
Khái quát về Nhà nước
CHXHCN Việt Nam

Khái niệm chung về Bộ máy nhà nước.
1. Bộ máy nhà nước.
Nhà nước là một tổ chức văn minh của xã hội loài người. Đặc trưng cơ bản của nhà nước
là nhà nước phân chia dân cư theo đơn vị hành chính lãnh thổ để cai quản, thiết lập
quyền lực; nhà nước còn là một tổ chức công quyền, có bộ máy tổ chức, có quân đội,
cảnh sát và ngoài ra, để thực hiện việc tổ chức và quản lý xã hội thì nhà nước phải giải
quyết những vấn đề chung mang tính cộng đồng mà không tổ chức, cá nhân nào có thể
làm được; nhà nước áp đặt ra pháp luật, quản lý, cai trị bằng pháp luật đồng thời để đảm
bảo việc phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội thì nhà nước phải đặt ra các loại thuế và nhà
nước là chủ thể duy nhất có chủ quyền quốc gia. Bản chất của nhà nước được thể hiện rõ
nét nhất ở những định hướng họat động, chức năng quản lý xã hội, quản lý kinh tế của
nó. Do vậy, xuất phát từ chức năng của mình, để duy trì quyền lực thống trị, thực hiện
được chức năng của mình thì nhà nước phải tổ chức ra một bộ máy để thực hiện chức
năng của nhà nước. Bộ máy đó được gọi là bộ máy nhà nước.
Bộ máy nhà nước là tổ chức của con người, hoạt động có ý chí, là hoạt động của cơ quan
nhà nước mang tính quyền lực nhà nước. Mô hình tổ chức bộ máy nhà nước trên thế giới
hiện nay không có mô hình nào là lý tưởng, tuy nhiên xuất phát từ đời sống xã hội ở mỗi
quốc gia khác nhau với những yếu tố tác động nhất định mà tổ chức bộ máy nhà nước ở
mỗi quốc gia là không giống nhau.
Theo cách hiểu chung nhất, Bộ máy nhà nước là tổng thể các cơ quan nhà nước được tổ
chức và hoạt động theo trình tự, thủ tục nhất định do Hiến pháp và pháp luật quy định. Có
mối liên hệ và tác động qua lại với nhau, có chức năng, thẩm quyền riêng theo quy định
của Hiến pháp, pháp luật nhằm tham gia vào việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ chung
của Nhà nước.
- Nói tổng thể là nói đến số lượng nhiều, đa dạng. Nhưng tổng thể này không phải là
phép cộng giản đơn mà được tổ chức và hoạt động theo trình tự, thủ tục do Hiến pháp,
pháp luật quy định. Có những cơ quan nhà nước do Hiến pháp quy định nhưng cũng có
những cơ quan nhà nước do Luật định. Những cơ quan nhà nước này nằm trong bộ máy
nhà nước tạo thành một tổng thể thống nhất nhưng có thẩm quyền riêng theo quy định
pháp luật. Tuy nhiên, khi thực hiện chức năng, thẩm quyền riêng cũng là góp phần thực
hiện chức năng chung của nhà nước.Tổng thể này là sự đảm bảo tính hệ thống và tạo
thành chỉnh thể thống nhất.
- Ngoài ra, các cơ quan nhà nước do Hiến pháp và pháp luật quy định ( khác với các cơ
quan, tổ chức khác của đoàn thể do điều lệ đoàn thể đó quy định);
- Có mối liên hệ, tác động qua lại: TW-ĐF. Ví dụ: QH là cơ quan quyền lực nah2 nước
cao nhất, QH bằng việc thông qua luật tổ chức HĐND ,UBND để quy định vị trí, tích
chất pháp lý của các phường, xã, quy định nhiệm vụ quyền hạn của HĐND,UBND.
2. Cơ quan nhà nước.

Cơ quan nhà nước là một bộ phận của bộ máy nhà nước, có thể là một người hoặc cũng
có thể là nhiều người, do nhà nước thành lập nhằm để thực hiện một công việc, một phần
công việc hay thực hiện những chức năng nhất định.
Cơ quan nhà nước là bộ phận trong bộ máy nhà nước. Lênin quan niệm BMNN phải là
một chỉnh thể thống nhất. Mỗi cơ quan trong Bộ máy nhà nước như là một bộ phận của
chiếc đồng hồ, thiếu một bộ phận thì không thể vận hành được. Điều này nhằm mục đích
nhấn mạnh BMNN phải hoàn thiện, hoàn chỉnh. Nhưng thực tiễn điều này là rất khó. Để
phân biệt cơ quan nhà nước với các tổ chức, đơn vị sự nghiệp khác thì phải xác định các
dấu hiệu đăïc trưng của nhà nước.
Định nghĩa: Cơ quan nhà nước là bộ phận cấu thành của Bộ máy nhà nước, có thể là một
tập thể người ( QH,HĐND, UBND) 1 người (CTN) được thành lập và hoạt động theo quy
định pháp luật nhằm tham gia thực hiện các chức năng, nhiệm vụ chung của nhà nước .
Các dấu hiệu đặc trưng của cơ quan nhà nước:
- Các cơ quan nhà nước được thành lập theo một trình tự, thủ tục do Hiến pháp và pháp
luật quy định; Tức là, được quy định trong văn bản pháp có hiệu lực pháp lý nhất định
trên cơ sở thẩm quyền đã được Hiến pháp quy định hoặc không được trái với HP và luật.
Chẳng hạn, các cơ quan đại diện nhà nước bao giờ cũng được thành lập thông qua bầu
cử, do cử tri bầu ra chứ không bổ nhiệm, trình tự bầu cử do pháp luật quy định. Trong
trường hợp bầu cử mà vi phạm pháp luật nghiêm trọng thì kết quả bầu cử bị huỷ bỏ. Việc
thành lập cơ quan nhà nước không phải là ý muốn chủ quan của một nhóm người, một
thành phần dân cư nào trong xã hội mà nó phụ thuộc vào chức năng của nàh nước và căn
cứ vào Hiến pháp. Ví dụ: Bộ có các Cục, Vụ , Viện… tương ứng với mộït Bộ thì có một
Nghị định riêng của Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức. Nếu muốn thành
lập một cơ quan ở cấp Vụ mà trong Nghị định không nêu thì phải xin ý kiến của Thủ
tướng CP. Thủ tướng CP ra quyết định thì Bộ đó được thành lập Vụ. Trong khi đó, việc
thành lập một tổ chức xã hội nghề nghiệp như đoàn luật sư thì quy định đơn giản và
thông thoáng hơn.
- Cơ quan nhà nước có tính độc lập về cơ cấu, tổ chức, về cơ sở vật chất, tài chính; Cơ
quan nhà nước duy trì hoạt động bằng chính ngân sách nhà nước; tức là, chi phí cho tổ
chức và hoạt động của cơ quan nhà nước lấy từ nguồn duy nhất, chủ yếu là NSNN và
phải nghiêm túc tuân theo chế độ thu, chi, quyết toán tài chính do pháp luật quy định.
- Cơ quan nhà nước có thẩm quyền ( nhiệm vụ, quyền hạn, phạm vi đối tượng và lĩnh vực
địa bàn hoạt động) mang tính quyền lực nhà nước theo quy định của Hiến pháp và pháp
luật. Đây là dấu hiệu quan trọng nhất để phân biệt cơ quan nhà nước với các cơ quan tổ
chức khác bên ngoài xã hội và cơ quan nhà nước với các cơ quan, tổ chức nội tại bên
trong cơ quan nhà nước. Quyền lực nhà nước là khả năng, ý chí chung của nhà nước tác
động đến cá nhân, tổ chức có liên quan trên lãnh thổ nhà nước đó phải phục tùng. Nếu
không phải chịu các biện pháp cưỡng chế. Tính quyền lực của cơ quan nhà nước được thể
hiện thông qua hình thức hoạt động của nó, đó là quyền ban hành văn bản pháp luật, có
thể là văn bản quy phạm hoặc quyết định cá biệt có tính bắt buộc phải tuân theo đối với
các chủ thể khác ( quyết định hành chính, hành vi hành chính)
Thẩm quyền mang tính quyền lực nhà nước thể hiện:

+ Quyền đơn phương ra quyết định ( không phụ thuộc vào đối tượng phải thực hiện).
Quyết định của cơ quan nhà nước có giá trị bắt buộc đối với tất cả các cơ quan, tổ chức,
cá nhân có liên quan .( Khác với thẩm quyền không mang tính quyền lực nhà nước. Ví
dụ: Điều lệ, Nghị quyết Đảng chỉ có giá trị bắt buộc đối với cơ quan của đảng cấp dưới,
các đảng viên còn Quyết định của UBNDTP.HCM : Bắt buộc đối với tất cả các cá nhân,
tổ chức, cơ quan nhà nước TW đóng trên địa bàn Tp. Hcm, cơ quan nước ngoài, người có
hộ khẩu, không có hộ khẩu, người vãng lai…mà không không phụ thuộc vào việc người
đó có nằm trong hệ thống hay không?)
+ Bắt buộc các đối tượng có liên quan phải phục tùng ; Ví dụ: HĐND khi thực hiện chức
năng giám sát, Ban Pháp chế của HĐND chỉ có quyền yêu cầu Chủ tịch UBND bãi bỏ
quyết định định vi phạm chứ Ban Pháp chế không có quyền bãi bỏ, đình chỉ thi hành
quyết định đó. Nếu Chủ tịch UBND không thực hiện thì Ban pháp chế của Hđnd yêu cầu
Ttg bãi bỏ, đình chỉ chứ UBTVQH không có quyền. Các Ban của HĐND, các ủy ban của
QH, UBTVQH không có quyền đơn phương quyết định, bởi vì những cơ quan này là cơ
quan nội tại bên trong của CQNN, không có tính quyền lực.
+ Nhà nước có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế, các biện pháp bảo đảm thực
hiện.
+ Không phải đơn phương quyết định tùy tiện mà phải tuân theo các quy định pháp luật.
Nếu vượt quá thẩm quyền thì phải tự chịu trách nhiệm, nếu không thực hiện thẩm quyền
cũng bị truy cứu TNHS.
- Cơ quan nhà nước có hình thức hoạt động, chế độ làm việc theo quy định pháp luật. Ví
dụ: QH họp một năm 2 lần, làm việc tập thể và quyết định theo đa số.
- Những cá nhân đảm nhiệm những chức trách trong cơ quan nhà nước phải là công dân
Việt Nam (quyền của cá nhân con người với tư cách là người chủ của quyền lực nhà
nước, là người có quốc tịch nước đó) và được gọi là cán bộ, công chức. Phải tuân thủ
những điều kiện tiêu chuẩn của cán bộ công chức do pháp luật quy định.
Các cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ với nhau hợp
thành một hệ thống thống nhất (chặt chẽ) từ trung ương đến cơ sở. Mỗi cơ quan nhà
nước trong bộ máy nhà nước có chức năng, nhiệm vụ riêng nhưng đều hướng đến thực
hiện chức năng nhiệm vụ chung của nhà nước.
Dù các cơ quan có chức năng riêng nhưng đều hướng đến chức năng chung của nhà nước
là không thể vô hiệu hoá nhau. Cần phân biệt cơ quan nhà nước với các bộ phận cấu
thành cơ quan nhà nước. Phân biệt cơ quan nhà nước với các tổ chức chính trị xã hội, tổ
chức chính trị, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp .
Như vậy:
(1) Cơ quan nhà nước được thành lập và hoạt động trên cơ sở pháp luật, theo những
nguyên tắc và trình tự thủ tục chặt chẽ, nhân danh quyền lực nhà nước để thực hiện một
nhiệm vụ công việc để góp phần thực hiện các chức năng chung của nhà nước.
(2) Bộ máy nhà nước là tổng thể bao gồm các cơ quan nhà nước có tính chất, vị trí, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau tạo thành
một thực thể nhất định được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc do luật định.
3. Phân loại cơ quan nhà nước trong Bộ máy nhà nước.
Trong bộ máy nhà nước có rất nhiều loại cơ quan nhà nước khác nhau.

Mỗi cách phân loại cơ quan nhà nước có những giá trị riêng nhất định của nó vì mỗi cơ
quan nhà nước có những chức năng riêng nhất định. Việc phân loại cơ quan nhà nước cho
dù theo tiêu chí nào đi chăng nữa cũng không vì thế mà làm thay đổi địa vị pháp lý của
chính cơ quan đó trong nấc thang quyền lực nhà nước. Mà địa vị pháp lý cũa cơ quan
nhà nước phụ thuộc vào việc xác định nhiệm vụ, quyền hạn, chức năng cũa chính cơ
quan đó.
Có các tiêu chí, căn cứ phân loại cơ quan nhà nước cơ bản như sau:
a. Căn cứ vào tính chất, chức năng,thẩm quyền: Chia làm 5 loại cơ quan:
- Cơ quan đại diện quyền lực nhà nước : Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Đây là hệ
thống cơ quan được nhân dân trực tiếp trao quyền, thay mặt nhân dân để thực hiện quyền
lực nhà nước.
- Cơ quan chấp hành ( cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước): Chính
phủ, UBND các cấp. Đây là hệ thống cơ quan có bộ máy lớn nhất .
- Cơ quan xét xử: Toà án nhân dân các cấp và toà án quân sự các cấp.
- Cơ quan kiểm sát: Viện kiểm sát nhân dân các cấp và viện kiểm sát quân sự các cấp.
- Nguyên thủ quốc gia ( Chủ tịch nước): Người đứng đầu nhà nước, thay mặt nhà nước về
đối nội, đối ngoại. Chủ tịch nước có thẩm quyền trong cả ba lĩnh vực lập pháp, hành
pháp, tư pháp.
Tuy nhiên, với cách phân loại các cơ quan nhà nước dựa vào tiêu chí trên không có nghĩa
rằng chỉ có Quốc hội, HĐND mới có tính quyền lực nhà nước mà tất cả các cơ quan trên
trong hoạt động của mình, khi thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định theo quy
định pháp luật đều mang tính quyền lực nhà nước.
b. Căn cứ vào phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.
Có hai nhóm cơ quan sau:
- Cơ quan nhà nước ở Trung ương: QH, CP, CTN, TANDTC, VKSNDTC. Đây là những
cơ quan có phạm vi hoạt động bao trùm lên toàn bộ lãnh thổ và văn bản do những cơ
quan này ban hành có hiệu lực trên phạm vi toàn quốc, văn bản của các cơ quan nhà nước
ở địa phương không được trái với văn bản của cơ quan nhà nước ở trung ương, nếu trái
thì nó có thể bị đình chỉ thi hành hoặc bị bãi bỏ.
- Cơ quan nhà nước ở địa phương: UBND, HĐND, TAND và VKSND địa phương.
Những cơ quan này hoạt động bị giới hạn bởi địa giới hành chính, văn bản ban hành chỉ
có hiệu lực trong phạm vi địa phương.
Yù nghĩa thực tiễn của việc phân loại theo căn cứ này:
+ Để xác định giới hạn thẩm quyền của các cơ quan nhà nước. Nếu vấn đề liên quan có ý
nghĩa chung đối với toàn quốc thì thuộc thẩm quyền quyết định của cơ quan nhà nước ở
trung ương;
+ Ơû địa phương thì thuộc thẩm quyền quyết định của cơ quan nhà nước cấp tỉnh.
c. Căn cứ vào chế độ (nguyên tắc) làm việc:
- Cơ quan nhà nước làm việc theo (nguyên tắc) chế độ tập thể, tức là mọi việc đều được
bàn bạc tập thể và quyết định theo đa số: QH, HĐND, Toà án.
- Cơ quan nhà nước làm việc theo chế độ thủ trưởng: Thủ trưởng quyết định và chịu trách
nhiệm cá nhân: Bộ, CTN, VKSND,Cơ quan thuộc chính phủ, sở, phòng.