TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA TRIẾT HỌC -------------------

LÊ NGỌC HIỂN

VẤN ĐỀ DÂN CHỦ TRONG TƢ TƢỞNG CỦA

NGUYỄN AN NINH GIAI ĐOẠN 1923 – 1928

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH TRIẾT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH – 2016 – X

Hà Nội, 2020

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA TRIẾT HỌC -------------------

LÊ NGỌC HIỂN

VẤN ĐỀ DÂN CHỦ TRONG TƢ TƢỞNG CỦA

NGUYỄN AN NINH GIAI ĐOẠN 1923 – 1928

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH TRIẾT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH – 2016 – X

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: PGS.TS NGUYỄN THANH BÌNH

Hà Nội, 2020

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.............................................. 3

3. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận ...................................................... 6

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu .............................................. 6

5. Ý nghĩa của khóa luận .............................................................................. 7

6. Kết cấu ...................................................................................................... 7

NỘI DUNG ................................................................................................... 8

CHƢƠNG 1: TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG CỦA

NGUYỄN AN NINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN CHỦ ........................................... 8

1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội cho sự hình thành tư tưởng của Nguyễn An

Ninh về vấn đề dân chủ ................................................................................. 8

1.1.1. Điều kiện lịch sử - xã hội thế giới ....................................................... 8

1.1.2. Điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam .................................................... 9

1.2. Tiền đề hình thành tƣ tƣởng chính trị Nguyễn An Ninh ................... 13

1.2.1. Một số luận giải của tƣ tƣởng phƣơng Đông về dân chủ ................ 13

1.2.2. Tƣ tƣởng dân chủ tƣ sản .................................................................. 17

1.2.2.1. Dấu ấn dân chủ trong những Tân văn, Tân thư của học giả Trung

Quốc – Nhật Bản ......................................................................................... 17

1.2.2.2. Tư tưởng Jean – Jacques Rousseau về dân chủ ............................ 18

1.2.2.3. Tư tưởng Mahatma Gandhi và Tôn Trung Sơn về dân chủ .......... 19

1.2.3. Tƣ tƣởng xã hội chủ nghĩa ............................................................... 21

1.2.3.1. Tư tưởng của Charles Rappoport và Jean Jaures về dân chủ ....... 21

1.2.3.2. Tư tưởng của Karl Marx và Vladimir Illyich Lenin về dân chủ .... 23

1.3. Nguyễn An Ninh – cuộc đời và sự nghiệp ........................................... 24

Tiểu kết chƣơng 1 ....................................................................................... 30

CHƢƠNG 2: NHỮNG NỘI DUNG VẤN ĐỀ DÂN CHỦ TRONG TƢ

TƢỞNG NGUYỄN AN NINH ................................................................... 32

2.1. Quan niệm của Nguyễn An Ninh về hai nguyên tắc dân chủ ............ 32

2.1.1. Nguyên tắc tự quyết về tinh thần ....................................................... 32

2.1.2. Nguyên tắc dân chủ trong sự truy vấn bản chất kinh tế và chính trị 37

2.2. Vấn đề dân chủ trong tƣ tƣởng Nguyễn An Ninh .............................. 42

2.2.1. Bản chất của vấn đề dân chủ ở thuộc địa ......................................... 42

2.2.2. Quan niệm về vai trò - vị trí của nhân dân ........................................ 50

2.2.3. Bàn luận về cách mạng và thỏa hiệp ................................................. 58

2.2.4. Luận về phương thức thực hành dân chủ ......................................... 62

2.3. Giá trị và hạn chế trong tƣ tƣởng của Nguyễn An Ninh về vấn đề

dân chủ ....................................................................................................... 67

2.3.1. Giá trị nổi bật .................................................................................... 67

2.3.2. Hạn chế chủ yếu ................................................................................ 69

Tiểu kết chƣơng 2 ....................................................................................... 71

KẾT LUẬN ................................................................................................. 74

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 77

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng, khóa luận tốt nghiệp đại học với đề tài: “Vấn đề

dân chủ trong tư tưởng của Nguyễn An Ninh (giai đoạn 1923 – 1928)” là

công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của

PGS.TS Nguyễn Thanh Bình.

Các số liệu, trích dẫn và tài liệu tham khảo trong luận văn là hoàn toàn

trung thực, có nguồn gốc rõ ràng.

Tác giả khóa luận tốt nghiệp

Lê Ngọc Hiển

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới PGS.TS Nguyễn

Thanh Bình, người đã trực tiếp chỉ bảo tận tình, hướng dẫn và khích lệ tôi

trong quá trình học tập và kiên định trong việc tìm hiểu, nghiên cứu cũng như

thực hiện khóa luận tốt nghiệp này.

Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô, tập thể cán bộ trường Đại học

Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đặc biệt, lời cảm ơn của tôi xin được tri ân tới

các thầy cô trong khoa Triết học - những người thầy người cô đã gợi mở,

hướng dẫn, động viên và trao đổi những ý kiến khoa học quý báu trong quá

trình học tập, rèn luyện để có thể hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.

Cuối cùng, tôi xin được cảm ơn gia đình, người thân và bạn bè đã luôn ủng hộ

và giúp đỡ tôi trong nỗ lực nghiên cứu, hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.

Tôi xin chân thành cảm ơn.

Hà Nội, ngày 23 tháng 06 năm 2020

Sinh viên

Lê Ngọc Hiển

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Vấn đề dân chủ (democracy’s problem) có lẽ là một trong những vấn đề

gây nên những tác động đa chiều chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Từ

xuất phát điểm trong môi trường của các cuộc thử nghiệm chính trị Hy Lạp –

La Mã thời cổ đại, dân chủ trải qua quá trình vận động và phát triển mạnh mẽ

với tư cách của một khái niệm tự thân được nhận thức bởi các cá nhân hoặc

các cộng đồng cụ thể. Thậm chí, dân chủ cũng được xem xét trên phương diện

của một vấn đề. Sự hiện tồn của con người luôn có xu hướng ngoại tại là phát

triển qua từng giai đoạn , nhưng không vì vậy mà vấn đề dân chủ không được

quan tâm. Trước những thách thức, xung đột có thể nảy sinh nguy cơ chi phối

và thậm chí bần cùng hóa đời sống cá nhân cũng như đời sống cộng đồng.

Viễn cảnh đó khiến con người cá nhân không còn có thể thuần túy mặc nhiên

chấp nhận điều đó là tất yếu. Dân chủ không dừng lại ở phương thức tổ chức -

điều chỉnh quyền lực của các cơ quan đại diện ý chí, nguyện vọng của cá nhân

và xã hội mà còn là động lực tinh thần cho những thay đổi to lớn. Trong lịch

sử tư tưởng lẫn lịch sử loài người, không ít những hiện tượng đại tự sự nhân

danh giá trị văn minh, tiến bộ để áp đặt những cá nhân, quốc gia, dân tộc mà

bị coi là trái với những giá trị đó.

Sự kiện thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng ngày 01/09/1858

đánh dấu cùng một lúc tồn tại hai quá trình tiếp cận Việt Nam như một đối

tượng mà chúng muốn tác động. Một bên là giới chính trị - quân sự nước

Pháp tiến hành xâm lược, thực hiện quá trình “thực dân hóa” đối với Việt

Nam. Đối nghịch hoàn toàn với “thực dân hóa” là cuộc đấu tranh giành độc

lập – tự do trường kì của người Việt Nam. Đặc biệt hơn, vấn đề dân chủ lập

tức được xác lập ngay trong phong trào chống thực dân ở Việt Nam. Vấn đề

này càng trở nên quyết liệt hơn, khi nó bước sang những năm đầu thế kỉ XX.

Với việc thế hệ trí thức Nho học khởi xướng Đông du – Duy tân (như Phan

Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thành (tự Tiểu La), Tăng Bạt Hổ...),

2

những cảm quan sâu sắc về dân tộc tính và khát khao cải cách quốc gia đã

phát triển phong trào chống thực dân đến giai đoạn vận động dân tộc – dân

chủ những năm 1923 – 1928. Bằng các cách nhìn nhận và phương pháp khác

nhau, những nhân vật như Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Cao Văn

Chánh, Trần Huy Liệu, Bùi Quang Chiêu,…phát động liên tiếp và không

khoan nhượng các cuộc đấu tranh phản kháng lại không gian thuộc địa do

thực dân Pháp áp đặt. Vấn đề dân chủ đã chính thức có vị trí không thể thay

thế trong các hình thức biểu đạt chính kiến của giới trí thức Việt Nam (nói

riêng) và quần chúng nhân dân Việt Nam (nói chung).

Nguyễn An Ninh là nhà trí thức yêu nước, nhà báo và là nhà hoạt động

cách mạng có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XX. Bằng vốn

hiểu biết sâu rộng và sự khát khao nồng nhiệt của một người con Việt Nam

yêu nước, Nguyễn An Ninh đã có những tác động mạnh mẽ trong việc truyền

bá những tri thức của nhân loại đến quần chúng nhân dân, khơi dậy tinh thần

tranh đấu và giúp nhân dân thức tỉnh nghĩa vụ của mình trước những kiềm

lực, áp bức của chế độ thuộc địa.

Trong bối cảnh rối ren đầu thế kỷ XX, có không ít khó khăn và thách

thức đã thành ngăn trở sự truyền bá, thẩm thấu sâu rộng của các nguồn tư

tưởng Việt Nam đến đời sống vật chất – tinh thần con dân đất Việt. Những

biến động to lớn của lịch sử dân tộc cũng như cả một giai đoạn đất nước gồng

mình trong khói lửa chiến tranh đã làm khuất lấp đi phần nào những di sản tư

tưởng của bậc tiền bối, để lại những khoảng trống trong nghiên cứu và kho

tàng tư tưởng dân tộc. Nguyễn An Ninh cũng không nằm ngoài bối cảnh đó.

Ông trút hơi thở cuối cùng ở Côn Đảo trong khi đất nước chưa được độc lập

hoàn toàn, kho tàng sách vở và những tác phẩm ông để lại bấy giờ phải đối

mặt với liên tiếp những thách thức nghiệt ngã của lịch sử. Có không ít những

bài báo, bài viết của ông bị chế độ kiểm duyệt của thực dân Pháp cắt xén

nhiều hoặc thậm chí bị đe dọa tịch thu. Đến ngày Nam Bộ bước vào cuộc đấu

tranh chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai (23/09/1945), gia đình

3

Nguyễn An Ninh và chính quyền cách mạng cố gắng bảo vệ kho tàng sách vở

của ông, song do chiến tranh loạn lạc nên bị mất và thất lạc nhiều. Mặt khác,

nguồn tư liệu lưu trữ trong và ngoài nước chưa thể tiếp cận và khai thác một

cách đầy đủ, dẫn đến nhiều khó khăn trong việc xây dựng tầm nhìn bao quát

về tư tưởng Nguyễn An Ninh cả về diễn trình hình thành những tư tưởng cũng

như ý nghĩa và vai trò của chúng.

Khóa luận “Vấn đề dân chủ trong tƣ tƣởng của Nguyễn An Ninh giai

đoạn 1923 – 1928” là một sự triển khai tìm tòi đối với những giá trị còn ít

được đề cập trong tư tưởng Nguyễn An Ninh. Người viết hi vọng nghiên cứu

này sẽ góp một phần nhỏ bé làm sáng tỏ hơn vấn đề dân chủ trong tiến trình

tư tưởng của Nguyễn An Ninh, từ đó giúp cho sự đánh giá khách quan về vai

trò và đóng góp của ông đối với lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam cũng như

những giá trị, ý nghĩa của tư tưởng Nguyễn An Ninh đối với thực tiến cuộc

sống ngày nay.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Đã có khá phong phú những số bài viết, tác phẩm, công trình nghiên cứu

về Nguyễn An Ninh trên phương diện cuộc đời và sự nghiệp. Nhà nghiên cứu

Nguyễn Q.Thắng (tên thật là Nguyễn Quyết Thắng) khi nghiên cứu về cuộc

đời - sự nghiệp Nguyễn An Ninh đã tìm hiểu, phát hiện có một điểm đáng chú

ý. Ông viết: “…nhà văn Dương Minh Đạt tự Lầu hư cấu đời ông (NAN)

thành một tiểu thuyết “Anh hùng ba mặt” (Bí mật phi thường) 3 cuốn. Sách

do Nhà in Xưa Nay của Nguyễn Háo Vĩnh xuất bản năm 1927” [30, tr. 15].

Tính đến nay, tiểu thuyết này là tác phẩm sớm nhất viết về cuộc đời Nguyễn

An Ninh từ những ngày ông hoạt động cách mạng cho đến khi qua đời vào

năm 1943. Nhà văn, nhà hoạt động xã hội Lê Văn Thử (1905 – 1969) cho ra

đời cuốn sách Hội kín Nguyễn An Ninh vào năm 1949. Với tư cách là người

hoạt động cùng Nguyễn An Ninh, ông đã trình bày cụ thể quá trình hoạt động

của Nguyễn An Ninh trong phong trào Hội kín cùng một số gương mặt khác

như Võ Công Tồn, Phan Văn Hùm… Tiếp đó phải kể đến thiên phóng sự 12

4

kỳ của nhà báo Nguyễn Ngọc Danh mang tên “Những ngày cuối cùng của

nhà Cách mạng NGUYỄN AN NINH tại Côn Đảo” đã được đăng toàn văn

trên báo Tiếng Dội Miền Nam từ ngày 15 đến ngày 30/8/1961. Thiên phóng

sự thể hiện sự trân trọng, ngưỡng mộ đối với sự dấn thân của Nguyễn An

Ninh cho sự nghiệp cách mạng chống Pháp. Ngoài ra còn có thể kể đến cuốn

Nhà cách mạng Nguyễn An Ninh – thân thế và sự nghiệp của Phương Lan –

Bùi Thế Mỹ (in năm 1971), chủ yếu tập trung mô tả tiểu sử của Nguyễn An

Ninh. Đó là các bài viết, sách của các tác giả miền Nam những năm 1949 -

1971 về cuộc đời hoạt động Nguyễn An Ninh. Nhìn chung, các tác giả bày tỏ

sự tôn vinh đối với tài năng, phẩm chất và đóng góp của ông. Ở miền Bắc

trước 1975, những tư liệu về Nguyễn An Ninh dường như rất hạn chế, kéo

theo đó là sự mâu thuẫn, không rõ ràng và thiên kiến trong những quan điểm

về nhà tư tưởng này.

Sau ngày thống nhất đất nước, việc nghiên cứu tư tưởng Nguyễn An

Ninh mới có thêm cơ hội để triển khai một cách khoa học và khách quan hơn.

Khởi đầu là tác phẩm Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám (1975) của nhà sử học Trần Văn Giàu 1 . Ngày

15/09/1987, Hội thảo khoa học đầu tiên về Nguyễn An Ninh được tổ chức tại

Bảo tàng thành phố Hồ Chí Minh (chủ trì bởi Ban Tuyên huấn Thành ủy

Thành phố Hồ Chí Minh). Trước những ý kiến khác nhau về Nguyễn An

Ninh, ông Dương Đình Thảo - Trưởng ban Tuyên huấn Thành ủy Thành phố

Hồ Chí Minh đã phát biểu rằng “không ai bôi đỏ Nguyễn An Ninh nhưng

không cho phép ai bôi đen Nguyễn An Ninh” [39, tr. 3]. Hội thảo đi đến việc

ghi nhận những đóng góp to lớn của Nguyễn An Ninh đối với công cuộc giải

phóng dân tộc.

Từ sau Hội thảo, có rất nhiều bài viết, sách, tạp chí tập trung nghiên cứu

1 Tác phẩm của nhà sử học Trần Văn Giàu xuất bản năm 1975 – Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, sau được tập hợp trong Tổng tập Trần Văn Giàu - tập

3 của Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, năm 2008.

và đưa ra những nhận định, quan điểm về Nguyễn An Ninh như: Nguyễn An

5

Ninh (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh – 1988), Sự tiến hóa liên tục của

Nguyễn An Ninh, một lãnh tụ cách mạng hùng biện (tác giả: Hà Huy Giáp,

Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh – 1989), Nguyễn An Ninh nhà trí thức

yêu nước (Tạp chí Xưa và Nay – 2003), Nguyễn An Ninh – Tôi chỉ làm cơn

gió thổi (tác giả: Nguyễn Thị Minh, Nhà xuất bản Trẻ - 2005)… Về luận văn

nghiên cứu tư tưởng Nguyễn An Ninh, có luận án của Phạm Thị Đoạt với đề tài

Tìm hiểu một số tư tưởng của Nguyễn An Ninh về Phật giáo (1997), luận án của

Lê Thị Mận với đề tài Tư tưởng Nguyễn An Ninh về văn hóa, chính trị và tôn

giáo (2011),... Trong tác phẩm “Lịch sử triết học phương Đông” của tác giả

Doãn Chính, Nguyễn An Ninh được ghi nhận với vai trò “đảm nhận xuất sắc

cuộc đấu tranh trên diễn đàn báo chí, tư tưởng và diễn thuyết nhằm phê phán

phong kiến, thực dân; tuyên truyền tư tưởng dân quyền” [4, tr. 1355]

Sự ra đời của Nguyễn An Ninh – Tác phẩm và Nguyễn An Ninh - Qua hồi

ức của những người thân vào tháng 6 năm 2009 là một điểm nhấn đặc biệt.

Đây là thành quả nỗ lực to lớn của vợ chồng Nguyễn Sơn - Nguyễn Thị Minh

(con rể và con gái của Nguyễn An Ninh) cùng với Trung tâm Nghiên cứu

Quốc học, Nhà xuất bản Văn học và các học giả và chuyên gia tiếng Pháp

trong việc sưu tầm, xử lý, trực tiếp dịch thuật (vì phần lớn các bài viết của

Nguyễn An Ninh đều viết bằng tiếng Pháp). Như lời mở đầu của Mai Quốc

Liên (Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quốc học) trong cuốn Nguyễn An

Ninh – Tác phẩm, “tác phẩm Nguyễn An Ninh, con người Nguyễn An Ninh,

phản chiếu cả một giai đoạn đấu tranh bi tráng của cả đất nước, có phần bị mờ

nhạt trong chúng ta” [22, tr. 8]. Từ đó, tác giả đi đến quan điểm rằng việc tìm

đọc di sản tư tưởng Nguyễn An Ninh “là việc hết sức cần kíp lúc này của văn

hóa, của khoa học xã hội và nhân văn, của chính trị - tư tưởng…” [22, tr. 11].

Nhìn qua tình hình nghiên cứu sơ bộ, tư tưởng Nguyễn An Ninh, xét về

khía cạnh tiểu sử và sự nghiệp, được sự quan tâm của nhiều người, nhiều tác

giả. Nhưng có một thực tế cần nhận thấy ở đây là mỗi tác giả có cách tiếp cận

nghiên cứu về từng khía cạnh riêng rẽ. Mặt khác, vấn đề dân chủ trong quan

6

niệm chính trị của Nguyễn An Ninh chưa được khai thác trong những tác

phẩm nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng của ông. Nghiên cứu hi vọng đóng góp

cách tiếp cận tư tưởng Nguyễn An Ninh trên phương diện tìm hiểu và ghi

nhận vấn đề dân chủ là một trong những trọng tâm tư tưởng của Nguyễn An

Ninh trong những năm 1923 – 1928.

3. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận

3.1. Mục đích Trên cơ sở trình bày, giới thiệu có hệ thống về tư tưởng của Nguyễn An

Ninh về vấn đề dân chủ (1923 – 1928) để từ đó góp phần làm sáng tỏ hơn

những giá trị và hạn chế trong tư tưởng Nguyễn An Ninh.

3.2. Nhiệm vụ

Để đạt tới mục đích nghiên cứu, tác giả đề ra một số nhiệm vụ cụ thể

như sau:

- Phân tích những điều kiện lịch sử - xã hội và tiền đề cho sự hình thành

vấn đề dân chủ trong tư tưởng của Nguyễn An Ninh.

- Phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng của Nguyễn An Ninh

về vấn đề dân chủ.

- Chỉ ra và phân tích những giá trị nổi bật và hạn chế chủ yếu trong tư

tưởng của Nguyễn An Ninh về vấn đề dân chủ.

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Nghiên cứu dựa trên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật

lịch sử, tư tưởng triết học chính trị về dân chủ của phương Tây và phương

Đông.

4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu

7

Khóa luận chủ yếu sử dụng phương pháp biện chứng duy vật trong triết

học Marx – Lenin và phương pháp nghiên cứu lịch sử triết học kết hợp với

một số phương pháp nghiên cứu khoa học như phân tích – tổng hợp, lịch sử -

cụ thể, khái quát hóa, trìu tượng hóa, v.v.

5. Ý nghĩa của khóa luận

Thông qua quá trình nghiên cứu tư tưởng của Nguyễn An Ninh về vấn đề

dân chủ, khóa luận góp phần làm sáng tỏ hơn những nội dung trong tư tưởng ấy

của ông cùng những giá trị và hạn chế của nó. Khóa luận có thể là tài liệu phục

vụ cho việc học tập, nghiên cứu tư tưởng Việt Nam đầu thế kỉ XX.

6. Kết cấu

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội

dung của khóa luận gồm có 02 chương, 06 tiết.

8

NỘI DUNG

CHƢƠNG 1: TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG CỦA

NGUYỄN AN NINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN CHỦ

1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội cho sự hình thành tư tưởng của Nguyễn An

Ninh về vấn đề dân chủ

1.1.1. Điều kiện lịch sử - xã hội thế giới

Lịch sử thế giới giai đoạn 1923 – 1928 đã chứng kiến những thay đổi to

lớn, tập trung và ảnh hưởng mạnh nhất là lĩnh vực chính trị và lĩnh vực kinh

tế. Sau khi trải qua giai đoạn Phát kiến địa lý (thế kỷ XV- thế kỷ XVI) và

Cách mạng tư sản (thế kỷ XVII - thế kỷ XVIII), chủ nghĩa tư bản phương Tây

bắt đầu chuyển từ tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc, tiến tới xác lập hệ

thống trên toàn thế giới với sự ra đời của các công ty độc quyền. Điều này,

theo Nguyễn Hiến Lê và Thiên Giang, dẫn tới chính sách nhất quán của các

nước lớn ở châu Âu: “trong nước thì khuyến khích kĩ nghệ, ngoài nước thì

kiếm thuộc địa” [16, tr. 663]. Sự phát triển chủ nghĩa tư bản châu Âu những

năm 70 – 80 thế kỷ XIX (qua Cách mạng công nghiệp) không đồng bộ với

những thay đổi xã hội theo hướng tự do, dân chủ. Mặt bằng chính sách của

những nước thực dân châu Âu là đi xâm chiếm thuộc địa (để mở rộng thị

trường), biến thuộc địa thành “một đất thực dân” và tiến hành “bóc lột các dân

bản xứ (…) một cách triệt để” [16, tr. 664].

Từ sau cách mạng tháng Mười Nga (1917), các phong trào cách mạng tự

do – dân chủ xuất hiện các lực lượng ủng hộ chủ nghĩa xã hội và tư tưởng

cách mạng cánh tả, bên cạnh phong trào của các đảng phái tự do truyền thống2. V.I.Lenin đã viết đây là thời kì “Châu Á thức tỉnh” bởi “hàng trăm

triệu người bị áp bức, bị giam hãm tối tăm trong trạng thái trì trệ thời trung

2 Châu Âu có các cuộc cách mạng bùng nổ ở Phần Lan (1918), Hungary (10/1918), Đức (11/1918)... sau khi trật tự thế giới cũ đã tan vỡ khi Chiến tranh thế giới lần nhất kết thúc. Giai đoạn 1923 – 1928 ghi nhận làn sóng đấu tranh ở Mỹ (phong trào đấu tranh của công nhân do Đảng Cộng sản Mỹ, thành lập năm 1921, lãnh đạo),

Argentina (cao trào bãi công năm 1919), Brazil (với Cách mạng Tenente 1924 do nhóm binh sĩ, sinh viên, công nhân lãnh đạo),….Châu Phi chứng kiến cuộc đấu tranh

của nhân dân Ai Cập (1918 – 1923), phong trào cải cách Hiến pháp ở Tunisia (1920 – 1922),…

cổ, đã thức tỉnh và bước vào một cuộc sống mới, vào cuộc đấu tranh giành

9

những quyền sơ đẳng nhất của con người, giành dân chủ” [14, tr. 187]. Phong trào Ngũ Tứ (4/5/1919)3 ở Trung Quốc đã tạo nên hiệu ứng của một phong

trào dân tộc chủ nghĩa Trung Hoa tập hợp các nhóm chính trị - xã hội với

nguyện vọng tự do – dân chủ - dân tộc. Thành công của chiến tranh Bắc phạt (1926 - 1928)4 kết thúc thời kì quân phiệt Trung Hoa và phong trào Bất hợp tác (Swaraj) ở Ấn Độ (1919 – 1922)5 đã ảnh hưởng lớn đến suy nghĩ và hành

động của Nguyễn An Ninh, khi hai quốc gia châu Á này đều giành được

thành công trong quá trình đấu tranh dân tộc – dân chủ. Thắng lợi của Hồng

quân Nga trong cuộc Nội chiến (1918 – 1922) và những thành quả đạt được

của nước Nga Soviet sau chiến tranh (với Chính sách Kinh tế Mới – NEP do

V.I.Lenin đề xuất) đã củng cố tiềm lực của nhà nước cộng sản đầu tiên trên

thế giới và thúc đẩy sự ra đời của nhà nước Liên Xô, gây ảnh hưởng lớn tới

các phong trào chính trị - xã hội đối với nhân loại cũng như các dân tộc thuộc

địa.

Hệ quả của những biến đổi to lớn của tình hình thế giới đầu thế kỷ XX

đó là sự xuất hiện của phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Á – Phi

– Mỹ Latin trên vũ đài chính trị thế giới, tạo nên những dư chấn mạnh mẽ

ngay trong lòng hệ thống thuộc địa của các nước tư bản phương Tây. Sự xuất

hiện các luồng tư tưởng như chủ nghĩa Tam dân (do Tôn Trung Sơn đề

xướng), chủ trương Bất bạo động (do Mahatma Gandhi đề xướng), chủ nghĩa

xã hội (gia tăng ảnh hưởng từ sau Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917)…

“đã tác động trực tiếp đến việc lựa chọn con đường cách mạng của các nhà tư

tưởng chính trị ở Việt Nam, nhất là đầu thế kỷ XX” [8, tr. 1251].

3 Cùng với sự kiện Ngũ Tứ của Trung Quốc là phong trào Tam Nhất (1/3/1919) ở bán đảo Triều Tiên, đưa cuộc đấu tranh

giành độc lập của Triều Tiên sang giai đoạn mới.

4 Dưới sự lãnh đạo của chính phủ Quốc dân (nòng cốt là liên minh Quốc dân đảng – Đảng Cộng sản Trung Quốc), chiến tranh Bắc phạt diễn ra với quy mô lớn và xóa bỏ ảnh hưởng của các quân phiệt, thiết lập nền cộng hòa và ổn định tình hình Trung Quốc. 5 Phong trào Bất hợp tác được triển khai dưới sự lãnh đạo của Đảng Quốc đại và sự tham gia của các lực lượng xã hội

khác. Trong đó có những nhóm nhà hoạt động cấp tiến ủng hộ chủ nghĩa xã hội, trở thành tiền thân cho sự ra đời Đảng

Cộng sản Ấn Độ năm 1925.

1.1.2. Điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam

10

Từ khi thực dân Pháp và triều Nguyễn ký kết Hiệp ước Harmand (1883)

và Hiệp ước Patenôtre (1884), Việt Nam trở thành nước thuộc địa, chịu sự

thống trị của thực dân Pháp. Nền chính trị độc lập, tự do của Việt Nam bị xâm

hại bằng chế độ chia để trị. Học giả Nguyễn Xuân Thọ viết: “rất lâu trước khi

người Pháp đến, Việt Nam là một quốc gia thống nhất, có nền tảng vững

vàng. Từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, có một dân tộc Việt Nam, hoàn toàn

thuần nhất, chỉ nói một thứ tiếng như nhau, có phong tục tập quán như nhau.

Nếu nhà cầm quyền Pháp đã chia đất nước ra làm ba “kỳ”, đó không chỉ vì

tiện lợi về hành chánh, mà chủ yếu nhằm mục đích “chia để trị” [32, tr. 22].

Nếu cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 - 1914), xã hội Việt

Nam xuất hiện “sự phân hóa xã hội sâu sắc và mạnh mẽ ở cả nông thôn lẫn

thành thị” [13, tr. 136], kinh tế Việt Nam đã hình thành tính chất thuộc địa rõ

rệt [13, tr. 152] thì cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919 – 1929) làm cho

bộ mặt kinh tế - xã hội Việt Nam trải qua nhiều thay đổi. Việc thực dân Pháp

gia tăng tốc độ tiến hành khai thác nhanh để tận lực thu nguồn lợi mang về

chính quốc khiến xã hội Việt Nam chứng kiến sự lớn mạnh về số lượng cũng

như trình độ của công nhân, tư sản, tiểu tư sản,… đồng thời chứng kiến sự va

chạm, mâu thuẫn giữa những di sản truyền thống và sự du nhập ồ ạt của văn

hóa Pháp.

Từ sau Thế chiến I (1918) đến năm 1928, tình hình Việt Nam diễn ra

những diễn biến mới. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919 – 1929) đã

làm cho bộ mặt kinh tế - xã hội Việt Nam trải qua nhiều thay đổi. Với tốc độ

tiến hành khai thác nhanh để tận lực thu nguồn lợi mang về chính quốc, thực

dân Pháp tăng cường khai thác mỏ, mở rộng hệ giao thông - vận tải cũng như

thiết lập hệ thống đồn điền, các cơ sở công nghiệp nhẹ,… nhiều hơn so với

trước nhưng vẫn còn manh mún, rải rác, thậm chí còn lấn át và cạnh tranh

những ngành nghề kinh tế truyền thống. Ngân hàng Đông Dương (tiếng Pháp:

Banque de l'Indochine, viết tắt BIC) được chính phủ Pháp đẩy mạnh hoạt

động và nguồn lực tài chính, giúp tư bản Pháp kiểm soát hoàn toàn thị trường

11

Đông Dương cũng như Việt Nam, gây khó dễ cho tư sản Việt Nam bằng

những chính sách áp chế và tăng thuế lớn.

Mối tương quan giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở Việt Nam

sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918) đã nảy sinh những yếu tố

mới. Xã hội Việt Nam chứng kiến sự lớn mạnh về số lượng cũng như trình độ

của công nhân, tư sản, tiểu tư sản,… Sự hình thành đô thị và các trung tâm, cơ

sở kinh tế dẫn tới việc thúc đẩy vai trò lớn hơn của giai cấp công nhân và giai

cấp tư sản trong mô hình kinh tế thuộc địa có yếu tố tư bản chủ nghĩa ở Việt

Nam. Với lực lượng hơn 221.050 người [13, tr. 306] và “tập trung tại các cơ

sở kinh tế yết hầu của tư bản Pháp” [13, tr. 306], giai cấp công nhân Việt

Nam từng bước khẳng định vai trò và khả năng của mình với tư cách là lực

lượng lao động sản xuất của nền kinh tế thuộc địa và cũng là lực lượng có

tiềm lực cách mạng cho các cuộc đấu tranh chống thực dân. Bên cạnh giai cấp

tư sản với thế lực kinh tế mạnh gồm “ngành dệt, xay xát, sửa chữa cơ khí, mỏ

than, đồn điền cao su” [13, tr. 304] tầng lớp tiểu tư sản của thời kì trước

Chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã phát triển cùng với sự mở mang của các

đô thị với lực lượng tương đương 600.000 người vào năm 1929 [13, tr. 308 –

309]

Những va chạm, mâu thuẫn giữa những di sản truyền thống và sự du

nhập ồ ạt của văn hóa Pháp dẫn tới những xung đột ngày càng quyết liệt. Sự

phân hóa xã hội trở nên sâu sắc: “địa chủ thì giàu lên nhanh chóng, còn đại đa

số nông dân thì rơi vào cảnh nghèo đói, bần cùng” [13, tr. 311]. Nền giáo dục

mà giới chức thực dân Pháp tổ chức ở Việt Nam không thể giấu được một

thực tế đè nén lên mọi cơ hội tiếp nhận tri thức và thực hành của dân tộc Việt

Nam: “hàng ngàn thanh niên bị một hệ thống nhà trường “bỏ rơi”; vào lúc cực

thịnh hệ thống này chỉ thu nhận một phần tư (1/4) đến một nửa (1/2) số dân ở

độ tuổi đi học (...) Sự liên kết tất cả những hiện tượng tiêu cực do SEC đưa

vào đã làm cho nó mất đi, trong con mắt của dân chúng, tính chính đáng với

12

tư cách thiết chế sư phạm để cuối cùng chỉ được cảm nhận như công cụ thống

trị trong tay người nước ngoài” [29, tr. 386]

Chủ trương “Pháp - Việt đề huề” do Albert Sauraut đề xướng gây nên

những luồng ý kiến khác nhau trong phong trào chính trị đương thời. Lực

lượng quốc gia cải lương gồm Đảng Lập hiến (đại diện gồm Bùi Quang

Chiêu, Nguyễn Phan Long,…), Nguyễn Văn Vĩnh với chủ trương Trực trị,

Phạm Quỳnh với chủ trương Quân chủ lập hiến,…có những mức độ nhất định

đối với chủ trương này. Đối lập với xu hương quốc gia cải lương là xu hướng

dân chủ cách mạng với sự xuất hiện của các trí thức Tây học trẻ tuổi như Trần

Huy Liệu, Cao Văn Chánh, Nguyễn Văn Bá, Tôn Quang Phiệt, Bùi Công

Trừng, Trần Hữu Độ,…

Nhờ đó, môi trường chính trị Việt Nam không còn dừng ở mức độ của

các tổ chức, phong trào được triển khai theo thể thức hoạt động bí mật như

Duy tân hội, Việt Nam Quang phục hội hay lực lượng Hội kín ở miền Nam

(tiêu biểu là Thiên Địa hội, với cuộc khởi nghĩa năm 1916). Ý thức xã hội của

quần chúng nhân dân tại các đô thị và những khu vực cận biên đô thị phát

triển mạnh mẽ, nhờ vai trò ngày càng tăng của hệ thống in ấn, truyền thông và

lực lượng chính trị đối lập (gồm cả cách mạng lẫn ôn hòa) chống thực dân.

Điều này dẫn tới quá trình ra đời, chuyển biến từ các tổ chức chính trị - xã hội

như Đảng Thanh niên (1926), Hội Hưng Nam, Tâm tâm xã, Tồn Việt thư

xã,… đến sự ra đời của Hội Việt nam Cách mạng Thanh niên (1925), Tân

Việt Cách mạng đảng (1925) và Việt Nam Quốc dân đảng (1927). Bên

cạnh đó, là sự hình thành, phát triển của phong trào công nhân đấu tranh

theo khuynh hướng vô sản. Từ chỗ đấu tranh tự phát (trước Thế chiến I cho

đến năm 1924), phong trào công nhân chuyển sang tự giác với thắng lợi

của cuộc bãi công tại xưởng Ba Son (09/1925) và ngày càng phát triển với

vị thế của lực lượng chính trị độc lập trong phong trào chống thực dân cho

đến năm 1928. Tất cả các tổ chức, diễn biến nêu trên đều là một sự thách

13

thức đối với tính chất phi dân chủ, suy thoái nghiêm trọng của chế độ thuộc

Chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc đã nô dịch các dân tộc nhược

địa, của mô thức tồn tại xã hội hiện diện trên đất nước Việt Nam.

tiểu, biến vấn đề dân chủ thành nhu cầu cấp bách của nhân dân và mang tính

sống còn đối với tầng lớp trí thức yêu nước ở các thuộc địa. Sự bùng nổ của

các phong trào đấu tranh phản đế phản phong cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX

mà đỉnh cao là cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 là minh chứng

cho khát vọng tự do lớn lao này. Ở Việt Nam, sang tới đầu thế kỷ XX, mâu

thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp đã trở nên gay gắt.

Vấn đề dân chủ mà trước hết và trên hết là hệ giá trị dân chủ cho dân tộc đã

trở thành nguồn gốc cho sự bùng phát mạnh mẽ các phong trào đấu tranh với

những con đường, phương thức khác nhau. Điều đó tác động lớn đến tư tưởng

và hành động của các nhà yêu nước Việt Nam, trong đó không thể không kể

đến Nguyễn An Ninh và tư tưởng của ông. Chàng trai trẻ Nguyễn An Ninh đã

mang trong mình khát vọng tự do đó khi bước ra thế giới trong chuyến viễn

du kiến thức của mình. Chính những điều mắt thấy tai nghe về tình hình thế

giới và sự đối chiếu với thực tế cùng khổ của người dân thuộc địa đã đưa ông

đến những nhận thức mới về vấn đề dân chủ, đặc biệt là về mối quan hệ giữa

sự rao giảng dân chủ tư sản và hiện thực dân chủ ở xứ thuộc địa An Nam.

1.2. Tiền đề hình thành tƣ tƣởng chính trị Nguyễn An Ninh

1.2.1. Một số luận giải của tư tưởng phương Đông về dân chủ

Giá trị dân chủ đã tồn tại và hiện diện trong chiều dài lịch sử tư tưởng

Việt Nam nói riêng cũng như lịch sử Việt Nam nói chung. Mặc dù phải đối

diện một thực tế đầy khó khăn rằng thời gian hòa bình thật hiếm hoi khi so

sánh với thời gian trải qua thời chiến, tự do là một phần không thể thiếu trong

những di sản vật chất và tinh thần được xây dựng nên bởi nhiều thế hệ người

Việt Nam, định hình nên dân tộc tính Việt Nam. Xuất phát từ thực trạng như

14

vậy, những luận giải sơ lược của tư tưởng phương Đông về dân chủ đã có ảnh

hưởng tới Nguyễn An Ninh sâu sắc.

Thông qua tư liệu khảo cổ học, thần thoại và sử học, nhà nghiên cứu

Nguyễn Đăng Thục đánh giá ý thức đoàn thể dân tộc gắn với tính thiêng của

tự nhiên (thông qua vật tổ và thờ thần linh) [33, tr. 41]. Nguyễn Đăng Thục đã

Comment [L1]: Nguyễn Đăng Thục (1964). Tư tưởng Việt Nam – Tư tưởng triết học bình dân. Nhà sách Khai Trí.

nhận định điểm đặc biệt trong cổ sử Việt Nam về sự hình thành ý chí dân tộc

dẫn đến sự lựa chọn của quần chúng nhân dân đối với người mang trọng trách

lãnh đạo. Điều quan trọng nhất là “người lãnh đạo ấy cũng phải coi thiên hạ

quốc gia là của chung, chứ không phải của riêng một nhà, một họ” [33, tr.

Comment [L2]: Nguyễn Đăng Thục (1964). Tư tưởng Việt Nam – Tư tưởng triết học bình dân. Nhà sách Khai Trí.

42]. Nhà sử học Phan Huy Lê cùng đồng nghiệp đã phân tích tính chia sẻ về

giá trị chung thông qua hình ảnh người nữ, người nam khắc trên mặt trống

đồng Đông Sơn cầm các loại nhạc cụ, nhảy múa cùng muông thú, đất trời đã

“phản ánh cuộc sống hiện thực của con người mối quan hệ giữa con người với

thế giới xung quanh, bằng một phong cách diễn tả sinh động (…) với những

đường nét mang tính chất cách điệu, ước lệ, và với một bố cục cân xứng, hài

hòa.” [17, tr. 166 – 167]

Về một khía cạnh khác, yếu tố dân chủ trong lịch sử Việt Nam được xem

xét theo cách tiếp cận kinh tế - xã hội. Trên cơ sở phân tích những chuyển

biến lịch sử Việt Nam thời kì hậu khởi nghĩa Hai Bà Trưng, nhà nghiên cứu

lịch sử Lê Văn Siêu đánh giá xã hội bấy giờ manh nha tinh thần dân chủ trong

môi trường sinh hoạt – sản xuất ở các làng xã người Việt. Sự thất bại của cuộc

khởi nghĩa Hai Bà Trưng đánh dấu sự chấm dứt của một chính quyền độc lập

ngắn ngủi, chưa kịp quy định các thành tố cấu tạo nên cơ sở hạ tầng và kiến

trúc thượng tầng phù hợp. Điều này dẫn tới sự thiếu hụt trầm trọng lực lượng

sản xuất và những thửa ruộng đất biến thành ruộng đất công (gồm công điền

và công thổ). Việc phân công lao động trong làng xã của người Việt đã dẫn

tới sự bình đẳng cho cả người có tài sản hay không tài sản, khi được quy định

rằng cả hai loại người này đều có “quyền hưởng hoa lợi như nhau bằng việc

canh tác những ruộng đất ấy [27, tr. 202].

Comment [L3]: Lê Văn Siêu (2003). Việt Nam văn minh sử - Lược khảo. Tập Thượng: Từ nguồn gốc đến thế kỉ thứ X. Nhà xuất bản Lao động.

15

Lê Văn Siêu dẫn chứng sự phân chia ruộng công ở làng Hạ Lỗ, phủ Từ

Sơn, Bắc Ninh cho thấy dấu vết dân chủ thể hiện ngay trong cách tổ chức

canh tác với mỗi mảnh ruộng khác nhau, ứng với mỗi chức năng khác nhau để

phục vụ lợi ích chung, “lấy hoa lợi dùng vào việc thờ cúng” [27, tr. 202].

Comment [L4]: Lê Văn Siêu (2003). Việt Nam văn minh sử - Lược khảo. Tập Thượng: Từ nguồn gốc đến thế kỉ thứ X. Nhà xuất bản Lao động.

Điều này có sức ảnh hưởng lâu dài, đặc biệt đối với toàn bộ nỗ lực đánh giá

bản chất làng xã Việt Nam, xã hội Việt Nam. Và đây cũng là hiện trạng mà

Nguyễn An Ninh làm rõ qua những phân tích của ông về tính dân chủ ổn định

trong làng xã Việt Nam, phản bác toàn bộ nỗ lực ngụy văn minh của giới cầm

quyền thực dân về việc Việt Nam chỉ tồn tại những hỗn loạn trước khi quân

Pháp đến làm công cuộc “khai hóa”.

Vấn đề dân chủ trong tư tưởng Việt Nam chưa có những hệ thống lập

thuyết, quan điểm trực tiếp và mang tính chỉnh thể của các luận đề có tính liên

kết. Không gian xã hội và biến động đặc điểm lịch sử phương Đông đã tác

động tới Việt Nam rất lớn. Yếu tố mang tính hài hòa, dung thông không

những gắn với lịch sử dân tộc và văn hóa, mà còn có sự biểu hiện dưới dạng

giá trị dân chủ với tư cách cá nhân. Đối với trường hợp thơ văn và cuộc đời

của Hồ Xuân Hương, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đánh giá Hồ Xuân

Hương là nhà thơ dân chủ nhất trong số các nhà văn – nhà thơ cùng thời.

“đem vào văn học cả tinh thần thế giới quan của văn hóa dân gian lẫn những

phương tiện ngôn ngữ đặc thù của nó” [40, tr. 7], dù rằng nó “không giành

được ưu thế chủ đạo, nhưng không hề bị triệt tiêu khỏi văn học dân tộc” [40,

tr. 7].

Trên phương diện pháp luật, vấn đề dân chủ đã được thể hiện thông qua

các điều luật, quy định hình sự, dân sự trong luật Hồng Đức. Đây là bộ luật

được biên soạn dưới thời vua Lê Thánh Tông, trở thành tư liệu pháp luật

thành văn có tính chất tiến bộ và nhân bản trên phương diện đảm bảo các

quyền cơ bản trong xã hội Hậu Lê: “tất cả những hành động xâm phạm đến

nhân phẩm con người, như con cháu chửi mắng, đánh đập ông bà cha mẹ; anh

em, vợ chồng đánh đập, chửi mắng, lăng mạ, làm nhục nhau (các điều từ 473

16

đến 476,…); các hành vi tố cáo, vu khống không đúng sự thật và trái quy định

(từ điều 501 đến điều 505); việc quan lại quấy nhiễu ức hiếp dân (điều 164);

tự tiện bắt bớ, giam cầm người vô tội (điều 636); phạm nhân không đáng

gông cùm mà gông cùm (điều 658); vô cớ đánh đập tù nhân (điều 707); đánh

chết hay bức tử người tù (điều 682); tra tấn tù nhân tuổi cao và vị thành niên

(điều 665); không chăm sóc tù nhân (điều 663); xử tội không đúng tội danh và

theo luật quy định (điều 679),… đều bị pháp luật nghiêm trị. Đặc biệt, bộ luật

này còn đưa ra những quy định cấm “Các tước vương công và nhà quyền quý

tự tiện thích chữ vào dân đinh” (điều 168), cùng tất cả những ai tự tiện thích

chữ vào mặt vợ, con trai, con gái người khác và nô tỳ, người ở đợ (các điều

165, 168, 365); trị tội những tên quan lại và những người lợi dụng quyền thế

mà ức hiếp lương dân, bắt ép để lấy con gái người dân (điều 336, 338); tự tiện

bắt dân đinh làm đày tớ (điều 302); cấm người ngoài nài ép người vợ muốn

thủ tiết với chồng đi lấy người khác (điều 320) và tất cả những hành động

gian dâm (từ điều 401 đến điều 410 chương Thông gian), v.v.. Đáng lưu ý là,

các điều 401, 403, 404, 406 quy định, những hành động vi phạm nghiêm

trọng nhân phẩm con người, như hiếp dâm (kể cả gian dâm với trẻ em từ 12

tuổi trở xuống đều xếp vào tội hiếp dâm), loạn luân (gian dâm trong nội bộ

gia đình, gia tộc) đều bị trừng trị với hình phạt rất nặng: lưu, chém” [38, tr. 4]

Dân chủ ở xã hội phương Tây đã trải qua quá trình nhận thức tự do trải

từ thời kì các nền văn minh cá nhân đến cận – hiện đại, triết lý phương Đông

có những dấu ấn lặng lẽ trong những tác phẩm còn lưu lại tới ngày nay. Tư

tưởng của Trang Tử trong Nam Hoa Kinh được đánh giá là sơ khai của một

trạng thái dân chủ trên phương diện tự do cá nhân đạt được từ việc thấu đạt

nhận thức tự chủ về bản tính và tri thức. Nhà nghiên cứu lịch sử triết học

Phùng Hữu Lan nhận định về ý nghĩa của tư tưởng Trang Tử trong thiên Tiêu

Diêu Du, tác phẩm Nam Hoa Kinh như sau: “Thiên đầu sách Trang Tử nhan

đề Tiêu Diêu Du, là một thiên giản dị, gồm nhiều câu chuyện vui. Tư tưởng

tiềm tàng là có nhiều mức độ khác nhau trong sự đạt hạnh phúc. Sự phát triển

17

tự do bản tính mọi người có thể dẫn ta đến một thứ hạnh phúc tương đối;

muốn có hạnh phúc tuyệt đối, phải có một hiểu biết cao về bản chất sự vật”

[Dẫn theo: 9, tr. 90]

Ảnh hưởng của đấng sinh thành, cũng như truyền thống gia đình và quê

hương đã tác động đến Nguyễn An Ninh ngay từ thuở thiếu thời. Không khí

của phong trào Minh tân Nam Kì (lấy ý từ câu Minh đức tân dân), mà Nguyễn

An Khương – thân phụ của Nguyễn An Ninh và là một trong những thành

viên cốt cán trong phong trào, đã giúp Nguyễn An Ninh thấu cảm tinh thần

dân chủ. Điều đó không chỉ đơn thuần là ý thức của biết bao thế hệ người Việt

thể hiện trong lối sống đối nhân xử thế, cầu học cầu tài mà còn là sự khát

khao làm chủ vận mệnh cá nhân. Khi Nguyễn An Ninh còn nhỏ, ông cảm tác

mấy câu sau: “Xích xiềng rèn đúc tự bên Tây/Cớ sao đem tới nước Nam

này/Để ta phải chịu chân cùm trói/Chừng nào tháo được xích xiềng đây?” [21,

tr. 106]. Ý thức về dân chủ, tự do, dân tộc đã hình thành trong Nguyễn An

Ninh từ những năm tháng thiếu thời và quyết định lựa chọn của ông trong

suốt phần đời còn lại. Ông cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc quan điểm “Dân vi

quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” của Mạnh Tử, như một cơ sở quan trọng

cho quá trình ông nhận thức thực trạng và vai trò của quần chúng nhân dân

trong một xã hội Việt Nam thuộc địa cần những thay đổi lớn mạnh về thực

chất hơn là những khẩu hiệu ngụy dân chủ.

1.2.2. Tư tưởng dân chủ tư sản

1.2.2.1. Dấu ấn dân chủ trong những Tân văn, Tân thư của học giả Trung

Quốc – Nhật Bản

Tư tưởng dân chủ tư sản là hệ tư tưởng chi phối và khởi động hàng loạt

những thay đổi tiên phong, đa dạng trong lịch sử Việt Nam đầu thế kỉ XX. Nó

đã có một nhận dạng lập thuyết ảnh hưởng mạnh mẽ từ bối cảnh lịch sử đầy

thách thức của Việt Nam. Nó xuất hiện và phát triển do sự suy thoái tịnh tiến

tới thất bại tất yếu của hệ tư tưởng phong kiến ở Việt Nam trong cuộc đối đầu

18

trực diện với sự phát triển của chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước Pháp trong

hình hài của giai đoạn thực dân. Thời gian nội chiến kéo dài và chính sách

bế quan tỏa cảng đã càng làm suy yếu cơ sở hạ tầng trong xã hội Việt

Nam, khiến người Việt Nam bị đóng khung và đối diện với hiện trạng bất

công, suy yếu của chế độ phong kiến đương thời. Với việc Việt Nam trở

thành thuộc địa qua Hiệp ước Harmand 1883 và thất bại của phong trào

Cần vương vào năm 1896, hệ tư tưởng phong kiến đã thực sự suy sụp

hoàn toàn và bộc lộ rõ những hạn chế đã tồn tại trong thời gian dài, chưa

từng được giải quyết triệt để.

Giáo sư Trần Văn Giàu nhận thấy điều đặc biệt ở đây là đối tượng tiếp

nhận tư tưởng dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX không phải là giai cấp tư sản

“mà là những nhà chí sĩ Nho giáo xuất thân từ nền học cổ truyền, đồng thời

tiếp nối trực tiếp một phong trào kháng Pháp có truyền thống” [8, tr. 446]. Họ

đón nhận tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây qua các tác phẩm mà trong lịch

sử Việt Nam được gọi là những “Tân văn”, “Tân thư” viết bởi những nhà tư

tưởng cấp tiến ở Nhật Bản (như Fukuzawa Yukichi – Phúc Trạch Dụ Cát,

Takayama Rinjiro) và Trung Quốc (như Nghiêm Phục, Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi)6. Chính từ môi trường gia đình gắn bó với phong trào Minh

tân Nam Kì đã giúp Nguyễn An Ninh tiếp cận nội dung về dân chủ trong

khuynh hướng dân chủ tư sản của phong trào yêu nước bấy giờ.

1.2.2.2. Tư tưởng Jean – Jacques Rousseau về dân chủ

Nguyễn An Ninh chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ triết học Khai sáng Pháp

và đặc biệt là quan điểm của Jean – Jacques Rousseau về dân chủ. Bản thân

Nguyễn An Ninh từng trực tiếp trích dịch tác phẩm “Khế ước xã hội” của

Rousseau dưới tiêu đề “Dân ước”, như một minh chứng cho những tiếp cận

6 Xem thêm trong bài viết “Tân văn - Tân thư và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng yêu nước ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX”, tác giả Lê Thanh Bình

của ông đối với tư tưởng dân chủ của Rousseau. Xét về nguồn gốc tư tưởng

19

Rousseau là triết học Pháp, nó hình thành sự kết nối tự do với bình đẳng và

bác ái trên cơ sở quan niệm về con người là một thực thể của tự nhiên, “mọi

đặc điểm và nhu cầu của nó đều mang tính vật chất và do tự nhiên quy định,

còn trí tuệ, lương tri thể hiện là “ánh sáng của tự nhiên” [10, tr. 205 – 206].

Comment [L5]: Đỗ Minh Hợp (2014). Lịch sử triết học phương Tây. Tập 2: Triết học phương Tây cận hiện đại. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia

Trong khi nhiều nhà tư tưởng Khai sáng Pháp không để tâm đến mâu

thuẫn giữa trạng thái tự nhiên với xã hội, thì Jean Jacques Rousseau đã thể

hiện sự quan tâm vấn đề này. Ông nhận thấy sự bất cập của các khế ước tự do

khởi thủy, ở phương diện quyền lực bị chiếm lĩnh bởi những cá nhân có sức

mạnh và tiền tài. Ông chủ trương xây dựng khế ước xã hội mang tính chất

cộng hòa, xác lập sự tự do của quần chúng nhân dân và khẳng định “chủ

quyền không tước đoạt được và không phân chia được của nhân dân” [10, tr.

212].

Comment [L6]: Đỗ Minh Hợp (2014). Lịch sử triết học phương Tây. Tập 2: Triết học phương Tây cận hiện đại. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia

Với khế ước xã hội làm phương tiện trung gian, con người không còn

đứng ngoài chỉnh thể xã hội mà trở thành một phần quan trọng đối với sự vận

động của nó trong khi vẫn đảm bảo quyền tự do của mình. Từ đó, Rousseau

đã đưa ra mô hình dân chủ đại nghị - “chính quyền do các viên chức được dân

lựa chọn dựa trên khả năng được cho là xuất chúng và phù hợp của họ” [36,

tr. 212]. Rousseau cảnh báo tình trạng dễ xảy ra trong chế độ dân chủ, là

Comment [L7]: Will và Ariel Durant (2015). Jean – Jacques Rousseau. Dịch bởi Bùi Xuân Linh, hiệu đính và giới thiệu bởi Bùi Văn Nam Sơn. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

“trong khi luôn phải lưu ý về việc “không có gì nguy hiểm hơn ảnh hưởng của

các lợi ích riêng trong việc công, và sự lạm dụng luật pháp bởi chính quyền ít

tai hại hơn sự thối nát của người làm luật, sự thối nát này là hậu quả không

thể tránh được khi người làm việc công lại theo đuổi tư lợi” [25, tr. 121].

1.2.2.3. Tư tưởng Mahatma Gandhi và Tôn Trung Sơn về dân chủ

Nguyễn An Ninh chịu ảnh hưởng mạnh mẽ tư tưởng dân chủ của

Mahatma Gandhi và Tôn Trung Sơn, dựa trên nền tảng cảm nghiệm thực tế

ngay từ chính những tháng năm học tập và hoạt động yêu nước tại Pháp. Ông

không những trực tiếp tìm đọc tác phẩm của các nhà tư tưởng tự do – dân chủ

thuộc trào lưu Khai sáng như Voltaire, Rousseau, Montesquieu,… mà còn trải

nghiệm cộng tác với các tờ báo như “Le Libertaire”, “Europe”7 cũng như

20

chứng kiến không khí chính trị - xã hội nước Pháp và châu Âu.

Nhờ vậy, Nguyễn An Ninh đánh giá và cảm nghiệm những giá trị tự do,

dân chủ tác động đến lịch sử xã hội phương Tây và nhân loại. Không dừng ở

đó, ông hướng về Mahatma Gandhi và Tôn Trung Sơn như hình mẫu của hai

trí thức thuộc địa ở châu Á đương định hình tư tưởng, hoạt động đấu tranh

dân chủ gắn chặt với tình trạng phong trào độc lập dân tộc ở Ấn Độ và Trung

Quốc.

Tinh thần dân chủ của Mahatma Gandhi với tư tưởng Bất bạo động đã

ảnh hưởng lớn đến giai đoạn đầu trong hoạt động chính trị - xã hội của

Nguyễn An Ninh. Trong thời gian này, ông chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng

Bất bạo động của Mahatma Gandhi và phong trào đấu tranh ở Ấn Độ, luôn

thể hiện sự khâm phục và ngưỡng mộ trước cuộc đấu tranh của nhân dân Ấn

Độ chống sự cai trị hà khắc của thực dân Anh. Nguyễn An Ninh từng tâm sự

rằng: “Nhiều đêm không ngủ được, tôi luôn nghĩ đến Gandhi, người đấu tranh

không mệt mỏi cho nền độc lập của Ấn Độ ngay trên nước Ấn Độ” [21, tr.

120]. Đặc điểm cuộc đấu tranh dân chủ trong quan điểm của Gandhi, được

Nguyễn An Ninh nêu rõ là một cuộc đấu tranh “dạy chúng ta phải đương đầu

bằng một cuộc chống đối thụ động, nhưng phải ngẩng cao đầu để chứng tỏ

rằng chúng ta có nhận thức đầy đủ về giá trị con người” [22, tr. 415]. Bên

cạnh đó, Gandhi đã đưa ra cách nhìn nhận của ông lựa chọn hình thức đấu

tranh dân chủ bằng sức mạnh bạo lực như một lựa chọn ý thức luân lý – trách

nhiệm cho nỗ lực xóa bỏ mọi nỗ lực đàn áp của chế độ tàn bạo. Điều này

được Nguyễn An Ninh trích dẫn qua hai quan điểm của Gandhi: một là “ở

đâu, mà sự lựa chọn giữa sự hèn nhát và bạo lực, tôi khuyên nên dùng bạo

lực” [22, tr. 415]; hai là “Tôi thích thấy nước Ấn Độ được tự do bằng bạo lực,

7 “Europe” là tờ báo quy tụ nhiều tác giả nổi tiếng như Romain Rolland, Louis Aragon, Rabindranath Tagore,...

còn hơn bị xích lại bởi bạo lực của bọn thống trị” [22, tr. 415].

21

Ngoài ra, Nguyễn An Ninh có sự tìm hiểu và đánh giá cao hoạt động của

Tôn Trung Sơn và giá trị thực tiễn của chủ nghĩa Tam dân trong chính hoạt

động đấu tranh dân tộc – dân chủ của Trung Hoa Quốc dân đảng. Điều này

được thể hiện trong loạt hai bài viết “Kinh nghiệm Quốc dân đảng” đăng trên

tờ báo L’Annam lần lượt vào ngày 27/01/1927 và ngày 07/02/1927. Tư tưởng

dân chủ của Tôn Trung Sơn nói riêng và của Trung Hoa Quốc dân đảng (tiền

thân là tổ chức Trung Hoa Đồng minh hội) luôn đặt điểm nhìn dân chủ vào

chính thực tiễn của Trung Quốc, đặt ra mục tiêu kiên định về việc nhận “sứ

mạng cho mình là hoạt động để giải phóng và làm hồi sinh dân tộc” [22, tr.

576]. Dân chủ, trong quan điểm của Tôn Trung Sơn, phải là sự phê phán và

nhìn thẳng trực diện vào những yếu kém đã và đang khiến quốc gia trì trệ, bần

cùng về tinh thần và ảnh hưởng tiêu cực sự sinh tồn. Quá trình phản tư đó đòi

hỏi ý thức trách nhiệm rằng “phải thoát khỏi tình trạng này bằng một sự hồi

sinh” [22, tr. 576].

1.2.3. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa

1.2.3.1. Tư tưởng của Charles Rappoport và Jean Jaures về dân chủ

Bên cạnh tiền đề tư tưởng phương Đông và tư tưởng dân chủ của trào

lưu Khai sáng Pháp, Nguyễn An Ninh còn tiếp nhận những quan điểm về tự

do dưới góc nhìn của những nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa như Karl Marx,

Friedrich Engels và Jean Jaures. Điều này diễn ra trong thời gian Nguyễn An

Ninh sinh sống tại Pháp và theo học ngành Luật tại Đại học Sorbonne. Khi

8 Charles Rappoport (14/06/1865 – 17/11/1941) là nhà cách mạng, nhà báo và là nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa người

Pháp gốc Nga. Ông là một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.

9 Jean Jaures (03/09/1859 – 31/07/1914) là một chính trị gia thuộc đảng Xã hội (SFIO), nhà sử học, nhà hoạt động xã hội

người Pháp. Ông là một trong những đại biểu cho chủ thuyết xã hội chủ nghĩa cải cách vào cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20

tham gia phong trào chính trị trong cộng đồng người Việt yêu nước tại Pháp, ông có sự tiếp xúc với tư tưởng dân chủ từ Charles Rappoport 8 và Jean Jaures9 - hai nhà cách mạng xã hội chủ nghĩa của Pháp.

22

Khi nhìn nhận vấn đề dân chủ của chế độ thực dân Pháp tại Việt Nam,

Nguyễn An Ninh tiếp nhận quan điểm của Charles Rappoport trong bài “Chủ

nghĩa xã hội là gì?”. Rappoport trình bày quan điểm phê phán tình trạng tự do

của xã hội tư bản chủ nghĩa đương thời, cũng là sự phê phán hệ quả của nền

dân chủ mà châu Âu đang hướng tới như sau: “Tự do thực sự không tồn tại ở

nơi mà tài sản không phải tài sản chung ở nơi mà người là nô lệ của người,

nơi mà nhà nước tư bản chủ nghĩa đã kiểm soát cuộc sống của chúng ta và

nguồn lợi của chúng ta. Tự do trong xã hội chúng ta là một từ trống rỗng, một từ không có ý nghĩa, một lời nói dối” [44, tr. 15]10 Như vậy, tự do có bản chất

kinh tế và chính trị. Nền dân chủ cũng sở hữu những bản chất như vậy. Nhận

thức các quy luật kinh tế và chính trị là chìa khóa dẫn đến tự do và giải phóng

con người, đạt được mức độ phát triển hiệu quả của một nền dân chủ tiến bộ,

tiết chế.

Bên cạnh quan điểm của Charles Rappoport, Nguyễn An Ninh đã tìm

đọc và ảnh hưởng quan điểm của Jean Jaures về việc các nền dân chủ phải

gắn chặt với dân chủ xã hội, giải quyết các vấn đề dân tộc và là điều kiện xây

dựng sự hợp tác giữa những quốc gia với nhau. Jaures viết: “Thế giới trình

bày những vấn đề mới từ ngày này sang ngày khác. Chúng ta phải hoàn thành

nền dân chủ chính trị bằng cách phát triển một nền dân chủ xã hội. Chúng ta

phải thâm nhập vào các quốc gia độc lập với tinh thần quốc tế, và bảo đảm sự

tiến hóa của công bằng xã hội trong hòa bình toàn cầu, bằng nỗ lực phối hợp

của các công nhân ở mọi quốc gia. Nhưng Dân chủ và Quốc gia, xét cho

tại Pháp, thủ lĩnh phong trào chống chiến tranh. Ông bị ám sát ngày 31/07/1914, bởi một phần tử quốc gia cực đoan bất

mãn với quan điểm của Jean Jaures về việc phản đối bùng nổ xung đột quân sự toàn châu Âu.

10 Nguyên văn quan niệm của Charles Rappoport phiên bản tiếng Anh như sau:

True liberty does not exist where property is not common property where man is the slave of man, where the capitalist state has control of our lives and our wealth. Liberty in our society is an empty word, a word without meaning, a lie. 11 Nguyên văn quan niệm của Jean Jaurres phiên bản tiếng Anh như sau:

cùng, là điều kiện thiết yếu và cơ bản của bất kỳ sáng tạo xa hơn và cao hơn mà chúng ta có thể nhắm tới” [43, tr. 3]11.

23

1.2.3.2. Tư tưởng của Karl Marx và Vladimir Illyich Lenin về dân chủ

Nguyễn An Ninh đã tiếp cận quan điểm của Karl Marx trong “Tuyên

ngôn Đảng Cộng sản” về sự tha hóa của chế độ kinh tế, trong bối cảnh những

cường quốc tư bản phương Tây làm bần cùng hóa những liên hệ giữa người

với người và làm lộ rõ yếu tính dân chủ. Ông dẫn lời giải thích của Marx,

nhằm làm rõ thêm tính chất quan trọng trong quan điểm của Marx về thực tại

xã hội: “Xưa kia sự bóc lột kẻ nghèo còn khoác bên ngoài cái áo tôn giáo và

chánh trị. Ngày nay sự bóc lột trở thành trực tiếp, tàn bạo, rõ ràng là không

còn e lệ nữa. Nó không muốn cho sự giao tế giữa con người với nhau còn có

một sự ràng buộc nào đó khác hơn là sự tư rõ rệt, mà trong đó không có chỗ

đứng cho tình cảm” [22, tr. 1005]

Comment [L8]: Triết học Nietzsche. Nguyễn An Ninh. Tuần báo Donnai số 31 năm 1933. NAN Tác phẩm – 2009.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga (1917) và đặc biệt là sự kiện

Đảng Cộng sản Pháp ra đời từ sau Đại hội Đảng Xã hội Pháp tại Tours (25/12

– 30/12/1920) đã tác động đến Nguyễn An Ninh rất lớn. Sự kiện Nguyễn Ái

Quốc tham gia Đại hội Tours, tán thành Quốc tế III và trở thành một trong

những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp thúc đẩy Nguyễn An Ninh tìm

hiểu, tán đồng những khía cạnh cách mạng, nhân văn của chủ nghĩa xã hội.

Bên cạnh đó, Nguyễn An Ninh đã tìm thấy ở chủ nghĩa xã hội những luận giải

của tinh thần, nguyên tắc dân chủ. Ông trực tiếp nghiên cứu Sơ thảo lần thứ

nhất Luận cương về các vấn đề Dân tộc và vấn đề Thuộc địa của V.I.Lenin,

chịu ảnh hưởng quan điểm của Lenin về bản chất chế độ dân chủ tư sản thuộc

địa: “Nấp dưới hình thức quyền bình đẳng cá nhân nói chung, chế độ dân chủ

tư sản tuyên bố quyền bình đằng hình thức hoặc quyền bình đẳng trên pháp

luật giữa kẻ hữu sản và người vô sản, giữa kẻ bóc lột và người bị bóc lột” [15,

The world presents new problems from day to day. We must complete the political democracy by developing a social democracy. We must penetrate independent nations with the international spirit, and secure the evolution of social justice in universal peace, by the concerted effort of workmen in every country. But Democracy and Nation are, after all, the essential and fundamental conditions of any further and higher creation we may aim at

tr. 198].

24

Những sách báo về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản như

“L’Humanité”, “Le Populaire”, “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”,… giúp cho

Nguyễn An Ninh tích cực tham gia phong trào cách mạng ở Pháp cũng như

một số nước khác. Nguyễn An Ninh nhìn nhận và tán thành chủ nghĩa xã hội,

chủ nghĩa cộng sản vì đó là “hiện thân của cả nền Công lý và của cả cái Sức

mạnh dẹp bỏ bất công, bảo vệ kẻ yếu và giải phóng những người bị áp bức”

[22, tr. 647]. Đó là luận lý dân chủ phản ánh nguyện vọng thay đổi hiện trạng

những mâu thuẫn hướng đến lợi ích chung của xã hội, thay vì loại hình dân

chủ theo tiêu chuẩn kép của các nhà nước tư sản chỉ chú trọng lợi ích bản thân

mà không coi trọng nhìn nhận, xây dựng một mối quan hệ công bằng với các

dân tộc thuộc địa.

Nguyễn An Ninh sinh ngày 15 tháng 9 năm 1900, tại làng Long

1.3. Nguyễn An Ninh – cuộc đời và sự nghiệp

Phượng, tổng Phước Điền Thượng, tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc huyện Cần

Giuộc, tỉnh Long An). Trong kí ức của bà Nguyễn Thị Minh (con gái của

Nguyễn An Ninh), nguồn gốc tổ tiên của ông “ở tận ngoài Bắc. Thời Trịnh

Nguyễn phân tranh vì chống lại triều đình mà bị tội xử chem. rồi trôi dạt vào

Bình Định, từ họ Đoàn phải đổi sang họ Nguyễn” [21, tr. 96]. Đến đời cụ

Nguyễn An Nghi (ông nội của Nguyễn An Ninh), cụ chuyển từ phủ An Nhơn

(nay là thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định) xuống Phước Lý (thuộc tỉnh Chợ

Lớn) làm nghề dạy võ, chữa bệnh và dạy học. Ngày thực dân Pháp đánh

chiếm Nam Kỳ, cụ tham gia khởi nghĩa Trương Định cho đến khi Trương

Định hy sinh (năm 1864). Từ đó, cụ cùng gia đình chuyển về quê vợ Phước

Quảng, truyền dạy nghề y cho hai người con trai là Nguyễn An Khương (cha

của Nguyễn An Ninh) và Nguyễn An Cư (chú của Nguyễn An Ninh), dặn dò

con cháu về nỗi nhục mất nước của dân tộc.

Thân phụ của Nguyễn An Ninh là Nguyễn An Khương (1860 – 1931), một

nhà văn, chí sĩ yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Ông không những là tác

giả văn học (viết cuốn “Mong học thê giai”; dịch các bộ sách như “Tam quốc

25

diễn nghĩa”, “Đông Châu liệt quốc”, “Phong thần”, “Thủy Hử”,…) mà còn là

người sáng lập khách sạn Chiêu Nam Lầu (nhằm giúp đỡ về kinh tài cho

phong trào Duy tân và là nơi tụ họp các nhà yêu nước từ miền Bắc - miền

Trung, giúp thanh niên yêu nước xuất dương), tham gia phong trào Duy tân

cùng với những nhà yêu nước như Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Chánh Sắt,…

Thân mẫu của Nguyễn An Ninh là Trương Thị Ngự (1873 – 1911), một

người phụ nữ hiền hậu, nết na, nếp sống bình dị gần gũi với mọi người xung

quanh. Vì tất bật lo cho gia đình, sức khỏe của bà yếu đi nhưng vẫn cố gắng

dành thời gian trực tiếp quản lý Chiêu Nam Lầu (cùng chị chồng là bà

Nguyễn Thị Xuyên) cho đến khi bệnh của bà trở nặng rồi qua đời năm 1911.

Qua 10 năm sinh sống ở Tân An (1900 – 1910), Nguyễn An Ninh được

cha đưa lên Sài Gòn sống cùng ông bà nội. Ông được ông nội xin vào học

trường dòng Taberd, sớm bộc lộ tư chất thông minh đến độ “nghe giảng ở

trường đã hiểu, về nhà chỉ đọc thêm sách” [21, tr. 110]. Sau khi thi đỗ

Certificat trường dòng Taberd và đậu bằng trung học cơ sở (Brevet

élémentarie) của trường Chasseloup Laubat (nay là trường Trung học Phổ

thông Lê Quý Đôn), ông và được tuyển thẳng vào Cao đẳng Y Hà Nội năm 1916. Nguyễn An Ninh làm quen với viết báo12 và về sau xin học ngành Luật

ở Hà Nội. Ông nhận thấy học Luật ở trong nước chỉ toàn là kiến thức về luật

cai trị, chứ thực dân Pháp cũng như hệ thống giáo dục thuộc địa “không muốn

đào tạo ra những luật sư bản địa” [21, tr. 115]. Ông quyết tâm sang Pháp vì

ông muốn “học luật của chính đất nước sinh ra luật lệ đó” [21, tr. 115], tìm

đến nguồn cội của văn minh Pháp và tư tưởng Cách mạng tư sản Pháp 1789

cũng như bày tỏ nguyện vọng muốn sang các nước châu Âu khác.

Trong thời gian theo học Luật tại Hà Nội, Nguyễn An Ninh đã nhận thấy

bản chất của nền giáo dục thuộc địa do thực dân Pháp thống trị không gì khác

12 Thời gian trước khi ra Hà Nội học, Nguyễn An Ninh từng cộng tác viết các tin ngắn cho tờ Courrier Saigonnais

ngoài việc đào tạo những công chức thuộc địa. Hoặc chí ít là không có ý chí

26

đấu tranh cho danh dự và phẩm giá của bản thân, không kiên quyết tạo dựng

nên sự thay đổi mọi mặt để phát triển dân tộc khỏi sự áp bức. Qua những tìm

hiểu và trải nghiệm trực tiếp từ những tư tưởng dân chủ - tự do của xã hội

phương Tây, Nguyễn An Ninh đã bắt đầu quá trình xác định nghịch lý tự do

trên cơ sở tri thức đã học hỏi và trực tiếp nhập cuộc vào thực tiễn lịch sử - xã

hội Việt Nam.

Giai đoạn đầu tiên diễn ra từ năm 1923 đến năm 1926, Nguyễn An Ninh

trình bày những luận giải về vấn đề dân chủ trong các lĩnh vực chính trị, xã

hội, ngôn ngữ, giáo dục, kinh tế, đạo đức, văn hóa,... “Chung đúc một nền học

thức cho An Nam” (25/01/1923) và “Lý tưởng của thanh niên An Nam”

(15/10/1923) là hai bài viết, đồng thời là hai bài thuyết trình mang dấu ấn đặc

biệt của Nguyễn An Ninh về tình trạng văn hóa – tinh thần dân tộc và khơi

dậy sự dấn thân, tự lực tự cường của quần chúng nhân dân. Chính từ bài “Lý

tưởng của thanh niên An Nam”, Nguyễn An Ninh đã đề cập đến việc con

người cá nhân có quyền tự do, tự do tuyệt đối khi đưa ra lựa chọn cho cuộc

đời và sự khao khát hiểu biết của chính mình, khiến đời mình có ý nghĩa lớn

lao hơn mọi nền cai trị hà khắc và gây nên nền tảng văn hóa cho những thành

công, nỗ lực của tương lai dân tộc.

Từ đây, ông đã nhấn mạnh về sự bình đẳng trên phương diện tinh thần

và nguyện vọng cống hiến cho xã hội dựa trên sự tự chủ, không đặc quyền

đặc lợi của cá nhân – điều mà chế độ thực dân Pháp đã làm ngược lại. Với hai

bài diễn thuyết gồm “Chung đúc một nền học thức cho dân An Nam”

(25/01/1923) và “Lý tưởng của thanh niên An Nam” (15/10/1923), Nguyễn

An Ninh đã thẳng thắn phê phán các chính sách của chính quyền thực dân

Pháp cũng như sự tồn tại của những hủ tục, quan niệm giáo điều đương làm

xói mòn truyền thống và sự tự do của nhân dân. Hai bài diễn thuyết của ông

nhận được sự hoan nghênh mạnh mẽ, nhiệt liệt của quần chúng nhân dân và

đông đảo các giai tầng xã hội ở Nam Kỳ.

27

Được sự ủng hộ của gia đình và bạn bè, Nguyễn An Ninh cho ra đời tờ

báo “La Cloche Fêlée” (Tiếng chuông rè) vào ngày 10/12/1923, viết bằng

tiếng Pháp và là cơ quan ngôn luận khởi xướng tinh thần cách mạng – dân

chủ đầu tiên trong sự nghiệp của Nguyễn An Ninh. Từ ngày thành lập đến khi

tờ báo ngừng hoạt động, Nguyễn An Ninh với các bút danh (như Cloche

Fêlée, Nguyễn Tịnh, NT, Đố Biết, ĐB,…) đã liên tiếp đăng những bài viết về

hiện trạng xã hội Việt Nam, giới thiệu cho độc giả về tư tưởng cách mạng của

Pháp, Ấn Độ và, lần đầu tiên, ông đăng các bài viết tiếp theo về “Tuyên ngôn

Đảng Cộng sản” giới thiệu về chủ nghĩa Marx ở Việt Nam. Với việc sáng lập

báo La Cloche Fêlée (Tiếng chuông rè), Nguyễn An Ninh có thêm kinh

nghiệm viết báo và hoạt động đấu tranh công khai bằng báo chí. Ông quyết

định chuyển đổi báo La Cloche Fêlée (Tiếng chuông rè) sang báo “L’Annam”

(Người An Nam): từ báo tiếng Pháp sang báo tiếng Việt, thu hút sự quan tâm

và hưởng ứng của đông đảo quần chúng nhân dân, trong đó mạnh mẽ nhất

chính từ tinh thần ủng hộ nhiệt liệt của đồng bào miền Nam.

Trải qua tác phẩm “Nước Pháp ở Đông Dương” (tiếng Pháp: Le France en Indochine)13, Nguyễn An Ninh nêu tình trạng của phong trào chống thực

dân ở Việt Nam và đặt nghi vấn cho các vấn đề về tự do cá nhân, tự do đi lại,

tự do tư tưởng, quyền công dân, được bầu cử đại diện của người bản

xứ,...Ông phân biệt rạch ròi giữa giới thực dân Pháp và nhân dân nước Pháp,

bày tỏ suy nghĩ về việc người Pháp cần hoàn toàn thay đổi suy nghĩ và hành

động đối với thuộc địa nói chung và Việt Nam nói riêng. Nền dân chủ thuộc

địa là sự giả tạo, và Nguyễn An Ninh càng khẳng định lập trường chống thực

dân không khoan nhượng. Kể từ đó, Nguyễn An Ninh tiếp tục viết các bài viết

luận, bài báo làm rõ vấn đề dân chủ khi được đánh giá và nhìn nhận dưới góc

độ chính trị, an ninh, luật pháp, báo chí,... Trong nguồn cội tư tưởng của

cuối năm 1924, in vào tháng 4 năm 1925 nhân dịp sang Pháp đón Phan Châu Trinh về Sài Gòn. Nhà văn Romain Rolland

đã đăng toàn văn tác phẩm trên báo “Europe” năm 1925.

Nguyễn An Ninh, ảnh hưởng của Gandhi, Tagore, triết học Khai sáng Pháp và 13 Quyển ““Nước Pháp ở Đông Dương” (tiếng Pháp: Le France en Indochine) được Nguyễn An Ninh hoàn thành vào

28

các quan điểm về dân chủ của Jean Jaures, Léopold Cadière, Paul Claudel,...

song hành với ảnh hưởng của Phan Châu Trinh – người đã để lại dấu ấn đậm

nét cho giai đoạn 1923 – 1928 với bài thuyết trình “Đạo đức và luân lý Đông

– Tây” và bài “Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ nghĩa”.

Những vụ án chính trị đã ảnh hưởng đến tình hình chính trị đương thời và

kể cả Nguyễn An Ninh. Từ những vụ oan sai của người Việt Nam ở Bắc –

Trung – Nam, vụ án Bardez (1925) ở Cambodia và đỉnh điểm là vụ án Phan

Bội Châu (1925) một lần nữa châm ngòi cho hoạt động chính trị công khai tại

các đô thị và các cuộc đấu tranh ở nông thôn. Tự do chính trị, tự do cá nhân,...

xuất hiện ngày càng nhiều và tỷ lệ thuận với diễn biến của các sự kiện nêu

trên. Nguyễn An Ninh nhận thấy khoảng cách đang ngày càng bị hằn sâu

trong nội bộ phong trào chính trị chống thực dân, giữa một bên là Đảng Lập

hiến (lãnh đạo bởi Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long,...) với một bên là

lực lượng cách mạng – dân chủ như Trần Huy Liệu, Nguyễn Khánh Toàn,

Cao Văn Chánh, Trần Hữu Độ, Lâm Hiệp Châu, Eugene Dejean de la Batie,...

Sự thất bại của tự do được Nguyễn An Ninh thể hiện trong bài “Hồi kết của

vụ án Bardez” và loạt bài với nhan đề “Lời tự sự của người nô lệ”. Ông không

tán đồng về bất cứ ý tưởng mang tính cưỡng ép cho một quan điểm rằng dân

chủ ở thuộc địa là thứ có thể đạt được. bên cạnh những bài viết phê phán tính

chất đàn áp của chính quyền thực dân và ủng hộ những nhân vật, phong trào

cách mạng quần chúng trên con đường khẳng định quyền tự quyết đối với tự

do và quyền làm chủ của mình.

Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ năm 1926 đến năm 1928, đánh dấu bước

chuyển lớn trong tư tưởng và sự nghiệp đấu tranh của Nguyễn An Ninh. Đám

tang lịch sử tiễn đưa Phan Châu Trinh, vụ án tại tòa Đề hình khiến Phan Bội

Châu bị xử an trí tại Bến Ngự (Huế) đã tác động mạnh đến Nguyễn An Ninh

cũng như tình hình phong trào cách mạng Việt Nam. Sự vắng mặt của hai nhà

cách mạng lão thành của cuộc vận động dân chủ - cách mạng Việt Nam khiến

lực lượng đấu tranh buộc phải đưa ra những lựa chọn. Những tranh luận, xung

29

đột liên tiếp diễn ra. Đối với Nguyễn An Ninh, ông không còn nghĩ đến bất cứ

khả năng hợp tác với chế độ thực dân Pháp và tiếp tục mạch nguồn đấu tranh

dân chủ vì nhân dân như một trong những động lực giúp ông kiên định với

con đường đấu tranh của mình.

Nếu ở giai đoạn 1923 – 1926, vấn đề dân tộc được Nguyễn An Ninh đề

cập với tần suất còn khiêm tốn so với nội dung chủ đạo phê phán hiện trạng

xã hội và quyền lực thực dân thì đến giai đoạn 1926 – 1928, Nguyễn An Ninh

có sự thay đổi đáng kể. Ông không những chuyển lối hành văn từ ngôn ngữ

Pháp (dùng cho tờ La Cloche Fêlée) sang tiếng Việt (với tờ báo L’Annam),

mà còn dành 80 bài báo cho nội dung song đôi vấn đề nghịch lý tự do với vấn

đề dân tộc – cách mạng. Đây cũng là giai đoạn ông triển khai thành lập tổ

chức cách mạng trong quần chúng nhân dân miền Nam, với tên gọi Thanh

niên Cao vọng cho đến năm 1928 – thời điểm diễn ra những biến động chính

trị khiến Nguyễn An Ninh cũng như cách mạng Việt Nam đứng trước những

khó khăn mới.

Quá trình hình thành tư tưởng dân chủ của Nguyễn An Ninh giai đoạn

1923 – 1928 đã phản ánh sự lựa chọn của ông đối với tình hình lịch sử dân

tộc: ông thực hiện đấu tranh công khai, đồng thời chủ động gắn chặt với

phong trào quần chúng nhân dân miền Nam thông qua tổ chức Thanh niên

Cao vọng. Từ năm 1933 đến năm 1939, Nguyễn An Ninh chủ trương thành

lập Mặt trận thống nhất với việc liên kết Đảng Cộng sản Đông Dương với

những người Trotskists để vận động đấu tranh trong phong trào dân chủ 1936

-1939. Thế chiến II bùng nổ (01/09/1939), phong trào cách mạng bị đàn áp

bởi thực dân Pháp. Nguyễn An Ninh bị thực dân Pháp bắt ngày 04/10/1939 và

bị đày ra Côn Đảo. Đây là lần thứ 5 ông bị bắt và cũng là lần cuối cùng. Sau

những tháng ngày đấu tranh với bệnh tật, ông trút hơi thở cuối cùng vào ngày

14/08/1943, để lại cho đời di sản tư tưởng và cuộc đời đấu tranh kiên cường.

30

Tiểu kết chƣơng 1

Giai đoạn vận động dân tộc - dân chủ 1919 - 1929 gần như là nền tảng

cho những bước ngoặt của phong trào chính trị chống thực dân ở Việt Nam,

nhưng đến nay vẫn còn khiêm tốn với vị trí mà nó xứng đáng. Những năm

1923 – 1928, tình hình lịch sử - xã hội của thế giới và Việt Nam đã ảnh hưởng

lớn đến Nguyễn An Ninh. Sự phát triển của các phong trào cách mạng cánh tả

và phong trào dân chủ - tự do truyền thống ở châu Mỹ, châu Phi và châu Âu

giúp ông nhận thấy những thách thức và cơ hội của thời kì tranh đấu cho tự do

và dân chủ. Thành công của cuộc chiến tranh Bắc phạt (1927) dưới sự lãnh

đạo của Quốc dân đảng và hiện tượng Gandhi cùng phong trào Bất bạo động

(Swaraj) tác động trực tiếp đến Nguyễn An Ninh, khi cả hai sự kiện đều là

thắng lợi của những nước thuộc địa trong vấn đề dân tộc tự quyết, mà còn là

minh chứng cho một cuộc đấu tranh dân chủ và tự do trước sự thống trị của

sức mạnh thực dân.

Từ một thanh niên yêu nước, Nguyễn An Ninh đã ảnh hưởng gần như

song song những nội dung của các tư tưởng triết học phương Tây về dân chủ

cũng như tư tưởng của một số học thuyết gia trong trào lưu xã hội chủ nghĩa.

Việc trở về Việt Nam khiến Nguyễn An Ninh chứng kiến hiện thực khắc

nghiệt của quê hương trước ách cai trị của chế độ thực dân Pháp: đời sống

nhân dân bị tha hóa trầm trọng, sự tồn tại của những giá trị tinh thần truyền

thống bị thách thức rất lớn trước những luồng văn hóa nặng tính thực dân,

phong trào cách mạng duy trì trong tư thế bị động và gần như chia rẽ trước

những chính sách bổ sung của thực dân Pháp,...

Chính từ hiện thực như vậy, Nguyễn An Ninh xác định cho bản thân

không thể là một cá nhân thụ động trước đổi thay và mâu thuẫn của thực tại,

mà cần phải trở thành con người hành động bằng suy tư bản thể và nhận thức

quyết liệt. Với Nguyễn An Ninh, nền dân chủ mà dân tộc Việt Nam kì vọng

không đồng nhất và đối lập hoàn toàn với chế độ thực dân Pháp. Đây là mục

31

tiêu, định hướng sẽ thử thách ông cả về phương diện tư tưởng và thực tiễn

trong những năm tháng bản lề của lịch sử Việt Nam cận – hiện đại.

32

CHƢƠNG 2: NHỮNG NỘI DUNG VẤN ĐỀ DÂN CHỦ TRONG TƢ

TƢỞNG NGUYỄN AN NINH

2.1. Quan niệm của Nguyễn An Ninh về hai nguyên tắc dân chủ

2.1.1. Nguyên tắc tự quyết về tinh thần

Trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam, mọi thời đại hay ít nhất là mọi

giai đoạn, thời kì, đều tồn tại vấn đề nền tảng là tìm hiểu, xây dựng và củng

cố nền văn hóa cũng như hệ tư tưởng phù hợp với những yêu cầu của những

thời đại nhất định, những điều kiện lịch sử - xã hội nhất định. Lịch sử Việt

Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX cũng không nằm ngoài quá trình đó. Thời

điểm đó, Việt Nam là thuộc địa của thực dân Pháp. Nguy cơ bị phụ thuộc

về hệ giá trị tinh thần có vai trò quan trọng, mang tính quyết định đối với

mọi nỗ lực nhận thức và hành động sao cho gây dựng được sức mạnh dân

tộc của những cá nhân đầy đủ hiểu biết, phẩm chất cho sự xác lập giá trị

dân chủ. Một khi tinh thần không đủ mạnh để gạt bỏ sự lưu trữ của những

yếu tố bảo thủ, trì trệ thì không thể tiếp nhận hoàn chỉnh những giá trị tích

cực của nhân loại và càng không thể có những chuyển biến rõ rệt, hiệu quả

về mọi mặt. Vì vậy, tư tưởng dân chủ của Nguyễn An Ninh xuất phát từ

chính cách tìm hiểu, tiếp cận của ông thông qua việc tìm hiểu tinh thần dân

tộc, tìm rõ đâu mới chính là cơ sở để khẳng định tinh thần tự quyết của

người Việt Nam trong lịch sử và đương thời.

Ngay từ khi trở về nước (tháng 11/1922), Nguyễn An Ninh đã chuẩn bị

cho lần diễn thuyết đầu tiên trước đồng bào, làm bước khảo sát đầu tiên tâm

tư của nhân dân Việt Nam trên nền tảng của một ý tưởng được xác định – đó

chính là “nền văn hóa của dân tộc Việt Nam” [21, tr. 130]. Với hai bài diễn

Comment [L9]: Nguyễn An Ninh – Qua hồi ức của những người thân (Trung tâm Nghiên cứu Quốc học – Nhà xuất bản Văn học, 2009)

thuyết “Chung đúc một nền học thức cho An Nam” (25/01/1923) và “Lý

tưởng của thanh niên An Nam” (15/10/1923), Nguyễn An Ninh đã bước đầu

trình bày, xác định cuộc khủng hoảng tinh thần tự do của dân tộc Việt Nam đã

bắt nguồn từ những ảnh hưởng của quá khứ và đương thời.

33

Quá khứ của văn hóa dân tộc Việt Nam trước khi bị thực dân Pháp xâm

lược, là quá khứ ảnh hưởng mạnh mẽ từ văn hóa Trung Hoa từ thời Bắc

thuộc. Dù dấu vết của nó tồn tại đến đầu thế kỷ XX, Nguyễn An Ninh đánh

giá: “Nền văn hóa Trung Hoa trên nước ta đang suy” [22, tr. 59]. Khi Nho

giáo truyền vào Việt Nam vào thế kỷ I sau Công nguyên (bởi các quan lại,

Nho sĩ Trung Hoa), tính chất chính trị dường như bị nhấn mạnh hơn rất nhiều so với tính nhân văn nguyên gốc vốn có của Nho giáo14. Nguyễn An Ninh

bước đầu đề cập tinh thần tự quyết, phản kháng của người Việt Nam khi phản

kháng hệ hình Nho giáo bị chính trị hóa bởi các chế độ phương Bắc qua câu

hỏi “Liệu có lúc nào, nền văn hóa đã chịu được phong thổ nước ta chưa?” [22,

tr. 59]. Bởi bản chất ban đầu được các chế độ Bắc thuộc xác nhận là đồng

hóa, Nho giáo Trung Hoa khi truyền vào Việt Nam thời Công nguyên như

“một món hàng hóa xuất cảng”, thậm chí là “đạo Khổng dưới dạng hàng xuất

cảng” [22, tr. 61]. Nó khiến những người có học ở Việt Nam hình dung một

sự lập luận “tưởng rằng ngoài cái đạo Khổng không có ý tưởng nào là rộng, là

thật” [22, tr. 62].

Bên cạnh những khảo sát về dấu ấn văn hóa Trung Hoa ở Việt Nam,

Nguyễn An Ninh cũng nhận định về dấu ấn văn hóa Pháp ở Việt Nam. Ông

thấy rằng thời đó, “chưa thấy người An Nam nào tiếp thu đầy đủ ý nghĩa của

văn hóa Pháp” [22, tr. 63]. Bởi thực trạng đáng suy ngẫm ở đây rằng văn hóa

Pháp, dù đã đặt chân đến Việt Nam từ những năm nửa cuối thế kỷ XIX, vẫn

không phải văn hóa thực sự đúng nghĩa. Vì theo Nguyễn An Ninh, “học Tây

trong nước ta bây giờ là chỉ học để làm nô lệ cho nhà nước” [22, tr. 63]. Đây

chính là thực trạng của hệ thống giáo dục mà thực dân Pháp đã áp đặt lên Việt

14 Điều này vốn xuất phát từ vai trò của Đổng Trọng Thư (179 TCN -104 TCN) khi lấy Nho gia Tiên Tần làm cơ sở, tiếp thu Âm Dương – Ngũ Hành để biến Nho giáo trở thành học thuyết thuần về chính trị và trật tự xã hội phong kiến, thay vì

là học thuyết về đạo đức (mà Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử,... xây dựng thuở ban đầu).

Nam bấy giờ, cũng là thực trạng mà xã hội Việt Nam bấy giờ phải đối mặt.

34

Ngay ở cấp tiểu học, hệ thống giáo dục của Pháp đã làm một việc, theo

Nguyễn An Ninh, là thực sự khó hiểu khi “trình độ kiến thức của một đứa học

trò 14 hoặc 15 tuổi bị hạ xuống thấp như trình độ của một đứa con nít mới lên

1 hoặc lên 5” [22, tr. 201]. Bởi những đứa trẻ đi học trường Pháp dường như

phải đối mặt với việc làm quen những kiến thức bằng việc “lặp lại một cách

ngốc nghếch những điều mà mẹ của nó đã dạy cho nó từ biết từ lúc nó còn

nhỏ xíu” [22, tr. 202], thay vì tiếp nhận những tri thức mới và hữu hiệu hơn.

Điều này dễ sản sinh lối ứng xử không hề văn minh của không ít thanh niên

học tiếng Tây, rằng những thanh niên đó “được đào tạo theo kiểu Tây nói

tiếng Tây bồi để khoe với bọn người nông dân nhà quê là mình đã tiếp thu

được nền khoa học Âu Tây” [22, tr. 202].

Với hai minh chứng nêu trên, Nguyễn An Ninh đã đưa ra một số nhận

định về “khai hóa” của thực dân Pháp, xét trên khía cạnh giáo dục, rằng “sự

giáo dục đã được ban phát trong các trường Pháp ở Đông Dương chẳng

những không đem lại ánh sáng học vấn nhiều hơn cho các dân tộc đang được

Pháp che chở thì chớ, mà lại còn hạ thấp thêm trình độ kiến thức của họ,

ngăn trở không giúp họ phát triển sự thông minh” [22, tr. 202]. Nguyễn

An Ninh không giấu nổi sự trăn trở về hiện trạng văn hóa Việt Nam khi

chỉ được tiếp cận những yếu tố giáo dục mang tính ngu dân của thực dân

Pháp, bởi chính từ cái lối giáo dục “đào tạo nô lệ” mà Pháp tiến hành ở

Việt Nam đã dẫn tới sự xuất hiện của một “giai cấp mới quái lạ” chuyên

khoe mình nói tiếng Pháp là “dấu hiệu của tâm hồn quý tộc” [22, tr. 203];

họ lãng quên hay thậm chí là tỏ thái độ vứt bỏ tiếng mẹ đẻ; lối học đòi

sính ngoại,…

Qua những gì Nguyễn An Ninh trình bày ở trên, ông rút ra đặc điểm của

mô hình giáo dục quốc dân Ấn Độ gồm hai ý chính: một, “quay lại với những

ý niệm triết lý của văn hóa Á Đông”; và hai, “biết kết hợp hài hòa giữa đạo lý

của các bậc hiền triết cổ xưa với kiến thức thực dụng của thời hiện đại” [22,

tr. 67].

35

Trong suy nghĩ và tâm tưởng của Nguyễn An Ninh, “hai chữ văn hóa tự

nó đã bao hàm ý nghĩa về cái chỗ rộng mênh mông, một chỗ cao hơn hết mà

ta có thể đạt được sau khi hấp thụ những chân trời cao rộng” [22, tr. 59]. Ông

thể hiện tư tưởng xây dựng nền văn hóa dân tộc kết hợp cùng với những giá

trị văn hóa mới, tiến bộ - những giá trị được ông thể hiện qua hình ảnh

“những chân trời cao rộng”. Ngưỡng của sự kết hợp truyền thống - hiện đại ở

đây được Nguyễn An Ninh miêu tả là một nơi “rộng mênh mông, một chỗ cao

hơn hết”.

Bằng mục tiêu ban đầu của sự nghiệp là góp phần xây dựng nền văn hóa

cho dân tộc những khảo sát văn hóa Trung – Pháp - Ấn, Nguyễn An Ninh đã

đưa ra định nghĩa về văn hóa. Theo ông, “văn hóa là tâm hồn của một dân

tộc” [22, tr. 64]. Để làm được điều như vậy, Nguyễn An Ninh quan niệm cá

nhân phải khẳng định quyền tự quyết ngay trong giới hạn tinh thần của mình.

Ông nhận thấy “một con người có tâm hồn cao thượng thì mới biết những thú

vui thanh cao trong cuộc sống” [22, tr. 64], từ đó dẫn tới việc “một dân tộc có

nền văn hóa cao thượng thì mới được hưởng những đặc ân”. Ở đây, từ “đặc

ân” của Nguyễn An Ninh được diễn giải theo hai hướng. Thứ nhất, xét về tác

dụng, “nhiều dân tộc nhờ có nền văn minh của mình mà nổi danh trên thế

giới, mà gây được ảnh hưởng của mình trên thế giới”. Xét về tính cấp thiết

trong trường hợp xấu nhất, “dân tộc nào bị thống trị bởi nền văn hóa ngoại

bang thì không thể có độc lập thật sự” [22, tr. 64]

Lẽ cao thượng của tinh thần tự quyết, đối với Nguyễn An Ninh, phải gắn

chặt với cội nguồn dân tộc của mình. Ông viết: “một dân tộc muốn sống,

muốn độc lập, muốn rạng danh trong nhân loại, cần phải có một nền văn hóa

cho riêng mình” [22, tr. 68]. Như vậy, theo Nguyễn An Ninh, văn hóa riêng

của dân tộc (mà ngày nay chúng ta còn được nghe một cụm từ nữa, một lối

hiểu nữa là bản sắc dân tộc) chính là điều kiện tiên quyết, đảm bảo cho ba

quyền bất khả của bất cứ dân tộc nào: quyền được sống, quyền được độc lập

và quyền được khẳng định, rạng danh trong nhân loại. Nguyễn An Ninh đưa

36

ra ví dụ về văn hóa Trung Hoa. Trong lịch sử, Trung Hoa nhiều lần “bị bạo

lực lấn áp bị các dân tộc man di láng giềng xâm chiếm, nhưng nhờ có nền văn

hóa mà nước Trung Hoa vẫn tồn tại cho đến ngày nay”, thậm chí còn “mở

rộng biên cương và (…) thêm hùng mạnh, ảnh hưởng càng rộng lớn”[22, tr.

65]. Dường như, điều đó khiến những nước dù chiếm được Trung Hoa bằng

quân sự, song không tài nào áp chế nổi văn hóa của họ lên văn hóa Trung

Hoa. Để rồi, những nước đó “lại bị nền văn hóa Trung Hoa chinh phục” [22,

tr. 65].

Với Nguyễn An Ninh, văn hóa dân tộc chính là nguồn cội của một dân

tộc mạnh mẽ, một dân tộc hoàn toàn tự quyết về giá trị tinh thần của mình,

chứ không còn là một dân tộc phải chịu cảnh hữu danh vô thực, phải nếm trải

những đắng cay của con đường tranh đấu cho một tự do, độc lập không biết

bao giờ mới đạt được. Văn hóa hướng dân tộc đó đến những điều tốt đẹp và

những giá trị nhân văn.

Thực vậy, ông thấy rằng “Khi nói dân tộc giống nòi sẽ sống, chúng tôi

không muốn nói là sẽ sống bình yên cuộc sống của loài thú vật, mà là sống

với nền văn hóa với sức mạnh, với tất cả những gì tốt đẹp nhất để cho một

dân tộc hay một thời đại có thể lưu lại cho đời sau một dấu ấn sâu xa hay một

vầng hào quang rực rỡ” [22, tr. 158]. Để đạt được viễn cảnh của nền văn hóa

mạnh mẽ trong lòng của một tinh thần tự do – tiến bộ quyết liệt, Nguyễn An

Ninh nhận định điều tốt nhất có thể làm cho văn hóa dân tộc chính là giữ

vững truyền thống kết hợp với sự dung hợp văn hóa dân tộc với thời đại, để

“làm sống lại và làm nảy nở tâm hồn của nòi giống” và làm cho văn hóa dân

tộc có sức sống mạnh mẽ.

Ông đưa ra khái niệm “hai thứ thuốc” như là minh chứng cho việc kết

hợp giữa truyền thống với hiện đại và là sự kết nối với khái niệm “văn hóa

mới”, “con người mới”. Bởi theo ông, “trong ta phải có như hai thứ thuốc

chống nhau để rồi hòa tan sinh ra một thứ thuốc mới. Trong ta phải có thắng

trận hai lần.” [22, tr. 63]. Rộng hơn nữa, “mỗi người châu Á chúng ta lại phải

37

được trang bị hai phía, vừa phải tiếp nhận văn hóa Âu Tây và cả văn hóa Á

Đông nữa” [22, tr. 63]. Trong tâm tưởng của Nguyễn An Ninh, tự do và độc

lập về sức mạnh tri thức và bề dày văn hóa đủ sức mạnh tiếp nhận giá trị văn

hóa của thời đại là điều kiện tiên quyết cho sự tự do và độc lập về chính trị và

cá nhân. Văn hóa không thể và không bao giờ là bộ phận tinh thần vắng mặt

trong quá trình khơi dậy trong con người những đam mê, ước mơ, hành động

không ngừng để không phải trở thành những kẻ cuồng tín kẹt bề dày tri thức

nhân loại, mà phải trở thành những con người làm chủ tri thức “được tự do

lựa chọn, tự do tuyệt đối” [22, tr. 74].

Sự tự quyết về tinh thân, theo Nguyễn An Ninh, cần có vai trò của ngôn

ngữ nói chung và chữ Quốc ngữ nói riêng. Theo ông, “tiếng nói là người bảo

vệ quý giá nhất nền độc lập của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giúp

giải phóng các dân tộc bị thống trị” [22, tr. 425]. Sứ mệnh xây dựng văn hóa

mới, con người mới cần được thực thi bởi chính quốc dân đồng bào, và nhất

là thế hệ thanh niên. Nguyễn An Ninh gửi gắm hy vọng lớn lao đến thanh

niên của đất nước. Ông viết: “Vì lẽ chúng ta ngày nay phải tạo lập nên sự

nghiệp của mình, nên thanh niên ta ngày nay phải biết nhìn về tương lai làm

sao đưa tương lai đó đến gần. Chúng ta phải biết dang chân ra, một chân đặt

vững chắc trong hiện tại, chân kia phải bỏ vào tương lai, một tương lai gần

gũi mà chúng ta xem như là hiện tại thực sự của chúng ta” [22, tr. 73]. Ông

lưu ý đến thế hệ thanh niên Việt Nam hãy luôn “ước mơ thật nhiều, nhưng

phải hành động” [22, tr. 70], coi hành động chính là sự khảng định mạnh mẽ

nhất đối với việc hiện thực hóa những ước mơ to lớn cho mình, cho mọi

người và cho sự đi lên của văn hóa dân tộc.

2.1.2. Nguyên tắc dân chủ trong sự truy vấn bản chất kinh tế và chính trị

Vấn đề bản chất của dân chủ không thể tách rời những quan điểm, tư

tưởng chính trị - xã hội của Nguyễn An Ninh. Ông không đơn thuần hồi quy

về bản chất của những giá trị cũ mà còn là quá trình tiếp nhận, tra vấn bản

chất bề sâu của những giá trị mới. Dân chủ, mà Nguyễn An Ninh đã nhấn

38

mạnh nhiều lần trong không gian thuộc địa qua những bài báo trong thời gian

2 năm (1923 – 1924), luôn là giá trị được ông đặt vào một sự tiếp xúc và đánh

giá mang tính lý trí xen lẫn những hoài nghi về những thứ làm nên nền tảng

của chế độ thực dân. Ông cũng nhấn mạnh về việc tự do kinh tế, chính trị thực

chất mới đạt được những nguyên tắc xây dựng nền dân chủ. Điều này sẽ được

Nguyễn An Ninh tiếp tục trình bày cho đến năm 1928, vẫn có mối quan hệ

mật thiết với tình hình quyết liệt và phức tạp của xã hội thuộc địa.

Nguyễn An Ninh tiếp cận vấn đề dân chủ từ góc nhìn của ông đối với

lĩnh vực liên quan đến kinh tế - chính trị thuộc địa. Đó là việc chính quyền

thực dân Pháp huy động công trái trong các giới xã hội của thuộc địa, nhằm

đạt được nguồn thu tài chính cho quân đội Pháp. Về cơ bản, công trái (hay trái

phiếu chính phủ) đều chung bản chất với trái phiếu do các doanh nghiệp phát

hành. Quan điểm kinh tế - chính trị của Marx – Lenin coi công trái như một

loại trái phiếu được duy trì trên thị trường chứng khoán, “người mua trái

phiếu không phải là cổ đông của doanh nghiệp mà chỉ đơn thuần là người cho

doanh nghiệp vay vốn với giá trị tương ứng với mệnh giá trái phiếu. Khi hết

hạn, người sở hữu trái phiếu có quyền được hoàn trả số tiền đã mua trái phiếu

theo mệnh giá kèm theo khoản lợi tức gọi là lợi tức trái phiếu” [28, tr. 303].

Vì vậy, có thể thấy, mối quan hệ giữa người mua công trái và người nhờ vay

là mối quan hệ tự do, cân bằng về lợi ích kinh tế cũng như tính khả dĩ của tình

hình thị trường trên tinh thần dân chủ.

Tuy nhiên, khi xem xét vào hiện tượng công trái trong nền kinh tế thuộc

địa, Nguyễn An Ninh nhận ra việc mua bán công trái giữa chính quyền thực

dân với những người dân thuộc địa là sự tự do mang tính hình thức. Ông cũng

nhắc đến về thái độ của giới cầm quyền Pháp đối với người thuộc địa trong

giai đoạn Chiến tranh thế giới lần thứ nhất chuẩn bị bùng phát. Quan chức

thuộc địa dùng lời hứa mang tính chiêu dụ đi kèm việc tuẫn bức người dân

tham gia một cách “tình nguyện” cuộc chiến ở nơi chẳng hề liên quan, không

có thù hằn gì họ. Quyền tự do lựa chọn của dân thuộc địa, theo Nguyễn An

39

Ninh nhìn nhận, là sự yếu thế trước sức ép và thái độ thờ ơ, bất công của chế

độ cai trị đương thời: “Chiến tranh hết, những lời hứa trang trọng ấy cũng

được trang trọng quên đi” [22, tr. 44]. Khi quay trở lại đánh giá hoạt động

công trái, Nguyễn An Ninh một lần nữa tìm thấy ở đó chính sách hai mặt của

thực dân Pháp. Bên cạnh sự cưỡng ép truy thu như đã nói ở trên, các quan

chức thực dân đánh động đến tính ham lợi danh của người mua với cam kết

“phẩm hàm, hoàn tiền dễ dàng, và hàng lô cái khác nữa” [22, tr. 44]. Cái lợi

quyền tự do kinh tế và cả danh vọng bất chấp nền tảng luân lý mà những

người mua công trái được hứa hẹn, giờ trở thành những thứ vô nghĩa trước

những cách đối xử của thực dân Pháp. Không những vậy, việc thực dân Pháp

“bắt ép người mua công trái trình thẻ thuế thân” [22, tr. 44] như một hành

động làm tăng thêm những bất mãn sẵn có và làm bần cùng hóa bản chất của

tự do trong xã hội Việt Nam thuộc địa thiếu vắng tính chất dân chủ thực sự.

Trong quan điểm của Nguyễn An Ninh, khẩu hiệu Tự do – Bình đẳng –

Bác ái về mặt ngữ nghĩa có sự tách biệt, nhưng đã làm nên di sản dân chủ

chính trị của người Pháp sau cuộc Cách mạng 1789. Tuy mang một hệ ý

nghĩa có sức ảnh hưởng lớn đến vậy, song chúng đều cùng chung số phận đầy

tính phản tư trong phương diện triết lý: một số phận đầy mâu thuẫn của thực

tế. Nguyễn An Ninh vạch ra một làn ranh phân biệt số phận và bản chất của

dân chủ, tách tự do ra làm hai dấu mốc – hai tình trạng lịch đại gồm có: tự do

trong thời kì Cách mạng 1789 tại Pháp và tự do ở thuộc địa. Ông nhận thấy tại

Pháp, vào quãng thời gian bão táp của cuộc cách mạng khởi phát từ năm

1789, những thay đổi về tình trạng chính trị - xã hội của Pháp như những hệ

quả của sự vận động ý thức gây tác động mạnh đến phần còn lại của thế giới.

Tuy nhiên, tính trường tồn của dân chủ cả về sự hiện diện lẫn về bản chất

không được bảo lưu hoặc chí ít là không được thể hiện một cách đúng đắn ở

mọi lúc. Thực vậy, Nguyễn An Ninh nhìn thấy khái niệm dân chủ như một

đại tự sự sa ngã bởi sự tồn tại của nó bị quy định bằng một hình thức cai trị đi

ngược lại với những đặc tính mà nhân dân Pháp năm 1789 ra sức tranh đấu:

40

đó là sự xuất hiện của chế độ toàn trị trong môi trường thuộc địa. Ông đánh

giá tính giá trị của dân chủ không ở cố hữu trong một bản chất, một vẻ đẹp tự

thân và tự sinh sôi. Dân chủ cần được hiện thực hóa bằng liên tục những nỗ

lực và thậm chí là hi sinh của cả một xã hội lầm than dưới ách áp bức do chế

độ cũ thúc ép từ trên xuống. Hình ảnh phản ánh chân thực ý nghĩa của dân

chủ đối với nước Pháp cuối thế kỉ XVIII được Nguyễn An Ninh gắn với sự

phản kháng của những người không có quyền lực lật đổ đồng loạt các trụ cột

của tính chuyên quyền trong chế độ phong kiến, “những người Pháp của cuộc

cách mạng 1789 lấy máu của mình viết ba khẩu hiệu nầy lên mặt tiền của các

tòa công thự ở khắp nước Pháp, thì những chữ được dùng để tạo ra chúng đều

phập phồng sức sống và có vẻ như muốn lao tới trước để đem tin vui đến với

mọi người” [22, tr. 227].

“Tự do” cùng “bình đẳng” và “bác ái” luôn được Nguyễn An Ninh gắn

Comment [L10]: Nguyễn An Ninh (1924). Những tên lái buôn ô trọc trong đền thờ. Đăng trên báo La Cloche Fêlée số 9 (11/02/1924). Dẫn theo Nguyễn An Ninh – Tác phẩm. Nhà xuất bản Văn học – 2009, tr.227.

với vấn đề dân chủ ở thuộc địa. Dưới sự tiếp xúc và hoạt động lập thuyết của

con người, không còn nguyên nghĩa như một trạng thái và động lực tự nhiên

của xã hội dân chủ. Qua lăng kính chủ quan của chế độ thực dân, chúng bị

tầm thường hóa thành những “món hàng hóa xuất cảng” và bị gắn với những

đặc tính không phải do nó quy định. Đó là sự lừa đảo và dối trá, khi chế độ

thực dân không phải là nơi để người dân thuộc địa chứng kiến một khả thể

rằng “lòng đại độ của con người đã có thể chế ngực được những bản năng

Comment [L11]:

man rợ” [22, tr. 227]. Bản chất của nền dân chủ tiến bộ không còn thuần phác

và đồng nghĩa với giá trị tiến bộ, xung lực thay đổi xã hội. Nó bị lợi dụng

thành hành động bạo lực thách thức lòng tin mù quáng của con người. Sự tôn

thờ lý tưởng dân chủ một thời vừa bị suy yếu bởi những con người chính trị

lạc lõng với di sản cách mạng 1789 và lạc lõng với sự đổi thay của hiện thực,

vừa bị đánh gục bởi những cá nhân và tổ chức tận dụng mọi cách để đạt được

quyền lực tối cao trong mối quan hệ bất bình đẳng giữa người với người.

Khi xét về cơ bản giai đoạn tạo dựng nền tảng dân chủ trong tư tưởng và

hành động dân chủ, Nguyễn An Ninh đã tiếp thu tinh thần cũng như những

41

giá trị nhân bản của tư tưởng tự do từ thế hệ những triết gia Khai sáng như

Voltaire, Rousseau, Montesquieu,...Tuy vậy, ông không phải là một người

viễn tưởng và nuôi một niềm hy vọng toàn diện đối với sự thay đổi trong

chính sách của thực dân Pháp đối với các thuộc địa. Ông thất vọng khi thấy

những nhà chính trị như Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, Lê Quang

Liêm gần như đã có một thái độ thiếu dứt khoát đối với tính chất hai mặt của

chính sách Pháp – Việt đề huề và đối với giới chức thực dân, thất vọng khi họ

đã đổi thay khác hẳn vai trò quyết liệt mà họ từng có trong cuộc vận động tự

do chính trị nhằm chống độc quyền Cảng Sài Gòn năm 1923.

Bản thân Nguyễn An Ninh cũng chịu sự đàn áp về tự do tư tưởng, tự do

báo chí khi những cố gắng của ông trong việc phản biện xã hội thông qua các

tờ báo và các buổi diễn thuyết gặp không ít sự chống phá và cấm cản của

chính quyền bảo hộ. Một phần từ những giác ngộ đó mà Nguyễn An Ninh đã

không kì vọng về một nền dân chủ thực sự ở thuộc địa và đưa ra quan điểm

của ông về bản chất tự do trong xã hội thuộc địa như sau: “Tự do được giành

Comment [L12]:

lấy, chứ tự do không được ban cho” [22, tr. 398]. Một phần khác không thể

không tính đến sự ảnh hưởng của tư tưởng tự do của học thuyết Marxist.

Quan điểm của Friedrich Engels quan niệm về tự do gắn liền với tất yếu như

sau: “Như vậy, tự do của ý chí... là cái năng lực quyết định một cách hiểu biết

công việc. Do đó, sự phán đoán của một người về một vấn đề nhất định, càng

tự do bao nhiêu thì nội dung của sự phán đoán đó sẽ được giải quyết với một

tính tất yếu càng lớn bấy nhiêu; còn sự không quả quyết, do không hiểu biết

mà ra..., chứng tỏ rằng nó không có tự do, nó bị chi phối bởi đối tượng mà lẽ

ra nó phải chi phối. Vì vậy, tự do là ở sự chi phối được chính bản thân và tự

nhiên bên ngoài, một sự chi phối dựa trên sự nhận thức được những tất yếu

của tự nhiên [Naturnotwendigkeiten]; do đó, tự do là sản phẩm tất yếu của sự

phát triển lịch sử” [6, tr. 164]. Nếu tự do là nhận thức tính tất yếu và đấu tranh

Comment [L13]: Engels, Friedrich (1878). Chống Đuy-rinh. C. Mác và Ph.Ăng ghen toàn tập, tập 20 (1994). Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

giai cấp là tất yếu của xã hội đương thời thì tự do của một không gian dân tộc

gồm những con người chịu cảnh tha hóa và bần cùng, không thể trông chờ

42

vào lòng nhân từ và sự thay đổi tự thân thuần túy của một cấu trúc chính trị

được vận hành bởi một nhóm quyền lực dùng thanh gươm của bất công.

2.2. Vấn đề dân chủ trong tƣ tƣởng Nguyễn An Ninh

2.2.1. Bản chất của vấn đề dân chủ ở thuộc địa

Theo Từ điển Brittanica Encyclopaedia, khái niệm dân chủ được định

nghĩa như sau: “Dân chủ, theo nghĩa đen, cai trị của nhân dân. Thuật ngữ này

có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp dēmokratiā, được đặt ra từ dēmos (người người

Hồi giáo) và kratos (luật cai trị) vào giữa thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên để

biểu thị các hệ thống chính trị tồn tại ở một số quốc gia thành phố Hy Lạp,

đặc biệt là Athens” [41, tr. 1]. Từ điển Triết học định nghĩa dân chủ là “trong

một xã hội chia thành những người bị áp bức và những kẻ bị áp bức, nghĩa là

chia thành giai cấp bị bóc lột và bóc lột, thì không bao giờ có được một chính

quyền thực sự của nhân dân” [26, tr. 206]. Trái với những định nghĩa cơ bản

về dân chủ, bối cảnh Việt Nam đầu thế kỷ XX, đặc biệt là những năm 1923 -

1928, chứa đầy những yếu tố mang tính bước ngoặt tiềm tàng. Biến động

chính trị của các quốc gia đã tác động không hề nhỏ đến hệ thống truyền

thông và kèm theo đó là những quan điểm, chủ đề gây ảnh hưởng lớn của

Việt Nam đương thời. Trong số đó, không thể không kể đến bản chất dân

chủ ở thuộc địa.

Nguồn gốc bạo lực của chế độ thuộc địa, theo Nguyễn An Ninh, là

không thể sản sinh nên những giá trị hợp thành nền dân chủ thực sự. Ngay

trong tác phẩm “Nước Pháp ở Đông Dương” (tiếng Pháp: Le France en

Indochine), ông đã khẳng định điều này rất rõ: “Hẳn không phải để làm một

điều nhân nghĩa mà nước Pháp vượt qua khoảng cách 14.000 km để sang

Đông Dương” [22, tr. 80]. Sự áp bức là trạng thái mà bản thân dân chủ cũng

như nghịch lý tồn tại trong vấn đề dân chủ không thể đơn giản tránh ở chiều

hướng khác. Ông từng chiêm nghiệm về thực tại dân tộc Việt Nam trong thời

đại thực dân: “Sự đàn áp đến với chúng tôi từ nước Pháp nhưng tinh thần giải

43

phóng cũng đến từ nước Pháp” [21, tr. 126]. Những phản tư mang đậm chất

phê phán của Nguyễn An Ninh về chế độ phản dân chủ - tự do mà thực dân

Pháp xây dựng ở Việt Nam sẽ trở nên rõ hơn, khi liên hệ đến đánh giá của

Friedrich Engels về tính tự do của các thiết chế dân chủ châu Âu luôn phải đối

diện với nguy cơ của sự chuyên quyền đến từ những nhóm lợi ích, dẫn tới sự

suy yếu của tự do chính trị và suy yếu giá trị dân chủ. Engels viết “Tự do

chính trị là tự do giả, là chế độ nô lệ tồi nhất; nó chỉ là cái vẻ bề ngoài của tự

do, và vì thế, trên thực tế, nó là chế độ nô lệ. Bình đẳng chính trị cũng như

vậy, vì thế chế độ dân chủ, giống như bất kỳ mọi hình thức quản lý nào khác,

cuối cùng phải tan rã; sự giả dối không thể tồn tại lâu dài, mâu thuẫn che đậy

ở trong đó tất yếu sẽ bộc lộ ra” [Dẫn theo: 44, tr.723].

Đối với Nguyễn An Ninh, giá trị dân chủ không nằm ở tất cả những vẻ bề

ngoài hào nhoáng. Ông nhận thấy tinh thần tự chủ của mỗi cá nhân như một

động lực cần thiết cho chính họ và cộng đồng dân tộc để thoát khỏi vòng ảnh

hưởng của chế độ thuộc địa. Ông nhận thấy ước mơ cũng không là ngoại lệ,

khi như một nhân tố không thể thiếu đối với tinh thần người Việt khi kiếm tìm

định nghĩa sống động của cuộc đời mình, kiếm tìm những giá trị khơi gợi tinh

thần tự do cá nhân trong lẽ sống và tri thức thực tại. Nguyễn An Ninh nhìn

thấy ước mơ trở thành lí lẽ cơ bản rằng ai cũng là con người có lương tri và

hành động, “đủ sức mạnh để thực hiện những mong ước, chúng ta lại còn phải

có ý chí vươn lên, với niềm khát vọng bất tận đạt đến một cái gì tốt đẹp hơn,

hoàn hảo hơn.” [22, tr. 70].

Tình hình đời sống xã hội đương thời đã nảy sinh nên những quan điểm,

cách tiếp cận đa dạng của những nhà báo, nhà văn, nhà hoạt động chính trị -

văn hóa của Việt Nam và cả những người Pháp. Ví dụ về Trần Huy Liệu (bút

danh Nam Kiều) là minh chứng thú vị khi hoạt động cùng thời với Nguyễn

An Ninh, và có sự quan tâm nhất định đối với tự do cá nhân. Trần Huy

Liệu bắt đầu viết về chủ đề tự do cá nhân xen lẫn với chủ đề dân chủ trong

các bài viết của mình trên tờ “Đông Pháp thời báo”. Theo những tìm hiểu

44

của nhà nghiên cứu Philippe Peycam, nhà báo Trần Huy Liệu luận giải khái

niệm tự do (một khái niệm luân lý - triết học) được cụ thể hóa trong phạm

vi của tự do cá nhân. Peycam đã trình bày nội dung luận giải của Trần Huy

Liệu “có hai ý nghĩa tương phản. Một cái anh gọi là “ma tự do” sẽ thu hút

thói ích kỷ và nhu cầu thỏa mãn bản thân. Thường gây lầm lạc, nó sẽ xui

khiến con người rời bỏ tự do đích thực, cái mà Liệu gọi là “thần tự do” –

điều chỉ có thể đạt được qua một hành động có tính đạo lý là cá nhân đảm

đương trách nhiệm xã hội” [24, tr.222]

Nguyễn An Ninh luôn gắn vấn đề dân chủ ở thuộc địa với giá trị của tự

Comment [L14]: Peycam Philippe M.F (2015). The birth of Vietnamese political journalism: Saigon, 1916 – 1930. Làng báo Sài Gòn 1916 – 1930. Bản dịch của Trần Đức Tài. Nhà xuất bản Trẻ.

do. Nếu hoàn toàn quan niệm rằng dân chủ chỉ thuần túy mang tính mà phủ

nhận cả yếu tố của đời sống ngoại tại và tự do của những tha nhân (hay những

kẻ khác), sự vật khác thì rốt cuộc tính duy ngã của tự do chỉ khiến thúc đấy

nên những tính trạng tinh thần, hành vi áp bức. Đó là cảm nghiệm tính nghịch

lý của tự do và áp bức, dưới góc độ nội tại của một cá nhân và góc độ tác

động của cá nhân đó với những cá nhân, cá thể khác. Mortimer Adler, nhà

triết học người Mỹ, đưa ra hình dung về mối quan hệ trong tình thế khủng

hoảng của tự do cá nhân với sự ra đời hình thái áp bức tự do như sau: “Bởi vì

tự do này hệ tại ở sự thực hiện, ở việc hoàn thành các khao khát hay mong

ước của tôi, sự triệt tiêu lớn nhất của nó, cái vốn tương phản với nó, cái ngăn

chặn nó, chúng ta gọi là áp bức. Vì khi một người bị áp bức bởi sức mạnh vật

chất hắn không thể làm được điều gì hắn mong muốn” [1, tr. 176].

Comment [L15]: Mortimer J.Adler (2019). Phạm Viêm Phương và Mai Sơn dịch. Cùng suy nghĩ về những ý niệm lớn (sách tham khảo). Nhà xuất bản Hồng Đức.

Suy rộng ra, tự do và áp bức cũng ghi dấu những va chạm ngầm về lý

thuyết và thực hành thông qua mối quan hệ giữa một (hoặc nhiều) chế độ

chính trị với xã hội chịu sự ảnh hưởng của nó. Quy luật bất thành văn của mọi

chế độ mang tính chất áp đặt, cực đoan là chúng đều trở nên vượt tầm kiểm

soát của luật pháp và thao túng chính sách bằng dập khuôn ý chí, tạo nên điều

kiện để hình thành nên những tinh thần phản kháng, con người phản kháng.

Kể cả khi các chế độ đó ra sức làm mọi cách để quy chuẩn ý chí của

mình thông qua thực thi quyền lực hiện có, thì điều này chỉ càng khiến sự bần

45

cùng hóa của xã hội gia tăng cùng với ý thức đối lập ngày càng sâu sắc

với tinh thần chủ quan của giới cầm quyền. Việc đánh mất dân tộc tính

khiến cho người Việt Nam trở thành dân một nước thuộc địa không còn

tên trên bản đồ, chịu đựng những điều vô lý và đau đớn đến mức Nguyễn

An Ninh một mặt thấy điều này không khác nào nhân dân bị tước đoạt

mọi quyền sống. Đó cũng là điều mà trước kia, Montesquieu đã tái hiện

rằng “kẻ chinh phục có thể đánh lạc hướng tất cả, và bạo lực tạo ra một

thứ cường quyền điếc đặc...” [20, tr. 131].

Nguyễn An Ninh dù về bề ngoài của ngôn từ là gửi gắm những suy tư

và hi vọng đối với thế hệ thanh niên Việt Nam (đối tượng chính mà ông tập

trung trong bài diễn thuyết “Lý tưởng của thanh niên An Nam”), nhưng thực

chất ông cũng trình bày và lắng nghe tiếng gọi của quần chúng lao khổ đang

chịu ách cai trị của những sự áp bức, bóc lột. Thời đại của Nguyễn An Ninh

(về phương diện cá nhân) và của dân tộc Việt Nam (về phương diện toàn thể)

không những dai dẳng vì những hệ lụy kìm hãm của xã hội cũ, mà còn trở nên

mất phương hướng và bức bối đối với chính mảnh đất quê hương mình đương

còn bị cai trị bởi những lực lượng thực dân: “Chúng ta sinh ra trong một đất

nước thiếu thốn mọi bề, cái gì cũng phải tạo lập ra, sinh vào một thời buổi mà

mọi sáng kiến thông minh đều bị người ta ghét bỏ”[22, tr. 72]. Cuộc chiến

giữa dân tộc Việt Nam với tình trạng thuộc địa mà dân tộc đó đương phải chịu

đựng, được Nguyễn An Ninh hình tượng hóa trong vị thế của cuộc chiến giữa

tự do và áp bức - hai lực lượng đối lập nhau: “Một đàng yếu ớt đang cố tìm

một chỗ đứng dưới mặt trời, một đàng mạnh mẽ, lại còn rút rỉa đến kiệt quệ,

nhằm tiếp ứng cho một con quái vật ở xa.”[22, tr. 72].

Chế độ thuộc địa, trong quan điểm của Nguyễn An Ninh, chứa đựng

những yếu tố không thể chấp nhận tự do như một yếu tố hợp lý tính để thúc

đẩy các giá trị dân chủ. Vì ông chỉ ra sự thật cay đắng, rằng cái được gọi là

trật tự chỉ là sự lợi dụng của kẻ cầm quyền nhằm nô dịch hóa xã hội mà nó

đang cai trị. Theo cách hiểu thông thường, trật tự đem lại tính ổn định và hài

46

hòa giữa sự kết hợp của các yếu tố tự nhiên, giữa tự thân cá nhân với thế giới

ngoại tại,...Và bên cạnh đó, trật tự cũng luôn được đi kèm với những giá trị

luân lý như sự tôn trọng, tính cam kết cao độ của những quy định tối thiểu

cho những kết quả, mục tiêu tối ưu của đời sống cá nhân – xã hội. Tuy nhiên,

Nguyễn An Ninh nhận định nhất quán rằng trật tự của chế độ thực dân không

thể là một điều gì khác ngoài việc đây là một chế độ “ngăn trở cuộc sống

vươn lên, diệt nguồn sinh lực của người khác” [22, tr. 152].

Nguyễn An Ninh khởi động lập luận nghịch lý trật tự và hỗn loạn, như

một đánh giá đầu tiên về vấn đề dân chủ trong giới hạn của một quốc gia Việt

Nam bị áp đặt chế độ thuộc địa. Những lập ngôn của Nguyễn An Ninh về

thảm trạng tinh thần của người Việt, không dừng ở đây. Ông chất vấn thẳng

thắn giới thực dân: “Người ta hay nói về sự vong ơn, sự vô đạo đức, sự hỗn

loạn, nhưng chúng ta không thèm đếm xủa đến tất những hạng người phản

động, hạng người đầu độc đó. Họ có xứng đáng với lòng biết ơn của chúng ta

Comment [L16]:

không, những người kể công đó” [22, tr. 74]. Ngay tức khắc, Nguyễn An

Ninh thực hiện cuộc hoán đổi tính chất chính trị và kể cả danh phận chính trị.

Ông đặt vị trí kẻ cai trị của giới thực dân thành “người ta” - danh xưng của

một dạng tha nhân mất nhân tính, kết án lần thứ nhất đối với kẻ cầm quyền là

thủ phạm của chính những tội ác mà chế độ thực dân rắp tâm gắn lên những

người dân vô tội, lầm than. Không dừng ở đây, Nguyễn An Ninh dùng câu hỏi

chất vấn người nghe nhằm khơi dậy trong họ sự trỗi dậy của tinh thần tự do

chống áp bức và khẳng định người dân không cần dành sự “biết ơn” cho

những kẻ đã kết án oan sai đối với sự tồn tại của mình.

Nhà sử học Nguyễn Thế Anh đánh giá bản chất của chế độ thuộc địa

ngay từ đầu không hề được xác lập nhằm khẳng định, phát triển dân chủ. Ông

viết: “Công thức lí tưởng được áp dụng nhất là: “rất nhiều phụ thuộc, rất ít tự

trị, một chút đồng hóa” [2, tr. 119]. Về phần Nguyễn An Ninh, ông khẳng

định xã hội Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm chiếm là xã hội có trật tự

ở biểu hiện “ý thức dân chủ của một xã hội xây dựng theo tư tưởng Khổng

47

giáo” [22, tr. 86]. Nhằm phản bác lại luận điểm của thực dân Pháp cho rằng

họ thiết lập một “trật tự ổn định” để chấm dứt tình trạng “hỗn loạn” ở thuộc

địa, Nguyễn An Ninh đã luận chứng khái quát về trật tự xã hội truyền thống

Việt Nam khác với trật tự thực dân. Từ cấp độ cá nhân đến cấp độ gia đình và

làng xã, trật tự xã hội Việt Nam có cách thể hiện một dạng dân chủ trong văn

hóa và chính trị của người Việt.

Theo đó, người Giao Chỉ (tổ tiên của người Việt) cũng như biết bao

nhiêu giống người khác trên thế giới, đều có một thuở hồng hoang “sống lang

thang rày nay đây mai đó” [22, tr. 74] Khi đã đến một vùng đất nhất định,

những người Việt đầu tiên “chỉ có mối liên hệ chung là sự cần thiết phải

tương trợ, phải nương vào nhau mà sống, phải chung sức nỗ lực để chiến đấu”

[22, tr. 74]. Tinh thần tự do của người Việt chính là xuất phát từ nhu cầu đời

sống mà tương trợ, tương thân tương ái và đoàn kết với nhau để đương đầu

với những thử thách đe dọa sự tự do của họ. Tự do của người Giao Chỉ đã

định hình cuộc sống sinh hoạt - sản xuất ở những vùng đất mới, đã ý thức

được “về một niềm hạnh phúc tìm thấy và ổn định”, về những hạnh ngộ của

đời sống đã mang lại cho họ nhờ có đất. Theo Nguyễn An Ninh, những điều

đó tạo nên sự gắn kết “người Giao Chỉ với đất”: gắn kết càng lớn mạnh, càng

có ý thức trân trọng và ra sức bảo vệ nơi mình sinh sống và tạo dựng tính liên

kết chặt chẽ, sâu sắc của định chế trong làng (cấp độ xã hội tiếp theo của

người Việt).

Sự tồn tại của các định chế hương ước, trong tư tưởng Nguyễn An Ninh,

chính là nền tảng sản sinh của văn hóa Việt và đồng thời là biểu hiện cho tinh

thần, như Nguyễn An Ninh viết, là “lòng trung thành với miền quê cha đất tổ”

[22, tr. 153]. Trong luận án “Tính dân chủ ở các làng xã Việt Nam”, Nguyễn An

Ninh khẳng định “thể chế làng xã là tổ chức xã hội cơ sở của nước An Nam. Đó

là cơ sở cộng hòa, có ban hương chức hội tề do dân bầu ra, có tổ chức nội trị,

trong đó mỗi công dân đều có một chức trách, một bổn phận với ngân sách

riêng” [22, tr. 153]. Làng xã là không gian sống khiến “cho dân chúng dễ thở,

48

cho dù có thế lực của nhà vua” [22, tr. 317], giống như câu tục ngữ của người

Việt rằng “Phép vua thua lệ làng”. Nguyễn An Ninh tiến thêm một bước tiệm

cận nữa khi so sánh làng xã Việt Nam với các thành phố - cộng hòa ở Italia. Cả

hai thể thức tổ chức xã hội này, theo Nguyễn An Ninh, đều làm thất bại ham

muốn mở rộng quyền lực của chế độ phong kiến ở cả Việt Nam lẫn Italia.

Xét về yếu tố gia đình trong chiều kích văn hóa Việt Nam, Nguyễn An

Ninh nhận định rằng “gia đình là một kiểu cộng hòa thực sự, trong đó tình

thân mến và tình máu mủ giữ cho sự hòa thuận và sự tương kính được lâu

bền” [22, tr. 153]. Bởi lẽ, từ truyền thống xa xưa, khi các cộng đồng người

Việt đầu tiên xuất hiện các cấp độ tổ chức xã hội cơ bản (gồm gia đình và

làng xã ), mỗi gia đình người Việt thiết lập những quy định, nguyên tắc chung

nhất áp dụng tỏng không gian sinh hoạt gia đình, gọi là “gia pháp”. Vì có gia

pháp riêng, nên sinh hoạt gia đình dù có xảy ra những việc phát sinh thì dùng

ngay gia pháp để xử lý, “phép vua phải dừng lại ngoài cửa không được can

thiệp vào việc nhà của mỗi gia đình” [22, tr. 153]. Điều này cho thấy đời sống

gia đình truyền thống của văn hóa Việt được xây dựng trên nền tảng của sự

tôn trọng, yêu thương lẫn nhau, biết tha thứ và luôn nỗ lực dung hòa song

không hề có sự bắt buộc, ràng buộc nào về việc nhất thiết duy trì gia đình

trong tình trạng căng thẳng.

Như Nguyễn An Ninh đã mở đầu trong phần viết về yếu tố gia đình, ông

thấy rằng “không cần phải nói dài dòng về sự tan rã của những định chế cho

gia đình mà xưa kia đã đem lại cho gia đình một sức mạnh gắn bó” [22, tr.

153]. Ông thấy những góc cạnh dân chủ trong những nguyên tắc của đời sống

hôn nhân và gia đình xã hội Việt Nam truyền thống. Con cái, dù có cùng cha

cùng mẹ hay khác đi chăng nữa, “đều có quyền được nhận là con” [22, tr.

153]. Những người vợ thứ cũng được xã hội “coi trọng như coi trọng người

chồng, hoàn cảnh tính ra danh giá hơn hoàn cảnh của những cô nàng hầu”

[22, tr. 153]. Trong trường hợp vợ chồng ly dị, người chồng “không bị bắt

buộc phải lỗi của cô vợ” [22, tr. 154], nhằm tránh những xung đột không đáng

49

có xảy ra và đồng thời tạo điều kiện cho cả người chồng lẫn người vợ “tạo

dựng một gia đình mới”, nhanh chóng ổn định trật tự trong cuộc sống của

từng người và cao hơn là trong xã hội.

Cuối cùng, Nguyễn An Ninh đề cập đến yếu tố “Sự thờ cúng người đã

chết” như là một trong ba yếu tố của văn hóa truyền thống Việt Nam. Sự thờ

cúng người đã chết, hay còn gọi là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, chính là một

trong những nét truyền thống của văn hóa Việt Nam. Nguyễn An Ninh đã

khẳng định thờ cúng tổ tiên “có vị trí quan trọng” trong xã hội Việt Nam,

thậm chí “không khác gì Thiên Chúa ở Pháp” [22, tr. 154]. Thực vậy, sự thờ

cúng người đã chết trở thành “một phần của những hoạt động của nhà nước”

[22, tr. 154], “mối quan tâm cao nhất của gia đình” [22, tr. 154]. Đồng thời,

sự thờ cúng người đã chết, như Nguyễn An Ninh khẳng định, đóng vai trò

quan trọng trong việc giáo dục đối với mỗi người ngay từ thời trẻ, góp phần

định hình nhân cách.

Không những vậy, sự thờ cúng người đã chết chính là điều kiện để mỗi

người luôn tự nhắc nhở đến những kỷ niệm, những người thân yêu và “những

gì mà những bậc tiền bối đã gom góp tích trữ không mất đi” [22, tr. 154]. Nhờ

đó, con người tìm thấy sự an ủi về mặt tâm hồn “để xoa dịu đi những nỗi cực

nhọc, âu lo của những thế hệ hiện nay” [22, tr. 154]. Trong suy nghĩ của

Nguyễn An Ninh, sự thờ cúng người đã chết không đơn thuần tưởng nhớ đến

những người đã khuất mà còn là sự liên kết vô hình giữa “người đã chết được

sống với người đang sống”, góp phần làm mở rộng không gian hạn định của

cuộc sống vốn khôn cùng. Bởi người đang sống, theo Nguyễn An Ninh, có

“sự liên cảm” [21, tr. 155] đối với những người đã khuất, những người đã

cách xa trần gian bằng sự kết thúc chu trình sinh – lão - bệnh - tử. Kể cả

những người nổi tiếng hay vô danh, khi chết đi vẫn được lịch sử đưa ra lời

phán xét, để rồi hiện về trong nỗi nhớ và mong mỏi của người đang sống. Từ

đó, Nguyễn An Ninh kết luận “hiện tại sống bằng quá khứ” [22, tr. 155] chính

50

là trạng thái, tâm tư của người Việt Nam khi sống song hành giữa hiện tại và

kí ức, truyền thống như sự nhắc nhở duy trì luân lý và giá trị truyền thống.

2.2.2. Quan niệm về vai trò - vị trí của nhân dân

Xã hội Việt Nam thời thuộc Pháp là xã hội thuộc địa. Những yếu tố của

tư bản chủ nghĩa từ Pháp áp dụng cho tình hình Việt Nam, tạo nên những thay

đổi lớn so với lịch sử Việt Nam thời phong kiến độc lập. Kiến trúc thượng

tầng phong kiến Việt Nam không còn có thể tạo dựng thêm ảnh hưởng đáng

kể hay một tác động chi phối đến tất cả các giác độ, lĩnh vực khác nhau của

kết cấu xã hội. Sự suy thoái đó, cộng với việc chế độ thực dân triển khai hàng

loạt những biện pháp thay đổi thông qua hai cuộc khai thác thuộc địa kéo dài

từ cuối thế kỉ XIX đến thập niên 20 thế kỉ XX đã nảy sinh những hệ quả mới

ảnh hưởng đến cơ sở hạ tầng xã hội. Đó chính là sự vận động của quan niệm

về nhân dân, trong bối cảnh của một nước Việt Nam thuộc địa.

Người dân Việt Nam, trong tầm ảnh hưởng thống trị thần quyền – thế

quyền của chế độ phong kiến, chung quy trong danh xưng của “bề tôi” đối với

vua – nhà lãnh đạo quân chủ. Trong quan điểm của Nho giáo, “bề tôi” được

hiểu theo một diễn ngôn tập hợp các lớp nghĩa biểu thị danh xưng phản ánh

đặc điểm, trình độ - vai trò của họ về kinh tế và xã hội đương thời. Lớp nghĩa

đầu tiên của “bề tôi” bao gồm mọi người nói chung dưới quyền thống trị của

vua [35, tr. 293]. Kế đến là “bề tôi” với tư cách là chúng nhân, lê dân, thứ dân

Comment [L17]: Viện Nghiên cứu Hán Nôm (2002), Ngữ văn Hán Nôm, tập 2, Ngũ kinh. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

(hay còn gọi là bách tính - 百姓) với tầng lớp thống trị bao gồm vua và hệ

thống quan lại từ chính quyền trung ương tới các cấp hành chính địa phương.

Lớp nghĩa cuối cùng của “bề tôi” chính là những người có trọng trách giúp

vua, gồm có hai loại: một là trong việc thực hiện hoạt động cai trị (tầng lớp

quan lại), hai là hợp nhất trên cơ sở nền tảng cùng với vua thành lập nên một

tầng lớp thống trị nhằm hướng tới nhiệm vụ trị nước, trị dân và an dân.

Sự tồn tại của chế độ phong kiến ở Việt Nam không bởi do những

nguyên nhân thuần túy ngẫu nhiên, hoặc thậm chí là áp đặt tuyệt đối từ những

51

nguồn ảnh hưởng khác nhau và những cá nhân, cộng đồng khác nhau. Trải

qua quá trình liên tục của hàng loạt những tình huống có tính giới hạn về lịch

sử, thể chế phong kiến ở Việt Nam chứng tỏ được vai trò và tầm quan trọng

của mình. Tình huống có giới hạn lịch sử chính là cách mà các thế hệ người

Việt củng cố vị thế và giá trị trong thời kì hòa bình lẫn thời kì có trạng thái

chiến tranh. Những hoạt động như thiết lập bộ máy chính quyền độc lập từ

trung ương đến địa phương, đưa ra các chính sách phù hợp, giải quyết những

mâu thuẫn giữa các tầng lớp và giai cấp bản địa,... luôn là những vấn đề liên

hệ đến nhân dân. Những thành tựu đáng kể của các lĩnh vực như kinh tế, văn

hóa, chính trị,... góp phần bảo vệ và phát triển tiềm lực quốc gia, khẳng định

cương vực lãnh thổ và không gian văn hóa dân tộc.

Tuy nhiên, hiện trạng này không tồn tại được lâu dài. Về cơ bản, tính chất

của chế độ phong kiến là chế độ phân phong về tài sản và quyền lực nhằm

củng cố quá trình tập trung quyền lực vào chủ thể chính trị là nhà vua và bộ

máy quan liêu. Sự tồn tại của thần quyền – thế quyền trong chiều dài vận

động lịch sử, xã hội đã khiến cho quần chúng nhân dân chịu nhiều tác động từ

tính chất chuyên chế của chính quyền phong kiến. Quyền lợi chính đáng của

người dân chưa được tôn trọng một cách thực chất và bền vững. Vào đầu thế

kỉ XX, Phan Bội Châu đã phê phán hiện trạng này như sau: “Cái nọc độc

chuyên chế của bọn người hại dân ấp ủ đã hàng ngàn năm nay từ bên Trung

Quốc lây sang nước ta, đến nỗi một tên độc phu (vua) và vài vạn kẻ dung

nhân (quan) làm cá thịt trăm họ dân ta. Thế mà dân ta ngu ngốc khờ dại,

không biết giành dân quyền, giữ quốc mệnh, chỉ ngày đêm lo hết lòng hết sức

đem máu mỡ của mình cung đốn cho bọn độc phu, dung nhân uống nuốt!

Than ôi! Thật đáng thương thay” [3, tr. 89]

Comment [L18]: Phan Bội Châu (1990). Tân Việt Nam. Trích từ Phan Bội Châu Toàn tập, tập 2. Nhà xuất bản Thuận Hoá, Huế

Trật tự phong kiến tập quyền ở Việt Nam được thay thế bằng trật tự thuộc

địa do lực lượng thực dân Pháp triển khai. Đời sống con người không thể

đơn thuần giải thích bằng những cách tiếp cận chủ quan của những cá

nhân cụ thể, mà cần phải có sự truy vấn đối với tính chất vận động, biến

52

đổi của hiện thực đương thời. Quan niệm về nhân dân, theo đó, cũng có

những thay đổi so với giai đoạn trước. Karl Marx viết: “...không thể nhận

định về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của thời đại đó.

Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật

chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và

những quan hệ sản xuất xã hội” [19, tr.15]

Comment [L19]: Karl Marx (1859). Lời tựa Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị. Trích trong C.Mác và Ph.Ăng ghen Toàn tập. Tập 13. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, 1993

Khi luận về vai trò của nhân dân trong mối quan hệ với xã hội và nhà

lãnh đạo, Nguyễn An Ninh cũng chịu ảnh hưởng lớn từ quan điểm của Mạnh

Tử: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (Dân quý nhất, rồi đến xã tắc,

sau mới đến vua). Mạnh Tử lí giải như sau: “Cho nên, ai được lòng dân thì

làm thiên tử; ai được lòng thiên tử thì làm chư hầu; ai được lòng chư hầu thì

làm quan đại phu. Khi một chư hầu làm hại đến xã tắc thì có thể lập người

khác làm vua, vì xã tắc quan trọng hơn vua” [34, tr. 784]. Nhìn vào thực tiễn

của các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp, Nguyễn An Ninh tìm được

Comment [L20]: Dương Hồng – Vương Thành Trung – Nhiệm Đại Viện – Lưu Phong chú dịch (2006). Tứ thư Toàn tập. Trần Trọng Sâm – Kiều Bách Vũ Thuận biên dịch. Nhà xuất bản Hội Nhà văn.

động lực làm nên sức mạnh của quần chúng nhân dân. Động lực đó xuất phát

từ chính truyền thống hình thành làng xã Việt Nam. Ý thức xã hội của nhân

dân khởi nguồn từ kết cấu và vận động của làng xã – đơn vị hành chính cơ

bản của xã hội Việt Nam. Nguyễn An Ninh viết về làng xã Việt Nam như một

dạng tổ chức của cơ sở cộng hòa, “có ban hương chức hội tề do dân bầu ra, có

tổ chức nội trị, trong đó mỗi công dân đều có một chức trách, một bổn phận

với ngân sách riêng” [22, 316]

Trong quan niệm của Nguyễn An Ninh, nhân dân đại diện cho sự sinh

thành của ý niệm dân tộc trải qua các giai đoạn lịch sử cụ thể. Đó là nền tảng

cho sự sinh thành của một dân tộc. Chính từ những đơn vị làng xã cố kết với

nhau, tính chỉnh thể của dân tộc, quốc gia mới có điều kiện định hình mang

tính liên kết và tương hỗ trong các công việc, lĩnh vực thuộc về nội địa lẫn

ngoại giao. Từ điển Triết học Hegel định nghĩa dân tộc (tiếng Đức: Volk)

“vừa có nghĩa là nhân dân, đối lập với người lãnh đạo, vừa có nghĩa là một

cộng đồng được hợp nhất bởi tập tục, tình cảm và ngôn ngữ” [11, tr.131].

Comment [L21]: Inwood, Michael (2015). Từ điển Triết học Hegel. Tập thể dịch giả: Bùi Văn Nam Sơn, Cù Ngọc Phương, Đinh Hồng Phúc, Đoàn Tiểu Long, Hoàng Phong Tuấn, Hoàng Phú Phương, Huỳnh Duy Thanh, Lưu Quốc Khánh, Nguyễn Trúc Phương, Nguyễn Văn Sướng, Thánh Pháp, Tôn Nữ Thùy Dương, Trần Thị Ngân Hà, Trương Trọng Hiếu. Chủ trương và hiệu đính bởi Bùi Văn Nam Sơn. Nhà xuất bản Tri thức.

53

Nhờ nền tảng làng xã và vai trò quan trọng của quần chúng nhân dân, cương

vực lãnh thổ Việt Nam từng bước được khẳng định theo cách mà Nguyễn An

Ninh đánh giá là sở hữu “tính uyển chuyển khác hẳn với tính cứng nhắc của

một nước văn minh hiện đại mà những đường biên giới có thể bao trùm nhiều

yếu tố khác nhau” [22, tr. 316].

Bên cạnh vai trò mang tính khai mở đối với thiết chế xã hội, nhân dân

còn được Nguyễn An Ninh nhìn nhận là lực lượng quần chúng mạnh mẽ trước

mọi thách thức đe dọa sự tự do và những giá trị nhân sinh được gây dựng từ

thời lập làng, dựng nước. Đối với một quốc gia hay một dân tộc, nhân dân

luôn có vị thế đặc biệt khi luôn là nguồn lực dồi dào cho việc xây dựng hệ

thống nhân tài trí thức và khối lượng tích tụ tri thức mang đậm dấu ấn, giá trị

của không gian từng dân tộc – quốc gia cụ thể. Nguyễn An Ninh nhìn nhận

dấu ấn dân chủ sơ khai của quần chúng nhân dân, cụ thể là việc “bản thân các

vị quan lại, nghĩa là người thay mặt nhà vua để tiếp xúc với dân, lại cũng từ

dân chúng cử ra” [22, tr. 317]. Từ đây, Nguyễn An Ninh lí giải chiến thắng

quân sự của giới cầm quyền thực dân Pháp đối với Việt Nam không phải là

chống lại một triều đình, “mà họ phải chống chọi với một dân tộc, chống lại

những nước cộng hòa nho nhỏ liên minh lại, hết lòng hết sức ủng hộ lẫn

nhau” [22, tr. 318].

Giống với quan điểm “dân là dân nước, nước là nước dân” của Phan Bội

Châu, Nguyễn An Ninh đánh giá nhân dân Việt Nam mới thực sự là người

làm chủ đất nước “chứ không phải cái người ngồi trên ngai vàng” [22, tr.

318]. Thất bại của hệ tư tưởng phong kiến, mà triều đình là tổ chức đại diện

nắm vai trò lãnh đạo quốc gia, là thất bại của một hình thái kinh tế - xã hội

với sự suy yếu không thể cứu vãn của kiến trúc thượng tầng. Nguyễn An Ninh

nhìn thấy ở nhân dân một phản ứng thuần túy, một hành động chống xâm lăng

lan ra khắp các vùng miền trên lãnh thổ Việt Nam. Dù phản ứng đó, hành

động đó của nhân dân diễn ra khi triều đình hoàn toàn bị đánh bại và chấp

nhận hệ quả lịch sử nghiệt ngã mà Nguyễn An Ninh từng khái quát – “triều

54

đình bị kẻ thắng trận làm suy yếu dần dần, cho đến ngày nay nó chỉ còn tồn

tại trong kí ức” [22, tr. 318].

Nhân dân Việt Nam thời thuộc địa không còn là thần tử của chế độ

phong kiến như trước kia. Bi kịch lịch sử và hàng loạt những biến cố, xung

đột đã khiến chế độ đó không đủ sức cho những thay đổi triệt để về mọi mặt.

Với bối cảnh như vậy, Nguyễn An Ninh thẳng thắn chỉ ra mối quan hệ biện

chứng và đối lập tột độ giữa thực dân Pháp với toàn thể dân tộc Việt Nam,

giữa những “ông chủ” và “nô lệ”. Sự tráo đổi thuật ngữ không do Nguyễn An

Ninh quy định, mà nó được thiết lập như kết quả từ sự phủ định của phủ định

bằng những sự kiện lớn nhỏ của lịch sử - xã hội. Sự quản lý toàn trị được thực

dân Pháp thi hành lên Việt Nam, coi dân tộc và nhân dân Việt Nam là đối

tượng để được nhận những “văn minh”, “khai hóa”. Những người dân Việt

Nam vốn trước là thành tố vận hành và gìn giữ quốc gia độc lập, giờ phải đối

diện với hệ thống áp bức và giam cầm đến từ bên ngoài. Trong khi thực tế, ở

một xã hội dân sự đầy đủ hay thậm chí đơn thuần là một xã hội có tôn ti trật

tự và nền độc lập quốc gia được khẳng định, “không một ai có thể bị bỏ tù,

hoặc bị tước đoạt tài sản của mình hay một quyền pháp lý khác, vì phẩm chất

đạo đức của mình, vì những chính kiến chính trị và tôn giáo của mình” [18, tr.

259]. Marx cũng thẳng thắn nói thêm rằng ngay cả những cá nhân, sinh vật

tưởng chừng là vô nghĩa, là vô dụng và thậm chí là đối tượng hứng chịu chỉ

Comment [L22]: Karl Marx (1843) Việc cấm tờ báo “Leipziger Allgemeine Zeitung”. Đăng trên báo “Rheinische Zeitung” các số 1,4, 6, 8, 10, 13 và 16, ngày 1, 4, 6, 8, 10, 13, 16 tháng Giêng năm 1843. Trích trong C.Mác và Ph.Ăng ghen Toàn tập. Tập 1. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật – 1995, tr. 259.

trích từ một số nhóm người, từ dư luận nặng định kiến chủ quan cũng có

quyền được tồn tại và thực sự tồn tại. Ông viết: “ngay cả một sinh vật vô dụng

nữa, mặc dù nó vô dụng, vẫn có quyền tồn tại nếu như sự tồn tại này không vi

phạm pháp luật”[18, tr. 260].

Nguyễn An Ninh nhận định sự đối lập, mâu thuẫn ngày càng trở nên sâu

Comment [L23]: Karl Marx (1843) Việc cấm tờ báo “Leipziger Allgemeine Zeitung”. Đăng trên báo “Rheinische Zeitung” các số 1,4, 6, 8, 10, 13 và 16, ngày 1, 4, 6, 8, 10, 13, 16 tháng Giêng năm 1843. Trích trong C.Mác và Ph.Ăng ghen Toàn tập. Tập 1. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật – 1995, tr. 260.

sắc giữa nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp mãi tồn tại khi Việt Nam vẫn

còn là thuộc địa, là quốc gia mất chủ quyền tự do và toàn vẹn lãnh thổ. Nỗ lực

đưa dân chủ phương Tây vào Việt Nam của thực dân Pháp, thông qua hệ

thống các cơ quan công quyền và cơ quan dân sự nặng lập trường thực dân,

55

chỉ càng khiến đại bộ phận quần chúng nhân dân Việt Nam thêm sự phản đối

kịch liệt. Tình trạng cai trị hà khắc của chế độ thực dân Pháp làm bần cùng

hóa đời sống của toàn thể dân tộc, dựa theo lí lẽ mà quân đội Pháp sử dụng

nhân danh tôn giáo để tấn công Đà Nẵng và xâm lược Việt Nam vào nửa cuối

thế kỉ XIX. Trái ngược với lập trường của giới chức thực dân Pháp, lịch sử tư

tưởng thế giới đã có những quan điểm phản đối chiến tranh lợi dụng tôn giáo.

Một trong số quan điểm đó là của nhà thần học Francisco de Vitoria (người

xứ Basque, nay là Barcelona), người đã từng chỉ trích mạnh mẽ tất cả các

cuộc chiến tranh nhân danh huyền thoại ưu việt của tôn giáo [28, tr. 87]

Nguyễn An Ninh đã chỉ rõ: “Một dân tộc nô lệ muốn dựa vào chủ của

Comment [L24]: Paul Kelly – Rod Dacombe – John Farndon – A.S. Hodson – Jesper Johnson – Niall Kishtainy – James Meadway – Anca Pusca – Marcus Weeks (2019). Khái lược những tư tưởng lớn – Chính trị. Dịch bởi Bích Thu, hiệu đính bởi Lê Ngọc Tân. Nhà xuất bản Dân trí.

mình để mong thoát ra vòng nô lệ, thì họ đã vội quên đi quá nhanh chóng lý

do vì sao mà người ta đã biến họ thành nô lệ” [22, tr. 319]. Ông phê phán chế

độ dân chủ giả hiệu mà thực dân Pháp triển khai ở Việt Nam, cụ thể là hoạt

động bầu cử quyền đại diện của người bản xứ. Về lý thuyết dân chủ phương

Tây áp dụng cho các nhà nước dân chủ, việc người dân chọn ra đại biểu bầu

vào cơ quan Nghị viện là cách để khẳng định nguyện vọng đảm bảo các

quyền cơ bản của dân chúng cũng như góp phần xây dựng cơ chế hoạt động

công quyền hiệu quả cho phúc lợi xã hội. Khi xét vào thực tế thuộc địa (ở đây

là Việt Nam), Nguyễn An Ninh châm biếm Outrey - nghị viên người Pháp mà

lại là đại diện cho hơn ba triệu người Nam Kì trong khi nhân vật này được

bầu bởi số cử tri là 350 người (đại bộ phận trong số đó là công chức). Ông

phê phán cay nghiệt chế độ bầu cử kiểu dân chủ thực dân, rằng nó xảy ra “khi

mà đa số được đại diện như thể là tổng cộng trí khôn của ba con bê thì gần

bằng với trí khôn của thượng đế hơn là trí khôn của một con bê, khi mà thiểu

số bị hy sinh cho đa số” [22, tr. 311].

Yếu tính của nền dân chủ nằm ở sự cơ cấu chính sách đảm bảo cơ chế

công bằng cho các thành tố, các cơ quan. Điều đó từng được Erich Fromm dự

báo trong một không gian – thời gian lịch sử sau Chiến tranh thế giới lần thứ

hai. Ở đó, không ít lo ngại của Nguyễn An Ninh về mặt trái của chế độ dân

56

chủ những năm 1923 – 1928 đã trở thành sự thật không thể bác bỏ : “Những

chính thể dân chủ hiện hành tỏ ra vững mạnh và thay thế những nhà nước

quân chủ cũ nát. Thế nhưng cũng chỉ vài năm sau khi những chế độ mới đó

xuất hiện, nó đã phủ định tất cả mọi thứ mà con người hằng tin tưởng đạt

được qua bao thế kỷ tranh đấu. Vì bản chất của những chế độ này, chế độ

thực sự nắm quyền kiểm soát toàn thể đời sống xã hội lẫn đời sống cá nhân, là

sự khuất phục của tất cả ngoại trừ một số ít người dựa vào quyền hành họ

kiểm soát được” [7, tr. 10].

Comment [L25]: Erich Fromm (2007). Người dịch: Bùi Thanh Châu. Trốn thoát tự do. Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa.

Nguyễn An Ninh còn nêu lên nghịch lý của nhân dân sống trong vòng nô

lệ của chế độ thực dân. Người dân buộc phải chối từ năng lực lý tính của

chính mình, từ chối những kinh nghiệm và tri thức sinh động của đời sống và

di sản tri thức – tinh thần đã định hình nên trình độ hiểu biết của mình, đã gọi

tên mình như gọi một thực thể sống đặc biệt trong mối tương quan với tự

nhiên ngoại tại. Thống đốc Cognacq và câu nói “Xứ này không nên có hạng

người trí thức” đánh động đến lương tâm và tinh thần phê phán của Nguyễn

An Ninh. Ông không những không ngạc nhiên bởi phát ngôn đầy ẩn ý của

viên quan chức quyền lực kia, ông thậm chí gắn cho ông ta những tính từ

“khôn ngoan, sáng suốt” để rồi bần cùng hóa danh phận thống trị của ông ta

bằng chính những phản đề của lý tính bị tha hóa tột cùng.

Lý tính dẫu có tự do hết thảy và quyền năng minh triết đến đâu, có khiến

con người ta tự do ra sao nhưng sẽ thật hoang mang khi lý tính thiếu vắng đi

những sự tưởng tượng cần thiết và sự thông minh sắc bén – những điều diễn

ra trong giai đoạn quá độ để từ những cảm quan thông thường đạt được sự

thấu tỏ lý tính, hiểu về tự do và quyền làm chủ thực sự. Nguyễn An Ninh viết:

“Sự Thông minh là cái Xấu. Sự Thông minh là con Rắn quấn xung quanh cái

cây của sự hiểu biết, nó đã làm cho chúng ta mất đi mãi mãi chốn thiên

đường. Sự Thông minh là Ivan Karamazov, kẻ đã, vì suy luận quá nhiều,

tuyên bố là “mọi thứ đều không thể bị cấm” và cuối cùng đã chết trong sự

điên rồ (...) Trí tưởng tượng là sự vô trật tự, là sự hỗn loạn, là sự tự do không

57

thể kiểm soát, không sao làm dừng lại được, không giới hạn. Đó là thứ Quyền

lực đã làm cho thế giới này thành ra một thế giới đầy những ảo ảnh bất diệt,

đầy những khổ đau, đầy những tiếng thở than, khóc lóc để rồi dẫn đến màn

kịch cuối cùng bước vào cuộc chơi”[22, tr. 125]

Đối với Nguyễn An Ninh, dù là người thuộc bất cứ lực lượng xã hội nào,

đều mang số phận của những người nô lệ với những não trạng nô lệ trong sự

hiện tồn của chính mình. Sự đối lập gay gắt giữa dân tộc Việt Nam với thực

dân Pháp không những khởi đầu từ những cuộc xung đột đầu tiên vào nửa

cuối thế kỉ XIX, mà còn kéo dài cho đến thời điểm của những năm 20 thế kỉ

XX. Dưới chế độ thực dân – đại diện cho vị thế ông chủ và cho vị thế của sự

áp bức, nhân dân Việt Nam chịu đựng số phận của những người mang thân

phận nô lệ, những con người đánh mất và gần như mất phương hướng lý tính

trên con đường tìm kiếm tự do mà thân thể - tâm tính bị đè nặng bởi sự ép

chặt đường sinh sống. Ông hình dung phúng dụ thuộc địa như sau: “Ở đây

người ta không nghe thấy tiếng bước đi hay giọng nói của những ông chủ.

Đầu óc của con người nô lệ lúc nào cũng nơm nớp lo sợ vì giọng thét và bàn

tay của chủ, lần lần trở về với mảnh đất tổ tiên và hòa hợp với đất để làm

sống lại những ký ức của những ngày đầy nghị lực của tổ tiên, khi họ đến

chinh phục và đem cả tâm hồn mình thấm đượm mảnh đất này, mà giờ đây

các thế hệ con cháu tiếp nối và không thể đã không biết bảo vệ chỉ vì yếu

đuối, khờ khạo và dốt nát” [22, tr. 72].

Erich Fromm đã diễn giải “Tính hủy diệt là hậu quả của một cuộc sống bị

thủ tiêu. Những hoàn cảnh cá nhân hay xã hội khiến cuộc sống bị đàn áp tất sẽ

tạo ra khuynh hướng thù địch – với tha nhân hay với bản thân – được hình

thành và nuôi dưỡng” [7, tr. 203]. Nguyễn An Ninh cũng có những suy nghĩ

tương đồng với Fromm, triết gia và tác giả của cuốn sách “Trốn thoát tự do”

ra đời mấy năm sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Nguyễn An Ninh

chưa có một dự đoán nào về tương lai xa của một cuộc chiến mà ông chưa hề

biết, nhưng ông nhận thấy một tỷ lệ thuận kinh ngạc và không có tính cơ học

58

giữa tự do và áp bức, bất công trong xã hội thuộc địa. Ông dự cảm về một

tương lai gần, mà ở đó diễn ra cuộc đụng độ không thể tránh khỏi giữa Việt

Nam – một dân tộc đấu tranh phá bỏ chế độ phản dân chủ với Pháp – một

quốc gia trở nên lầm lạc và khủng hoảng khi áp đặt ách cai trị thực dân lên

dân tộc Việt Nam cũng như các dân tộc thuộc địa khác.

2.2.3. Bàn luận về cách mạng và thỏa hiệp

Tình trạng bế tắc, đối lập càng ngày gay gắt giữa các biện pháp đấu

tranh chính trị ở Việt Nam giai đoạn 1923 – 1928 đã khiến cho Nguyễn An

Ninh cần thấy phải đưa ra lựa chọn trên những cảm nghiệm thực tiễn của tình

hình đương thời. Cách mạng và thỏa hiệp được Nguyễn An Ninh nhìn nhận là

hai con đường mang tính hệ quả luận của vấn đề dân chủ ở Việt Nam từ đầu

thế kỉ XX đến những năm 1920. Mục đích đấu tranh dân chủ, dân quyền được

hiện thực hóa là một trong những mục đích mà thế hệ trí thức Đông du – Duy

tân từ Bắc đến Nam đều không đạt được trong thời gian hoạt động khai phá

con đường cách mạng của mình. Dù vậy, cách mạng và thỏa hiệp là hai

phương thức, hai thái độ mà sự đối lập giữa chúng nảy sinh nên các cách nhìn

nhận về vấn đề dân chủ, góp phần định hình thực hiện những hành động phản

kháng với những cơ sở hiện tồn.

Lịch sử dù rất khách quan và luôn đứng về phía khách quan khi đồng

thời ghi nhận những thành tựu, tổn thất của cả phong trào Đông du (lãnh đạo

bởi Phan Bội Châu, chủ trương đấu tranh bạo lực vũ trang) và cuộc vận động

Duy tân (lãnh đạo bởi Phan Châu Trinh, chủ trương đấu tranh cải cách toàn

diện để từng bước độc lập hoàn toàn), song lịch sử cũng chứng kiến sự tồn tại

khác biệt của những xu hướng chính trị nảy sinh sau Chiến tranh thế giới lần

thứ nhất. Dù chính thức hay không chính thức, các xu hướng chính trị đó ảnh

hưởng không nhỏ từ sự khác biệt vốn dĩ đã hiện diện từ thế hệ Nho sĩ ủng hộ

khuynh hướng dân chủ tư sản, mà Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh là hai

nhân vật quan trọng của lịch sử cận – hiện đại Việt Nam.

59

Trong tư tưởng của Nguyễn An Ninh, cách mạng ở Việt Nam vốn dĩ

không thể không nhắc đến diễn trình các cuộc khởi nghĩa kháng Pháp. Sự tồn

tại của chúng là hiện thực tất yếu, bởi Nguyễn An Ninh chỉ rõ tính thực

chứng của lịch sử “đã chứng minh đầy đủ tính độc lập của dân tộc Việt

Nam” [22, tr.81]. Nhưng sự thật đó không thể hiện đầy đủ về mọi mặt để

đánh bại thế lực của chính quyền thực dân, một chính quyền “nuôi dưỡng

một bộ máy phương tiện đàn áp địa phương và liên bang khổng lồ. Tổ chức

mọi phương tiện đàn áp tàn khốc, nhằm dìm trong biển máu của mọi cuộc

nổi dậy, dù là nổi dậy trong hòa bình” [22, tr. 81]. Từ phân tích này,

Nguyễn An Ninh đã cho thấy hiện thực của ách cai trị thực dân vốn dĩ

không có thái độ dân chủ đối với những lực lượng phản kháng bằng vũ

trang lẫn những lực lượng đấu tranh hòa bình.

Cách mạng, đối với Nguyễn An Ninh, là hình thức phản kháng có tính

quyết định sau khi lịch sử trải qua hai hình thức nổi dậy và bạo loạn. Ông tìm

thấy ở các cuộc nổi dậy chứa đựng lí do phát động nhằm chống áp bức - giải

phóng dân tộc như là những lí do cốt yếu, định hình nên cường độ và sức ảnh

hưởng sâu sắc đến mức kiên định. Nhân dân lựa chọn nổi dậy, như một phản

ứng tự nhiên để khẳng định quyền tự chủ và thái độ chấp nhận tình thế sống

còn với chế độ đang đè nén bản thân họ cũng như toàn thể dân tộc: “trên

chiến trường, họ đã bị tước đoạt quyền sống, thì giờ đây, họ chỉ nghĩa đến

việc giành lại quyền sống đó trên chiến trường mà thôi” [22, tr. 83].

Nguyễn An Ninh kịch liệt phê bình hình thức sử dụng ma thuật, bùa chú

vào đấu tranh chống Pháp. Ông lấy dẫn chứng về khởi nghĩa năm 1916 của

Thiên Địa hội ở Nam Kì. Bởi lẽ, ông thấy rằng quần chúng nhân dân đã đành

phải “gửi gắm vận mệnh cho một hạng người phiêu lưu (…) như Phan Xích

Long” [22, tr. 83] rồi rốt cuộc bị thực dân Pháp dễ dàng đàn áp. Tính chất của

các cuộc đấu tranh như vậy, được Nguyễn An Ninh phê phán là “cách bạo

loạn mù quáng” với “những quan điểm đấu tranh lạc hậu” là “bạo lực mù

quáng cũng chỉ là khí giới của sự tuyệt vọng” [22, tr. 83]. Về việc lựa chọn

60

giữa cách mạng bạo lực hay cách mạng hòa bình, Nguyễn An Ninh chủ

trương chọn cách mạng bạo lực như sự lựa chọn cuối cùng, bởi lẽ “Người ta

chỉ lên án bạo lực khi nó chưa cần thiết. Nhưng trong trường hợp đó là con

đường duy nhất thì ai cũng phải chấp nhận nó”[22, tr. 83]. Ông cũng dẫn lời

của Gandhi để chứng minh cho sự lựa chọn của mình, rằng “Ở đâu mà có sự

lựa chọn giữa sự hèn nhát và bạo lực, tôi khuyên nên dùng bạo lực”, “Tôi

thích thấy nước Ấn Độ được tự do bằng bạo lực còn hơn bị xích lại bởi bạo

lực của bọn thống trị”[22, tr. 415]. Nguyễn An Ninh xác định con đường bạo

lực cách mạng là con đường cuối cùng, biện pháp cuối cùng khi phong trào

đấu tranh hòa bình không khiến thực dân Pháp chùn bước. Đây chính là biểu

hiện rõ nhất cho ý chí độc lập chính là sức mạnh to lớn của nhân dân Việt

Nam.

Phương thức thỏa hiệp, được Nguyễn An Ninh đề cập như một sự đối

lập với phương thức cách mạng. Nó nảy sinh ngay từ chính những nhóm cá

nhân người Việt có thái độ hợp tác với chế độ thực dân tại Việt Nam cũng

như chính phủ Pháp. Nguyễn An Ninh nhận định những người thỏa hiệp “hay

nói đến những tư tưởng nhân đạo của nước Pháp hòng lung lạc tình cảm các

tay thực dân, họ đã tỏ ra ngây thơ chẳng khác gì những người Âu Châu đang

tin tưởng nơi sứ mạng khai hóa của nước Pháp” [22, tr. 80]. Lập luận căn cốt

của lực lượng thỏa hiệp là chính sách “Pháp – Việt đề huề” do Toàn quyền

Albert Sarraut đưa ra. Lấy lí lẽ cho rằng người nông dân không thể tha cho

anh em mình nếu họ bất công, những cá nhân ủng hộ thỏa hiệp đưa ra đề nghị

hòa giải đến từ chế độ thực dân: “chỉ cần có một chính phủ biết quan tâm đôi

chút đến công lý là sẽ dễ dàng làm lắng dịu mọi ý đồ nổi dậy” [22, tr. 84].

Nguyễn An Ninh phân tích rằng rốt cuộc, tất cả những gì mà lực lượng thỏa

hiệp làm là “cố gắng dung hòa giữa quyền lợi thực dân và nguyện vọng của

dân An Nam” [22, tr.84].

Nguyễn An Ninh đứng về quần chúng nhân dân và nhìn thẳng vào tình

hình đương thời, ông không thể đồng tình với mọi hình thái hay cách thức

61

thỏa hiệp. Ông chỉ ra rằng đã không ít lần, dân tộc Việt Nam đơn thuần hình

thành những thái độ cần thiết để “vừa hòa hợp truyền thống ấy với thời đại

mới” [22, tr. 160], tìm lại sự trật tự thay thế cho tình trạng xung đột và mâu

thuẫn của xã hội bấy giờ. Nguyễn An Ninh đưa ra công thức chung mà không

ít người Việt đã thực hiện nhằm cố gắng tái tạo lại tri thức và tinh thần tự

quyết đối với số phận của bản thân: “Sự sáng tạo nào cũng đòi hỏi một sức

mạnh. Sự xây dựng nào cũng đòi hỏi một ý chí, một sức mạnh có kỷ luật”

[22, tr. 161]. Điều đó thất bại hoàn toàn, khi chế độ thực dân đã lập tức “dã

man bóp nghẹt văn hóa, bóng tối che lấp ánh sáng và che lấp một cách thô lỗ

với một sự tàn bạo không làm vinh hạnh chút nào cho nòi giống con người”

[22, tr. 162]. Quan điểm bất hợp tác của Nguyễn An Ninh với thái độ thỏa

hiệp vô điều kiện của lực lượng thỏa hiệp (đại diện là Đảng Lập hiến) có phần

tương đồng với quan điểm của Thomas Paine: “Mọi biện pháp kín đáo tìm

kiếm hòa bình đã không mang lại hiệu quả nào cả. Những lời cầu nguyện của

chúng ta đã bị bác bỏ trong khinh miệt.” [23, tr. 64].

Nguyễn An Ninh trực tiếp phê phán những người thỏa hiệp bằng hiện

thực không thể chối cãi, rằng chế độ thực dân chỉ tồn tại nền công lý cho thiểu

số có quyền lực. Thông qua vụ án oan của cô Nguyễn Khoa Diệu Chi,

Nguyễn An Ninh khẳng định rốt cuộc công lý ở thuộc địa “dưới sự chỉ huy

của chính quyền bảo hộ và sự tán tỉnh của người Pháp dưới lớp vỏ che của

giới quan lại An Nam” [22, tr. 637]. Với việc phân tích tính chất vụ trục xuất

các nhà báo ra khỏi Nam Kì vào ngày 24/06/1927, Nguyễn An Ninh đã vạch

trần chính sách ngụy dân chủ ở thuộc địa và chính sách công lý theo dạng

“chia để trị”. Theo quan điểm của Nguyễn An Ninh, dân chủ thuộc địa đã làm

cho người Việt không còn có vị thế công dân hay quốc dân được bảo vệ bởi

pháp luật: “thần dân Pháp nhưng không có các quyền của người Pháp và thần

dân An Nam lại chẳng còn các quyền An Nam” [22, tr. 762]. Thất bại của vụ

án Bardez tại Campuchia (với việc những người dân tỉnh Kompong – Chnang

bị xử tội do nổi dậy chống thuế và giết công sứ Bardez), Nguyễn An Ninh kết

62

luận: “kẻ áp bức không bị trừng phạt, còn ở phía bên kia, có những kẻ bị áp

bức bị trừng phạt” [22, tr. 437].

Mối tương quan giữa cách mạng và thỏa hiệp được Nguyễn An Ninh

xem xét cả trên phương diện nhận thức của cá nhân. Khi ông, hoàn toàn chủ

động và trực tiếp, đánh giá vị thế của trí thức Việt Nam như một đối tượng

đứng giữa sự lựa chọn giữa cách mạng và thỏa hiệp. Thái độ trịch thượng của

lối suy nghĩ cho rằng mình “ưu tú” để rồi tự hạ thấp nhân phẩm và tri thức

của mình mà đi van xin người bảo hộ chút quyền nhỏ nhoi. Sau là việc có

không ít trí thức trọng bằng cấp mà không có lý tưởng cao đẹp; họ chỉ

“chuyên đi làm chó giữ nhà trung thành cho một chế độ ô nhục” [22, tr.729].

Kế đến, ông phê phán những trí thức coi trọng tham vọng cá nhân “mà cam

tâm làm đầy tớ cho các giai cấp giàu sang trưởng giả”[22, tr. 732]. Từ những

hạn chế đó, Nguyễn An Ninh chủ trương thiết lập sự gắn kết của người trí

thức với cách mạng để từ đó cố gắng trở thành những nhà trí thức chân chính.

Vì theo Nguyễn An Ninh, cách mạng chính là cánh cửa mở ra viễn cảnh của

một xã hội mới: đó là nơi được giải phóng khỏi mọi hình thái áp bức, nơi tôn

trọng nhân phẩm con người. Bên cạnh đó, việc trí thức dấn thân vào tranh đấu

cách mạng chính là điều kiện để họ “tìm được sự che chở nhân phẩm”[22, tr.

759].

Quan điểm thực hành dân chủ của Nguyễn An Ninh là hành động trực

2.2.4. Luận về phương thức thực hành dân chủ

tiếp, có tổ chức và mang tính cách mạng về bản chất lẫn những hiện tượng

kèm theo. Habermas viết về hệ thống các khuynh hướng khủng hoảng (crisis

tendencies) trong xã hội tư bản chủ nghĩa sẽ dẫn tới viễn cảnh của những

xung đột lớn: ở đó, “một mặt khác, những sự đính chính ngụy tạo và mâu

thuẫn giữa logic của sự tích lũy tư bản, và ở mặt còn lại là những áp lực phổ

biến mà chính trị dân chủ triển khai”[37, tr. 83].

63

Ông chủ trương về việc xác lập lý tưởng một học thuyết cách mạng là

điều kiện cho sự ổn định lý thuyết, tiến tới triển khai các hoạt động cách mạng

dân chủ. Trong suy nghĩ của Nguyễn An Ninh, “bất cứ lý tưởng nào cũng

gồm một học thuyết. Không có học thuyết, lý tưởng sẽ chỉ là một giấc mơ.

Quả là thừa khi nói rằng cần phải có chiều sâu và phương để thiết lập một học

thuyết có người theo” [22, tr. 577]. Lý thuyết chính là yếu tố đầu tiên nhằm

định hướng ban đầu cho công cuộc tạo dựng các yếu tố cần thiết của một cuộc

cách mạng toàn diện, trước hết là thực hành dân chủ trong việc khơi dậy nhận

thức thực tế một cách đúng đắn cho mỗi cá nhân, cộng đồng. Ý nghĩa của việc

xác lập học thuyết cách mạng, theo Nguyễn An Ninh, là bước đi quan trọng

để từ đó tập trung vào việc xác lập tổ chức cách mạng nhằm hiện thực hóa lý

thuyết cách mạng đã được minh định lúc ban đầu.

Thực tế cho thấy, phong trào đấu tranh chống Pháp của Việt Nam từ cuối

thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, ít nhất là đến năm 1927 (thời điểm Nguyễn

An Ninh viết hai bài “Kinh nghiệm Quốc dân đảng”), luôn gặp trở ngại to lớn

đến mức không thể giải quyết được. Đó là xác định hệ tư tưởng (theo ngôn

ngữ của Nguyễn An Ninh là “học thuyết cách mạng”) để phát động phong

trào tranh đấu có hiệu quả. Điều đó thể hiện ở ngay trong quá trình hoạt động

của thế hệ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,…đầu thế kỷ XX. Những thắng

lợi của Trung Hoa Quốc dân đảng (với chủ nghĩa Tam dân làm hệ tư tưởng)

đã trải qua nhiều thách thức, khó khăn mà đạt được những thành công như:

lãnh đạo cách mạng Tân Hợi (1911), lập nước Trung Hoa Dân quốc (1912),

phát động Chiến tranh Hộ quốc (12/1915 – 07/1916), thiết lập Mặt trận Quốc

- Cộng hợp tác (1924 – 1927),… Đó chính là minh chứng quan trọng của

Nguyễn An Ninh trong việc phát hiện, kiên trì đi theo lý thuyết cách mạng

đúng đắn để biến nó trở thành thực tiễn.

Nguyễn An Ninh đã đưa ra phương thức quan trọng mang tính phổ quát

về bản chất và hiện tượng, nhằm xác định thực hành dân chủ trong bối cảnh

Việt Nam còn là thuộc địa của thực dân Pháp: “Chống trả lại một tổ chức đàn

64

áp hiện đại, ta phải có tổ chức kháng cự hiện đại” [22, tr. 83]. Chính vì sự cai

trị bằng khủng bố của thực dân Pháp, ông coi cuộc đấu tranh giữa sự cai trị

của thực dân với nhân dân Việt Nam là cuộc đấu tranh của hai mặt đối lập

trong một không gian – thời gian cụ thể: “Chống đối lại một trật tự, phải dùng

một trật tự khác, giáng trả một sức mạnh, phải dùng một sức mạnh khác” [22,

tr. 339]. Dù rằng việc tuyên truyền, thúc đẩy sức mạnh tinh thần dựa trên

những lý tưởng cách mạng là quan trọng, nhưng với Nguyễn An Ninh, điều

đó chưa phải là tất cả yếu tố cho một cuộc cách mạng thành công. Ông viết

rằng: “Có một lý tưởng chưa phải là tất cả. Còn phải nhiều hơn nữa… Cuối

cùng, để bắt đầu, cần phải có một tổ chức lâu dài và vững mạnh” [22, tr. 577].

Việc hình thành tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn là nhân tố quan trọng

về mặt tổ chức. Mục đích, theo Nguyễn An Ninh, là giúp cho nhân dân biết

đọc viết, biết tri thức, biết lĩnh hội sứ mệnh của lịch sử và đoàn kết lực lượng,

đấu tranh bằng mọi mặt (công khai lẫn bí mật), làm nòng cốt cho các đảng

chính trị về sau (khi có điều kiện). Năm 1928, trước những biến động của

trong và ngoài nước, Nguyễn An Ninh chủ trương thành lập Mặt trận thống

nhất nhằm “đoàn kết lại trong một nỗ lực chung để chiến đấu chống lại bạo

quyền thực dân” [22, tr. 693]. Yếu tố đoàn kết có thành công hay không, cần

phải có những nhận định đúng đắn, toàn diện về các lực lượng xã hội đương

tồn tại ở Việt Nam bấy giờ, xét đến trình độ và khả năng của từng lực lượng

một để từ đó tạo dựng nên mặt trận rộng rãi, mạnh mẽ, kiên định và phát huy

sức mạnh toàn dân tộc.

Nguyễn An Ninh đề cập đến những người trí thức Việt Nam với sự như

đối tượng quan trọng trong việc tiến hành thực hành dân chủ. Thời điểm quân

Pháp xâm lược Việt Nam, Nguyễn Lộ Trạch kì vọng vào hình tượng những trí

thức có cốt cách quân tử trong việc chịu trách nhiệm trước hưng vong của

quốc gia, gây dựng dân khí: “Người quân tử không dám vì thiên hạ yên trị mà

xao lãng việc nơm nớp giữ gìn, cũng chẳng nỡ vì thiên hạ loạn lạc mà sợ sệt

lẩn tránh. Có trách nhiệm với đời một ngày thì cũng có việc làm của một

65

ngày” [16, tr.144]. Trí thức Việt Nam không chỉ đơn thuần “làm giàu di sản

trí tuệ của dân tộc” [22, tr. 69] mà còn “phản chiếu lên con người của mình

một khía cạnh của tâm hồn dân tộc” [22, tr. 69]. Người trí thức, trong tư

tưởng Nguyễn An Ninh, phải là người có tài năng, trình độ đi đôi với khí

phách kẻ sĩ trước thời cuộc: “đoàn kết, đủ khả năng làm cho kẻ hung dữ, kiêu

căng và vô lối phải cúi đầu” [22, tr. 340]. Đích đến của người trí thức Việt

Nam không dừng ở những điều kiện sống của cá nhân mà còn tiến tới “cải

thiện điều kiện sống của đồng bào mình” [22, tr. 386], tương đồng với quan

điểm quan điểm “mưu cuộc phú cường, không có gì khác hơn là làm lợi cho

dân” của Nghiêm Phục [Dẫn theo: 31, tr. 27]. Bởi lẽ, dù trí thức có người này

người khác, khả năng khác nhau, trình độ khác nhau song đều có chung

những giá trị của cội nguồn dân tộc: đó chính là “tính kiên cường bất khuất”,

là “dòng máu tự hào oanh liệt của các bậc tiền bối không bao giờ chấp nhận

bất cứ ai chà đạp, nhục mạ Tổ quốc mình” [22, tr. 386].

Tiếp theo, Nguyễn An Ninh phân tích về những người công nhân Việt

Nam. Trải qua hai cuộc khai thác thuộc địa (từ năm 1897 đến năm 1929),

công nhân Việt Nam đã xuất hiện từ những người nông dân bị phá sản quy

mô lớn, phải rời xa quê hương để đi đến những vùng đô thị hoặc các vùng

khác để tìm cách sống sót. Họ làm thuê cho các ông chủ phương Tây tại các

xí nghiệp, đồn điền,… trong những điều kiện khắc nghiệt, khó khăn. Theo

Nguyễn An Ninh, bãi công chính là vũ khí mạnh nhất mà công nhân sở hữu

để gây sức ép với chủ tư bản, tự tạo lập cho mình phương cách hữu hiệu để

bảo vệ cho quyền lợi của mình. Từ sau Thế chiến I (1914 – 1918) đến những

năm 20 thế kỷ XX, công nhân ở các nước trên thế giới tích cực đấu tranh bãi

công để yêu cầu giới chủ tôn trọng những quyền cơ bản của giai cấp mình.

Nguyễn An Ninh đã kể ra một số phong trào tiêu biểu như: bãi công ở Tây

Ban Nha (1917 – 1919), tổng bãi công hai tuần lễ ở Washington và Seatle

(1919), tổng bãi công ở La Havana (Cuba) năm 1924 để chống quân luật,…

Làn sóng bãi công cũng tác động lớn đến Argentina và Pháp cùng thời gian

66

nêu trên, song công nhân Việt Nam chưa hề biết đến bãi công. Nhưng chính

vì cuộc bãi công của 400 thủy thủ Pháp ở Sài Gòn đã giúp cho công nhân Việt

Nam rút ra hai yếu tố đáng lưu ý góp phần vào tính hiệu quả bãi công: “sức

mạnh nằm ở số người tham gia và trong sự đoàn kết [22, tr. 550]. Ngoài ra,

Nguyễn An Ninh cũng chỉ ra thất bại của giai cấp công nhân do “thiếu tổ chức

và thiếu những thủ lĩnh có khả năng” [22, tr. 551].

Ông thấy rằng mối quan hệ giữa chủ nghĩa quốc gia với chủ nghĩa quốc tế

là cần thiết cho thực hành dân chủ thực sự. Trước hết, chủ nghĩa quốc gia là

“quá khứ lâu đời đã tạo ra cho mỗi dân tộc một bầu không khí mà họ đã quen

sống trong đó”, điều kiện để “tập hợp và sử dụng mọi sức mạnh của họ”[22,

tr. 432]. Còn chủ nghĩa quốc tế là “sự liên quan chặt chẽ giữa các quốc gia và

sự cần thiết liên kết các dân tộc vì hòa bình và hạnh phúc nhân loại”[22, tr.

433]. Ông khẳng định: “Chủ nghĩa quốc tế sẽ không thể tồn tại nếu không có

chủ nghĩa quốc gia”. Bởi vì, chủ nghĩa quốc tế không thể phát triển toàn diện

và đầy đủ ý nghĩa khi vẫn còn những quốc gia “bị bạo lực khép vào vòng nô

lệ”[22, 432]. Thực tế lịch sử đã chứng minh sinh động cho luận điểm này.

Tính từ khi Cách mạng tư sản bùng nổ ở châu Âu (thế kỷ XVI - thế kỷ

XVIII), hệ thống các quốc gia cộng hòa áp dụng kinh tế tư bản chủ nghĩa đã

gia tăng, kéo theo đó là sự liên tục không ngừng các cuộc tiếp xúc (thậm chí

là chinh phục bằng quân sự) với phương Đông. Điều đó dẫn tới xu hướng lớn

của thế giới là sự thu hẹp tình trạng cô lập giữa Đông – Tây (tồn tại từ thời

phong kiến), kéo theo những giá trị mới về: đạo đức, khoa học tự nhiên, địa

lý, lịch sử, giao thương,…Vì vậy, dù là chủ nghĩa quốc gia hay chủ nghĩa

quốc tế cũng không thể tách biệt, phân rẽ nhau “chủ nghĩa quốc gia hay chủ

nghĩa quốc tế không hề đối chọi nhau (…) mà chỉ đóng góp thêm vào sự hài

hòa và tô điểm cho nhân loại [22, tr. 433]. Ông cảnh báo về chủ nghĩa dân tộc

cực đoan, chủ nghĩa quốc tế cực đoan vì hai điều đó không có lợi ích mà “chỉ

dẫn đến sự tê liệt và tiêu diệt nòi giống”[22, tr. 388].

67

2.3. Giá trị và hạn chế trong tƣ tƣởng của Nguyễn An Ninh về vấn đề

dân chủ

Quan điểm của Nguyễn An Ninh về vấn đề dân chủ không chỉ đơn

2.3.1. Giá trị nổi bật

thuần hình thành mang tính lịch sử cố định trong giai đoạn 1923 – 1928,

mà còn khơi gợi những giá trị sâu sắc và nhiều suy nghĩ của một thanh

niên yêu nước.

Về thực trạng và bản chất của dân chủ, Nguyễn An Ninh không đặt

trong một mô típ rập khuôn về thứ tự duy lý khô cứng gồm các luận điểm và

luận cứ. Ông luôn đặt thực trạng dân chủ vừa ở một biểu trạng lịch sử - xã

hội cụ thể, vừa luận giải trên tinh thần trực diện vào những nghi vấn có

tính vấn đề, những hoài nghi hiếm ai đủ điều kiện để hoài nghi của cả xã

hội thuộc địa. Việc tiếp nhận tư duy phê phán, phản biện, tranh luận từ

môi trường học thuật – xã hội phương Tây và kết hợp với ngôn từ diễn đạt

của văn phong hiện đại giúp ông nhìn nhận cuộc khủng hoảng tinh thần

của dân tộc Việt Nam như một đối tượng cần được tìm hiểu thấu đáo.

Mục đích của Nguyễn An Ninh là bằng cách truy vấn chính đối tượng mà

bản thân và cả dân tộc đã đối diện trong những năm thuộc địa, ông có thể

tìm thấy vấn đề dân chủ và một lần nữa truy vấn chúng, truy vấn những kẻ

đã tạo ra chúng nô dịch dân tộc Việt Nam.

Góc nhìn của Nguyễn An Ninh khi tiếp cận dân chủ trong bối cảnh

thuộc địa của Việt Nam là cách tiếp cận không thiên vị về một lĩnh vực nào

cụ thể. Ông luôn tìm thấy tính vấn đề ở những lĩnh vực của văn hóa, kinh tế,

chính trị, pháp luật, lịch sử,... để xác định những mâu thuẫn đa chiều giữa

toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp. Dân chủ trong quan niệm của

Nguyễn An Ninh không dành cho một nhóm thiểu số cá nhân quyền lực

không phải khái niệm toàn bích về giá trị và tinh thần mà nó truyền tải. Ông

nhìn thấy tự do với thái độ của một con người như bao con người thuộc địa

68

khác: một thái độ quyết liệt, trân trọng sự khơi gợi động lực tiến bộ của dân

chủ, và cả sự phê phán không khoan nhượng khi dân chủ bị phiên giải sai lầm

bởi những luận thuyết nặng tính tiền định, chủ quan.

Với bốn nội dung chính (gồm bản chất của vấn đề dân chủ thuộc địa,

quan niệm về vai trò – vị trí của quần chúng nhân dân, bàn luận về cách mạng

với thỏa hiệp và luận về phương thức thực thi dân chủ), Nguyễn An Ninh

bước đầu nhìn nhận và khắc phục những khó khăn mà thế hệ của những bậc

tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,... đã chưa có điều kiện để làm

được. Bằng những tri thức tiếp nhận từ triết học phương Tây và chủ nghĩa xã

hội về tự do, Nguyễn An Ninh đã trình bày sâu sắc bối cảnh của xã hội Việt

Nam thuộc địa với sự tồn tại dai dẳng hàng loạt những biểu hiện khắc nghiệt,

chân thực của vấn đề dân chủ. Điều này xuất phát từ những nguyên nhân của

lịch sử để lại, và cả những nguyên nhân của đương thời gây nên. Ông can

đảm nhận thấy Việt Nam đang ở ngã ba đường của những thách thức và thời

cơ, dân chủ và thực dân. Kẻ thù của dân tộc Việt Nam không chỉ là toàn bộ

chế độ thực dân mà chính giới Pháp đã áp đặt lên Việt Nam cũng như các

thuộc địa khác, mà còn chính từ những hạn chế tồn tại lâu dài trong nhận thức

của phong trào cách mạng và xã hội. Đấu tranh với hiện tại và đấu tranh với

chính những thiếu sót của chính mình, là biểu hiện cao độ sự phản tư của

Nguyễn An Ninh: điều này có sự kế thừa từ thế hệ Đông du – Duy tân đầu thế

kỉ XX và tiếp nhận từ truyền thống triết học Đông – Tây.

Bên cạnh đó, ông góp phần giải đáp vấn đề cách mạng và thỏa hiệp với

tư cách của một diễn giải chứa đựng suy nghiệm cũng như trải nghiệm thực

tế. Ông thấy cả phương pháp cách mạng lẫn thỏa hiệp đều có tính lịch sử của

riêng chúng, và có cả những vấn đề mà tự thân chúng không thể giải quyết

được. Suy cho cùng, ông nhận định chính định hướng cá nhân và mối quan hệ

của nó với tình hình thực tại sẽ quyết định nên lựa chọn của cá nhân đó. Dân

chủ luôn là một trạng thái tương đối, vì Nguyễn An Ninh thấy rằng ngay cả

những con người tưởng chừng đạt được sự tự quyết trong việc định hình tri

69

thức và ghi nhận của xã hội, lại trở nên trì trệ và không quyết liệt khi hoài

nghi mục đích toàn thể của mình để hướng đến những quyết định mang tính

bình quân, thỏa hiệp. Những giá trị của tự do, dân chủ trong tâm tưởng của

Nguyễn An Ninh không chấp nhận một dấu hiệu thỏa hiệp vô nguyên tắc mà

đòi hỏi một tinh thần dấn thân, phương pháp cụ thể và mục tiêu không vị kỷ

nước đôi.

Nguyễn An Ninh không một khoảnh khắc hay thời điểm nào gạt bỏ vấn

đề dân tộc bên cạnh vấn đề dân chủ. Ông tìm thấy ở chúng một mối quan hệ

có tính biện chứng, không có sự phân biệt một cách gay gắt và cũng không

có sự kết hợp máy móc giáo điều. Vấn đề dân chủ phản ánh tính bất định,

không toàn vẹn của dân chủ kể cả ở cấp độ cá nhân lẫn cấp độ tăng dần

đều của quy mô tổ chức cộng đồng người (làng xã, tỉnh, miền, dân tộc,

quốc gia, khu vực, nhân loại). Vì vậy, giải quyết vấn đề dân chủ không

chỉ ở việc gây dựng một ý thức dân chủ mạnh mẽ thiết thực đối với tinh

thần – hành động của mỗi cá nhân mà phải hướng đến việc dùng nội lực

đó thay đổi vận mệnh của dân tộc ra khỏi sự ngự trị của chế độ thực dân,

giải phóng dân tộc và phát triển quốc gia trong sự hợp tác với các nước

dân chủ, tiến bộ trên thế giới chống lại sự tồn tại của mọi hình thái áp

bức, bóc lột nhân danh dân chủ.

Với những giá trị đã được làm rõ, Nguyễn An Ninh và quan điểm của

2.3.2. Hạn chế chủ yếu

ông về vấn đề dân chủ còn tồn tại những hạn chế nhất định.

Nội dung triển khai của Nguyễn An Ninh trong quá trình giải mã vấn

đề dân chủ gặp phải những lực cản nhất định. Trong suốt chiều dài của những

bài viết, bài báo, tác phẩm của giai đoạn 1923 – 1928, Nguyễn An Ninh có sự

đan cài những nội dung và biểu hiện của vấn đề dân chủ xen lẫn vào những

đối tượng cụ thể mà Nguyễn An Ninh triển khai. Việc phát hiện, tìm hiểu,

phân tích và chứng minh sự tồn tại của nội dung vấn đề dân chủ vì vậy cũng

70

có những khó khăn không dễ giải quyết. Mặc dù việc thể hiện ý tưởng và viết

bài trên diễn đàn công khai của báo chí, xã hội ở miền Nam có điều kiện so

với miền Bắc và miền Trung Việt Nam, nhưng điều này trở nên khó khăn khi

chính quyền thực dân Pháp thi hành và bổ sung hàng loạt các đạo luật về

Ngôn luận, Báo chí, Xuất bản,... Với quan điểm thẳng thắn và công khai,

Nguyễn An Ninh nhận thấy mức độ truyền tải nội dung và thông điệp khó có

thể trọn vẹn khi sự chi phối của chủ đề bài viết, mức kiểm duyệt của chính

quyền,...luôn tồn tại thường trực.

Thực tế đúng như Nguyễn An Ninh quan niệm về sự không toàn bích

của khái niệm dân chủ, khi khái niệm này không phải lúc nào cũng có một sự

ổn định về tần suất và tính chất biểu hiện bằng hình thức lập luận lý thuyết lẫn

hình thức trạng thái thực tế. Điều này được ông bày tỏ và chứng minh ở nhiều

bài viết khác nhau, với những lí giải và nội dung bài viết khác nhau. Dù vậy,

thật khó để tìm thấy một khái niệm có thể coi là mang tính khái quát cao của

Nguyễn An Ninh về dân chủ, bản chất của dân chủ, biểu hiện – mục đích của

dân chủ, các khuynh hướng dân chủ,...Việc thiếu hụt các khái niệm công cụ

chính yếu, căn cốt không ít lần gây cho Nguyễn An Ninh những khoảng lặng

trong quá trình suy tư và hành động. Vì vậy, quá trình Nguyễn An Ninh định

dạng nguồn gốc những vấn đề dân chủ, biểu hiện của chúng cũng như sự liên

kết giữa các tiêu chí khác ở một mức độ tương đối khi đặt trong tương quan

với những vấn đề ông đi sâu hơn.

Nguyễn An Ninh là một con người của cả hành động lẫn tư duy, ở khía

cạnh nào cũng có sự nhất quán và quyết liệt trên tinh thần cầu thị và trung

thực. Tuy nhiên, ông vẫn có những suy nghĩ khiến nhiều người vừa nghĩ đến

ông và cũng nghĩ tới những khoảnh khắc phản tư trong thế giới lý tính của

mình. Ông luôn giữ quan điểm rằng đối tượng lợi dụng ý niệm dân chủ, đồng

thời là đối tượng cần sự phán xét lịch sử của dân tộc Việt Nam và thời đại

chính là toàn bộ chế độ thực dân Pháp đã tầm thường hóa và nô dịch hóa dân

tộc Việt Nam - một quốc gia không còn trở thành quốc gia đích thực từ khi

71

trở thành thuộc địa. Dù vậy, ông luôn mặc định niềm tin với nhân dân Pháp

và những giá trị khoa học, tiến bộ của Pháp được thế giới ghi nhận. Thành tựu

của nước Pháp khiến ông từng nuôi dự định đưa nước Việt Nam độc lập thành

một quốc gia hùng cường như một nước Pháp ở châu Á. Nguyễn An Ninh tích

cực đấu tranh tất cả những di hại mà chế độ thực dân Pháp gắn vào thực trạng

của Việt Nam, nhưng ông dường như bỏ ngỏ quan điểm của mình đối với sự

tồn tại của chế độ phong kiến. Ông khát khao xây dựng một nền văn hóa độc

lập khơi dậy những con người Việt Nam chung sống với nhau như những con

người tự do, dân chủ về sự lựa chọn và trong cách tạo lập các giá trị cho bản

thân cũng như xã hội, nhưng ông tìm thấy một sự khó khăn khi xác định di

sản cốt lõi của văn hóa dân tộc. Nguyễn An Ninh chưa từng phủ nhận hay gạt

bỏ vấn đề dân tộc và vai trò đấu tranh của phong trào quần chúng, nhưng như

đã thấy trong giai đoạn 1923 – 1926, Nguyễn An Ninh chưa có nhiều điều

kiện để đi sâu vào hai nội dung này.

Tiểu kết chƣơng 2

Thời gian trải từ năm 1923 đến năm 1928 không gây một ấn tượng mạnh

về số liệu, nhưng đã quyết định đến cuộc đời song hành giữa tư tưởng và hành

động của Nguyễn An Ninh. Trải qua giai đoạn học tập và trải nghiệm đời

sống và tư tưởng phương Tây, Nguyễn An Ninh lựa chọn trở về Việt Nam

nhằm khởi động cuộc đấu tranh trường kỳ của bản thân cùng với cuộc đấu

tranh của toàn thể dân tộc Việt Nam. Với vốn hiểu biết của hai nền văn hóa

Đông – Tây và chứng kiến sự khủng hoảng của xã hội đương thời, Nguyễn

An Ninh đã nhìn thấy ở thực tại đang hiện diện khát khao dân chủ từ những

cá nhân cụ thể đến những vấn đề mang tính quyết định vận mệnh của một con

người, một cộng đồng, một dân tộc.

Khởi đầu của Nguyễn An Ninh trong một quá trình nhận diện tinh thần tự

quyết xuất phát từ văn hóa, một xuất phát điểm mà Nguyễn An Ninh có thể

72

đến gần hơn đối với quần chúng nhân dân và hiểu rõ hơn về căn bệnh lý tính

– cảm tính của Việt Nam. Con người dân chủ, đối với Nguyễn An Ninh,

không phải con người của những ngẫu tượng mà là mẫu hình có thể đạt được

ở hiện thực. Nhưng để đạt được con người dân chủ ở hiện thực, cần có một

quá trình lâu dài và đầy thử thách. Tư tưởng của Nguyễn An Ninh về dân chủ

được tập trung trong bốn nội dung: bản chất của vấn đề dân chủ ở thuộc địa,

quan niệm về nhân dân, bàn luận về cách mạng và thỏa hiệp. Với mỗi nội

dung, Nguyễn An Ninh luôn gắn bó mật thiết tính cấp thiết và tính nan giải

của chúng với thực tiễn của đương thời. Phần khuất lấp của chế độ thực dân

Pháp được Nguyễn An Ninh từng bước tìm thấy, phân tích, đánh giá trên tinh

thần khách quan, phê phán mạnh mẽ.

Ông nhận thấy chính sự suy đồi của cái gọi là dân chủ ở thuộc địa đã

khiến cho con người Việt Nam trở nên xa lạ, lạc lõng, lầm than ngay trên

chính mảnh đất sinh ra mình. Người Việt Nam có sự tồn tại, nhưng là tồn tại

của sự thiếu hụt yếu tố hiện thực và là tồn tại của những tha nhân – những kẻ

khác. Xã hội truyền thống trong quan điểm của Nguyễn An Ninh là một xã

hội chứa đựng những giá trị tự do về xã hội và chính trị, cũng như tự do về

đời sống vật chất và tinh thần. Ông vẫn khẳng định môi trường bị chi phối bởi

hệ tư tưởng cũ đã nảy sinh những hệ lụy, dẫn tới số phận của dân tộc Việt

Nam phải trải qua thách thức của lịch sử mang tên thực dân Pháp.

Vấn đề dân chủ trong quan niệm của Nguyễn An Ninh không thực sự

hoàn toàn là tự do cá nhân, con người dân chủ theo nguyên nghĩa của phương

Tây. Vì ông nhận thấy hoàn cảnh lịch sử - xã hội đặc thù của một Việt Nam

dưới ách cai trị thuộc địa tạo nên bộ mặt đầy mâu thuẫn chồng lấn. Đối với

Nguyễn An Ninh, cuộc đấu tranh dân chủ ở Việt Nam thời thuộc Pháp không

thể tách rời với cuộc đấu tranh độc lập – tự do của dân tộc. Nguyễn An Ninh

nhận thấy nền dân chủ thực sự không thể thiếu vắng vai trò của tự do. Tự do

thực sự không phải là để thỏa mãn ý chí vị kỷ của cá nhân, mà tự do hoàn

toàn khỏi danh phận tha nhân và sự ngăn trở của áp bức. Tự do đó trước hết

cần phải được nhận thức từ góc độ tư tưởng và văn hóa, nhất là trong bối cảnh

73

một cuộc cách mạng trong thực tiễn còn chưa thể được triển khai trên quy mô

toàn diện, với tính chất triệt để. Tự do đó cần đến những nền tảng của tri thức,

ý chí của mỗi cá nhân và cần được hiện thực hóa bằng hành động có tính

nguyên tắc, đoàn kết của một tổ chức toàn thể. Nguyễn An Ninh từ đây xác

định đối tượng của cuộc đấu tranh độc lập – tự do là chế độ thực dân Pháp,

phá bỏ huyền thoại đen của quá khứ thuộc địa để Việt Nam trở thành quốc gia

của những con người thực sự nhận thức và hành động như những người dân

làm chủ sự hiện tồn và làm chủ quốc gia.

Những giá trị và hạn chế trong quan niệm của Nguyễn An Ninh về vấn

đề dân chủ giai đoạn 1923 – 1928 đã đưa đến góc nhìn khách quan, có tính

chỉnh thể về một trong những nhà hoạt động chính trị - xã hội ảnh hưởng lớn

đến dòng chảy lịch sử cận – hiện đại của Việt Nam. Sự kế thừa, phát triển từ

phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX và việc tiếp nhận những tư tưởng triết học

phương Tây và chủ nghĩa xã hội về dân chủ đã giúp cho Nguyễn An Ninh

đánh giá, hành động phản ánh tính chất của lịch sử Việt Nam thời kì cận –

hiện đại. Và đồng thời, ông cũng mang cả những mâu thuẫn nhất định của

thời đại. Giai đoạn 1923 – 1928 đóng vai trò cơ sở quan trọng cho cuộc đời và

tư tưởng của Nguyễn An Ninh trong những biến động tiếp theo của dân tộc,

góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng Việt Nam phát triển không ngừng.

74

KẾT LUẬN

Từ những ngày đầu nhập cuộc vào diễn trình lịch sử dân tộc cho đến khi

qua đời tại nhà tù Côn Đảo, Nguyễn An Ninh đã luôn xác định trong suy nghĩ

và hành động một sự dấn thân cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và dùng

hết sức mình trình bày tư tưởng, luận giải nhằm khích lệ nhân dân tiến vào

cuộc đấu tranh cách mạng. Với vai trò của một trí thức dấn thân, Nguyễn An

Ninh đã để lại những quan niệm của ông về vấn đề dân chủ như là một trong

những mối quan tâm xuyên suốt chặng đường cách mạng của mình.

Vấn đề dân chủ được Nguyễn An Ninh triển khai thông qua cách tiếp

cận từ văn hóa và tinh thần. Đây cũng là khởi điểm cho những phân tích, đánh

giá của ông về dấu ấn của nghịch lý tự do trong giai đoạn 1923 - 1928. Những

phân tích của ông về ba yếu tố trong văn hóa truyền thống Việt Nam (gồm

Đất đai, Gia đình và Sự thờ cúng người đã chết) đã khát quát tổng thể xã hội

truyền thống của người Việt Nam đối nghịch với trật tự xã hội thực dân do

chính giới - quân đội Pháp xây dựng. Từ vấn đề của văn hóa và tinh thần dân

tộc, Nguyễn An Ninh đã kêu gọi quá trình khơi dậy trong con người Việt

Nam những động lực tinh thần mạnh mẽ, hành động không ngừng để đạt đến

vị trí của một con người tự do chọn lựa, tự do tuyệt đối nhằm đạt được giá trị

dân chủ thực sự. Bên cạnh đó, ông đạt được một bước tiến lớn so với các giai

đoạn trước kia khi xem xét dân chủ dưới cách tiếp cận của kinh tế - chính trị

và nhận định dân chủ không phải sự áp đặt hệ giá trị nhằm thao túng và triệt

tiêu mọi quyền cơ bản của mỗi cá nhân và toàn thể dân tộc, mà dân chủ phải

luôn là môi trường để thúc đẩy con người rèn luyện và đủ sức khẳng định, bảo

vệ những quyền cơ bản của chính mình cũng như cộng đồng xã hội.

75

Trải qua giai đoạn hình thành lý thuyết và trải nghiệm thực tiễn giai đoạn

1923 – 1928, Nguyễn An Ninh hiện thực hóa những quan niệm về vấn đề dân

chủ bằng việc đưa ra lựa chọn cho chính mình: lựa chọn kết hợp con đường

cách mạng chính trị công khai, đồng thời tiến hành tổ chức cho quần chúng

sẵn sàng với các cuộc đấu tranh sắp tới. Sự ra đời của Thanh niên Cao vọng

(được sáng lập bởi Nguyễn An Ninh cùng Phan Văn Hùm, Mai Văn Ngọc) đã

thực hiện quá trình đào luyện quần chúng nhân dân miền Nam rèn luyện tri

thức khoa học, mở rộng phong trào quần chúng ở miền Nam (1924 – 1928),

trở thành động lực cho phong trào cách mạng về sau và còn là môi trường rèn

luyện cho những nhà cách mạng trẻ tuổi, làm nòng cốt cho Đảng Cộng sản

Việt Nam về sau này như Võ Thành Mong, Võ Văn Ngân, Võ Văn Tần, Hồ

Văn Long, Trương Văn Bang, Tô Ký... Về sau, tinh thần đấu tranh dân chủ

của Nguyễn An Ninh còn được thể hiện mạnh mẽ thông qua việc thành lập

Liên danh Đệ Tam - Đệ Tứ (hay còn gọi là Sổ Lao động, nhóm La Lutte)

thành lập nhằm đoàn kết những người theo chủ nghĩa xã hội tham gia đấu

tranh dân chủ công khai (07/05/1933 – 1939), phát động phong trào “Đông

Dương Đại hội” và nhân rộng ra toàn quốc. Đó là những nỗ lực của Nguyễn

An Ninh nhằm thực hiện những tư tưởng dân chủ của mình, đẩy mạnh hơn

nữa phong trào cách mạng của dân tộc lên giai đoạn mới – giai đoạn thúc đẩy

từ vận động dân chủ sang việc khẳng định, phát động chuẩn bị cuộc cách

mạng giải phóng dân tộc ở toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.

Thế giới hiện nay không còn sự rời rạc hay cách biệt như trật tự thế giới

nửa đầu thế kỉ XX. Nhân loại bước sang thiên niên kỷ thứ hai, khởi đầu cho

viễn cảnh mà Francis Fukuyama (nhà tư tưởng triết học chính trị người Mỹ)

gọi là sự cáo chung của lịch sử để sang một viễn cảnh mới. Dân chủ và giá trị

nhân văn của dân chủ đã khuyến khích và phát triển đời sống con người

không những vượt trội hơn so với trước kia, mà còn liên tục và nhanh chóng

đạt được nhiều thành tựu chưa từng có. Dù vậy, những gợi mở mang hiện

thực sinh động không làm lu mờ đi giới hạn của ý niệm dân chủ. Đó đây trên

76

thế giới vẫn còn những cuộc chiến tranh nhân danh vì dân chủ, nhưng thiếu đi

cơ sở thực sự của tự do - bình đẳng - bác ái, vẫn còn những phong trào đấu

tranh cho dân chủ nhưng xem nhẹ khía cạnh văn hóa và tinh thần. Tư tưởng

của Nguyễn An Ninh về vấn đề dân chủ vẫn luôn có giá trị nhất định, như một

sự tham khảo của hiện nay về cách nhìn của tư tưởng nằm ở những người đi

trước, những thế hệ đã đi qua thời gian và không ít lần dự cảm về thời gian,

về con người.

77

TÀI LIỆU THAM KHẢO

SÁCH TIẾNG VIỆT

1. Adler, Mortimer J. (2019), Phạm Viêm Phương và Mai Sơn dịch.

Cùng suy nghĩ về những ý niệm lớn (sách tham khảo), Nxb. Hồng Đức,

Hà Nội.

2. Nguyễn Thế Anh (2017), Việt Nam thời Pháp đô hộ, Nxb. Văn hóa –

Văn nghệ, Hà Nội.

3. Phan Bội Châu (1990), “Tân Việt Nam”, Phan Bội Châu Toàn tập,

tập 2, Nxb. Thuận Hoá, Huế.

4. Doãn Chính chủ biên (2016), Lịch sử triết học phương Đông, Nxb.

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

5. Mai Cao Chương và Đoàn Lê Giang (1996), Nguyễn Lộ Trạch –

Điều trần và Thơ văn, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

6. Engels, Friedrich (1994), “Chống Đuy-rinh”, C. Mác và Ph.Ăng

ghen toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

7. Fromm, Erich (2007). Trốn thoát tự do, Bùi Thanh Châu dịch, Nxb.

Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

8. Trần Văn Giàu - Tổng tập, tập 3 (2008), Nxb. Công an Nhân dân, Hà

Nội.

9. Phạm Quang Huy (2019), “Zhuangzi’s Theory of Freedom:

Considerations and Reference for Executive Studies (tạm dịch: Triết lí

tự do của Trang Tử: Suy ngẫm và tham chiếu cho nghiên cứu hành

78

pháp)”, VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019),

tr. 84 – 95.

10. Đỗ Minh Hợp (2014), Lịch sử triết học phương Tây, tập 2: Triết

học phương Tây cận hiện đại, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

11. Inwood, Michael (2015), Từ điển Triết học Hegel, tập thể dịch giả:

Bùi Văn Nam Sơn, Cù Ngọc Phương, Đinh Hồng Phúc, Đoàn Tiểu

Long, Hoàng Phong Tuấn, Hoàng Phú Phương, Huỳnh Duy Thanh,

Lưu Quốc Khánh, Nguyễn Trúc Phương, Nguyễn Văn Sướng, Thánh

Pháp, Tôn Nữ Thùy Dương, Trần Thị Ngân Hà, Trương Trọng Hiếu,

Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính, Nxb. Tri thức, Hà Nội.

12. Paul Kelly, Rod Dacombe, John Farndon, A.S. Hodson, Jesper

Johnson, Niall Kishtainy, James Meadway, Anca Pusca, Marcus Weeks

(2019), Khái lược những tư tưởng lớn – Chính trị, Bích Thu dịch, Lê

Ngọc Tân hiệu đính, Nxb. Dân trí, Hà Nội.

13. Đinh Xuân Lâm chủ biên, Nguyễn Văn Khánh, Phạm Hồng Tung,

Phạm Xanh (2012), Lịch sử Việt Nam, tập 3, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

14. Lenin, Vladimir Ilyich (1980), “Châu Á thức tỉnh”, đăng trên số

103 ngày 7 tháng 5 năm 1913 của báo Sự thật (Pravda), V.I.Lê–nin

Toàn tập, tập 23, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

15. Lenin, Vladimir Ilyich (1980), “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận

cương về vấn đề Dân tộc và Thuộc địa”, viết vào ngày 05/06/1920,

trình bày tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản, V.I.Lê–nin Toàn tập, tập 41,

Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 197 – 206.

16. Nguyễn Hiến Lê và Thiên Giang (2012), Lịch sử thế giới, Nxb.

Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.

17. Phan Huy Lê chủ biên, Phan Đại Doãn, Lương Ninh, Nguyễn

Quang Ngọc, Trần Quốc Vượng (2012). Lịch sử Việt Nam, tập 1. Nxb.

Giáo dục, Hà Nội.

79

18. Marx, Karl (1995), “Việc cấm tờ báo “Leipziger Allgemeine

Zeitung”. Đăng trên báo “Rheinische Zeitung” ngày 1, 4, 6, 8, 10, 13,

16 tháng Giêng năm 1843, C.Mác và Ph.Ăng ghen Toàn tập, tập 1,

Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.

19. Marx, Karl (1993), “Lời tựa Góp phần phê phán khoa kinh tế chính

trị”, C.Mác và Ph.Ăng ghen Toàn tập, tập 13, Nxb. Chính trị Quốc gia

Sự thật, Hà Nội.

20. Montesquieu (2018), Bàn về tinh thần pháp luật, Hoàng Thanh

Đạm dịch, Nxb. Thế giới, Hà Nội.

21. Nguyễn An Ninh – Qua hồi ức của những người thân (2009), Trung

tâm Nghiên cứu Quốc học, Nxb. Văn học, Hà Nội.

22. Nguyễn An Ninh – Tác phẩm (2009), Trung tâm Nghiên cứu Quốc

học, Nxb. Văn học, Hà Nội.

23. Paine, Thomas (2018), Lẽ thường, Nông Duy Trường chuyển ngữ

và chú thích, Nxb. Thế giới, Hà Nội.

24. Peycam Philippe M.F (2015), The birth of Vietnamese political

journalism: Saigon, 1916 – 1930. Làng báo Sài Gòn 1916 – 1930. Bản

dịch của Trần Đức Tài, Nxb. Trẻ, Hà Nội.

25. Rousseau, Jean – Jacques (2016), Khế ước xã hội, Dương Văn Hóa

dịch, Nxb. Thế giới, Hà Nội.

26. M. Rô-đen-tan và P.I-u-pin chủ biên (1976), Từ điển Triết học,

Nxb. Sự thật, Hà Nội.

27. Lê Văn Siêu (2003), Việt Nam văn minh sử - Lược khảo, tập

Thượng: Từ nguồn gốc đến thế kỉ thứ X, Nxb. Lao động, Hà Nội.

28. Phạm Văn Sinh và Phạm Quang Phan đồng chủ biên (2016), Giáo

trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Nxb. Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

29. Trịnh Văn Thảo (2019), Nhà trường Pháp ở Đông Dương, Nguyễn

Trí Chỉ, Trịnh Văn Tùng, Nxb. Tri thức, Hà Nội.

80

30. Nguyễn Quyết Thắng (2007), Văn học Việt Nam – Nơi miền đất

mới, tập 2, Nxb. Văn học, Hà Nội.

31. Cố Nhi Tân (2016), Tiểu truyện Danh nhân: Nghiêm Phục – Cô

Hồng Minh – Lương Khải Siêu – Hồ Thích, Tủ sách Tiến bộ, cơ sở xuất

bản Phạm Quang Khai, thư viện Huệ Quang ảnh ấn, thành phố Hồ Chí

Minh.

32. Nguyễn Xuân Thọ (2016), Bước mở đầu của sự thiết lập hệ thống

thuộc địa Pháp ở Việt Nam (1858 – 1897), Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.

33. Nguyễn Đăng Thục (1964), Tư tưởng Việt Nam – Tư tưởng triết

học bình dân, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn.

34. Tứ thư Toàn tập (2006), Dương Hồng, Vương Thành Trung, Nhiệm

Đại Viện, Lưu Phong chú dịch, Trần Trọng Sâm, Kiều Bách Vũ Thuận

biên dịch, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.

35. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (2002), Ngữ văn Hán Nôm, tập 2, Ngũ

kinh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

36. Will và Ariel Durant (2015), Jean – Jacques Rousseau, Bùi Xuân

Linh dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính và giới thiệu, Nxb. Đại học

Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

SÁCH TIẾNG ANH

37. Heywood, Andrew (2013). Politics. The Palgrave Macmillian.

CÁC TRANG INTERNET

38.http://philosophy.vass.gov.vn/nghien-cuu-theo-chuyen-de/Triet-

hoc-Viet-Nam/Mot-so-noi-dung-va-gia-tri-co-ban-ve-quyen-con-nguoi-trong-

Quoc-trieu-hinh-luat-421.html

39.http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/nguyen-an-ninh-nha-

cach-mang-chan-chinh.html

40.http://www.vns.edu.vn/index.php/vi/nghien-cuu/van-hoa-viet-

nam/1521-tinh-than-phuc-hung-trong-tho-ho-xuan-huong

81

41.https://www.britannica.com/topic/democracy

42.https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/tan_van-

tan_thu_va_anh_huong_cua_no.html

43.https://www.marxists.org/archive/jaures/1907/military-

service/ch12.htm

44.https://www.marxists.org/archive/rappoport/1928/socialism.htm

45.http://www.xaydungdang.org.vn/Home/Lyluan-Thuctien-

Kinhnghiem/2016/9925/Tu-quan-diem-ve-dan-chu-cua-PhAngghen.aspx