
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 489 - THÁNG 4 - SỐ 1 - 2020
165
thương. Nghiên cứu của tác giả Liu J và cộng sự
cũng cho thấy chụp CLVT có độ chính xác là
96,5% trong chẩn đoán chấn thương gan [7].
Nghiên cứu của tác giả Becker CD et al. [3]
khẳng định chụp CLVT rất hiệu quả trong việc
theo dõi các tổn thương trong quá trình điều trị
bảo tồn như lượng dịch ổ bụng, biến chứng áp
xe, giả phình mạch hay rò mật. Chụp CLVT phát
hiện thoát thuốc cản quang khỏi lòng mạch,
cùng với sự theo dõi, đánh giá các chỉ số huyết
động giúp đưa ra phương pháp điều trị phù hợp
bằng bảo tồn hay phẫu thuật [4]. Ngoài ra, chụp
CLVT ổ bụng, không những chỉ đánh giá các tổn
thương gan mà còn đánh giá các tổn thương
phối hợp của các cơ quan khác trong ổ bụng [7].
Kết quả trong Bảng 5 cho thấy tỷ lệ điều trị phẫu
thuật do tổn thương gan đơn độ I, II thấp hơn
nhiều so với độ III, IV. Chấn thương gan độ I, II
được chỉ định phẫu thuật chủ yếu do các tổn
thương phối hợp. Có thể khẳng định rằng các
trường hợp tổn thương độ I, II trên chụp CLVT
với sự ổn định huyết động, không có tổn thương
kết hợp cần phẫu thuật, có thể được điều trị bảo
tồn. Do đó, chụp CLVT là một phương pháp chẩn
đoán hình ảnh không chỉ rất hữu ích để phát
hiện tổn thương gan, mà còn hữu ích để đánh
giá mức độ tổn thương gan.
V. KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu này, bệnh nhân chấn
thương gan thường gặp ở nam giới (nam/nữ:
2,38/1), ở độ tuổi lao động (chiếm 83,8%). Các
dấu hiệu thường gặp trong chấn thương gan là
đau bụng (chiếm 86%), trướng bụng (chiếm
39%), phản ứng thành bụng (chiếm 34%) và
bầm tím thành bụng vùng hố chậu phải (chiếm
29%). Chụp CLVT có giá trị cao trong đánh giá
chấn thươn gan, với đụng dập nhu mô gan,
CLVT có độ nhạy là 90%, độ đặc hiệu là 100%,
giá trị dự báo dương tính là 100%, giá trị dự báo
âm tính là 100%. Trong chẩn đoán đường vỡ
gan, CLVT có độ nhạy là 89,3%, độ đặc hiệu là
50%, giá trị dự báo dương tính là 93,6%, giá trị
dự báo âm tính là 33,3%. Chụp CLVT rất có ý
nghĩa trong tiên lượng về mức độ nghiêm trọng
của tổn thương gan, giúp bác sỹ lâm sàng đưa
ra phương pháp điều trị phù hợp, theo dõi trong
điều trị bảo tồn và khả năng phẫu thuật gan hay
cơ quan phối hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TĐ Quý, ĐM Kim, NV Chung (2017). Kết quả
điều trị vỡ gan do chấn thương bụng kín tại Bệnh
viện Trung ương Thái Nguyên. Tạp chí Khoa học
và Công nghệ. T. 168, S. 08 (2017): 175-179.
2. Tôn Thất Bách, Đỗ Đức Vân, Nguyễn Thanh
Long, và CS (1999). Chấn thương gan và vết
thương gan phân loại mức độ tổn thương, chẩn
đoán và điều trị (198 trường hợp trong 6 năm
1990-1995). Tạp chí Y học thực hành; 1: 40–46.
3. Becker CD, Mentha G, Terrier F (1998). Blunt
abdominal trauma in adults: role of CT in the
diagnosis of visceral injuries. Part 1: liver and
spleen. Eur Radiol 1998; 8(4): 553–62.
4. Fang JF, Wong YC, Lin BC, et al. (2006). The
CT risk factors for the need of operative treatment
in initially hemodynamically stable patients after
blunt hepatic trauma. J Trauma. 2006
Sep;61(3):547-53; discussion 553-4.
5. Coccolini F, Montori G, Catena F, et al.
(2015). Liver trauma: WSES position paper. World
J Emerg Surg. 2015; 10: 39.
6. Rhae JT (2004). CT of Abdominal trauma.
Emegency Radiology. 101-112.
7. Liu J, Yue WD, Du DY (2015). Multi-slice
computed tomography for diagnosis of combined
thoracoabdominal injury. Chin J Traumatol.
2015;18(1):27-32.
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU CƠ CHẾ BỆNH SINH CỦA
VIÊM MỦ NỘI NHÃN NỘI SINH DO VI KHUẨN TẠI VIỆT NAM
Đỗ Tấn1, Phạm Thu Hà1, Nguyễn Đỗ Thị Ngc Hiên2
TÓM TẮT43
Mục tiêu: Bước đầu đánh giá cơ chế bệnh sinh
trong viêm mủ nội nhãn nội sinh do vi khuẩn
(VMNNNSVK); Đối tượng và phương pháp: Phân
1Bệnh Viện Mắt Trung Ương
2Đại Học Y Hà Nội
Chịu trách nhiệm chính: Đỗ Tấn
Email: dotan20042005@yahoo.com
Ngày nhận bài: 3.2.2020
Ngày phản biện khoa học: 24.3.2020
Ngày duyệt bài: 30.3.2020
tích bằng kỹ thuật vi sinh tế bào và phân tử (PCR và
giải trình tự) mẫu bệnh phẩm dịch kính và của dịch
mũi họng của 14 bệnh nhân VMNNNSVK được điều trị
tại bệnh viện mắt Trung Ương từ tháng 5/2017 đến
11/2017; Kết Quả: Nuôi cấy đạt tỷ lệ dương tính thấp
(3/14) và có sự thiếu đồng nhất giữa nhuộm soi và
nuôi cấy. PCR và giải trình tự có độ nhạy cao hơn
nhiều (100% tổng số mẫu nghiên cứu) trong đó S.
pneumoniae là căn nguyên khá phổ biến, chiếm tới
35,7%. Tất cả các bệnh nhân phát hiện phế cầu trong
mắt đều phát hiện phế cầu ở mũi họng, 2/5 (40%) có
biểu hiện viêm mũi họng cấp. Kêt Luận: Phế cầu cư
trú thường xuyên ở hầu họng và đi đến mắt có thể là

vietnam medical journal n01 - APRIL - 2020
166
một cơ chế bệnh sinh quan trọng viêm mủ nội nhãn
nội sinh do vi khuẩn.
SUMMARY
PRELIMINARY EVALUATION OF
MECHANISM OF BACTERIAL ENDOGENOUS
ENDOPHTHALMITIS IN VIETNAM
Objective: Preliminary evaluation of mechanism
of bacterial endogenous endophthalmitis in Vietnam;
Patients and Methods: Analysing vitreous samples
with cellular and molecular techniques from 14 BEE
patients who had been treated at Vietnam National
Institute of Ophthalmology from 5/2017 to 11/2017;
Results: Positive rate was low (3/14) with culture and
the inconsistancy did exist between Gram staining and
culture. PCR and sequencing got much better
sensitivity of 100% with S. pneumoniae accounting for
35,7% (5/14). S. pneumoniae was found in naso-
pharyngeal fluid in all patients where S. pneumoniae
was detected from intraocular fluid samples. 2/5
(40%) showed acute pharyngitis right before
endophthamitis. Conclusion: S. pneumoniae residing
frequently in upper airway and going to eyes could be
an important mechanism of BEE.
Key words:
BEE, PCR – Sequencing, Gram
staining, Culture
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm mủ nội nhãn nội sinh do vi khuẩn
(VMNNNSVK) là một bệnh lý viêm nhiễm nặng
nề ở các mô và dịch nội nhãn, do sự xâm nhập
của vi khuẩn từ cơ quan khác qua đường máu
đến mắt, có thể gây tổn hại lớn về chức năng thị
giác thậm chí có thể phải bỏ nhãn cầu. Tại Việt
Nam, trong thực hành lâm sáng, việc xác định
nguyên nhân gây bệnh chủ yếu dựa vào các kỹ
thuật vi sinh kinh điển là nhuộm soi và nuôi cấy.
Tác giả Trần Thị Nguyệt Thanh và Hoàng Thị
Hiền (2005) đã nghiên cứu một số tác nhân gây
VMNNNSVK với kỹ thuật kinh điển trên dịch kính
của bệnh nhân được chẩn đoán viêm mủ nội
nhãn nội sinh, tuy nhiên kết quả dương tính còn
thấp (22,2%).
Ngày nay, với sự phát triển của công nghệ
sinh học, phản ứng khuếch đại chuỗi (PCR) và kỹ
thuật giải trình tự gen (sequencing) được được
ứng dụng để khắc phục các nhược điểm của kỹ
thuật vi sinh kinh điển: độ nhạy và độ đặc hiệu
cao, lượng bệnh phẩm cần rất ít, thời gian trả
kết quả nhanh, có thể phát hiện được vi khuẩn
cho dù vi khuẩn đã chết hoặc bị ức chế do có
mặt của kháng sinh. Hơn nữa dùng kỹ thuật này
còn có thể giúp xác định nguồn nhiễm trùng
nguyên phát, so sánh với tác nhân gây bệnh tại
mắt, từ đó góp phần làm sáng tỏ cơ chế bệnh
sinh của căn bệnh nguy hiểm này.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu này được tiến hành trên phân tích
vi sinh bệnh phẩm nội nhãn và dịch mũi họng
của 14 bệnh nhân VMNNNSVK được điều trị tại
Bệnh Viện Mắt Trung Ương từ tháng 5/2017 đến
tháng 11/2017.
Quy trình nghiên cứu. Bệnh nhân khi được
đưa vào nghiên cứu đều được thăm khám nhãn
khoa và toàn thân toàn diện nhằm đánh giá tình
trạng tại mắt, nguy cơ toàn thân và hướng đến
cơ chế bệnh sinh. Các xét nghiệm vi sinh dịch
nội nhãn gồm 2 loại: vi sinh tế bào (gồm soi
tươi, nhuộm soi và nuôi cấy) và vi sinh phân tử
(tách chiết AND, chạy PCR vi khuẩn và giải trình
tự định danh). Nếu có phát hiện phế cầu trong
bệnh phẩm nội nhãn, sẽ tiến hành lấy tiếp bệnh
phẩm mũi họng làm PCR và giải trình tự để xác
định phế cầu tại đây và so sánh với chủng phế
cầu được phân lập từ bệnh phẩm nội nhãn. Quy
trình xét nghiệm bệnh phẩm mũi họng tuân theo
quy trình sau: tách triết AND → Chạy PCR, điện di
kiểm tra sản phẩm PCR, tinh sạch sản phẩm PCR
→Cycle sequencing, tinh sạch sản phẩm → giải
trình tự gen, hiệu chỉnh và định danh vi khuẩn.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
14 bệnh nhân trong nghiên cứu có độ tuổi
trung bình là 28,3 ± 26,6. Có 8 bệnh nhân nam
(57,1%) và 6 bệnh nhân nữ (42,9%). Hầu hết
bệnh nhân có thể trạng tốt không có bệnh mãn
tính gây tình trạng suy giảm miễn dịch.
Bảng 1: Toàn trạng của bệnh nhân
nghiên cứu
Toàn thân
Số bệnh nhân
Tỷ lệ %
Khỏe mạnh
11 BN
78,6%
Viêm mũi xoang
1 BN (10 tuổi)
7,13%
Viêm họng
1 BN (33 tuổi)
7,13%
Xơ gan
1 BN (50 tuổi)
7,13%
Về kết quả vi sinh tế bào cho thấy kết quả
nhuộm soi bệnh phẩm thủy dịch và dịch kính
không thống nhất trong 1 số trường hợp.
Bảng 2. Kết quả xét nghiệm vi sinh trực
tiếp
Bệnh phẩm
Dịch tiền
phòng
Dịch kính
Cầu khuẩn Gr (+)
7 (50%)
6 (42,9%)
Cầu khuẩn Gr (-)
0
0
Trực khuẩn Gr (+)
0
1 (7,2%)
Trực khuẩn Gr (-)
0
3 (21,4%)
Nấm
0
0
Âm tính
7 (50%)
4 (28,5%)
Về nuôi cấy:
nuôi cấy âm tính 100% đối với
bệnh phẩm thủy dịch. Nuôi cấy dịch kính phát
hiện 1 trường hợp Streptococcus pneumoniae, 1
trường hợp Staphylococcus aureus và 1 trường
hợp Klebsiella.

TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 489 - THÁNG 4 - SỐ 1 - 2020
167
Bảng 3: Kết quả PCR và giải trình tự
bệnh phẩm nội nhãn
Tác nhân
Số mắt
Tỷ lệ %
Phế cầu
5
35,7%
Khác
9
64,3%
Phế cầu được phát hiện trong 5/15 (35,7%)
các trường hợp trong phân tích này. Tất cả 5
bệnh nhân này PCR và giải trình tự cũng đồng
thời phát hiện chủng phế cầu này tại dịch mũi
họng. 2/5 bệnh nhân có biểu hiện của viêm mũi
họng cấp trước hoặc đồng thời với bệnh cảnh
viêm nội nhãn nội sinh.
IV. BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ nhuộm
soi phát hiện cầu khuẩn Gr (+) dương tính tương
đối cao (50% đối với bệnh phẩm thủy dịch và
42,9% đối với bệnh phẩm dịch kính), kết quả này
tương tự với nghiên cứu của tác giả Jackson T.L.,
2003 cho thấy căn nguyên gây viêm nội nhãn
thường gặp là các cầu khuẩn Gram dương [2].
Cùng với nhuộm soi, nuôi cấy định danh vẫn
được coi là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán và
là một công cụ hỗ trợ rất đắc lực cho điều cho
điều trị khi hiệu chỉnh điều trị theo kháng sinh
đồ. Tuy nhiên kết quả nuôi cấy vi khuẩn ở trong
điều kiện hiện tại ở Việt Nam đạt kết quả thấp
(13% - 22.2%)[1]. Tỷ lệ dương tính thấp có thể
do nhiều nguyên nhân: do bệnh phẩm ít, loãng,
do vi khuẩn kẹt ở các bề mặt cứng như thể thủy
tinh nhân tạo, hoặc do bản thân vi khuẩn phát
triển rất chậm và một lý do rất quan trọng là do
bệnh nhân đã dùng kháng sinh trước đó [3].
Trong thời gian đó, bệnh nhân vẫn phải được
điều trị theo quy trình là truyền kháng sinh tĩnh
mạch và tiêm kháng sinh nội nhãn.
Kết quả nhuộm soi và kết quả nuôi cấy có thể
không đồng nhất. Điều này đã được báo cáo tại
nghiên cứu trước đây [4]. Trong nghiên cứu này
nhuộm soi thủy dịch dương tính tới 50% với cầu
khuẩn Gr (+) trong khi nuôi cấy toàn bộ đều âm
tính gây khó khăn không nhỏ cho quyết định
điều trị. Lý do thấy hình ảnh vi khuẩn trên tiêu
bản nhuộm soi nhưng nuôi cấy lại không mọc có
thể là do bệnh nhân đã dùng kháng sinh không
đủ để tiêu diệt hết vi khuẩn nhưng lại ức chế
được sự nhân lên của vi khuẩn, khiến cho vi
khuẩn không mọc được trên môi trường nhân
tạo hoặc không mọc được trong điều kiện nuôi
cấy thông thường. Để có thể nhìn thấy hình ảnh
vi khuẩn trên tiêu bản nhuộm Gram thì mẫu
bệnh phẩm phải có ít nhất là 105 vi khuẩn/ml
bệnh phẩm. Trong khi đó, để kết quả nuôi cấy
dương tính, chỉ cần có khoảng 10-100 vi
khuẩn/ml bệnh phẩm là đủ. Hơn nữa, các sai sót
có thể gặp phải của xét nghiệm nhuộm soi trực
tiếp, có thể do quy trình lấy bệnh phẩm, nhuộm
soi, người đọc kết quả.
Kỹ thuật PCR và giải trình tự khắc phục được
hầu hết các nhược điểm của các xét nghiệm vi
sinh kinh điển: (i) lượng bệnh phẩm cần ít hơn;
(ii) độ nhạy rất cao; độ đặc hiệu cao; (iii) vẫn có
khả năng chẩn đoán ngay cả khi đã dùng kháng
sinh do kỹ thuật xác định DNA của vi khuẩn,
không nhất thiết yêu cầu vi khuẩn còn sống như
kỹ thuật nuôi cấy; (iv) trả lời kết quả nhanh sau
6 giờ. Trong nghiên cứu này chúng tôi đạt tỷ lệ
dương tính trên PCR và giải trình tự là 100% cao
hơn rất nhiều so với kết quả vi sinh kinh điển.
Trong các mẫu phân tích 35,7% (5/14) các
trường hợp cho kết quả là phế cầu (S.
pneumoniae) một loại vi khuẩn cư trú thường
xuyên và gây bệnh ở vùng hầu họng. Kết quả
này cũng tương tự như kết quả nghiên cứu của
tác giả Đỗ Tấn (2011) khi giải trình tự 23 mẫu
bệnh phẩm dịch kính định danh được 11/23
chủng là S. pneumoniae, chiếm 47,8% [5].
Ở các nước Đông Á như Đài Loan, Hàn Quốc
căn nguyên viêm nội nhãn nội sinh hay gặp nhất
là các trực khuẩn Gram (-), đặc biệt là Klebsiella.
Lý do vì sao ở các nước này lại có một sự khác
biệt về tỷ lệ bắt gặp Klebsiella cao như vậy cũng
chưa có được làm rõ, tuy nhiên, người ta cũng
thấy rằng tỷ lệ áp xe gan do Klebsiella ở nhóm
bệnh nhân thuộc các nước này khá cao. Trong
nghiên cứu này của chúng tôi chỉ gặp 1 trường
hợp nuôi cấy phát hiện Klebsiella, cũng không
phát hiện bệnh nhân nào bị áp xe gan.[6], [7].
Phế cầu khuẩn (Streptococcus pneumoniae)
là một loài vi khuẩn Gram dương thuộc
chi Streptococcus. S. pneumoniae thường cư trú
và gây bệnh trong mũi họng của người khỏe
mạnh. Tuy nhiên, ở những người nhạy cảm,
chẳng hạn như người già và suy giảm miễn dịch
và trẻ em, vi khuẩn có thể gây bệnh. S.
pneumoniae là nguyên nhân chính của viêm phổi
lây nhiễm cộng đồng và viêm màng não ở trẻ em
và người già, nhiễm trùng huyết ở người nhiễm
HIV. Mặc dù tên gọi là phế cầu khuẩn, loài này
lại gây ra nhiều loại bệnh nhiễm trùng phế cầu
khuẩn khác với viêm phổi. Các bệnh phế cầu
khuẩn xâm lấn bao gồm viêm xoang cấp
tính, viêm tai giữa, viêm kết mạc, viêm màng
não, nhiễm khuẩn huyết, nhiễm trùng
huyết, viêm tủy xương, viêm khớp nhiễm khuẩn,
viêm nội tâm mạc, viêm phúc mạc, viêm màng
ngoài tim, viêm mô tế bào, và áp xe não. Như
vậy, tương tự như gây viêm màng não, phế cầu
có thể đi từ hầu họng đi lên mắt để gây viêm mủ
nội nhãn. Tuy nhiên có thể bệnh cảnh toàn thân

vietnam medical journal n01 - APRIL - 2020
168
có sự khác biệt khi trong viêm màng não thường
có biểu hiện nhiễm khuẩn huyết trước trong khi
các dấu hiệu toàn thân trong VMNNNS lại thầm
kín phù hợp với bệnh cảnh của vãng khuẩn
huyết. Cả 5 trường hợp phát hiện phế cầu tại
mắt chúng tôi đều phát hiện phế cầu cùng loại
tại dịch hầu họng (khẳng đinh trên PCR và giải
trình tự). Chỉ 2 trong số 5 bệnh nhân này có này
có biểu hiện viêm mũi họng cấp trước hoặc cùng
với biểu hiện của viêm nội nhãn, không bệnh
nhân nào có biểu hiện nhiễm khuẩn huyết hoặc
suy giảm miễn dịch. Đây là một phát hiện bước
đầu quan trọng hướng cơ chế bệnh sinh của một
bệnh lý nặng nề nhất ở người Việt Nam.
V. KẾT LUẬN
Nuôi cấy vi khuẩn mặc dù vẫn là tiêu chuẩn
vàng trong chẩn đoán và điều trị các bệnh lý
nhiễm trùng nói chung chỉ có giá trị tham khảo
trong chẩn đoán và điều trị VMNNNSVK do tỷ lệ
dương tính quá thấp. Chẩn đoán vi sinh cần dựa
trên sự kết hợp của nhuộm soi, nuôi cấy và PCR
và giải trình tự. Nguyên viêm nội nhãn nội sinh
hay gặp nhất là phế cầu, một loại vi khuẩn
thường cư trú tại hầu họng. Sự trùng khớp của
phế cầu họng và tác nhân phân lập được từ
bệnh phẩm mắt – khẳn định trên PCR và giải
trình tự - là bằng chứng quan trọng, giúp giải
thích cơ chế bệnh sinh của bệnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Thị Hiền (2005), Nghiên cứu đặc điểm
lâm sàng và một số tác nhân gây viêm nội nhãn
nội sinh, Luận văn thạc sỹ y học, Trường Đại học Y
Hà nội, 2005.
2. Jackson T.L., Eykyn S.J., Graham E.M., et al.
"Endogenous bacterial endophthalmitis: a 17-year
prospective series and review of 267 reported
cases".s.l.:Surv Ophthalmology, 48, pp.403-423, 2003.
3. Chee SP, Jap A. (2001), “Endogenous
endophthalmitis”, Curr Opin Ophthalmol 12:464-470.
4. Đỗ Tấn (2012), Đánh giá kết quả phẫu thuật cắt
dịch kính bơm dầu silicone nội nhãn điều trị viêm
mủ nội nhãn nội sinh do vi khuẩn, Luận văn tiến sĩ
Y học, Trường Đại học Y Hà nội.
5. Đỗ Tấn và Đỗ Như Hơn (2011), “Kết quả bước
đầu của phẫu thuật cắt dịch kính kết hợp bơm dầu
silicone nội nhãn điều trị viêm mủ nội nhãn nội
sinh do vi khuẩn”, Tạp Chí Nghiên Cứu Y Học.
73(2), trang 68-75.
6. Yang CS, Tsai HY, Sung CS, Lin KH, Lee
FL, Hsu WM, Endogenous Klebsiella
endophthalmitis associated with pyogenic liver
abscess, Ophthalmology. 2007 May;114(5):876-80.
7. Chung CY, Wong ES, Liu CCH, Wong MOM, Li
KKW, Clinical features and prognostic factors of
Klebsiella endophthalmitis-10-year experience in an
endemic region, Eye (Lond). 2017 Nov; 31(11):
1569-1575. doi: 10.1038/ eye.2017.92. Epub 2017 Jun 16.
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG Ở BỆNH NHÂN
TĂNG ÁP ĐỘNG MẠCH PHỔI
Dương Thị Thùy Linh1, Phạm Quang Tuấn1,
Lê Thị Bích Thuận2, Cao Trường Sinh3
TÓM TẮT44
Mục đích: Xác định nguyên nhân, mô tả đặc điểm
lâm sàng và cận lâm sàng ở bệnh nhân tăng áp phổi.
Đối tượng và phương pháp: 69 bệnh nhân tăng áp
động mạch phổi, 28 nam, 41 nữ, tuổi trung bình 52,2
±16,42 nằm điều trị tại Khoa Nội Tim mạch-Bệnh viện
Trung ương Huế. Tất cả đều được thăm khám lâm sàn
và làm siêu âm tim, điện tâm đồ và xét ngiệm NT-
proBNP huyết tương. Kết quả: Nguyên nhân chủ yếu
tăng áp phổi: hẹp van hai lá chiếm 36,23%, suy tim
trái nặng chiếm 26%, bệnh phổi mạn tính chiếm
11,59%, tăng áp phổi nguyên phát 5,80%, Đặc điểm
lâm sàng của tăng áp phổi: khó thở 88,41%, phù
1Bệnh viện Trung ương Huế
2Trường Đại Học Y Dược Huế
3Trường Đại Học Y Khoa Vinh
Chịu trách nhiệm chính: Phạm Quang Tuấn
Email: tuanbshue@gmail.com
Ngày nhận bài: 5.2.2020
Ngày phản biện khoa học: 25.3.2020
Ngày duyệt bài: 30.3.2020
86,06% và gan to chiếm 55,07%. Trắc nghiêm đi bộ 6
phút là 196,9±41,522 (m). Đặc điểm cận lâm sàng:
Trên điện tâm đồ: dày thất phải chiếm 78,26%, rung
nhĩ chiếm 26,09%: Trên siêm âm: đường kính nhĩ trái
trên 48,23 ± 15,41mm, đường kính thất trái cuối tâm
trương LVDd là 50,13±11,61 mm, đường kính thất
phải RV là 30,66±8,37mm, PAPs là 71,49 ± 29,74
mmHg, TAPSE là 14,50 ± 4,34 mm. Nồng độ NT-
proBNP là 4339,34±134,45pg/mL. Kết luận: Nguyên
nhân chủ yếu tăng áp phổi là bệnh hẹp van hai lá và
các nguyên nhân gây suy tim trái nặng, tăng áp phổi
nguyên phát chiếm tỷ lệ rất thấp. Đặc điểm lâm sàng
của tăng áp phổi chiếm tỷ lên cao là khó thở, phù và
gan lớn các đặc điểm khác có tỷ lệ thấp hơn. Trắc
nghiêm đi bộ 6 phút là 196,9±41,522 (m). Tất cả các
chỉ số của điện tâm đồ, siêu âm tim, NT-proBNP đều
có sự biến đổi.
Từ khóa:
Tăng áp động mạch phổi
SUMMARY
CLINICAL AND LABORATORY TEST
CHARACTERISTICS IN PATIENTS HAVING
PULMONARY HYPERTENSION