BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ---------------------------- ĐOÀN DUY LINH
KHẢO SÁT MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT
THƠ CHỮ HÁN CAO BÁ QUÁT
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. LÊ THU YẾN
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
ơ Lời cảm ơn
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn khoa
học tận tình, chu đáo của cô Lê Thu Yến, người trực tiếp
hướng dẫn chúng tôi hoàn thành luận văn khoa học này.
Chúng tôi chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, tập thể
Thầy, Cô khoa Ngữ văn và Phòng khoa học công nghệ Sau
đại học Trường Đại học Sư phạm Thành Phố Hồ Chí Minh,
đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ chúng tôi trong suốt quá
trình học tập và nghiên cứu.
Chúng tôi cũng xin chân thành cảm ơn những đóng
góp quý báu của quý Thầy, Cô trong Hội đồng chấm luận án
đã giúp đỡ chúng tôi trong quá trình hoàn thành luận văn
khoa học.
Chúng tôi cũng xin cảm ơn quý đồng nghiệp, bạn bè
đã động viên và khích lệ chúng tôi trong quá trình học tập
và viết luận văn.
Xin chân thành cảm ơn tất cả!
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Thơ chữ Hán chiếm phần lớn trong tổng thể sáng tác của Cao Bá Quát. Con số hơn 1267 bài
thơ đủ để khẳng định ông là cây bút sáng tác bằng chữ Hán nhiều nhất trong lịch sử văn học dân tộc,
nhà thơ lớn của văn học trung đại. Việc nghiên cứu, khảo sát bộ phận thơ này là một việc cần thiết
và là niềm vinh hạnh cho người đi sau. Trước nay, qua văn học đã có nhiều công trình nghiên cứu
đề cập đến tư tưởng, quan niệm của Cao Bá Quát ở mảng thơ chữ Hán. Nhìn chung, các công trình
này thường nhằm mục đích giúp minh họa và soi sáng cho cuộc đời Cao Bá Quát hơn là xem thơ
chữ Hán như một đối tượng nghệ thuật cần nghiên cứu. Các tác giả chủ yếu tiếp cận từ góc độ tiểu
sử, hành trạng về tư liệu, về con người và nội dung thơ văn, tập trung ở một số bài quen thuộc. Đến
đây, chúng tôi tiến hành khảo sát 418 bài thơ chữ Hán trong tổng số 1267 bài thơ. Số lượng lớn
những bài thơ này thể hiện những tâm tư – tình cảm, nỗi niềm, khát vọng từ những cảm hứng nghệ
thuật của chính Cao Bá Quát trước cuộc đời.
Mặc khác, việc đi tìm một hệ thống giải mã tương đối hữu hiệu cho thế giới nghệ thuật thơ
chữ Hán Cao Bá Quát nhằm phục vụ trực tiếp cho việc giảng dạy cũng là vấn đề cấp thiết.
Bên cạnh đó, còn có sự ham mê hứng thú của người viết với tác gia này. Những thế giới nghệ
thuật còn nhiều tiềm ẩn từ những câu thơ, hình ảnh, ngôn ngữ… cứ như khêu gợi, thôi thúc người
viết. Mong muốn hiểu biết thì nhiều. Song khả năng lại có hạn. Người viết nghĩ nếu thực hiện tốt đề
tài này sẽ là sự đóng góp, bổ sung hiểu biết về tác gia lớn Cao Bá Quát, giúp việc giảng dạy, học tập
tốt hơn.
Đó là lý do thực hiện đề tài: Khảo sát một số đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
2. Mục đích nghiên cứu:
2.1. Người viết muốn tìm hiểu thấu đáo về con người Cao Bá Quát cũng như thế giới nghệ
thuật trong sáng tác thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
2.2. Việc nghiên cứu thơ chữ Hán Cao Bá Quát phục vụ cho việc giảng dạy, học tập của bản
thân.
2.3. Người viết muốn bày tỏ lòng kính trọng trước một nhân cách đáng quý và một tài thơ lỗi
lạc.
3. Lịch sử vấn đề:
Có nhiều công trình nghiên cứu thơ chữ Hán Cao Bá Quát, tập trung theo ba hướng sau:
Hướng đi vào văn bản: Hướng này có một số bài viết và công trình nghiên cứu:
- Thái Trọng Lai (2004), “Vấn đề chú thích trong việc dịch thơ Cao Bá Quát”, Cao Bá Quát
– Tham luận Hội thảo, Nxb. Văn học – Trung tâm Nghiên cứu Quốc học.
- Mai Quốc Liên chủ biên (2004), Cao Bá Quát toàn tập, Tập I, Nxb. Văn học – Trung tâm
Nghiên cứu Quốc học.
- Nguyễn Ngọc Quận (2004), “Vài nhận xét về tập thơ chữ Hán Cao Bá Quát”, Cao Bá Quát
- Tham luận Hội thảo, Nxb. Văn học - Trung tâm nghiên cứu Quốc học.
- Thơ chữ Hán Cao Bá Quát (1970), Nhóm tuyển dịch gồm Vũ Khiêu và nhiều người khác,
Nxb. Văn học, Hà Nội.
- Thơ chữ Hán Cao Bá Quát (1984), Nhóm biên soạn gồm Vũ Khiêu và nhiều người khác,
Nxb. Văn học.
- Trần Đại Vinh (2004), “Văn bản Cao Chu Thần thi tập”, Cao Bá Quát - Tham luận Hội
thảo, Nxb. Văn học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học.
Các bài viết, công trình nghiên cứu này tập trung tìm kiếm một văn bản tốt nhất, đúng nhất
cho thơ văn Cao Bá Quát nói chung và thơ chữ Hán nói riêng.
Hướng đi vào nội dung: có các bài viết, công trình sau:
- Nguyễn Kim Châu (2004), “Không gian đường đời và sự thể hiện nhận thức con người phi
lí trong thơ Cao Bá Quát”, Cao Bá Quát – Tham luận Hội thảo, Nxb. Văn học – Trung tâm Nghiên
cứu Quốc học.
- Nguyễn Huệ Chi (1961), “Tìm hiểu nhân sinh quan tích cực trong thơ Cao Bá Quát”, tạp
chí Nghiên cứu Văn học, Hà Nội, số 6.
- Nguyễn Huệ Chi (2003), “Tiếp cận nghệ thuật với hai chủ đề độc đáo trong thơ Cao Bá
Quát”, Tạp chí Văn học, Số 5.
- Đinh Thị Thái Hà (2003), “Lương tâm và khí phách qua thơ chữ Hán Cao Bá Quát”, Luận
văn thạc sỹ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
- Hồ Sĩ Hiệp (2005), “Thi tiên trong thơ Thánh Quát”, tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 2.
- Tố Hữu (2001), “Cao Bá Quát - Một khí phách hào hùng, một nhà thơ lỗi lạc của dân tộc”,
Văn nghệ, số 17.
- Nguyễn Hữu Sơn (2004), “Cao Bá Quát và những câu hỏi trong thơ”, Văn nghệ, số 35, 36.
- Nguyễn Hữu Sơn (2005), “Cao Bá Quát và những suy tưởng trong thơ”, tạp chí Nghiên cứu
văn học, số 2.
- Nguyễn Tài Thư (1980), Cao Bá Quát con người và tư tưởng, Nxb. Khoa học Xã hội, H.
- Phạm Quang Trung (2003), “Bước đầu tìm hiểu quan niệm văn chương của Cao Bá Quát”,
tạp chí Văn học, số 10.
………………
Những công trình này thường đi vào một số bài thơ tiêu biểu cho khí phách, lương tâm, tình
cảm … trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
Hướng đi vào từng bài cụ thể: có một số bài viết sau:
- Trịnh Bích Ba (2004), “Đọc bài Dương phụ hành của Cao Bá Quát”, in trong Cao Bá Quát
- Tham luận Hội thảo, Nxb. Văn học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học.
- Lê Bảo (1991), “Bài ca cái roi song”, trong sách Những bài thơ hay, Nxb. Hà Nội.
- Mai Quốc Liên (2005), “Một bài thơ kỳ tuyệt, một số phận khác thường”, Văn nghệ, số 19,
20.
- Nguyễn Thu Phương (2001), “Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát với thi pháp văn học
trung đại qua Bài ca ngất ngưởng và Dương phụ hành”, trong sách Những bài làm văn chọn lọc 11,
Nxb. Giáo dục.
- Nguyễn Đức Quyền (2003), “Đề Sát Viện Bùi Công Yên Đài anh ngữ khúc hậu”, trong sách
Bình giảng, bình luận Văn học, Nxb. Giáo dục.
- Vũ Dương Quỹ (2001), “Mộng vong nữ”, trong sách Giảng văn chọn lọc – Văn học Việt
Nam (Văn học dân gian và văn học cổ, cận đại), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội .
- Trần Thị Băng Thanh (1998), “Dương phụ hành”, trong sách Giảng văn Văn học Việt Nam
(Văn học dân gian và văn học cổ đại, cận đại), in lần thứ 3, Nxb. Giáo dục.
-Trần Thị Băng Thanh (2004), “Một thoáng nhìn của Cao Bá Quát: Giữa đường gặp người
đói”, Cao Bá Quát - Tham luận Hội thảo, Nxb. Văn học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học.
………………….
Hướng đi này thường bộc lộ cảm hứng riêng đối với một số bài thơ hoặc tranh luận về một
vấn đề chưa nhất trí…
Gần đây là công trình của Nguyễn Ngọc Quận (2005), “Sáng tác của Cao Bá Quát trong tiến
trình văn học”, Luận án Tiến sĩ Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, một mặt
đã sưu tầm, xử lý và công bố tác phẩm Cao Bá Quát nói chung thơ chữ Hán nói riêng; mặt khác
bước đầu tìm hiểu đặc điểm về nội dung và nghệ thuật thơ văn Cao Bá Quát cũng như bộ phận thơ
chữ Hán.
Nhìn chung, nhiều công trình đề cập đến thơ chữ Hán Cao Bá Quát. Trong đó, các tác giả
chú ý về mặt tiểu sử, hành trạng, văn bản, về nội dung, tìm hiểu tư tưởng, tình cảm để hiểu về con
người và cuộc đời Cao Bá Quát. Những đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát hầu như là
một vấn đề chưa được đề cập đến một cách toàn diện, có hệ thống và chưa được khai thác sâu.
Tiếp thu những công trình trên, người viết đặt vấn đề nghiên cứu những đặc điểm nghệ thuật
thơ chữ Hán Cao Bá Quát trên một số phương diện nổi bật: hình tượng nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ
thuật…, ở phạm vi rộng hơn: 418 bài thơ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Luận văn khảo sát toàn bộ 418 bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát trong cuốn Cao Bá Quát
toàn tập, tập 1, do Mai Quốc Liên chủ biên, Nhà xuất bản Văn học, 2004.
Phạm vi nghiên cứu được giới hạn ở những vấn đề liên quan đến văn bản trong một số đặc
điểm nghệ thuật nổi bật được tìm thấy như hình tượng nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ thuật…
5. Phương pháp nghiên cứu:
Xuất phát từ mục đích và đối tượng nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử,
phương pháp so sánh… kết hợp với các thao tác như phân loại, thống kê, phân tích, so sánh đối
chiếu, phân tích tổng hợp… Các phương pháp và thao tác này này được dùng suốt ở các chương.
Đầu tiên là phân loại đối tượng, tiếp theo là thống kê các yếu tố có tính chất lặp đi lặp lại
nhiều lần. Sau đó, ở tùy từng loại, chúng tôi khảo sát theo những phương diện khác nhau, kết hợp
phân tích từng đối tượng, khái quát và rút ra những kết luận, đặc điểm quan trọng.
Trong quá trình khảo sát, nhận xét, đánh giá đối tượng, chúng tôi còn so sánh đối chiếu từng
phương diện với các tác phẩm của các tác giả khác để làm rõ thêm sự khác biệt cũng như những nét
đặc sắc nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
6. Những đóng góp của luận văn:
6.1. Luận văn bước đầu khảo sát những đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát ở
phạm vi rộng - 418 bài thơ.
6.2. Luận văn đi sâu vào khảo sát từng phương diện trong thế giới nghệ thuật thơ chữ Hán
Cao Bá Quát. Qua đó, rút ra được những nét đặc sắc về quan niệm nhân sinh, về sáng tạo nghệ thuật
của tác gia lớn Cao Bá Quát.
6.3. Từ những kết quả đạt được có thể áp dụng vào thực tế giảng dạy, vào lĩnh vực tiếp nhận
và cảm thụ tác phẩm thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
7. Kết cấu luận văn:
Phần mở đầu.
Chương 1: Thời đại, con người và sự nghiệp sáng tác của Cao Bá Quát.
1.1. Thời đại.
1.2. Con người.
1.3. Sự nghiệp sáng tác của Cao Bá Quát.
1.3.1. Quan niệm sáng tác thơ văn của Cao Bá Quát.
1.3.2. Tình hình dịch thuật tác phẩm Cao Bá Quát.
1.3.3. Nội dung và nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
Chương 2: Hình tượng nghệ thuật về con người trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
2.1. Con người trách nhiệm.
2.2. Con người khí phách.
2.3. Con người bi phẫn.
2.4. Con người tình cảm.
2.4. Con người suy tưởng.
Chương 3: Thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
3.1. Thời gian nghệ thuật.
3.1.1. Thời gian kiểm nghiệm.
3.1.2. Thời gian tĩnh tại.
3.1.3. Thời gian toan tính.
3.2. Không gian nghệ thuật:
3.2.1. Không gian “tầm cao”.
3.2.2. Không gian nỗi niềm.
Chương 4: Ngôn ngữ nghệ thuật.
4.1. Tiêu đề bài thơ.
4.2. Câu thơ.
4.2.1. Câu trần thuật.
4.2.2. Câu nghi vấn.
4.2.3. Câu cầu khiến.
4.2.4. Câu cảm thán.
4.3. Từ ngữ.
4.3.1. Từ tự xưng.
4.3.2. Từ biểu cảm.
Phần kết luận.
Chương 1:
THỜI ĐẠI, CON NGƯỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA CAO BÁ QUÁT
1.1. Thời đại:
Cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, lịch sử Việt Nam có nhiều biến chuyển lớn lao. Họ Mạc
sụp đổ. Vua Lê lên trị vì, dẫn đến sự phân chia Đàng ngoài, Đàng trong. Ở Đàng ngoài, Chúa Trịnh
lộng quyền dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với vua Lê, nội bộ nhà Chúa lại tranh giành quyền hành lẫn
nhau. Trong Đàng trong, nhà Nguyễn cùng nhân dân khai khẩn đất hoang, đời sống khó khăn, khổ
cực, lầm than. Cuộc khởi nghĩa của anh hùng Quang Trung – Nguyễn Huệ như một “trận mưa
nhuần” dẹp yên “thù trong giặc ngoài”, lập nên triều đại Tây Sơn tiến bộ vào bậc nhất trong lịch sử
phong kiến. Thành quả quý báu ấy lại nhanh chóng bị hủy hoại trong tay vị vua trẻ Quang Toản ít
tài lắm tật, tin tưởng nịnh thần.
Năm 1802, nhờ sự viện trợ của nhà Thanh, Nguyễn Ánh đánh đổ nhà Tây Sơn thống nhất
giang sơn, thành lập vương triều Gia Long. Một vương triều nói như Nguyễn Tài Thư “có một
không hai trong lịch sử” cai trị.
Về chính trị, các thế hệ nhà Nguyễn luôn chuyên chế, độc đoán, vị kỷ. Mọi quyền hành đều
tập trung vào nhà vua: quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và kiểm soát trong tay. Quy định “bốn
không” cũng được ban hành: không đặt chức tể tướng, không lập hoàng hậu, không lấy đỗ trạng
nguyên, không phong tước vương cho người hoàng hoàng tộc. Không chỉ vậy, pháp luật nhà
Nguyễn còn dã man, bạo tàn với “bộ luật Gia Long” tư thù, phản động và một đội quân khát máu
dùng trong những cuộc đàn áp nông dân.
Đối nội là vậy, còn đối ngoại thì triều Nguyễn trước sau vẫn giữ thái độ “thần phục” nhà
Thành, “bế quan tỏa cảng” với Phương Tây. Nhiều chính sách, thiết chế chính trị, tư tưởng văn hóa
xã hội của nhà Thanh được các vua triều Nguyễn tiếp thu, vận dụng một cách rập khuôn, cứng nhắc,
xem nó như là “khuôn vàng thước ngọc” trong cai trị. Trong khi ấy, triều đình nhà Thanh đã lỗi thời
trước sự phát triển của lịch sử, bản thân đang gặp nhiều khó khăn bởi “thù trong giặc ngoài”. Thần
phục mù quáng nhà Thanh, nhà Nguyễn ra sức ngăn chặn các trào lưu phát triển của thế giới lúc bấy
giờ, cố tình giữ đất nước trong tình trạng cổ hủ và trì trệ. Chính do vậy, tình hình kinh tế - xã hội
của đất nước ngày một suy sụp và khốn đốn.
Nhà Nguyễn Ánh cũng có ước vọng xây dựng một triều đại vững mạnh, lâu bền như Nghiêu,
Thuấn nên đã thực hiện những cải cách về nông nghiệp, kinh tế cùng với chính sách thu hút nhân tài
nhằm làm đổi mới tình hình, tạo thế mạnh cho đất nước. Song, đó chỉ là những cải cách mang tính
nửa vời, thô sơ và thiếu căn bản chẳng có cách gì bổ trợ thêm cho cơ sở nông nghiệp và đời sống
kham khổ của lê dân, mà chỉ có lợi cho giai cấp thống trị; nên hệ quả của nó là nền kinh tế ngày một
tiêu điều, nông nghiệp mất mùa liên tiếp, tiểu công nghiệp và thương nghiệp đình đốn, bế tắc. Chính
sách văn trị, đề cao khoa cử, trọng vọng nho sĩ, phục hưng Hán học cũng chẳng ích nước lợi dân,
chủ yếu nhằm lôi kéo sự ủng hộ của tầng lớp Nho sĩ đối với vương triều mới.
Về văn hóa – tư tưởng, nhà Nguyễn khôi phục và phát triển mạnh hệ tư tưởng Nho giáo,
nâng nó lên địa vị độc tôn trong hệ tư tưởng Nho, Đạo, Phật. Những giáo lý “tam cương”, “ngũ
thường” và khẩu hiệu “ái quốc”, “trung quân”… được ngợi ca, phổ biến rộng trong nhân dân. Chế
độ học hành, thi cử… được chấn chỉnh. Nhà Nguyễn mong muốn có những con người mang lẽ sống
và tính cách của Nho giáo để có thể trung thành và tận tụy với sự nghiệp của mình. Nhưng dù cố
gắng đến đâu nữa, triều Nguyễn vẫn không thể thực hiện được điều đó. Thế nên, ý thức hệ của Nho
giáo tồn tại từ xưa đến nay ngày một suy đồi, khủng hoảng cuối cùng đã sụp đổ.
Chính trị hà khắc, kinh tế sa sút tồi tệ, xã hội rối ren, văn hóa – tư tưởng suy đồi đã đẩy dân
chúng đến cảnh trăm bề điêu đứng, nghèo xác, đói rét, bệnh tật, tinh thần hoang mang. Cuộc sống
tức thở vô cùng. Nhiều người rơi vào bước đường cùng, đại đa số là nông dân. Họ đấu tranh chống
bắt lính, bắt phu; họ rời bỏ quê hương đi tha phương cầu thực; họ gia nhập phong trào nông dân
ngày càng nhiều… Trong khi ấy vua chúa, quan lại, cường hào lại xa hoa lãng phí, ra sức vơ vét,
bóc lột, hoành hành… Kết quả tất yếu của chế độ hà khắc, của đói nghèo, áp bức, bóc lột là tranh
đấu, khởi nghĩa. Nông dân, giới trí thức bất bình, phẫn nộ và hành động chống trả bằng lời nói, bằng
hành động. Nếu trước kia, nông dân khởi nghĩa vì không chấp nhận sự thống trị của tân triều thì nay
họ đấu tranh chính vì bản chất phản động trong cai trị của triều Nguyễn. Thời Gia Long (1802 -
1819) mới chỉ có khoảng 50 cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ, nhưng đến Minh Mệnh (1820 – 1840) đã có
trên 200 cuộc, sang Thiệu trị (1841 – 1846) chỉ có 7 năm mà có gần 50 cuộc khởi nghĩa… Giới trí
thức Nho học cũng có những mối bất mãn sâu xa, những nỗi thất vọng chua chát với nhà Nguyễn.
Họ không tha thiết với việc làm quan: Ví như Hoàng giáp Phạm Văn Nghị (Nam Định) đương chức
sử quan, nhân bàn luận về sử không hợp ý mà cáo quan về; Tiến sĩ Ngô Thế Vinh (Nam Định) vì
can việc trường thi bị cách hết quan chức, trở về lành dạy học, viết sách; Nghè Tân Nguyễn Quý
Tân (Hải Dương) làm Tri phủ nhưng rồi chán việc quan, bỏ đi chơi, phải bãi chức; Nguyễn Văn
Giai (Hà Nội) học rất giỏi mà không thiết gì thi cử đỗ đạt, sống rất phóng túng theo khuynh hướng
lãng mạn, châm biếm, làm cho giới tay mắt ở Hà Nội hồi ấy phải điên đầu về những trò chơi ngông
của ông… Hoặc họ có thái độ bất đồng với đồng liêu, khinh khi những con người bất tài, luồn cúi,
nịnh bợ như Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Văn Lạc; hoặc miệt thị cả vua như Phan Văn Trị… Một số
Nho sĩ khác mạnh mẽ hơn, muốn thay đổi nước cờ, tạo dựng cuộc đời đã đứng lên khởi nghĩa như
anh em Đoàn Trưng, Đoàn Hữu Ái, Trương Trọng Hòa, Phạm Lương, Tôn Thất Cúc, Cao Bá
Quát…
Những phong trào khởi nghĩa chống lại nhà Nguyễn đã làm cho tình thế đất nước ngày một
suy yếu. Triều Thiệu Trị, Tự Đức khủng hoảng, suy sụp, nhanh chóng lụi tàn. Phương Tây đang lâm
le dòm ngó. Các Nho sĩ tan vỡ giấc mộng công danh. Họ gửi gắm nỗi niềm thất vọng vào văn thơ.
Những lời than vãn về chí nam nhi, về “hùng tâm, sinh kế” thường thấy trong văn học lúc này.
Không chỉ vậy, các Nho sĩ tiến bộ còn hướng đến tầng lớp bình dân, viết về thân phận con người,
nhất là người phụ nữ và thân phận của họ. Văn học nửa cuối XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX vì vậy mà
đơm hoa kết trái ngọt ngào từ mảnh đất cằn khô sự sống, nói như Mai Quốc Liên, đó là “nền văn
học có tính chất phục hưng với một chủ nghĩa nhân đạo trác tuyệt”; và “lần đầu tiên trong văn học,
con người cá nhân được đặt vào vị trí trung tâm, được soi sáng từ bên trong, từ nội tâm và nhu cầu
hạnh phúc, nhu cầu phát triển nhân cách tài năng được đặt ra”.
Đối tượng của văn học thay đổi. Theo đó, những gì trước đây được coi là quy phạm, tao nhã,
phi ngã cũng bị phá vỡ. Thời kì này xuất hiện nhiều văn hào tên tuổi Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị
Điểm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát… Những nhân vật tiếng tăm
này họ đã sống và chứng kiến những biến đổi thăng trầm của thời đại. Đặc biệt, các sáng tác của họ
cùng với tiếng nói đồng cảm, chia sẻ, trân trọng, thách thức, ngất ngưởng, tự do đã thật sự xoa dịu
nỗi đau và mở ra một chân trời mới cho con người. Vấn đề quyền làm người, quyền được tự do, con
người cá nhân… rất được xem trọng. Chất nhân văn, chủ nghĩa nhân đạo được xem là những tư
tưởng tiến bộ, mở đường… Những khát vọng, ước mơ về cuộc sống hạnh phúc, cuộc sống tự do
được chấp cánh từ văn học…
Trong bối cảnh thời đại có nhiều biến động lớn lao ấy, Cao Bá Quát xuất hiện như một hiện
tượng lạ. Là một Nho sĩ, lý ra Cao Bá Quát phải luôn lấy chữ “trung quân ái quốc” làm đầu. Thế
nhưng, ông lại vùng lên chống trả quyết liệt chế độ phong kiến. Hành động này xuất phát từ sự ý
thức về bản nhất bạo tàn của triều Nguyễn, về xu thế tất yếu của lịch sử, nhất là từ lương tâm và khí
phách của ông. Có thể nói, những hoạt động thực tiễn của Cao Bá Quát cũng như những tư tưởng và
nguyện vọng của ông đã làm rõ xu thế đi tới tất yếu của thời đại, đồng thời cũng góp phần đẩy
nhanh quá trình phát triển của xu thế đó.
1.2. Con người:
Cao Bá Quát tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đường, biệt hiệu là Mẫn Hiên, người làng Phú Thị,
tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Chu Thần sinh năm nào không rõ. Ông Chu Thiên
căn cứ vào một bài thơ của Cao Bá Quát nhan đề “Cảm tác” trong Mẫn Hiên thi tập, có những câu:
“Tự Đức tứ niên, thư ký lạp/ Nguyên tiêu tứ ngũ, biệt kinh đô” (Năm Tự Đức thứ tư vào tháng chạp
gửi thư đi/ Ngày rằm tháng giêng, từ biệt kinh đô, đã 45 tuổi), dự đoán ông sinh năm 1908. Ông Tảo
Trang rồi Vũ Khiêu căn cứ vào bài “Thiên cư thuyết” có đoạn viết: “Dữ di niên phủ nhị kỷ nhi sơn
hà thành quách chi cựu, tam duyện kỳ biến cải…” (Với cái tuổi của ta, mới hai kỷ mà núi sông
thành quách cũ đã thay đổi đến ba lần), phía cuối bài có ghi: “Nhâm thìn mạnh thu Chu Thần thị
thuyết” (Năm Nhâm thìn, tháng mạnh thu, Chu Thần viết bài thuyết), tính ra Cao Bá Quát sinh năm
1809. Căn cứ vào một số giai thoại về tuổi trẻ, việc đi thi và về cái chết của Cao Bá Quát để tính
năm sinh của ông, cũng thấy ông sinh vào quãng này.
Xuất thân trong một dòng dõi khoa bảng nhưng cha chỉ là một ông đồ hay chữ. Ngay từ nhỏ,
Cao Bá Quát đã được bố cho theo nghiệp nghiên bút, với mong muốn sẽ đỗ đạt, sống có ích cho đời.
Cao thông minh, học giỏi, lại sớm có ý thức về tài văn chương của mình. Câu chuyện về ba bồ chữ
mà người ta thường truyền tụng, tuy có cái kiêu căng tự phụ đáng chê trách nhưng cốt lõi là nói lên
một phần sự thật tài năng và cá tính của ông. Thêm nữa, lời khen của ông vua Tự Đức hay chữ
“Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán/ Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường”; sự suy tôn của người đời
“Thánh Quát”; sự giao du thân thiện của hai ông hoàng Tuy, Tùng trong nhóm thi xã Mặc Vân và
sự ngưỡng mộ, ngâm phục của bạn bè trong giới kẻ sĩ càng khẳng định thêm cái tài hơn người của
họ Cao. Không những có tài, Cao Bá Quát còn là một con người có hoài bão, khát vọng lớn. Nối chí
của thân phụ, ông ôm ấp canh cánh một nỗi niềm thờ vua giúp nước. Cái tâm lớn ấy cùng với bản
lĩnh của một nhà nho tràn đầy khí phách luôn háo hức trên con đường đi tìm vẻ đẹp đời mình.
Cao Bá Quát còn là một người năng động, phóng khoáng, thích tự do. Bởi vậy, ông ưa làm
theo ý mình, ít khi chịu theo khuôn phép. Nết ấy, ngay từ nhỏ, ông thân sinh của Cao Bá Quát đã
nhận thấy trong lời văn của con: “…Văn của Bá Quát hơn về tài tứ nhưng kém về khuôn phép”. Sau
này, nó biểu lộ trong mọi hành động của ông: đi thi làm bài thì cứ lấy ý riêng của mình mà suy luận,
đi chấm thi thì muốn vượt qua những nguyên tắc của trường thi. Cao Bá Quát gặp nhiều trắc trở
trong việc thi cử và trên con đường hoạn lộ cũng bởi do tính cách này.
Chuộng tự do, cởi mở nên Cao Bá Quát hay quan sát, tìm tòi, khám phá cuộc sống xung
quanh mình. Ông đi nhiều nơi, trải qua những cảnh sóng gió trên quê hương mình, nước ngoài.
Những dịp này đã giúp Cao Bá Quát có cái nhìn sâu sắc hơn về đời sống của nhân dân mình, về
những giá trị tinh thần của dân tộc đồng thời cũng nới rộng một tầm nhìn, một cách nghĩ trước
những cái lạ mắt. Những cái mới tiến bộ ở nước ngoài đã tác động và ngấm ngầm lay chuyển ý
nghĩ, tình cảm, thái độ trong Cao Bá Quát. Ông nhận thấy những mối nguy cơ đe dọa từ phương
Tây. Ông hưởng ứng những cái tiến bộ, sẵn sàng cởi bỏ những ràng buộc có hại… Ở Cao Bá Quát
có sự phá vỡ cách sống, cách nghĩ của một tri thức Nho gia. Chính lẽ đó, về sau, ông dám đứng lên
đấu tranh, hi sinh vì dân, vì nước.
Cuộc đời không như ý nguyện nhưng Cao Bá Quát vẫn cứ lạc quan trước mọi hoàn cảnh dù
khi thất chí, khi nghèo đói, khi bị tù đày, tra trấn. Bản lĩnh của con người giàu nghị lực, có lý tưởng
sống cao đẹp đâu chịu khuất phục trước mọi hoàn cảnh, lúc nào cũng phấn đấu vươn lên, lúc nào
cũng canh cánh tâm sự lo đời thái bình, người người no ấm. Với Cao Bá Quát, vào đời ví như “thân
ngựa ngàn dặm” vậy. Và tinh thần xem sách như “ngọn đèn muôn năm”. Quả đúng là tâm niệm
đáng ca ngợi của một nhân cách cao quý hết lòng vì mọi người. Tuy nhiên, Cao Bá Quát có lúc bất
mãn sinh ra kiêu ngạo vì chí nguyện không thành nhưng đó chỉ là ngững ý nghĩ thoáng qua. Nguyễn
Tài Thư đã rất tinh tế khi nhìn nhận khía cạnh này.
Đi đôi với một tinh thần giàu nghị lực, lạc quan, một lý tưởng sống có ích là một nhân thanh
cao, một phí phách hào hùng. Cao Bá Quát muốn có danh để thi thố tài năng, cống hiến cho đời
nhưng không vì thế mà ông khom lưng, cúi đầu nịnh nọt. Mến kẻ có tài có đức, Cao Bá Quát ghét
bọn nịnh nọt, luồn cúi, tham lam, hống hách. Sự việc dùng muội đèn chữa bài thí sinh tại trường thi
Thừa Thiên năm 1841, và cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương về sau đã làm rõ nhân cách, bản lĩnh đó.
Cao Bá Quát sống trong cảnh bần hàn ngay từ thuở nhỏ nên ông biết quý trọng những tình
cảm thân thuộc từ phía gia đình, bạn bè, quê hương. Đó cũng chính là cái nôi để nuôi dưỡng ở ông
những tình cảm tốt đẹp sau này đối với những đồng bào cùng khổ, những ai bị áp bức và bất hạnh
trên đời. Quả thật, Cao Bá Quát có những phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu cho con người Việt Nam: vì
dân vì nước, trung dũng, kiên cường giàu nghị lực mà vẫn đậm tình người, tình đồng loại. Con
người ngoài đời và con người trong văn chương Cao Bá Quát luôn nhất quán trong ý nghĩ và hành
động, trước sau như một: Tất cả vì cơm no áo ấm, vì hạnh phúc của nhân dân.
Có thể nói, suốt cuộc đời Cao Bá Quát là một cuộc hành trình không nghỉ, không ngừng, lúc
náo nức phấn khởi tràn đầy hi vọng, khi chán nản ê chề, nhưng kết quả cuối cùng là tìm được đường
đi đúng đắn cho mình để thực hiện khát vọng suốt một đời người. Dẫu kết quả là thất bại nhưng đó
chính là tất yếu của một Cao Bá Quát, của một thời đại nửa đầu thế kỉ XIX. Một con người từng
biết: “Thẹn mình là một nhà nho mà lại tầm thường đến thế” (Độc dạ) đã không đi theo lối mòn của
đại đa số sĩ phu để ẩn dật mà đã vùng lên khởi nghĩa. Cao Bá Quát hi sinh. Cả cuộc đời ông đã hiến
dâng cho lẽ sống của thời đại đang tới.
1. 3. Sự nghiệp sáng tác của Cao Bá Quát:
1.3.1. Quan niệm sáng tác thơ văn của Cao Bá Quát:
Cao Bá Quát là một cây bút lớn của văn học trung đại, một tài danh của đất Bắc “giỏi thơ văn
hay chữ”. Bản lĩnh văn chương của ông không chỉ dừng lại ở số lượng tác phẩm mà còn thể hiện ở
chất lượng tư tưởng bên trong. Cởi mở, phóng khoáng, nhạy bén cùng với một tinh thần chủ động
canh tân của thời đại đã hình thành nên một phong cách độc đáo, có thể nói là “phun châu nhả
ngọc” để lại những tác phẩm bất hủ cho đời, như Trúc Khê từng nói: “Cao Chu Thần là người có
một thiên tài. Điều đó, không ai còn chối cãi nữa rồi. Cái thiên tài ấy đã biểu lộ ra ở phương diện
văn chương, để lại cho văn học giới chúng ta ngày nay một tập thi ca vừa Hán văn, vừa Việt văn;
nhất là Hán văn, ta phải nhìn nhận là một áng văn kiệt xuất”.
Từng xem văn chương là “vật báu lớn” (lời của Cao Bá Quát) vô giá nên trong suốt cuộc
hành trình của đời mình, Cao Bá Quát luôn tìm thấy ở nó những ý nghĩa sự sống thật sự cần cho
mình và cho đời.
Quan niệm về thơ, Cao Bá Quát viết: “Bàn về thơ, tuy có phải trọng về quy cách, nhưng làm
thơ thì phải gốc ở tính tình”. Điều đó có nghĩa là: thơ phải gắn với “tính linh”, thơ là kết quả của
“tâm chí” được đúc thành, tức là thơ phải nói lên cái gì sâu xa nhất của tâm hồn, của chí hướng
người làm thơ trước thời thế, trước vận mệnh của đất nước. Xem “tính tình” là gốc của thơ, Cao Bá
Quát đã đề cập đến một vấn đề cơ bản của sáng tạo nghệ thuật. Đó là sự rung cảm của nghệ sĩ. Nghệ
sĩ có rung cảm thật sự thì tác phẩm mới có hồn, mới có khả năng truyền cảm và mới có tính chất
độc đáo. Trong Thiên cư thuyết, Cao Bá Quát viết: “Đã đành rằng ồn hay tĩnh là tùy từng nơi, khổ
hay vui là tùy từng cảnh, song trông thấy vật mà cảm đến việc, rồi lặng lẽ mà ngậm ngùi cho cái đã
qua, âu cũng bởi chữ tình xui nên như thế!”. Do vậy, đối với Hoa tiên và truyện Kiều, ông có sự
đồng càm sâu xa. Ví như, đọc Hoa tiên, Cao Bá Quát viết: “Xưa nay nỗi khổ của người ta không gì
bằng chữ tình, mà cái khó của đời không gì bằng sự gặp gỡ. Đem cái đó mà giải thích ra, theo loại
mà suy rộng ra, thì cái lí trong thiên hạ cũng đã biết quá nửa rồi. Ta đối với truyện Hoa tiên có một
mối cảm là vì thế”.
Coi trọng chữ “tình” trong văn chương, Cao Bá Quát nhấn mạnh yếu tố “chân” trong sáng
tác. Phải chân thật, phải xúc động thì hãy làm thơ, không nên gượng ép, giả tạo - Văn tất kỷ xuất
(Văn phải từ mình mà ra). Trong bài Vị mính tiểu kệ đồng Phan Sinh tọa đàm, Cao Bá Quát mượn
chuyện chọn bạn tâm giao: “Kén bạn không nên chuộng khí, chuông khí sẽ không thấy đức tính của
người”, chuyện uống chè: “Uống chè không nên ướp hoa, ướp hoa sẽ mất chân vị của chè” để nói
chuyện văn chương. Ông coi trọng cái thực, không muốn để các mùi thơm khác làm mất bản chất
đích thực của chè, không vì “một nắm của hiếm mà bắt mũi mình xem mãi những thứ không thực”.
Từ đó, Cao Bá Quát đi đến một kết luận trở nên nhất quán trong suy nghĩ về văn chương của đời
mình: “Áo lòe loẹt không làm cho dáng người mạnh mẽ/ Âm điệu rờm rà làm mất thể thơ Đại nhã”.
Thơ phải có hình thức đẹp và được sáng tác dưới sự chỉ đạo của một quan niệm đẹp. Nhưng
Cao Bá Quát phản đối chủ nghĩa hình thức trong sáng tác, phản đối lối sáng tác cầu kì, kiểu cách,
chỉ biết chạy theo câu chữ mới lạ và âm điệu khác thường, bởi vì: “Nếu tấm lòng cầu kỳ như Mạnh
Đông Dã/ Sẽ khiến cho ngòi bút của bác chỗ nào cũng hoang mang bất định (Phục dụng tiền vận
họa Di Xuân); “Áo lòe loẹt không làm cho dáng người mạnh mẽ/ Âm điệu rờm rà làm mất thể thơ
Đại nhã” (Vị mính tiểu kệ đồng Phan sinh dạ tọa). Chủ trương của ông là sáng tác phải bình dị, mộc
mạc như Tô Đông Pha và Hoàng Đình Kiên vậy: “Khí phách như Tô, Hoàng bác đừng cười/ Phong
cách bình dị, mộc mạc tưởng cũng không hại gì!” (Phục dụng tiểu vận họa Di Xuân).
Cao Bá Quát phê phán lối văn chương khoa cử, ủy mị, yếu ớt, mô phỏng đề cao tính “sáng
tạo” trong thơ. Trong lời đề bạt cuối tập thơ Rừng chuối, ông viết: “Cái bản chất của cây chuối luôn
luôn làm cho bẹ mới, nõn mới. Có cái mới mà làm cho nó mới lên, đó là nghĩa vậy”. Chu Thần cho
rằng cái học của khoa cử đã xâm nhập vào lĩnh vực văn thơ nên “Tiếng vang của phong nhã hầu
như đã tắt hẳn”. Dẫn một câu của Tô Thức “không học là hơn” cũng như một câu của Khổng Tây
Minh: “Người say thơ của các nhà không biết sáng tạo thì chẳng khác gì ăn món ăn của cổ nhân mà
không tiêu hóa được”. Ông muốn nói rằng đọc thơ văn người trước là cần, nhưng người làm thơ tự
mình phải sáng tạo, phải tìm ra cái mới. Chính do vậy đối với di sản văn học dân tộc, ông luôn tỏ
thái độ kính trọng, biết ơn: “Ôi! Người xưa đã đem tâm chí đúc chuốt thành lời hay ý đẹp, cốt để
chấp lòng nối cánh cho văn chương của ta, mà lại coi thường được sao?” Từ đó, ông phê phán ba
loại người thơ: một là “người kém thì khổ về nỗi nhân tuần, dễ dãi”; hai là “người có hào khí thì
mắc vào bệnh nuốt sống, ăn tươi”; còn những người có sức học gọi là dồi dào, hí hửng tự đắc, thì
chỉ muốn vơ vét trăm nhà, thâu tóm mọi thể, thành ra mô phỏng quá nhiều mà phong cốt chưa cao,
tô điểm có khéo, nhưng tinh thần còn thấp. Ba loại người này làm hỏng thơ.
Cao Bá Quát không chỉ yêu cầu tính sáng tạo của cá nhân mà còn yêu cầu nhà thơ phải là
người sống nhiều, từng trải, phải đọc nhiều, nghĩa là phải bắt nguồn từ thực tế với những cảm xúc
thành thật nhất. Được vậy, nhà thơ mới có cái nhìn mở rộng, không rơi vào tình cảnh: “lải nhải nhai
lại từng câu từng chữ” như “con sâu đo muốn đo cả đất trời” (Đề sát viện Bùi công Yên Đài anh
ngữ khúc hậu), như “nhìn con báo chỉ thấy một vằn” (Nhị thập nhị nhật đắc phong, hí trình chư
hữu). Thến nên, trong thơ, ông hay nói về sự trải đời của bản thân: “Đời ta sống không bở trải đời
mà than thở” (Du Đằng giang dữ hữu nhân đăng Kim chung tự, túy hậu lưu đề, tính tự), “Tuổi tuy
còn ít, song rõ ràng là đường đời đã biết qua bờ bến” (Hí tặng Phan Sinh).
Bàn về cái hay của văn chương, Cao Bá Quát cho rằng cái hay của văn chương là do chủ thể
quyết định. Do vậy, ông không bằng lòng với cách nghĩ bao lâu nay: “Người cùng thơ mới hay”.
Ông nghi vấn: “Ôi! Đúng như vậy chăng! Cũng đâu hết thảy đều hay. Đạt chưa thường là dở”. Ở
đây, Cao Bá Quát không hoàn toàn phủ nhận quan niệm “Thơ cùng rồi sau mới hay”. Trong một bài
thơ làm ở quê nhà sau thời gian xuất dương hiệu lực, Cao Bá Quát từng viết: “Văn chương là đạo
nhỏ, nhưng lại nhờ lúc cùng mà nâng cao” (Đắc Hà Thành cố nhân thư thoại cập gia tình kiêm vấn
cận tác). Ông yêu cầu xem xét tận cùng cho thấu nhẽ, để vừa biết cái hay dễ thấy của cùng, lại vừa
biết cái khó thấy của đạt, nhằm tự định đoạt cho khéo với mong mỏi thuyết phục người đời. Chủ thể
quyết định cái hay của văn chương. Bởi thế, ông viết: “Xem người thì có thể biết thơ. Cúc được họ
Đào để mắt tới nên cúc trở thành ẩn sĩ trong hoa, Sen được họ Chu để mắt tới, nên Sen trở thành
bậc quân tử của Hoa, Chuối đươc họ Hủ để mắt tới nên chuối trở thành rừng của thơ….”. Nói thì
dễ nhưng nhận thức cho sâu, hành động cho thấu lại lại không hề đơn giản. Cao Bá Quát nhắc nhở
người đời một lẽ thường không phải ai cũng rút ra được, lại càng không ai cũng có điều kiện thấm
nhuần rằng: “Nghĩ lại, người ta sống ở trên đời, dài ngắn có hạn, mà tính chất sự việc thì có lâu có
chóng, có đi có lại, cứ nối tiếp không cùng; đem cái có hạn ứng phó với cái không cùng, lòng với
cảnh gặp nhau, tình cảm tự nhiên vấn vít”. Con người dẫu là thiên tài, cũng nhỏ nhoi, là hữu hạn so
với cái lớn lao của đất trời, cái vô tận của vũ trụ. Người khôn ngoan chính là người biết tận dụng cái
mà đời cho anh, bồi đắp cái vốn có của mình, đừng so đo, tính toán hơn thiệt, để làm cho nó lớn lên,
giúp cho nó thành chất thành hình, thế là đã đạt rồi. Người làm văn chương cũng vậy.
Bàn tới cái hữu hạn có thể có của người cầm bút, Cao Bá Quát nói tới ba điều kiện. Một là đi
nhiều, vết chân đã in trên khắp non sông muôn dặm, cũng có nghĩa là trải đời để “Kim cổ sự đa tu
thức định” (Việc kim cổ có nhiều, cần phải nhận định vững chắc). Hai là, đọc nhiều, trong bụng
chứa đầy sách vở, cũng có nghĩa là biết thâu thái, chắt lọc để giúp cho sức nghĩ của bản thân: “Khán
thư song nhãn vạn niên đăng” (Xem sách, đôi mắt như ngọn đèn muôn năm). Ba là, biết sáng tạo
theo đặc trưng của nghệ thuật, lời nói bi tráng, văn viết thì trầm hùng, những cái đó khác nào như
bụi bặm, cám bã mà đem hun đúc thành gạch ngói. Và bốn là rất cần sự cảm thông, chia sẻ của
người sáng tạo. Cao Bá Quát biểu lộ điều này trong bài thơ nổi tiếng lấy tên là từ một câu trong
Kinh Dịch: “Đồng tâm chi ngôn kỳ khứu như lan” (Lời nói đồng tâm thơm tựa hoa lan). Mở đầu bài
thơ Cao Bá Quát viết: “Ngã đắc đồng nhân đạo/ Bằng lai dự hạp trâm” (Ta được đạo của kẻ đồng
nhân/ Bạn đến vui vầy há chẳng khuyên bảo).
Theo Cao Bá Quát, thơ có một chức năng xã hội riêng, có một sứ mệnh riêng. Thực hiện
chức năng và sứ mệnh đó là nhà thơ. Nhà thơ phải có trách nhiệm trước sự phát triển của lịch sử.
Điều đó ngụ ý rằng: Văn chương có ý nghĩa lớn đối với đời. Trước đó, Lê Quý Đôn từng nói: “Văn
chương là việc lớn để sửa đời”. Thánh Quát cũng có cách nghĩ như vậy. Ông viết: “Thi tửu phá
nhàn sầu” (Thơ và rượu đánh tan nỗi buồn vẩn vơ). Tác dụng của văn chương là góp phần nâng con
người dậy, hướng con người về phía trước. Trong bài thơ Đông Pha Xích Bích du ông có viết:
“Ngâm lưu khởi sa châu” (Tiếng ngâm thơ còn lại làm bãi cát nhổm dậy). Ngụ ý thơ hay vượt biên giới, nó làm cho “đá cứng gật gù”1, như “nói pháp củ cải cũng nghe”2. Tác dụng của thơ nói chung
không chỉ đối với ngoại cảnh mà con đối với con người là vậy. Tác dụng kì lạ ấy được Cao Bá Quát
diễn tả qua chính sự trải nghiệm của bản thân khi ông đọc Khúc Yên Đài anh ngữ của ông Đô sát
Bùi Ngọc Quỹ: “Rồi bỗng đang ốm, ngồi nhỏm dậy, đứng phắt lên/ Nhắm hai mắt lại, bịt hai tai lại/
Tinh thần lắng xuống, ý nghĩ sạch lâng, lặng lẽ cho tâm hồn giong ruổi/ Tưởng như chính mình
bước chân đến tận nơi ấy” (Đề sát viện Bùi Công Yên Đài anh ngữ khúc hậu)… Cao Bá Quát đề
1 Truyện cổ Phật giáo Ngoan thạch điểm đầu 2 Câu nói dân gian
cập đến chức năng giáo dục và chức năng thẩm mỹ của thơ ca, nhấn mạnh và đề cao tính tích cực
của chủ thể sáng tạo. Điều đó cho thấy sự gắn bó giữa Cao Bá Quát và thơ văn rất bền chặt, sâu
nặng.
Quan niệm về văn chương của Cao Bá Quát nói chung, về thơ nói riêng có thể nói thật toàn
diện và nhất quán. Nó gần với quan điểm sáng tác những nhà văn, nhà thơ hiện đại sau này.
3.1.2. Tình hình dịch thuật tác phẩm Cao Bá Quát:
Cao Bá Quát là một nhà thơ lớn, có tài. Số lượng tác phẩm để lại đồ sộ. Nhưng sau vụ khởi
nghĩa Mỹ Lương, thơ văn ông bị triều Nguyễn cấm đoán và thủ tiêu. Số lượng tác phẩm thất thoát
nhiều, giờ còn lại chỉ là những bản thảo chép tay. Nhưng đó là di sản đáng quý của một tài thơ trác
tuyệt. Sau khi tập hợp, sưu tầm lại, Thư viện Khoa học Trung Ương còn giữ được 12 tập thơ, 11 bài
văn xuôi viết theo thể ký hoặc luận văn và 10 truyện ngắn viết theo thể truyền kỳ.
Để giới thiệu với bạn đọc và tìm hiểu về con người tài hoa khí phách này, nhóm tác giả Vũ
Khiêu đã tiến hành lựa chọn, loại trừ và tổng kết di sản của Cao Bá Quát gồm 1353 bài thơ và 21
bài văn chữ Hán. Năm 1970, nhóm Vũ Khiêu lại sàng lọc, chọn dịch ra 161 bài, tập hợp trong cuốn
Tuyển dịch thơ ca chữ Hán Cao Bá Quát để giới thiệu với bạn đọc. Tuy số lượng không đầy đủ
nhưng nó cũng góp phần quan trọng trong quá trình nghiên cứu Cao Bá Quát một cách toàn diện
hơn.
Năm 2004 đánh dấu cho bước đường nghiên cứu, thẩm định và dịch thuật tác phẩm Cao Bá
Quát. Cuốn Cao Bá Quát toàn tập được ra đời do Trung tâm Nghiên cứu Quốc học tiến hành nghiên
cứu công phu trong 5 năm, với sự góp sức của đội ngũ các nhà nghiên cứu, nhà dịch thuật hàng đầu
nhiều thế hệ. Công trình khoa học này đã xác định: thơ văn Cao Bá Quát còn lại 1327 bài trong 27
bộ sách tay đã được sưu tầm, đối chiếu, giám định thật giả. Trung tâm Nghiên cứu Quốc học cũng
đã cho xuất bản cuốn Cao Bá Quát toàn tập (tập 1) với 23 tác phẩm chữ Nôm (tồn nghi là 8 bài) và
418 bài thơ chữ Hán có phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ và chú thích.
Năm 2005, Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Ngọc Quận tiếp tục khảo sát, thẩm định tác phẩm
Cao Bá Quát. Theo tác giả luận án, tác phẩm của Cao Bá Quát (phần viết bằng chữ Hán) không chỉ
dừng lại ở 12 quyển theo công bố của Nhóm Vũ Khiêu khi biên soạn Thơ chữ Hán Cao Bá Quát mà
con số lên đến 33 đầu sách. Sau khi khảo sát và thẩm định lại thì số lượng tác phẩm của Cao Bá
Quát được xác định cụ thể như sau: Về chữ Nôm có 1 bài phú, 10 bài hát nói; về chữ Hán có 2 bài
phú, 14 câu đối, 11 truyện ký, 18 bài kinh nghĩa, 4 bài ký, 5 bài tự, 1 bài văn tế, 1 bài thuyết, 2 bài
văn, 1267 bài thơ.
Nhìn chung, tình hình dịch thuật tác phẩm Cao Bá Quát đến nay có thể nói là khá đầy đủ.
Chúng tôi xin mượn lời của Giám đốc tâm Nghiên cứu Quốc học – Giáo sư. Tiến sĩ. Mai Quốc Liên
chốt lại phần này:“Qua toàn bộ văn bản đã sưu tầm, dịch thuật ấy, chúng ta ngày nay có thể ôm
trọn trong tay mình cái di sản vĩ đại của một nhà thơ kỳ tuyệt. Nó làm hiện lên, tuy dường như đã
quen mà bất ngờ, cái tầm vóc sừng sững, ít người sánh kịp, dường như cô đơn giữa rừng tác giả thơ
hàng ngàn năm của chúng ta”.
3.1.3. Nội dung và nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát:
Cao Bá Quát sáng tác bằng chữ Nôm lẫn chữ Hán, với số lượng lớn, thể loại phong phú.
Nhưng đáng lưu ý là ở thể loại thơ, nhất là thơ chữ Hán với số lượng 1267 bài.
Trước đây, qua mảng sáng tác chữ Nôm, nhiều người có cái nhìn lệch lạc về con người Cao
Bá Quát. Những vần thơ Nôm của ông thường hài hước, chua chát, đắng cay. Mảng sáng tác chữ
Hán, nhất là thơ chữ Hán mạnh mẽ và hùng tráng, phản ánh bản chất con người Cao Bá Quát với
khí phách và lương tâm cao cả, nói như Giáo sư. Tiến sĩ. Mai Quốc Liên: “Trong hàng ngàn bài còn
lại ấy, hiện lên chân dung, tính cách một nhà thơ vĩ đại”. Sau đây, chúng tôi xin điểm qua những
nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong sáng tác thơ chữ Hán của Cao Bá Quát.
Về nội dung: Thơ Cao Bá Quát phong phú nội dung cảm hứng. Trước hết, văn thơ của ông là
tiếng nói của một cá nhân trước cuộc đời, trước thời đại. Một cá nhân ý thức về mình, có trách
nhiệm với đời, lòng tràn ngập tư tưởng nhập thế tích cực với khát vọng cống hiến tài năng cho đất
nước. Một cá nhân muốn vươn mình lên trong cuộc sống, lạc quan, kiên trì, giàu nghị lực trong mọi
hoàn cảnh. Cá nhân đó còn là một con người có tinh thần tự do, khí phách. Thơ văn ông còn bộc lộ
tâm hồn phóng khoáng và một trí tuệ sáng suốt tiếp nhận những hương vị, những màu sắc xa lạ với
cái nhìn truyền thống. Không chỉ vậy, trong thơ Cao Bá Quát còn cho thấy tình cảm tha thiết gắn bó
với quê hương xứ sở, với gia đình, bạn bè và những con người cùng khổ; niềm tự hào với quá khứ
lịch sử dân tộc và thái độ phê phán mạnh mẽ triều chính đương thời.
Cao Bá Quát đã tỏ rõ khí phách hiên ngang, tư thế hào hùng vượt hoàn cảnh trong không khí
thơ ca của nhiều người nặng mang màu sắc bi quan, mang nặng tinh thần chán nản và uể oải, do sự
thống trị nặng nề của tư tưởng thần quyền và thế quyền. Ngoài những bài thơ thể hiện tâm sự cá
nhân của mình, Cao Bá Quát viết nhiều bài thơ về thiên nhiên, thể hiện tình yêu, tình cảm gắn bó
với nét trữ tình sâu lắng, mạnh mẽ, hào hùng.
Về nghệ thuật: Một điều dễ thấy ở thơ văn Cao Bá Quát là dù viết bằng chữ Nôm hay chữ Hán,
thể loại nào thì “ý tứ” rất phong phú, rất lãng mạn nhất là thể Hát nói và thơ chữ Hán. Điều này cho
thấy cảm xúc của ông dạt dào, những khuôn khổ hình thức cứng nhắc không thể bó buộc cá tính và
bản lĩnh của ông. Một phần đóng góp không nhỏ cũng là nét đặc sắc trong văn thơ của Cao Bá Quát
chính là ngôn ngữ thơ. Nếu như ngôn ngữ trong thơ Nôm giàu sắc thái dân tộc, phong phú uyển
chuyển, giàu nhạc điệu thì ngôn ngữ trong thơ chữ Hán chắc nịch, mạnh mẽ, linh hoạt, giàu sắc thái
biểu cảm và mang đậm tính cá nhân, bản lĩnh của ông. Giọng điệu trong thơ văn ông, nhất là thơ
chữ Hán cũng có nhiều sắc thái, nhiều cung bậc. Nếu như thơ Nôm giọng điệu mới mẻ, trào tiếu thì
trong thơ chữ Hán sục sôi, hào sảng, trầm lắng, suy tư…. Chất tự sự trong văn thơ Cao Bá Quát
cũng là một điều đáng nói. Nó hòa quyện trong mạch trữ tình sâu lắng, làm bật nên tình và cảnh, số
phận và tâm trạng, hiện thực và mong ước… Thủ pháp nghệ thuật cũng được sử dụng phong phú,
nhất là hình thức liên tưởng với nhiều cấp độ; biện pháp nhân hóa được sử dụng một cách độc đáo,
có hiệu quả nghệ thuật cao.
Nhìn chung, thế giới hiện thực trong thơ Cao Bá Quát, nhất là thơ chữ Hán hiện lên rất sinh
động, đa dạng, nhiều sắc thái, nhiều cung bậc, mới mẻ, khác với những nhà thơ cùng thời. Quyết
định sự thành công này chính là do bản lĩnh cá nhân, sự sáng tạo nghệ thuật miệt mài và tâm hồn
nhạy bén mẫn cảm trước cuộc đời. Thơ chữ Hán Cao Bá Quát đã làm rõ “một tài thơ hiếm thấy” với
vẻ đẹp lương tâm và khí phách sáng ngời.
Chương 2:
HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG THƠ CHỮ HÁN CAO BÁ QUÁT
Quan niệm nghệ thuật về con người là một phạm trù quan trọng của thi pháp học. Nó hướng
ta nhìn về đối tượng chủ yếu của văn học, trung tâm quan niệm thẩm mỹ của nghệ sỹ. Hình tượng
nghệ thuật xuất hiện trong tác phẩm bao giờ cũng mang tính quan niệm của tác giả. Quan niệm nghệ
thuật gắn liền với thế giới quan, với quan niệm chính trị, triết học nhưng nó có sự chuyển hóa từ
quan niệm triết học, chính trị sang quan niệm nghệ thuật. Và quan niệm nghệ thuật này được thể
hiện ở sự lặp đi lặp lại nhiều lần, một cách tiếp cận, cách lí giải đối với con người.
Tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát chính là tìm
hiểu quan niệm của tác giả thông qua hình tượng con người, nhân vật có mặt trong tác phẩm. Vì là
hình tượng con người, nhân vật trong thơ trữ tình nên chúng ta có thể xem xét ở nhiều góc độ: cái
tôi đối với bản thân, cái tôi đối với người khác, cái tôi đối với tự nhiên bên ngoài. Hình tượng nghệ
thuật về con người trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát phong phú và khá phức tạp khó mà tìm hiểu cặn
kẽ. Chất chứa qua lời thơ là những khát vọng, hoài bão lớn lao; những suy tư, trăn trở, dằn vặt;
những tình cảm, những trách nhiệm… của một cá nhân lỗi lạc “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Có thể nói đó là hình tượng con người có tầm cao rộng, thoáng đạt muốn chiếm lĩnh và thống trị thế
giới trước những thực tại với những bất công, đói nghèo, lạc hậu, những ước nguyện không thành
để rồi trăn trở, day dứt và hành động quyết liệt. Có lẽ bao trùm lên tất cả là cái tôi tự ý thức của cá
nhân, sự nhạy bén, mẫn cảm trước cuộc đời, thời cuộc. Sự tự ý thức, mẫn cảm ấy đã chi phối hình
tượng nghệ thuật con người trong tác phẩm. Giải mã hình tượng nghệ thuật phức tạp này chúng ta
cần thâm nhập vào thế giới trữ tình của tác giả.
2.1. Con người trách nhiệm:
Cao Bá Quát luôn sống có trách nhiệm với chính mình, gia đình và xã hội. Bởi vậy, thơ chữ
Hán của ông tràn ngập hình tượng con người trách nhiệm. Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi chỉ
tiến hành khảo sát con người trách nhiệm đối với bản thân và xã hội.
Chu Thần sống có trách nhiệm với chính bản thân mình. Đó là lẽ dĩ nhiên. Bởi con người
không biết quan tâm đến mình, không chăm lo tu bổ công danh tài đức cho bản thân mình thì làm gì
nói đến việc giúp ích cho người, lo cho đời. Trong thơ, Cao Bá Quát luôn có tinh thần tiến thân
công danh bằng con đường văn chương khoa cử; lại luôn rèn luyện bản lĩnh cá nhân, trao dồi đạo
đức lối sống ở đời. Cao Bá Quát sớm mong đỗ đạt làm quan, thực hiện chức trách kẻ sĩ. Ông coi "Chuyện chữ nghĩa là mưu tính của tuổi trẻ" (Mộ ý) và nhận thấy "Vào đời chỉ có con đường khoa
mục" (Nhập Vĩnh Lợi kiều). Sau này vào kinh ứng thí, Cao Bá Quát cũng từng nói "Trốn danh thì
còn ham muốn gì?" (Phó Nam Cung xuất giao môn chư biệt đệ tử). Nhưng văn chương là đất cay
đắng khổ ải, như cô gái đẹp trên nhà quá kiêu hoa (Ngũ nguyệt thập nhị nhật quan huyện thí). Lại
thêm chốn quan trường nhiều đố kị. Do vậy, Cao Bá Quát nhiều lần lận đận. Không cam chịu số
phận, ông luôn vượt qua bao khó khăn, rèn luyện thử thách. Cao Bá Quát đã 7 lần thể hiện thái độ
kiên nhẫn trên con đường công danh. Tinh thần này được thể hiện ở những bài Hoành Sơn vọng hải
ca, Chí nhật đồng Chí Đình tiểu ẩm tẩu bút thứ vận, Tạp hứng, Ký Lê Hy Vĩnh, Vũ hậu tẩu bút ký
viên cư nhị hữu, Phục tặng... Cao Bá Quát quyết tâm có công danh dù đã thất bại “mười năm đi thi
Hội”.
Trượng phu tam thập bất thành danh,
Đạp biến thiên nhai khí vị bình…
Ngâm bãi thất ca cánh hồi thủ
Mang mang thân thế độc du hành (Du Đằng Giang dữ hữu nhân đàng
Kim Chung tự, túy hậu lưu đề, tính tự)
(Trượng phu ba mươi tuổi chẳng nên danh gì!
Dạo khắp ven trời, khí bất bình chưa dịu!..
Ngâm xong bảy bài ca, ngoảnh đầu nhìn lại.
Thấn thế mịt mờ, chỉ đáng trừng mắt trong đời)
Cao Bá Quát tin tưởng ở chính mình. Ông “há chịu mặc cái áo tơ bám bụi” (Trần Ngộ Hiên
nhục hữu sở thị tẩu bút họa chi), tin vào một ngày kia đỗ đạt công danh (Phục tặng). Sau này khi
bước chân vào đời, tinh thần Cao Bá Quát vẫn vậy. Có đến 4 lần ông đọ sức cùng gian nan. Ông
xem khó khăn là chuyện thường tình nên thản nhiên với cảnh ngộ (Mộ phạn bất cấp hí bút ký sự).
Ông thân ốm vẫn cứ ngược xuôi (Đáp Trần Ngộ Hiên), lại muốn đọ sức với đường dài để xem ai
khỏe hơn (Thuyền hồi quá bắc dữ, dư bão bệnh sổ nhật hỹ, dạ bán đăng tường tứ vọng, thê nhiên
độc hữu hương quan chi cảm, nhân giản Trần Ngộ Hiên), rồi cười xòa trước gian nan, hát vang khúc
“Hành lộ nan” (Ẩm tửu đắc chư hữu gia tác tức phục tẩu bút thư nhị). Lúc ở tù, Cao Bá Quát cũng
tỏ rõ trách nhiệm với chính mình. Ông không buông xuôi mà cố vượt lên, tin rằng “Tạo vật nặn ra
mình hẳn là có ý” (Tội định – kỳ nhất), nên thay vì đau buồn đã lăn mình cùng cảnh tù đày “Đem
chí bên trong kìm giữ khí bên ngoà/ Không để cho những sự lo nghĩ nhỏ nhen nó kích thích” (Chinh
nguyệt nhị thập nhất nhật di tống Thừa Thiên ngục tỏa cấm), lại tổ chức mừng “sinh nhật” một năm
tù (Cửu nhật chiêu khách tính tự). Cao Bá Quát thật cứng cỏi, nguy hiểm không sợ, khó khăn không chùng bước, trong hiểm nguy vẫn vươn tới. Quả đúng là “tinh thần thép” như Thương Sơn từng
nhận xét: “Vốn có tính của cây Tùng Bách/ Không trái với tư thế hiên ngang trong buổi trời đông giá lạnh”3. Và sau này, ông cũng có lần ví mình như cây Tùng, cây Bách, với tư thế hiên ngang giữa
3 Bài Đề Cúc đường thi hậu
trời rét mướt (Bài ca cái roi song).
Rõ thật, kẻ sĩ Cao Bá Quát, về khía cạnh công danh sự nghiệp, sống đúng với tinh thần Nho
giáo đầy trách nhiệm. Công danh không phải là ước mơ tầm thường về “mũ cao áo dài” để “vinh
thân phì gia” mà là trách nhiệm, bổn phận của người trai với chính mình, như Nguyễn Công Trứ
từng quan niệm “Phải có danh gì với núi sông” (Chí nam nhi – Nguyễn Công Trứ). Ý thức được
điều này, Cao Bá Quát không hề buông xuôi mà lúc nào cũng phấn đấu vươn lên, sống có trách
nhiệm.
Cao Bá Quát có trách nhiệm với bản thân mình. Bởi vậy, ông luôn hướng đến lẽ sống chính
thiện, thanh cao, trong sạch không chịu cúi luồn, quỳ lụy, không hám lợi; luôn phải tranh đấu với sự
sống thường nhật để bảo vệ lý tưởng sống của bản thân.
Khi bước vào đời, Cao Bá Quát đã kiên quyết nói lên thái độ, quan điểm sống rạch ròi của
bản thân “Đạo không thể bẻ cong được, thà rằng chịu vụng về” (Họa Thận Tư sổ bộ Phương Đình
nguyên tác); “Trải gió chẳng vì thu đông mà biến đổi” (Vịnh tiên phát thảo)… Cao Bá Quát biết
mình nghèo (Tán sầu), nghèo hơn cả Đào Nguyên Lương (Tân ngụ hí bút, thị đồng xá Dương Lục
Lang) lại hay bị những cơn đói hoành hành (Mộ phạn bất cấp hí bút kí sự) nhưng ông không bao
giờ vì miếng ăn mà đánh mất nhân phẩm. Ông giống như Đông Phương Sóc, lòng không sợ đói
(Tân mông hồi bộ, túy trung hữu tác). Ông từ chối sự giúp đỡ của người đời, tự thấy mình chỉ là
“quả bầu treo không” (Mộ phạn bất cấp hí bút kí sự). Ngẫm lại câu nói “Người ta đói đến đâu cũng không thể chết, nhưng no một bữa là đủ chết”4 mới thấy cái lí của Cao Bá Quát khi khước từ miếng
ăn. Vượt qua những thử thách của đời sống thường nhật, Cao Bá Quát càng có ý thức hơn giá trị
làm người của mình trên con đường hoạn lộ. Ông ngẩng cao đầu, ngất ngưởng, bước một cách hiên
ngang, ngay thẳng trên con đường công danh.
Đạp hướng danh đồ bất điệu đầu (Trường giang thiên – kỳ tam)
(Bước lên con đường “danh” đầu vẫn ngay thẳng)
Mang trong lòng tâm chí to lớn, trong sáng, Cao Bá Quát hiên ngang ngay thẳng bước trên con đường công danh với tinh thần đầy “hạo khí”5 (tinh thần chính đại cương trực). Trong khi phần
4 Truyện ngắn Một bữa no của Nam Cao 5 Bài Thứ vận Phương Đình, Hoán Phủ, Thận Tư phân vận ngũ thủ - kỳ tam) 6 Hoạn đồ tối thị tiên tinh thiểu (Bài Ký Nguyễn cố hữu hồi tịch) 7 Câu thơ của Lý Bạch trong bài Tống Hạ Giám qui Tứ Minh ứng chế 8 Do hạnh nhất sinh tâm (Cũng may còn giữ được tấm lòng bản sinh) (Bài Văn Lưu Nguyệt Trì Bắc hành khuyết vi diện biệt phụng ký – kỳ nhị) 9 Tri phi hình dịch giả (Bài Đề Trần Thận Tư học quán, thứ Phương Đình – kỳ ngũ)
đông những kẻ sĩ vì lợi lộc, vì háo danh mà trở nên dung tục, tầm thường. Họ thật sự đã say mềm vì thứ rượu ngon này (Sa hành đoản ca). “Đường làm quan (như giấc mơ) ít ai tỉnh sớm”6, mấy ai đọc câu thơ có mấy chữ “toại sơ y”7. Cao Bá Quát trong số ít những người tỉnh táo giữ được “nhất sinh tâm”8 trước danh lợi, không để “hình hài sai khiến lòng dạ của mình”9. Thậm chí, khinh thường cái
“giàm danh” – danh lợi tầm thường, xem nó chẳng khác nào như trận mưa buổi sáng sớm tan biến
vào hư không (Đêm xuân đọc sách). Cao Bát Quát có lúc tự nghĩ: “Đời thịnh đang chuộng văn chương”10, “Đời thịnh đâu có bỏ phí tài năng?11”, cớ sao mình lại long đong lận đận? Hay mình “vì lơ đãng, vụng về, tự rước lấy lỗi”12. Chắc có lẽ Cao Bá Quát vụng về, lơ đãng vì không thích làm
theo “ý trời”, không biết vào luồn ra cúi. Và nếu vậy, Cao Bá Quát quả là con người thanh cao, trong sáng như “con hạc nội khó thuần dưỡng”13. Trong thơ, Cao Bá Quát 4 lần ví mình như “chén thủy tinh rạng rỡ”14, như “cây lan thơm”15 như “chim hạc”16, trong hoàn cảnh tù ngục mà đêm đêm
lấp lánh như thanh gươm qúy chôn vùi ở Phong Thành (Cấm sở cảm thụ, túng bút ngẫu thư). Ý thức
về nhân cách, Cao Bá Quát luôn khinh bỉ bọn vô tài, bọn vào luồn ra cúi, hứa với lòng không thể
sống như con nhà họ Mạnh dâng rượu nho để cầu quan (Bài Ngụ sở cảm sự mạn bút thư hoài),
không như Ung Xỉ hạ mình để được phong hầu (Đông vũ ngâm), càng không bao giờ thèm lấy cái
vinh của người đời bạc bẽo trên con đường tiến thân (Đề Trần Thận Tư học quán, thứ Phương Đình
Vận - thập thất thủ). Cao Bá Quát đã 8 lần gọi bọn quan lại xu phụ, luồn cúi, mưu lợi cầu danh với những cái tên miệt thị, khinh khi, nào là “mặt trời u ám”17, “đám mây đen” 18, “bọn gà vịt”19 chỉ biết mưu thóc gạo quanh quẩn kiếm ăn, là “đàn quạ xúm đậu nơi vườn tốt tươi”20, là “chim sáo đem thân nhốt trong lồng son, cứ thui thủi trong đám phong trần”21, cay độc hơn nữa chúng là những “con rận ăn bám chuyên hút máu người dân vô tội”22. Cao Bá Quát khinh ghét và cự tuyệt không thể
dung hòa cùng bọn chúng. Từ ý nghĩ đến lời nói, từ cử chỉ đến hành động, Cao Bá Quát luôn tỏ ra
đường hoàng thư thái. Hành động “cúi đầu”, “chui đầu”, “cúi ngửa” theo chúng không thể nào chấp
nhận được. Cao Bá Quát có đến 4 lần tỏ rõ phẩm chất và khí phách của mình.
Đê đầu ải ốc khí bất xương (Tống Nguyễn Trúc Khê xuất lỵ Thường
Tín kiêm trí Lê Hy Vĩnh lão khế)
(Cúi đầu, luồn mái nhà thấp, nhục cả khí phách)
Đê đầu cửu yếm đạo lương mưu (Di Xuân dĩ tu trúc sinh hoa thi kiến
thị, tức tịch tẩu bút cơ dĩ đáp chi)
(Cúi đầu, đã chán ghét từ lâu cái thói mưu thóc gạo)
10 Minh thời phương hiếu văn (Bài Tân mông hồi bộ) 11 Kinh phong hốt hà tòng (Bài Đắc gia thư, thị nhật tác) 12 Sơ chuyết tự chiêu đắc (Bài Đắc gia thư, thị nhật tác) 13 Bài Ký Lê Hy Vĩnh – kỳ nhị. 14 Hoàng hoàng thủy tinh trản/ Chiếu kiến thốn tâm minh (Bài Đề Trần Thận Tư học quán, thứ Phương Đình vận) 15 Cô lan ám kỳ hinh (Bài Độc thi) 16 Cố ưng cô hạc đồng thê địa (Bài Đoàn Tính lâm hanh bả tửu vi biệt, tẩu bút chi hữu) 17 Bài Đằng tiên ca. 18 Bài Trung dạ thập tứ vận. 19 Bài Đoàn Tính lâm hành bả tửu vi biệt, tẩu bút chi; bài Di Xuân dĩ tu trúc sinh hoa thi kiến thị, tức tịch tẩu bút ca dĩ đáp chi. 20 Bài Bệnh trung 21 Bài Vịnh chim sáo 22 Bài Đề Trần Thận Tư học quán, thứ vận Phương Đình vận
An năng đê đầu ải ốc, phủ ngưỡng tùy tha nhân? (Đông vũ ngâm)
(Có lẽ đâu chui đầu vào mái nhà thấp, cúi ngửa theo ý người khác!)
Trượng phu lập thế thủ ý khí,
Ải ốc đê nhan ngô sở sĩ (Tống Lê Dũng Hòa bị mệnh về kinh)
(Kẻ trượng phu ở đời cốt giữ lấy ý khí,
Ra vào lòn cúi là điều bọn ta lấy làm xấu hổ)
Cao Bá Quát không thể cúi ngửa, lòn cúi theo người. Ông chính là kẻ trượng phu cốt giữ “ý
khí” làm trọng. Cách sống đó khác gì cách sống của Nguyễn Công Trứ tự do, “ngất ngưởng” trước
đó. Sau này, Cao Bá Quát nhiều lần bị thi rớt, bị quan trên đè nén là vậy. Ông chẳng khác nào như “Ngọc bích trắng xưa nay thường bị sứt mẻ/ Gái mài ngài dễ bị chê bai”23. Con người ấy mâu
thuẫn với đại bộ phận giai cấp phong kiến, những kẻ bóc lột bề trên nhưng lại thân thiện với đồng
bào cùng khổ và những thân phận bị áp bức.
Rõ thật, cách sống của Cao Bá Quát là cách sống của bậc đại nho, cốt cách của Cao Bá Quát
là cốt cách của bậc quân tử. Ông luôn sống có trách nhiệm với chính mình. Theo thời gian, tinh thần
trách nhiệm ấy cùng với tấm lòng nhân hậu đã sản sinh những tình cảm, trách nhiệm lớn với xã hội,
đất nước.
Cao Bá Quát vào đời đúng với tinh thần của một nhà Nho truyền thống, mẫu mực. Niềm
mong mỏi có công danh không chỉ để vinh hiển bản thân, gia đình mà cốt yếu thực hiện hoài bão
giúp vua trị vì, giúp dân lạc nghiệp. Một vị trí cần có trong xã hội phong kiến khoa bảng là bức
thiết. Điều đó lí giải vì sao Cao Bá Quát vất vả lắm mới thi đỗ Cử nhân lại tiếp tục dự thi Tiến sĩ
nhiều lần thất bại vẫn không nản chí.
Từng quan niệm kẻ làm trai cái chí lớn phải ở muôn dặm (Thanh Trì phiếm chu Nam hạ), lẫn
trách nhiệm với đời phải làm được việc phơi gan bẻ gãy chấn song, giữ vững cương thường, truyền
hịch định bốn phương (Tống Nguyễn Trúc Khê xuất lị Thường Tín kiêm trí Lê Hy Vĩnh lão khế) nên
Cao Bá Quát vào đời với tinh thần trách nhiệm cao. Ông khao khát góp sức mình cho xã hội. Ông
dốc lòng mưu sự vì đạo (Tống Sơn Tây học chính Nguyễn Đài chi lỵ), gây dựng lễ trong nhân dân
(Tu lễ dĩ canh) với mong muốn mọi người sống tốt, sống có ích cho xã hội. Cao Bá Quát còn muốn
trồng một rừng mai để tạo một quang cảnh đẹp mắt cho mọi người ngắm xem (Tài mai), muốn cứu
rỗi nhân tài cho quốc gia để sớm đưa nước nhà trên con đường vương đạo (Tuân vương chi lộ) nên
“chữa bài thi” cho những thí sinh có tài. Những ý nghĩ và việc làm đó cho thấy ông có ý thức trách
nhiệm đối với xã hội. Cao Bá Quát từng nghĩ rằng: “Khi thuận đường hãy noi gương các bậc hào tuấn”24. Bởi vậy, ông đã 14 lần ca ngợi những con người vì nghĩa, những vị công thần vì dân vì
nước, những bạn bè có cách sống cao cả như Đỗ Trọng Liên (Lỗ Trọng Liên nghĩa bất đế Tần), Chu
Vân (Tân mông hồi bộ, túy trung hữu tác ), như Văn Cử, Tử Chiêm (Mông đắc hồi bổ Hàn lâm, lâm 23 Bạch bích tòng đa khuyết/ Nga mi động kiến vưu (Bài Thuật hoài) 24 Bài Đắc bổ Hàn lâm sung biên tập vận học hỉ nhi thành phú
hành chư đệ tử tương tiễn, nhân thứ tiền vận vi biệt), Vũ Hầu – Gia Cát Lượng (Vũ Hầu xuất sư
biểu), Quí Trát (Bài hành thượng lưu điền), Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Hưng Đạo Vương (Vịnh
Hưng Đạo vương, Vịnh Chu Văn An, Tống Nguyễn Trúc Khê xuất lị Thường Tín kiêm trí Lê Hy
Vĩnh lão khế), người bạn họ Phạm hào kiệt (Phạm công tái nhục kiến quỹ tức tiền đề tẩu bút phụng
đáp)... Cao Bá Quát ca ngợi cuộc đời hoạt động sôi nổi của họ, sự cống hiến cho dân cho nước chứ
không chỉ tìm nơi chốn an nhàn mà hưởng thụ.
Là một kẻ sĩ, Cao Bá Quát luôn nhắc nhở mình ba điều trâm qui nơi chốn quan trường:
thanh, thận, cần (Tống Nguyễn Trúc Khê xuất lị Thường Tín kiêm trí Lê Hy Vĩnh lão khế), “Làm quan hãy nghĩ đến sự thanh bạch nơi công đường”25, học theo gương người xưa hết lòng ghé vai
gánh vác trách nhiệm của kẻ sĩ, trước công đường tự biểu lộ lòng chí thành (Chiết hạm tinh trực
thần), hết sức tha thiết vì dân cho dân, mỗi khi dân có việc lấy cái đạo lý ở đời làm cốt (Vĩnh Tường
thành đồng Trần Cung Trọng dạ túc)... Từ việc ý thức về mình, thấy rõ trách nhiệm với đời, Cao Bá
Quát đã rút ra cho bản thân mình nhiều bài học sống bổ ích. Không chỉ vậy, ông còn khuyên con người ta: “Sống với nhau không nên giữ cái tình theo thói tục”26 mà phải thật lòng đối xử với nhau
bằng cái tình, lại khuyên người đời cũng như chính mình hằng ngày khi dỗ giấc phải thật lòng tự xét mình “chân tỉnh sự”27 (thật lòng xét việc) để sống tốt, sống có ích hơn, không nên sống như người anh trong bài hành “Thượng lưu điền”28.
Cao Bá Quát lo cho đời có cuộc sống yên vui, thanh bình như mong mỏi nước sông Hà trong.
Trách nhiệm ấy cứ vương vấn mãi như một nỗi ám ảnh day dứt kẻ sĩ.
Tấc lòng lo đời trọc loạn,
Con mắt già chỉ mong sông Hà nước trong (Đêm trăng ở nông thôn)
Phía tây bắc tiếng xe như sấm kêu suốt đêm
Mùa xuân này không thấy nước Nhị hà trong (Cảm tác khi nghe tiếng
đập lúa)
Cao Bá Quát muốn gánh vác trách nhiệm ở đời, muốn lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ (Lại
gửi cho Phương Đình). Tấm lòng “tiên ưu hậu lạc” ấy day dứt mãi bên ngọn đèn lẻ loi trong suốt mười năm (Độc dạ thư hoài). Bởi vậy, Cao Bá Quát luôn “Ước ao không phụ tấm lòng xưa”29.
Nhưng dù “thành tâm” cống hiến cho đời, ông vẫn không có cơ may thực hiện chí nguyện của mình.
25 Bài Đắc bổ Hàn lâm sung biên tập vận học hỉ nhi thành phú 26 Sinh nhân vô dĩ tục tình lưu (Bài Lưu vận họa Hoán Phủ) 27 Nhất sàng chân tỉnh sự (Bài Ký Lê Hy Vĩnh –kỳ nhất) 28 Bài hành này nói: cha mẹ mất sớm mà anh không nuôi em mồ côi để bây giờ như sao hôm, sao mai; mỗi người một phương trời; thua cả “cây giao nhượng” (cây nhường nhau) ở núi Kim sơn bên đông bên tây lần lượt thay nhau tươi, héo... 29 Tố tâm kỳ bất phụ Bài Tương đáo cố hương 30 Bài Độc dạ
Con người trong thơ trăn trở về trách nhiệm của kẻ sĩ - nhà nho không gặp thời “Không có một sách lược gì làm cho đời thái bình/ Thẹn cho mình là nhà nho mà tầm thường thế”30. Bởi vậy, Cao Bá
Quát nghĩ bấy lâu nay “Gom góp tri thức chỉ uổng phí” 31. Một chức quan Hành tẩu bộ lễ lại càng
thêm mỉa mai. Chu Thần có lúc lại cho rằng mình không đủ tài để đền đáp công ơn đức Thánh minh
(Đắc bổ Hàn lâm sung biên tập vận học hỉ nhi thành phú); chẳng tài năng gì nhìn sách vở mà thẹn
(Tân mông hồi bộ, túy trung hữu tác) nên đâm lo buồn, tự trách mình. Ông thấy mình như vô vị,
chẳng làm gì cho dân cho nước. Cao Bá Quát đã 4 lần nói lên tâm sự này qua các bài thơ Tặng Trà
Lũ cử nhân, Thập nguyệt thập nhất nhật thừa lễ Bộ nghiêm tấn hậu cưỡng bệnh mạn chí – Kỳ nhị,
Thập nguyệt thập nhất nhật thừa lễ Bộ nghiêm tấn hậu cưỡng bệnh mạn chí – kỳ tứ, Độc dạ…
Cao Bá Quát sống có trách nhiệm cao nên ông thấy thẹn với lương tâm mình, sinh bệnh,
thậm chí tâm trạng điên cuồng. Ông đã 3 lần tự thẹn, 1 lần bệnh, 2 lần điên cuồng. Cao Bá Quát
thẹn khi nhìn sách vở (Tân mông hồi bộ, túy trung hữu tác), khi nhìn trăng vàng (Trung thu kiến
nguyệt), vì mình là một nhà nho mà tầm thường (Độc dạ). Ông sinh bệnh vì dân vì nước như Duy
Ma Cật vì chúng sinh (Bệnh Trung). Không những bệnh, Chu Thần còn điên người vì lực bất tòng
tâm (Tống Nguyễn Trúc Khê xuất lỵ Thường Tín kiêm trí Lê Hy Vĩnh lão khế; Vãn Lưu Nguyệt Trì
bắc hành, khuyết vi diện biệt phụng ký). Ông giống như Khuất Nguyên với ý nghĩ “Cuộc đời đục
cả, một mình ta trong, người đời say cả, một mình ta tỉnh”. Cái điên của Cao Bá Quát là cái điên
cùa con người sống có trách nhiệm như Khuất Nguyên, Tiếp Dữ, Tôn Tẫn. Thế nên, ông cứ phải
xoay xở lo toan hết suy tính lại hành động (Độc dạ).
Càng có ý thức trách nhiệm, Cao Bá Quát càng đau đớn hơn khi tận mắt chứng kiến những
nỗi khổ của nhân dân mình: một người ăn xin tính mạng đang bị đe dọa (Cái tử); một người đói áo
rách, nón rách, dáng vẻ liêu xiêu (Đạo phùng ngã phu); một người vác hòm bất hạnh, luôn gặp tai
vạ, đang đứng ở bờ vực bần cùng (Phụ tương tử); người tát nước trên đồng bụng đói, môi run, thân
mang chiếc áo tơi ngắn, trong sương mù đang kéo đôi gàu thoăn thoắt (Hiểu lũng quân phụ); cô gái
cầm áo mua tấm cám đi về trong cảnh trời rét (Mộ kiều quy nữ), cảnh người bồng bế nhau để được
phát chẩn (Quan chẩn); cảnh người người lưu vong, trẻ già trốn lính, đói khổ kiệt sức (Phúc Lâm
lão); rồi những nạn rét, nạn lụt cứ phát sinh liên tiếp (Độc dạ). Cao Bá Quát lắm lúc tự hỏi: Không
biết bọn vua quan có biết tình cảnh này không? Hay họ giống như thằng bé chăn con bọ ngựa, lấy
dây tơ buộc chằng chịt lên mình con bọ ngựa làm nó chết trên cành cây. Trách nhiệm của vua quan
đáng lẽ phải thông cảm với nhân dân, phải hiểu được nỗi vui buồn của từng người, phải “thuận dân
tâm” (Chính tại thuận dân tâm). Nhưng thực tế trái ngược, Chu Thần than thở: “Than ôi! Những
người có trách nhiệm chăn dân của chúng ta! Phải cẩn thận, xét đến vẻ lông mày của mọi người”
(Đồng Tử mục đường lang). Đông Phương Sóc từng nói: “Thương sinh buồn vui, nhìn vẻ lông mày
có thể xét biết được”. Kẻ chăn dân phải làm cho dân no đủ, không để cho nét buồn hiện trên lông
31 Bài Đoan ngọ
mày.
Bức tranh số phận của những con người lao khổ tội nghiệp ấy cùng với thực trạng đói nghèo,
thiên tai, dịch họa, áp bức… càng nung nấu trách nhiệm kẻ sĩ ở Cao Bá Quát. Cao Bá Quát muốn
vung lưỡi kiếm giữa trời xanh (Hiểu quá Hương giang), muốn làm một “cơn mưa bạo lực” (Đối vũ
– kỳ nhị) cứu đời, muốn tẩy rửa những tai họa và những tập tục hủ lậu đang còn tồn tại. Cao Bá
Quát đã 2 lần ước ao điều này.
Thí chiêu bách hộc Tô Giang thủy,
Biến dữ nhân gian tẩy tục trường (Du mỗ cố trạch dạ thính đàn tranh)
(Ta thử múc trăm thùng nước ở sông Tô Lịch,
Đem rửa lòng tập tục cho khắp thế gian)
Ước gì việc đời cũng như việc hoa
Qua một phen mưa gió non sông đều đổi mới (Tình cảm mới nhân ngày lập xuân) Triều Nguyễn đã không có “kỷ cương văn hóa”32, Cao Bá Quát tất hành động. Kẻ sĩ Cao Bá
Quát đã thấy trách nhiệm của bản thân trước thực tại đen tối, trì trệ của xã hội. Thế nên, thấy cảnh
dân đối nghèo, ông trách mình không được như tướng Quản Trọng để giúp vua (Quá Quảng Trị);
thấy mùa màng chín rộ đến nơi mà mưa mãi không ngớt, ông bồn chồn suốt đêm không chớp mắt
(Trung dạ thập tứ vận); thấy mưa nhỏ, muôn vật phởn phơ, nghĩ đến đời sống con người, ông chỉ lo
không đủ nước (Vi vũ). Cao Bá Quát vui với cái vui của dân. Thấy mưa đúng lúc, ếch nhái, chuồn
chuồn nhảy nhót, bay lượn, ông cùng sung sướng với người làm ruộng (Đắc vũ tác). Ngày tết, trời
chuyển sang xuân, ông mong trừ bỏ được những tập tục ở nơi thôn dã (Nguyên nhật)...
Nhìn chung, tinh thần trách nhiệm của kẻ sĩ ở Cao xuất phát từ tình cảm yêu thương nhân
dân. Điều này khác với nhà Nho tài tử Nguyễn Công Trứ. Nguyễn Công Trứ cũng là một kẻ sĩ, từng
quan niệm về trách nhiệm bổn phận làm trai: “Vũ trụ chức phận nội/ Đấng trượng phu một đấng kinh luân”33 nhưng trách nhiệm ở Nguyễn Công Trứ xuất phát từ tinh thần nho học chính thống,
trung với vua, báo đền ơn vua mà phải giúp dân an cư lạc nghiệp: “Thượng vị đức, hạ vị dân/ Sắp hai chữ “quân, thân” mà gánh vác”34.
Bước ngoặt đánh dấu sự tự nhận thức lại ở Cao Bá Quát khi ông tiếp xúc những cái tiến bộ
của nước ngoài. Một sự nhìn lại chính mình: “Có cuộc hoạn du, mới biết cá lớn nghìn dặm/ Kiến thức hẹp hòi, khác nào như nhìn con báo chỉ thấy một vằn”35. Để từ đó, ông thấy trách nhiệm của
chính bản thân mình đối với nền học thuật nước nhà, đối với nguy cơ bị đe dọa của dân tộc: “Từ khi
32 Tích vô văn kỷ thùy mai luân (Bài Túc Thạch hà) 33 Bài Phận làm trai 34 Bài Chí làm trai 35 Bài Nhị thập nhị nhật đắc phong, hý trình đồng châu 36 Bài Đề sát viện Bùi Công Yên đài, anh ngữ khúc hậu
vượt bể Ba Sơn/ Mới cảm thấy vũ trụ bao la làm sao/ Chuyện văn chương trước đây chỉ giống như trò chơi của trẻ con”36. Cao Bá Quát nhìn thấy học thuật nước nhà suy đốn. Văn chương chỉ là trò
“nhá chữ”, vô giá trị nên băn khoăn trước tình trạng tồi tệ của văn chương đương thời. Ý thức của
một nhà thơ khiến ông lo lắng và thấy rõ trách nhiệm của mình: “Rời nhà đi hải ngoại, mối tình của người khách cứ vương vấn hoài/ Sớm tin rằng văn chương không đáng giá một đồng tiền”37. Cao
Bá Quát càng buồn hơn khi thấy những thế hệ sau mình vẫn còn cứ lao vào đấy. Ông không muốn
để văn chương mai một đi, càng không muốn nó kìm hãm sự phát triển đất nước. Con người có tâm
huyết văn chương lại thất vọng vì thấy nó bị rẻ rúng, bạc bẽo: “Văn không được đánh giá đúng, vì nghèo lại rẻ thêm”38. Tâm sự với bạn thân là Phương Đình, tiếng nói thân thiết của ông bỗng trở
nên chua chát: “Cái giá văn chương bạn đã biết chưa/ Chúng ta hối rằng trót đem hư danh nhỏ mọn mà đi theo trò đời”39. Không những thế, văn chương không đem lại ích lợi thiết thực gì cho đời: “Mười năm cầm bút phí cả thời giờ”40. Ông ân hận một đời phụ cả năm xe sách... Cao Bá Quát lo
lắng cho vận mệnh của dân tộc của các nước phương Đông trước sự bành trướng của chủ nghĩa tư
bản phương Tây và trước sự lạc hậu cổ hủ đưa đến tình trạng suy yếu của triều đình phong kiến
phương Đông: “Ta cũng là nhân vật cũ ở Trung Nguyên/ Trước ngọn gió tây, ngoảnh đầu lại, lệ tuôn lã chã”41. Và ông căm phẫn trước sự ngu tối, bọn người không biết gì về thời thế mới, chỉ khư
khư ôm lấy cái cũ, như người diễn tuồng và người xem tuồng: “Ra đời lẽ nào không có những bộ
mặt thực/ Mà vào rạp hát để cười đùa với những bộ mũ áo xưa! Việc ở Hổ Môn gần đây, anh có biết không?/ Đáng phàn nàn cho ai đó cứ nghếch mũi ngồi xem!”42...
Có thể nói, kẻ sĩ Cao Bá Quát vào đời với tinh thần trách nhiệm cao không chỉ đối bản thân
mình mà với gia đình quê hương đất nước. Chính lẽ đó mà về sau, từ con người trách nhiệm trong
thơ đã hiên ngang bước ra đời hành động - khởi nghĩa - chống lại triều Nguyễn. Lá cờ “Bình
Dương, Bồ Bản vô Nghiêu Thuấn/ Mục Dã, Minh Điều hữu Vũ Thang” mang nặng lòng thương dân,
yêu nước trên đôi vai trách nhiệm kẻ sĩ Cao Bá Quát.
2.2. Con người khí phách:
Cao Bá Quát không những sống có trách nhiệm mà ông còn luôn tỏ rõ khí phách, bản lĩnh
của mình trước cuộc đời, trước một triều Nguyễn độc đoán, chuyên chế và bảo thủ, lạc hậu. Con
người khí phách Cao Bá Quát thể hiện ở những vẻ đẹp trong chính bản thân ông. Đó là vẻ đẹp của
tinh thần tự do, của hành động dám nghĩ, dám làm.
Chất khí phách chính là sức mạnh tinh thần. Và sức mạnh này được thể hiện thông qua hành
37 Bài Thuật hoài 38 Bài Tiểu ẩm hí bút 39 Bài Ẩm trung giản Phương Đình 40 Bài Phục giản Phương Đình 41 Bài Dữ Hoàng Liên Phương ngữ cảnh cập hải ngoại sự, triếp hữu cảm, tẩu bút dữ chi 42 Bài Dạ quan Thanh nhân diễn kịch trường
động. Chu Thần hành động trên một tinh thần tự do đầy bản lĩnh nên trong thơ ông hình tượng con
người tự do cứ xuyên suốt theo hành trình đi tìm lẽ sống ở đời, vẻ đẹp trong thơ. Cao Bá Quát có
tính phóng khoáng ngay từ lúc còn trẻ. Con người trong thơ đã 2 lần khẳng định:
Thiếu niên tâm tích tảo thanh cuồng (Bài Cấm sở cảm sự, túng bút
ngẫu thư)
(Từ thưở trẻ tính nết đã phóng khoáng rồi).
Bình sinh tính tích tự đam ngâm,
Du biến thiên nha mỗi bất câm (Độc dạ khiển hoài)
(Suốt đời tính chỉ thích ngâm nga,
Dạo khắp chân trời, tính ấy vẫn không bỏ)
Tính cách ấy về sau càng bộc lộ rõ hơn và hình thành nên một cách sống. Dù bất cứ ở hoàn
cảnh nào, Cao Bá Quát vẫn cứ tự do, tự tại giữa khoảng không mênh mông của vũ trụ. Và đây là
những khoảnh khắc đáng nhớ người thơ đã ghi lại.
Biều lạp Tây lai đệ kỷ châu? (Tiểu ẩm hý bút)
(Đeo bầu xách nón đi sang phương Tây, không biết là cõi thứ mấy?)
Hạo hạo càn khôn nhất bố y (Nhật mộ)
(Giữa khoảng trời đất bao la, một chàng áo vải)
Cao Bá Quát luôn vượt lên mọi hoàn cảnh, tự do khi uống rượu làm thơ, khi bản thân một
mình cô quạnh giữa trời đất. Không chỉ thế, Cao Bá Quát còn tự do ngay khi bản thân mất cả tự do. Đó là những tháng năm họ Cao bị cầm tù vì “vụ trường thi”43, bị phát phối chuộc tội trong và ngoài
nước. Dù vậy, ông vẫn tìm cho mình một thế đứng, một nguồn hứng tự do mới.
Dư sinh nhất dã mã
Phiêu chuyển tùy thiên phong (Chinh nguyệt nhị thập nhất nhật di
tống Thừa Thiên ngục tỏa cấm).
(Đời ta như một luồng hơi di chuyển tùy theo gió trời.
Đi lại không nhất định nơi nào, chỉ ở trong vòng trời đất)
Thiên địa nhất thi tù (Độc dạ cảm hoài)
(Giữa trời đất, nhốt một anh tù làm thơ)
Như một luồng hơi di chuyển theo gió trời, là một anh tù làm thơ, tinh thần tự do ở Cao Bá
Quát khác nào tinh thần “tại ngục ngoại” của người tù Nguyễn Ái Quốc sau này. Nhưng ở Cao Bá
Quát tinh thần tự do còn được tiếp sức bởi cảm hứng lãng mạn, bay bổng nên nó khoáng đạt hơn, nó
tự do hơn. Ba lần nói về chí hướng của mình, Cao Bá Quát đều có cách nghĩ như vậy. Ông thấy nó
tự do như những con sóng ở muôn dặm (Thanh Trì phiếm chu Nam hạ), nó ở nơi “hư không xa tắp”
(Tương đáo cố hương), tự do như “chim hồng, chim hộc bay tít tận mây xanh” (Đông Tác tuần phụ 43 Tháng 8 năm 1941, Cao Bá Quát được sung làm Sơ khảo trường thi Thừa Thiên, cùng Phan Nhạ chữa văn của sĩ nhân. Việc bại lộ, cả hai bị bắt.
tịch thượng ẩm). Tinh thần tự do ở Cao Bá Quát không bị bó buộc bởi hoàn cảnh, điều kiện và giới
hạn nào cả. Đó không chỉ là cách sống mà nó còn là bản lĩnh, hồn cốt của Chu Thần. Bản lĩnh của
cá nhân ý thức trước cuộc đời, bản lĩnh của cá nhân ý thức về mình, trước sau không hề thay đổi.
Cao Bá Quát sống phóng khoáng, tự do nên luôn có những khát vọng và ước muốn khác
thường. Có trên 34 lần trong 418 bài thơ, Cao Bá Quát thể hiện khát vọng, mong ước. Cao Bá Quát muốn “trèo lên đỉnh núi cao ngất”44, “chắp thêm đôi cánh để bay lên tận mây tía”45, “vin mây”46, “cưỡi gió”47, muốn “trải lòng mình với dòng nước chảy về đông”48, ao ước có tài vẽ như Tôn Vị để “vẽ tranh tự họa của mình trên đầu ngọn song”49, hay khát khao “đem những câu thơ kinh người của Tiểu Tạ mà đề khắp các núi ở chân trời kia”50. Đôi khi buồn, Cao Bá Quát còn muốn “lấy cả vũ trụ để làm khuây mối sầu lữ thứ”51, lúc vui lại muốn “dùng vạt áo thu vào muôn vạn gió xuân”52, hào hứng muốn “vác sáo lên chợ trời, hỏi vùng trời còn xa mấy nữa?”53 rồi “tùy ý mà ngắm nghía, chỉ trỏ mây núi bốn phía”54… Quả thật chỉ có Cao Bá Quát mới có những khát vọng như thế!.
Những khát vọng này được chảy ra từ một nguồn sống rạo rực yêu đời, lạc quan khí phách.
Tinh thần tự do, khát vọng tự do đó đã làm cho Cao Bá Quát thật sự lớn hơn cả vũ trụ. Hoành
Sơn, Bàn Thạch, Động Tiên Lữ, Sài Sơn… non nước này sao mà nhỏ thế! Không đầy một vốc tay,
chỉ bằng nắm tay, chỉ nhìn trong khóe mắt. Cao Bá Quát đã 3 lần tỏ rõ khí phách.
Triêu đăng Hoành Sơn lập,
Mộ há Bàn kính dục.
Huề thủ lưỡng phiến thạch,
Giang sơn bất doanh cúc. (Dục Bàn Thạch kính)
(Sớm đứng trên núi Hoành Sơn,
Chiều xuống tắm khe Bàn Thạch.
Nhặt lấy mỗi nơi một viên đá,
Cả non sông không đầy một vốc tay)
Thiên công diệc hà sự,
Vị trí Thái Nguyên san.
Chỉ thử nhất quyền tiểu,
44 Ngã dục đăng cao sầm (Bài Quá Dục Thúy sơn) 45 Ngã dục sáp song sí/ Phi lộ lăng tử yên (Bài Lục nguyệt thập ngũ dạ nguyệt hạ tác phụng ký chư cố nhân) 46 Nguyện ngôn túng cao phan (Bài Du vân) 47 Nhất tiếu thừa phong ổn sấn hưu (Bài Trường giang thiên – kỳ tam) 48 Phi tả hướng đông lưu (Bài Thập lục nhật Yết Đinh Lữ thuận, Thứ Trần Ngộ Hiên) 49 Thùy hướng Tôn gia truyền diệu bút/ Đào đầu thiêm tá lãng ngâm nhân (Bài Trần Ngộ Hiên nhục hữu sở thị tẩu bút họa chi) 50 Thùy tương Tiểu Tạ kinh nhân cú/ Đề biến thiên nhai xứ xứ san (Bài Nhị thập nhị nhật Đắc phong, hý trình đồng châu) 51 Dục tá đại quan tiêu lữ muộn (Bài Ký Nguyễn cố hữu hồi tịch) 52 Hiệt thủ trường xuân vạn lý phong (Bài Xuân nhật tuyệt cú thập thủ - kỳ thập) 53 Chỉ ưng huề địch lai thiên thi/ Tiếu vấn chư thiên cách kỷ trùng (Bài Vãn du Sài Sơn hậu đăng sơn đầu đề bích thủ - kỳ tứ) 54 Tứ diện vân sơn nhàn chỉ cố (Bài Vãn du Sài Sơn hậu đăng sơn đầu đề bích thủ - kỳ nhị)
Thần tạc quỉ phục ngoan. (Du tiên Lữ động nhân đàm Thái Nguyên
sơn thủy chi thắng Túy hậu thành ngâm văn)
(Ông trời sao cũng lắm chuyện,
Bày đặt ra những quả núi ở Thái Nguyên.
Chỉ một hòn hỏ bằng ngón tay thế này,
Mà biết bao công phu thần đục, quỉ chạm)
Nhãn trung sơn thủy vạn thiên lý,
Bút để vân yên thập lục phong (Vãn du Sài Sơn vũ hậu đăng đầu đề
bích – kỳ tứ)
(Trong khóe mắt, thu gọn nước non hàng muôn dặm,
Dưới ngọn bút, hiện ra mây khói của mười sáu ngọn núi)
Tinh thần tự do, khát vọng tự do và bản lĩnh cá nhân đã tạo cho Cao Bá Quát tư thế dọc
ngang, vẫy vùng, thâu tóm non nước. Không chỉ vậy, dưới mắt ông sự vật trở nên sống động, mạnh
mẽ hơn. Cao Bá Quát đã trên 54 lần có cảm nhận, cách nhìn khí phách trước núi, sông, sóng, mưa,
mây, lối hẹp…
Phi vũ tẩu vạn thỉ (Trung dạ thập tứ vận)
(Những hạt mưa bay như muôn mũi tên bắn)
Cô kính nhập nguy đặng
Lô nhược thông thiên tàn (Du tiên Lữ động văn nhân Đàm Thái
Nguyên sơn thủy chi thắng tăng hậu thành ngâm)
(Một lối hẹp xuyên vân nơi bậc đá cheo leo.
Tưởng như có thể thông lên tận trời được)
Tây Nhĩ giang đầu thủy tẩm thiên (Đại vũ – kỳ nhất)
(Ở đầu sông Nhĩ phía tây nước liền trời)
Núi cao ngất trời; sông mạnh mẽ bắn lên áo người đi xa, sừng sững như lưỡi kiếm dựng giữa
trời xanh, chảy sủi bọt rung cả trời, ngân nga reo vang như tiếng chày giã gạo; mưa như tên bắn;
mây có lúc lại muốn sà xuống cuốn cả thành Nghệ An; nước có khi bất tận nối mặt đất với vũ trụ;
một lối hẹp xuyên vào nơi bậc đá mà tưởng có thể thông lên trời… Cao Bá Quát còn điểm diện thiên nhiên ở thế chiến mà chỉ có con mắt võ tướng mới cảm nhận được. Núi Cù Mông55, cửa Thuận An56 trong đêm gió nổi, sóng gầm trở nên dữ dội trong âm vang của những trận thủy chiến hào
hùng. Điều này khác nào Nguyễn Trãi trước đó hứng khởi trước dòng sông lịch sử Bạch Đằng, nghĩ
về một thời oanh liệt của quân dân ta:
Gió bấc thổi trên mặt biển bốc hơi nước ngùn ngụt,
55 Bài Quá Bình Định dương phận Cù Mông 56 Bài Thập ngũ dạ đại phong
Nhẹ dong cánh buồm thơ lướt qua cửa biển Bạch Đằng.
Ngồi trong thuyền trông ra, núi ngổn ngang như cá kình bị chặt, cá sấu bị vằm,
Bờ nhấp nhô lớp lớp đống gươm bị chìm, đống giáo bị gẫy
(Cửa Biển Bạch Đằng)
Cao Bá Quát muốn làm chủ thiên nhiên, vũ trụ, muốn thâu tóm cả đất trời, muốn chấp đôi
cánh thơ bay bỗng giữa vũ trụ này. Con người tự do muốn làm những việc có ích cho đất nước,
muốn làm những việc phi thường quá sức của mình.
Thí tương mai tử trịch sơn gian,
Nhất ác thanh tư ký bích loan.
Ký thủ lai thời xuân sắc hảo,
Dữ nhân cộng tác họa dồ khan. (Tài mai)
(Thử đem hột mai ném trên núi,
Một nắm giống thanh tao gửi lên ngọn đá xanh.
Hãy nhớ lấu: sau này, khi vẻ xuân tươi tốt,
Sẽ thành một bức tranh cho mọi người xem chung)
Sản khước đông biên quách cánh nghi! (Đề Trấn Vũ quán thạch bi)
(San phẳng mé đông đi, thành quách trông càng hữu tình)
Thùy năng vị ngã trừu thử nhất ngung động,
Thố chi Tấy Hồ chi thượng, Châu Long, Phượng Chủy chi gian (Du
tiên Lữ động nhân đàm Thái Nguyên sơn thủy chi thắng Túy hậu thành ngâm văn)
(Ai có thể chuyển giúp ta cả một góc động này,
Về đặt bên Hồ Tây, giữa khoảng hai gò Châu Long và Phượng Chủy)
Khiên lai tây bạn, sơn vưu hảo,
Sản khước đông biên, quách cánh nghi (Du Tây Hồ bát tuyệt – Kỳ tứ)
(Đưa lại bờ tây, núi non thêm xinh đẹp,
San bằng mé đông, thành quách càng hữu tình)
Vũ phi Tổ Địch không đề kiếm,
Thi nhượng Trường Canh diệc lạc tinh (Dữ Quảng Nam học chính
Bùi đồng túc, dạ khởi kiến nguyệt)
(Múa không được như Tổ Địch, vẫn cầm lấy thanh kiếm,
Thơ tuy kém Trường Canh, song ngâm lên cũng có thể làm rụng sao)
Cao Bá Quát muốn ném hột mai lên núi để sau này mọi người được thưởng thức bức tranh
đẹp; muốn biến đổi và dịch chuyển thiên nhiên theo ý thích của mình, góp phần tạo vẻ mỹ quan cho
đất nước. Cao Bá Quát còn muốn như Tổ Địch, Trường Canh thuở nào cầm kiếm, ngâm thơ vẫy
vùng cùng non nước. Ông quả thật dám nghĩ dám làm, dám hành động. Bài Trà Giang thu nguyệt ca
đã khắc họa hình tượng con người tự do - khí phách hiên ngang bất khuất, hành động quyết liệt của
một bậc đại trượng phu.
Trượng phu án kiếm khứ tiên khứ,
Kỳ lộ vô vi nhi nữ sầu! (Trà giang thu nguyệt ca)
(Là người trượng phu đã chống gươm đi thì đi thẳng,
Chẳng bắt chước như đàn bà, con trẻ bịn rịn trong lúc phân kỳ!)
Cao Bá Quát còn muốn vượt mọi sự ràng buộc, sống thực với chính mình. Hành động xõa
tóc đã chứng minh điều này. Trong 18 lần nhắc đến tóc thì 4 lần ông xõa tóc.
Tán phát nguy kiều tiếu tự tri (Đề Trấn Vũ quán thạch bi)
(Gió chiều, bóng xế, vẫn không trở về,
Xõa tóc đứng trên cầu cao, mỉm cười chỉ tự mình biết vậy)
Phiên nhiên phi phát đăng sơn quynh (Dữ thi hữu Phan Long Trân du
Côn Sơn, nhân tác Côn Sơn hành vân)
(Thoắt lại xả tóc bước lên cửa chùa trên núi)
Người xưa thường hay buộc tóc, bới tóc. Cao Bá Quát lại xõa tóc mà xõa tóc trên núi, trên
cầu cao. Phải chăng hành động này vừa hiện sự khát khao tự do vừa tỏ rõ khí phách ngang tàng của
Cao Bá Quát? Nếu vậy, Cao Bá Quát ngang tàng khí phách, tự do hơn là xõa tóc để giải tỏa tâm lý. Lúc ông nặng mang tâm sự hành động vẫn vậy: “Tóc xõa trong gió xuân thật đáng thương”57.
Cao Bá Quát không những muốn phá bỏ mọi ràng buộc, sống ngang tàng, khát khao sống tự
do mà còn có hành động phản kháng, tố cáo kẻ cầm quyền. Ông hai lần khẳng định chẳng còn mấy
kẻ tài giỏi nơi triều đình (Bài Tặng Thổ Khối Đỗ Vệ Úy xuất Thanh Hóa, Bài Phạm kinh doãn nhục
quỹ hải vật, bệnh vị đáp bái, hốt trị phong vũ, cảm sự thư hoài nhân Phạm công kiêm trí bỉ ý). Bản
thân cũng đã chán ngán bọn vô lại, luồn cúi lắm rồi. Chán ngán, vờ về nằm thôi – phản kháng - bắt
nguồn từ thực tế cuộc sống chốn quan trường, từ những mối hận Cao Bá Quát ngày ngày nung nấu.
Những mối hận ngày càng đè nặng. Thế nên, Cao Bá Quát nhìn đâu, thấy gì u ám, đen tối, cho đó là
bọn thống trị vua quan hại dân hại nước. Ông mượn sức tàn phá của các hiện tượng thiên nhiên để
tố cáo vua quan. Chúng bạo tàn làm mọi người sống trong thấp thỏm, lo sợ. Ví như việc trò chuyện,
cởi mở cho vui vẻ cũng phải dè chừng, kín đáo: “Muốn đến với mọi ngưởi để chuyện trò tâm sự/ Nhưng phải nói sẽ, sợ trái ý trời bị trời ghét”58. Cách nói khinh miệt ấy xuất phát từ lòng không tôn trọng kẻ trị vì. Bọn chúng - quan nhà Nguyễn – khác gì “chú bé chăn con bọ ngựa”59 cứ khư khư
buộc chặt nó dẫn đến kết quả thảm hại. Con bọ ngựa đã chết thật vì lỗi của thằng bé. Dân chúng
cũng đã chết lần chết mòn vì cách cai trị của triều Nguyễn. Cao Bá Quát gián tiếp và trực tiếp tố cáo 57 Tán phát xuân phong kịch khả lien (Bài Viên cư trị vũ) 58 Nghĩ hướng bình nhân thoại tâm sự / Đê thanh trường thũng ngỗ thiên nhan (Bài Thập nguyệt thập nhất nhật, thừa Lễ Bộ nghiêm tấn hậu cưỡng bệnh man chí) 59 Bài Đồng tử mộc đường lang
chúng. Không đi xa xôi bóng gió, Cao Bá Quát chỉ thẳng những nỗi bất hạnh của con người trong
xã hội ở mỗi tầng lớp, đặc biệt chú ý cảnh lưu vong, bắt lính, đói khổ, ăn xin... Tất cả đã “không còn phồn thịnh”60, “vẫn cứ trì trệ”61; hơn thế nữa, cảnh “đau buồn trải ra ngút mắt mọi phía”62 cảnh “chiến sĩ lăn lóc nơi tiền phương lam chướng mù mịt, bọn lái buôn thì phè phỡn”63, có cái ăn phải
vất vả, hiểm nguy như vượt qua cửa ải Quỷ môn... Từ việc tố cáo đó, Cao Bá Quát đi đến hành
động. Ông chữa bài thi cho thí sinh - chống lại quy chế cổ hủ của trường thi, chống lại chế độ phong
kiến. Trong thời gian ở tù, ông còn lên án chế độ nhà tù phong kiến, nói lên nỗi oan uất của bản
thân, sự tra trấn dã man của những công cụ - đại diện cho chế độ phong kiến. Ba bài thơ “Vịnh cái
gông” đã cho thấy rõ điều đó. Cao Bá Quát phê phán cái máy làm nhục hình chính là phê phán bọn
thống trị (Trường giang thiên – kỳ nhất). Tinh thần, ý chí ông không khuất phục trước cường quyền mà muốn: “Chẻ cái gông viết bài Thiện sự ngâm”64 của Nghiêu Phu vào đấy. Cao Bá Quát còn phê
phán cả vị vua “đáng kính” của giai cấp phong kiến. Ông cho rằng nhà vua không những cố tình
không nhìn thấy kẻ có tài mà còn không biết trọng dụng, và nếu có đi nữa cũng là chèn ép, đố kị,
dồn vào chỗ chết mà thôi. Cao Bá Quát đã hai lần nói lên giá trị bản thân cũng là 2 lần tố cáo kẻ
cầm quyền.
Nhĩ bất kiến: Đức Giang chi dương,
Nguyệt hằng chi cương,
Thượng hữu bán tử chi tùng bách,
Đột ngột đống cửu nhi tương vương (vọng).
Cẩu phất khí vu triết tượng,
Cố vô thủ hồ kê thê dữ dự chương.
Nhi hà tiễn phạt chi đương? (Đằng tiên ca)
(Mày không thấy:
Ở phía nam sông Đức Giang
Ở trên núi Nguyệt Hằng,
Trên có cây tùng, cây bách chết một nửa.
Nhưng vẫn cùng nhau đứng trơ trơ giữa trời rét mướt.
Ví phỏng có người thợ giỏi biết dùng, không bỏ nó,
Thì hạng cây như bồ kết và chương não còn có gì đáng kể vào đâu.
Vậy mà còn đẵn phá nó thì có đáng không?)
60 Bài Xuân An Quán – kỳ nhị 61 Bài Thuận Trạch chu hành Động Hải 62 Bài Đại cảnh môn ngoại thiếu vọng trình đồng du giả 63 Bài Tạp đề - kỳ tam 64 Bài ca cái roi song
Minh châu tích ám đầu (Thuật hoài)
(Hạt châu sáng những tiếc bị ném từ trong bóng tối)
Cao Bá Quát phê phán nhà vua không biết trọng dụng kẻ sĩ như hạt châu đáng giá mà bị ném
vào bóng tối, như cây quý mà đẵn phá; lại phê phán sự xa hoa kẻ tự xưng là “con trời” thay trời
hành đạo mà hại dân, hại nước, sống xa hoa phung phí trên nỗi xác xơ của dân nghèo (Quá quảng
Trị tỉnh)... Thử hỏi trong hoàn cảnh này, Cao Bá Quát không thể không hận, không căm phẫn, phản
kháng và khởi nghĩa? Nguyễn Đình Chiểu về sau trước thực trạng ngoại xâm, trước sự bỏ mặc của
triều đình đã có một mong ước: “Chừng nào thánh đế ân soi thấu?/ Một trận mưa nhuần rửa núi sông”65. Nhưng người thơ không phải là cụ Đồ Chiểu mà là một Cao Bá Quát đầy khí phách. Chu
Thần không gửi lòng yêu nước vào mong ước mà gửi trọn vào hành động phản kháng cứu dân độ
thế, đánh đổ cường quyền. Không học theo ông Thiếu Lăng “chống gậy bằng thân cây lê một mình than thở với đời”66 , không thể cứ mãi “gội đầu mà mong ngóng ở trời xanh”67. Nhà vua đã không
ban ơn mà luôn mang họa đến cho người. Thế nên, Cao Bá Quát chỉ còn biết gửi trọn niềm mong
ước mình vào hành động. Từ những hiện tượng mây, mưa, sấm giật…, Chu Thần nhìn thấy những
gì rồi sẽ xảy ra. Trên 12 lần, Cao Bá Quát nhắc đến giông bão, với vẻ dữ dội và cuồng nộ. Có một
cái gì âm ỉ nhóm lên trong lòng người. Phải chăng là khát vọng một việc phi thường xảy ra?
Bạo vũ khuynh thiên lậu
Phi đào táp địa lai
Thế liên giang sắc tráng
Thanh nhập dạ phong ai (Đối vũ)
(Mưa dữ như nghiêng trời đổ nước xuống
Sóng tung tóe tràn ngập mặt đất
Một màu liền với dòng sông, thế trông rất mạnh
Tiếng reo hò đêm nghe càng ai oán)
Bạo lôi điền nhất thanh
Khach tử trung dạ khởi
Táp táp phong đả liêm
Phi vũ tẩu vạn thỉ (Trung dạ thấp tứ vận)
(Sóng dữ ầm một tiếng
Khách đang đêm trở dậy
Gió sầm sập vào bức mành
Những hạt mưa bay như muôn mũi tên bắn)
65 Bài Ngóng gió đông 66 Bài Hàn vũ sảo tức, dạ ngẫu kiến nguyệt, họa Phương Đình 67 Bài Mộng Ngô Dương Đình
Tứ hải dĩ vọng vũ
Ngũ lôi trường bế sơn? (Du vân)
(Bốn bể đã mong mưa rồi,
Sao phép ngũ lôi còn giữ kín mãi trong núi?)
Xích nhật hành hà đạo?
Thương sinh thán kỷ hồi? (Đối vũ – kỳ nhất)
(Mặt trời đỏ lẩn đi đằng nào?
Để dân đen than thở mãi)
Cao Bá Quát đã bao lần hỏi “phép ngũ lôi” , hỏi “mặt trời đỏ”, hỏi “ễnh ương” như thôi thúc
chính mình. Và những cơn mưa dữ dội, những cơn mưa như mũi tên bắn... chính là khát vọng,
mong ước hành động. Nhân dân trông đợi quan tâm chăm sóc của triều đình như hạn trong mưa.
Triều đình không làm mưa thì chính nhân dân sẽ tạo ra nó. Những đám mây đen trời bầu trời vây
kín, rồi sấm sét nổi lên và mưa sẽ đến. Thiên nhiên gào thét hay lòng lòng đang nổi loạn? Cao Bá Quát ngắm sông Hồng rồi tự hỏi “Cớ gì lại phải cứ làm một nhà thơ”68 lạc lõng giữa bọn ô trọc
trong khi đời đang rất cần mình. Suy nghĩ ấy cứ day dứt, bám víu trong khi: “Nào ai biết ngày mai nóng hay rét? Sao cứ ngồi mãi đây cho lòng xót xa!”69. Đã đến lúc, Cao Bá Quát gom “khí lực” của
mọi người nơi thôn ấp hướng đến một khát vọng tươi sáng như cầu vòng muôn trượng giữa khoảng
trời mây (Đại vũ – kỳ nhị). Sức mạnh của nhân dân, của chính nghĩa sẽ lấp lánh như vẻ đẹp rực hào
quang của “cầu vòng muôn trượng giữa khoảng mây trời” xua đi nỗi u ám của đất trời. Chu Thần “muốn xoay lại trời đất”70 muốn “thay đổi nước cờ” đem lại ấm no cho nhân dân.
Rõ thật, Cao Bá Quát tự do trong cách nghĩ và cũng từ cách nghĩ này phảng phất một ý chí,
một tinh thần cứng cỏi, một hành động dám nghĩ dám làm của người trai tràn đầy hoài bão lớn. Con
người khí phách Cao Bá Quát luôn vượt khuôn khổ mang tầm vóc vũ trụ là vậy.
Con người tự do khí phách còn là con người của khát vọng cá nhân. Một cá nhân dám vượt
lên khuôn phép, lễ giáo, tự định đoạt số phận của mình, dám làm một con người bản ngã. Trước đó,
cái cá nhân, con người cá nhân cũng được đề cập trong thơ của Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm,
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ… Đến thơ Cao Bá Quát, con người cá nhân mang
đậm sắc thái của thời đại, của bản lĩnh khí phách Chu Thần. Chế độ rụi tàn, thời đại đổi mới, tư
tưởng tiến bộ lấn sang lại thêm bản lĩnh con người Cao nên cái hữu ngã càng mãnh liệt, càng day
dứt. Khảo sát 418 bài thơ, chúng tôi thấy con người cá nhân được đề cập trong thơ rất nhiều, khoảng
trên 289 lần. Dấu hiệu để nhận biết con người cá nhân thông qua các từ tự xưng như ngã, ngô, dư,
độc, thân, khách, du khách, hành nhân, du nhân, du tử, tráng sĩ, Mẫn Hiên, Cúc Đường, Cao
68 Thử thân hà sự tác thi ông? (Bài Thứ vận Thận Tư phóng quan Nhị Hà đồng Di Xuân, Hòa Phủ) 69 Bất tri lai nhật thử hoặc hàn? Như hà cửu tọa linh tâm đoan! (Bài Kim nhật hành) 70 Bài Vịnh Vũ Duệ
Lang… Không chỉ vậy con người cá nhân trong thơ Cao Bá Quát còn hiện lên thông qua các hình
ảnh có liên hệ mật thiết với quê hương (Đằng tiên ca), hay nơi sinh trưởng của con vật –ám chỉ nơi
sinh trưởng con người (Qui). Cách thể hiện bản ngã dù khác nhau nhưng nó đều xuất phát từ tinh
thần tự do, khát vọng tư do. Con người cá nhân tự hào về sự hiện diện của chính mình nơi phong
cảnh tuyệt đẹp, lại muốn gởi những nỗi riêng sâu kín khó giãi bày ở trần thế này vào trời đất núi
sông (Dục Thúy Sơn); hay thể hiện khát vọng tự do tự tại (Chinh nguyệt nhị thập nhất nhật di tống
Thừa Thiên ngục tỏa cấm, Lục nguyệt thập ngũ dạ nguyệt hạ tác phụng ký chư cố nhân) hoặc bày tỏ
lòng mình, trăn trở trước cuộc sống, trước con đường công danh (Thuật hoài, Đắc gia thư, thị nhật
tác)…
Với tinh thần tự do ấy, con người cá nhân không bao giờ thiên kiến, khi nhìn nhận và đánh
giá sự việc, con người. Cao Bá Quát đã 3 lần có cách cảm nhận riêng. Ông yêu cầu cần phải nhận
định vững chắc, rõ ràng, phân minh mọi việc (Đắc Hà thành cố nhân thư thoại cập gia tình kiêm
vấn cận tác). Bởi vậy, ông lấy làm khó chịu khi nhìn tấm bia không chữ (Đề Trấn Vũ quán thạch
bi). Thế nhưng, trước những cử chỉ âu ếm của đôi vợ chồng người Phương Tây, Cao Bá Quát lại
đầy thiện cảm và ấm áp (Dương phụ hành). Thế giới cuộc hành trình sang xứ người thật sự đã mở ra
cho ông một tư duy mới, một tình cảm thoáng mở. Cao Bá Quát không hề khắc khe mà luôn luôn
tích cực sẵn sàng tiếp thu những cái mới tiến bộ. Cũng trên tinh thần tự do đó, con người cá nhân có
sự nhìn nhận lại chính mình, sẵn sàng đi ra ngoài khuôn, thậm chí đả phá những lối mòn sáo rỗng đã
cũ kĩ không còn hợp thời nữa. Cao Bá Quát dám nhìn thẳng vào sự thật mà nói, mà nghĩ. Tiếp xúc
với những cái mới, cái tiến bộ, ông càng hiểu người, hiểu mình hơn. Nhìn lại lối học từ chương và
khỏa cử của nước mình, Chu Thần cảm thấy mình khác nào như con sâu mà muốn đo cả đất trời (Đề
sát viện Bùi công Yên Đài anh ngữ khúc hậu), khác nào nhìn con báo chỉ thấy một vằn (Nhị thập nhị
nhật đắc phong, hí trình đồng chu), văn chương vì thế mà vô bổ, chỉ là trò chơi trẻ con (Đề sát viện
Bùi công Yên Đài anh ngữ khúc hậu). Một luồng tư tưởng mới, ý nghĩ mới đang nảy sinh, trào dâng.
Cao Bá Quát cho việc tạo lập công danh như vậy là quá ư là nhỏ bé, tầm thường. Vũ trụ này bao ra,
rộng lớn cần gì mà phải lải nhải theo từng câu từng chữ cho phí công. Người thơ đau xót nói lên
tiếng nói của lòng mình, như để thức tỉnh bao lớp người đang còn ngu muội.
Nhất danh cơ bạn trường như thủ!
Ô hô! Nhất danh cơ bạn trường như thử!
Bạch phát, thanh bào, ngô lão hỹ! (Đề sát viện Bùi công Yên Đài anh ngữ khúc hậu)
(Một chút cứ ràng buộc mãi thế này!
Than ôi! Một chút danh cứ ràng buộc mãi thế này!
Bạc đầu với chiếc áo xanh. Ta già mất rồi!)
Ba câu thơ vang lên như tiếng kêu xé lòng. Cao Bá Quát tự trách mình cứ để cho thói đời lôi
cuốn mãi đến nay thì đã già mất rồi. Một sự nối tiếc trong muộn màng nhưng dẫu sao đó cũng là
tinh thần dám nhìn nhận lại chính mình. Một con người dám tự phê mình với thái độ trung thực,
thẳng thắn như vậy. Quả là một tài trai có bản lĩnh, có khí phách.
2.3. Con người bi phẫn:
Cao Bá Quát có một nỗi buồn về thân phận và thời cuộc. Đó là nỗi buồn của một kẻ sĩ “chí
không thành danh không toại”, muốn đem hoài bão giúp dân giúp nước mà không sao thực hiện
được. Lại phải tận mắt chứng kiến cảnh thói nát của bọn quan lại vua chúa, cảnh dân chúng đói khổ
lầm than, lưu vong và nguy cơ ngoại xâm đang đến gần. Chế độ đã không tin dùng, nỡ đang tay vùi
dập tài năng nên nỗi buồn chất chứa mãi trong lòng Chu Thần lâu ngày biến thành nỗi bi phẫn
không sao kìm nén được.
Cao Bá Quát từng hào hứng nhập cuộc thi thố tài năng mưu cầu công danh sự nghiệp nhưng
thất bại liên tiếp. Danh lận đận mãi chỉ đạt đến Cử nhân, phận sau bao vất vả nhờ được tiến cử làm
Hành tẩu bộ Lễ, sau thăng chức Chủ sự. Nhưng đường hoạn lộ dường như vẫn chưa thỏa chí tang
bồng, chức phận nhỏ biết dùng vào đâu. Cao Bá Quát những lúc ấy cảm thấy mình bị ràng buộc bởi
danh hời. Tiếng thơ như một lời than cho bản thân, cho thời thế. Cao Bá Quát đã 19 lần nhắc đến
chữ danh, trong đó, 16 lần đau xót vì tấm thân bị chữ danh ràng buộc, vì đã lầm vì chút phù danh.
Dĩ vi phù danh ngộ (Phó Nam cung, xuất giao môn, biệt chư đệ tử)
(Đã bị lầm vì chút phù danh)
Dư sinh phù danh ngộ (Đắc gia thư, thị nhật tác)
(Đời ta trót lầm lỡ vì cái danh hờ)
Dư sinh cơ bạn chỉ vi danh (Ký hận – kỳ nhị)
(Đời ta bị ràng buộc chỉ vì chút danh nhỏ)
Cao Bá Quát 5 lần nhắc đến cái danh hư ảo với những cái tên “phù danh”, “danh hờ”, “chút
danh nhỏ”, “một chút danh”. Con số này đồng nghĩa với nỗi đau xót, đay nghiến lòng ông. Cuộc đời
Chu Thần trở nên khốn đốn vì chữ danh. Nhưng không vì thế mà ông quỵ lụy. Cao Bá Quát chỉ trích
cái danh hư ảo, mỉa mai nó, giễu cợt nó, coi thường nó. Chưa có nhà thơ nào mà miệt thị công danh như Cao Bá Quát vậy. Công danh lúc này thật uổng phí, vô tích sự khác gì “cái chõ rơi bị vỡ”71.
Ông đau đớn biết bao khi nhìn lên trông xuống vẫn bị cái danh ràng buộc (Thuật hoài), khi tuổi già
sức yếu mà công danh chẳng giúp ích gì, nhất là khi nhận ra nó là cái “danh hờ” (Đề sát Viện Bùi
Công Yên Đài anh ngữ khúc hậu). Song hành trên bước đường công danh ấy, Cao Bá Quát đã
không còn tin tưởng vào văn chương nữa. Thật là một nỗi đau cho kẻ sĩ khi chính mình lại nghi ngờ
về cái nghiệp của mình. Ông đã 5 lần nói lên nỗi đau xót này khi nhìn nhận lại văn chương.
Truyền gia thư sử mạn đồ long (Bệnh trung, hữu hữu nhân chiêu ẩm
71 Nhập thế công danh hồn trụy tắng (Bài Bệnh trung, hữu hữu nhân chiêu ẩm tịch thượng tác)
tịch thượng tác)
(Nghiệp nhà thư sử cũng tựa nghề mổ rồng)
Tảo tín văn chương bất trị tiền (Thuật hoài)
(Ta đã sớm tin rằng, văn chương là điều chẳng đáng giá)
Hướng tích văn chương đẳng nhi hý! (Đề sát Viện Bùi Công Yên Đài
anh ngữ khúc hậu)
(Chuyện văn chương trước đây thực là trò trẻ con)
Văn vô thiện giá bần nan trị (Tiểu ẩm hí bút)
(Văn chương không được đánh giá đúng, vì nghèo lại rẻ thêm)
Thập niên ác bút phí quang âm (Phục giản Phương Đình)
(Mười năm cầm bút phí cả thì giờ)
Văn chương tựa như “nghề mổ rồng”, “chẳng đáng giá”, là “trò trẻ con”, “rẻ rúng”. Cao Bá
Quát dằn vặt trong từng câu chữ, vò xé cõi lòng của mình. Hàng chục năm chìm đắm trong bút mực,
vất vả lắm mới thi đỗ Cử nhân. Ông chợt nhân ra thân mình tiều tụy, không còn ra hồn người. Cái giá của khoa hoạn đã làm cho anh đồ thấm thía: “Vị tử tàn hình nhất hủ nho”72 (Là một anh đồ hư,
thân tàn mà chưa chết). Cao Bá Quát hàng mười năm cầm bút phí cả thời giờ và cả đời phụ cả năm
xe sách. Thật đáng buồn cho một con người đã dồn hết tâm trí, tài năng của mình phụng sự cho sự
bền vững của chế độ mà chỉ nhận sự đố kỵ của quan trường, sự trọng dụng nhỏ nhen của vua chúa! Cao Bá Quát chỉ vì “vương vít với việc đời”73 mà cứ để cho “thói đời lôi cuốn mãi”74. Công
danh chưa toại, lại lắm gian nan, ông uất ức vì cho mình sinh vào thời bình, lại không gặp chúa
hiền. Để xoa dịu nỗi đau và thể hiện sự phẫn uất trong lòng, Cao Bá Quát tìm đến cái chất hào hùng,
mạnh mẽ của tráng sĩ. Con người tráng sĩ xuất hiện 7 lần trong thơ.
Thời thanh tráng sĩ tiện (Đặng Ngự sử Trạch, Phùng Diệp Di Xuân
cộng túc)
(Thời buổi thanh bình, kẻ tráng sĩ trở nên thấp hèn)
Thư kiếm thanh cuồng thập quá niên (Túc Giai Lạc cựu tổng mục gia,
tương biệt lưu đề)
(Sách gươm lãng đãng quá mười năm)
Trượng phu án kiếm khứ tiện khứ,
Kỳ lộ vô vi nhi nữ sầu! (Trà Giang thu nguyệt ca)
(Là người trượng phu đã chống gương đi thì đi thẳng,
Chẳng bắt chước như đàn bà, con trẻ bịn rịn trong lúc phân kỳ!)
72 Bệnh trung 73 Cơ bạn thử thân câu hệ cật (Bài Hí tặng Phan Sinh) 74 Tự than dud u ủy tục tình (Bài Đăng Hoành Sơn)
Anh hùng mạc vãn thiên niên quốc (Đăng Hoành Sơn)
(Người anh hùng không kéo lại được nước nghìn năm)
Cao Bá Quát thất vọng với công danh đã tìm đến con người tráng sĩ. Ông muốn lấy cái chất
hào hùng của tráng sĩ để xoa dịu nỗi đau, lấn át cái “bi”.Thế nhưng, tâm trạng buồn đau vì sự nghiệp
không thành vẫn cứ ám ảnh. Bởi vậy, cái chất tráng sĩ dẫu có hào hùng khí thế vẫn chất chứa một
niềm đau. “Người anh hùng không kéo lại được nước nghìn năm” là vậy. Chu Thần tự trách mình “Sinh nhằm đời thanh bình biết có làm nên trò gì không?”75. Ông chua xót, kiểm nghiệm lại “Nơi chân trời, cây đàn thanh kiếm đi đã lầm đường”76. Suốt cuộc hành trình vào Nam mà “đấng mày
râu” cứ day dứt cho bước đường phía trước (Thứ vận Bảo Xuyên ông lưu biệt). Con người bi phẫn
lại nói đến chuyện chìm nổi của đời mình. Năm tháng đó khác nào như “sợi cỏ bồng phiêu bạt”. Có
đến 4 lần, Chu Thần bộc bạch nỗi niềm.
Nhân thế thăng trầm ngũ lục niên (Ẩm tửu đắc chư hữu giai tác tức
phục tẩu bút thư thị)
(Ta) chìm nổi ngoài đời năm sáu năm rồi)
Lục niên sinh tử phù trầm địa (Đắc Hà Thành cố nhân thư thoại cập
gia tình kiêm vấn cận tác)
(Qua năm sáu năm ở nơi sống chết chìm nổi)
Nhất thu linh lạc hướng tây phong (Trung thu kiến nguyệt –Trung
thu ngắm trăng)
(Một thời long đong gửi gió thu)
Phù thế du du lộ vô tận,
Nhất liêm thu nguyệt dữ quan tình (Thứ vận Bảo Xuyên ông lưu biệt)
(Đời người nổi trôi vời vợi, đường đi không cùng,
Chỉ duy có ánh trăng thu giãi trên rèm cùng tấm tâm tình nhuộm màu
quan ải)
Cao Bá Quát thấy mình “chìm nổi”, “long đong” trên bước đường đời, khi thì lên núi Vệ
Linh nhận mình vốn là khách giang hồ, khi thì tiễn người anh họ mà bùi ngùi cho tấm thân lưu lạc,
lúc lại ví mình là khách, lữ khách, khách tha hương... Thật thương cảm cho thận phận của kẻ khách
nơi quê người, khi thân phận đó lại được chính mình ý thức. Có đến 7 lần Cao Bá Quát tiếp nói đến
thân phận khách.
Bách niên thân thị khách (Mộ đắc xá huynh quán dạ giam thư kiến ký)
(Trăm năm thân này là khách)
Bách niên vi khách lộ do trường (Phục tặng)
75 Sinh phùng thanh thế tri hà dụng (Bài Tặng Thổ Khối Đỗ Vệ Úy xuất Thanh Hóa) 76 Bài Nhật mộ
(Trăm năm làm khách đường còn dài)
Khách trung hoàn niệm khách (Tuế mộ)
(Thân là khách lại nhớ (người cũng là) khách)
Nhân thị tha hương khả đáng qui (Qui chu đắc qui tự)
(Người (đi thuyền) là khách tha hương nên phải về)
Khởi tri hồ hải phiêu linh khách (Thiên áo thành phùng cố nhân Cổ
Vân Khê văn kỳ cận phả đắc ý ư họa dữ ẩm cập chi)
(Đâu hay nay đây mai đó trở thành khách lênh đênh)
Cao Bá Quát quá lời chăng? Khi đời người chỉ có trăm tuổi mà đã có tới “Trăm năm thân này
là khách”, “Trăm năm làm khách đường còn dài”. Có thể là vậy, nhưng qua cách nói này còn cho
thấy Cao Bá Quát rất có ý thức về quãng đường vất vả của mình, về trách nhiệm của mình, vất vả
trăm năm vì lo toan cho hậu thế. Bởi vậy, cái chất tráng sĩ cứ vương vấn, chuyện kiếm cung cứ ám
ảnh. Sự phẫn uất trong lòng đã làm cho Cao Bá Quát nhìn dòng sông Hương mà tưởng như kiếm dựng giữa trời xanh77, ước mơ treo vách một thanh kiếm có ngay phong hóa và khát khao như “nhà thư sinh treo chiếc cung nặng sáu quân”78, đem “huyền ca hóa cung nỏ”79.
Một tấm thân trôi nổi với bao khát khao hiến dâng cho đời. Tiếc thay, chí nguyện lại không
thành. Niềm tâm sự ấy càng đau hơn khi bước chân ấy vẫn cứ dấn bước. Cao Bá Quát ngậm ngùi "Tâm sự tuổi trai tráng, đành gửi trong cửa sài”80. Ông cảm thấy thẹn với người đời, với lòng
mình, với sách vở và cả trời xanh… Cái chí trai trẻ cứ vơi dần theo tuổi già, sức yếu, bệnh tật. Mái tóc đã "bơ phờ"81, đã "điểm sương lan dần"82 rồi mà Cao Bá Quát vẫn không hề nhìn thấy. Nhưng
ông làm sao cố giấu được lòng mình, khi phải đối diện với chính mình, đối diện với tóc bạc, sức
yếu.
Sấu cốt chi ly ủng mấn hoa (Bài Thương Sơn công hữu sở quỹ vật
kiêm trí hảo thi, bộc phương nhiễu vu thất tử chi thích, cảm thê giao khẩn tình hiện hồ)
(Nắm xương gầy rời rạc mang mái đầu hoa râm)
Bạch phát, thanh bào, ngô lão hỹ! (Đề sát viện Bùi Công Yên Đài anh
ngữ khúc hậu)
(Bạc đầu với chiếc áo xanh. Ta già mất rồi!)
Tân kính sương mao sầu tự đối (Sơ thu vịnh Hoài Phủ, Minh Trọng
nhị tri kỷ)
77 Bài Hiểu quá Hương giang 78 Bài Tạp đề - kỳ ngũ 79 Bài Tạp đề - kỳ lục 80 Tráng niên tâm sự độc sài phi (Bài Nhật mộ) 81 Song mấn tiêu tuêu bất tự tri (Bài Để gia) 82 Bất kiến tinh tinh tuyết mấn xâm (Bài Thuyền hồi quá Bắc dữ, dư bão bệnh sổ nhật hỹ, dạ bán đăng tường tứ vọng, thê nhiên độc hữu hương quan chi cảm, nhân giản Trần Ngộ Hiên – kỳ nhị)
(Buồn bã nhìn tóc bạc mình trong gương mới)
Còn gì đau đớn hơn khi Cao Bá Quát muốn cống hiến cho đời mà chí nguyện chưa thành,
nhất là khi thấy mình sức đã yếu, tóc đã bạc ? Cao Bá Quát thật sự buồn, trăn trở da diết. Theo đó là
ốm yếu gầy gò, bệnh tật. Cao Bá Quát "gầy gò giống hệt cành mai”, “con hạc bị bệnh mới khỏi”
(Du Tây Hồ - kỳ ngũ), cộng thêm tâm bệnh lâu ngày càng làm nỗi niềm sâu kín rối tung. Không phải
hình ảnh của bậc trượng phu chí ngang tàng mà lại chính là “một con người vừa già, vừa ốm giữa đất trời”83 đang ôm bầu tâm sự.
Sự bất đắc chí trong cuộc đời, sự thăng trầm trên bước đường hoạn lộ đã làm cho cái tôi cá
nhân trở nên có ý thức về cuộc đời, về tuổi trẻ. Cao Bá Quát thấy "Con đường phía trước rõ là giấc mộng viễn vông/ Cõi đời phù du đằng đẵng tuổi trẻ có là bao"84 nên ông đôi lúc chán ngán, có suy nghĩ: "Cuộc đời như ván cờ người không đặt nước mới là cao"85. Ông ước ao được về ở yên tổ như
những con chim én (Bệnh Trung). Chính do ý thức được con đường tiến thân của mình mờ mịt nên
Chu Thần đâm ra buồn chán mà có ý nghĩ về nhàn. Cao Bát Quát từng nói.
Nhập thế do đa cảm vọng nhàn (Để ngụ bệnh trung giản chư hữu)
(Vào đời hãy còn lắm chuyện dám đâu mong cảnh thanh nhàn)
Bôi tửu công danh tích tạm nhàn (Sơ thu vịnh Hoài Phủ, Minh Trọng
nhị tri kỷ)
(Khi nâng chén rượu tiếc cho công danh trong cảnh tạm nhàn)
Ỷ lâu tâm tại ngã ưng tri (Bạc mộ)
(Tấm lòng tựa gác lầu, ta nên tự biết)
Cao Bá Quát dám đâu mong cảnh thanh nhàn, lại tiếc cho công danh trong cảnh tạm nhàn.
Nhưng suy xét kĩ: "Ta nên tự nhận biết tùy thời cơ mà xuất hiện hay rút lui tu dưỡng chờ thời –
“tấm lòng tựa gác lầu”. Cao Bá Quát có tài, có tâm mà công danh lân đận, chẳng giúp ích gì cho
nước nhà. Đôi lúc, ông lại cảm thấy tẻ nhạt, nhàm chán nên muốn hướng nhàn. Con người sớm đã
có cái thú hướng nhàn từ thuở trẻ nay lại rơi hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan. Trách nhiệm kẻ sĩ chưa
thỏa chí nên dù trong cảnh nhàn, hay lòng hướng đến thú an nhàn chỉ là tạm bợ nhất thời. Bởi thế,
cái ý nghĩ lui về ẩn dật hưởng nhàn, không hẳn là điều mà người thơ nghĩ đến.
Ngã vô hành dã, diệc vô lưu (Trường giang thiên – kỳ tam)
(Ta không có ý gì đi cũng không có ý gì ở cả)
Ngã sơ vô hành lưu (Châu hành há Thanh Khê, cố nhân ký biệt tây du
chư đệ tử)
83 Kiền khôn lão bệnh phu (Bài Độc dạ) 84 Tiền đồ lịch lịch câu nhàn mộng/ Phù thế du du kỷ thiếu niên ( Bài Họa Thúc Minh lưu biệt Doãn Trai tác kiêm thứ kỳ vận) 85 Thế lộ thành tri bất trước cao (Bài Ký Nguyễn cố hữu hồi tịch)
(Tôi chả bao giờ định ra đi hay ở lại)
Cao Bá Quát có sự băn khoăn, nhưng đến khi đường đời đã thấu rõ, bộ chân tướng nhà
Nguyễn lộ hình, tuy còn muốn dấn thân nhưng Cao Bá Quát thật sự đã mệt mỏi, biếng lười muốn
hướng nhàn. Nhiều bài thơ bộc bạch tâm sự này như Vãn du Sài sơn vũ hậu đăng sơn đầu đề bích –
kỳ nhị, Thứ Phương Đình, Hoán Phủ, Thận Tư phân vận ngũ thủ - kỳ nhị, Đông tác Tuần Phủ tịch
thượng ẩm…
Như vậy, Cao Bá Quát từ thất vọng đi đến chán ngán, hướng nhàn để giải tỏa những đau khổ
nhưng tâm sự cứ chất chồng, niềm đau ngày nhân lên. Bởi vậy, ông mượn rượu để quên sầu, để xua tan những nỗi bất bình, phẫn uất: “Mùi đời đã nếm, rốt cuộc vẫn cần đến rượu”86. Cao Bá Quát đã
32 lần đề cập đến rượu thì có đến 26 lần người thơ uống rượu. Ông uống rượu để an ủi tâm hồn, để
giải sầu; uống rượu mua vui, uống trong lúc nhàn rỗi, khi du ngoạn. Có đến 11 lần người thơ uống
rượu trong tâm trạng rối bời. Trong những lúc nặng mang tâm sự hay khi chán chường thất vọng vì
bước đường danh vì bế tắc, Cao Bá Quát mượn rượu để thổ lộ nỗi bất bình.
Bạc chước sấn lương dạ,
Úy ngã cơ lưu hồn (Thu dạ độc tọa tức sự)
(Nhân lúc đêm thanh nhấp qua chén rượu,
Để an ủi cái tâm hồn bị trói buộc của mình)
Cùng đồ khán tửu binh (Đồng Chuyết Hiên ẩm đại túy hoa hạ mạo vũ
chi qui)
(Trong bước đường cùng hãy xem những chàng uống rượu để giải
sầu)
Thế sự thăng trầm, đường đời gian khó, công danh lận đận, Cao Bá Quát cần có rượu để tưới cho tan bao nỗi sầu, khối bất bình chất chứa trong lòng như “Bộ binh họ Nguyễn”87 ngày xưa. “Thành sầu muốn phá, rượu là quân” 88là ý vậy. Những lúc ấy, ông cố nuốt những giọt “anh hoa” (rượu ngon) để bày tỏ nỗi lòng mình: “Mượn vật trong chén của nó/ Gởi tình ngoài đời của ta”89.
Rượu đã uống vào và những nỗi cô đơn, thất vọng, bất bình cũng đã trào ra mà lòng người không
sao giải tỏa được. Uất ức, Cao Bá Quát nâng chén rượu bày tỏ cùng trời xanh, nhưng trời cao nên
không hỏi được (Lục nguyệt thập ngũ dạ nguyệt hạ tác phụng ký chư cố nhân). Con người buồn
thương, đành say với rượu. Có đến 8 lần người thơ chan hòa cùng rượu.
Nhất tôn túy đảo hoàng vân mộ (Thứ Phương Đình, Hoán Phủ, Thận
Tư phân vận ngũ thủ - kỳ tam)
(Một chén say ngả nghiêng chiều mây úa)
86 Bài Phụng họa Kinh Doãn Nguyễn Công thất thập thọ, thứ vận 87 Chỉ Nguyễn Tịch trong lòng chồng chất những khối bất bình, cho nên cần có rượu để tưới cho tan đi. 88 Sầu thành dục phá tửu vi binh (Bài Đồng Chuyết Hiên ẩm đại túy hoa hạ mạo vũ chi qui) 89 Tá bỉ bôi trung vật/ Ký ngã thể ngoại tình( Bài Đồng Chuyết Hiên ẩm đại túy hoa hạ mạo vũ chi qui)
Úng để dư phôi túy hựu châm (Độc dạ thư hoài)
(Cặn rượu còn lại ở đáy bình, say lại rót)
Chước chước nguyện quân ẩm vô lượng (Đông tác Tuần phủ tịch
thượng ẩm)
(Xin bạn rót đi, rót nữa đi, uống cho thật nhiều)
Chước chước quân mạc từ (Dữ thi hữu Phan Long Trân chi Côn Sơn
nhân tác Côn Sơn hành vân)
(Rót đi! Rót nữa đi! Xin đừng từ chối)
Mạc từ chung dạ túy,
Thống ẩm thùy phục tinh (Phương Đình yến tập chủ nhân dụng Đình
vận chiêu thi, dư đắc ngũ ngôn)
(Đừng khước từ say suốt đêm,
Uống cho thật say, ai tỉnh làm gì?)
Nỗi buồn niềm vui, Cao Bá Quát dồn vào chung rượu. Cao Bá Quát cứ uống, say cứ rót, lúc
ngả nghiêng, lúc bần thần (Đăng Khán sơn hữu hoài), lúc say lâng lâng (Tứ nhật họa Đôn Nhân
kiến ký thứ vận), lúc sa đà hứng thú như cỏ hoang sinh sôi (Thứ Phương Đình, Hoán Phủ, Thận Tư
vận ngũ thủ). Ông hiểu rằng trong cái say mới có cái chân thật của lòng người (Thừa túy toại giản
Thúc Minh). Thế nên, trước rượu, Cao Bá Quát cứ uống không từ chối, lại thèm hát ca (Thứ vận Bùi
Nhị).
Như vậy, từ cái hùng tâm tráng chí, đến sự thất vọng chán chường, con người muốn khỏa lấp
chỗ trống bằng những thú vui trần thế. Nhưng đó có phải là con người hành lạc thực sự không? Hay
đó chỉ là cách nói khỏa lấp nỗi sầu theo kiểu của người xưa khi cảm thấy bế tắc, phẫn uất? Thật sự,
con người trong thơ chưa bao giờ là con người hưởng thụ. Uống rượu chỉ để giải sầu. Rượu là người
bạn tốt trong những lúc buồn. Nó là phương tiện, không phải là đối tượng, nhờ rượu mà con người
cảm thấy mình tươi hơn, hứng thú hơn, thêm một niềm vui mới. Tinh thần này được thể hiện trong
nhiều bài thơ như Bệnh trung, hữu hữu nhân chiêu ẩm tịch thượng tác; Bạc vãn túy qui; Hàn vũ sảo
tức, dạ ngẫu kiến nguyệt, họa Phương Đình; Giản Nguyễn Phương Đình…
Dục bả suy nhan hoán túy dong (Bệnh trung, hữu hữu nhân chiêu ẩm
tịch thượng tác)
(Muốn đem vẻ mặt suy yếu này thay bằng vẻ mặt rượu” (hồng hào)
Khai tôn triển lương khế (Hàn vũ sảo tức, dạ ngẫu kiến nguyệt, họa
Phương Đình)
(Mở chai rượu tạo thêm niềm vui mới)
Tam vị chi ngôn thắng đạm giá (Giản Nguyễn Phương Đình)
(Lời nói khi có ba chén rượu mùi còn hơn cây mía nhạt nhẽo)
Rượu không làm cho con người trong thơ lạc lõng với đời, sa đà hành lạc mà nó làm người
thơ hưng phấn hơn, vui hơn và khẩu khí hơn. Điều này chứng tỏ Cao Bá Quát khác với Nguyễn
Công Trứ, nhà thơ hành lạc trong thơ và cả trong đời. Cao Bá Quát dẫu phẫn uất, bất mãn nhưng
ông là người có mối liên hệ mật thiết với quần chúng nhân dân, có trách nhiệm với đời. Chính bởi
thế, sau những tiệc rượu, những cuộc vui lòng ông thổn thức, ngổn ngang.
Con người bi phẫn còn là con người của buồn hận thể hiện rõ tính chất bi của một cá nhân có
nhiều thất vọng bất mãn trong cuộc đời. Buồn hận vì “những tất lòng mình hẹn cho mình ngày xưa nay vẫn chưa thực hiện được”90, vì “ra khỏi cửa”91, “chưa ra khỏi vòng thế tục”92... Con người đã phải “sống im lìm, nửa tuổi xuân đau thương”93. Và cuộc đời có nhiều mối hận: nào là hận của chim
Tinh vệ, hận trùng cửu, hận công danh, hận vì tình cảm lôi kéo của bạn bè… Những mối hận ấy “chất đầy nơi cồn bãi”94 , “tràn theo dòng sông trong”95. Cao Bá Quát có lúc chỉ còn biết “ôm hận quay trở về”96, như con chim “ôm hận mà tha đá hoài”97, “trừng mắt trông đời”98. Cao điểm của
tình cảm uất hận ấy là tiếng khóc đẫm lệ hòa quyện cùng máu. Cao Bá Quát có đến 3 lần nhắc đến
“lệ máu”.
Lệ sái hành dương huyết bính không (Tức sự)
(Nhìn cái gông, cái cùm, khóc đến cạn dòng lệ máu)
Thư thành hận tự không đề huyết (Ký hận)
(Chữ hận viết xong cứ khóc hoài đến nỗi trào máu)
Nhìn cái gông cùm mà khóc cạn dòng lệ máu, viết chữ hận đến trào máu đủ thấy nỗi phẫn uất
trong lòng Cao Bá Quát dâng đến độ tột cùng. Hận nên khóc đã đành nhưng cái cười của Cao Bá
Quát cũng đầy chua xót, đắng cay. Trong 17 lần đề cập đến cái cười thì có đến 13 lần day dứt. Cao
Bá Quát cười mình vì tự vướng vít vào thói đời mà chưa dứt bỏ được (Xuân dạ độc thư), cười mình
phận nhỏ như chim ri, chim chích mà vẫn chưa yên tổ (Ký Nguyễn Cố hữu hồi tịch), cười mình vì
danh chưa xong, lại trôi nổi (Viên cư trị vũ), viết thư tiễn bạn lên đường bỗng ngửa mặt lên trời cười
vang, để hơi nhả lên lưng chừng, bốc thành mây khói , tan biến vào hư vô (Tặng Thổ Khối Đỗ vệ úy
xuất Thanh Hóa)... Rõ thật, cái cười của Chu Thần thể hiện nỗi đau, nỗi phẫn uất của lòng người
không sao kìm nén được. Tiếng cười hòa cùng tiếng khóc đã đẩy chữ hận đến cùng cực của cảm xúc
thế nên hận mà trào máu là lẽ vậy. Mối hận không cách gì giải tỏa được. Hỏi trời nhưng trời cao nên
90 Bài Quan chuẩn 91 Bài Thuật hoài 92 Bài Hạ dạ vấn bốc đồng Hành Phủ 93 Bài Châu Long tự ức biệt – kỳ nhất 94 Bài Họa Thận Tư xuân nhật đồng chư hữu đăng Trấn Vũ quán lâu vọng hồ kiến ký thứ vận 95 Bài Chu hành há Thanh Khê, nhân cố nhân ký biệt tong du chư đệ tử 96 Bài Châu Long ức tự - kỳ nhị 97 Bài Thanh minh nhật cảm tác, họa Trần Ngộ Hiên thứ vận – kỳ nhị 98 Bài Du Đằng Giang dữ hữu nhân đăng kim chung tự, túy hậu lưu đề, tính tự
không hỏi được. Cao Bá Quát phẫn uất đến nỗi sinh bệnh, hóa điên. Một chứng bệnh vì dân vì nước,
một chứng điên đến day dứt lòng người. Cao Bá Quát đã 1 lần sinh bệnh và 2 lần trăn trở điên
người.
A đồng bất thức Duy Ma bệnh,
Sác vấn yêu vi sấu tổn vô? (Bệnh trung)
(Chú bé con không hiểu cái bệnh Duy Ma của ta,
Cứ hỏi luôn rằng: “Vòng lưng có gầy đi phần nào không?)
Đạo ngã hữu tại, bất tử duy mệnh cuồng (Tống Nguyễn Trúc Khê xuất
lỵ Thường Tín kiêm trí Lê Hy Vĩnh lão khế)
(Rằng tôi còn khỏe, không chết, chỉ mắc chứng điên thôi)
Bạch dã chính dương cuồng (Vãn Lưu Nguyệt Trì bắc hành, khuyết vi
diện biệt phụng ký)
(Rằng “Lý Bạch dạo này đang giả điên”)
Con người bi phẫn vì thấy mình không có chỗ đứng trong xã hội, muốn cống hiến cho đời,
muốn thoát khỏi cuộc đời tù túng không được. Cao Bá Quát chỉ còn biết giả điên, giả ngây trước
triều Nguyễn để mà tồn tại. Hành động giả điên chính là sự phẫn uất, phản kháng. Cao Bá Quát tỉnh
hơn ai hết, giống như Khuất Nguyên “Cuộc đời đục chỉ một mình ta trong, người đời say cả chỉ
mình ta tỉnh”...
2.4. Con người tình cảm:
Thơ chữ Hán Cao Bá Quát có cái gốc ở tính tình. Trong thơ, ông viết: “Con người ta không phải là giống cỏ cây không vui, không buồn, mà có tình cảm vì có hiểu biết”99. Và càng không thể là bậc thánh tới mức “vong tình”100. Những lời trên là hạt nhân cơ bản của con người tình cảm trong
thơ Cao Bá Quát.
2.4.1. Tình cảm đối với quê hương:
Yêu quê hương là một xúc cảm tự nhiên ở Cao Bá Quát. Tình cảm này dễ thấy mỗi khi ông
xa quê, ít về. Có trên 28 lần, Cao Bá Quát bộc lộ trực tiếp tình cảm đối với quê hương. Chu Thần
xa quê vì nhiều lẽ vì công danh, vì sinh kế và thú ngao du sơn thủy. Trong những cuộc hành trình
ấy, có khi ngắn, dài nhưng ở Cao Bá Quát, con người nặng tình quê ấy cứ day dứt, không yên. Bởi
vậy, ngay trong đêm từ biệt người nhà Cao Bá Quát đã phát bệnh; mái tóc bỗng phút chóc bạc trắng
trong một đêm, lệ rơi tràn đến độ đóng băng trên chiếc áo tơi (Dư gia nhân tác biệt thịa dạ dư bệnh
chuyển phát). Một con người từng hiên ngang bất khuất như Chu Thần chỉ biết cúi đầu trước hoa
mai, giờ đây lại nghẹn ngào vì những tình cảm thân thuộc. Thế nên, con người khí phách ngang tàng
99 Bài Đắc thư gia, thị nhât tác 100 Bài Dữ gia nhân tác biệt thị dạ dư bệnh chuyển phát, bài Hữu sở tư
ở Chu Thần lại càng lung linh tỏa sáng hơn bởi cái tình quê da diết sâu nặng. Cái tình ấy vốn là cội
rễ ở con người. Cao Bá Quát xa quê, cái cảm giác ấy được cảm nhận không chỉ ở nỗi buồn mà như
một cái tội vậy. Tội vì xa quê, còn gì đau khổ hơn?
Nhất đông thiên địa viễn
Tội tật chính ly hương (Ức tử)
(Một mùa đông đất trời xa cách,
Tội tình, đau khổ chính vì xa quê nhà)
Cái lạnh của mùa đông giá băng hòa quyện cùng nỗi lòng của người cha nhớ con, lấy gì để diễn tả
tình cảm ấy. Lại trong cảnh xa nhà đất khách. Ai thấu hiểu nỗi lòng của người xa xứ khi mà khoảng
cách hành trình càng xa, thời gian càng dài!
Du du từ cố quốc,
Man man hướng trường lộ (Phó Nam cung, xuất giao môn, biệt chư
đệ tử)
(Lòng vời vợi từ biệt quê nhà,
Đi trên con đường thăm thẳm)
Tích biệt gia thiên lý (Văn Lưu Nguyệt Trì Bắc hành khuyết vi diện
biệt phụng ký – kỳ nhất)
(Những ngậm ngùi vì phải xa nhà hàng nghìn dặm)
Thiên lý gia hương yêm nhật nguyệt,
Vạn trùng sơn hải duyệt phong trần (Tống nội huynh Đỗ Lý An Huấn
Đạo giả mãn hồi kinh)
(Tình quê nghìn dặm chìm ngập ngày tháng,
Muôn trùng núi biển trải bao gió bụi)
Cao Bá Quát lòng vợi vợi, nỗi ngậm ngùi, tràn ngập niềm xa quê. Tình cảm ấy cứ day dứt trong lòng khác chi "nỗi cảm của Vương Xán" 101 nơi đất lạ. Và còn gì buồn hơn khi tình cảm ấy lại
hòa điệu với tình thân. Lại một lần nữa tứ thơ vang lên buồn rười rượi.
Mạc mạc gia hương lưỡng thân cách,
Thê thê ky hoạn nhất huynh diêu (Đoan dương)
(Quê nhà vời vợi, ly biệt song thân,
Chức quan vướng víu bận bịu, xa cách một anh)
Xa người thân, quê nhà cách biệt vời vợi lại đúng dịp tết Đoan dương, Cao Bá Quát nhớ
chuyện Khuất Nguyên mà buồn cho tấm thân lưu lạc: "Muốn viếng Khuất Nguyên, biết hỏi nơi đâu? Hồn lữ thứ phiêu bạt, ai là người chiêu mời?"102. Để rồi trong khoảnh khắc nhớ thương ấy, lòng
Chu Thần lại hướng về nỗi đau ngày ấy, ngày mà - Ta sắp đi, trong nhà mất liền hai đứa con/ Đến 101 Người nước Ngụy, đời Tam quốc, khi ở Kinh Châu với Lưu Biền có bài Đăng lâu (Phú lên lầu) nói lên tình nhớ nhà. 102 Bài Đoan dương
Bộ chẳng được bao lâu, lại mất một đầy tớ. Một nỗi buồn xa cách cùng với nỗi mất mát quá lớn làm
Cao Bá Quát rơi lệ khi quây đầu ngóng trông về quê nhà (Tạc ức).
Khi nỗi buồn được nhân lên thì nỗi nhớ cứ quay quắt trong lòng, nó thúc bách con người.
Thời gian càng về đêm khuya lại càng có sức khơi gợi những tình cảm thầm kín, nhất là những
người đang mang nặng tâm sự. Hồ Xuân Hương trong cảnh ấy đã bày tỏ lòng mình qua loạt bài thơ
“Tự tình”. Con người trong thơ Cao Bá Quát cũng vậy. Nỗi nhớ quê thường gắn liền với những đêm
khuya tĩnh mịch.
Hương sầu duy phạm dạ (Hàn dạ tức sự)
(Nỗi buồn nhớ quê không chừa gì đêm khuya)
Tư hương ký dạ ngâm (Văn Lưu Nguyệt Trì Bắc hành khuyết vi diện
biệt phụng ký – kỳ nhị)
(Nỗi nhớ quê, gửi gắm vào khúc hát lúc đêm khuya)
Dạ thâm tàn mộng đáo Tây hồ (Thuyền hồi quá Bắc dữ, dư bão bệnh
sổ nhật hỹ, dạ bán đăng tường tứ vọng, thê nhiên độc hữu hương quan chi cảm, nhân giản Trần
Ngộ Hiên – kỳ nhất)
(Đêm đã khuya, giấc mộng tàn đến tận Hồ Tây)
Cao Bá Quát đã 7 lần nhớ quê trong đêm khuya, ở mọi hoàn cảnh: vào một đêm hơi bấc lạnh
lẽo, khi tiễn bạn ra bắc, lúc ở nước ngoài… Một nỗi nhớ thường trực trong lòng. Nỗi nhớ có khi do những âm thanh thân thuộc, tha thiết đem lại: "tiếng chày đêm" 103, "tiếng sáo"104 (tiếng sao được
nhắc đến 3 lần, 2 lần gắn với tâm trạng nhớ quê) ; do không gian bao la khơi gợi (Chu trung hiểu
vọng phụng trình đồng chu chư quân tử)… Cao Bá Quát trong cảnh ấy hướng lòng mình về quê nhà. Những hành động được biểu hiện, khi thì "nơi trường đình ngoảnh nhìn phía Bắc”105, khi thì "ngoái đầu trông về Kinh Xuân"106, "chốc chốc lại trông về phía Bắc"107 hay "ngóng bốn đài cao ở trên thành"108. Phương Bắc trong nỗi nhớ của Cao Bá Quát là quê hương, là gia đình, điểm tựa. Có
đến 6 lần, Chu Thần hướng về phương ấy.
Bắc vọng thiên dư lý (Đoan ngọ)
(Trông về Bắc (xa) hơn nghìn dặm)
Tam vãng vọng thành Bắc (Đắc gia thư, thị nhật tác)
(Ba lần trở ra, nhìn về phía bắc thành)
103 Bài Đào Xuyên mộ chử 104 Bài Văn địch, bài Long Thành lãm thắng hữu cảm, bài Trung thu kiến nguyệt 105 Bài Kiến Bắc lai nhân, nhân thoại cố hương tiêu 106 Bài Thuyền trú Hạ Châu thư hoài, trình Trần, Lê nhị quân tử 107 Bài Chu trung hiểu vọng phụng trình đồng chu chư quân tử 108 Bài Ký Bảo Xuyên trấn tây quân thứ
Minh thần khước vọng giang kiều lộ,
Nam lĩnh vân liên Bắc lĩnh vân (Biệt Phạm Đôn Nhân Lang Trung)
(Sáng mai lại ngóng trông về phía đường cách sông cách cầu,
Sẽ thấy mây núi Nam nối liến với mây núi Bắc !)
Cao Bá Quát nhớ quê. Một ngày xa quê mà ông dằn vặt cứ tưởng đã ba thu. Cái thời gian
giãn cách được lặp lại 2 lần cứ ám ảnh gợi nhớ khôn nguôi.
Hương tư kịch tam thu (Thập lục nhật yết đỉnh Lữ Thuận, thứ Trần
Ngộ Hiên)
(Lòng nhớ quê hương một ngày những tưởng ba thu)
Hương quốc tam xuân ý (Châu trung hiểu vọng phụng trình đồng châu
chư quân tử)
(Nỗi niềm quê hương tưởng nhớ cảnh ba xuân)
Đất khách dặm đường xa nỗi nhớ cứ thế mà dàn trãi ra. Cao Bá Quát có tình yêu quê da diết,
gắn bó máu thịt sâu nặng mới có cách cảm nhận như thế ! Bởi thế, ông luôn đồng cảm với “nỗi nhớ quê của của Tử Mỹ”109. Bởi thế, khi nhìn lại bước đường đã trải qua, ông đã có sự cảm nhận thấm thía: “Lòng khách kinh sợ năm tháng trôi qua”110. Cao Bá Quát nhớ quê mà không thể về được.
Điều đó còn gì buồn hơn! Lời thơ của Đỗ Trung Quân gợi nhớ về một tình quê thắm thiết.
Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu…
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều...
(Quê Hương – Đỗ Trung Quân)
Tiếng lòng của Cao Bá Quát lúc này chắc hẳn cũng vậy. Nhớ quê , Cao Bá Quát sợ khi đối
diện với hoa và hoa dường như cũng ái ngại cho bước chân lữ khách (Khách lộ cảm hoài). Buồn vì
xa quê nên nhớ, nhớ mà không về được lòng càng buồn hơn. Cao Bá Quát thường hay mơ (mộng)
quê là vậy. Có đến 4 lần, ông đối diện với giấc mộng.
Dạ thâm tàn mộng đáo Tây Hồ (Thuyền hồi quá Bắc dữ, dư bão bệnh
sổ nhật hỹ, dạ bán đăng tường tứ vọng, thê nhiên độc hữu hương quan chi cảm, nhân giản Trần
Ngộ Hiên – kỳ nhất)
(Đêm đã khuya, giấc mộng tràn đến tận Hồ Tây)
Quy mộng trở sơn xuyên (Đoan ngọ)
(Giấc mộng về (quê nhà) cách trở núi sông)
Mộng nhiễu gia hương chỉ xích gian (Để ngụ bệnh trung giản chư
hữu) 109 Tử Mỹ tên tự là Đỗ Phủ, thi nhân đời đường. Lúc ông chạy loạn vào Ba Thục, có làm nhiều bài thơ tả cảnh tình quê hương. 110 Khách tâm kinh tuế nguyệt (Bài Đoan ngọ)
(Hồn mộng quẩn quanh nơi quê nhà trong ngang tấc)
Một giấc mộng hướng về quê nhà, một hồn mộng tuy xa mà gần. Tình quê ở Cao Bá Quát
đau đáu ngay trong giấc mộng quả thật làm cho người ta cảm động. Thời gian cứ trôi, người đi vẫn chưa về. Giấc mộng quê vì vậy mà cứ dài ra, có khi được tính bằng "hồng hạnh vũ"111 (mùa mưa
hồng hạnh). Mùa xuân đã hết mà người đi vẫn lênh đênh nơi hải hồ. Lại một mùa xuân nữa nơi quê người "khói hoa ngổn ngang tâm sự bời bời"112. Tình quê vì vậy mà tràn ngập trong mộng (mơ), và “mọi giấc mơ (luôn) là hình ảnh của quê nhà”113. Nhưng có khi giấc mơ quê lại không được trọn
vẹn. Nó bị nước lụt mùa thu ngắn cách, bị cơn mưa đêm xóa nhòa.
Hương viên mộng trở tam thu lạo (Thương Sơn công hữu sở quỹ vật
kiêm trí hảo thi, bộc phương nhiễu vu thất tử chi thích, cảm thê giao khẩn tình hiện hồ từ)
(Hồn mơ về quê nhà, bị nước lụt mùa thu ngăn cách)
Lữ mộng kinh tiêu vũ,
Ly tư cách mã trần (Châu Long tự ức biệt – kỳ nhất)
(Mưa trên tàu lá chuối kinh động giấc mơ xa nhà,
Bụi vó ngựa ngăn cách những người mang tâm tư ly biệt)
Con người nhớ quá nên hóa hư thành thực. Một sự trở về trong điệu sáo nghe như giọng tỉ tê
(Văn địch). Song mộng mơ là hư ảo, nó càng làm cho con người nhận thấy hiện thực phủ phàng. Con đường về nhà của Chu Thần càng trở nên xa lắc "qui lộ chuyển du du"114 và ngày trở về quê
chẳng biết bao giờ. Có đến 3 lần Cao Bá Quát bày tỏ tình cảm thất vọng này.
Phàn lung thê điểu vị tri hoàn (Để ngụ bệnh trung giản chư hữu)
(Như con chim nhốt trong lồng biết bao giờ về)
Cô vân hà thời hoàn ! (Trấn An lệnh Lê tử chi nhiệm, đặc lai tương
phỏng, kỳ hữu sở tặng, thư dĩ dữ chi)
(Chòm mây lẻ loi này biết bao giờ về !)
Cố hương hữu mộng tri hà đáo (Cửu nguyệt sơ thất nhật dĩ trường sự
hạ Trấn Phủ ngục)
(Quê nhà trong mộng biết bao giờ về đến)
Quê hương như Cao Bá Quát nói chỉ cách “gang tấc” mà không thể về được. Đó là nỗi khổ
111 Qui mộng dĩ tiêu hồng hạnh vũ (Trần Ngộ Hiên nhục hữu sở thịtẩu bút họa chi) 112 Yên ba lang tạ dị hương xuân (Bài Di đĩnh nhập dũng cảng) 113 Bài Chu trung đối nguyệt 114 Thử sinh quy lộ chuyển du du (Bài Lưu viện du nguyệt, văn đắc tái phát Đà Nẵng, thị dạ đồng Vũ Hoài Phủ thống ẩm)
tâm của người xa xứ. Lòng luôn hướng về quê hương cho đỡ nhớ nhưng càng nhớ tình lại sầu thêm.
Có những lúc được về quê, lòng Cao Bá Quát lại hướng về Nam thương nhớ "Nghoảnh trông đèo Hải Vân xa không với tới/ Rưng rưng nước mắt nhìn làn cây nam mai"115.
Nhớ quê, Chu Thần nhớ những gì thân thuộc, gần gũi nhất như cây gạo cao cao, hồ Ngựa
Trời, dòng Đức giang, gò Phượng Chủy, nhớ Hồ Tây.... Con người trong thơ thường nhắc đến
những hình ảnh ấy với tình cảm thân thiết, kỷ niệm. Cây gạo ở làng Phú Thị như một “biểu tượng”
về quê hương và nỗi nhớ hiện diện 2 lần trong thơ.
Cao cao mộc thiên thụ,
Cổ cán hà thanh sơ! (Tương đáo cố hương)
(Cây gạo cao cao kia,
Gốc già mà ngọn thanh đẹp làm sao!)
Mộc miên điếm lý sương thu thảo,
Thiên mã hồ biên nhật thướng trì (Để gia)
(Đây điếm Cây Gạo, sương đã tan rồi,
Kia là Hồ Ngựa Trời, vầng ô đang lên chậm)
Cây gạo đầu làng gắn bó cùng tuổi thơ Chu Thần, là dấu hiệu của những gì thân thương nhất.
Nó như cây đa, giếng nước đầu đình xưa kia vậy. Và đâu chỉ có hình ảnh cây gạo, Cao Bá Quát còn
háo hức nhớ như in đường đi nước bước làng quê mình, lối vào nhà mình. Nỗi nhớ quê còn thấp
thoáng xa xa những cảnh chiều quê đậm hương tình xứ sở (Thôn cư thập nhị vịnh, Thôn cư vãn
cảnh). Ông yêu và say vẻ đẹp của Hồ Tây, vẻ đẹp của sông núi muôn trùng từ Nam chí Bắc... Nỗi
nhớ cố hương còn bắt gặp trong hương vị của món ăn thân thuộc. Cao Bá Quát nhớ món gỏi cá lô
nơi quê cũ. Không biết hương vị của nó ra sao nhưng trong giấc mộng mà vẫn nhớ về nó thì quả thật nó rất gắn bó với ông: “Trong mộng mới hiện về món gỏi cá lô ở quê cũ”116. Tình cảm đó nào khác
người đi trong ca dao nhớ về hương vị đồng quê.
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương… (Ca dao)
Nhớ quê, những lúc ở xa gặp bạn hàng xóm, Cao Bá Quát “tần ngần vừa nhìn nhau vừa gạt
nước mắt” bởi thấy con người ấy như thấy cả quê hương, tíu tít hỏi thăm chuyện trong làng, trong
nhà không dứt. Từ nỗi nhớ quê con người quay sang nhớ nhà, nhớ những cảnh thân thuộc, nhớ
những cây tự trồng trước sân (Đối cúc Chuyết Hiên trạch đồng chư hữu phú)… Có dịp về thăm quê
ông lại tỏ ra vui mừng (Để gia, Tương đáo cố hương). Nhưng niềm vui nào có trọn vẹn. Trên con
đường cố hương ấy, Cao Bá Quát chân bước cứ ngập ngừng, dường như có một niềm vui hòa trong
115 Hồi thủ Hải Vân phan bất đáo/Phiêu phiêu thùy lệ hướng nam mai (Bài Dư hốt ư mộng trung vãng Thám Tuần Phủ, ám tưởng kinh trung cổ nhân hoặc đương hữu niệm ngã giả, nhân ký Tuần Phủ kiêm trình Đôn Nhân Phạm Tử - kỳ nhất) 116 Bài Sơ thu vịnh Hoài Phủ, Minh Trọng nhị tri kỷ
nỗi buồn khó giãi bày (Sa hành đỗ Đông Dư, ký mộ lưu túc).
Tình yêu quê càng sâu nặng, Cao Bá Quát càng mặc cảm với quê hương. Mặc cảm vì bản
thân trải bao lận đận, chẳng làm được gì cho quê hương đất nước. Con người ấy bỗng trở nên vĩ đại biết bao khi bật lên tiếng lòng, nói những lời “gan ruột”: “Phiền bác vì tôi xin lỗi quê hương”117.
Thật hiếm thấy một nhân cách làm người, một tình quê sâu nặng như Chu Thần vậy.
2.4.2. Tình cảm đối với người thân:
Một khía cạnh nữa của con người tình cảm là tấm lòng của Chu Thần đối với cha mẹ. Có đến
9 bài thơ, Cao Bá Quát nhắc đến cha mẹ. Điều này rất hiếm thấy trong sáng tác của các nhà thơ
trung đại Việt Nam. Ở người mẹ già ấy gợi biết bao nhớ thương cho đứa con xa nhà. Bởi thế, cảnh
đoàn viên sum hợp, trước nỗi vui mừng của mẹ trông chờ bấy lâu nay, Cao Bá Quát không dám nói đến chữ “biệt ly”118. Mẹ thương con như lẽ phải bao đời nay. Lòng nhớ đến con là vô hạn: “Tư tử tình vô hạn”119. Còn tình con đối với mẹ cũng cảm động không kém. Cao Bá Quát thương mẹ không
chỉ làm cho mẹ vui, hãnh diện với xóm làng mà còn biết chăm sóc, quan tâm cho cha mẹ khi tuổi về
chiều. Ông đã bày tỏ tấm lòng hiếu thảo trong những hoàn cảnh khác nhau: lúc bị bắt vì vụ trường
thi, lúc mình đi chuộc tội nước ngoài và cả khi tiễn anh vợ về kinh. Hoàn cảnh nào Cao Bá Quát
cũng nghĩ đến cha mẹ với bổn phận làm con, tấm lòng hiếu thảo.
Thùy hướng cao đường úy nhị thân? (Cửu nguyệt sơ thất nhật dĩ
trường sự hạ Trấn phủ ngục)
(Nào ai an ủi mẹ cha?)
Bạch phát cao đường ỷ vọng thâm (Thuyền hồi quá Bắc dữ, dư bão
bệnh sổ nhật hỹ, dạ bán đăng tường tứ vọng, thê nhiên độc hữu hương quan chi cảm, nhân giản
Trần Ngộ Hiên – kỳ nhị)
(Cao đường tóc bạc tựa ngắm phương xa)
Bán vị cao đường hữu lão nhân (Tống nội huynh Đỗ Lý An Huấn đạo
giả mãn hồi kinh)
(Nửa phần vì trên nhà còn có cha mẹ già)
Cao Bá Quát thương cho mình công danh chưa vinh hiển mà bị tù tội, đày ải. Lại thương cha
mẹ già yếu biết lấy ai trông nom, khi hay tin chẳng lành này. Ông ngẫm nghĩ mà ngổn ngang, đau
xót cõi lòng. Đó là lúc Cao Bá Quát bị giam cầm. Còn trong những cuộc hành trình viễn du hay
chuộc tội, bao giờ ông cũng hướng về quê nhà, lúc bắt được thư thì vui sướng khôn nguôi; gặp
người thân từ quê đến thì ríu rít hỏi thăm gia đình. Những tin tức về cha mẹ, con cái làm ấm lòng
bước chân lữ khách.
117 Vị ngã tạ cố sơn (Bài Trấn An lệnh Lê Tử chi nhiệm, đặc lai tương phỏng, kỳ hữu sở tặng, thư dĩ dữ chi) 118 Bài Để gia 119 Tự Sơn tống Ngọc Tiên quy tỉnh
Cao đường vô dạng lưỡng nhi tồn (Đắc hà thành cố nhân thư thoại
cập giai tình kiêm vấn cận tác)
(Bác mẹ bình yên, hai trẻ vẫn thường)
Lão nhân kiên tại liên nhi cách,
Trỹ tử hoan lạu hỷ phụ tồn (Kiến Bắc nhân lai nhân thoại cố hương
tiêu tức)
(Cha mẹ già còn khỏe mạnh thương con đi xa,
Lũ con trẻ sung sướng mừng cha còn sống)
Còn nỗi vui sướng nào bằng khi khách tha hương lâu năm chưa có được dịp về quê mà lại
biết tin cha mẹ vẫn bình yên, con cái vẫn khỏe? Tin tức ấy do chính những người bạn thân, những
người láng giềng cho biết. Mừng cho cha mẹ mạnh khỏe, Cao Bá Quát cầu chúc cha mẹ luôn như
cây tùng trên núi quắc thước cùng tháng năm (Tự sơn tống Ngọc Liên quy tỉnh). Ngày hay tin cha
mẹ mình phải sống nhờ nhà người, ông đau đớn biết mấy: “Ngày hai em trai phiêu bạt phương xa, (Là) lúc cha mẹ già tiều tụy sống nương nhờ nhà người”120. Kẻ sĩ như Cao Bá Quát từng mưu toan
việc lớn giúp ích cho đời, đem cơm no áo ấm cho người, vậy mà tình thâm không cưu mang nỗi
phải nhờ cậy kẻ khác. Đau đớn tủi nhục cho mình lại thương cho cha mẹ trong tuổi xế chiều mà
không mái ấm, cơm không được ngon, không thân thích sớm hôm trông nom, thăm hỏi. Khoảnh
khắc đau thương vì mất chị cùng với tình cảnh lênh đênh của song thân chẳng khác nào một trời
quan tái làm buốt lòng khách tha hương. Không chỉ có hiếu nghĩa với cha mẹ, Cao Bá Quát còn hiểu
được tấm lòng “chẳng thiên lệch” của bậc sinh thành. Phận làm con không nên vì một hiểu lầm nhỏ mà giận cha mẹ. Mượn chuyện “đào đất gặp mẹ của Trang Công”121, Cao Bá Quát muốn nêu gương
tốt cho người đời noi theo... Ngày nghe tin bạn ra Bắc, Cao Bá Quát vui mừng khôn tả, nhờ gửi lời thăm hỏi gia đình. Lòng mong ước “Sẽ có ngày được về bái yết song thân”122. Rồi, khi đã chán ngán
triều Nguyễn, sắp thực hiện nghĩa lớn, nỗi lo lắng của người thơ vẫn với mẹ già. Chu Thần tranh thủ
về thăm mẹ già. Người mẹ già ấy đã héo hon đi trong sự cô đơn, trước những tin tức không tốt lành
về hai đứa con yêu dấu. Con người trong thơ những lúc ấy đầm đìa nước mắt: “Với thế gian này
thân ta dù từ biệt/ Một chết có tiếc gì/ Chỉ thương nỗi mẹ già còn đó/ Hết sớm hôm tựa của trông hoài”123 .
Suốt cuộc đời Cao Bá Quát đều đối xử với cha mẹ theo một nếp như thế. Ở đây không hề
thấy một con người “quen thói ngông cuồng”, hư hỏng mà chỉ thấy một người con chân thành và
giàu lòng hiếu thảo với người đã có công sinh thành dưỡng dục mình. Nếu đem cách sống trên so
với cách sống mà Nho giáo yêu cầu thì rõ ràng là hai mặt khác biệt, đối lập nhau. Một đằng thì tự
nhiên, chân thật, lành mạnh, một đằng thì khắc nghiệt cứng đờ; một đằng thì nâng con người lên, 120 Nhị đệ phiêu linh vi khách nhật, Lão thân tiều tụy ký cư thì (Bài Khốc vong tỷ) 121 Bài Kê dưỡng áp 122 Bài Văn Lưu Nguyệt Trì bắc hành khuyết vi diện biệt phụng ký – kỳ nhị 123 Bài Văn Phương Đễ Nguyễn ông đắc dĩ cố lý di Hưng Yên, thư thử vi tặng
còn cách sống của Nho giáo được căn dặn trong cuốn “Hiếu kinh” hoặc tô vẽ trong cuốn “Nhị thập
tứ hiếu”.
Có hiếu với mẹ cha, Cao Bá Quát còn là người em có tình nghĩa ‘máu chảy ruột mềm” với
anh chị. Con người trong thơ đã 3 lần bộc lộ mối tình thâm này. Cao Bá Quát đau đớn khi hay tin
chị mất (Đắc gia thư, thị nhất tác) mà khóc sinh ly suốt cả mấy tuần (Khốc vong tỷ). Nỗi đau vì mất
chị làm tinh thần ông bấn loạn, đứng ngồi không yên, mắt hướng về phía quê nhà với nỗi buồn dằng
dặc. Ở quán trọ, khi bắt được thư anh, Cao Bá Quát cũng xúc động sụt sùi, viết bức thư đẫm lệ (Mộ
đắc xá huynh quán dạ giam thư kiến ký).
Con người trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát còn dành nhiều tình thương đối với vợ con. Đây
là cảnh đoàn viên không chút khuôn sáo, cách biệt trong một lần Chu Thần về nhà “Người vợ vụng tựa gối chải mái tóc rối/ Đứa con thơ kéo áo gối đầu lên khuỷu tay”124. Cảnh vợ chồng con cái sum
vầy thật đầm ấm. Thương thay! Cảnh hiếm hoi ấy của một đời dằng dặc những nỗi ly biệt mà người
về lại ốm đau. Tuy nhiên, đoàn viên là hạnh phúc lắm rồi dù cho cảnh ấy có ra sao đi nữa. Vợ lo
lắng, chăm sóc cho chồng, con nũng nịu với cha. Những cử chỉ ấy khắc sâu và da diết ở ông. Tình
cảm ấy đầm ấm, quý báu biết bao! Cao Bá Quát làm sao quên được. Để rồi trong những chuyến đi,
ông đau lòng khi hướng về quê nhà nơi có vợ hiền con thơ. Cái thời gian cuối năm cứ đay nghiến
khi khách lữ hành cảm nhận nỗi tha hương của vợ con mình. Giờ này, “Vợ con lênh đênh quê người”125. Câu thơ nghe buốt lòng lữ khách. Trách nhiệm của kẻ làm chồng làm cha chưa trọn. Cao
Bá Quát tự trách với chính mình. Một câu thơ mà như dựng lên cả cảnh đời lênh đênh của vợ con.
Cao Bá Quát – khách lữ hành thương kẻ lữ thứ - vợ con - thật cảm động. Quả thật, tình cảm Chu
Thần dành cho vợ con trước sau như một, không đổi dời, như ông từng nói “Ở quê người xa cách tình vợ con vẫn như thế”126.
Riêng tình cảm đối với vợ, Cao Bá Quát đến 4 lần bày tỏ. Ở người vợ hiền ấy chắc hẳn có
những phẩm chất đáng quý của người phụ nữ nên động lực tình cảm ở Chu Thần mới da diết khôn
nguôi. Ngày vào tù nơi phòng giam trống vắng, lạnh lẽo, cô đơn, nỗi nhớ về người vợ càng khôn tả.
Người vợ hiền như đã thấu hiểu nỗi lòng đó, đã gửi cho chồng chiếc áo rét mặc ấm, cây bút đề thơ.
Cảm động biết bao tình ý của vợ, Cao Bá Quát muôn hàng lệ rỏ trước đèn khi xem thư vợ: “Một phong thư đọc dưới ngọn đèn, muôn hàng lệ rỏ/ Đêm nay hồn vật vờ quanh chốn buồng thêu”127.
Cao Bá Quát đã thật sự đồng cảm với nỗi đau của vợ khi xa chồng. Nhưng ông hiểu và tin vợ hơn.
124 Chuyết thê ỷ chẩm sơ bồng mấn/ Trĩ tử khiên y tạ khúc quăng (Bài Bệnh trung) 125 Thê tử dị phương du (Bài Tuế mộ) 126 Tha hương thê tử hựu như câm (kim) (Bài Thuyền hồi quá Bắc dữ, dư bão bệnh sổ nhật hỹ, dạ bán đăng tường tứ vọng, thê nhiên độc hữu hương quan chi cảm, nhân giản Trần Ngộ Hiên) 127 Nhất giam đăng hạ vạn hàng đề/ Thử dạ tàn hồn nhiễu tú khuê (Tiếp nội thư tính ký hàn y, bút đều sổ sự)
Bà sẽ vượt qua tất cả, bà sẽ là người vợ hiền đảm đang, cao thượng như nàng Mạnh Quang ngày
xưa, theo chồng, giã gạo thuê kiếm sống. Rồi những lần viễn du xa nhà, tình cảm Cao Bá Quát dành
cho người vợ hiền vẫn không phai lạt. Gió mưa như khêu gợi nỗi nhớ vợ da diết hơn.
Nhân quân phỏng gia thất,
Phong vũ cộng triêm khâm (Văn Lưu Nguyệt Trì Bắc hành khuyết vi
diện biệt, phụng Ký – kỳ nhị)
(Nhân tiện nhắn bác hỏi thăm nhà tôi,
Trong buổi gió mưa này, ai mà chẳng nước mắt thấm áo)
Thiên biên chinh khách, khuê trung phụ,
Hà xứ tương tư bất đoạn hồn! (Trệ vũ chung dạ cảm tác)
(Kẻ ở chân trời và người ở chốn phòng khuê,
Đã nhớ nhau thì ai ở đâu mà tâm hồn chẳng tan nát)
Người chồng đã khóc vì xa vợ, nhớ vợ, hướng về vợ nơi cô phòng trống vắng với nỗi lòng
yêu thương, cảm thông. Người chồng đã nhắn nhủ với người, bày tỏ với lòng để người vợ hiền hiểu
thêm cái tình nghĩa vợ chồng đâu thể xa mặt mà cách lòng. Gió mưa đang gào thét hay tâm hồn Cao
Bá Quát đang tan nát, đẫm lệ vì nhớ thương?
Thương vợ lắm lúc những đêm mưa, ngồi cạnh ngọn đèn, Cao Bá Quát nghĩ vợ cũng như
mình đang ngắm nhìn những kỉ vật của nhau: chiếc gương nhỏ người đi mang theo, tấm áo rét người
vợ giữ lại. Những kỉ vật này khác gì người trong cảnh, giữ chúng để tự an ủi cho nhau, để nhắc nhớ
cho nhau về một tình nghĩa vợ chồng keo sơn gắn bó (Tự quân chi xuất hỹ). Từ hoàn cảnh của
mình, Cao Bá Quát đã hóa thân thành người vợ, nói lên tiếng nói của họ, đồng cảm với những nỗi
đau của họ: tình yêu không trọn vẹn, tuổi xuân ngày một hao mòn. Cao Bá Quát viết 4 bài về nỗi
oán phòng khuê. Trong 4 bài khuê oán thì cả 4 bài, ông nói hộ lòng người vợ. Khuê oán – kỳ nhất
và kỳ tứ nói lên nỗi cô đơn nơi cô phòng, tuổi xuân mặn mà xưa kia trôi qua mà hạnh phúc vợ chồng
chưa hưởng trọn. Khuê oán kỳ nhị và kỳ tam là lời trách cứ của người vợ đối với chồng vì ham sắc
đẹp, chuộng cái mới mà đôi lứa tan vỡ. Lời trách cứ đó cũng khẳng định tình yêu thủy chung của
người vợ muốn biến khúc “Thái Tiêu” thành bài “Bạch đầu ngâm”. Ở một bài khác, Đại nhân ký
viễn – phú đắc doanh doanh lâu thượng nữ, Cao Bá Quát cũng hóa thân thành người vợ nói lên nỗi
nhớ thương, trông ngóng chồng ngày ngày đến nỗi biếng trang điểm, vóc hoa héo gầy; ước mơ ngày
đoàn tụ thêu gối chim uyên ương. Tất cả nỗi lòng ước ao đó, nàng gởi trọn vào khúc “Ly loan” (xa
chồng), nhờ gió gửi đến người phương xa.
Chính vì thương vợ, thấu hiểu hoàn cảnh xa gia đình của mình mà Cao Bá Quát luôn đồng
cảm, chia sẻ và trân trọng những tình cảm quý báu ở người phụ nữ. Thế nên, khi bắt gặp hạnh phúc
của người phụ nữ Phương Tây, dù biểu hiện khác với người Á Đông, Cao Bá Quát vẫn có cái nhìn
thiện cảm, ấm áp. Có lẽ Cao Bá Quát cũng thầm cảm ơn người chồng kia đã đem lại niềm vui hạnh
phúc thật sự cho người vợ. Điều mà bấy lâu nay ông thầm mơ ước, và ngày ngày mong mỏi. Và
phải chăng bài Dương Phụ Hành là lời đáp trả, niềm an ủi động viên mà Cao Bá Quát dành tặng cho
những người phụ nữ, người vợ còn đang mong mỏi chờ trông chồng?
Cao Bá Quát rất mực thương con. Trong 6 bài thơ viết về con, ông đều bày tỏ tình cảm
thương yêu da diết. Đó là nỗi nhớ con khi xa nhà, khi nhìn thấy con người ta (Hữu sở tử), là ước ao
nằm mơ thấy con mà không sao có được (Ức tử), rồi khi nằm mơ thấy con thì nỗi đau càng đau hơn:
con quần áo xác xơ, vẻ mặt buồn rầu (Mộng vong nữ). Kẻ làm cha không cầm lòng được đã khóc
thật nhiều và nói với đứa con trong nỗi đau đớn: “Dù đói khổ thì con hãy cứ về, nhà ta nghèo nhưng dưa muối vẫn không thiếu”128. Tình cảm ấy lại được nâng lên trong tiếng quạ kêu chiều, trong nỗi
cô đơn tỉnh say.
Nhi nữ sầu liên bạc mộ nha (Thương Sơn công hữu sở quỹ vật kiêm
trí hảo thi, bộc phương nhiễu vu thất tử chi thích, cảm thê giao khẩn tình hiện hồ từ)
(Mối sầu thương con day dứt trong tiếng quạ chiều hôm)
Sầu tuyệt không phùng phong vũ dạ,
Nhất đăng minh diệt đối cô miên (Khốc tử)
(Sầu đêm dứt đêm gió mưa còn đó,
Ngọn đèn leo lét bên giấc ngủ cô đơn)
“Thất tử” dài 160 câu, là bài thơ diễn tả nỗi đau thống thiết của người cha mất đứa con nhỏ. Tình
cảm ấy quá bức xúc, làm ông bối rối, ông hỏi người, hỏi trời cao cớ sao lại vậy. Lời tựa trước bài
thơ ghi lại tình cảm này: “Ngày rằm tháng 5, con của họ Cao bị cảm mạo đột ngột đi tả rồi mất.
Cha nó là Mẫn Hiên thẫn thờ như người mất hồn vía vài ba ngày. Người bạn là Phạm Hòa Phủ đã
trải qua nỗi đau khổ ấy thấy vậy mà ngăn rằng: Ngày xưa, Mạnh Đông Dã thương tiếc con, đã làm
bài thơ rất buồn, Xương Lê hàn tử cho rằng cái mệnh của con người là do trời cho mượn để an ủi
ông ta. Hoàng Lỗ trực ghi câu ấy rồi đưa cho Thạch Quân Mỹ khi Thạch Quân Mỹ bị mất con.
Thạch Quân Mỹ nói: Luôn xem ngắm mọi vật, có thể dùng sự suy nghĩ lung tung để đỡ bớt sự đau
buồn. Than ôi! Hòa Phủ tự thương mình ư? Hay thương ta chăng? Ôi! Lời nói thật thâm thúy! Nửa
đêm nằm một mình bèn bắt chức theo Hàn thể mà làm bài thơ tứ ngôn gồm 640 chữ, tạm để trải
rộng ra cái ý của mình, vả lại còn gởi cho Hòa Phủ để hiểu ta như thế nào nữa”.
Có thể nói Cao Bá Quát là một trong số không nhiều những nhà thơ Việt Nam trung đại viết
nhiều, viết rất cảm động về vợ, về con với những tình cảm trìu mến nồng nàn, giản dị mà sâu sắc.
2.4.3. Tình cảm đối với bằng hữu:
Ở Cao Bá Quát còn có một thứ tình cảm không kém phần cao đẹp – đó là tình bằng hữu. Nếu
128 Bài Mộng vong nữ
lấy số lần nhắc đến bạn hữu làm cơ sở, thì tình bạn lại là mối quan tâm lớn nhất trong thơ ông. Đọc
thơ chữ Hán Cao Bá Quát, chúng ta thấy ông nhắc rất nhiều đến bạn hữu, bao gồm bạn bề rộng giao
thiệp xã hội lẫn chiều sâu trong mối tương giao tri kỉ. Bạn ở Thăng Long từ thưở còn đi học, bạn ở
cùng vườn, bạn láng giềng, bạn văn chương thù tạc, bạn ngao du trên bước đường 10 năm phiêu
lãng trước khi làm quan, bạn tù, bạn thơ, bạn đồng niên, bạn vong niên, bạn làm quan ở Bộ, bạn sơ
giao Hoa kiều ở Hạ Châu… Nhiều người đỗ đạt làm quan ở các Bộ, làm quan các tỉnh, huyện khắp
nước, từ Tuyên Quang, Lạng Sơn đến An Giang, Trấn Tây. Họ có mặt trong thơ của ông một cách
chan hòa, chân tình mà dung dị. Khảo sát 418 bài thơ thì thấy bạn bè của ông có trên 50 người, tần
số xuất hiện như sau: Trần Ngộ Hiên (8 lần), Phương Đình (Nguyễn Văn Siêu) (7 lần), Thận Tư (7
lần), Lê Bảo Xuyên (6 lần), Di Xuân (6 lần), Thúc Minh (4 lần), Phạm Đôn Nhân (3 lần), Phàn
Hành Phủ (3 lần), Lê Hy Vĩnh (3 lần), Chuyết Hiên, Đoàn Tính, Phan Sinh, Hoài Phủ, Thương Sơn,
Nguyễn Văn Lý (2 lần), Nguyễn Chính Tự, Hành Phủ, Hoán Phủ, Ngô Phương Đình, Nguyễn Đài,
Nguyễn Mã Trai, Đỗ Lý An, Lưu Nguyệt Trì, Cao Tú tài… Một con số thật đáng nể. Điều đó chứng
Chu Thần giao du rất rộng, điều đó còn nói lên rằng Chu Thần rất được bạn bè kính trọng, thân
thiện.
Bạn của Chu Thần bốn bể, toàn là những kẻ có tài: “Bạn bè bốn bể không có người vụng về”129. Nhưng kẻ sĩ thường trọng tình hơn trọng tài. Trong thơ, ông có nói: “Ở đời người ta cảm nhau vì ý khí”130. Chu Thần giao du rộng, được bạn bè mến yêu chính là do cái chân tình của ông.
Trước sau, bất cứ lúc nào, dù khi tiễn đưa, lúc xa bạn hay khi gặp bạn, Chu Thần vẫn với tấm lòng
thành ấy đối đãi bạn.
Ở đời, “Sum họp hay chia phôi, mình có tính lấy được đâu”131; “Muốn gặp gỡ nhau luôn không được”132 nên thường ly biệt, Cao Bá Quát có mảng thơ tống - tiễn, nhất là tiễn bạn bè: Tiễn
bạn ra ải, Tiễn anh vợ là Huấn đạo Đỗ Lý An hết hạn nghỉ trở về kinh, Tiễn ông Nguyễn Mã Trai
vừa được phép nghỉ năm về Bắc, Tiễn Nguyễn Trúc Khuê ra nhậm chức tại phủ Thường Tín, Tiễn
Nguyễn Đài... Lệ thường trong tiễn đưa, người ra đi bao giờ cũng ngậm ngùi, khổ đau hơn người ở
lại. Thế nhưng, trong thơ Cao Bá Quát, người ở lại luôn mang một tâm sự nặng trĩu. Có đến 9 lần
Cao Bá Quát nói lên cảm xúc này.
Tống khách lai giang thượng,
Ly tình vạn lý vân...
Lục ba cương tiễn biệt,
Tao thủ trướng ly quần (Giang thượng tình vân tạp vũ vân)
(Tiễn bạn trên sông,
129 Tứ hải tri giao vô ngã chuyết (Bài Bạc xuân giản Nguyễn Chính Tự) 130 Nhân sinh cảm ý khí (Bài Chu hành há Thanh Khê, nhân cố nhân ký biệt tòng du chư đệ tử) 131 Tụ tán khởi tự mưu (Bài Chu hành há Thanh Khê, nhân cố nhân ký biệt tòng du chư đệ tử) 132 Nhân sinh hội ngộ an khả thường? (Trà giang thu nguyệt ca)
Tình ly biệt như mây muôn dặm...
Sóng biếc vừa tiễn biệt,
Gãi đầu buồn lìa bạn bè)
Tương phùng bất tích đảo phương tôn,
Tương tống minh triêu các đoạn hồn.
Tội ngã dĩ vi đồng điệu khách,
Biệt quân do khất tạm thời ngôn...
Bả duệ ân cần cánh hồi thủ,
Tưởng ưng trường luyến cựu sào ngân (Tịch thượng nhân đại Phan
Hành Phủ)
(Gặp nhau không tiếc dốc cạn hũ rượu thơm,
Sáng mai tiễn biệt nhau, cả bọn đều tan nát tâm hồn.
Ta tự kết tội mình là làm người khách đồng điệu,
Xa cách ngài còn xin nói, chỉ là thời gian không lâu dài...
Nắm tay nhau ân cần tỉ tê rồi ngoái cổ nhìn lại,
Tưởng nên nhớ mãi cái dấu vết nơi “cựu sào”)
Vị tử tương phùng thị hạnh nhân,
Cánh vi thử biệt lệ triêm cân (Đoàn Tính lâm hành bả tửu vi biệt, tẩu
bút dữ chi)
(Chưa chết, lại được gặp nhau, đã là may rồi,
Nay lại phải chia tay, khiến cho chiếc khăn đẫm lệ)
Cao Bá Quát buồn vì phải xa bạn, buồn vì lâu ngày mới được gặp bạn lại phải xa nhau. Cảm
xúc ấy như mây muôn dặm nổi trôi, như tan nát cõi lòng nhau, như nước sông Hương về chiều lạnh
ngắt. Không chỉ vậy, tình cảm ở Cao Bá Quát còn dâng trào đến độ không kìm nén được. Người ở
lại “ngậm ngùi lệ như nước” (Phù Liệt lữ đình tống Đỗ Miễn Chi ngự sử; Biệt Phạm Đôn Nhân
Lang trung), “như kẻ mất hồn” (Lưu biệt Hoàng Liên Phương). Thật là một tình cảm chân thành,
một “tấm lòng son dù đến chết cũng không bao giờ phai lạt” đối với bạn bè. Thế nên, khi tiễn bạn,
mắt Cao Bá Quát cứ đăm đăm nhìn con đường bạn đi, lòng hướng về phía con đường xa thẳm nơi
bạn đến (Tống Nguyễn Trúc Khê xuất lỵ Thường Tín kiêm trí Lê Hy Vĩnh lão khế), tiễn bạn rồi nghe
điệu tù và mà buồn thương (Ký Lê Bảo Xuyên Trấn Tây quân thứ), tựa lan can buồn không nói nên
lời (Châu Long tự ức biệt). Và hơn thế nữa, cái cảm giác tiễn đưa bạn nó cứ da diết, bâng khuâng
mãi trong tám năm trường (Du mỗ cố trách, dạ thính đàn tranh).
Cao Bá Quát còn bày tỏ tình cảm khi xa bạn. Ông nhớ lúc kết bạn, nhớ buổi chia tay, nhớ khi
tiễn đưa, nhớ lúc uống rượu luận bàn chuyện tâm địa... có khi một ngày trăm lần nhớ bạn (Thù hữu
nhân úy vấn). Cao Bá Quát nhớ những người mà mình tưởng vọng (Châu Long tự ức biệt): nhớ
Miên Thẩm ví mình như Mao Toại đối với Bình Nguyên Quân (Thương Sơn công hữu sỡ quỹ vật
kiêm trí hảo thi, bộc phương nhiễu vu thất tử chi thích, cảm thê giao khẩn tình hiện hồ từ); nhớ
Phương Đình, có đêm tưởng bạn đang ngồi một mình ngâm thơ trong một căn gác lạnh lẽo; nhớ
Tuần Phủ, người bạn đã tin ông, hiểu ông, nhìn ông bằng cặp mắt xanh (Dư hốt ư mộng trung vãng
thám Tuần Phủ, ám tưởng kinh trung cố nhân hoặc đương hữu niệm ngã giả, nhân ký tuần phủ kiêm
trình Đôn Nhân Phạm Tử). Lại có một nỗi buồn khôn tả khi xa vắng kẻ tri âm, ngày bốn tháng năm
họa thơ bạn gửi đến mà Cao Bá Quát như tan nát cả cõi lòng, thiếu vắng bạn như giường kia treo
hững hờ, như dòng sông tương tư: “Cách năm ly biệt, giường kia treo hờ hững/ Dòng sông tương tư, lại tan nát tâm hồn”133. Cảm giác nhớ bạn càng xiết bao hơn khi Cao Bá Quát cứ lênh đênh nơi
quê người, ngày hay tin bạn về quê mà ngậm ngùi nhớ bạn ở tận phương trời: “Những ngậm ngùi vì phải xa nhà hàng dặm/ Nay lại thêm nhớ bạn ở tận phương trời!”134. Nỗi nhớ bạn kể cả khi nhìn
cảnh cũ (Mộ xuân tức cảnh hoài nhân) hay thấy vẻ thanh khiết của sen (Đề Trần Thận Tư học quán,
thứ vận Phương Đình vận). Cao Bá Quát thấy gió trăng mà nhớ người cũ, thấy lá sen mà nhớ đến
Phương Đình. Nhớ để rồi cô đơn, buồn như đứt từng khúc ruột khi nhìn lá thông rơi bởi bạn từ lâu
như bóng chim tăm cá vắng bặt. Nhìn thấy lá sen cũng vậy. Người thơ ao ước bạn đến chơi. Điều đó thực không khác gì hơn uống “rượu thuần giao”135 (rượu ngon) vậy. Ở những người bạn tâm giao
này họ xa nhau nhưng vẫn nhớ nhau, hướng về nhau. Tấm lòng của họ đối với nhau trước sau như
một. Cao Bá Quát đã khẳng định mối tri giao một cách tự hào: “Nhớ nhau vì hàng năm xa cách nhưng chẳng phương hại đến tinh thần”136. Cao Bá Quát từ nhớ bạn chuyển sang trông ngóng bạn
(Sơ thu vịnh Hoài Phủ, Minh Trọng nhị tri kỷ), hỏi bạn nay ở đâu (Lên Khán Sơn có điều nhung
nhớ), rồi nằm mơ tưởng nhớ đến bạn. Có đến 2 lần, Cao Bá Quát nằm mơ nhớ bạn.
Mộng trung do tiếp khứ niên hồn (Mộng Ngô Dương Đình)
(Trong giấc mơ còn chuyện trò hồn năm trước)
U cư sầu tuyệt cổ thành ôi,
Hốt tác Giang Nam nhất mộng lai (Dư hốt ư mộng trung vãng thám
Tuần Phủ, ám tưởng kinh trung cố nhân hoặc đương hữu niệm ngã giả, nhân ký Tuần Phủ kiêm
trình Đôn Nhân Phạm Tử - kỳ nhất)
(Nằm náu ở góc ngôi thành cổ, buồn thực là buồn,
Bỗng nằm mơ một giấc đến tận miền Giang Nam)
Chu Thần nằm mơ thấy Dương Đình, người bạn rất thấu hiểu lòng mình. Tình tri kỉ ấy đã
133 Cách niên vi biệt không huyền tháp/ Nhất thủy tương tư khước đoạn hồn (Bài Tứ nhật họa Đôn Nhân kiến ký thứ vận) 134 Tích biệt gia thiên lý/ Hoài nhân thiên nhất phương (Văn Lưu Nguyệt Trì Bắc hành khuyết vi diện biệt phụng ký – kỳ nhất) 135 Bài Đề Trần Thận Tư học quán, thứ vận Phương Đình – kỳ cửu 136 Cách tuế tương tư mạc sảng thần (Bài Từa túy toại giản Thúc Minh)
làm người thơ tỉnh mộng rồi mà “Vẫn cứ nằm trên giường trằn trọc mãi không nói được lời nào”.
Nỗi nhớ thương bạn còn ám ảnh ngay cả khi đang nằm náu ở góc ngôi thành cổ, một giấc mơ hướng
đến tận miền Giang Nam sông Gianh, nơi Tuần Phủ làm quan. Nhưng mơ chỉ là mộng tưởng để rồi
khi tỉnh mộng, cái cảm giác hụt hẫng ấy cứ bám víu, Cao Bá Quát xiết bao đau xót.
Tình cảm đối với bạn còn thể hiện ở sự yêu thương trong tuổi già, sức yếu (Cửu nhật họa Di
Xuân kiến ký thứ vận); hay trong sự cảm thông, chia sẻ với những lận đận của bạn (Tĩnh Gia phùng
Cao Thạc tú tài tẩu bút vi tặng). Đặc biệt, ở niềm vui khi gặp nhau. Có đến 4 lần, Cao Bá Quát bày
tỏ cảm xúc này.
Sạ kiến nan vi ngữ (Đáp Trần Ngộ Hiên)
(Thình lình gặp nhau không nói nên lời)
Dĩ tứ niên lai bất tương kiến,
Kiến thời liên ngã cánh liên quân (Biệt Phạm Đôn Nhân Lang trung)
(Đã bốn năm nay không gặp nhau,
Gặp nhau, ta thương ta lại thương cả cho bạn)
Tha niên tương kiến khủng triêm cân (Thừa túy toại giản Thúc Minh)
(Năm ấy gặp nhau, e nước mắt sẽ thấm ướt cả khăn)
Tha hương tương kiến cộng nan câm (Túy hậu túng bút thị Bùi Nhị)
(Gặp nhau nơi quê người cũng khó cầm lòng)
Những dịp hội ngộ hiếm hoi đó, nó quý báu làm sao! Được gặp lại bạn hiền, được thăm hỏi, được
chuyện trò, được giãi bày nỗi lòng, được đọc thơ của nhau... Gặp gỡ để rồi chia xa, cái trách nhiệm
của kẻ sĩ không cho Cao Bá Quát có dịp sống lâu bên bạn bè. Thế nên được dịp sum vầy, ông cứ vui
say. Cũng trong dịp này, Cao Bá Quát nhớ lại những kỉ niệm cùng bạn ngắm trăng ở núi Hoàng
Lĩnh, khi gặp lại cả hai nào phụ mùa xuân ở Sông Đức Giang (Bài Thừa túy toại giản Thúc Minh).
Thương bạn, Cao Bá Quát muốn bạn cũng tốt như mình, làm điều thiện, sống có ích cho dân
cho nước. Trong những lần tiễn bạn đi nhậm chức quan, Chu Thần khuyên bạn giữ gìn phẩm hạnh,
dặn dò những điều ích nước lợi dân, noi gương các bậc danh thần ngày trước (Tống Nguyễn Trúc
Khê xuất lỵ Thường Tín kiêm trí Lê Hy Vĩnh), duy trì thuần phong mỹ tục, dạy dân những điều ích
(Tống Sơn Tây Học chính Nguyễn Đài chi lỵ), khuyên bạn ngay thẳng, giữ vững cốt cách, ý chí
(Tống Lê Dũng Hòa bị mệnh hồi kinh)…
Đó là những tình cảm Chu Thần dành cho bạn. Cao Bá Quát tốt với bạn bè, nhiệt tình, chân
thành nên bạn bè cũng dành rất nhiều tình cảm ưu ái cho ông. Những lúc ông bị cầm tù, bị bệnh,
hay khi tâm trạng u buồn ... bạn bè đến thăm hỏi. Họ đến để chia sẻ, họ mang những tặng phẩm biếu
cho ông. Cao Bá Quát không biết lấy gì để cảm ơn tấm lòng của bạn đành đề thơ cảm tạ hay báo
cho bạn biết mình vẫn khỏe. Tình cảm này thường thấy ở các bài thơ như Đoàn Tính bình nhân lai
ủy vấn, tẩu bút đáp tặng; Trấn An lệnh Lê Tử chi nhiệm, đặc lai tương phỏng, kỳ hữu sở tặng, thư dĩ
dữ chi; Đồng Bùi Nhị Minh Trọng Trà giang dạ bạc... Cao Bá Quát tâm sự cùng bạn rồi “Bất chợt nghĩ đến mình, nát từng khúc ruột”137. Lòng tự thấy mình vì “Hai chữ phù danh còn làm cho lỗi hẹn với bạn tri âm”138...
Cao Bá Quát viết về bạn bè. Điều đó cho thấy rằng: Cao Bá Quát không hề cô đơn, lẻ loi,
không phải lúc nào cũng trêu ghẹo, đùa cợt người khác, xem ai cũng là cái gai trong mắt. Điều đó
còn cho thấy được tình cảm thân thiện của Cao Bát Quát với bạn bè, với mọi người không kém gì
tình cảm mà ông dành cho gia đình.
2.4.4. Tình cảm đối với đồng loại:
Cao Bá Quát là con người nặng tình xã hội, như chính ông tự nhận: “Cả đời chỉ tiếc nhau với hồ hải, Quát này là người của Đông, Tây, Nam, Bắc”139. Đối tượng ông quan tâm không chỉ đóng
khung trong tình bạn bè, mà còn được mở rộng ra ở phạm vi rộng: người ở, bạn tù, học trò, phận nữ
nhi, người ăn xin... Khoảng trên 14 bài, Cao Bá Quát bày tỏ tình cảm yêu thương chân thật của
mình đối với họ.
Người đầy tớ đáng lẽ sẽ bị một trận đòn vì mải mê ngủ trong khi chủ đang đánh thức nó để
thấp đèn nhưng không, Cao Bá Quát chạy đi lấy chiếu đắp cho nó (Hàn dạ ngâm). Không chỉ vậy,
Cao Bá Quát còn lấy chiếu bảo đầy tớ đắp và chia chăn cho khách mượn ngủ nhờ trong một đêm
lạnh ở tù (Hàn dạ tức sự). Những cử chỉ, hành động của Chu Thần mang đậm tình người. Đó là biểu
hiện của tinh thần đồng cam cộng khổ, của lòng thương người như thể thương thân. Bởi thế, khi ông
thất thế sa cơ, tù tội, người đầy tớ thân cận đã không bỏ ra đi mà còn an ủi, động viên. Tấm lòng của
kẻ dưới đã làm cho Chu Thần vô cùng cảm kích. Ông bày tỏ lòng biết ơn: “Đa tạ chú bộc cũ của nhà họ Tiêu/ Đã khóc lóc, đem những lời ôn tồn mà an ủi thân này”140.
Cao Bá Quát còn dành nhiều tình cảm đối với học trò của mình. Có đến 5 bài thơ đề cập đến
tình thầy trò. Cao Bá Quát đã nói lời đa tạ các bạn trẻ khi họ lưu luyến tiễn ông vào Kinh dự thi Hội
(Bài Phó Nam cung, xuất giao môn, biệt chư đệ tử), khi ông từ Nam Ngãi trở lại Huế, học trò không
muốn cách biệt, Cao Bá Quát xa tưởng khi nhớ học trò không biết bên cầu sông Hương ngày ngày
mấy lần cố áo mua rượu (Chu hành há Thanh Khê, nhân cố nhân ký biệt tòng du chư đệ tử). Đặc
biệt, tình cảm của người thầy Cao Bá Quát còn thể hiện qua nỗi cảm thông với cảnh thi hỏng của
học trò mình, cảnh lận đận của sĩ tử bảy mươi tuổi đầu còn đi thi. Cảm thông, chia sẻ “đồng bệnh
tương liên” để rồi chữa bài thi phạm úy. Một việc làm “tìm điều nhân” xuất phát từ tình thương mến
những người có tài chỉ vì những quy chế khắc khe của trường thi mà bị đánh đổ. Việc bại lộ, Cao
137 Ngẫu nhiên phủ kỷ tâm thiên toái (Thù hữu nhân úy vấn) 138 Phù danh hoàn khước ngộ tri âm (Phục giản Phương Đình) 139 Bài Thương Sơn công kiến thị đáp tặng tảo phạn trường cú, bái huệ chi nhục, ca dĩ họa chi 140 Đa tạ Tiêu gia cựu thời bộc/ Khấp tương ôn ngữ úy vi tu (Bài Thập nguyệt thập thất nhật thừa Lễ bộ nghiêm tấn hậu cưỡng bệnh mạn chí – kỳ nhị)
Bá Quát cắn rứt lương tâm mình vì mang họa đến cho người. Con người trong thơ đã tự trách mình:
“Cầu điều nhân chưa được thành gây họa/ Cùng bệnh thương nhau lại làm lụy đến người”141. Như
vậy, có thể thấy Cao Bá Quát rất yêu thương và trân trọng những tình cảm của học trò dành cho
mình. Không chỉ vậy, ông còn đồng cảm sâu sắc với nỗi niềm của kẻ sĩ trước thời thế ngày một
nhiễu nhương, quan trường nghiệt ngã.
Cao Bá Quát yêu thương người thân, bạn bè, người ở, học trò và càng yêu hơn những con
người bất hạnh: người ăn xin, người đói, người vác hòm, ông già Phúc Lâm, người tát nước buổi
sớm trên đồng, cô gái đi về trên cầu lúc chiều tối, phận đàn bà (chiêu quân, vợ chinh nhân, người
đào hát thành vị). Họ là những nạn nhân của xã hội bị nghèo khổ, bị tha hóa, áp bức, bị chiến
tranh... Mỗi người một cảnh, tình thế thật đáng thương! Cao Bá Quát đã chia sẻ, yêu thương và trân
trọng họ. Nỗi cảm thông, chia sẻ trước hoàn cảnh của người ăn xin vẻ ngập ngừng, đói rét không
dám lên tiếng, lê cái áo bằng hai mê nón rách chắp lại, tính mạng chỉ đợi một đồng tiền là có thể
sống được. Thuế má đã làm cho họ thảm hại như thế! Họ không hề có tội gì, họ cũng có lòng tự
trọng cũng là con người đấy. Con người trong thơ đã thanh minh dùm họ và khuyên các trẻ con
đừng trêu chọc: “Việc thu thuế đương lúc khẩn cấp/ Nhà ngươi phiêu bạt như thế, nào có tội gì?/ Dù hèn nhưng cũng là người/ Các trẻ em đừng nên trêu chọc!”142 Tình cảm dành cho người đói
trước dáng vẻ liêu xiêu, áo rách nón rách, đang chịu đói: “Ôi thôi! Anh hãy cầm nước mắt lại/ Ăn
với tôi một bữa cơm cho vui/ Thong thả chứ! Đừng nuốt hấp tấp/ No vội quá, không làm cho khỏe người!”143 Cảm thông chia sẻ Cao Bá Quát đem lòng mình ra đối đãi với đồng loại. Một tình người
thật ấm ấp. Tấm lòng ấy khác gì với Nguyễn Du, Nam Cao dành cho nhân vật của mình trong “Thái
Bình mại ca giả”, trong “Sở kiến hành”, trong “Một bữa no”. Nguyễn Du so sánh hoàn cảnh cao
sang của mình với người đói khổ để trở nên bất an trong tâm trạng của vị Chánh sứ. Nam Cao, Cao
Bá Quát vốn sống trong cảnh nghèo, nên sự đồng nhất giữa chủ thể và khách thể đi đến một tiếng
kêu thống thiết về quyền làm người của những người bất hạnh. Ở bài Phụ tương tử (Người vác
hòm), tình cảm dành cho tấn bi kịch của con người khốn cùng thật cảm động. Mỗi câu thơ cho thấy
được tình cảm chia sẻ, triều mến, lo lắng trước sự tha hóa của bác nông dân, sự bế tắc của con người
trong bước đường cùng: “Nhà nào mà không có ông chủ/ Muốn bỏ đi, còn biết đi đâu?” để rồi một
cảnh diễn ra thật hiếm thấy: “Người ấy nắm lấy tay/ Nước mắt giàn giụa hỏi: Anh làm nghề gì? Đã
mười năm không gặp...”. Chu Thần còn dành nhiều tình cảm cho người tát nước trên đồng bụng đói,
môi run, thân mang chiếc áo tơi ngắn, trong sương mù đang kéo đôi gàu thoăn thoắt (Hiểu lũng
quân phụ), cô gái cầm áo mua tấm cám đi về trong cảnh trời rét (Mộ kiều quy nữ), cảnh người bồng
141 Cầu nhân vị đắc thành chiêu họa/ Đồng bệnh tương liên khước lụy thân (Bài Cửu nguyệt sơ thất nhật dĩ trường sự hạ trấn phủ ngục) 142 Trưng liễm thời phương cấp/ Phiêu lưu nhữ hạt cô? Bất tài diệc nhân dã/ Nhi nữ mạc khiêu du (Bài Cái tử) 143 Y! Tử thả hưu lệ! Nhất quĩ dữ tử hoan/ Du du nghịch lữ trung/ Bách niên thùy tự khoan? Mạn dã! Mạc sậu yết/ Bạo doanh phi tráng nhan (Bài Đạo phùng ngã cư)
bế nhau để được phát chẩn (Quan chẩn), cảnh người người lưu vong, trẻ già trốn lính, đói khổ kiệt
sức (Phúc Lâm lão), vẻ vui buồn lo lắng vì thời tiết mưa nắng của nông dân (Tương vũ hí tác)... Có
thể thấy rằng tình thương của Cao Bá Quát dành cho người nghèo giản dị mà sâu sắc, mang dấu ấn
chủ nghĩa nhân văn cao cả. Nó gắn liền với những số phận cụ thể, có tính điển hình cho lớp người
cùng khổ trong xã hội còn nhiều bất công.
Cao Bá Quát ít đề cập đến số phận của người phụ nữ trong thơ. Tuy nhiên những tình cảm
của ông dành cho họ thật đáng quý. Một cách nhìn chung về số phận của nhi nữ: Xưa nay cuối cùng đều “bị vẽ”144 (gặp đau khổ). Họ thường lâm vào những cảnh đau thương đứt ruột. Cách nhìn này
chẳng khác gì Nguyễn Du trước đó “Đau đớn thay phận đàn bà! Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”145. Một sự cảm thông thân phận chung đối với những phụ nữ để rồi trước những số phận cá
nhân: Một chinh phụ không hưởng trọn hạnh phúc lứa đôi (Chinh nhân phụ), một đào hát thành vị
trôi nổi, bấp bênh (Du Hội An phùng vị thành ca giả); Cao Bá Quát thấy lòng mình thổn thức, đau
cái đau của họ...
Nhìn chung, Cao Bá Quát có tình cảm sâu nặng với quê hương, gia đình, bạn bè, học trò và
những nạn nhân trong xã hội. Chính tình cảm này đã làm cho ông luôn lo lắng, suy tư, trăn trở và
cũng chính nó đã tiếp cho ông sức mạnh tinh thần trên hành trình đi tìm vẻ đẹp đích thực của đời
mình. Tấm lòng ấy làm cho Cao Bá Quát tỏa sáng, sống mãi cùng tháng năm.
2. 5. Con người suy tưởng:
Thực tế cuộc sống không như ý mình, con người có ý thức cảm thấy chênh vênh, lo lắng để
rồi ngày cũng như đêm, lúc vui cũng như lúc buồn cứ băn khoăn, dằn vặt, trăn trở tự hỏi mình, hỏi
người, hỏi thời gian, hỏi cảnh vật… Chất chứa bao suy tư, Cao Bá Quát luôn mang trong lòng niềm
trắc ẩn với trăn trở và kiếm tìm một lối thoát cho bản thân, cho thế hệ, cho thời đại và cho muôn vạn
chúng sinh làm kiếp người về những vấn đề nóng bỏng của thời cuộc. Thêm nữa, cuộc sống bên kia
phía chân trời Âu đã giúp cho Cao Bá Quát có sự tự ý thức lại trong suy nghĩ và hành động của
mình. Những tù túng, khuôn khổ không còn hợp thời trước ánh sáng văn minh tiến bộ nữa nên việc
khám phá, tìm kiếm, hướng đến một lối thoát là lẽ tất nhiên.
Có thể thấy điểm mâu thuẫn lớn bao trùm cũng là điểm bắt nguồn cho những suy tư khác trên
con đường hành đạo, nhập thế ở kẽ sĩ Cao Bá Quát là vấn đề “công danh – hoài bão và trách
nhiệm”. Cao Bá Quát sớm nhận ra một điều “công danh” và “hoài bão” không còn gắn kết với nhau
như trước kia nữa, nên trong nhận thức về con đường danh nó nguy hiểm như sóng to, gió cả, chớp
giật sấm ran (Hoành sơn vọng hải ca), nó u ám ghê sợ (Sơ nhập Thừa Thiên thí tác vận)...
Có công danh sẽ có cơ hội thực hiện hoài bão, trách nhiệm, có sự nghiệp để đời. Kẻ sĩ chân
chính luôn tin tưởng, và nghĩ như thế. Nhưng ở Cao Bá Quát có một “ấn tượng” quá đậm từ một Á
nguyên (thứ nhì) bị đánh tụt xuống Cử nhân, đội bảng (1831) nên bước chân trên đường lập danh 144 Cổ kim chung hữu mạo lai thì (Bài Chiêu quân) 145 Truyện Kiều – Nguyễn Du
thực hiện chí lớn cứ vướng vít, cứ băn khoăn, day dứt mãi không yên. Cũng chính từ đây xuất hiện
hình tượng con người suy tưởng với băn khoăn, trăn trở, chất vấn không chỉ trước con đường
danh mà với mọi hiện tượng, với thế sự cuộc đời.
Trẻ người chắc gì non dạ, mới ngoài hai mươi tuổi, chàng họ Cao trên con đường thi Hội
(1832), cứ đối thoại với chính mình: “Nhớ lại những chuyến đi năm trước/ Đã bị lầm vì chút phù danh? Lần này lại từ biệt để đi đâu nhỉ? Ngoảnh đầu lại nhìn hoài việc cũ”146. Những dòng tự sự,
những câu hỏi cứ chất chứa trong lòng. Một mối mâu thuẫn cứ ám ảnh kẻ sĩ trên bước đường thực
hiện hoài bão. Công danh cái ngưỡng cửa phải vượt qua. Nhưng con người sớm thấy nó “phù danh”,
“hư danh”. Cao Bá Quát đau đớn vì điều này khi muốn sống có ích. Nhớ chuyện cũ mà băn khoăn,
day dứt, đau đớn cho bước đi ở hiện tại. Lòng trai tráng còn hừng hực nhưng thời thế suy vi, nỗi lo
toan không khỏi đeo mang. Cao Bá Quát tự hỏi mình: “Tuổi trẻ chạy vạy, biết rồi có nên việc gì không?” khi “Con đường ghê sợ còn dài, cứ vướng vít lòng người lữ khách”147, “Bước đường bằng phẳng thì mờ mịt, bước đường ghê sợ thì nhiều”148 . Bởi ông nhận thấy “Trên đường danh đã mấy ai nhàn?”149. Và cảnh “người tỉnh thường ít mà người say vô số”150. Trong khi bản thân “Nhiều lần danh chưa xong/ Nhọc nhằn ý sao cùng?”151. Chu Thần đau đớn bấy nhiêu cho bước đường danh
phía trước để rồi thở than. Những nỗi băn khoăn trăn trở càng day dứt hơn khi ông bước vào con
đường hoạn lộ. Làm quan Hành tẩu Bộ lễ, rồi làm ở Viện Hàn lâm, công việc nhàn rỗi; lại thêm nơi
chốn quan trường bao phen lận đận, khổ sở, hết tù tội lại bị ghét bỏ, thải hồi về quê. Không có cơ
hội thi thố tài năng, nỗi đau khổ bất lực ở kẻ sĩ Cao Bá Quát càng thêm sâu nặng. Con người đã 2
lần dằn vặt với chính mình.
Thái bình vô nhất lược,
Lộc lộc sỉ vi nho (Độc dạ)
(Không có một sách lược gì làm cho đời được thái bình,
Thẹn mình là nhà nho mà lại tầm thường đến thế!)
Túc tích thốn tâm không tự thác,
Đê thùy bất ngữ ỷ tường ngung (Quan chuẩn)
(Tấc lòng mình hẹn cho mình ngày xưa vẫn không đâu,
Chỉ cúi đầu tựa vào góc tường mà không nói)
Nơi “Tuyên Thất”152 trước chiếu vẫn không có chỗ cho Chu Thần. Thế nên, tấm lòng, hoài
146 Bài Phó Nam cung, xuất giao môn, biệt chư đệ tử 147 Bài Lạc Sơn lữ trung 148 Bài Sa hành đoản ca 149 Bài Hoành Sơn vọng hải ca 150 Bài Sa hành đoản ca 151 Tần tần danh vị liễu/ Cốt cốt ý hà cùng ( Bài Đề Trần Thận Tư học quán, thứ vận Phương Đình vận) 152 Tuyên thất không tiền tịch: ý nói vẫn chưa được nhà vua triệu mời, nhậm dụng (Bài Tạc ức)
bão lớn lao của ông vẫn chưa thực hiện. Bởi vậy, mắt nhìn những con chim có sức bay cao mà bị
nhốt trong lồng, Cao Bá Quát cảm thấy bực bội (Tức sự), càng bực bội hơn khi mà tâm lực vẫn còn,
lại bị giam một chỗ (Độc dạ cảm hoài), đến độ nhìn cái gông cùm mà khóc cạn dòng lệ máu (Tức
sự). Nỗi đau khổ ở Cao Bá Quát càng nhân lên gấp bội khi tận mắt nhìn thấy nỗi thống khổ của
muôn dân với những cảnh “nạn rét, nạn lụt cứ phát sinh liên tiếp”, “sét đã nhiều, nơi nơi đều có
người bị đánh chết”, kẻ “đói rét không dám lên tiếng” và “mặt trời đỏ lẫn đi đằng nào?”, “đạo quỷ
thần sao mà mở mịt?”. Thực trạng đó khiến ông đau xót, ngày đêm nung nấu trong lòng những điều
suy nghĩ day dứt. Có nên bước tiếp trên con đường danh? Làm thế nào để cứu dân cứu nước?
Những câu hỏi, những nỗi suy tư thường thấy ở ông lúc này trong nhiều bài thơ: Chung dạ độc
muộn; Độc dạ thư hoài; Độc dạ; Độc da khiển hoài; Độc thi; Hàn dạ tức sự… Con người cô đơn
khắc khoải lo âu thường xuất hiện. Có đến 9 lần con người xuất hiện đơn độc đối diện với chính
mình để suy ngẫm.
Ngung tọa độc trầm ngâm,
Đáo minh thượng bằng kỷ (Trung dạ thập tứ vận)
(Một mình ngồi xó trầm ngâm,
Mãi đến sáng vẫn còn tựa ghế)
Độc ỷ thương mang mộ khí trung (Thứ vận Thận Tư phóng quan Nhị
hà đồng Di Xuân, Hòa Phủ)
(Một mình đứng trong bóng chiều man mác)
Tự ỷ thằng sàng bất ngữ trung (Tức sự)
(Một mình trên chiếc võng, lẳng lặng không nói)
Ngũ dạ tâm tính đăng đối ảnh (Tức sự)
(Tâm sự năm canh, một đèn một bóng)
Nỗi suy tư của Cao Bá Quát thể hiện mỗi lúc, mỗi nơi, khi thì tựa ghế nghĩ ngợi thâu đêm,
tựa ghế những nghêu ngao hoài, khi thì tựa cửa sổ lòng tràn ngập niềm sâu kín, lúc lại quanh co
khắp hành lang bao lần hay lê bước dạo hiên trước. Hoàn cảnh nào Chu Thần cũng ngẫm nghĩ.
Đồi nhiên bằng chẩm đáo thiên minh (Dữ Quảng Nam học chính Bùi
đồng túc, dạ khởi kiến nguyệt)
(Tựa ghế ngồi phờ mãi cho đến sáng)
Cứ ngô tiêu tán tự trường ca,
Sâu cốt chi ly ủy mấn hoa (Thương Sơn công hữu sở quỹ vật kiêm trí
hảo thi, bộc phương nhiễu vu thất tử chi thích, cảm thê giao khẩn tình hiện hồ từ)
(Phờ phạc ngồi tựa ghế, những nghêu ngao hoài,
Nắm xương rời rạc mang mái đầu hoa râm)
Khước thiểu bằng song tối u ý,
Khởi chiêm tinh hán lạc đình âm (Độc dạ thư hoài)
(Lại tựa cửa sổ, tràn ngập nỗi niềm sâu kín,
Đứng lên ngửa trông sông Ngân Hà lọt thỏm vào trong khoảng trời
tối tăm)
Vô phong vô nguyệt độc khai tình,
Nhiễu biến u hiên kỷ khúc hành (Chung dạ độc muộn)
(Không gió không trăng, riêng tình cảm bời bời,
Bao lần đi quanh co theo khắp hành lang)
Nhược vi duệ lý vãng tiền hiên (Viên cư trị vũ)
(Lê bước dạo về phía hiên trước)
“Việc của bản thân mình như đua với mây, lúc tan lúc hợp/ Sự cơ ở đời khác nào như nước, hết xuống lại lên”153 đã làm cho Chu Thần day dứt không yên thường đơn độc đối thoại với chính
mình. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến những hành động tựa ghế, tựa cửa sổ, đi quanh co khó kiểm
soát, thậm chí có lúc ban đêm trên gác nhỏ, Chu Thần đơn độc ngồi ngâm một mình, rồi cười mình
(Phục giản Phương Đình). Một điều dễ thấy là nỗi trăn trở của Cao Bá Quát thường gắn liền với
đêm khuya, lúc mà mọi người đều an giấc thì chỉ có Chu Thần đối diện với chính mình, với ngọn
đèn lẻ loi. Nỗi sầu thế tục với trách nhiệm của kẻ sĩ không sao khuây khỏa nên canh tàn, giọt đồng
hồ rả rích mà con người vẫn cứ trầm ngâm, cứ lo toan xoay xở (Độc dạ). Lo thì cứ lo nhưng lòng
Cao Bá Quát vẫn cảm thấy không yên. Ông đau xót, day dứt. Nghe tiếng dế đêm mà ông lệ ứa đầy
(Thương Sơn công tịch thượng nghĩ đông dạ quan vưu hối am minh sử nhạc phủ đồng hữu nhân
phân phú), cất cao tiếng ngâm mà cô đơn vẫn còn đó (Tiểu lập). Tất cả chỉ vô hiệu, dường như có
một nỗi buồn dằng dặc tựa như trời đất, có một nỗi thương cảm biết bao giờ cùng trong Cao Bá Quát:“Du du thiên địa tâm/ Thương cảm hà thời cực”154. Thế nên, ngay cả trên đường đi, ông cứ
chất vấn mình để tìm một lời giải đáp cho bước đường công danh phía trước: “Người đi về phía Nam là ai vậy? Mặt trời về chiều mà còn tìm gì?”155. Cao Bá Quát hỏi và muốn một lời giải đáp để
cho lòng thanh thản hơn. Nhưng ông càng chất vấn thì càng rối bời. Đêm nay không ngủ được đẩy
gối dậy, Cao Bá Quát hỏi chính mình có phải là kẻ sĩ không: “Chậc chậc, ai là kẻ sĩ trong thiên hạ?”156 và sau đó thì trầm ngâm tới sáng dưới trăng…
Nỗi đau, nỗi trăn trở càng nhân lên, thúc bách hơn khi Cao Bá Quát thấy mình tóc đã bạc,
sức đã già. Làm gì đây trước sự ràng buộc của một chút danh hời, trước sự trọng dung nhỏ nhen, đố
kị? Cao Bá Quát tự đay nghiến mình, dằn vặt mình một cách ghê gớm, như muốn vứt bỏ, phá tung
một cái gì đó mà chưa thể làm được: “Một chúc danh cứ ràng buộc thế này!/ Than ôi! Một chút 153 Thân sự dữ vân tranh tụ tán/ Thế cơ như thủy trục thăng trầm (Bài Phục giản Phương Đình) 154 Bài Đắc gia thư, thị nhật tác 155 Nam hành giả thùy thị/ Nhật yến phụv hà cầu? (Bài Chí gia) 156 Bạ bất thành miên thôi chẩm khởi/ Đốt đốt thùy vi thiên hạ sĩ? (Bài Phù Liệt lữ đình tống Đỗ Miên chi ngự sử)
danh cứ ràng buộc thế này!/ Bạc đầu với chiếc áo xanh. Ta già mất rồi!”157. Trăn trở, băn khoăn đã
làm ông càng buồn hơn. Cao Bá Quát buồn để rồi tự chế nhạo mình (Thù hữu nhân úy vấn), cười
mình trước đây phận như con chim ri, chim chích mà vẫn chưa yên tổ (Ký Nguyễn Cố hữu tịch), rút
hết ruột gan để cuối cùng chỉ còn lại có máu, tóc xanh nay bỗng hóa tuyết rồi (Tặng Thổ Khối Đỗ
Vệ Úy xuất Thanh Hóa). Lòng Cao Bá Quát ai thấu hiểu? Khác nào như hạt sen ôm tấm lòng đắng
ngắt (Du mỗ cố trạch, dạ thính đàn tranh). Con người lúc này thật lạnh lẽo và đơn độc như dòng
nước bạc. Làm bạn với Cao Bá Quát họa chăng chỉ có mảnh trăng kia đêm đêm soi sáng…
Cao Bá Quát ngẫm lại mình là “Người có tên tuổi ở chốn cửa vàng/ Lại từng lui tới nơi văn
học/ Thi thư nhờ sẵn nếp nhà” nhưng “Nhìn lên trông xuống vẫn bị cái danh ràng buộc… Một hạt châu quý giá như thế mà bị ném vào bóng tối”158. Chính điều đó đã làm cho ông cảm thấy đau đớn,
uất hận. Cao Bá Quát từng trăn trở với nỗi uất hận của con gái vua Viêm Đế bị chết đuối ở bể đông,
hồn hóa thành chim Tinh Vệ ngày ngày tha đá ở Nam Sơn ném uống quyết lấp đầy biển cả (Sơn Hải
Kinh), với việc làm vô ích của Ngu công, chín mươi tuổi vẫn còn trần lực cuốc đất đá hằng ngày với
quyết tâm dời hai ngọn núi chắn trước nhà mình (Liệt tử). Những câu chuyện này làm Cao Bá Quát
thêm đau: “Chỉ nhọc chim Tinh Vệ ôm hận mà tha đá hoài/ Vẫn đáng cười ông Ngu công đã già còn làm việc dời núi”159. Con chim Tinh Vệ cùng với anh chàng nước Kỷ nổi tiếng ngớ ngẩn, lúc nào
cũng lo trời bất ngờ đổ sụp xuống đầu mình khiến nhà thơ nở nụ cười mỉa mai đau xót khi liên
tưởng đến mối hận văn chương và thân thế khôn nguôi: “Văn chương Tinh vệ hận/ Thân thế Kỷ nhân ưu”160.
Cười, đau xót cho người để rồi hận cho mình. Hận những mối hận không lời giải đáp nên
lòng Cao Bá Quát càng bức bối hơn. Người không hiểu nổi thì hỏi trời cao, nhưng trời cao cao quá
nên không hỏi được (Lục nguyệt thập ngũ dạ nguyệt hạ tác phụng ký chư cố nhân), Cao Bá Quát
đành quây về với thực tại, với buồn đau, day dứt… Con người suy tưởng lúc này có những biểu
hiện giằng xé ở nội tâm nên dùng dằng ở mỗi bước đi, thế đứng, thậm chí mất cả phương hướng lối
thoát mà vẫn cứ cố lên, tìm một hướng đi. Hình ảnh con người “Nhất bộ nhất hồi khước” được lặp
lại nhiều lần trong thơ lúc này. Có đến 4 lần bước chân ấy cứ ngập ngừng, trăn trở.
Nhất bộ nhất diên trữ (Sa hành đễ Đông Dư, ký mộ lưu túc)
(Cứ mỗi bước lại ngập ngừng dừng lại)
Bộ hộ hành phục chỉ (Thập nhất dạ thừa nguyệt, tẩu bút ký hữu nhân)
(Bước một bước lại dừng một bước)
157 Nhất danh cơ bạn trường như thử!/ Ô hô! Nhất danh cơ bạn trường như thử!/ Bạch phát, thanh bào, ngô lão hỹ! (Bài Đề Sát viện Bùi Công Yên Đài anh ngữ khúc hậu) 158 Bài Thuật hoài 159 Bài Thanh minh nhật cảm tác họa Trần Ngộ Hiên 160 Bài Thuật hoài
Nhất bộ nhất hồi thán (Phụ tương tử)
(Mỗi bước đi cứ quay lại, than thở)
Nhất bộ nhất hồi khước (Sa hành đoản ca)
(Đi một bước như lùi một bước)
Chúng ta thử xem tại sao người đi trong Sa hành để Đông Dư kỳ mộ lưu túc không tiến lên
được mà cứ mỗi bước lại ngập ngừng dừng lại. Chả phải vì thiếu người võng cáng, không phải đợi
bạn bè mà vì mang tục lụy, lòng hăng hái tiêu tan đi một nữa. Người trong Thập thất dạ thừa
nguyệt, tẩu bút ký hữu nhân bước một bước lại dừng một bước vì sợ trăng tàn, tuổi trẻ tàn phai như
ánh trăng kia. Con người trong Phụ tương tử bước đi cứ quay lại, than thở vì rơi vào bước đường
cùng. Và con người đi trên bãi cát trong Sa hành đoản ca ngập ngừng vì mất phương hướng, mọi lối
thoát đều mù mịt.
Có thể thấy những bước chân ngập ngừng đó chất chứa, mang nặng những nỗi suy tư, những
trăn trở trước cuộc đời. Phải làm gì đây? Đay nghiến mình, dằn vặt để rồi đau khổ, khổ đau dằn vặt
triền miên; hay là tìm kiếm một lối thoát, hành động. Con người suy tưởng đã có lúc ôm trọn niềm
đau, suy tư dằn vặt với chính mình trong những nung nấu như hạt sen ôm tấm lòng đắng ngắt, chỉ
mình biết mình (Du mỗ cố trạch, dạ thính đàn tranh) hay tay cầm bông sen tự mình cười mình (Vãn
du Sài Sơn vũ hậu đăng sơn đầu đề bích – kỳ nhị). Sau bao nung nấu, Cao Bá Quát nghĩ không thể
ngồi đây cho lòng xót xa mãi. Bởi vậy, con người trong thơ Cao Bá Quát không những có tinh thần
như ông Ngu Công, chín mươi tuổi vẫn còn quyết tâm dời hai ngọn núi chắn trước nhà mình hay
con gái vua Viêm đế bị chết đuối ở bể đông, hồn hóa thành chim Tinh Vệ ngày ngày tha đá ở Nam
Sơn ném uống quyết lấp đầy biển cả mà còn là con người của hành động, của sự tìm tòi một hướng
đi mới. Không thể mãi tha đá, mãi ngồi cho lòng rối bời… Cao Bá Quát, dù có lúc ví mình như thân
con ngựa, mệt mỏi sợ đến ngã đường rẽ (Ngụ sở cảm sự, mạn bút thư hoài), nhưng khi uống rượu,
thì tự mình đặt câu hỏi tìm đường: “Thường có lúc cất chén tự hỏi/ Ngựa đã mỏi, đường còn dài, tính sao?”161. Những trăn trở đó giúp ông tìm một hướng đi mới, mà trước hết là phải “đoạn tuyệt”
con đường công danh mà mình từng theo đuổi, xem nó như câu chuyện “chõ rơi bị vỡ” của người
xưa.
Có thể nói rằng: Hình tượng người đi trên cát trong Bài hát ngắn đi trên cát mang đậm chất
suy tưởng về công danh, về sự kiếm tìm lối thoát cho bước đi đầu tiên. Người khách bước một
bước, lùi một bước, lấn bấn, ngần ngại mãi trong lúc mặt trời lặn dần. Những bước chân của nhân
vật đi trên cát thể hiện rõ tâm trạng chán nản nhưng phải cố gắng tìm một bước đi trong thế bí cuộc
đời. Nước mắt anh ta lã chã trong khi nặng nhọc căng người trên mặt cát với sức rướn phi thường,
như đang chống lại cản vô hình nào đó để cuối cùng, khi đạt được bước tiến nhất định, anh ta buộc
161 Bài Đáp Trần Ngộ Hiên
phải lùi lại điểm ban đầu. Tuy nhiên anh ta phải đi phải dặn mình kiên trì, nhẫn nại, phải quên đi
mệt mỏi, tuyệt vọng. thậm chí, đôi khi, anh ta còn cần phải tỏ ra hăng hái, táo bạo hơn mức cần thiết
để cố ảo tưởng rằng mình vẫn đang hướng tới một điều gì đó lớn lao… xứng đáng với mọi công sức
đổ ra. Người hành nhân ấy cứ mải miết đi, nhưng nhìn về bước đường phía trước thì mù mịt, cơ hồ
không còn lối thoát (Phía bắc thì muôn ngọn núi lớp lớp đã sừng sững chắn mất lối; nghoảnh về
nam, núi và sóng hàng muôn đợt cũng vây phủ lấy mình). Và nhìn khắp bốn phía, thì nào còn ai, chỉ
còn độc một mình đứng trơ trên bãi cát. Bãi cát dài, bãi cát dài, biết tính sau đây? Cao Bá Quát đặt
ra một lối thoát trong cuộc đi vô tận đó, nếu người ta có thể ngủ đi được theo phép “thụy du” của
những ông tiên thì may ra mọi thống khổ mới chấm dứt. Nhưng đối với người quá tỉnh như Cao Bá
Quát thì chẳng có chút hiệu lực. Vì thế, càng đi trong sự tỉnh táo thì mọi nỗi oán hận trong lòng của
Cao Bá Quát chỉ thêm chất chồng: “Không học được tiên ông phép ngủ/ Trèo non lội suối giận sao
nguôi?”. Cuối cùng ờ cái thế bí ấy, người hành nhân chất vấn với mình: “Anh còn đứng làm chi trên
bãi cát?” Một câu hỏi bản thân cũng là câu hỏi để tìm một phương án tháo gỡ trong cái thế bí ấy,
đúng hơn là cố tìm cho mình một thế vững trên bãi cát để bước tiếp. Trên bãi cát mênh mông chẳng
biết về đâu, người hành nhân không thể học ông tiên để ngủ đi cho quên ngày đoạn tháng, hoặc trở
thành người say để chẳng thấy cuộc đời. “Đi ẩn ở Phương Bắc nơi núi muôn trùng hay đi ẩn ở
phương Nam, nơi sống muôn đợt?” Hay đứng hoài trên bãi cát vô tận và vô vị này? Con người sau
một bước tiến và lùi lại đã có sự băn khoăn day dứt, một sự lựa chọn khoảnh khắc trên bãi cát
dài:“Anh còn đứng làm chi trên bãi cát dài”.
Cao Bá Quát đang có ý nghĩ hành động, lựa chọn. Thế nên, nhìn những con sóng, ông thấy
nó dữ dội hơn, một ý tưởng muốn thúc đẩy “những nông nỗi chậm chạp” (trì mộ ý) cần chuyền
động nhanh hơn. Cao Bá Quát bày tỏ nỗi lòng, gửi gắm vào ngọn bút: “Cuộc đời trôi nổi, biết ai là
người mắt xanh? Ngọn sóng càng dữ dội, tự nhiên cứ bạc đầu/ Mỉm cười muốn đem nông nỗi chậm chạp này/ Viết ra mà bày tỏ với dòng nước chảy về đông”162. Con người suy tưởng khi đã định hình
bước đi đầu tiên, lại bước tiếp, một sự lựa chọn cho mình, một hướng hành động mạnh mẽ hơn. “Cớ gì phải làm một nhà thơ?”163 Cao Bá Quát muốn mình mạnh mẽ hơn, hùng dũng hơn như Ban siêu
từng ném bút lông cầm lấy gươm đi trên con đường tươi sáng đầy lam chướng vậy.
Lại nữa, con người suy tưởng trong thơ hay chiêm nghiệm lẽ sống, khát khao liên tưởng.
Nhìn trong bọn đồng liêu có kẻ sống bằng ba tấc lưỡi, Cao Bá Quát đã cảnh tỉnh, xa xôi kết tội chúng: “Kìa những kẻ xun xoe nịnh hót/ Chỉ ba hoa, biết rồi có trọn vẹn không?”164. Chúng - những
kẻ tiểu nhân như con chim, con sáo nhốt trong lồng son - có gì mà ba hoa, vênh váo. Bởi Cao Bá
Quát hiểu rằng sự đời sao mà trọn vẹn, hết lạnh rồi ấm, hết mưa lại nắng thôi. Hơn nữa, cái nịnh
162 Bài Thập nguyệt nhật yết đĩnh Lữ Thuận, thứ Trần Ngộ Hiên 163 Thứ vận Thận Tư “Phóng quan nhị Hà”, đồng Di Xuân, Hòa Phủ 164 Bài Chính nguyệt nhị thập nhất nhật, di tống Thừa Thiên ngục tỏa cấm
hót, ba hoa nào có bền. Khi sống nơi lao tù, đày ải cũng đã giúp Cao Bá Quát có những suy ngẫm
thấu đáo về chế độ, về cuộc đời, về lẽ sống chính thiện. Chính lẽ đó mà ông luôn lạc quan, tin tưởng
vào những gì mình làm. Cao Bá Quát đã thật sự lớn hơn, cao cả hơn để có cái nhìn bao dung, thiện
cảm và ấm áp trước cuộc sống.
Nhớ những ngày còn trẻ ấp ôm hoài bão, trước ba đào hùng tráng, Cao Bá Quát nghĩ đến chí
lớn nơi muôn dặm (Thanh Trí phiếm chu Nam hạ). Nay cũng từ những con sóng đó, ở điểm nhìn
khác, Cao Bá Quát liên tưởng đến kiếp người khác nào như thủy triều lên xuống (Du Nam Tào sơn
tự lâu thượng ký vọng đề bích trình Thúc Minh – kỳ nhất). Dạo chơi nơi “mây núi bốn mặt” cũng
vậy, Cao Bá Quát hỏi đời người trải qua bao thế sự hưng vong (Vãn du Sài Sơn, vũ hậu đăng sơn
đầu đề bích – kỳ nhi) và nén lại câu trả lời, nén lại nỗi niềm để chỉ cần một mình tự biết với mình
(Vãn du Sài Sơn, vũ hậu đăng sơn đầu đề bích – kỳ nhi). Hỏi đời rồi Cao Bá Quát lại hỏi chính
mình: “Non sông như thế còn mình thì sao đây?” (Du Nam Tào sơn tự, lâu thượng ký vọng đề bích
trình Thúc Minh – Kỳ nhất)…
Tâm niệm làm quan cống hiến sức mình cho dân cho nước không như ý nguyện, Cao Bá
Quát cũng gởi những nỗi niềm tâm sự vào cảnh vật, thiên nhiên, đền đài… Những tâm sự ấy xuất
phát từ tinh thần trách nhiệm ở kẻ sĩ yêu dân, mến nước. Cao Bá Quát hỏi mặt trời mà như khát
khao một điều gì sâu kín (Đối vũ – kỳ nhất), nói về cơn mưa dữ dội mà như nói về cuộc bạo lực
cách mạng sắp nổ ra (Đối vũ –kỳ nhị)… Trước những cảnh cũ của cố triều Lê, nghe tiếng Đỗ Quyên
trong đêm, nhìn những bông hoa rụng, Cao Bá Quát có cảm nghĩ buồn, đau xót, day dứt. Những ý
nghĩ cũng từ đây được nung nấu. Nhiều bài thơ đã thể hiện tâm trạng này như Họa Thận Tư xuân
nhật đồng chư hữu đăng lâu quán vọng hồ kiến ký thứ vận; Quá Thiên Quang tự, thương Lê triều cố
đô; Lạc hoa – Hoa rụng; Mộ xuân quá mã thị viên lâm… Chơi núi Nam Tào, lên núi Côn sơn,
nhìn vào đền thờ Trần Hưng Đạo và nơi ẩn dật của Chu Văn An, nhìn vào phía sông Lục Đầu, nơi
đã từng diễn ra những chiến thắng vẻ vang của dân tộc, những ý nghĩ hành động cứ thôi thúc nung
nấu trong lòng Chu Thần. Cao Bá Quát tiếc những anh hùng xưa không còn để đánh giặc cứu nước
(Du Nam Tào sơn tự, Lâu thượng ký vọng đề bích trình Thúc Ninh). Cao Bá Quát cảm nhận sự mất
mát, thiếu vắng, cô đơn và đặt câu hỏi trăn trở về việc tìm khách anh hùng, tìm bạn tri âm: “Trên
khoảng non sông từng qua trăm trận đánh, nay chỉ thấy một chiếc thuyền câu/ Bao khách anh hùng
muôn thưở, nay chỉ là một đám bụi! Cõi đời buồn hay vui từng lúc khác nhau/ Nơi người nay vui
ngắm lại là nơi người sau ngậm ngùi/ Trong động Thanh Hư tiếng chim ríu rít/ Bài phú Ức Trai còn đó, biết bàn nói cùng ai?”165. Nhìn con sông Hương trữ tình Cao Bá Quát hình dung như thanh kiếm
đang dựng giữa trời xanh (Hiểu quá Hương giang). Nhìn ngọn gió lên xuống mà cảm nhận cả nỗi
165 Bài Dữ thi hữu Phan Long Trân chi Côn Sơn nhân tác hành vân
buồn kim cổ (Thanh minh nhật cảm tác, họa Trần Ngộ Hiên thứ vận)…
Tiếng lòng day dứt, đọc Kinh thi, Cao Bá Quát bâng khuâng hỏi về sự trường tồn trước thời
gian: “Nghìn năm sau, ai đã nối được âm điệu?”. Và mong câu thơ vang vọng cả cõi trời dù biết
rằng nào có ai nghe (Độc thi). Con người suy tưởng trong thơ còn hài hước trong việc tìm hiểu,
khám phá “các vùng trời” (Chư thiên). Cao Bá Quát muốn vác sáo lên chợ trời chơi bởi thế khi lên treo lên tới đỉnh núi, lòng vui sướng cười hỏi “các vùng trời còn mấy trùng xa nữa?”166. Lúc uống
rượu hỏi trời xanh, muốn “đem ngọc ma ni soi khắp đại thiên thế giới?”. Ca ngợi vẻ đẹp danh thắng,
thắc mắc về sự ra đời của nó (Du tiên Lữ động, văn nhân đàm Thái Nguyên sơn thủy chi thắng, túy
hậu thành ngâm)… Những trăn trở suy tư cứ day dứt, những ý nghĩ hành động cứ nung nấu trong
lòng. Tất cả đã định hướng cho Cao Bá Quát tìm một lối thoát - hành động khởi nghĩa sau này.
Có thể nói ở hoàn cảnh nào, gặp điều gì Cao Bá Quát cũng đặt câu hỏi, trao đổi, luận bàn, đặt
vấn đề. Nhìn chung, con người suy tưởng nghi ngờ sự lựa chọn của mình, tra vấn lịch sử, hỏi cả mọi
hiện tượng tự nhiên, mọi con người, mọi sự kiện, mọi hưng vong thế sự một đi không trở lại. Con
người suy tưởng luôn vượt lên bộc lộ những cảm úc riêng tư, luôn phá cách để tự khẳng định mình,
luôn ngờ vực, ám ảnh nỗi bất bình trước thực tại và phàn nàn với cả trời đất núi sông, mây gió, cỏ
cây… Cả cuộc đời Cao Bá Quát là một cuộc đi tìm không ngừng, không nghĩ về lẽ sống ở đời, về
vai trò của thơ văn nói riêng, về kẻ sĩ nói chung. Mình là ai? Mình có thể làm được gì? Làm như thế
nào để có thể khẳng định mình và có thể giúp ích cho đời. Những câu hỏi đó luôn dằn vặt, trăn trở
166 Vãn du Sài Sơn vũ hậu đăng sơn đầu đề bích – kỳ tứ
trong con người Cao Bá Quát.
Chương 3:
THỜI GIAN NGHỆ THUẬT, KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ CHỮ HÁN
CAO BÁ QUÁT
3.1. Thời gian nghệ thuật:
Thời gian là một đại lượng xác định quá trình tồn tại, vận động, phát triển của mọi vật trong
tự nhiên. Nó vận hành theo quy luật một chiều đi tới và mang tính khách quan.
Thời gian nghệ thuật trong tác phẩm là thời gian sáng tạo mang tính chủ quan của tác giả.
Trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát, thời gian cũng vận hành theo suy nghĩ cảm xúc chủ quan của tác
giả, thể hiện quan niệm, nhận thức tư duy của nhà thơ.
Thơ chữ Hán Cao Bá Quát ít đề cập đến tương lai. Song tương lai trong thơ ông là những
toan tính, ước vọng, mong ước tươi sáng. Ông đề cập nhiều đến hiện tại, một thực tại phũ phàng tồn
đọng cứ kéo dài dai dẳng. Đó chính là những điều ông mắt thấy tai nghe, những điều mà ông đã trải
qua. Thơ ông viết khá nhiều những buổi chiều tà, đêm sâu trong những cơn mưa gió, rét mướt, trong
những cơn thịnh nộ của bão biển và trời cao; lại có cả những buổi ban mai đẹp, trời nắng ấm áp và
trời quang mây tạnh sau những cơn mưa; cũng không thiếu những mùa thu, đông lạnh lẽo và mùa
xuân nhựa sống... Quá khứ trong thơ ông cũng khá dày. Nó không phải là những rực rỡ, huy hoàng
của thời vàng son mà phần lớn là những mất mát, đau buồn của đời ông, của thế sự. Nhớ về nó là
nhớ lại những chua cay, hãi hùng, ngỡ như giấc mộng kinh hoàng của những tháng ngày chìm nổi,
lao khổ, đày ải, hoài phí... Đồng thời cũng có không ít những kí ức đẹp về thời trẻ, về quê nhà, cha
mẹ, vợ con và bạn bè. Hoài niệm dịp để nhìn nhận, nhận xét những việc đã qua.
Thời gian trong thơ ông dường như ít trôi qua chóng vánh mà nó tĩnh tại, kéo dài đến day dứt
trong nỗi suy tư, trăn trở của con người. Mặc dù vẫn tuần hoàn theo quy luật nhưng Cao Bá Quát
cảm nhận thời gian chậm chạp, ngưng đọng, dai dẳng trước thực tại. Và con người dường như cũng
trăn trở trước nó.
Có thể tạm gọi thời gian trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát là thời gian kiểm nghiệm, thời gian
tĩnh tại và thời gian toan tính.
3.1.1. Thời gian kiểm nghiệm:
Thơ chữ Hán Cao Bá Quát có đề cập đến quá khứ: quá khứ của kỉ niệm, nỗi nhớ, hồi tưởng...
và quá khứ của dấu ấn thời gian gắn liền với sự kiện, tâm trạng. Cao Bá Quát đã nói về sự việc trôi
qua với sự kiểm nghiệm đánh giá của bản thân một cách đau lòng.
Cao Bá Quát luôn đếm bước đi của thời gian. Ông ý thức được hàng ngày con người trôi
trong quỹ đạo thời gian và cảm thấy cái lận đận, lênh đênh sao cứ đeo bám mãi. Tuy vậy, ông vẫn
cứ dấn thân vào đời, đếm rõ số thời gian trôi qua.
Hà sự tam niên nhất độ lai (Tạp hứng)
(Tại sao ba năm mới tới một lần?)
Nhân thế thăng trầm ngũ lục niên (Ẩm tửu đắc chư hữu giác tác tức
phục tẩu bút thư thị)
(Ta chìm nổi ngoài đời năm sáu năm rồi)
Con số ba năm, năm sáu năm vừa là thời gian của bước đi vừa như là lời tự chất vấn của
chính Cao Bá Quát. Sao lại ba năm cứ đến? Sao mãi nổi trôi như vậy? Vì cớ gì đây? Rõ thật, thời
gian trôi qua mà tưởng như đọng lại, còn đó. Cái trăn trở về con đường danh, về con đường đời rốt
cuộc vẫn cứ là dấu chấm hỏi phía trước. Để rồi càng tê tái hơn, khi con số thời gian xác định không
chỉ dừng lại ở ba năm, năm sáu năm, tám năm mà ngày một lớn hơn mười năm, mười lăm năm,
mười tám năm. Những con số này, Cao Bá Quát nhìn ngắm lại như để kiểm nghiệm về sự lựa chọn
của mình trong cuộc đời này. Con số tròn mười năm được nhắc lại 8 lần. Trong 8 lần nhắc đến thì 5
lần ông đã nói về sự lầm lỡ, phí sức của bản thân vì văn chương vô bổ mà nguyên do cũng vì chút
danh.
Thôi tê khởi liệu nhập niên kỳ? (Dạ thoại thị Phan Hành Phủ)
(Sự trông chờ mười năm đèn sách có ngờ đâu lại dun dủi như thế này)
Thập niên ác bút phí quang tâm (Phục giản Phương Đình)
(Mười năm cầm bút phí cả thì giờ)
Thập niên trệ văn mặc (Đắc gia thư, thị nhật tác)
(Hàng mười năm chìm đắm trong bút mực)
Thập niên ác bút phí quang tâm (Tảo xuân thuật hoài)
(Mười năm trước, ông trẻ đã nhầm nhỡ rồi)
Dấu ấn thời gian tròn 10 năm thật đáng nhớ, thật chua xót biết bao! Cao Bá Quát đã nhìn lại
mình và nhận ra mình đã thật sự sai lầm. Mười năm đèn sách “phí cả thời giờ” “chìm đắm trong bút
mực” mà lại “dun dủi” thế này. Cao Bá Quát chốt lại “mình đã nhầm nhỡ rồi”. Tấm lòng mười năm
rốt cuộc chẳng làm gì, mười năm đèn sách mong có danh, cống hiến cho đời với trách nhiệm kẻ sĩ
vậy mà giờ đây chỉ có ngọn đèn bên người thơ chiếu sáng cho tấm lòng đó (Độc dạ thư hoài). Một
sự uổng công cho những ngày tháng chạy vạy, giờ thì người đã già, tóc cũng đã bạc, mất - còn có
nghĩa gì nữa. Công danh đã như “cái chỏ rơi” còn lại đây tấm lòng thanh cao của mười năm trước: “Mười năm trước ta từng coi thường con nhà họ Mạnh”167.
Thời gian hơn 10 năm cũng ghi dấu nỗi lo sợ về vụ trường thi (Tặng Trà Lụ cử nhân), về sự
phung phí thời gian vô ích (Túc giai lạc cựu tổng mục gia, tương biệt lưu đề), hay là dấu ấn về kỉ
niệm chia tay với con sông, nỗi thiếu vắng những bạn cũ (Thuận Trạch chu hành Động Hải; Thiên 167 Thập niên tiền bạc Mạnh gia nhi (Bài Ngụ sở cảm sự, mạn bút thư hoài)
Áo thành phùng cố nhân Cổ Vân Khê văn kỳ cận phả đắc ý ư họa dữ ẩm cập chi). Thời gian kiểm
nghiệm còn được tính bằng nửa đời người, thậm chí cả đời người. Một sự tính toán, kiểm nghiệm
đến đau lòng.
Bán sinh mệnh bạc thương kê lặc (Thập nguyệt thập thất nhật thừa lễ
bộ nghiêm tấn hậu cưỡng bệnh mạn chí – kỳ tứ)
(Nửa đời người thân phận mong manh nghĩ chuyện gân gà mà
thương)
Nhất sinh cô phụ ngữ xa thư (Sơ đầu)
(Một đời đã phụ cả năm xe sách)
Cao Bá Quát nhìn nhận lại nửa đời người thì mệnh bạc và cả đời người thì phụ “xa thư”.
Chung quy lại ông thương cho tấm thân coi như vô dụng của mình mà đau nỗi đau của kẻ sĩ mang
chí lớn. Tất cả giờ chỉ gởi cho thời gian trôi qua...
Có thể thấy rằng, Cao Bá Quát xác định thời gian để kiểm nghiệm sự thành bại trong cuộc
đời, những được mất trong phẩm cách con người. Ông lưu tâm nhiều đến quá khứ và tính toán một
cách chi li, chính xác. Không nói một cách thời ơ bàng quan mà Cao Bá Quát nói rõ, nói đến nơi
đến chốn những hoạt động những cảm nghĩ những năm tháng đã qua có đúc kết. Dù kết quả ra sao,
thế nào đi nữa, ông vẫn cứ quây đầu nhìn lại. Ông cho đó là cần thiết, vì có thể trút bớt phần nào
những ẩn ức chất chứa trong lòng.
Thời gian kiểm nghiệm còn hướng đến chuyện trăm năm, nghìn năm, chuyện bãi bễ hóa
nương dâu… Dạng kiểm nghiệm này được xác định thông qua cách trần thuật có đánh giá, nhận xét,
bàn luận. Nó được đánh dấu bằng các từ thiên niên, thiên tải, bách niên, thập thế... Luận bàn để
đánh giá chung về những nhân vật thời cũ, những nhân vật nổi tiếng, những tấm gương sáng mà
Cao Bá Quát thầm ngưỡng mộ. Trong thơ, Chu Thần tiếc nuối, ngợi ca, xót thương những anh hùng
xưa như Trần Quốc Tuấn, Chu Văn An, người anh hùng Dóng… Luận bàn đánh giá về Chu Văn
An, Nguyễn Trãi, Chu Thần viết:
Tiều Ẩn, Ức Trai đĩnh song tuyệt (Tống Nguyễn Trúc Khê xuất lỵ
Thường Tín)
(Tiều Ẩn và Ức Trai là hai nhân vật tuyệt vời)
Cao Bá Quát không những đánh giá tốt về những nhân vật lịch sử của dân tộc, những cống
hiến mà các vị ấy mà ông còn ca ngợi những anh hùng phương Bắc đáng kính như Lỗ Trọng Liên
khí tiết không tôn Tần làm đế (Lỗ Trọng Liên nghĩa bất đế Tần); Chu Vân tiết tháo (Tân mông hồi
bộ, túy trung hữu tác); Vũ Hầu Gia Cát trung nghĩa (Vũ Hầu xuất biểu); Lý Thái Bạch thanh cao,
Khuất Nguyên yêu nước… Cao Bá Quát còn luận bàn về gian khổ, thử thách mà người anh hùng
trải qua (Mộ phạn bất cấp hí bút ký sự), về tạo vật vũ trụ (Nhị thập tam dạ khán nguyệt họa Phan
Hành Phủ - kỳ nhị), về nỗi uất hận của khách anh hùng (Tặng Thổ Khối Đỗ Vệ Úy xuất Thanh Hóa),
về lẽ đời thịnh suy (Vãn du Sài Sơn vũ hậu đăng sơn đầu đề bích – kỳ tứ), về việc xuất xử của kẻ sĩ
(Mộ ý) đặc biệt về danh lợi “tỉnh - say” (Sa hành đoản ca)…
Tóm lại: Thời gian kiểm nghiệm trải dài trong thơ Cao Bá Quát. Nó là những dấu ấn đã qua
khó phai mờ và cũng là những bài học bổ ích đối với bản thân ông. Chính bởi thế, nhìn về nó mặc
dầu có cảm giác xót xa nhưng ông vẫn hướng về phía trước với niềm tin và hi vọng vào một ngày
mai tươi sáng hơn.
3.1.2. Thời gian tĩnh tại:
Thời gian có khi nào dừng lại. Nó cứ trôi đi, trôi mãi và tuần hoàn theo chu kì, như nhà thơ
Xuân Hương từng nói “xuân đi xuân lại lại” (Tự tình II). Ở Nguyễn Du, ông thấy thời gian sao mà
nó trôi đi chóng vánh. Điều đó làm nhà thơ ngao ngán, kinh sợ, vội vội vàng vàng.
Thuấn tức bách niên năng kỹ thì (Long Thành cầm giả ca)
(Trăm năm như chớp mắt có là bao)
Bách tuế vi nhân bi thuấn tức (Mạn hứng)
(Cuộc đời trăm năm thương thay chỉ là chớp mắt)
Thông thông tuế dục chu (Chu phát)
(Vội vội vàng vàng đã sắp hết năm)
Cao Bá Quát cũng như Nguyễn Du rất có ý thức về sự trôi đi nhanh chóng của thời gian. Ông
cảm thấy ngày qua như giấc mơ (Đồng Chuyết Hiên ẩm đại túy hoa hạ mạo vũ nhi qui), tám chín
năm mà như cái búng tay (Phù Liệt lữ đình tống Đỗ Miễn Chi Ngự sử), chốc lát mà quá khứ tương
lai đều do định mệnh (Dạ thoại thị Phan Hành Phủ), trong nháy mắt trời nổi cơn gió bụi (Hàn vũ
sảo tức, dạ ngẫu kiến nguyệt, họa Phương Đình), liếc mắt lại đã quanh một năm rồi (Đại hàn)…
Nhưng điểm đáng lưu ý ở thơ Cao Bá Quát, ông thấy thời gian hiện tại nó như kéo dài ra và ngưng
đọng lại, tĩnh tại trong nỗi suy tư, trăn trở của con người. Nó vây kín con người đến nặng trĩu. Thời
gian của đêm, suốt đêm, ngày, suốt ngày, ngày tháng, tháng năm, mùa, suốt mùa như một nỗi ám
ảnh ở Cao Bá Quát. Cái kéo dài của thời gian và sự tĩnh tại của nó phải chăng là cái kéo dài và lắng
sâu của một tâm hồn đang băn khoăn, kiếm tìm, giải mã trước cuộc sống này?
Đêm hiện diện nhiều trong thơ Cao, có đến trên 60 bài thơ viết về khoảng thời gian ám ảnh
này. Đêm trong thơ Cao là cái suốt đêm (nhất dạ, triệt dạ), ngũ canh, tàn canh giam hãm, vây kín
con người. Có những cái suốt đêm thật đáng sợ.
Nhất dạ trường phong hám Hải đài (Thập ngũ dạ phong)
(Suốt đêm gió lộng làm rung động cả tòa Hải Đài)
Triệt dạ cao tiêu bất đoạn thanh (Thập tứ dạ Nghệ an thành trị bạo
phong)
(Suốt đêm gió rít không ngớt)
Nhưng có lẽ đáng sợ hơn là đêm dài với nỗi cô đơn, trăn trở của con người đang ngồi đối
diện với chính mình trong một nỗi buồn không sao giải tỏa, không sao nói nên lời. Chu Thần đã đối
diện với chính mình trong những đêm dài nặng trĩu tâm sự như vậy. Thế nên, đêm nay, canh dài ai
biết được nỗi sầu thu dai dẳng.
Canh trường thùy nại nhất thu bi (Thâm dạ văn lân ông tụng thi)
(Đêm dài ai biết nỗi sầu thu?)
Có phải là nỗi sầu thu hay đây chính là nỗi sầu nhân thế? Có lẽ sầu thu thì ít mà buồn cho
mình, cho thế thái nhân tình thì nhiều. Tiếng ngâm Kinh thi của ông láng giềng nhà bên cùng với
nỗi hờn oán của gió tây làm cho khách xa quê thêm sầu bi. Cái nỗi sầu cứ kéo dài suốt cả đêm trong
nỗi cô đơn hiu quạnh. Chính vì thế mà con người thường có những đêm lo buồn, một mình dạo
bước hành lang quanh co không biết bao lần, tình cảm thì bời bời khôn tả. Nỗi buồn càng da diết
hơn khi những chú dế thương cảm mùa thu phát ra những âm thanh thê thiết (Chung dạ độc muộn).
Cái thời gian năm canh đó càng ghê sợ hơn khi con người trong cảnh lao ngục bị tra khảo, thiêm
thiếp nỗi lo sợ, mạng sống mong manh. Suốt cả năm canh mưa gió ấy, con người đã thật sự gần quỷ
Dạ Xoa (Cửu nguyệt sơ thất nhật dữ Trường sự, hạ trấn phủ ngục). Và dường như thời gian của
đêm ngưng đọng, tĩnh tại khi con người đang mang nặng tâm sự. Người - trăng cả hai không nói mà
thời gian cứ mãi trôi. Chắc hẳn có một sự kéo dài và một sự dồn nén ở đây.
U nhân ái dạ tọa,
Tương đối diệc vong ngôn (Thu dạ độc tọa tức sự)
(Người buồn vẫn thích ngồi khuya,
Nhìn trăng, cả hai đều không nói)
Người và trăng đều tĩnh tại, vô ngôn. Người không nói mà tâm trạng cứ rối bời để rồi giữa
canh tàn thổn thức mãi với lòng, không sao yên giấc được. Cao Bá Quát đã đối diện với chính mình,
suy nghĩ về trách nhiệm của kẻ sĩ (Phù liệt lữ đình tống Đỗ Miên Chi ngự sử). Cao Bá Quát đẩy gối
dậy mà hỏi mình có phải kẻ sĩ không, rồi lặng lẽ trầm ngâm tới sáng dưới trăng. Không chỉ đêm nay
mà cái thời gian đó cứ lặp lại như một vòng khép kín vây lấy con người. Đêm sông Hương cũng
chẳng hề trọn vẹn, con người vẫn cứ thao thức trăn trỡ mãi (Lưu viện du nguyệt, văn đắc tái phát Đà
Nẵng, thị dạ đồng Vũ Hoài Phủ thống ẩm). Cao Bá Quát đã đối diện với tàn canh trong sự mệt mỏi,
rả rích như đếm từng bước đi của thời gian về đêm.
Tàn canh quyên ủy nam song khán (Hạ hạ vấn bốc đồng Hành Phủ)
(Canh tàn mệt mỏi tựa vào cửa sổ phía nam ngắm nhìn)
Tàn canh vô thụy lâu trầm ngâm (Độc dạ thư hoài)
(Canh tàn không ngủ, đồng hồ nhỏ giọt rả rích)
Thời gian về đêm dường như không đủ để cho con người trải nỗi lòng ẩn chứa bây lâu nay.
Thế nên, thời gian ban ngày cũng vẫn cứ dằng dặc vây kín. Có một nỗi thổn thức kéo dài suốt cả
ngày mà dường như vẫn chưa thông suốt: Bồi hồi chung nhật ý (Suốt ngày ý dùng dằng). Cao Bá
Quát nhiều lúc tự hỏi: Chạy vạy suốt ngày để làm gì? (Nhàn cư) để bây giờ chỉ thấy cái lòng sâu
độc của cạm bẫy. Hụt hẫng, đau xót cho những năm tháng miệt mài lao lực, Cao Bá Quát trăn trở
trước thời gian.
Lao đao chung nhật tỉnh ư thâm (Trường giang thiên – kỳ nhị)
(Vất vả suốt ngày thấy được cái lòng sâu độc của cạm bẫy)
Thời gian kéo dài còn được thể hiện thông qua cách dùng điệp từ. Những từ nhật nhật, dạ dạ,
niên niên xuất hiện khá nhiều. Sự xuất hiện của những từ này làm cho ngày, đêm và năm như kéo
dài hơn, tĩnh tại hơn. Bài Khúc đê dạ liệp nói về việc đêm đêm đi săn; bài Nhiệt thời tác nói về đêm
đêm rừng có ánh chớp; bài Trung thu dạ đồng bảo Xuyên ông thống ẩm vi biệt nói đêm đêm ánh
trăng đơn độc nơi cầu váng; bài Xuân nhật tuyệt cú thập thất thủ nói ngày ngày cần có cánh buồn
tiễn ông say; bài Mông đắc hồi bổ Hàn Lâm, lâm hành chư đệ tử tương tiễn, nhân thứ tiền vận vi
biệt nói mỗi khi nhớ học trò ngày ngày đổi áo mua rượu uống vì vẫn còn nghèo… Cái thời gian kéo
dài, tĩnh tại của đêm đêm còn là nỗi ám ánh, đau đớn đối với người vợ trong cảnh cô phòng.
Dạ dạ thủ không sàng (Tự quân chi xuất hỹ)
(Đêm đêm em giữ chiếc giường không)
Thời gian kéo dài còn được thấy qua các từ như nhật nguyệt, cộng tế, vĩnh nhật. Những từ
này có nghĩa là ngày tháng. Có một nỗi niềm đất khách phó cho ngày tháng trôi (Tiểu ẩm hí bút),
một tình quê nghìn dặm ngập chìm ngày tháng (Tống nội huynh Đỗ Lý An Huấn đạo giả mãn hồi
kinh), một nỗi nhàn rỗi rãnh tiêu sầu với rượu quên ngày tháng (Độc dạ khiển hoài), một tâm sự gởi
vào khúc ngâm cho hết ngày tháng. Không chỉ vậy, cái khoảng thời gian ấy vẫn cứ tiếp nối với tuế
nguyệt (năm tháng) dài. Rất nhiều lần, con người nói đến năm tháng với nỗi đau trăn trở. Có năm
tháng vây lấy kẻ ngồi dài (Đối vũ – kỳ nhị), năm tháng trôi qua hãi hùng (Đoan ngọ)… cũng có năm
tháng trôi qua mà tiết tháo vẫn không phai (Bồn lan họa Di Xuân thứ vận), năm tháng ẩn dật chốn
ngọc đường (Đề Trần Thận Tư học quán, thứ vận Phương Đình vận), hay năm tháng đất giữ màu
cho cảnh vật (Du Tây Hồ bát tuyệt – kỳ nhất). Rồi những khoảng thời gian dài như quanh năm, trăm
năm lại tiếp tục kéo dài, vây kín con người trong những nỗi nhớ quê (Độ chế giang), trong nỗi trăn
trở dày vò khôn sao bày tỏ (Bạc xuân giản Nguyễn Chính Tự) hay cái lênh đênh cả đời người (Phục
tặng)...
Tóm lại: Thời gian tĩnh tại là nơi hiện diện của con người suy tưởng, con người tình cảm
trong thơ Cao Bá Quát. Ngày, đêm, năm tháng, mùa, quanh năm liên tục nối tiếp nhau, và trong bản
thân chúng cũng có sự kéo dài, sự dồn nén. Thời gian này thường được bao bọc trong những không
gian khép kín, với những nỗi niềm riêng chung sâu thẳm.
3.1.3. Thời gian toan tính:
Sống ở cuộc đời ai mà không có những suy nghĩ, tính toán cho riêng mình: một mảnh vườn,
một mái ấm hạnh phúc bình dị, đơn sơ; lớn lao hơn nữa là được vinh hiển, được lưu danh cùng sử
sách. Toan tính cho cá nhân là người tầm thường, toan tính cho dân cho nước là bậc anh hùng, con
người vĩ đại. Cao Bá Quát là một kẻ sĩ luôn sống vì lý tưởng, vì khát vọng lớn lao. Bởi vậy, những
suy nghĩ, việc làm của Cao Bá Quát phần nhiều là những toan tính vì xã hội, nhân dân. Cao Bá Quát
còn là một con người ưu tú của thời đại nên rất mẫn cảm với thế sự thời cuộc, chính sự của dân tộc.
Chính lẽ đó, mà ở ông hay có những dự đoán, ước tính những sự việc sẽ đến với cho bản thân,
những việc sẽ đến hay xảy ra với nhân dân, đất nước. Trong thơ ông có xuất hiện mảng thời gian
toan tính, ước đoán. Mảng thời gian này như là một tia sáng trong thơ; nó là hệ quả tất yếu của thời
gian kiểm nghiệm và thời gian tĩnh tại. Dấu hiệu để nhận biết mảng thời gian này thông qua sự xuất
hiện của các từ mưu, nghĩ, kế…
Bắt đầu từ những khát vọng, hoài bão lớn lao của kẻ sĩ nhập thế, Cao Bá Quát đã có những
toan tính cho cá nhân mình. Muốn có công danh thì phải là người có tài văn chương lỗi lạc, chí ít nhất phải trên ngàn người. Muốn nổi tiếng phải đến nơi đông người168 là vậy! Từ toan tính đó, Cao
Bá Quát ngày đêm ôn luyện chữ nghĩa mưu cầu công danh: “Chuyện chữ nghĩa là mưu tính của tuổi trẻ”169. Ý định này quả thật đáng kính nể. Nhưng đường công danh lận đận, văn chương vì thế
nhiều lúc vô bổ. Về sau, lại chán ngán cái “danh hờ” đeo bám nên Cao Bá Quát đâm ra buồn chán.
Những suy nghĩ và toan tính việc ích nước lợi dân giờ đành ngậm ngùi. Nhưng Cao Bá Quát không
từ bỏ ý định đó. Ông vẫn cứ nghĩ ngợi, toan tính da diết trong những buổi chiều tàn, đêm sâu, hay
vào một ngày mới. Một mối hận công danh (Châu Long tự ức biệt – kỳ nhị), một vẻ mặt trầm ngâm
(Đắc gia thư, thị nhật tác; Phù liệt lữ đình tống Đỗ Miễn Chi ngự sự), một hành động giả ngây
(Phạm Kinh Doãn nhục quỹ hải vật, bệnh vị đáp bái, hốt trị phong vũ, cảm sự thư hoài nhân giản
Phạm Công kiêm trí bỉ ý), giả điên (Tống Nguyễn Trúc Khê xuất lụy Thường Tín kiêm trí Lê Huy
Vĩnh lão khế, Văn Lưu Nguyệt Trì Bắc hành khuyết vi diện biệt phụng ký) chất chứa biết bao nhiều
nỗi trăn trở lo toan, kiếm tìm, toan tính. Ngay cả khi thất chí muốn về nhàn, giấu mình trong chốn
sơn lâm, lấy việc đọc sách, làm thơ, thưởng ngoạn làm thú vui trần thế con người vẫn cứ suy nghĩ.
Đầu bạch quy lai dã bế môn (Đắc Hà Thành cố nhân thư thoại cập
gia tình kiêm vấn cận tác)
(Vậy khi đầu bạc cũng sẽ trở về đấy đóng cửa lại)
168 Tri danh tức thị triều (Bài Nhập Vĩnh Lợi Kiều) 169 Văn tự thiếu niên mưu (Bài Mộ ý)
Tha nhật họa đàm du cận sự (Thuật hoài)
(Ngày kia nằm khểnh để bàn luận những việc gần đây)
Không tính chuyện công danh thì về nhàn, lo cho mình trong tuổi già sức yếu, bàn luận
chuyện thế sự gần đây. Đấy là cách lựa chọn duy nhất trong thời hiện tại. Về nhàn cũng là một sự suy tính: “Năm khác sẽ uống như ba ba để tính kế nhàn/ Bắt chước Thanh Liên học câu rùa”170.
Sự toan tính còn bắt đầu từ câu hỏi, những lời chất vấn với chính mình. Ví như người đi trên
bãi cát dài trong Sa hành đoản ca, mặt trời lặn vẫn đi, mỗi bước đi lại ngập ngừng như suy nghĩ,
toan tính một điều gì: “Bãi cát dài, bài cát dài, biết tính sao đây?” Để bước cuối cùng cất lên tiếng
nói mạnh mẽ: “Anh còn đứng làm chi trên bãi cát?” Hay người trong Đáp Trần Ngộ Hiên, dù mệt
mỏi đến ngã đường, cũng đã tự hỏi: “Ngựa đã mỏi đường còn dài, tính sao đây?”
Toan tính không chỉ trong những đêm sâu, ngày dài mà ngay cả khi năm mới, khi bắt đầu
ngày mới. Có một toan tính cho chuyện mưu sinh trong năm mới; có một toan tính từ hành động
ném bút lông cầm thanh bảo kiếm tìm công danh nơi lam chướng từ sáng nay.
Trường sàm sinh kế vấn tân niên (Viên cư trị vũ)
(Lưỡi cày dài tính chuyện mưu sinh, hỏi xem năm mới)
Ma thuẫn tự kim triêu (Ban siêu ném bút)
(Từ sáng nay mài thuẫn)
Trong vườn gặp mưa mà tính chuyện làm ăn trong năm mới, thấy gương người xưa dám
thẳng tay ném bút lông lập nghiệp nơi hang hùm sau lưu danh muôn thưở mà nung nấu ý chí cho mình, hay “chén nâng, rót rượu mời lùm cây thơm”171 cầu mong hạnh phúc trong dịp mồng một tết.
Cao Bá Quát còn muốn xóa những tật nhiễm cũ ở hương thôn, để từ nay - mùng một tết - mọi việc đều mới mẻ, tiến bộ: “Vạn sự tòng kim tân đắc hảo”172. Cũng chính từ đấy mà ông có suy nghĩ về
con đường vương đạo của những vị vua sáng (Tuân chi vương đạo) hay kế sách xây dựng một xã
hội theo khuôn phép lễ nghĩa (Tu lễ dĩ canh), đường lối chính trị thuận dân tâm (Chính tại thuận
dân tâm). Cao Bá Quát toan tính để rồi thực hiện những toan tính đó. Ông chữa bài cho những thí
sinh có tài, đứng lên lãnh đạo mọi người trong cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương vang dội sau này.
Cao Bá Quát không chỉ toan tính để hành động mà còn để ước đoán, ước tính. Ông thường
ước đoán những việc liên quan đến bản thân mình như việc công danh sẽ không bỏ lỡ sau này
(Tương đáo cố hương) hay việc ông xa qua trở về khi bước vào cửa biết rằng có người vợ hiền từng
giã gạo mướn (Tiếp nội thư tính ký hân y, bút điều sổ tự), ước đoán sẽ có ngày về gặp song thân
(Văn Lưu Nguyệt Trì Bắc hành khuyết vi diện biệt phụng ký – kỳ nhị), rồi việc đi thuyền độ quá lâu
ông cũng ước chừng khoảng mấy do tuần (Trần Ngộ Hiên nhục hữu sở thị tẩu bút họa chi). Cao Bá
Quát không chỉ ước đoán những việc cho cá nhân mình mà còn ước đoán nhiều việc hệ trọng liên 170 Tha niên miết ẩm mưu nhàn kế/ Nghĩ hướng Thanh Liên học điếu ngao (Bài Phạm Công tái nhục kiến quỹ tức tiền đề tẩu bút phụng đáp) 171 Bả trản lỗi phương tùng (Bài Họa Thận Tư nguyên Đán thí bút thứ vận) 172 Bài Nguyên Nhật
quan đến người dân, thời cuộc và chính sự. Ông thấy rõ thế bế tắc của người dân vì sưu thế cao, mà
lại cứ tăng liên tục trong Phúc Lâm lão: “Năm mươi nhăm tuổi đã tăng một suất/ Năm sáu mươi tuổi
lại tăng thêm suất nữa/ Nếu tăng đến kì sang năm còn đào đâu ra tiền đóng”, chắc rằng ông lão sẽ
chết mất như bức tường đổ nát kia. Và bức tường đổ nát kia phải chăng còn là hệ quả của một triều
đại khi mà tất cả người dân đều tha hương, tất cả đều như ông lão này? Việc ném hột mai lên núi
cũng là một sự toan tính. Cao Bá Quát chắc hẳn rằng sẽ có một bức tranh đẹp cho người đời sau này
ngắm nhìn. Một sự toán tính và ước đoán trong bài Tài mai thật cao cả, tất thảy đều vì mọi người.
Hay mong ước chờ xem cuốn sách dưới cầu của bác Đỗ Vệ Úy đến ngày thực hiện (Tặng Thổ Khối
Đỗ Vệ Úy xuất Thanh Hóa).
Dịp ra nước ngoài chuộc tội vì vụ trường thi cũng đã tạo những ấn tượng khó phai ở Cao Bá
Quát. Chính từ đây, ông không những nhìn lại những gì trước đó của cá nhân, của dân tộc mà còn ý
thức được thời cuộc, thấy rõ nguy cơ của những nước Á Đông và nhiều vấn đế khác. Một sự ước
đoán trong tương lai bắt đầu hình thành. Những bài thơ Dạ quan Thanh nhân hí trường diễn chiến,
Hồng Mao hỏa thuyền ca, Thập ngũ dạ đại phong… đã cho thấy rõ sự ước đoán. Cao Bá Quát thấy
rõ chiến tranh rồi sẽ xảy ra và cần có những anh hùng thực sự trên chiến trường chứ không hò hét
như trên sân khấu; các nước phương Tây với những con tàu bề thế đang lăm le như hiểm họa xâm
lăng đang đến gần các nước Á Đông. Cao Bá Quát ví mình như là Ngũ Tử Tư của ngày mai, như sứ
giả họ Trương (Trương Khiên đời Hán) cưỡi bè đi sứ để tìm hiểu tình hình nước ngoài. Một sự ước
đoán sẽ xảy ra và niềm tâm sự đến độ lệ rơi lã chã.
Phiếm tra mạn tự đàm Trương sứ,
“Quyết nhãn” bằng thùy điếu Ngũ Viên?
Ngã thị Trung Nguyên cựu nhân vật,
Tây phong hồi thủ lệ phân phân (Dữ Hoàng Liên Phương ngữ cập
hải ngoại sự, triếp hữu sở cảm, tẩu bút dữ chi)
(Nhân việc cưỡi bè mà nói chuyện về sứ giả họ Trương,
Nhớ lời dặn “khoét mắt” biết nhờ ai viếng Ngũ Viên?
Ta cũng là nhân vật cũ ở Trung Nguyên,
Trước ngọn gió Tây, ngoảnh đầu lại, lệ rơi lã chả)
Tóm lại: Thời gian toan tính là mảng thời gian xuất hiện rất ít trong thơ Cao Bá Quát nhưng
nó thật có ý nghĩa. Thời gian này như là một tia sáng, thể hiện niềm tin mạnh mẽ của tác giả vào
ngày mai. Đồng cũng là một dự báo, cảnh tĩnh đối với giai cấp phong kiến và những ai có tinh thần
dân tộc trước nạn ngoại xâm đang lâm le. Cao Bá Quát đã sớm đến với cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương,
những toan tính của ông rồi cũng đã thực hiện nhưng tiếc thay nó đã nhanh chóng sụp đổ; nếu
không sẽ có một “Tài mai” cho người đời thưởng thức, một “Tuân chi vương lộ” ấm no và một “Tu
lễ dĩ canh” khuôn phép, thịnh trị.
3. 2. Không gian nghệ thuật:
Không gian nghệ thuật gắn liền với cảm hứng sáng tác và nó nghiêng về phía tinh thần. Nó
không dừng lại không gian vật chất mà nó là hình tượng không gian, là thế giới của tinh thần, cảm
xúc. Nó được xác định từ điểm nhìn, vị trí tác giả và mở rộng ở mức độ tâm tưởng. Trong thơ cổ
điển không gian nghệ thuật chính là không gian vũ trụ bởi lẽ người xưa có khát vọng lên cao để
chan hòa và chiếm lĩnh vũ trụ. Không gian cá nhân không có chỗ đứng trong thơ cổ, cái cá nhân đơn
lẻ đã chan hòa cùng cái ta, bị cái ta chi phối.
Chu Thần là một trong những nhà thơ lớp cuối của văn học trung đại, cho nên không gian
nghệ thuật trong thơ ông ít nhiều cũng chịu ảnh hưởng của không gian vũ trụ. Và quả thật có một
không gian “tầm cao” và rộng lớn xa tít tắp, mù mịt gió bụi, lạnh lẽo trong thơ ông. Lại xuất hiện
một không gian cá nhân đơn lẻ trong không gian vũ trụ bao la kia. Điều đó đã làm cho không gian
nghệ thuật thêm sinh động, gắn liền với sự ý thức cá nhân của con người thời đại.
Khảo sát 418 bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát, chúng tôi thấy có mảng không gian “tầm
cao”, không gian rộng lớn với khoảng cách xa tít tắp đầy gió bụi lạnh lẽo và không gian nỗi niềm cá
nhân. Những không gian này hòa quyện với nhau thể hiện thế giới quan trong thơ Cao Bá Quát.
Trong khuôn khổ luận văn cho phép, chúng tôi xin đi vào tìm hiểu không gian “tầm cao” và không
gian nỗi niềm.
3.2.1. Không gian “tầm cao”:
Trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát có một mảng không gian thể hiện ý chí, bản lĩnh, khát vọng
của Chu Thần. Chúng tôi tạm gọi là không gian “tầm cao”.
Cao Bá Quát cũng giống như người xưa lên cao để chiếm lĩnh không gian, hòa nhập vào vũ
trụ, khẳng định sự tồn tại của mình trong trời đất. Lên cao là một vận động bước vào giữa lòng vũ
trụ. Ở đó, con người dễ thấy vị trí trung tâm của mình, cảm thấy gần với trời hơn. Có trên 25 lần
Cao Bá Quát lên cao để chiếm lĩnh không gian. Đối tượng của không gian “tầm cao” là núi, đài,
trời, mây, bức thành thậm chí của sóng, ngọn lửa, của nước… Thích thú với độ cao nên Cao Bá
Quát thường “đăng cao”. Đăng cao để thể hiện chí khí, để tự do hứng gió trời, để gởi tấm lòng vào
non nước, khám phá những gì mình chưa biết và cũng để thu tóm trời mây, non nước… Con người
lên núi, lên ải … hiên ngang chinh phục mọi giới hạn độ cao, mọi thử thách. Có một chí khí còn đây
không chỉ ở Hoành Sơn nói riêng mà khắp các núi cao đèo ải, và một tâm hồn tự do, lạc quan tràn
ngập đất trời cả nơi biển khơi sóng gió. Chính vì vậy, Chu Thần ngay cả khi không đăng cao vẫn
thấy mình ở trên cao. Đó là không gian của trên cầu, trên lầu, trên thuyền, trên sóng… nhưng trên cả
độ cao thực của nó là tinh thần vượt giới hạn ở mọi độ cao của kẻ sĩ. Ví như, trước độ cao của sóng,
con người muốn tự họa mình trên đầu ngọn sóng (Trần Ngộ Hiên nhục hữu sở thị tẩu bút họa chi),
hay khi trên thuyền mà muốn đề thơ khắp chốn chân trời kia (Nhị thập nhị nhật Đắc phong, hý trình
đồng chu nhị thủ). Không chỉ vậy, không gian ở độ cao còn được mở ra ở những khát khao ước
muốn lên cao của con người: Muốn trèo lên đỉnh núi kia cao ngất (Quá Dục Thúy Sơn), muốn chấp
thêm đôi cánh bay lên tận tầng mây tía (Lục nguyệt thập ngũ dạ nguyệt hạ tác, phụng ký chư cố
nhân), muốn ngẩng đầu nhìn lên tận ngoài trời, vin mây mà lên cao mãi (Du vân), hay vác sáo lên
chợ trời, hỏi vùng trời còn xa mấy nữa (Vãn du Sài sơn hậu đăng sơn đầu đề bích thủ - kỳ tứ)…
Ở không gian “tầm cao”, Cao Bá Quát thích thú vẫn là độ cao của núi. Núi hiện trong thơ
ông cũng khá nhiều. Khảo sát 418 bài thơ thì thấy: Cao Bá Quát trên 25 lần nhắc đến các ngọn núi,
có núi Hoành Sơn (lặp lại 4 lần), Vạn An, Vệ Linh, Sài Sơn, Núi Yên Ngựa, Cù Mông, Dục Thúy,
Núi Tướng Mạo Quân, Núi Liêu, núi Thất Sơn, Tản Viên, núi Con Mèo (Miêu Tử), Côn Sơn, Khán
Sơn, Tích Sơn (Núi Thiếc), núi Phượng Hoàng, Núi Nùng, Non Đoài, núi Nguyệt Hằng (Bắc Ninh),
Ngũ Hành (Quảng Nam), núi Nam Tào (Hải Dương), Hoắc Sơn (Thái Nguyên)… Nói đến núi, Cao
Bá Quát đề cập đến độ cao ngút ngàn, chót vót, vô tận, thế hiểm trở.
Thiên nhiên tú xuất tiểu cô phong (Đồng Minh Trọng du Tích Sơn tự
đề bích)
(Chùm núi nhỏ cao vút giữa thiên nhiên)
Địa biểu lập sàn nhan (Hoành Sơn quan)
(Những ngọn núi tiêu biểu đứng cao chót vót)
Không gian núi cao hoành tráng cuốn hút Chu Thần. Những ngọn núi cao như là biểu tượng
của của giới hạn, thử thách sẽ hun đúc quyết tâm của ông hơn trong cuộc sống này. Ví như nhìn núi
Tản Viên, Cao Bá Quát cảm thấy thỏa mãn bởi cái thế núi ấy ngút ngàn có thể chạm được trời, hái
được sao, bởi cái hùng vĩ thiêng liêng của núi (Vịnh Tản Viên sơn), nhìn núi Thanh hóa như hổ ngồi
chồm chỗm, có âm thanh cá kình phải nép, có bóng dáng làm chim kinh sợ cất cánh bay, Cao Bá
Quát thật sự tự hào về non nước mình (Vịnh Miêu Tử) hay khi qua Đèo Ngang nhìn núi Hoành sơn -
ngọn núi cao nhất tiêu biểu của đất nước đứng cao chót vót Chu Thần cảm thấy cái chí mình như
còn đây nên lần lữa mãi chưa về. Cũng chính đứng ở cái thế cao này, khi nhìn những con chim âu
trước trùng dương sóng dữ dội, lại có sấm ran, chớp giật, Cao Bá Quát đã có sự nhìn lại chính mình
với một “tầm cao” ý chí: Con chim âu bé nhỏ kia mà vẫn thản nhiên, vẫn có đủ sức bay giữa trùng
dương, lẽ nào mình lại cam chịu trước những thất bại đã qua. Thực cảnh đó đã giục giã Cao Bá Quát xông xáo tìm công danh: “Mũ lộng nhộn nhịp, ta cũng đi đây!”173.
Cao Bá Quát thích thú với núi. Bởi vậy, dù ở đâu, đi đâu, ông vẫn hướng đến núi. Điều đáng
173 Bài Hoành Sơn vọng hải ca
chú ý là núi trong thơ Cao không chỉ xuất hiện với thế cao ngút ngàn và dài thiên lý, vạn lý mà nó
còn tạo thành một quần thể núi non, núi đèo với khoảng không vừa khép kín – trùng điệp vừa mở ra
thoáng đạt đang đối kháng, thách thức con người. Trong 2 lần đến với núi Hoành Sơn, Cao Bá Quát
nhìn tứ phía đều là núi, và phía trước núi muôn trùng núi trải dài thiên lý, vạn lý. Bản thân như đang
bị vây kín bao không gian của núi non.
Sơn ngoại thanh sơn vạn lý trình (Đăng Hoành Sơn)
(Ngoài non xanh lại non xanh, đường dài muôn dặm)
Sơn Bắc, sơn Nam, thiên vạn lý (Hoành Sơn vọng hải ca)
(Phía bắc núi, phía nam núi, suốt nghìn muôn dặm)
Núi khép kín – trùng điệp là do có nhiều núi. Nhưng tại sao Cao lại nói nhiều đến núi, hơn cả
những nhà thơ cùng thời ông và trước đó, lại hay lên núi, lên cao như vậy? Phải chăng lên núi, lên
cao là khát khao của Cao? Và nếu như vậy, thì không gian núi cao, không gian núi khép kín - trùng
điệp vừa thể hiện chí khí vừa thể hiện tinh thần vượt khó khăn của Chu Thần. Rõ thật không gian
này đã làm cho con đường thêm dài, gian nan. Nhưng Cao Bá Quát vẫn cứ thích thú, vẫn cứ hứng
khởi, xông xáo bước đi, dấn thân vào cuộc đời. Không gian núi khép kín - trùng điệp không chỉ khi
đứng ở trên núi, nhìn thấy núi mà ngay cả khi con người ở mặt đất, không thấy núi. Điều này cho
thấy không gian núi khép kín – trùng điệp đã trở thành nỗi niềm thường trực ở nhà thơ, nó vây kín
đến độ từ bước đi, thế đứng, cách nhìn, dù ở bất cứ đâu.
Bắc sơn chi bắc sơn vạn điệp
Nam sơn chi nam ba vạn cấp (Sa hành đoản ca)
(Phía Bắc núi bắc núi muôn trùng,
Phía nam núi nam sóng muôn đợt)
Trên bãi cát dài mênh mông của đường đời mà thấy núi “vạn điệp” phía Bắc, phía Nam vây
kín. Qua hải phận Bình Định cũng vậy thấy núi đứng thành dãy quần sơn chắn ngang; ra nước ngoài
biển mây vời vợi, vẫn thấy núi vạn trùng quanh co, uốn lượn. Thế núi và đường đời khép kín là nỗi
lo lắng đối với những ai thiếu ý chí, bản lĩnh còn đối với Cao Bá Quát thì đó là cuộc đọ sức. Chu
Thần từng nói “vời vợi trên đường để xem ai khỏe hơn”. Thật sự Cao Bá Quát đã lấy tinh thần để
đối chọi khó khăn, thử thách. Ông không nản chí, không lùi nước, dù khi ở thế bí nhưng vẫn cố kiên
trì tìm cách, tìm hướng đi riêng: “Anh còn đứng làm chi trên bãi cát” là vậy! Không gian khép kín –
trùng điệp xuất hiện càng nhiều thì càng khẳng định tinh thần của Cao trước sau vẫn không đổi. Một
lần qua vùng núi Thất Sơn (Thất Sơn đạo trung), một lần qua đò sông Gianh (Vũ trung Độ Linh
giang) dù thế núi hiểm trở suốt đêm vây lấy con thuyền, dù phía trước núi như khóa chặt lại thì Chu
Thần vẫn là Chu Thần. Nỗi niềm hưng phấn cứ theo thời gian suốt đêm, cứ theo mảnh lá buồm trôi
trong nước xoáy. Con người đã thật sự rơi vào tình huống lẩn quẩn của thiên nhiên bày ra mà vẫn cứ
lạc quan, tin tưởng vào mình. Như vậy có thể nói rằng núi khép kín – trùng điệp trong thơ Cao thể
hiện tinh thần vươn lên phía trước, lấy thử thách, khó khăn làm điểm tựa, động lực cho bước tiến ở
mỗi chặng đường trong cuộc hành trình của mình. Tinh thần tiến thủ của Cao Bá Quát quả thật
mạnh mẽ!
Sự xuất hiện của núi trong thơ Cao Bá Quát rất ấn tượng với độ cao và thế núi muôn trùng
vừa rộng mở vừa khép kín. Điều đáng nói nhất là tầm nhìn, bản lĩnh của con người trước nó. Cao Bá
Quát đăng cao để chan hòa cùng vũ trụ. Tuy nhiên, ông khác với những thế hệ trước ông, nhất là
khác với Nguyễn Du, người sống trước ông không lâu. Nguyễn Du lên cao để bao quát và cố nhìn
vũ trụ, thậm chí nhìn mút tầm mắt nhưng Nguyễn Du từ chối hội nhập với thiên nhiên. Nguyễn Du
ước mơ cùng sông Lam núi Hồng thực hiện giấc mộng bầu bạn ngâm vịnh nhưng điều đó không có
được. Trái lại, Cao Bá Quát hòa nhập vào vũ trụ một cách hết mình và thậm chí ông đứng trên cả vũ
trụ, thiên nhiên với tư thế hiên ngang, hùng dũng. Chính do vậy khi đã lên cao, ước ao lên cao rồi
mà ông vẫn chưa thảo mãn. Ông còn muốn làm chủ cả thiên, làm chủ mọi độ cao để tùy ý chỉ trỏ
thiên nhiên, mây núi, tùy ý ngắm nghía, cầm nắm, thậm chí chuyển vời chúng sao cho hợp lí hơn.
Nhãn trung sơn thủy vạn thiên lý (Vãn du Sài Sơn vũ hậu đăng đầu đề
bích – kỳ tứ)
(Trong khóe mắt, thu gọn nước non hàng muôn nghìn dặm)
Khiên lai tây bạn, sơn vưu hảo,
Sản khước đông biên, quách cánh nghi (Du Tây Hồ bát tuyệt – kỳ tứ)
(Đưa lại bờ Tây, núi non thêm xinh đẹp,
San bằng mé đông, thành quách càng hữu tình)
Người xưa thích núi hơn sông bởi núi tĩnh tại, biểu hiện cho sự kiên định vững vàng của
người nhân, còn sông thì động biểu hiện cho người trí. Trọng người nhân hơn người trí là quan niệm
của ông cha ta từ xưa. Một điều đáng lưu ý là trong thơ Cao sự hiện diện của sông nhiều hơn núi.
Trên 26 lần nhà thơ đề cập tên các dòng sông. Sông thì có sông Hồng (lặp lại 6 lần), sông Hương
(lặp lại 4 lần), sông Trà (lặp lại 3 lần), sông Đằng Giang, Đức Giang (Bắc Ninh), sông Lục đầu,
sông Chế, sông Mi luân, sông Hiền Lương (sông Minh Lương), sông Hạc, sông Toan Táo , sông
Ngọc Nhĩ, sông Đức, sông Gianh, sông Tô (sông Tô Lịch)… Vậy thì Cao Bá Quát không những là
một người nhân mà còn là người trí luôn năng động, tìm tòi, khám phá. Trong thơ, ông dành tình
cảm ưu ái đối với sông hồ. Điều này thể hiện qua nhiều bài thơ như Thận Tư dĩ thi ước dữ chư hữu
du hồ thượng thứ vận họa đáp; Du Tây Hồ - kỳ nhất; Dạ túc Triều Châu...
Sông nghiêng về chiều dài hay chiều rộng. Với Cao Bá Quát, sông còn có cả một “tầm cao”
của ý chí, bản lĩnh. Dòng Hương Giang trở nên mạnh mẽ như lưỡi gươm sừng sững trời xanh, sông
Toan Táo như chạy lên tới trời, nước sông Nhĩ như dâng cao bất tận…
Trường giang như kiếm lập thanh thiên (Hiểu quá Hương giang)
(Dòng sông dài như lưỡi gươm dựng giữa trời xanh)
Hà lưu Toan Táo phù thiên động,
Triều dũng Tiền Đường hám hải khuynh (Thập tứ dạ Nghệ An thành
trị bạo phong)
(Sông Toan Táo chảy sủi bọt rung trời,
Sóng Tiền Đường mạnh lay nghiêng bể)
Tây Nhĩ giang đầu thủy tẩm thiên (Đại vũ – kỳ nhất)
(Ở đầu sông Nhĩ phía tây nước liền trời)
Cao lãng tiếp thiên bình (Chu trình hiểu vọng phụng trình đồng chu
chư quân tử)
(Làn sóng dâng cao, tiếp đến tận ngang trời)
Sông sao mà mạnh mẽ đến thế! Phải chăng Cao Bá Quát đã tiếp thêm sức cho chúng mạnh
mẽ hơn, khi thế hơn? Những dòng sông như đang sục sôi tràn ra mạnh mẽ từ lòng người. Sông
chẳng khác nào khí thế của Cao Bá Quát vào đời, bên bỉ và tích cực, mãnh mẽ và đam mê, giận dữ
và phẫn nộ… như muốn cuốn trôi những rác rưởi ở đời, như muốn phân chia vũ trụ, phá bỏ mọi giới
hạn, ràng buộc. Sông cùng với con người lên cao, tuôn chảy mãi giữa vũ trụ. Chính bởi thế, khi bắt
gặp ba đào hùng tráng, Cao Bá Quát mới thấy chí mình trải ra muôn dặm…
Việc đăng cao có gì hấp dẫn Cao Bá Quát. Phải chăng trên cao bao quát toàn cảnh, thỏa mãn
thị giác (Đăng Hoành Sơn, Hoành Sơn vọng hải ca, Đăng Khán Sơn hữu hoài…); mát mẻ và tĩnh
mịch phù hợp với người tự do, an nhàn (Côn sơn hành); hay thế núi ngút ngàn, có thể chạm được
trời, hái được sao (Vịnh Tản Viên sơn)? Có lẽ là vậy. Bởi thế, Cao Bá Quát cảm thấy hứng khởi
“đăng cao”, hào hứng vượt khoảng trời xa (Côn Sơn hành), vui mừng vác sáo lên chợ trời (Vãn du
Sài Sơn vũ hậu đăng sơn đầu đề bích – kỳ tứ), hưng phấn khi leo núi... Nhưng cũng có thể là do sở
thích của Cao Bá Quát một con người cứng cỏi, mạnh mẽ muốn ôm trùm cả vũ trụ này, nhất là
muốn chiếm lĩnh, chinh phục độ cao, thể hiện chí khí, bản lĩnh. Con người Cao Bá Quát hiện lên
thật hùng dũng, khí phách trong không gian “tầm cao”
3.2.2. Không gian nỗi niềm:
Trong thơ Cao Bá Quát có mảng không gian gắn liền với những tâm tư tình cảm của con
người. Chúng tôi tạm gọi là không gian nỗi niềm. Không gian này xuất hiện là do Cao Bá Quát có
nhiều suy tư và trăn trở trước cuộc sống, trước con đường đi tìm lẽ sống đời mình; và nó được cụ
thể hóa qua những hình tượng không gian nghệ thuật như hình tượng con đường, bãi cát, trăng, ngôi
nhà, ngọn đèn. Con người suy tưởng và tình cảm hiện lên rất rõ và chiếm ưu thế ở khoảng không
gian này.
Trước hết, không gian nỗi niềm được thể hiện thông qua hình tượng nghệ thuật về con
đường. Hành trình của Cao Bá Quát gắn liền với hình tượng con đường. Khảo sát 418 bài thơ thì có
đến 31 lần Cao Bá Quát đề cập đến “con đường”. Có con đường dài (Chí gia; Phó Nam cung, xuất
giao môn, biệt đệ tử), đường cát bụi (Thuật hoài), đường xa lạ (Thập lục nhật yết đĩnh Lữ Thuận,
thứ Trần Ngộ Hiên), đường mây khói (Bệnh trung), đường công danh (Hoành Sơn vọng hải ca, Sa
hành đoản ca), đường trần (Hiểu quá Hương giang), đường mây khói (Bệnh Trung), đường mờ mịt,
muôn dặm quan san một màu trắng xóa (Trà giang thu nguyệt ca)... Những con đường in hằn trong
tâm trí của Chu Thần. Nó mở ra một không gian xa cách, dài thăm thẳm chiều trôi, xa tít tắp và
dằng dặc trong nỗi cô đơn, nỗi nhớ.
Trường lộ thượng du du (Chí gia)
(Đường dài còn thăm thẳm)
Man man hướng trường lộ (Phó Nam cung, xuất giao môn, biệt chư
đệ tử)
(Đi trên con đường dài thăm thẳm)
Thử sinh qui lộ chuyển du du (Lưu viện du nguyệt, văn đắc tái phát
Đà Nẵng, thị dạ đồng Vũ Hoài Phủ thống ẩm)
(Đời ta từ đây nhìn con đường về, trở thành xa lắc)
Trần lộ du du song quyện nhãn (Hiểu quá Hương Giang)
(Đường trần dằng dặc, đôi con mắt đã mỏi)
Chu Thần từng một mình, một ngựa vượt ngàn núi dưới trăng, lúc lại vời vợi trên con đường
dài. Ngước nhìn về trước là bãi cát vàng muôn dặm, lại một bãi cát vàng tiếp liền nhau không thấy
nước, rồi những lần chuyển tù, phát phối chuộc tội chìm ngập ngày tháng núi sông muôn trùng. Con
đường bỗng trở nên gập ghềnh hơn khi những núi, sông, đèo ải bao bọc vây lấy nó vừa khép kín vừa
mở ra những khoảng không vạn lý, thiên lý tới tắp. Các từ vạn lý, thiên lý, muôn trùng được lặp lại
khá nhiều trong thơ (thiên lý, vạn lý lặp lại trên 30 lần). Trên con đường ấy, Cao Bá Quát có lúc hào
hứng vô cùng. Cái chí trai trẻ cùng với hoài bão lớn của kẻ sĩ tạo cho Chu Thần tâm thế hưng phấn,
sẵn sàng nhập cuộc, sẵn sàng vượt mọi khó khăn. Cao Bá Quát có đến 3 lần bộc lộ tâm trạng hăm
hở.
Công danh nhất lộ kỷ nhân nhàn ?
Quan cái phân phân ngã hành hĩ (Hoành sơn vọng hải ca)
(Trên đường công danh có mấy ai nhàn ?
Mũ lộng nhộn nhịp ta cũng đi đây)
Nhất tiếu vọng sơn đầu,
Trường ca Hành lộ nan (Trấn An lệnh Lê Tử Chi nhiệm, đặc lại tương
phỏng, kỳ hữu sở tặng, thư dĩ dữ chi)
(Cười xòa một tiếng nhìn lên đỉnh núi,
Hát vang lên khúc Hành lộ nan)
Du du trường lộ khan thùy kiện (Thuyền hồi quá Bắc dữ, dư bão bệnh
sổ nhật hỹ, dạ bán đăng tường tứ vọng, thê nhiên độc hữu hương quan chi cảm, nhân giản Trần
Ngộ Hiên, kỳ nhị)
(Vời vợi trên con đường dài để xem ai mạnh khỏe)
Cao Bá Quát tự tin bước trên con đường danh, kiên nhẫn trên con đường đời và thử đọ sức
với con đường dài mà mình đang tiến bước. Nhưng rồi ý chí ấy, bước chân ấy ngày càng chùng
bước. Cao Bá Quát đã 5 lần ngập ngừng trên con đường và 11 lần có tâm trạng mỏi mệt.
Hồi thủ yên tiêu khuất tráng đồ (Bệnh trung)
(Ngoảnh nhìn con đường mây khói, chí cả chưa được vẫy vùng)
Cầm kiếm thiên nhai khứ lộ phi (Nhật mộ)
(Nơi chân trời , cây đàn thanh kiếm đi đã lầm đường)
Bả duệ thu phong bộ khước trì (Mông đắc hồi bổ Hàn lâm, lâm hành
chư đệ tử tương tiễn, nhân thứ tiền vận vi biệt)
(Níu áo trước làn gió thu, bước đi dùng dằng)
Tự liên song đoản cước (Văn Lưu Nguyệt Trì bắc hành khuyết vi diện
biệt phụng ký nhị thủ - kỳ nhị)
(Thương cho mình hai chân quá ngắn)
Cao Bá Quát đã thật sự mệt mỏi, chán ngán. Ông chán ngán không phải vì mình kém cỏi mà
chính vì quan trường nghiệt ngã, vua quan chẳng ra gì. Nhiều lúc, ông sinh lười muốn dừng lại (Dạ
túc Triệu Châu kiều), thậm chí muốn quây về (Hiểu quá Hương giang). Giữa trời đất bao la dù là
thân áo vải Cao Bá Quát thấy vui hơn khi ở giữa chốn kinh kì mà lòng lại thấy xa xôi, lạc lõng. Cái
xa xôi, lạc lõng, cái thấp thỏm lo âu bởi do sợ lòng sâu độc của cạm bẫy đời. Không gian đường đời
đã làm cho người đi nhận ra con đường đi phía trước xa tít.
Vương tôn lộ viễn mê phương thảo (Mông đắc hồi bổ Hàn Lâm, lâm
hành chư đệ tử tương tiễn, nhân thứ tiền vận vi biệt)
(Đường đi của vương tôn còn xa tít, cỏ mọc lờ mờ)
Thiên lý quan san sự dĩ phi (Mộ xuân tức cảnh hoài nhân)
(Nơi quan san nghìn dặm việc đã sai rồi)
Cái xa tít của con đường đi cỏ mọc lờ mờ hay cái xa tít của con đường đời khi mà chuyện
làm quan nhiều lận đận biết rồi sẽ thế nào. Chu Thần cứ đinh ninh mình đã thật sự sai rồi. Thế là
buồn cho tấm thân trôi nổi không cùng, cho bước đường cát bụi đã qua.
Phù thế du du lộ vô tận,
Nhất liêm thu nguyệt dữ quan tình (Thứ vận Bảo Xuyên ông lưu biệt)
(Đời người trôi nổi vời vợi, đường đi không cùng,
Duy có ánh trăng thu giãi trên rèm cùng tấm tâm tình nhuộm màu quan ải)
Trần lộ nhất hồi đầu (Thuật hoài)
(Bước đường cát bụi, một khi ngoảnh lại còn gì!)
Con đường của Cao Bá Quát đi bỗng có lúc chùng chân, bế tắc như bước đường cùng của
anh bộ binh Nguyễn Tịch, cùng đường mà khóc trở về (Trà Giang thu nguyệt ca), như người hành
nhân trên con đường cát nước mắt lã chã mà vẫn còn đi (Sa hành đoản ca). Nhưng không gian
đường cùng vô tận này không thể giam hãm bước chân của Chu Thần. Bằng chứng là con người
trong thơ ông không khóc như Nguyễn Tịch hay chán nản như Nguyễn Du mà cất lên lời ca đầy
cảm khái: “Bãi cát dài, bãi cát dài, biết tính sao đây ?Đường bằng phẳng thì mờ mịt, đường ghê sợ thì nhiều/ Hãy nghe ta hát khúc ca đường cùng"174 và hành động quyết liệt, dứt khoát: "Là người
trượng phu đã chống gươm đi thì đi thẳng/ Chẳng bắt chước như đàn bà, con trẻ bịn rịn trong lúc phân kỳ!"175 Đến cuối cuộc đời mình, Cao đã vượt lên chính mình, đi xa hơn nữa trên con đường
tưởng chừng như bế tắc. Đó là con đường khởi nghĩa Mỹ Lương cao cả...
Và bước tiến trong cuộc đời Cao Bá Quát, một lần nữa lại bị chặn đứng bởi bãi cát dài, mênh
mông trước mắt. Cao Bá Quát đã làm gì trước chướng ngại vật đó. Buồn, than thở hay là… Bãi cát
là một thực thể của tự nhiên. Trong thơ Cao, nó vừa là hình ảnh thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng.
Bãi cát dài là một hình tượng không gian nghệ thuật. Nó ẩn chứa một nỗi niềm trải dài theo cát. Nếu
như núi khép kín – trùng điệp thì bãi cát lại mở ra, và có lúc tưởng chừng như vô tận. Có bãi cát
vắng (Mạnh Hạo Nhiên dạ qui lộc môn thi), bãi cát vắng teo (Thứ vãn tương độ Lãng Tân, thạch
thượng tạm yết), bãi cát rộng (Thanh Trì phiếm chu Nam hạ), bãi cát mênh mông (Quá Quảng Trị);
lại có bãi cát dài của đời người (Sa hành đoản ca); bãi cát uốn quanh như khúc ruột (Đồng Bùi Minh
Trọng Trà Giang dạ bạc). Dù là bãi cát của tự nhiên, bãi cát cuộc đời, Cao vẫn thấy có một nỗi
buồn, một niềm đau, một ý chí. Thế giới của Hành cung Mỹ Xuyên và nhiều hành cung khác mở ra
xa hoa tráng lệ đối nghịch với số phận của dân nghèo xác xơ càng làm cho kẻ sĩ Cao Bá Quát chìm
ngập trong nỗi buồn khi nhìn bãi cát hoang vắng tiếp liền nhau không thấy nước. Một nghịch cảnh
như trêu nỗi lòng Chu Thần.
Sả chử bình liên nhất thủy không.
Truyền đạo lục long cận tuần hạnh,
Mỹ Xuyên cung ngoại hựu tân cung! (Quá Quảng Trị)
174 Trường sa, trường sa nại cừ hà? Thản lộ mang mang úy lộ đa/ Thính ngã nhất xướng cùng đồ ca (Bài Sa hành đoản ca) 175 Trượng phu án kiếm khứ tiện khứ/ Kỳ lộ vô vi nhi nữ sầu ! (Bài Trà Giang thu nguyệt ca)
(Bãi cát tiếp liền nhau mênh mông, không thấy nước.
Nghe đồn: gần đây xe rồng vừa qua chơi,
Ngoài hành cung Mỹ Xuyên ra, lại còn hành cung mới nữa!)
Không gian của bãi cát lại tiếp tục mở ra ở diện rộng cùng với sự vắng teo của nó, tưởng có
thể làm cho con người buồn bã, chùng chân; ai ngờ càng làm cho cái ý chí trai trẻ thêm mênh mông
theo sóng nước, cái tinh thần tráng sĩ thêm mài sắc. Người nam nhi thấy ba đào, cát trắng mà hừng
hực chí nơi muôn dặm (Thanh Trì phiếm chu Nam hạ), kẻ tráng sĩ thấy sóng dữ vỗ vào bãi cát vắng
teo mà nhìn gươm, nghĩ ngợi miên man (Thứ vãn tương độ Lãng Tân, thạch thượng tạm yết). Bãi
cát dài, bãi cát dài lại được nhìn từ góc độ con đường đời nên không gian của nó tràn ngập niềm
đau, nỗi uất nghẹn. Người đi trên cát sao mà vất vả, mệt nhọc và khổ ải đến thế! Nước mắt đã rơi
mà vẫn cứ đi, bước một bước lại lùi một bước mà vẫn cứ bước. Tinh thần tiến về trước quả kiên trì,
nhẫn nại! Hình tượng không gian bãi cát dài được lặp lại như một điệp khúc, chất chứa bao suy tư
đến nặng trĩu nỗi lòng của kẻ hành nhân.
Trường sa phục trường sa,
...Trường sa, trường sa, nại cừ hà ?
...Quân hồ vi hồ sa thượng lập (Sa hoành đoản ca)
(Bãi cát dài, lại bãi cát dài,
...Bãi cát dài, bãi cát dài, biết tính sao đây ?
...Anh còn đứng làm chi trên bãi cát ?)
Bước đường bằng phẳng thì mờ mịt, bước đường ghê sợ thì nhiều. Nhưng người hành nhân
cứ kiên trì đi trên cát. Đến phút cuối, anh ta đã có quyết định không đi trên bãi cát dài nữa, cất cao
khúc ca đường cùng, kiên quyết từ chối như Pháp Chân từng nói với viên Thái Thú: Nếu ông cứ bắt
tôi ra làm quan, thì tôi sẽ đi ẩn ở phía bắc núi Bắc hoặc ở phía nam núi Nam (Hậu Hán thư).
Ở một điểm nhìn khác, không gian của bãi cát uốn quanh làm cho Chu Thần liên tưởng khúc
sông như khúc ruột quặn đau. Không gian vật thể - bãi cát - lại được đồng nhất bởi một không gian
vật thể của bộ phận cơ thể con người – khúc ruột - thật là sáng tạo, độc đáo. Nhìn bãi cát uốn quanh
chắc có lẽ nhà thơ cũng cảm thấy lòng mình nặng trĩu, bởi nỗi suy tư về cuộc sống ngày một cứ
nhiều, bởi cảnh đất lạ xa quê, lại gặp bạn cùng hội cùng thuyền cùng tâm cùng chí, nên có bấy nhiều
tâm sự cứ giãi bày.
Sa hồi giang tự sầu trường khúc,
Mộ tĩnh phong như tửu lực vi.
Dị địa bất câm Vương xán cảm,
Đương niên thùy phóng Thái Ung qui ?
Đồng du mạn thán tương phùng vãn,
Tiễn chúc lâun tâm lệ tiễn y (Đồng Bùi Nhị Minh Trọng Trà Giang dạ
bạc)
(Bãi cát uốn quanh, khúc sông trông như khúc ruột quặn đau,
Buổi chiều lặng lẽ, sức gió nhẹ như hơi men phảng phất.
Nơi đất khách khôn ngăn được nỗi cảm của Vương Xán,
Tưởng khi ấy ai đã chịu cho Thái Ung về.
Bạn đồng du, những than hoài là gặp nhau đã muộn,
Khêu ngọn đèn, nói chuyện tâm sự mà lệ rẩy khắp áo)
Nhìn chung, không gian bãi cát luôn khơi gợi một nỗi lòng thường trực ở nhà thơ. Đó là nỗi
lòng của bậc nam nhi chí lớn, luôn tiến về phía trước với tinh thần trách nhiệm và tình cảm dạt dào.
Không gian bãi cát ở Cao Bá Quát thật sự đã đem lại sự mới lạ, độc đáo trong cách nghĩ và cách
cảm nhận.
Cùng với không gian bãi cát là không gian của trăng cũng khơi gợi biết bao tâm sự ở Chu
Thần. Thế giới của trăng tràn ngập trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát. Có đến trên 53 bài thơ đề cập
đến trăng. Xưa nay, trăng luôn là biểu tượng của cái đẹp, thơ mộng và lãng mạn. Vẻ đẹp của trăng
là kho báu bất tận của thi ca. Trong bài thơ Ninh Bình đạo trung, Cao Bá Quát đã khẳng định điều
này: “Trăng và gió xem ra đều là kho vô tận”. Trăng trong thơ Cao có vị trí đặc biệt. Nó không chỉ
mang đến vẻ đẹp làm thỏa mãn tài thơ của người thơ mà nó còn là một người bạn rất thân, gần gũi
chia sẻ niềm vui và xoa dịu nỗi buồn. Thế giới của trăng lung linh, huyền dịu. Trăng được Cao Bá
Quát gọi với những cái tên rất đáng yêu, thân thiện như “vầng trăng sáng” (Thu dạ độc tọa tức sự),
“Chị Hằng” (Nhị thập tam dạ khán nguyệt, họa Phan Hành Phủ -kỳ nhất), “viên ngọc ma-ni” (Nhị
thập tam dạ khán nguyệt, họa Phan Hành Phủ -kỳ nhị)… Vẻ đẹp của đêm trăng rằm thật lấp lánh.
Không gian của nó tràn ngập ánh sáng. Trăng soi trên dòng nước, soi vào hiên trước, chiếu khắp đất
Long thành, phủ đầy Hồ Tây, rọi vào chăn áo con người, soi chiếu vào tâm tư con người… Nó tròn
vạnh (Tống nhân quy tứ kỳ), như vành cung (Huyền Không động), không có hình bóng ổn định (Dạ
bán nạp lương đồng Trần Ngộ Hiên, Lê Trực Hiên), như mây gợn sóng biếc (Đề phụng tá Sứ quân
họa Lý Đồ); độ sáng nhàn nhạt (Cửu tọa), vằng vặc (Khuê oán, Lục nguyệt thập ngũ dạ nguyệt hạ
tác phụng ký chư cố nhân)… Trăng trong thơ Cao Bá Quát mang đậm dấu ấn tâm trạng và cá tính
của con người.
Trăng của ngày xưa êm đềm và thơ mộng lắm! Bởi lúc ấy cái chí của Cao trong sức trẻ đang
hăng hái vào đời, chưa thấy cái lòng sâu độc của cạm bẫy. Không gian trăng vì thế mà tràn ngập vẻ
sáng trong và người thưởng trăng bao giờ cũng ngập tràn niềm vui sướng, thích thú. Nhưng giờ đây,
đường đời đã trải qua và trước mắt còn biết bao điều khó nói trước. Thế nên, dù đã đem lòng với
giai tiết (tiết đẹp) nhưng lòng người không sao quên được chuyện đời. Không gian trăng nặng mang
tâm tư của nỗi buồn thế sự là vậy. Đêm nay trăng sáng, con người lại cứ giong rủi trên bước đường
dài, bước đường đó lại được đo bằng ngàn núi. Không gian trăng làm nền, đã chứng giám sự đơn
độc của lữ khách.
Chích mã thiên sơn nguyệt (Bảo Xuyên ông nhục kiến thứ họa, tẩu
bút thù chi)
(Ngựa lẻ vượt ngàn núi dưới trăng)
Trăng chính là người bạn đồng hành, là ánh sáng soi chiếu cho bước đường phía trước. Cuộc
đời trôi nổi vời vợi và đường đi không cùng của Cao trước sau chỉ có trăng chia sẻ, cảm thông và
thấu hiểu nỗi lòng. Không gian trăng cùng nỗi lòng của con người nơi quan ải, một lần nữa khẳng
định điều đó.
Phù thế du du lộ vô tận,
Nhất liêm thu nguyệt dữ quan tình (Thứ vận Bảo Xuyên ông lưu biệt)
(Đời người nổi trôi vời vợi, đường đi không cùng,
Duy có ánh trăng thu giãi trên rèm cùng tấm tâm tình nhuộm màu
quan ải)
Đó là không gian trăng trên con đường dài cùng với nỗi lòng của người đi xa. Không gian
trăng trên sông lại càng thi vị hơn. Nó hòa quyện cùng nỗi lòng của con người, lúc thì hào hùng khí
thế, lúc thì đơn độc, lẻ loi, ngậm ngùi ly biệt... Cao Bá Quát đã 7 lần thổ lộ nỗi lòng cùng trăng trên
dòng sông mênh mông.
Trà giang nguyệt,
Kim dạ vị tùy thanh?
Quan sơn vạn lý hạo nhất sắc,
Hà xứ bất hệ ly nhân tình? (Trà giang thu nguyệt ca)
(Trăng sông Trà!
Đêm nay vì ai mà trong trẻo?
Muôn dặm quan sơn một màu trắng xóa,
Chỗ nào là chỗ không vướng vít tình người biệt ly?
Ưng liên giang thượng nguyệt,
Dạ dạ bản kiều đầu (Trung thu dạ đồng Bảo Xuyên thống ẩm vi biệt)
(Đáng thương cho ánh trăng rọi bên sông,
Đêm đêm nơi đầu cầu ván)
Ưng liên nhất phiến nguyệt,
Dạ dạ đáo ngân câu (Chu hành há Thanh Khê, nhân cố nhân ký biệt
tòng du chư đệ tử)
(Đáng yêu một mảnh trăng kia,
Cứ đêm đêm soi trên dòng bạc)
Trăng sông Trà đã vì tâm tư của con người mà trong trẻo, trăng bên sông, trên đầu cầu ván vì
sự lẻ loi, cô đơn của con người mà đêm đêm soi sáng. Không gian trăng thật sự gắn kết với nỗi lòng
của con người. Con người như muốn phơi bày hết thảy lòng mình cùng trăng. Dòng sông Trà trở
nên tràn ngập trăng (trăng được nhắc đến 8 lần), ánh sáng của nó trong trẻo hơn, trải dài muôn dặm
quan san. Con người bày tỏ cảm xúc về một tình bạn ly biệt sáng mai, về cái chí hướng của kẻ
trượng phu. Trăng như một người bạn tri kỉ của con người. Không gian của nó lung linh, huyền dịu,
nó thoát ẩn thoát hiện với vẻ đẹp muôn đời không đổi. Bởi thế, con người càng yêu nó, mến nó,
không nỡ uống nó. Người và trăng không muốn rời nhau. Không gian sông Trà quả đúng là không
gian của cõi lòng - “Tấm gương dầm dưới dòng nước bạc” - soi chiếu tình bạn bè ly biệt, tình người
dành cho trăng, soi chiếu tấm lòng kẻ trượng phu chí lớn chống gươm mài kiếm hăng hái, mạnh mẽ,
dứt khoát. Không gian trăng bên sông, trên đầu cầu ván cũng vậy. Trăng đơn độc, lẻ loi đáng
thương mà cũng đáng yêu như con người. Ánh trăng phải chăng là hình ảnh của một Chu Thần đêm
đêm thao thức trăn trở suy tư với chính mình? Và vẻ sáng trong lấp lánh ánh bạc phải chăng là tâm
hồn thanh cao đáng yêu của Cao? Và nếu vậy thì Chu Thần thương trăng hay thương cho chính
mình đây! Cao Bá Quát đã 2 lần bày tỏ vẻ đẹp phẩm chất trước trăng.
Dạ bất thành mien thôi chẩm khởi,
Đốt đốt thùy vi thiên hạ sĩ?
Nguyệt hạ trầm ngâm tọa đáo minh (Phù Liệt lữ đình tống Đỗ Miễn
Chi ngự sử)
(Đêm không ngủ được đẩy gối dậy,
Chậc chậc, ai là kẻ sĩ trong thiên hạ?
Ngồi trầm ngâm tới sáng dưới trăng)
Bi hoan đàn chỉ vô cùng tận,
Tu kiến kim bồn quải bích không (Trung thu kiến nguyệt)
(Buồn vui trong chốc lát không kể hết được,
Thẹn thấy mâm vàng treo trời biếc)
Cao Bá Quát lo cho đời mà thao thức, trầm ngâm dưới trăng; buồn vui nhìn trăng mà cảm
thấy thẹn với lòng mình. Cái trách nhiệm của kẻ sĩ đối với nhân dân càng tỏ rõ phẩm chất và nhân
phẩm làm người của Cao Bá Quát. Trăng với ánh sáng hữu ích của nó đem lại vẻ thơ mộng, lộng lẫy
cho thế gian. Chu Thần so sánh mình với trăng mà thẹn. Ông thấy mình là một nhà nho mà quá đỗi
tầm thường (Độc dạ) … Không gian trăng còn soi sáng nỗi cô đơn của con người (Tự quân chi xuất
hỹ), khơi gợi nỗi nhớ quê hương (Chu Trung đối nguyệt), nỗi buồn cố quốc (Long Thành lãm thắng
hữu cảm), nỗi buồn của cô phụ (Khuê oán – kỳ nhị)… Không gian trăng còn chứng kiến nỗi khát
khao tự do của con người muốn thoát khỏi ngục tù mà bay lên tận tầng mây tía, hay nỗi băn khoăn
trước cuộc đời (Lục nguyệt thập ngũ dạ nguyệt hạ tác phụng ký chư cố nhân); nó cũng từng chứng
kiến những cuộc vui vầy cùng bạn bè, những đàn hát dưới trăng hay những nỗi suy tư của con
người…
Trăng như người bạn tin cậy để Cao Bá Quát gửi gắm tâm tình. Có đến 8 lần, Cao Bá Quát
nhắc đến trăng trong mối quan hệ thân thiết với mình, thể hiện qua các bài thơ: Dữ Quảng Nam học
chính Bùi đồng túc, dạ khởi kiến nguyệt; Hàn vũ sao tức, dạ ngẫu kiến nguyệt, họa Phương Đình;
Mộ đắc xá huynh quán dạ giam thư kiến ký; Thập nguyệt thập thất nhật thừa lễ bộ nghiêm tấn hậu
cưỡng bệnh mạn chí – kỳ tam; Phái vãng dương trình chu hành phó Đà tấn, tẩu bút lưu biệt thân
thức; Trung thu dạ trực họa Vũ Đông Phương các lão thứ vận, Trung thu kiến nguyệt, Chu hành há
Thanh Khê, nhân cố ký biệt tòng du chư đệ tử, thu dạ độc tọa tức sự… Trăng lung linh hiện lên như
bạn cũ lâu ngày mới gặp, như người bạn tri kỉ cố ý theo sát mà chiếu sáng, cúi xuống soi ngắm chia
sẻ, thấu hiểu nỗi lòng, soi rọi nhân cách người thơ. Mọi nỗi niềm chua xót của con người đều được
vầng trăng soi tỏ, nhờ có trăng con người cảm thấy bớt cô đơn hơn… Trăng cũng có khi là bức
thông điệp gửi tấm lòng tưởng nhớ của người thơ cho bạn (Lưu viên du nguyệt, văn đắc tái phát Đà
Nẵng thị dạ đồng Vũ Hoài Phủ thống ẩm), cũng có khi trăng được giai nhân cẩn thận hứng bọc vào
trong áo và xén ra làm bức thư tình gửi ý trung nhân (Thập thất dạ thừa nguyệt, tẩu bút ký hữu
nhân). Chu Thần yêu trăng không nỡ làm tan biến vẻ đầy đặn lãng mạn, thi vị của nó nên khi lên
thành Thăng Long ngắm cảnh, Cao Bá Quát có cảm xúc: “Không lòng nào bơi thuyền chơi trăng ở Hồ Tây được”176. Cao Bá Quát giống Lý Thái Bạch ngày xưa: đêm trăng thanh không muốn đề câu
thơ hay vì sợ các vì sao rét mướt, về sau ôm trăng mà chết: “Trường Canh đi rồi, ai là người (ôm trăng) chết đuối nữa?”177 …
Lữ khách tha hương rồi cũng có lúc mỏi gối chồn chân tìm nơi trú ngụ. Giây phút thảnh thơi
đó, có mấy ai mà không chạnh lòng hướng về quê hương, gia đình, nhất là gia đình. Cái mái ấm
thân thương ấy luôn là sợ dây vô hình gắn kết những tình thâm với nhau, là khoảng không gian ám
ảnh nhất đối với người đi xa từ xưa đến nay. Ngôi nhà vì thế là điểm tựa vững chắc, là không gian
đầu tiên nhất khi nói về gia đình.
Cao Bá Quát, người của lộ trình, lại nếm đủ cả nỗi lênh đênh nơi hải hồ, vì thế xa nhà dài
dằng dặc . Không gian mái ấm gia đình trở nên bất an trong nỗi nhớ của nhà thơ. Có lần Cao Bá
Quát nói: Đã là người tội lỗi bị bỏ rơi, thì đâu chẳng là nhà. Điều đó có thật sự như lời ông từng nói
không hay chỉ là cách nói mỉa mai với chính mình. Thật sự không gian ấm cúng gia đình hiện lên
trong Cao rất ít. Chỉ có 3 lần nhà thơ nói về sự trở về nhà của mình (Tương đáo cố hương, Để gia,
Chí gia), 3 lần xác nhận mình có ở nhà (Đề Viện Bùi Công Yên Đài Anh ngữ khúc hậu ; Bệnh 176 Bất kham phiếm đĩnh Tây hồ nguyệt (Bài Long Thành lãm thắng hữu cảm) 177 Trường Canh khứ hậu thùy phục luân (Bài Hiểu biệt, phục họa Phương Đình thứ vận)
Trung ; Dư hốt mộng trung vãng Thám Tuần Phủ, ám tưởng kinh trung cố nhân hoặc đương hữu
niệm ngã giả, nhân ký Tuẩn Phủ kiêm trình Đôn Nhân Phạm Tử), 1 lần ước ao mai đây sẽ bước vào
nhà (Tiếp nội thư tính ký hàn y, bút đều sổ tự). Tất cả những lần đấy phần nhiều là Cao Bá Quát trở
về trong tinh thần sa sút, tóc bạc (Tương đáo cố hương, Để gia, Chí gia), ốm đau (Bệnh trung, Đề
Viện Bùi Công Yên Đài Anh ngữ khúc hậu ; Bệnh Trung). Không gian ngôi nhà trở nên ám ảnh đối
với Chu Thần. Thế nên trên bước đường xa ông hay thường nhớ những người thân trong gia đình,
nhớ cha nhớ mẹ, nhớ vợ nhớ con, nhớ anh nhớ chị. Nỗi nhớ nào cũng thật da diết. Trong những nỗi
nhớ ấy, Cao dành trọn cho không gian ấm cúng của gia đình. Đó là khi nhớ con trong sự bảo bọc
của ông bà cha mẹ.
Ngô diệc ức ngô nhi.
Luyến mẫu đề cơ xứ,
Khiên ông học bái thì.
Môn lan kim bán tịch,
Ư nhĩ hệ tương ty (Hữu sở tử)
(Ta cũng nhớ đến con ta.
Nào lúc bám lấy mẹ kêu đói,
Nào khi níu lấy ông học vái.
Nay trước nhà vắng đi một nửa,
Thấy bay mà sinh lòng nhớ thương)
Nỗi nhớ con của người cha chính là nỗi khát khao về không gian ấm cúng của gia đình hạnh
phúc. Thế nhưng dù khát khao đến mấy vẫn không được. Cao Bá Quát dẫu có trở về cũng trong
cảnh ốm đau, bơ phờ cả thể xác lẫn tinh thần. Không gian mái ấm vì vậy mà thiếu hẳn niềm vui...
Cao Bá Quát chí tại bốn phương nên đâu đâu cũng là nhà. Không gian này lại một nữa xuất
hiện trên khắp các nẻo đường ông đi qua. Trong thơ thấy xuất hiện nhà của bạn, học quán nơi bạn
dạy, công quán nơi làm việc; dừng chân thì có trường đình, lữ đình, đoản đình, dã đình, trạm...
Những khoảng không này bộc tâm trạng của nhà thơ, khi thì hứng thú cùng bạn luận bàn thế sự, làm
thơ, thưởng ngoạn ; lúc lại thấy bơ vơ, cô đơn hướng về quê hương, gia đình; lúc lại ngẫm nghĩ suy
tư, toan tính...
Không gian của ngọn đèn cũng để lại nhiều nỗi niềm trong thơ Cao Bá Quát. Có đến 7 lần
Chu Thần nhắc đến hình tượng này. Hình tượng ngọn đèn gắn liền với tâm trạng buồn, cô đơn, với
tấm lòng cao cả của Chu Thần. Ngọn đèn từng làm bạn với người thơ trong những năm đèn sách
(Độc dạ khiển hoài), giờ lại là người bạn trong những đêm buồn. Ngọn đèn trong đêm trở nên lẻ loi,
leo lét, quạnh hiu như thân phận con người lúc này vậy. Không gian của nó nhỏ bé, lại lúc tỏ lúc
mờ. Nó làm cho con người buồn càng buồn hơn. Nó hòa quyện trong nỗi lòng nhớ vợ, nó im lặng và
con người cũng im lặng. Nhưng chắc rằng nó cũng đau như con người, bởi đêm nay nó chứng giám
nỗi lòng của con người, dường như nó cũng có tình vậy: “Ngọn đèn cô quạnh lúc tỏ lúc mờ, im lặng chẳng nói năng gì”178. Ngọn đèn không chỉ chứng giám nỗi buồn của người chồng nhớ vợ mà nó
còn chứng giám cho tình bạn khăng khít. Con người im lặng, tâm sự lệ khắp áo và đèn dường như
cũng lẻ loi, cũng thấu hiểu lòng con người lúc này (Đồng Bùi Nhị Minh Trọng Trà giang dạ bạc).
Nó còn chứng giám cho giấc ngủ cô đơn sau nỗi đau mất con, nhớ con (Khốc tử). Không gian của
ngọn đèn còn soi chiếu tấm lòng mười năm của người thơ, tấm lòng lo cho mùa vụ thất thoát khi mà
cơn mưa cứ tiếp tục kéo dài, nước sông không thoát, sét đánh nơi nơi… Tấm lòng mười năm trong
Độc dạ thư hoài và hành động đẩy gối dậy và trâm ngâm tới sáng dưới đèn trong Trung dạ thập tứ
vận của Chu Thần thật đáng quý biết bao! …
Nhìn chung, không gian nỗi niềm được khơi gợi từ nỗi lòng của nhà thơ. Đó là tâm sự
thường trực của một kẻ sĩ trước cuộc đời khi con đường danh gặp nhiều trắc trở; bên cạnh đó còn là
nỗi suy tư, tìm kiếm một lối thoát cho chính mình và mọi người. Lữ khách xa quê ai mà không
buồn, không nhớ. Tình cảm nhớ quê hương, gia đình cũng là nỗi quây quắc trong lòng Cao Bá Quát.
Tất cả qua hình tượng không gian nghệ thuật con đường, bãi cát, trăng, ngôi nhà, ngọn đèn… đã
làm rõ hơn nỗi niềm của tác giả. Chúng – những đối tượng của không gian nỗi niềm - vừa rộng mở
mênh mông vừa bó hẹp phù hợp với từng thời khắc của thế giới nội tâm Cao Bá Quát, chứng giám
178 Bài Trệ vũ chung dạ cảm tác
một nhân cách sống với vẻ đẹp lương tâm sáng ngời.
Chương 4:
NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
Ngôn ngữ thơ chữ Hán Cao Bá Quát trước hết mang nét chung của ngôn ngữ nghệ thuật
trung đại Phương Đông, chịu sự chi phối của nghệ thuật thơ chữ Hán. Tuy nhiên trong quá trình
phát triển của lịch sử trung đại đã tạo điều kiện cho cho bước phát triển cá tính sáng tạo trong văn
học nghệ thuật: những ngôi sao trên văn đàn văn học thế kỉ XVIII, XIX như Đặng Trần Côn,
Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát… Mặc dầu chịu ảnh hưởng của sự
chi phối chung nhưng ngôn ngữ văn học thời kì này đã có những dấu hiệu của sự bức phá vượt thời
đại, có thể kể đến các tác giả Nguyễn Du , Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát. Đối với Cao Bá Quát,
ngôn ngữ trong thơ ông gần với ngôn ngữ của văn học hiện thực, văn học lãng mạn sau này.
Về mặt thi pháp học, ngôn ngữ được xem là ngôn ngữ hình tượng vì nó là ngôn ngữ của hình
tượng và là hình tượng của ngôn ngữ. Nói cách khác, nó không chỉ phục tùng quy luật ngôn ngữ nói
chung mà còn phục tùng quy luật ngôn ngữ cấu trúc của tác phẩm. Mà cấu trúc tác phẩm bao giờ
cũng chịu sự chi phối của tư duy. Do vậy mà có sự tác động qua lại với nhau hình thành nên phong
cách ngôn ngữ của mỗi tác giả, vừa có cái chung cũng vừa có cái riêng độc đáo không thể trộn lẫn
với ai được.
Tìm hiểu ngôn ngữ thơ chữ Hán Cao Bá Quát, chúng tôi thử đi vào các phương diện tiêu đề
bài thơ, câu thơ, từ ngữ.
4.1. Tiêu đề bài thơ :
Tiêu đề bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát nói chung mang đậm tính tự sự. Khảo sát 418 bài
thơ đã cho thấy rõ điều này. Tiêu đề xoay quanh hiện thực của tác giả với thế giới bên ngoài, với
thiên nhiên và con người. Tính tự sự của tiêu đề bài thơ thể hiện qua không gian, thời gian, sự kiện,
biến cố, đối tượng được đề cập. Sau đây xin đi vào những phương diện nêu trên:
Về không gian: Tiêu đề bài thơ Cao Bá Quát bao quát không gian rộng lớn trong nước và
ngoài nước. Đó là chuỗi hành trình Cao đi thi, làm quan và chuộc tội. Có khoảng 83 tiêu đề bài thơ
gắn với địa danh cụ thể. Những địa danh này là những không gian thật, gắn liền với từng vùng đất.
Ví như đi qua Quảng Trị thì tác có bài Quá Quảng Trị, đến Huế thì có Hiểu Quá Hương giang, ra
nước ngoài thì có Thuyền nhập Bành Trạch cảng bạc mộ yết đỉnh... Nhìn chung những không gian
này mới lạ, hấp dẫn nhưng cũng gợi lên nỗi buồn... Từ không gian đề cập trong tiêu đề bài thơ
chúng ta thấy tình cảm ưu ái của Chu Thần dành cho quê hương, thiên nhiên.
Về thời gian: Tính tự sự của tiêu đề thể hiện rõ nhất qua sự xác nhận thời gian. Tiêu đề bài
thơ của Chu Thần mang đậm dấu ấn thời gian, những thời gian không xác định và xác định một
cách cụ thể rất nhiều như mùa, năm, tháng, ngày. Chỉ riêng con số về ngày cụ thể có đến 20 lần
trong các tiêu đề bài thơ. Điều này rất hiếm đối với các nhà thơ trung đại và hiện đại sau này. Điều
đó cho thấy Cao Bá Quát muốn ghi lại những sự việc xảy ra như một cuốn nhật ký của đời mình,
nhật kí hành trình theo trình tự thời gian.
Dấu ấn thời gian được thể hiện cụ thể qua việc Cao Bá Quát vi phạm vụ trường thi. Nhiều bài
thơ đã ghi lại sự việc này, ví như: … Cửu nguyệt sơ thất nhật dĩ trường sự hạ Trấn Phủ ngục -
Ngày bảy tháng chín tống giam nhà ngục Trấn Vũ vì vụ trường thi; Thập nguyệt thập thất nhật thừa
Lễ bộ nghiêm tấn hậu cưỡng bệnh mạn chí (tứ thủ) - Ngày 17 tháng 10, sau khi bị bộ lễ tra trấn
nghiêm ngặt, gượng đau viết luôn bốn bài; Chinh nguyệt nhị thập nhất nhật di tống Thừa Thiên
ngục tỏa cấm - Ngày 21 tháng giêng, bị giải sang giam ở ngục Thừa Thiên; Cửu nhật chiêu khách -
Ngày trùng cửu mời khách…
Hành trình nơi biển khơi chuộc tội cũng được ghi lại một cách cụ thể: … Nhị thập nhị nhật đắc
phong, hí trình đồng chư hữu (nhị thủ) - Ngày hai mươi hai được thuận gió viết đùa đưa các bạn
cùng thuyền (hai bài); Nhị thập tam dạ khán nguyệt họa Phan Hành phủ (nhị thủ) – Đêm hai mươi
ba trông trăng, họa thơ Phan Hành Phủ (hai bài); Nhị thập tứ nhật hồi thuyền hiểu phát Bành Trạch
cảng – Ngày hai mươi bốn quây thuyền về, rạng sáng xuất phát từ cảng Bành Trạch…; Trấp tam
nhật thuyền xuất cảng khẩu sảo viễn trị bạo phong vũ giảm phàm nhi tiến - Ngày hai mươi ba
thuyền ra cách xa cửa biển gặp gió mưa lớn giảm buồm mà tiến; Trấp tứ nhật thuyền bạc Thiên Sơn
cảng dạ trị phong vũ, thứ vận Trần Ngộ Hiên - Ngày hai mươi bốn thuyền ghé vào cảng Thiên Sơn.
Đêm gặp gió mưa, họa bài thơ của Trần Ngộ Hiên…
Về sự kiện, biến cố, đối tượng: sự kiện, biến cố và đối tượng ở các tiêu đề bài thơ gắn liền
với cảm hứng sáng tác. Nhìn chung sự kiện, biến cố xoay quanh cuộc đời và hành trình của Cao Bá
Quát khá nhiều: sự kiện đi thi, biến cố vụ trường thi, hành trình đi chuộc tội…vv. Bên cạnh đó, đối
tượng được đề cập trong tiêu đề cụ thể, hiện thực. Bạn bè, người thân xuất hiện khá nhiều trên 50
bạn được nhắc đến trong 418 bài thơ, và nhiều bài thơ có tiêu đề gắn liền với tên bạn. Điều đó
chứng tỏ Cao Bá Quát rất quan tâm đến cuộc sống xung quanh, có tình cảm tốt với bạn bè. Tính tự
sự thể hiện rõ nhất ở cảm hứng sáng tác đối với sự kiện, biến cố và đối tượng. Dấu hiệu để nhận biết
điều này thông qua sự xuất hiện của các từ tẩu bút (viết nhanh, viết ngay), túng bút (viết ngay); hí
bút (viết đùa:); tức sự (làm ngay), thí bút (thử bút), mạn bút (tản mạn), hí tác (viết chơi), với tần số
xuất hiện như sau: tẩu bút (10 lần), túng bút (2 lần); hí bút (3 lần); tức sự, thí bút, mạn bút, hí tác (1
lần). Sự xuất hiện những từ này trước hết, nó minh chứng cho quan niệm thơ văn mà Cao Bá Quát
từng nói: phải rung động, phải có cảm xúc thì mới sáng tác. Điều đó ngụ ý là tình cảm của Cao Bá
Quát dạt dào và chân thật. Nó cũng cho thấy những gì mà Cao Bá Quát rung động đều thành thơ cả.
Và cuối cùng, nó chứng tỏ Cao Bá Quát là người có tài làm thơ, đáng được tôn là “Thánh Quát”.
Một điều nữa là tiêu đề bài thơ chữ Hán Cao Bá Quát thường là những câu văn tự sự dài
mang tính kể, tường thuật lại. Con số những bài thơ kiểu này có tới gần 238 bài trên tổng số 418 bài
thơ khảo sát. Có những tiêu đề rất dài, nhất là khi nó có đủ ngày tháng, năm sự kiện, đối tượng. Ví
như: Thương Sơn công hữu sở quỹ vật kiêm trí hảo thi, bộc phương nhiễu vu thất tử chi thích, cảm
thê giao tình khẩn tình hiện hồ từ - Ông Thương Sơn tặng quà, có kèm một bài thơ hay, ta đang bối
rối vì con chết, thương cảm dồn dập, tình hiện ra lời; Thương Sơn công tịch thượng nghĩ đông dạ
quan vưu hối am minh sử nhạc phủ đồng hữu nhân phân phú – Làm theo sự cùng phân công của các
bạn nhân nghe Nhạc phủ về sử đời Minh của Vưu Hối Am tại tiệc ngài Thương Sơn trong đêm
đông; Trấp tứ nhật thuyền bạc Thiên Sơn cảng dạ trị phong vũ, thứ vận Trần Ngộ Hiên – Ngày hai
mươi bốn thuyền ghé vào cảng Thiên Sơn. Đêm gặp gió mưa, họa bài thơ của Trần Ngộ Hiên...
Điều này không phù hợp với tiêu đề thơ chữ Hán trước đó, bởi thơ chữ Hán nói chí, tải đạo và rất
ngắn ngọn như Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão, Bạch Đằng Giang phú của Trương Hán Siêu…
Có thể nói rằng tiêu đề của thơ chữ Hán Cao Bá Quát mang đậm tính tự sự. Nó là sự phá
cách rất hiếm thấy của Chu Thần so với các nhà thơ trước ông, cùng thời và cả sau này. Điều đó thể
hiện nét riêng trong cách đánh dấu tiêu đề. Như vậy, có thể thấy rằng tiêu đề bài thơ của Cao Bá
Quát mang đậm tính tự sự của văn học hiện thực sau này, nhất là văn xuôi (bút kí, nhật kí).
4.2. Câu thơ:
Ngữ pháp tiếng Hán xét về mặt hình thức có hai kiểu câu: câu đơn và câu phức. Xét về mặt ý
nghĩa thì có câu trần thuật, câu nghi vấn, câu cầu khiến và câu cảm thán. Như vậy, ngữ pháp tiếng
Hán cũng khá giống ngữ pháp tiếng Việt, chỉ có điểm khác về trật tự câu, nhất là phần bổ ngữ. Khảo
sát 418 bài thơ của Cao Bá Quát thì thấy sự xuất hiện của các loại câu này. Ngoài ra còn xuất hiện
những hình thức tỉnh lược, hoặc đảo trật tự từ. Ở đây chỉ khảo sát bốn loại câu theo ý nghĩa của nó.
Trong 418 bài thơ của Cao Bá Quát thì câu trần thuật xuất hiện nhiều nhất, kế đến là câu nghi
vấn, câu cảm thán và câu cầu khiến. Đi sâu vào từng loại câu, chúng ta sẽ thấy những nội dung quy
định hình thức như thế nào và ngược lại.
4.2.1. Câu trần thuật:
Câu trần thuật xuất hiện nhiều trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát là điều tất nhiên. Bởi chúng
có chức năng thông báo, rất tiện lợi trong miêu tả và trần thuật. Cũng giống như thơ chữ Hán
Nguyễn Du chủ yếu miêu tả “những điều trông thấy”, thơ chữ Hán Cao Bá Quát cũng nghiêng về
miêu tả những điều mắt thấy tai nghe trên những chặng hành trình đi thi, làm quan, đi chuộc tội
nước ngoài. Không những miêu tả, Cao Bá Quát còn đúc kết, nhận xét từ những thực tế đó. Cao Bá
Quát dường như muốn phơi bày tất cả hiện thực cuộc sống cho mọi người biết, cả những thực tế tích
lũy từ vốn sống của bản thân, ông cũng không che giấu. Tất cả chúng đều hiện diện sinh động qua
hình thức câu trần thuật. Hiện thực cuộc sống mà ông đang chứng kiến có rất nhiều điều làm ông
bức xúc. Chính vì thế mà câu trần thuật ở hiện tại chiếm đa số, kế đến là câu trần thuật quá khứ và
câu trần thuật tương lại xuất hiện rất ít. Quá khứ chỉ là hoài niệm, là niềm đau và tương lai trong thơ
Cao dường như chỉ là những toan tính, ước đoán. Tương lai trong thơ ông xuất hiện rất ít, thường là
những dự định, toan tính, hay mong ước.
Có thể là những sự việc liên quan đến bản thân.
Khả phục đồ Nam dục ký tiên (Nhĩ phố tảo hồng)
(Lại tính chuyện về Nam toan gửi thư)
Lai giả khả truy dư! (Tương đáo cố hương)
(May ra sau này có thể không lỡ nữa)
Có thể là những mong ước cho bạn bè.
Tảo báo thử giang xuân (Tống Sơn Tây học Chính Nguyễn Đài chi ly)
(Sớm báo tin xuân ở ngã ba sông này)
Có thể là niềm mong ước cho nhiều người.
Ký thủ lai thời xuân sắc hảo,
Dữ nhân cộng tác họa đồ khan (Tài mai)
(Hãy nhớ lấy: Sau này, khi vẻ xuân tươi tốt,
Sẽ thành một bức tranh cho mọi người xem chung)
Câu trần thuật quá khứ chiếm số lượng tương đối, có 207 câu trên 418 bài thơ. Câu trần
thuật quá khứ dễ tìm thấy qua sự xuất hiện của các từ dĩ, thành, ký… Một số câu khác mang ý nghĩa
quá khứ, người đọc nhận biết qua cách trình bày của tác giả. Như vậy, qua con số này đủ thấy Chu
Thần ít quan tâm đến quá khứ. Ông khác với những nhà thơ cổ trung đại, và giống Nguyễn Du
(Nguyễn Du sử dụng 124 câu trần thuật quá khứ trong 250 bài thơ). Chu Thần không trốn mình
trong quá khứ để an ủi niềm đau mà luôn đối đầu với thực tại. Dẫu kiến thức của ông về cổ văn rất
tinh thông. Ông chỉ mượn việc quá khứ để đề cập đến cái hiện tại của cuộc sống, như người ta
thường hay nói bình tuy cũ mà rượu thì mới vậy. Chính vì thế, những câu thơ ông sử dụng rất linh
hoạt, thâm thúy, giàu ý nghĩa. Người xưa, việc xưa vì thế vẫn rất hợp với cảnh và tình hiện tại.
Câu trần thuật quá khứ trong thơ chữ Hán của Cao thường dùng để miêu tả những sự việc
liên quan đến bản thân, hoặc những sự kiện tác động đến bản thân đã trôi qua theo thời gian với một
tâm trạng cảm xúc khó quên.
Đó là những những kỉ niệm đẹp của thời trẻ cùng vui chơi, cùng thưởng ngoạn.
Ký đắc đăng cao túy kỷ hồi (Cửu nhật họa Di Xuân kiến ký thứ vận)
(Còn nhớ lên cao say bao lần)
Cựu du hảo tại liên đồng bệnh (Để ngụ bệnh trung giản chư hữu)
(Cuộc chơi ngày trước vui thú vì cảm thông người đồng bệnh)
Hoặc những trăn trở trước con đường danh, việc ngộ nhận về danh.
Thập niên tiền thố thiếu niên ông (Tảo xuân thuật hoài)
(Mười năm trước ông trẻ đã nhầm nhỡ rồi)
Thiếu niên chân cá ngộ phần lung (Nhị thập tứ nhật hồi thuyền hiểu
phát Bạch Thạch cảng)
(Tuổi thiếu niên quả là ta đã ngộ nhận về cái lồng lửa)
Có khi hối tiếc vì uổng công mài bút, văn chương vì thế mà vô bổ.
Thập niên ác bút phí quang tâm (Phục giản Phương Đình)
(Mười năm cầm bút phí cả thời giờ)
Tảo tín văn chương bất trị tiền (Thuật hoài)
(Ta đã sớm tin rằng, văn chương là điều chẳng đáng giá)
Có khi là nỗi đau khi nhìn lại những việc đã qua theo thời gian.
Tư lượng vãng sự thiêm trù trướng (Khách lộ cảm hoài)
(Đắn đo suy nghĩ việc đã qua thêm buồn)
Thiên ly quan san sự dĩ phi (Mộ xuân tức cảnh hoài nhân)
(Nơi quan san ngàn dặm việc đã sai rồi)
Có khi than thở thương cho mình, cho bạn.
Dữ quân linh lạc cộng thương hoài (Cửu nhật họa Di Xuân kiến ký thứ
vận)
(Ta với bác đã suy yếu mà cùng thương nhớ nhau)
Cộng thán tương phùng vãn (Du Hội An phùng vị thành ca giả)
(Cùng than thở gặp nhau đã muộn)
Hay diễn tả ý định lui về ẩn dật trước đó.
Dĩ ước điền viên lưu ngã nhật (Họa Lục Phóng Ông chinh nguyệt ngũ
nhật xuất du)
(Đã hẹn ngày lưu lại chốn điền viên)
Ngô nghi dĩ quyết thập niên sơ (Hạ dạ vấn bốc đồng Hành Phủ)
(Ý ngờ của ta đã quyết từ mười năm trước)
Cũng có khi hướng đến chuyện xưa với những vị anh hùng hay liếc tiếc cố triều.
Anh hùng vãng sự ủy thương ba (Du Nam Tào sơn tự, lâu thượng ký
vọng đề `bích trình Thúc Minh – kỳ nhất)
(Chuyện cũ của khách anh hùng, đã gửi cả cho làn sóng biếc)
Dao tưởng đương niên hành lạc xứ (Họa Thận Tư xuân nhật đồng chư
hữu đăng Trấn Vũ quán lâu vọng hồ kiến ký thứ vận)
(Vời vợi nhớ lại nơi hành lạc năm xưa)
Cũng có khi là những câu diễn tả nỗi kinh hãi về vụ trường thi, hay khẳng định lối sống,
phong cách, nỗi niềm khi thấy mình thừa thải trong đời…
Trong câu trần thuật hiện tại đáng chú ý là câu trần thuật ở dạng phủ định. Số lượng kiểu
câu này có khoảng 570 câu, với sự xuất hiện của các từ vô (không), bất (không), vị (chưa), phi
(không), nan (khó), mạc (đừng, chớ)… Có nhiều dạng phủ định:
Thường là những câu miêu tả cảnh vật, sự vật, sự việc hay con người ở trạng thái không của
nó. Loại câu này chiếm khá nhiều.
Bích tuyền trạm bất lưu (Đề Trần Thận Tư học quán, thứ Phương
Đình vận – kỳ bát)
(Khe nước dừng không chảy)
Bạch nhật ảm thảm thần vô quang (Đằng tiên ca)
(Mặt trời u ám, ban mai không có ánh nắng)
Có khi là sự nhận thức, đánh giá - nhận xét, đúc kết về sự vật, hiện tượng, đối tượng.
Hy ngự bất khả hệ (Đề Trần Thận Tư học quán, thứ Phương Đình vận
– kỳ nhị)
(Thời gian trôi nhanh không thể buộc lại)
Bình sinh bách sự bất do tâm (Dư hốt ư mộng trung vãng Thám Tuần Phủ, ám tưởng
kinh trung cố nhân hoặc đương hữu niệm ngã giả, nhân ký Tuần Phủ kiêm trình Đôn Nhân Phạm
Tử - kỳ nhị)
(Ở đời trăm việc đều chẳng theo ý muốn của mình)
Có khi là ước ao nhưng chưa làm hoặc việc đó chưa thực hiện được.
Phỏng đạo danh sơn nguyện vị thù (Du Nam Tào sơn tự, lâu thượng
ký vọng đề bích trình Thúc Minh – kỳ nhị)
(Ước nguyện hỏi đạo ở núi nổi tiếng chưa được đền đáp)
Trường khiếu Tô môn vị hữu kỳ (Vãn du sài Sơn vũ hậu đăng sơn đầu
đề bích – kỳ nhị)
(Chưa có dịp huýt một tiếng dài ở núi Tô môn)
Vô hạn hảo sơn du vị biến (Vãn quy)
(Biết bao núi đẹp chưa dạo chơi khắp
Có khi là hình thức phủ định để khẳng định.
Thùy vô thân gia lụy (Đắc gia thư, thị nhật tác)
(Ai không có cái lụy gia đình)
Độc tín đan tâm tử vị hôi (Dư hốt ư mộng trung vãng Thám Tuần phủ, ám tưởng kinh
trung cố nhân hoặc đương hữu niệm ngã giả, nhân ký Tuần Phủ kiêm trình Đôn Nhân Phạm Tử - kỳ
nhất)
(Tin chắc rằng lòng son dù chết cũng không lạt)
Câu trần thuật phủ định xuất hiện nhiều trong thơ Cao Bá Quát cũng chứng tỏ dưới mắt Chu
Thần cuộc đời còn nhiều bất công, những phi lý, những bế tắc… Con người dường như bị chặn
đứng lại, trước mắt chỉ thấy những phủ phàng, những con số không và những điều chưa như ý.
Ngay cả hình thức phủ định để khẳng định cũng đã nói lên điều đó.
Một khía cạnh nữa của câu trần thuật hiện tại, đó là loại câu theo các mặt quan hệ, loại này
chiếm số lượng ít. Có quan hệ điều kiện (nếu…thì…), quan hệ nguyên nhân - kết quả (vì…nên…),
quan hệ nhượng bộ (tuy…nhưng…). Những quan hệ này được hiểu ngầm, vì thế các từ chỉ quan hệ
thường không xuất hiện nhưng người đọc vẫn hiểu. Đáng chú ý là những loại quan hệ này xuất hiện
ở dạng phủ định. Có thể kể đến quan hệ điều kiện (nếu … thì…)
Bất tác quá đáng ngô thiên tuyền (Di Xuân dĩ bồn liên vi thu phong sở
tồi hữu thi kiến ký, nhân thứ kỳ vận, ca dĩ họa chi)
(Không có sự gì quá đáng thì bản tính ta vẫn vẹn toàn)
Quan hệ nhượng bộ (tuy… nhưng…)
Bất tài diệc nhân dã (Cái tử)
(Dù hèn nhưng cũng là người)
Thái diêm bần vị khuyết (Mộng vong nữ)
(Nhà ta tuy nghèo nhưng dưa muối vẫn không thiếu)
Quan hệ nguyên nhân kết – kết quả (vì…nên)
Sự vị năng như ý,
Tâm nam độc tự do (Thuật hoài)
(Việc đã chưa như ý/ Lòng cũng khó mà được tự do)
Thường để diễn đạt câu quan hệ thì tác giả luôn dùng từng đôi câu mới diễn tả hết ý. Chúng
có thể bổ sung ý cho nhau nhưng thường diễn tả các ý đối lập, để bộc lộ nỗi lòng hay nhận xét, đánh
giá, bàn luận…
Lạc hoa thời tiết quân tu ký,
Xuân mãn Giang Nam vô hạn xuân (Đoàn Tính lâm hành bả tửu vi
biệt, tầu bút dữ chi)
(Bác nên nhớ lấy, hiện nay tuy là mùa hoa rụng,
Nhưng ở Giang Nam vẫn bát ngát đầy vẻ xuân)
Đồng tử khởi bất trí,
Sở thất phi nhĩ tri (Đồng Tử mục đường lang)
(Chú bé không phải là không khôn,
Nhưng hỏng ở chỗ nào chú không biết tới)
Từ những ví dụ trên, ta thấy các kiểu quan hệ xuất hiện khá khiêm tốn. Những kiểu câu này
chuyển tải nội dung hoàn chỉnh, nhất là dạng câu phức thường có cấu tạo từ hai câu trở lên. Chúng
thường xuất hiện ở phần cuối bài, nêu bật trọng tâm vấn đề, hoặc mở ra khơi gợi vấn đề.
4.2.2. Câu nghi vấn:
Thơ chữ Hán Cao Bá Quát xuất hiện nhiều câu nghi vấn. Có khoảng 183 câu. Dấu hiệu để
nhận biết câu nghi vấn là căn cứ vào dấu chấm câu hay sự xuất hiện của các từ thùy, thùy chiêu, tùy
tương, thùy thanh; kỷ, kỷ nhân, kỷ độ; hà, hà nhân, hà sự, hà thời, hà dụng; vị, vị thùy, vị để; khởi,
khởi vô, khởi vị; nạn, nại hà, nại khanh; vấn, vấn tà, tự vấn; an, an đắc, an chi, an thủ, an hữu…
Trong khoảng 183 câu mang ý nghi vấn thì có đến 134 câu có hình thức nghi vấn (dấu chấm hỏi
cuối câu). Điều này, cho thấy Cao Bá Quát luôn có ý thức khi đặt câu hỏi. Cao Bá Quát cần lời một
lời giải đáp, một câu trả lời từ chính hình thức nghi vấn này, thậm chí ông hỏi để tự mình nghĩ ngợi,
tự mình tìm đường cho mình. Bởi vậy, đối tượng nghi vấn của ông rất rộng. Nói chung là tất cả
những gì đang xảy ra, đang tác động đến ông. Cao Bá Quát không chỉ hỏi người mà còn hỏi cả trời,
đất, cỏ cây, hoa lá… hỏi ngay cả chính mình. Những câu hỏi của ông xuất hiện ở mọi vị trí, đầu,
giữa, cuối bài thơ. Có 12 câu hỏi ở vị trí mở đầu bài thơ, 12 câu hỏi ở câu thứ hai bài thơ; 38 câu hỏi
ở câu cuối bài thơ, 10 câu hỏi ở câu thứ nhất cuối bài thơ (câu thứ nhất ở vị trí hai câu kết bài).
Thường thì hai câu thơ mới diễn tả một ý. Nếu vậy thì có 24 bài thơ có câu hỏi ở vị trí đầu bài thơ
và 48 bài thơ có câu hỏi ở vị trí cuối bài trên tổng số 418 bài thơ. Con số này tương đương với
lượng câu hỏi trong thơ chữ Hán Nguyễn Du: 250 bài thơ có 115 câu nghi vấn, 38 bài thơ có câu kết
là câu nghi vấn.
Câu hỏi trong thơ chữ Hán của Cao luôn hướng đến đối tượng sự vật, hiện tượng cụ thể như gió,
trăng, hoa, mặt trời, hiện tượng mưa, sấm chớp…
Mê dương hà sự nệ ngô hành? (Du Đằng giang dữ hữu nhân đăng
Kim Chung tự, túy hậu lưu đề, tính tự)
(Cỏ mê dương cớ sao vướng bước ta đi?)
Dương hoa vô lực vị thùy mang? (Du mỗ cố trạch, dạ thính đàn
tranh)
(Hoa dương liễu yếu ớt, vì ai mà tất tả bay?)
Có khi câu hỏi hướng đến đối tượng bạn bè, người thân, người quen, người xưa.
Vấn quân phụ hà chi? (Trấn An lệnh Lê Tử chi nhiệm, đặc lai tương
phỏng, kỳ hữu sở tặng, thư dĩ dữ chi)
(Hỏi bác: bây giờ lại đi đâu?)
Tiếu sát Tầm Dương túy Tư Mã,
Thanh sàm hà sự lệ tung hoành? (Đằng Châu ca giả Phú Nhi ký hữu
sở dữ , thư dĩ tặng chi)
(Đáng cười chết cái ông Tư Mã say ở bến Tầm Dương,
Việc gì mà phải khóc đến nỗi nước mắt ướt đẫm áo xanh?)
Có khi hỏi mình, chất vấn với chính mình những vấn đề về cuộc sống, vấn đề của bản thân.
Con số câu hỏi này khá nhiều trên 60 lần, nó biểu lộ tâm tư tình cảm day dứt, băn khoăn đến đau
lòng của Chu Thần.
Nam hành giả thùy thị,
Nhật yến phục hà cầu? (Chí gia)
(Người đi về phía nam là ai vậy?
Mặt trời chiều rồi mà còn tìm gì?)
Thử biệt hựu an chi? (Phó Nam cung, xuất giao môn, biệt chư đệ tử)
(Lần này lại từ biệt để đi đâu nhỉ?)
Si tâm tương chiếu nại khanh? (Ký hận – kỳ nhị)
(Lòng ngây thơ đã hiểu thấu nhau rồi, nhưng biết làm thế nào, hỡi mình?)
Ngô sinh vị để man tương tầm? (Trường giang thiên – kỳ nhị)
(Đời ta vì sao lại phải gặp nó?
Có khi hỏi để mà than thở, ngậm ngùi, luyến tiếc.
Mệnh thân ma yết định hà tri (Cấm sở nguyệt cửu nguyệt trình chư
hữu nhân)
(Thân mệnh con bọ khốn khổ nào biết sẽ định đoạt ra sao?)
Nhất ban phong nguyệt nhân hà tại? (Mộ xuân tức cảnh hoài nhân)
(Gió trăng vẫn thế, còn người ở đâu?)
Hỏi để chia sẻ cảm thông với nỗi niềm của người xưa.
Vô tửu thùy kiêu Nguyễn Bộ binh? (Du Đằng giang dữ hữu nhân đăng
Kim Chung tự, túy hậu lưu đề, tính tự)
(Không có rượu, ai tưới cho Bộ binh họ Nguyễn?)
Ỷ lâu hà sự Thiếu Lăng ông (Đại vũ – kỳ nhị)
(Ông lão Thiếu Lăng việc gì mà đứng tựa lầu?)
Hỏi để hướng tới phủ định một điều muốn nói.
Phiêu lưu nhữ hạt cổ? (Cái tử)
(Nhà ngươi phiêu bạt như thế, nào có tội gì?)
Thanh thế thùy năng niệm nhất phu? (Quan chuẩn)
(Trong lúc thanh bình, nào ai có để ý đến từng người dân thường?)
Có khi hỏi để khẳng định điều muốn nói.
Hoan thưởng na khả đình? (Đề Trần Thận Tư học quán, thứ vận
Phương Đình vận – kỳ bát)
(Vui mừng thưởng ngoạn dừng sao được?)
Thùy năng liễu thông tắc (Đắc gia thư, thị nhật tác)
(Ai lại có thể không có sự may rủi)
Có khi là dạng câu hỏi có kiểu quan hệ.
Tử cẩu vô nha thùy tốc ngã? (Hí tặng Phan Sinh)
(Nếu anh không có nanh thì ai kiện tôi?)
Bất kiến ba đào tráng,
An tri vạn lý tâm? (Thanh Trì phiếm chu Nam hạ)
(Nếu không thấy ba đào hùng tráng,
Thì sao biết được chí lớn muôn dặm?)
Có khi là hỏi trong so sánh với đối tượng khác.
Phóng bộ học hành ngâm,
Thùy thị Ly Tao ông? (Chinh nguyệt nhị thập nhất nhật di tống Thừa Thiên ngục tỏa
cấm)
(Thử phóng bộ học lối “vừa đi vừa hát”,
(Giữa mình với Khuất Nguyên) hỏi ai thực là ông Ly Tao)
Như thử giang sơn nại ngã hà! (Du Nam Tào sơn tự, lâu thượng ký vọng đề bích trình
Thúc Minh – kỳ nhất)
(Non sông như thế, còn mình thì sao đây?)
Có khi hỏi khám phá, tìm đường, hành động.
Mộng đào chư thiên tối thượng đầu (Du Nam Tào sơn tự, lâu thượng
ký vọng đề bích trình Thúc Minh – kỳ nhất)
(Có phải) mơ đến các cõi trời là trên hết cả chẳng?)
Cử bôi thời tự vấn,
Quyện mã thượng trường đồ (Đáp Trần Ngộ Hiên)
(Thường có lúc cất chén tự hỏi,
Ngựa đã mỏi, đường con dài tính sao?)
Quân hồ vi hồ sa thượng lập? (Sa hành đoản ca)
(Anh còn đứng làm chi trên bãi cát)
Hỏi với mục đích tu từ, không cần giải đáp, tìm kiếm tri âm.
Ức Trai phú tại dữ thùy luân? (Dữ thi hữu Phan Long Trân du Côn
Sơn, nhân tác Côn Sơn hành vân)
(Bài phú của Ức Trai còn đó, nhưng biết bàn nói cùng ai?)
Thiên tải thùy tự âm? (Độc thi)
(Nghìn năm sau, ai đã nối được âm điệu?)
Phù thế thùy thanh nhãn? (Thập lục nhật yết đĩnh Lữ Thuận, thứ Trần
Ngộ Hiên)
(Cuộc đời trôi nổi, biết ai là người mắt xanh?)
Có khi hỏi với nỗi nhớ hướng về gia đình.
Cố viên bắc vọng tri vô ná,
Do ký đình tiền tự thủ tài (Đối cúc Chuyết Hiên trạch đồng chư hữu phú)
(Trông về chốn vườn xưa ai biết chăng,
Còn nhớ mấy cây tự trồng ở trước sân?)
Tá vấn cựu kỷ cúc,
Kim hữu kỷ tùng phần? (Chí gia)
(Ướm hỏi những cây kỷ câu cúc cũ,
Nay có mấy khóm rồi?)
Cũng có khi hỏi để đưa ra cách lựa chọn, hay để cảnh báo, hướng tới một đối tượng ám chỉ
nào đó…vv..
Điều đáng chú ý là câu hỏi ở vị trí đầu và vị trí kết bài. Câu hỏi ở vị trí mở đầu bài thơ
thường nêu vấn đề hay thắc mắc. Câu hỏi cuối bài lại tiếp tục mở ra, như một vòng tròn không kết
thúc, vô tận những khúc mắc, những tình cảm, những nỗi niềm… Những vấn đề hỏi có thể là lớn
lao nhưng cũng có thể là vụn vặt, tầm thường liên quan đến cá nhân. Tuy vậy, nó có sức vang lớn
trong bài thơ, nhất là những câu hỏi kết bài.
Ở loại câu hỏi mở đầu bài thơ, chúng thường nêu vấn đề của toàn bài, như một sự day dứt
không thể kìm nén nổi ngay từ đầu. Nó có thể ở câu đầu tiên, hay câu thứ hai của bài thơ. Những
câu hỏi mở đầu bài thơ tạo ấn tượng mạnh cho người đọc, đồng thời cũng thấy rõ cảm xúc của tác
giả trước hiện thực. Ví như bài Đạo phùng ngã cư – Giữa đường gặp người đói – tác giả không kìm
nén cảm xúc trước thực cảnh dáng hình thất thểu, áo rách, nón chẳng đầy đặn của một người đói.
Nhà thơ đã nêu bật tình cảnh, bộc lộ tình cảm của mình ngay từ câu đầu: Vũ vũ thùy gia tử? Cả bài
thơ như trải dài theo cảm xúc và tình cảnh ấy. Bài Quan chuẩn cũng vậy. Câu hỏi mở đầu bài thơ
không chỉ có chức năng hỏi mà còn thông báo. Nó chính là cảm xúc của tác giả sau khi chạy ra ngồi
cổng xem có tiếng gọi nhau ồn ào về việc phát chuẩn sớm mai: Tẩu khan môn ngoại động thanh hô/
An Thượng hà nhân cánh họa đồ? Và nó cũng đã khơi nguồn tâm sự nỗi lòng của tác giả ở cuối bài
về trách nhiệm của kẻ sĩ, về tấm lòng lo dân nhưng chẳng thể làm được.
Câu hỏi kết bài thường không chốt lại ý mà mở ra những nỗi niềm, trăn trở, có khi là những
khẳng định hay quyết tâm từ bỏ điều gì đó.
Trường đình bắc cố vân thiên viễn,
Xuân tận thùy chiêu vị tử hồn? (Kiến Bắc nhân lai, nhân thoại cố
hương tiêu ức)
(Nơi trường đình ngoảnh nhìn phía Bắc, trời mây xa thẳm,
Xuân hết rồi, nào ai gọi hồn người chưa chết?)
An năng đê đầu oải ốc, phủ ngưỡng tùng tha nhân? (Đông vũ ngâm)
(Có lẽ đâu chui đầu vào mái nhà thấp, cúi ngửa theo ý người khác!)
Thử thân hà sự tác thi ông? (Thứ vận Thận Tư phóng quan nhị hà
đồng Di Xuân, Hòa Phủ)
(Thân này cớ gì lại phải làm một nhà thơ?)
Có khi ở hai câu kết, câu đầu hỏi câu sau khẳng định ý, hay biểu lộ cảm xúc.
Bất tri lai nhật thử hoặc hàn?
Như hà cửu tọa linh tâm toan! (Kim nhật hành)
(Nào ai biết ngày mai nóng hay rét?
Sao cứ ngồi đây mãi cho lòng xót xa!)
Thái thái tương di thùy?
Sở tư tại viễn đạo (Khuê oán)
(Bời bời biết ngỏ cùng ai?
Nỗi nhớ đường xa)
Công danh nhất lộ kỷ nhân nhàn?
Quan cái phân phân ngã hành hỹ! (Hoành sơn vọng hải ca)
(Trên đường công danh, đã mấy ai nhàn?
Mũ lọng nhộn nhịp, ta cũng đi đây!)
Lại có cả câu hỏi mở đầu và câu hỏi kết cùng xuất hiện trong một bài thơ. Sự xuất hiện câu
hỏi ở hai vị trí này cho thấy cảm xúc của Cao Bá Quát rất mãnh liệt. Nó vừa là lời chất vấn với gió
xuân vừa là lời thổn thức của bản thân.
Xuân phong hà sự lai thôi bách?
Lãm não tây viên từ phú khách.
Túng cực vô tình dã tự liên,
Khước duyên tái cảm không tương tích.
Ký ngữ xuân phong thả tạm lưu,
Nhĩ lai bất cảm tương hoa trích.
Khủng kinh tiều tụy quá thanh minh.
Linh lạc phương tâm vô xứ mích (Thứ Phương Đình, Hoán Phủ, Thận
Tư phân vận ngũ thủ - kỳ nhất)
(Gió xuân cớ chi thúc bách?
Sự não nùng buộc chặt khách văn ở vườn tây.
Nếu rất vô tình cũng tự thương xót,
Lại do cảm xúc lần lữa mà tiếc suông cho nhau.
Nhắn đôi lời với gió xuân hãy tạm ở lại,
Gần đây không dám ngắt hoa.
Sợ héo hon qua tiết thanh minh,
Rơi rắc lòng thơm không biết tìm nơi đâu?)
Một điều đáng lưu ý là trong nhiều bài thơ của Cao Bá Quát, không chỉ xuất hiện một câu hỏi
mà có đến hai, ba… thậm chí sáu câu hỏi. Ví như bài Chí gia; bài Du Đằng Giang dữ hữu nhân
đăng Kim Chung tự, túy hậu lưu đề, tính tự - kỳ nhất; bài Dữ thi hữu Phan Long trân du Côn Sơn,
nhân tác Côn Sơn hành vân; bài Đạo phùng ngạ cư; bài Đắc gia thư, thị nhật tác …có 3 câu hỏi;
bài Chinh nguyệt nhị thập nhất nhật di tống Thừa Thiên ngục tỏa cấm; bài Đông vũ ngâm; bài Phó
Nam cung, xuất giao môn, biệt chư đệ tử; bài Trà giang thu nguyệt ca; bài Phúc lâm lão có 4 câu
hỏi; bài Đề Sát viện Bùi công Yên đài Anh ngữ khúc hậu có 6 câu hỏi. Như vậy, có thể nói Cao Bá
Quát luôn chất vấn với chính mình, với cuộc đời; ông trăn trở suy tư, tìm kiếm một lối thoát cho bản
thân và cho thời đại. Bài Đề Sát viện Bùi công Yên đài Anh ngữ khúc hậu có đến 6 câu hỏi thì có 4
câu hỏi bày tỏ lòng mình, cảm xúc của mình khi đọc Khúc Yên đài Anh ngữ của Bùi công.
Đó là nỗi phấn khởi vì ông sứ quân họ Bùi, người đã khơi nguồn cảm hứng: “Khởi dư giả thùy?
Bùi sứ quân!” (Làm cho ta phấn khởi thế là ai? Là ông sứ họ Bùi!); là nỗi đau, nỗi tiếc nuối của bậc
tài trai khi đọc mấy pho sách cũ lỗi thời: “Thế gian thùy thị chân nam tử? Uổng cá bình sinh độc
thư sử” (Trong thế gian này có ai thật là bậc tài trai/ Mà lại phí cả đời đọc mấy pho sách cũ?); là
niềm kính phục ông sứ Yên Đài chẳng cần “học lời con trẻ” và đó cũng chính là thái độ, tình cảm
của bản thân trong hiện tại: “Thương học anh ngôn, dục hà sĩ!” (Còn mong gì nữa mà phải hoc lời
con trẻ?); cuối cùng là lời khẳng định bản thân chẳng khác nào ông Bùi đã chơi chồn chân, giờ về
nằm nghỉ:“Cao ngọa thất trung quyện du sĩ?” (Có kẻ chơi đã chồn chân, về nằm khểnh trong
nhà)…
4.2.3. Câu cầu khiến:
Câu cầu khiến trong thơ Cao Bá Quát rất ít chỉ có 48 câu trên tổng số 418 bài thơ. Dấu hiệu
để nhận biết loại câu này là sự xuất hiện của các từ tu, mạc, thỉnh, khuyến, với tần số xuất hiện như
sa: tu (20 lần), mạc (15 lần), thỉnh (2 lần), khuyến (1 lần); còn lại là căn cứ vào nghĩa của câu. Cao
Bá Quát cũng như Nguyễn Du rất ít giáo dục ai. Ông chỉ khuyên và yêu cầu mà thôi.
Đối tượng ông khuyên là các trẻ con, là quý ngài, là bạn bè.
Nhi nữ mạc kiêu du (Cái tử)
(Các trẻ em đừng nên trêu chọc!)
Chư quân mạc tiết thiên đình sự (Đặng xuân mộng quán)
(Quý ngài chớ tiết lộ chuyện thiên đình)
Mạc sử đương diện án tân phách (Thương Sơn công tịch thượng nghĩ
đông dạ quan vưu Hối Am Minh sử nhạc phủ đồng hữu nhân phân phú)
(Đừng khiến đàn khúc mới giữa tiệc)
Khuyên bạn trong đó có mình.
Mạc uổng cô chu thử dạ tâm (Túy hậu túng bút thị Bùi Nhị)
(Chớ để phí tấm lòng đêm nay nơi con thuyền lẻ)
Mạc từ chung dạ túy (Phương Đình yến tập chủ nhân dụng Đình vận
chiêu thi, dư đắc ngũ ngôn)
(Đừng khước từ say suốt đêm)
Khuyên mọi người thành thật với lòng mình trong cách sống cả trong sang
tác.
Sinh nhân vô dĩ tục tình lưu (Lưu vận họa Hoán Phủ)
(Sống với nhau không nên giữ cái tình theo thế tục)
Tu từ thành tại kỷ (Văn tất ký xuất)
(Chọn lời phải thật lòng từ mình)
Lời yêu cầu hướng tới mọi người khi xem xét, đánh giá việc kim cổ hay bày trừ những hủ tục
tai hại.
Kim cổ sự đa tu thức định (Đề Trấn Vũ quán thạch bi)
(Việc kim cổ có nhiều, cần phải nhận định vững chắc)
Nhân thôn cựu nhiễm hội tu từ (Nguyên nhật)
(Những tật nhiễm cũ ở chốn hương thôn rồi phải bỏ đi)
Có khi là lời cảnh báo hay niềm động viên.
Khai châm đông khứ thận tư giới,
Bất tỉ Tây minh triêu mộ triều (Hồng Mao hỏa thuyền ca)
(Mở kim nam châm đi sang phía đông phải cẩn thận dè chừng!
Không thể coi như bể Tây, sớm hôm có nước triều đều đặn!)
Lạc hoa thời tiết quân tu ký,
Xuân mãn Giang Nam vô hạn xuân (Đoàn Tính lâm hành bả tửu vi biệt, tẩu bút dữ
chi)
(Bác nên nhớ lấy, hiện nay tuy là mùa hoa rụng,
Nhưng ở Giang Nam vẫn bát ngát đầy vẻ xuân)
Thường thấy thì tác giả tự khuyên mình, hoặc nhận xét, xác nhận việc gì đó nhiều hơn. Nội
dung này được thể hiện nhiều qua từ mạc, tu, thỉnh.
Thỉnh quân bắc vọng khan tích nhân (Dữ thi hữu Phan Long Trân du
Côn Sơn, nhân tác Côn Sơn hành vân)
(Anh hãy quay về phía Bắc mà nhìn người thuở trước)
Chẩm khúc duy tu túy (Đoan ngọ)
(Ru ngủ nên say khướt)
Mạc tác du du tưởng (Hàn dạ tức sự)
(Đừng nghĩ viễn vong chi nữa)
Tu tín thử ông thái điềm đạm (Lựu vận họa Hoán phủ)
(Phải tin rằng ông này quá điềm đạm)
Từ khuyến xuất hiện một lần với ý mời mọc.
Khuyến nhĩ trừng ba tửu nhất chi (Du Tây Hồ bát tuyệt)
(Mời anh một chén rượu trong cảnh sóng lặng này)
Đặc biệt, khi câu cầu khiến kết hợp hình thức câu cảm thán thì nó không chỉ thực hiện chức
năng của mình mà còn làm bật tình cảm, tấm lòng của người nói, người yêu cầu. Đó là trường hợp
bài Đạo phùng ngạ cư: “Y!” Tử thả hưu lệ! … Mạn dã! Mạc sâu yết! Bạo doanh phi tráng nhan (Ôi
thôi! Anh hãy cầm nước mắt lại! …Thong thả chứ! Đừng nuốt hấp tất! No quá không khỏe người!).
Cảnh người đói nước mắt tuôn rơi được nhà thơ chiêu mời một bữa cơm thật cảm động biết bao!
4.2.4. Câu cảm thán:
Có 134 câu cảm thán trong 418 bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát. Dấu hiệu để nhận biết loại
câu này thông qua hình thức dấu chấm than cuối câu (65 câu) hay sự xuất hiện của các từ ô hô, liên,
thán, đốt đốt, trù trướng, thảm thê, vô hạn, oán … Câu cảm thán thường diễn tả những lời than,
những thương xót, nuối tiếc hay những xúc động tình cảm… Sự xuất hiện của nó làm cho cảm xúc
trong thơ dâng trào, đặc biệt khi kết hợp ô hô, đốt đốt, oán, than, cuồng, điên…
Đó là những lời than về tình cốt nhục sinh ly tử biệt, lời than về nỗi mất con, về trách nhiệm của
những kẻ chăn dân chưa thật “cẩn thận”
Ô hô cốt nhục tình (Đắc gia thư, thị nhật tác)
(Than ôi! Tình cốt nhục)
Ngã hà thảm thê (Thất tử)
(Sao tôi thảm thiết!)
Ô hô! Ngã hữu dân,
Thân tai tại sát mi! (Đồng tử mục đường lang)
(Than ôi! Những người có trách nhiệm chăn dân của chúng ta! Phải
cẩn thận, xét đến vẻ lông mày của mọi người)
Có khi là nỗi ngậm ngùi của bản thân vì bị thói đời lôi cuốn, vì ở hoàn cảnh đất nhớ quê hay
nỗi uất ức không thể trút bỏ.
Tự thán du du ủy tục tình! (Đăng Sơn Hoành)
(Ngậm ngùi cho mình cứ để thói đời lôi cuốn mãi)
Khởi thức Nam nhân hữu biệt ly! (Dương phụ hành)
(Đâu biết có một người Nam đang ở cảnh biệt ly!)
Bất khán đề oán mãn giang thành (Ký hận – kỳ nhị)
(Không nỡ đem nỗi oán hờn mà đề khắp chốn giang thành!)
Có khi là nỗi đau thể xác lẫn tâm hồn vì thương nhớ bạn, vì không thể kìm nén cảm xúc.
Hà xứ tương tư bất đoạn hồn! (Trệ vũ chung dạ cảm tác)
(Đã nhớ nhau thì ai ở đâu mà tâm hồn chẳng tan nát!)
Bạch giả chính dương cuồng! (Văn Lưu Nguyệt Trì Bắc hành khuyết
vi diện biệt phụng ký –Kỳ nhất)
(Rằng: Lý Bạch lúc này đang giả điên!)
Có khi diễn tả nỗi băn khoăn, day dứt; hay tình thế bi đát của con người qua từ thán, hỹ và
hình thức dấu câu.
Nhất bộ nhất hồi thán! (Phụ tương tử)
(Mỗi bước lại ngập ngừng than thở)
Lệ phục chiếu tăng ngô tử hỹ! (Phúc lâm lão)
(Lại còn chiếu lệ tăng thêm, thì tôi đến chết mất)
Hu ta lão hỹ! chỉ bại tường (Phúc lâm lão)
(Nhưng than ôi! Tôi già mất rồi (lão vừa nói vừa chỉ tay vào bức
tường đổ)
Có khi xuất hiện nhiều hình thức cảm thán trong một bài thơ, kết hợp giữa các hình thức cảm
thán với các kiểu câu để làm bật cảm xúc, tình cảm của người nói. Đó là trường hợp bài Đề sát Viện
Bùi công Yên đài Anh ngữ khúc hậu. Bài thơ có tất cả 7 câu cảm thán.
Câu hỏi kết hợp với câu cảm thán để diễn tả ý khẳng định: “Khởi dư giả thùy? Bùi sứ quân!”
(Người làm cho ta phấn khởi như thế là ai? Là ông sứ họ Bùi)
Từ cảm thán đốt đốt với dấu chấm cảm: “Đốt đốt nam nhi chân khoái sự!” (Chà chà! Làm
trai như thế mới thực là khoái!)
Hình thức điệp, dấu chấm cảm và sự xuất hiện của từ ô hô: “Nhất danh cơ bạn trường như
thử! Ô hô! Nhất danh cơ bạn trường như thử! Bạch phát, thanh bào, ngô lão hỹ!” (Một chút danh
cứ ràng buộc mãi thế này! Than ôi! Một chút danh cứ ràng buộc mãi thế này! Bạc đầu với chiếc áo
xanh. Ta già mất rồi!)
Những hình thức cảm thán này chuyển tải cảm xúc: nỗi hứng phấn cũng như niềm đau của
nhà thơ khi đến với tác phẩm của ông Bùi công; khi nhận ra mình đã thật sự già rồi, mình đã bị ràng
buộc vì một chút danh hời nhỏ nhoi. Nói chung là mình đã uổng phí tài trai vì mấy pho sách cũ.
4.3. Từ ngữ:
Từ ngữ trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát rất phong phú và đa dạng. Nó chịu ảnh hưởng của
nghệ thuật trung đại nói chung và sự cách tân của cá nhân nói riêng. Từ ngữ trong thơ Cao Bá Quát
làm rõ cho phương thức tự sự và phương thức trữ tình trong chiếm lĩnh đối tượng và bộc lộ cảm xúc
của nhà thơ. Sau đây xin đi cụ thể vào hai phương diện lớp từ tự xưng và từ mang chức năng biểu
cảm.
4.3.1. Từ tự xưng:
Cũng giống như những đại thi hào lớn của dân tộc Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Công Trứ,… Cao Bá Quát luôn có khuynh hướng thể hiện mình, khẳng định bản
thể trước cuộc đời này. Vì thế, lớp từ tự xưng xuất hiện nhiều trong thơ ông. Khảo sát 418 bài thơ
thì có đến 289 lần tác giả trực tiếp hoặc gián tiếp dùng từ tự xưng. Con số này tương đương với từ
tự xưng trong thơ chữ Hán Nguyễn Du (Theo Tiến Sĩ Lê Thu Yến, sau khi khảo sát 250 bài thơ chữ
Hán Nguyễn Du thì có đến 269 lần Nguyễn Du dùng từ tự xưng). Lớp từ tự xưng trong thơ chữ
Hán Cao Bá Quát rất đa dạng. Có thể thấy sự xuất hiện của các từ như ngã, ngô, dư, độc, thân,
khách, du khách, hành nhân, du nhân, chủ nhân, du tử, tráng sĩ, Mẫn Hiên, Cúc Đường, Cao
Lang…
Cao Bá Quát luôn ý thức cái tôi bản ngã của mình. Thế nên, ông hay nói về chính mình, về
bản thân, về mối quan hệ của mình trong xã hội và trong trời đất. Đó là những khát vọng, hoài bão,
ước muốn, suy tư, trăn trở, đau khổ, thất vọng, hào hứng, niềm tin… Cái tôi lẫn cái ta bản ngã xuất
hiện hàng loạt trong thơ ông là vậy.
Thời thế suy vi, thế lực kim tiền, danh vọng đã làm cho chốn quan trường điên đảo, cái thân
kẻ sĩ chân chính đầy cá tính vì vậy mà mịt mờ, chìm nổi. Cao Bá Quát đau lòng vì điều này. Cái tôi
cá nhân đã giãi bày.
Mang mang thân thế tri hà liễu (Biệt Phạm Đôn Nhân Lang trung)
(Thân thế mịt mờ, biết bao giờ cùng?)
Mang mang thân thế độc du hành (Du Đằng Giang dữ hữu nhân đăng
Kim Chung tự, túy hậu lưu đề, tính tự)
(Thân thế mịt mờ, chỉ đáng trừng mắt trông đời)
Tấm thân ấy vì vậy mà nổi trôi khắp nơi theo những chặng hành trình, cái phận ấy vì vậy mà
mỏng manh.
Bách niên thân thị khách (Mộ đắc xá huynh quán dạ giam thư kiến ký)
(Trăm năm thân này là khách)
Phiêu bạc thử thân thành để dụng (Dư hốt ư mộng trung vãng Thám tuần phủ, ám
tưởng kinh trung cố nhân hoặc đương hữu nhiệm ngã giả, nhân ký tuần phủ kiêm trình Đôn Nhân
Phạm Tử - kỳ nhị)
(Tấm thân trôi giạt này biết có làm nên chuyện gì)
Cao Bá Quát rong rủi khắp nơi như con ngựa đã mệt mỏi sợ đến ngả đường rẽ (Ngụ sở cảm
sự, mạn bút thư hoài). Nhưng vì đời, ông vẫn cứ dấn thân. Cái thân ấy bị ràng buộc.
Cơ bạn thử thân câu hệ vật (Hí tặng Phan Sinh)
(Cái thân bị ràng buộc chỉ vì cùng vương vít với việc đời)
Lại “đồng bệnh tương liên” quý kẻ có tài nên cái thân bị khốn khổ, đày đọa, biết còn làm
được gì.
Mệnh thân ma yết định hà tri (Cấm sở cửu nguyệt trình chư hữu nhân)
(Thân mệnh con bọ khốn khổ nào biết định đoạt ra sao?)
Tội định thân hà dụng? (Tội định)
(Tội khép rồi, thân còn làm gì được?)
Thôi thì đành như sợi cỏ bồng phiêu dạt.
Phận ủy cô phi hồng (Chinh nguyệt nhị thập nhất nhật di tống Thừa
Thiên ngục tỏa cấm)
Thân phận đành như sợ cỏ bồng phiêu dạt)
Đúng thật cái thân đang đứng giữa cơn sóng gió.
Cộng chứng phong ba hiện tại thân (Đoàn Tính lâm hành bả tửu vi
biệt, tẩu bút dữ chi)
(Và cũng nhận thấy cái thân đang đứng giữa cơn sóng gió)
Nhưng cái thân ấy vẫn cứ vẫy vùng, cái thân ấy chất vấn với chính mình, khẳng định mình.
Thử thân hà sự tác thi ông? (Thứ vận Thận Tư phóng quan Nhị hàm
đồng Di Xuân, Hòa Phủ)
(Thân này vì cớ gì lại cứ phải làm một nhà thơ!)
Cao Bá Quát vẫy vùng, dấn thân và hành động chính là do cái ta ý thức, dằn vặt, thôi thúc
bên trong. Ngày ấy chí lớn của ta ở muôn dặm, nơi hư không xa tắp (Tương đáo cố hương). Lòng ta
rạo rực, bao khát khao.
Ngã dục đăng cao sầm
Hạo ca ký vân thủy (Quá Dục Thúy sơn)
(Ta muốn trèo lên đỉnh cao ngất kia
Hát vang để gửi tấm lòng vào mây nước)
Ngã dục sáp song thí
Phi bộ lăng tử yên (Lục nguyệt thập ngũ dạ nguyệt hạ tác, phụng ký
chư cố nhân)
(Ta muốn chấp thêm đôi cánh,
Bay lên tận tầng mây tía)
Ta hào hứng lập danh với đời.
Quan cái phân phân ngã hành hỹ! (Hoành Sơn vọng hải ca)
(Mũ lọng nhộn nhịp, ta cũng đi đây!)
Dẫu ta tin rằng.
Tảo tín văn chương bất trị tiền (Thuật hoài)
(Ta đã sớm tin rằng, văn chương là điều chẳng đáng giá)
Và ý định của ta.
Ngã vô hành dã, diệc vô lưu (Trường giang thiên – kỳ tam)
(Ta không có ý gì đi cũng không có ý gì ở cả)
Ngã sơ vô hành lưu (Châu hành há Thanh Khê, cố nhân ký biệt tây
du chư đệ tử)
(Tôi chả bao giờ định ra đi hay ở lại)
Buồn và đáng thương cho ta gặp phải cái vạ quan trường. Ta là người tội lỗi bị bỏ rơi.
Mỗi liên xỉ thiệt thường tao ngã (Cấm sở cửu nguyệt trình chư hữu
nhân)
(Thương cho ta mỗi lần gặp cái vạ miệng lưỡi)
Tội phế tín ngã sở (Chinh nguyệt nhị thập nhất nhật di tống Thừa
Thiên ngục tỏa cấm)
(Đã là người tội lỗi bị bỏ rơi, thì đâu chẳng là nhà?)
Ta cứ hỏi: vì sao ta bị tù đày? Vì sao ta phải gặp nó – cái gông?
Ngô sinh vị để mạn tương tầm? (Trường giang thiên – kỳ nhị)
(Đời ta vì sao lại phải gặp nó?)
Từ đây, ta bị vùi dập, phiêu dạt khắp nơi, cũng có lúc ta mệt mỏi muốn an nhàn.
Quyện ngã tiệm thành chân lãn tản (Vãn du Sài Sơn vũ hậu đăng sơn
đầu đề bích – kỳ nhị)
(Ta mỏi mệt rồi, dần dà thành con người thật sự biếng lười, nhàn tản)
Lãn ngã dĩ khai cao ngọa kính (Dư hốt ư mộng trung vãng thám tuần phủ, ám tưởng
kinh trung cố nhân hoặc đương hữu nhiệm ngã giả, nhân ký tuần phủ kiêm trình Đôn Nhân Phạm
Tử - kỳ nhất)
(Nghĩ mình lười, đã vạch ra lối về nằm khểnh)
Và ta đã thật sự trở thành kẻ nhàn tản
Tản nhân qui khứ ngọa giang thành (Đông tác Tuần Phủ tịch thượng
ẩm)
(Kẻ nhàn tản này về nằm khểnh ở thành bên sông)
Ta thấy mình là một vị tiên
Ngã thị Phù Dung thành chi tản tiên! (Di Xuân dĩ bồn liên vi thu
phong sở tồi hữu thi kiến ký, nhân thứ kỳ vận, ca dĩ họa chi)
(Ta đây là một vị tiên nhàn tản ở thành Phù Dung)
Ta lại khát khao.
Thùy năng vị ngã trừu thử nhất ngung động,
Thố chi Tấy Hồ chi thượng, Châu Long, Phượng Chủy chi gian (Du
tiên Lữ động nhân đàm Thái Nguyên sơn thủy chi thắng Túy hậu thành ngâm văn)
(Ai có thể chuyển giúp ta cả một góc động này,
Về đặt bên Hồ Tây, giữa khoảng hai gò Châu Long và Phượng Chủy)
Sản khước đông biên quách cánh nghi! (Đề Trấn Vũ quán thạch bi)
(San phẳng mé đông đi, thành quách trông càng hữu tình)
Khi say thì ta cứ ngâm câu thơ ấy (Đề Trấn Vũ quán thạch bi) nhưng bao khát khao vẫn
không làm vơi nỗi buồn trong ta. Có lúc ta mượn rượu để giải sầu.
Tá bỉ bôi trung vật,
Ký ngã thế ngoại tình (Đồng Chuyết Huyên ẩm đại túy hoa hạ mạo vũ
nhi qui)
(Mượn vật trong chén của nó,
Gởi tình ngoài đời của ta)
Ta thấy đời ta lầm lỡ, ràng buộc vì cái danh hờ.
Dư sinh phù danh ngộ (Đắc gia thư, thị nhật tác)
(Đời ta trót lầm lỡ vì cái danh hờ)
Dư sinh cơ bạn chỉ vi danh (Ký hận – kỳ nhị)
(Đời ta bị ràng buộc chỉ vì chút danh nhỏ)
Ta phờ phạc cả người, ta cảm đời mà than thở
Cứ ngô tiêu tán tự trường ca (Thương Sơn công hữu sở quỹ vật kiêm
trí hảo thi, bộc phương nhiễu vu thất tử chi thích, cảm thê giao khẩn tình hiện hồ từ)
(Phờ phạc ngồi tựa ghế, những nghêu ngao hoài)
Ngô chi sinh dã vô nhai, duyệt thế thâm nhi ngộ thán (Du Đằng Giang
dữ hữu nhân đăng Kim Chung tự, túy hậu lưu đề, tính tự)
(Đời ta sống không bờ, trải đời mà than thở)
Để rồi khi gặp lại bạn, ta thương ta thương cả cho bạn (Biệt Phạm Đôn Nhân Lang trung)…
Bất chợt, có người đón trước mặt ta mà than thở (Đạo phùng ngạ phu)…
Ta cũng là nhân vật cũ ở Trung Nguyên có tấm lòng yêu nước (Dữ Hoàng Liên Phương ngữ
cập hải ngoại sự, triếp hữu sở cảm, tẩu bút dữ chi), nhưng ta đành bất lực, lòng ta oán hận vô cùng,
ta có nhiều mối hận.
Ngã do di hận mãn đinh châu (Họa Thận tư xuân nhật đồng chư hữu
đăng trấn vũ quán Lâu Vọng hồ kiến ký thứ vận)
(Ta còn nhiều mối hận chất đầy nơi cồn bãi)
Nỗi hận làm cho ta uất ức, ta sinh bệnh, ta mắc chứng điên vì đời.
Đạo ngã hữu tại, bất tử duy mệnh cuồng (Tống Nguyễn Trúc Khê xuất
lụy Thường Tín kiêm trí Lê Huy Vĩnh lão khế)
(Rằng, tôi còn khỏe, không chết, chỉ mắc chứng điên thôi)
Bạch dã chính dương cuồng (Văn Lưu Nguyệt Trì Bắc hành, khuyết
vi diện biệt phụng ký)
(Rằng: Lý Bạch lúc này đang giả điên)
Có lúc ta tự trách mình, phàn nàn với chính mình.
Ta ngã bế hộ điêu trùng, xỉ khẩu giảo văn tự (Đề sát Viện Bùi Công
yên Đài anh ngữ khúc hậu)
(Đáng phàn nàn cho ta chỉ đóng cửa mà gọt giũa câu văn)
Và phàn với cả ai đó.
Thán tức hà nhân ủng tỵ khan! (Dạ quan Thanh nhân diễn kịch
trường)
(Đáng phàn nàn cho ai đó cứ nghếch mũi ngồi xem!)
Khi muốn bày tỏ tình cảm một cách mạnh mẽ hơn, Cao Bá Quát dùng từ độc, cô (một mình).
Đó là những trường hợp nội tâm nhà thơ đang có sự giằng xé hoặc những nung nấu khó giãi bày, để
trong lòng thì khó chịu.
Cô ngâm dục họa Lệ Chi thi (Ngụ sở cảm sự, mạn bút thư hoài)
(Khúc ngâm cô độc muốn họa lại bài thơ Lệ Chi)
Cô ngâm trấn tịch liêu (Tiểu lập)
(Một mình cất tiếng ngâm phá tan sự yên lặng)
Độc ỷ thương mang mộ khí trung (Thứ vận Thận Tư phóng quan Nhị
hà đồng Di Xuân, Hòa Phủ)
(Một mình đứng trong bóng chiều man mác)
Tráng niên tâm sự độc sài phi (Nhật mộ)
(Tâm sự của tuồi trai tráng, đành gửi lại cửa sài)
Hình thức dùng từ trượng phu cũng thể hiện cảm xúc mạnh mẽ.
Trượng phu án kiếm khứ tiện khứ,
Kỳ lộ vô vi nhi nữ sầu! (Trà Giang thu nguyệt ca)
(Là người trượng phu đã chống gương đi thì đi thẳng,
Chẳng bắt chước như đàn bà, con trẻ bịn rịn trong lúc phân kỳ!)
Trượng phu tam thập bất thành danh (Du Đằng Giang dữ hữu nhân
đằng Kim Chung tự, túy hậu lưu đề, tính tự)
(Trượng phu ba mươi tuổi chẳng nên danh gì!)
Khi không cần nhấn nhưng ý vẫn khẳng định, Cao Bá Quát có thể dùng từ một cách nhẹ
nhàng hơn như tráng sĩ, anh hùng, khách.
Thời thanh tráng sĩ tiện (Đặng Ngự sử Trạch, Phùng Diệp Di Xuân
cộng túc)
(Thời buổi thanh bình, kẻ tráng sĩ trở nên thấp hèn)
Anh hùng mạc vãn thiên niên quốc (Đăng Hoành Sơn)
(Người anh hùng không kéo lại được nước nghìn năm)
Hữu khách đình bôi ỷ kiếm khan (Thứ vãn tương độ Lãng tân, Thạch
Thượng tạm yết)
(Khách ngừng chén rượu tựa gươm ngắm nghía)
Khách tinh tự chiếu cô sà sứ (Phái vãng dương trình chu hành phó
Đà tấn, tẩu bút lưu biệt tân thức)
(Sao khách chiếu vào sứ giả đi bè lẻ loi)
Hình thức phủ định hay nghi vấn cũng thể hiện cảm xúc này.
Du nhân qui bất qui? (Dữ thi hữu Phan Long Trân du Côn Sơn, nhân
tác Côn Sơn hành vân)
(Không du tử về hay không đây?)
Khởi tri hồ hải phiêu linh khách (Thiên áo thành phùng cố nhân
Cổ Vân Khê văn kỳ cận phả đắc ý ư họa dữ ẩm cập chi)
(Đâu hay nay đây mai đó trở thành khách lênh đênh)
Hành khách bất tri du tử ý (Dữ thi hữu Phan Long Trân du Côn Sơn,
nhân tác Côn Sơn hành vân)
(Khách đi đường không hiểu ý người du tử)
Có khi chỉ cần nói tới chiếc áo xanh (chỉ việc làm quan), hay nói đến việc tóc bạc
Bạch phát, thanh bào, ngô lão hỹ! (Đề sát viện Bùi Công Yên Đài anh
ngữ khúc hậu)
(Bạc đầu với chiếc áo xanh. Ta già mất rồi!)
Tân kính sương mao sầu tự đối (Sơ thu vịnh Hoài Phủ, Minh Trọng
nhị tri kỷ)
(Buồn bã nhìn tóc bạc mình trong gương mới)
Sấu cốt chi ly ủng mấn hoa (Bài Thương Sơn công hữu sở quỹ vật
kiêm trí hảo thi, bộc phương nhiễu vu thất tử chi thích, cảm thê giao khẩn tình hiện hồ)
(Nắm xương gầy rời rạc mang mái đầu hoa râm)
Đặc biệt, cái tôi cá nhân Cao Bá Quát thể hiện mạnh mẽ qua việc dùng họ, tự, hiệu.
Cao tử bất hạnh (Thất tử)
(Cao tử bất hạnh)
Cao lang chỉ tự mai hoa sấu (Du Tây Hồ bát tuyệt – kỳ ngũ)
(Chàng Cao gầy gò giống hệt cành mai)
Lục bức dương bình họa Mẫn Hiên (Lưu biệt Hoàng Liên Phương)
(Sáu bức bình phong vẽ chàng Mẫn Hiên trên biển)
Sương tuyết ưng liên cúc độc khai (Tức tịch thứ vận)
(Đáng thương hoa cúc nở một mình trong sương tuyết)
Dùng các hình ảnh có liên hệ mật thiết với quê hương để chỉ cá nhân.
Linh qui khởi trùng vật
Sinh trưởng biệt Gia Lâm (Qui)
(Rùa thiên há phải vật côn trùng,
Lớn lên đi khỏi Gia Lâm)
Đức Giang chi dương,
Nguyệt hằng chi cương.
Thượng hữu bán tử chi tùng bách,
Đột ngột đống cửu nhi tương vương (vọng) (Đằng tiên ca)
(Ở phía nam sông Đức Giang,
Ở đỉnh núi Nguyệt Hằng.
Trên có cây tùng, cây bách chết một nửa,
Nhưng vẫn cùng nhau đứng trơ trơ giữa trời rét mướt)
Điều này làm cho Cao Bá Quát khác với những thế hệ nhà thơ trước ông, cùng thời và cả sau
này nữa. Lớp từ tự xưng cho thấy cá tính Cao Bá Quát mạnh mẽ, sự ý thức cá nhân cao độ. Cao
giống những nhà thơ trước ông, cùng thời ông bởi lớp từ du nhân, du khách, tráng sĩ, anh hùng và
gần với nhà thơ hiện đại bởi cái nét phóng khoáng, lãng mạn của một khách giang hồ, tấm thân
chìm nổi của con người thế sự, … Ở mỗi trường hợp, Cao dùng từ tự xưng cho thích hợp. Ví như
khi đến nơi cổ kính trang nghiêm hoặc hướng về người xưa thì cái bản ngã của Cao là tráng sĩ, anh
hùng, du khách; để bộc bạch nỗi niềm thế sự thì Cao dùng ngã, ngô; để nhấn mạnh cái cá nhân thì
Cao dùng tên họ, tự, biệt hiệu; để hướng về quê hương với nỗi niềm thì Cao dùng tên đất, tên làng
để chỉ mình.
Lớp từ tự xưng còn thể hiện rõ con người cá nhân qua những lời đối thoại mang tính tự sự,
những lời độc thoại nội tâm. Điều này rất gần cái tôi cá nhân của con người hiện đại trong thơ văn
sau này. Cao Bá Quát đã độc thoại với chính mình trong nỗi cô đơn, lo toan, ngẫm nghĩ; Cao cũng
đã đối thoại với con người trong niềm cảm thông, chia sẻ… Chúng ta có thể điểm qua một số bài
thơ thể hiện cái cá nhân mạnh mẽ, phong phú; các phương thức biểu hiện cái cá nhân tự sự, như bài
Đề Sát viện Bùi công Yên đài anh ngữ khúc hậu, Phụ tương tử, Cái tử, Phúc lâm lão, Trà giang thu
nguyệt ca, …
Như vậy, chúng ta thấy Cao Bá Quát rất có ý thức trong việc khẳng định mình và bộc lộc cái
tôi cá nhân. Cái bản ngã của ông được thể hiện phong phú, đa dạng, nhiều chiều. Điều này làm cho
cảm xúc thơ ông mạnh mẽ hơn. Thơ Cao Bá Quát gần với thơ hiện đại là vậy.
4.3.2. Từ biểu cảm:
Cao Bá Quát từng nói cái gốc của thơ là ở tính tình, tức là từ rung động, cảm với đối tượng
mà có thơ. Cảm xúc đó có thể là vui, buồn, giận, hờn, ghen, ham muốn, phẫn nộ, phê phán… Ở mỗi
nhà thơ, lại có những cảm xúc chủ đạo riêng, hướng về một đối tượng nào đó. Ví như Nguyễn Công
Trứ thiên về lối ngất ngưởng, ngạo đời; Nguyễn Du thiên về số phận con người cá nhân với những
lo toan trong cuộc đời. Riêng Cao Bá Quát, đó chính là cảm hứng, khát vọng thay đổi xã hội qua
những phê phán mạnh mẽ, quyết liệt và hành động cụ thể. Tất cả đều xuất phát phát từ cội nguồn
của cái tâm cái tình mà ra cả.
Từ ngữ diễn đạt cảm xúc trong thơ Cao Bá Quát rất nhiều, cả những từ thiên về cảm hứng
trước vũ trụ lẫn những từ thể hiện xúc cảm trước cuộc đời, trước những thực tế mắt thấy tai nghe và
cả những nỗi niềm của bản thân riêng chung. Có thể thấy sự xuất hiện của các từ trù trướng, liên,
hoài, ức, cảm, oán, than, khổ, sĩ (xấu hổ), thương, hận, tiếu, sầu, thảm thê… Cao Bát dùng những
từ này biểu thị cảm xúc của bản thân trước cuộc đời. Đó là những suy nghĩ, nhận xét, đánh giá,
thương cảm… Cao Bá Quát không chỉ thương cho bản thân mà thương cho cả cuộc đời này. Thế
nên, ông trăn trở, oán giận những gì làm cho đời mình, cuộc sống này trở nên vô nghĩa, tù túng, khổ
sở; lại khát khao, hi vọng một ngày mai tương sáng cho đời mình, cho cuộc sống. Tất cả, những
cảm xúc ấy đều hiện diện qua câu chữ. Một niềm thương cảm ở Cao Bá Quát thật mênh mông!
Cao Bá Quát thương mình vì thân phận mỏng manh, trôi nổi, nhiều rủi ro;
Bán sinh mệnh bạc thương kê lặc (Thập nguyệt thập nhất nhật thừa lễ
Bộ nghiêm tấn hậu cưỡng bệnh mạn chí – kỳ nhị)
(Nửa đời người thân phận mỏng manh nghĩ chuyện gân gà mà thương)
Đỉnh đỉnh bách niên bi ngạnh phiếm (Trường giang thiên – kỳ nhị)
(Trăm năm đằng đẵng, thương cho chiếc thân như cành cây trôi)
Mỗi liên xỉ thiệt thường tao ngã (Cấm sở cửu nguyệt trình chư hữu
nhân)
(Thương cho ta mỗi lần gặp cái vạ miệng lưỡi)
vì con cái ly biệt;
Ngã hà thảm thê (Thất tử)
(Sao tôi thảm thiết)
Lữ hồn túy tỉnh lưỡng kham liên (Khốc tử)
(Hồn lữ khách tỉnh say đều đáng thương)
vì đường đời trắc trở mà đôi chân thì quá ngắn;
Tự liên song đoản cước (Văn Lưu Nguyệt Trì Bắc hành khuyết vi diện
biệt phụng kí – kỳ nhị)
(Thương cho mình hai chân quá ngắn)
Cao Bá Quát lại thương cho người,
Nhất bộ nhất hồi thán (Phụ tương tử)
(Mỗi bước đi lại ngập ngừng than thở)
Khách tử lệ giao lạc (Sa hành đoản ca)
(Khách trên đường nước mắt lã chã rơi)
Khả liên dị cảnh diệc huề phù! (Quan chuẩn)
(Người ở nơi khác bồng bế nhau đến, tình cảnh đáng thương!)
thương cho người trong đó có mình.
Chính thị văn chương tân khổ địa (Ngũ nguyệt thập nhị nhật quan
huyện thí)
(Đúng thật văn chương là đất cay đắng khổ ải)
Kiến thời liên ngã canh liên quân (Biệt Phạm Đôn Nhân)
(Gặp nhau, ta thương ta lại thương cả cho bạn)
Lại thương cho cả cảnh vật nảy nở đơn độc hay không giữ trọn sắc xuân.
Sương tuyết ưng liên cúc độc khai (Tức tịch thứ vận)
(Đáng thương hoa cúc một mình nở trong sương tuyết)
Xuân sắc khả liên lưu bất trúc (Lạc hoa)
(Đáng thương là không giữ được màu xuân)
Nhất dạ thương xuân yểm ức trường (Du mỗ cố trạch dạ thính đàn tranh)
(Một tối thương xuân càng ấm ức hoài)
Cảm xúc ngậm ngùi cũng thường thấy trong tâm trạng của Cao Bá Quát. Cao Bá Quát ngậm
ngùi vì xa cách, vì để thói đời cứ cuốn trôi mãi.
Hạo hạo kiền khôn tích tạm phân (Biệt Phạm Đôn Nhân)
(Trời đất man mác, ngậm ngùi lúc chia tay)
Tự thán du du ủng tục tình! (Đăng Hoành Sơn)
(Ngậm ngùi cho mình cứ để thói đời lôi cuốn mãi)
Lại có một nỗi buồn, bồi hồi từ sự ngậm ngùi ấy.
Tân kính sương mao sầu tự đối (Sơ thu vịnh Hoài Phủ, Minh Trọng
nhị tri kỷ)
(Buồn bã nhìn tóc bạc mình trong gương mới)
Tư lượng vãng sự thiêm trù trướng (Khách lộ cảm hoài)
(Đắn đo suy nghĩ việc đã qua thêm buồn)
Tôn tử bồi hồi đối tuyết mai (Đăng sơn hữu hoài)
Ngồi ngắm tuyết mai, nâng chén rượu bần thần mãi)
Buồn để rồi xót xa, cười nhạo chính mình.
Như hà cửu tọa linh tâm toán! (Kim nhật hành)
(Sao cứ ngồi mãi đây cho lòng xót xa!)
Thử khách sầu trung chỉ tự trào (Thù hữu nhân úy vấn)
(Cái lão ấy, hễ buồn là chỉ tự nhạo mình mà thôi!)
Nỗi buồn có khi là tiếng dế, một tiếng ngâm, một ngọn gió hoặc chỉ là những ưu tư phiền
muộn không giải tỏa được.
Dạ cùng thê thiết khủng triêm khâm (Thương Sơn công tịch thượng
nghĩ đông dạ quan vưu hối am minh sử nhạc phủ đồng hữu nhân phân phú)
(Tiếng dế đêm thê thiết e ướt vạt áo)
Điệu nhập tây phong oán khởi tri (Thâm dạ văn lân ông tụng thi)
(Tiếng ngâm vẳng qua cửa bắc buồn não nuột)
Trù trướng tây phong giang thượng khách (Cửu nhật Di Xuân kiến ký
thứ vận)
(Gió tây thổi, lòng khách trên sông buồn não nề)
Tục tình nan tự khiển (Độc dạ)
(Tình thế tục khó bề tự khuây khỏa)
Có khi, Cao Bá Quát đau lòng vì chính mình.
Chính khan nhân tự nhất bi thu (Cấm sở cửu nguyệt trình chư hữu
nhân)
(Hãy nhìn thẳng tôi từ mùa thu đau lòng này)
Cao Bá Quát đau lòng để rồi thở than, phàn nàn.
Ngô chi sinh dã vô nhai, duyệt thế thâm nhi ngộ thán (Du Đằng Giang dữ hữu nhân
đăng Kim Chung tự, túy hậu lưu đề , tính tự)
(Đời ta sống không bờ, trải đời mà than thở)
Đồng du mạn thán tương phùng lãn (Đồng Bùi Nhị Minh Trọng Trà giang dạ bạc)
(Bạn đồng du, những than hoài là gặp nhau đã muộn)
Thán tức hà nhân ủng tuy khan! (Dạ quan Thanh nhân diễn kịch trường)
(Đáng phàn nàn cho ai đó cứ nghếch mỗi ngồi xem!)
để rồi căm hờn
Mang mang thân thế độc du hành (Du Đằng Giang dữ hữu nhân đăng Kim Chung tự,
túy hậu lưu đề, tính tự)
(Thân thế mịt mùng, chỉ đáng trừng măt trông đời)
để rồi oán hận
Ngã do di hận mãn đinh châu (Họa Thận Tư xuân nhật đồng chư hữu
đăng lâu quán vọng hồ kiến ký thứ vận)
(Ta còn nhiều mối hận chất đầy nơi còn bãi)
Trường hận thường giao luân cẩm tự? (Tiếp nội thư tính ký hàn y bút
điều sổ sự)
(Mối hận vô cùng, ai xui mình bàn việc dệt chữ gấm)
Na thức cổ lai trùng cửu hận (Cấm sở cửu nguyệt trình chư hữu nhân)
(Ai mà biết cái hận trùng cửu từ cổ lai đến giờ)
Nhưng ông không nỡ đem nỗi oán hờn mà đề khắp giang thành! (Ký hận – kỳ nhị). Thế nên,
cái cảm xúc uất ức dồn nén thành nỗi ưu phiền bệnh tật, cảm xúc ấy đến độ điên, cuồng.
Đạo ngã hữu tại, bất tử duy mệnh cuồng (Tống Nguyễn Trúc Khê xuất
lụy Thường Tín kiêm trí Lê Huy Vĩnh lão khế)
(Rằng, tôi còn khỏe, không chết, chỉ mắc chứng điên thôi)
Bạch dã chính dương cuồng (Văn Lưu Nguyệt Trì Bắc hành, khuyết vi
diện biệt phụng ký)
(Rằng: Lý Bạch lúc này đang giả điên)
Có khi là cảm xúc lạc quan với tinh thần tiến thủ lấy cái cười lấn át những khó khăn thử
thách, làm động lực tinh thần ở mỗi bước tiến. Cao Bá Quát đã cười trước bước đường vô định, gian
khó, cười trong ngục tù với khát khao tự do.
Thanh bào như thảo du vô xứ,
Độc bả suy nhan tiếu hướng thiên (Bài Viên cư trị vũ)
(Áo xanh màu cỏ không biết đi đâu,
Chỉ ngửa khuôn mặt gầy gò lên trời mà cười)
Nhất tiếu vọng sơn đầu,
Trường ca “Hành lộ nan” (Trấn An lệnh Lê Tử Chi nhiệm, đặc lai
tương phỏng, kỳ hữu sở tặng, thư dĩ dữ chi)
(Cười xòa một tiếng nhìn lên đỉnh núi,
Hát vang lên khúc “Hành lộ nan”)
Hà đương giá tác vân thê khứ,
Nhất tiếu thừa phong ổn sán hưu (Trường giang thiên – kỳ tam)
(Ước gì đem gông này bắc làm cái thang mây,
Cười xòa một tiếng, cưỡi gió mà lên cho rãnh)
Cười cả khi buồn, cười để nhạo mình, cười để tự mình biết mình vậy.
Thử khách sầu trung chỉ tự trào (Thù hữu nhân úy vấn)
(Cái lão ấy, hễ buồn là chỉ tự nhạo mình mà thôi!)
Thủ bả liên hoa tiếu tự tri (Vãn du Sài Sơn vũ hậu đăng sơn đầu bề
bích – kỳ nhị)
(Tay cầm bông hoa sen, mỉm cười, mình tự biết mình)
Có thể thấy, Cao Bá Quát sử dụng từ biểu cảm rất linh hoạt và phong phú. Ví như để diễn tả
ý xót thương, Cao Bá Quát không chỉ dùng từ thương mà còn sử dụng cả từ liên, từ bi; diễn tả ý
buồn Cao Bá Quát có thể dùng từ trù trướng, sầu, du du, ưu; để diễn tả nỗi nhớ dùng ông dùng từ
ức, hoài, tư... Điều này làm cho việc phối hợp vần điệu của câu thơ, bài thơ dễ dàng hơn...
Tóm lại, Cao Bá Quát rất có ý thức khi sử dụng vốn từ biểu cảm để bày tỏ cảm xúc của lòng
mình. Điều đó làm cho cảm xúc trong thơ của ông mãnh liệt hơn, lôi cuốn người đọc hơn. Một kẻ sĩ
có trách nhiệm với đời hẳn không thể thiếu những cảm xúc, xúc cảm chân thành trong thơ. Lớp từ
biểu cảm đã cho chúng ta thấy và hiểu rõ hơn một Cao Bá Quát có tấm lòng “lo trước thiên hạ vui
sau thiên hạ” trong cuộc hành trình đi tìm chân lí sống của đời mình.
PHẦN KẾT LUẬN
Thơ chữ Hán là di sản quý giá nhất trong toàn bộ sáng tác của Cao Bá Quát. 1267 bài thơ chữ
Hán đã làm bật lên vẻ đẹp khí phách và lương tâm của một tài thơ trác tuyệt Cao Bá Quát nửa đầu
thế kỉ XIX. Thế giới nghệ thuật trong thơ ông vừa mới lạ vừa độc đáo. Nó được hun đúc và tạo ra
bởi bàn tay và khối óc của Thánh Quát trên cái nền thời đại nhiều biến động.
Khảo sát 418 bài thơ, luận văn đã hệ thống lí giải và nêu được một số vấn đề sau:
1. Khái quát được bối cảnh thời đại, con người Cao Bá Quát và đặc biệt là quan niệm sáng
tác thơ văn Cao Bá Quát. Điều này, giúp cho chúng ta có cái nhìn đúng về Cao Bá Quát, con người
trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
2. Luận văn đã đi sâu vào thế giới nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát phát hiện hình tượng
con người nghệ thuật với nhìn tích cực, tiến bộ về cuộc đời, thế giới và bản thân. Con người trách
nhiệm hiện lên với vẻ đẹp của kẻ sĩ đối với chính mình và xã hội. Từ việc ý thức trách nhiệm này,
con người đã tỏ rõ khí phách, bản lĩnh, khát vọng, phẫn uất, trăn trở, suy tư… trước cuộc đời. Con
người khí phách luôn nêu cao tinh thần tự do, hành động phản kháng dám nghĩ, dám làm. Con
người bi phẫn với những thất vọng, niềm đau và sự phẫn nộ quyết liệt trước cuộc đời. Đó chính là
động lực để Cao Bá Quát đứng lên khởi nghĩa sau này. Con người tình cảm được khắc sâu với tấm
lòng tha thiết với quê hương, gia đình, bạn bè và cả những ai bất hạnh trên đời. Tấm lòng ấy rất
chân thật, xuất phát từ trái tim rung động. Nó là nguồn sống mà cũng là động lực giúp Cao Bá Quát
luôn vươn lên, hành động mạnh mẽ. Con người suy tưởng với những chất vấn, băn khoăn, trăn trở
và kiếm tìm đến day dứt đau lòng. Và kết quả là đã định hình những bước đi đầu tiên.
3. Thời gian, không gian cũng là một nét thể hiện tư duy trong sáng tạo nghệ thuật của Cao
Bá Quát. Thời gian và không gian trong thơ có tính chất bức phá mạnh mẽ thể hiện chí khí, tâm tư
và bản lĩnh của cá nhân. Thời gian kiểm nghiệm thể hiện sự đánh giá của bản thân về quá khứ, về
những việc đã xảy ra. Thời gian tĩnh tại diễn tả sự trì trệ, ngưng đọng, chậm chạp. Thời gian toan
tính thể hiện những khát khao, mong ước và hành động. Không gian nghệ thuật cũng khắc sâu tâm
tư của con người. Không gian “tầm cao” thể hiện chí khí, khát vọng mạnh mẽ. Không gian nỗi niềm
làm rõ những tâm tư, tình cảm và nguyện vọng của con người.
4. Ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện cá tính, bản chất con người. Tiêu đề bài thơ làm rõ tính tự sự
trong quan niệm sáng tác của Cao Bá Quát. Nó còn cho thấy con người luôn quan tâm đến hiện thực
cuộc sống xung quanh mình. Ở câu thơ, sự xuất hiện nhiều hay ít các dạng câu có thể lý giải tầm
nhìn, cách nghĩ hay những khúc mắc mà con người quan tâm. Ở từ ngữ, từ tự xưng biểu hiện con
người cá nhân rõ nét, từ biểu cảm cho thấy cảm xúc của con người trước cuộc sống, cuộc đời và thế
giới xung quanh…
Với những kết quả trên, dù chưa toàn diện và hoàn thiện, luận văn cũng có một số đóng góp:
Về mặt cảm thụ: Việc tìm hiểu những đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát giúp
người đọc thấy được cái hay cái đẹp của tác phẩm nghệ thuật; hiểu, yêu, kính trọng một tài thơ lỗi
lạc, một nhân cách đáng quý Cao Bá Quát.
Về mặt giảng dạy: Luận văn tiếp cận các tác phẩm ở góc độ nghệ thuật, khám phá và khai
thác tác phẩm sâu hơn ở các phương diện hình tượng nghệ thuật về con người, bước đầu tìm hiểu
thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ thuật…
Về mặt nghiên cứu văn học: Luận văn đã khảo sát một số đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán
Cao Bá Quát ở phạm vi rộng 418 bài thơ, gồm phương diện: hình tượng nghệ thuật về con người,
thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật … góp phần vào việc nghiên cứu, tìm hiểu, đánh giá thơ
văn Cao Bá Quát nói chung, thơ chữ Hán Cao Bá Quát nói riêng.
THƯ MỤC THAM KHẢO
I. Sách:
1. Nguyễn Phan Cảnh (1987), Ngôn ngữ thơ, Nxb. Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.
2. Hà Như Chi (1967), Việt Nam thi văn giảng luận, Nxb. Tân Việt, Sài Gòn.
3. Trương Chính (1983), Thơ văn Nguyễn Công Trứ, Nxb. Văn học.
4. Trương Chính (1997), “Cao Bá Quát (1808-1855)”, in trong Tuyển tập Trương Chính, tập 2, Nxb.
Văn học, Hà Nội, tr. 86-121.
5. Nguyễn Duy Diễn (1957), Luận đề Cao Bá Quát, Nxb. Thăng Long, Sài Gòn.
6. Xuân Diệu (1982), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb. Văn học, Hà Nội, tr.144-148.
7. Hồ Việt Điểu (1958), Luận đề Cao Bá Quát, Tủ sách giáo khoa Bạn Trẻ xuất bản, Sài Gòn.
8. Hà Minh Đức, Lê Bá Hán (1984), Cơ sở lý luận văn học, Nxb. Đại học và Trung học chuyên
nghiệp.
9. Lam Giang (1959), Giảng luận về Cao Bá Quát và Cao Bá Nhạ, Nxb. Tân Việt, Sài Gòn.
10. Lê Giang (2001), Ý thức văn học cổ trung đại Việt Nam, Luận Án Tiến sĩ Ngữ văn, bảo vệ năm
2001 tại Trường Đại học KHXN và NV, TP. HCM
11. Bảo Định Giang-Bùi Hữu Nghĩa (1998), Con người và tác phẩm, Nxb. TP. HCM.
12. Lam Giang (1994), Khảo luận về thơ, Nxb. Đồng Nai.
13. Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu, Bộ Giáo dục-Trung tâm Học liệu, in lần
thứ 10, Sài Gòn.
14. Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam thi văn hợp tuyển, Bộ Giáo dục-Trung tâm Học liệu, in
lần thứ 9, Sài Gòn.
15. Nguyễn Thị Bích Hải (1995), Thi pháp thơ Đường, Nxb. Thuận Hóa.
16. Chu Trọng Hiếu (1996), Nguyễn Công Trứ - Thơ và đời, Nxb. Văn học, Hà Nội.
17.Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb. Văn hóa – Thông
tin.
18. Tố Hữu (2002), “Cao Bá Quát một khí phách hào hùng, một nhà thơ lỗi lạc của dân tộc”, in
trong Bản sắc dân tộc trong văn hóa văn nghệ, in lần thứ 2, Nxb. Văn học, Trung tâm Nghiên
cứu Quốc học.
19. Trúc Khê (1952), Cao Bá Quát danh nhân truyện ký, Thư xã xuất bản, Hà Nội.
20. Vũ Khiêu (1970), “Lời giới thiệu” trong sách Thơ chữ Hán Cao Bá Quát, tuyển dịch, in lần thứ
nhất năm 1970, Nxb. Văn học, Hà Nội.
21. Đặng Thanh Lê và các tác giả khác (1990), Lịch sử văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII-nửa
đầu thế kỉ XIX, Nxb. Giáo dục.
22. Mai Quốc Liên chủ biên (2004), Cao Bá Quát toàn tập, tập I, Nxb. Văn học-Trung tâm Nghiên
cứu Quốc học.
23. Mai Quốc Liên (2004), “Cao Bá Quát – Một thiên tài kỳ vĩ của văn học Việt Nam”, in trong
Cao Bá Quát toàn tập, tập I, Nxb. Văn học-Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, tr. 7-39.
24. Nguyễn Lộc (1978), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, tập II, Nxb.
Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
25. Nguyễn Lộc (1992), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, tập I, Nxb.
Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, tái bản.
26. Phương Lựu (1997), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung đại Việt Nam, Nxb.
Giáo dục.
27. Phương Lựu (chủ biên) (1997), Lý luận văn học, Nxb. Giáo dục.
28. Phương Lưu (1985), Về quan niệm văn chương cổ điển Việt Nam, Nxb. Giáo dục.
29. Nguyễn Phong Nam (chủ biên) (1997), Những vấn đề lịch sử và văn chương triều Nguyễn, Nxb.
Giáo dục.
30. Nguyễn Nghiệp (1982), Cao Bá Quát, Nxb. Văn hóa, Hà Nội.
31. Nhiều tác giả (1997), Nguyễn Công Trứ-Cao Bá Quát, Nxb. Văn Nghệ TP. HCM.
32. Nhiều tác giả (1988), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, Nxb. Giáo dục.
33. Nhiều tác giả (2004), Cao Bá Quát-Tham luận Hội thảo (có 22 ý kiến tham luận), Nxb. Văn
học-Trung tâm Nghiên cứu Quốc học.
34. Nguyễn Ngọc Quận (2005), Sáng tác của Cao Bá Quát trong tiến trình văn học dân tộc, Luận
án Tiến sĩ Ngữ văn, bảo vệ năm 2005 tại Trường Đại học KHXH và NV, TP. HCM.
35. Vĩnh Sính (2004), “Thử tìm hiểu thêm về chuyến đi công vụ ở Hạ Châu của Cao Bá Quát”, in
trong Hồn Việt (tập 2), Trung tâm Nghiên cứu Quốc học – Nxb. Văn học, tr.61-80.
36. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Cao Bá Quát - Một đời thơ suy tưởng, Nxb. Trẻ - Hội Nghiên cứu và
Giảng dạy văn học Tp. HCM.
37. Nguyễn Hữu Sơn- Trần Đình Sử- Huyền Giang- Trần Ngọc Vượng- Trần Nho Thìn- Đoàn Thị
Thu Vân (1997), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, Nxb. Giáo dục.
38. Trần Đình Sử (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb. Tác phẩm mới và Hội nhà văn Việt Nam.
39. Trần Đình Sử (1996), Lý luận phê bình văn học, Nxb. Hội nhà Văn Hà Nội.
40. Trần Đình sử (1997), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
41. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb. Giáo dục.
42. Trần Đình sử (2001), Văn học và thời gian, Nxb. Văn học.
43. Doãn Quốc Sĩ – Việt Tử (1959), Khảo luận về Cao Bá Quát, Nhà in Nam Sơn, Sài Gòn.
44. Lê Tâm (1952), Thân thế và sự nghiệp Cao Bá Quát, Nxb. Cây Thông, in lần thứ hai, Hà Nội.
45. Chu Thiên (1963), “Cao Bá Quát và cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương”, in trong Thông báo khoa học,
tập I- Sử học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr. 67-82.
46. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, Nxb. Trẻ.
47. Lê Ngọc Trà, Phùng Quý Nhâm (1997), Giáo trình lý luận văn học, trường ĐHSP. TP. HCM.
48. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb. Văn học.
49. Vi Chí Thông (1990), Cá nhân dưới ảnh hưởng tư tưởng Nho gia, Nxb. Nhân dân, Hà Nội.
50. Thơ chữ Hán Cao Bá Quát (1970), Nhóm tuyển dich gồm Vũ Khiêu và nhiều người khác, in lần
thứ nhất (có kèm theo nguyên văn chữ Hán và bản chụp bút tích Cao Bá Quát), Nxb. Văn học,
Hà Nội.
51. Thơ chữ Hán Cao Bá Quát (1970), Nhóm tuyển dich gồm Vũ Khiêu và nhiều người khác, in lần
thứ ba có bổ sung, sửa chữa (có thêm phần thơ Nôm do Nguyễn Bỉnh Khôi biên soạn, và bỏ bớt
5 bài thơ chữ Hán được xác định lại là của người khác), Nxb. Văn học, (in lần đầu và lần thứ hai
lấy tên: Thơ chữ Hán Cao Bá Quát).
52. Nguyễn Tài Thư (1980), Cao Bá Quát con người và tư tưởng, Nxb. KHXH, Hà Nội.
53. Nguyễn Đức Tiếu (1962), “Thơ khẩu khí”, Văn hóa nguyệt san, Sài Gòn, tập XI, số 70, tháng 5,
tr. 433-458.
54. Đỗ Minh Tuấn (1995), Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb. Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
55. Lê Trí Viễn (1978), “Chương III: Cao Bá Quát (?-1855)” trong Lịch sử văn học Việt Nam tập
III, Văn học viết (viết chung với Phan Côn, Đặng Thanh Lê, Phạm Văn Luận, Lê Hoài Nam),
Nxb. Giáo dục, tr.336-362.
56. Lê Trí Viễn (1985), Lịch sử Văn học Việt Nam (Văn học viết thời quốc gia phong kiến độc lập –
thế kỉ X – giữa thế kỉ XIX), Trường Đại học Sư phạm TP. HCM, lưu hành nội bộ.
57. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại, Nxb. KHXH, Hà Nội.
58. Lê Trí Viễn (chủ biên) (1997), Giáo trình văn học trung đại Việt Nam, trường ĐHSP. TP.HCM.
59. Trần Ngọc Vượng (1995), Loại hình học tác giả văn học: Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
60. Hoàng Hữu Yên (1999), “Chương IX: Nguyễn Công Trứ” và “Chương X: Cao Bá Quát” trong
Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX (của nhóm soạn giả Đặng Thanh Lê –
Hoàng Hữu Yên – Phạm Luận) – Sách Đại học Sư phạm, Nxb. Giáo dục, tr. 209-252.
61. Lê Thu Yến (1999), Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb. Thanh niên.
62. Lê Thu Yến (2000), Văn học trung đại những công trình nghiên cứu, Nxb. Giáo dục.
II.TẠP CHÍ:
63. Lương An (1980), “Đề sau thơ Cúc Đường, một nhận xét đúng đắn và dũng cảm của Miên
Thẩm đối với Cao Bá Quát”, Tạp chí Văn học, số 3, tr. 116-117.
64. Nguyễn Anh (1972), “Cao Bá Quát, kẻ bất đắc chí, con người nổi loạn hay nhà cách mạng?”,
Tạp chí Văn học, Sài Gòn, tháng 12, tr. 31-41.
65. Thái Bạch (1965), “Một nhà thơ cần phải xét lại – Cao Bá Quát”, Phổ thông tạp chí, Sài Gòn, số
155, tr. 57-65, và số 156, tr. 53-61.
66. Nguyễn Văn Bách (1994), “Bài thơ Phạm Sĩ Ái nhớ Cao Bá Quát”, Tạp chí Hán Nôm, số 3, tr.
63-64.
67. Hoa Bằng (1969), “Cao Bá Quát với cuộc khởi nghĩa chống triều Nguyễn (1854-1856)”, tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, Hà Nội, số 121, tháng 4, tr. 27-40.
68. Hoa Bằng (1972), “Một vài tìm tòi về câu đối tương truyền là của Cao Bá Quát và về bài thơ
“Thú Hương Sơn’, Tạp chí Văn học, Hà Nội, số 2, tháng 3 và 4, tr. 61-64.
69. Nguyễn Huệ Chi (1961), “Tìm hiểu nhân sinh quan tích cực trong thơ Cao Bá Quát”, tạp chí
Nghiên cứu Văn học, Hà Nội, số 6, tr.21-36.
70. Nguyễn Huệ Chi (2003), “Tiếp cận nghệ thuật đối với hai chủ đề độc đáo trong thơ chữ Hán
Cao Bá Quát”, Tạp chí Văn học, số 8, tr.13-22.
71. Phan Thu Chi (1961), “Đặt lại vấn đề Thánh Quát có phải họ Cao không?”, Thời nay bán
nguyệt, Sài Gòn, số 38, tr. 81-85.
72. Văn Chung (1958), “Bạn đồng điệu của Cao Bá Quát: Thủ khoa Nguyễn Hàm Ninh”, Văn hóa
nguyệt san, Sài Gòn, số 35, tháng 10, tr. 1148-1161.
73. Nguyễn Duy Diễn (1958), “Cao Bá Quát, một chiến sĩ cách mạng?”, Tạp chí Sáng tạo, Sài Gòn,
số 22, tháng 7, tr. 71-75.
74. Xuân Diệu (1971), “Cao Bá Quát”, tạp chí Tác phẩm mới, Hà Nội, số 11, tháng 1-2, tr. 82-92.
75. Thế Dương (1960), “Thánh Quát chính là họ Cao”, Thời nay bán nguyệt san, Sài Gòn, số 20, tr.
130-131.
76. Kiêm Đạt (1958), “Mấy trường hợp Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát”, tạp chí Giáo dục phổ
thông, Sài Gòn, số 28, tr. 31-34.
77. Kiêm Đạt (1960), “Những bài thơ tuyệt mệnh của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Phan
Thanh Giản, Nguyễn Khuyến, Trương Vĩnh Ký, Phan Bội Châu…”, tạp chí Giáo dục phổ
thông, Sài Gòn, số 61, tr. 14-23.
78. Mạc Phương Đình (1960), “Thánh Quát không phải họ Cao?’, Tạp chí Thời nay, Sài Gòn, số 18,
tr. 24-27.
79. Hồng Liên Lê Xuân Giáo (1964), “Giai thoại về văn học lịch sử của Chu Thần Cao Bá Quát tiên
sinh”, Văn hóa nguyệt san, Sài Gòn, tập XIII, quyển 8, tháng 8, tr. 925-935.
80. Lữ Hồ (1958), “Bài ca của một cuồng sĩ”, tạp chí Sáng tạo, Sài Gòn, số 18, tháng 3, tr. 51-60.
81. Vũ Thu Lợi (1960), “Chung quanh một câu đối của Cao Bá Quát”, Thời nay bán nguyệt san, Sài
Gòn, số 28, tr. 75-77.
82. Tô Hà (1991), Khoảng cách im lặng của những câu thơ, Tạp chí Văn học, số 2.
83. Tương Huyền (1972), “Cao Bá Quát, kẻ phá đám trước cuộc đời”, Tạp chí Văn học, Sài Gòn,
tháng 12, tr. 42-55.
84. Hoàng Thị Mai Hương (2000), “Một nhân cách nho sĩ, một tài thơ qua Đường Trung Phạm Đôn
Nhân nguyên thảo”, Tạp chí Hán Nôm, số 3, tr. 45-53.
85. Đỗ Văn Hỷ dịch (1978), “Viết ở cuối tập thơ Rừng chuối của Cao Bá Quát”, Tạp chí Văn học,
số 5, tr. 154-155.
86. Vũ Khiêu (1969), “Đọc Cao Bá Quát nhân 160 năm ngày sinh của nhà thơ”, Tạp chí Tác phẩm
mới, Hà Nội, số 4, tháng 10-11-12,tr.74-80.
87. Phan Kim (1972), “Thân thế và thi nghiệp nhà thơ Cao Bá Quát”, Tạp chí Văn học, Sài Gòn,
tháng 12, tr. 3-8, 68-69.
88. Châu Hải Kỳ (1958), “Cao Bá Quát đã làm sống họ Cao vì tư tưởng Cách mạng Xã hội?”, Tạp
chí Giáo dục phổ thông, Sài Gòn, số 22, ngày 1.9, tr. 5-6.
89. Châu Hải Kỳ (1957), “Phải chăng Cao Bá Quát là tác giả các câu đối dưới đây?”, Tạp chí Giáo
dục phổ thông, Sài Gòn, số 4, tr 4-5.
90. Châu Hải Kỳ (1958), “Cao Bá Quát đã làm sống họ Cao vì tư tưởng Cách mạng xã hội?”, Tạp
chí Giáo dục phổ thông, Sài Gòn, số 22, tr. 5-6.
91. Châu Hải Kỳ (1958), “Có quả thật Cao Bá Quát đã khinh miệt dân chúng?”, Tạp chí Giáo dục
phổ thông, Sài Gòn, số 20, ngày 1.8, tr.8-9. và 29.
92. Châu Hải Kỳ (1959), “Lược luận về các tác giả trong Chương trình Trung học đệ cấp nhất cấp”,
tạp chí Giáo dục phổ thông, Sài Gòn, số 37, tr. 41-50.
93. Châu Hải Kỳ (1963), “Trong cuộc biến động Mỹ Lương, Cao Bá Quát đã dựa vào lực lượng nào
để chống Triều đình Tự Đức”, tuần báo Văn đàn, Sài Gòn, số 22, tr. 14-15.
94. Nguyễn Minh và K. X. T (1959), “Cao Bá Quát (?-1854)”, tạp chí Giáo dục phổ thông, Sài Gòn,
số 34, tr. 41-48 và 63.
95. Nguyễn Nghĩa (1980), Tìm hiểu ngôn ngữ thơ, Tạp chí Văn học.
96. Nguyễn Nghiệp (1962), Những nhân tố gì đã tạo nên mâu thuẫn trong tư tưởng Nguyễn Công
Trứ, Tạp chí Văn học, số 5.
97. Điền Nguyên (1958), “Nhân cuộc thi tú tài Việt vừa qua, bàn về Cao Bá Quát”, tập san Nhân
Loại, Sài Gòn, số 2, tr. 5-8, 21.
98. Nguyễn Tường Phượng (1934), “Một nhân vật tỉnh Bắc Ninh, ông Cao Bá Quát”, Nam phong
tạp chí, tập 35, số 209, tr. 259-266.
99. Nguyên Sa (1957), “Cái chết của người thi sĩ’, tạp chí Sáng tạo, Sài Gòn, số 4, tháng giêng, tr.
24-28.
100. Claudine Salamon và Tạ Trọng Hiệp (1996), “Sứ thần Việt Nam Cao Bá Quát và nhận thức
của ông qua chuyến đi công cán “Vùng Hạ Châu” (bản dịch từ tiếng Pháp của Nguyễn Văn
Kiệm), Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5, tr. 49-55.
101. Claudine Salamon và Tạ Trọng Hiệp (1996), “Sứ thần Việt Nam Cao Bá Quát và nhận thức
của ông qua chuyến đi công cán “Vùng Hạ Châu” (bản dịch từ tiếng Pháp của Nguyễn Văn
Kiệm) (tiếp theo), Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 1, tr. 11-27.
102. Trần Lê Sáng (1973), Thử tìm hiểu quan niệm “thi ngôn chí” của nhà nho, Tạp chí Văn học.
103. Hồ Sen (1959), “Thái độ hưởng nhàn qua vài thi nhân (Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Tản
Đà)”, tạp chí Giáo dục phổ thông, Sài Gòn, số 31-32, Xuân Kỷ hợi, tr. 13-20.
104. Vĩnh Sính (2004), “Thử tìm hiểu thêm về chuyến đi công vụ ở Hạ Châu của Cao Bá Quát”, in
trong Hồn Việt (tập 2), Trung tâm Nghiên cứu Quốc học – Nxb. Văn học, tr.61-80.
105. Nguyễn Trường Sơn (1958), “Bài học lịch sử trong vụ án bay đầu Cao Bá Quát”, tạp chí Giáo
dục phổ thông, Sài Gòn, số 15, tr. 11-13.
106. Phạm Văn Sơn (1966), “Tìm hiểu thêm về Cao Chu Thần”, Văn hóa nguyệt san, Sài Gòn, tập
XV, số 4 và 5, tháng 11 và 12, tr. 430-438.
107. Phạm Trọng Tâm (1959), “Lòng hiếu sinh của Cao Bá Nhạ, nỗi ngán đời của Cao Bá Quát”,
tạp chí Giáo dục phổ thông, Sài Gòn, số 38, ngày 15.5, tr.15-23.
108. Bùi Duy Tân (1979), ‘Bài thơ Trào chiết tí Phật không phải của Cao Bá Quát”, Tạp chí Văn
học, số 1, tr. 142-143.
109. Đỗ Lai Thúy (2000), “Trần Đình Hượu và những khái niệm công cụ trong nghiên cứu Nho
giáo”, Văn hóa Nghệ thuật, số 192, tr. 80-84.
110. Thái Vị Thủy (1965), “Thiên nhiên với nhà thơ Cao Bá Quát”, tạp chí Vạn Hạnh, Sài Gòn, số
3, tr. 89-96.
111. Chu Thiên (1963), “Cao Bá Quát và cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương”, in trong Thông báo khoa
học, tập I- Sử học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr. 67-82.
112. Chu Thiên (1964), “Một bài thơ nói về việc Cao Bá Quát tử trận”, (mục Sưu tầm), Tạp chí Văn
học, Hà Nội, số 12, tr. 93-94.
113. Nguyễn Đức Tiếu (1962), “Thơ khẩu khí”, Văn hóa nguyệt san, Sài Gòn, tập XI, số 70, tháng
5, tr. 433-458.
114. Nguyễn Đức Tiếu (1962), “Xung quanh cái chết của danh sĩ số 1 triều Nguyễn. Sự lập chí của
Cao Bá Quát”, tạp chí Bách khoa thời đại, Sài Gòn, số 143, ngày 15.12, tr. 11-18.
115. Nguyễn Đức Tiếu (1992), Sự lập chí của Cao Bá Quát, Tạp chí Bách Khoa, số 143.
116. Tảo Trang (1963), “Một số tài liệu về thơ văn Cao Bá Quát’ (mục Đính chính thơ văn cổ), tạp
chí Nghiên cứu Văn học, Hà Nội, số 2, tr. 102-104.
117. Tảo Trang (1963), “Góp thêm tài liệu về năm sinh và chỗ ở của Cao Bá Quát”, Tạp chí Văn
học, Hà nội, số 5, tháng 11, tr.65-70.
118. Mai Trân (1964), Hai bài thơ của Miên Thẩm nói về Cao Bá Quát, Tạp chí Văn học, số 6.
119. Phương Tri (1971), “Kỉ niệm lần thứ 160 ngày sinh Cao Bá Quát và lần thứ 100 ngày sinh
Trần Tế Xương” (mục Sinh hoạt văn học), Tạp chí Văn học, Hà Nội, số 1, tr.139-140.
120. Hoàng Trinh (1984), Những truyền thống nhân đạo chủ nghĩa trong thơ Việt Nam, Tạp chí Văn
học, số 2.
121. Đoàn Thị Thu Vân (1998), Quan niệm về con người trong thơ Thiền Lý-Trần, Tạp chí Văn
học, số 4.