
cộng hóa trị. Do nguyên tử clo có độ âm điện cao hơn so với nguyên tử hiđrô nên
liên kết cộng hóa trị này là phân cực rõ ràng. Do phân tử tổng thể có mômen lưỡng
cực lớn với điện tích một phần âm δ- tại nguyên tử clo và điện tích dương δ+ tại
nguyên tử hiđrô, nên phân tử hai nguyên tử hiđrô clorua là phân tử phân cực
mạnh. VÌ thế, nó rất dễ dàng hòa tan trong nước cũng như trong các dung môi
phân cực khác.
Khi tiếp xúc với nước, nó nhanh chóng bị ion hóa, tạo thành các cation hiđrô
(H3O+) và các anion clorua (Cl-) thông qua phản ứng hóa học thuận nghịch sau:
HCl + H2O → H3O+ + Cl−
Dung dịch tạo thành được gọi là axít clohiđric và nó là một axít mạnh. Hằng số
điện li axít hay hằng số ion hóa Ka là rất lớn, nghĩa là HCl bị điện li hay ion hóa
toàn phần trong nước.
Kể cả khi không có mặt nước thì hiđrô clorua vẫn có thể có phản ứng như một
axít. Ví dụ, hiđrô clorua có thể hòa tan trong các dung môi phân cực khác như
mêtanol và có phản ứng như một chất xúc tác axít cho các phản ứng hóa học khi
điều kiện khan nước (anhiđrơ) là mong muốn.
HCl + CH3OH → CH3O+H2 + Cl−
HCl cung cấp proton cho phân tử mêtanol (CH3OH)
Do bản chất axít của nó, hiđrô clorua là một chất khí có tính ăn mòn, cụ thể là khi
có sự hiện diện của hơi ẩm.