùng vi hoạ sĩ Bùi Trang Chước, Nguyễn Văn Huệ, tác
phẩm trưng bày tại triển lãm của ông đã đoạt được giải thưởng Ăngco.
Sau khi tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, ông m
xưởng vẽ sơn mài ở Hà Ni và năm 1943 ông tham gia triển lãm Salon
Unique (Duy nhất) và triển lãm FARTA, một tổ chức của các hoạ sĩ
Việt Nam tinh thần dân tộc với biểu trưng Ngôi đình – mái nhà
chung ca người hoạ sĩ Việt Nam; sáng tác tác phẩm Cảnh chùa Thầy
bình phong sơn mài -1943 hiện lưu giữ tại Bảo tàng M thuật Việt
Nam. Trong thời gian đi học, ông đã tham gia hoạt động cách mạng
ngay từ thời kỳ Mặt trận bình dân trong Hội truyền bá quốc ngữ, làm
công tác trí thức vận và công vận đỏ ở xưởng in (theo tự thuật của ông,
thi gian này ông đã tham gia Đảng cộng sản Đông Dương năm 1936
và lần thứ hai năm 1941).
Ngày 19 tháng 8 năm 1945 Cách mạng tháng Tám thành công Hà
Nội, tiếp đó là nhiều tỉnh thành khác trong cả nước. Ngày 2/9/1945
tại Quảng trường Ba Đình, Ch tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên
ngôn độc lập, khai sinh ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Trong nhng ngày sôi sục khí thế cách mạng, Hội Văn hoá cứu quốc
Việt Nam đã tổ chức Triển lãm Văn hoá tại Nhà Khai trí Ti
ến Đức (nay
là số nhà 16 Lê Thái Tổ, Hà Ni). Tại triển lãm này ông đã trưng bày
tác phẩm Hoa đăng - sơn dầu, vẽ bốn cô gái Hà Ni với những chiếc
đèn lồng, đang vui mừng, phấn khởi chuẩn bị ngày lễ độc lập, nhà sưu
tập Đức Minh đã sưu tập tác phẩm này. ông tham gia Hội Văn hoá cứu
quốc và sáng tác tranh cổ động Độc lập hay là chết . Nhân dịp kỷ niệm
một năm ngày thành lp Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tháng
8/1946 ông gi tác phẩm Nữ sinh cắp tráp và Vịnh Hạ Long đến tham
dự Triển lãm M thuật tháng Tám. Tại triển lãm này ông đoạt được
Giải thưởng Chính phủ (1000đ) cùng vi hoạ sĩ Trần Văn Cẩn và nhà
điêu khắc Nguyễn Thị Kim
Năm 1946 ông cùng với hoạ sĩ Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Nguyễn
Văn Tỵ được Nhà nước giao thành lập Trường cao đẳng Mỹ thuật đầu
tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Nhưng một thời gian ngắn
sau đó toàn quốc kháng chiến bùng nổ, ông cùng nhiều văn nghệ sĩ
khác lên Việt Bắc ở khu 12, làm trong xưởng tranh khắc mộc, ban kịch
Phương Đông, vào Vệ Quốc đoàn. Nhưng để tập trung vào ng tác m
thuật nên cuối năm đó ông đã chuyển ra ngoài quân đội. Ông vẽ tranh
cho U ban kháng chiến hành chính khu 12, phụ trách các lớp học vẽ
và xưởng vẽ tuyên truyền.
Năm 1949 ông theo bạn vào Hà Ni làm công việc. Theo ông Nguyễn
Bắc cán bộ hoạt động bí mật nội thành Hà Nội, nguyên Giám đốc Sở
Văn hoá Hà Nội thì “năm 1951, thực dân Pháp và chính quyền ‘quốc
gia’ mời các anh Lương Xuân Nhị, Nguyễn Tiến Chung lập lại Trường
M thuật ở phố Yết Kiêu nhưng các anh đều từ chối, các anh mở lớp
dạy vẽ Trí
Tri ở Phố Hàng Quạt”, vẽ thuê cho Sở Canh Nông, vẽ các nong tằm,
sau đó đi dạy vẽ ở các trường phổ thông cấp 1. Năm 1950 họa sĩ Ho
Tích Chù công c ti Ty văn h thông tin Bắc Ninh. Năm 1951 ông
vào Hà Ni để hoạt động bí mật ở nội thành, ngày 1 tháng 5 năm 1952
ông được kết nạp vào Đảng Lao đng Việt Nam do đồng chí Nguyễn
Bắc và đồng c Nguyễn Bích (sau này công tác Sở giáo dục Thái
Nguyên) giới thiệu. Ngày 1 tháng 5 năm 1953 được công nhận là Đảng
viên chính thức. Ngày 23 tháng 4 năm 1953, ông bị địch bắt tại nhà và
tra tấn rất dã man, nhưng ông vẫn giđược lòng trung thành của mình,
không khai báo nên cuối năm đó địch phải thả tự do cho ông. Mặc dù b
quản thúc nhưng ông vẫn liên lạc được với Đảng và hot động cho đến
ngày giải phóng.
Hoà bình lập li năm 1954, Thủ đô Hà Nội được giải phóng, ông cùng
với hoạ sĩ Huỳnh Văn Thuận vẽ chân dung Bác Hồ treo ở Nhà hát lớn.
Năm 1955 ông trang trí sân khấu cho Đại hội văn công toàn quốc lần
thứ V do Hội Văn nghệ Việt Nam tổ chc và đã đoạt được giải Nhất.
Tháng 9, ông được cử đi dự đại hội Liên hoan Thanh Niên Thế giới
Vác- -vi (Ba Lan), được bằng khen trong triển lãm đồ hoạ ở Ba Lan
ở CHDC Đức, đi giao lưun hoá với các nước còn lại Liên Xô,
Trung Quốc.
Năm 1956 ông về làm công tác ging dạy tại Trường Cao đẳng Mỹ
thuật Việt Nam (nay là Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam), sau đó
làm Ch nhiệm khoa sơn mài (1965- 1966), kiêm trưởng phòng giáo v
hệ Cao đẳng. Thời gian này, ngoài vic đào tạo nhiều sinh viên trong
nước, ông đã tham gia đào tạo nhiều sinh viên nước ngoài như Trung
Quốc, Bungari, Inđônêxia học khoa sơn mài tại trường. Là một hoạ
có tài, ông đã tận tình giảng dạy cho sinh viên và rất được sinh viên
yêu
quý. Nhiều học trò ca ông sau này đã trở thành những hoạ sĩ nổi tiếng
… Năm 1957, ông là một trong 108 đại biểu tham dự Đại hội lần th
nhất thành lập Hội M thuật Việt Nam tại Hà Nội. Năm 1960 ông phụ
trách trang trí Hi trường Đại hội Đảng toàn quốc ln thứ III và được
cử đi dự Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc. Năm 1961 hoạ sĩ
Hoàng Tích Chù, khoa sơn mài đưa hai lớp Cao đẳng đi Hợp tác xã Đ
ại
Phong (Quảng Bình), đoàn gồm Dân Tuấn, Trọng Cát, Thanh Ngọc,
Ngc Thọ, Đỗ Hữu Huề. Tại đây ông vẽ tranh sơn dầu, “bên con hói”
(sông đào) Đại Phong. Năm 1962, Hoàng Tích Chù lại đưa học sinh đi