BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
KHOA KHOA HỌC LIÊN NGÀNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ TRUNG QUỐC
VÀ HOA KỲ Ở KHU VỰC ĐÔNG NAM Á
TỪ NĂM 2016 ĐẾN NAY
Giảng viên hƣớng dẫn : Đặng Đình Tiến
Sinh viên thực hiện : Trần Trọng Lực
Mã sinh viên : 1905CTHA011
Khóa, lớp : 1905CTHA
Hà Nội - 2023
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu, thực tập tốt nghiệp và hoàn thành
Khóa luận tốt nghiệp, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân em đã nhận được
sự quan tâm, giúp đỡ rất tận tình về nhiều mặt của các tổ chức và các cá nhân
trong và ngoài trường.
Trước tiên, em xin chân thành cảm ơn đến Ban giám đốc Trường Học
viện Hành chính Quốc gia, Khoa Khoa học liên ngành và các thầy, cô giáo đã
tạo điều kiện cho em học tập, nghiên cứu và hoàn thành Khóa luận. Đặc biệt,
em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy: TS. Đặng Đình Tiến, người đã
dành nhiều thời gian, công sức hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình
hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè
đã ủng hộ, khích lệ, động viên và giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp này.
Do trình độ và thời gian có nên hạn nên Khóa luận không thể tránh
khỏi thiếu sót. Vì vậy rất mong nhận được sự thông cảm, góp ý của các thầy,
cô giáo và các độc giả để Khóa luận được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2023
Sinh viên
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng em. Em cũng
xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong Khóa luận là trung thực và
chưa từng được sử dụng để bảo vệ luận văn của một học vị nào.
Em xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Khóa luận này đã
được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong Khóa luận đã được ghi rõ nguồn
gốc. Đồng thời em xin cam đoan trong quá trình thực hiện đề tài tại địa
phương em luôn chấp hành đúng mọi quy định của địa phương nơi thực hiện
đề tài.
Hà Nội, ngày tháng năm 2023
Sinh viên
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
Tên viết tắt Tên Tiếng Anh Tên Tiếng Việt
ASEAN Association of South East Hiệp hội các Quốc gia Đông
Asian Nations Nam Á
AEC ASEAN Economic Cộng đồng kinh tế ASEAN
Community
AFTA ASEAN Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN
APSC ASEAN Political – Cộng đồng chính trị – an
Security Community ninh
ASEAN
COC Code of Conduct Bộ quy tắc ứng xử Biển
Đông
TAC Treaty of Amity and Hiệp ước Hợp tác và Thân
Cooperation in Southeast thiện ở Đông Nam Á
Asia
WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế
giới
EAS East Asia Summit Hội nghị cấp cao Đông Á
TPP Trans – Pacific Partnership Hiệp định đối tác xuyên Thái
Bình Dương
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài ................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 5
6. Bố cục của khóa luận ................................................................................ 5
PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................... 6
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG
QUAN HỆ GIỮA TRUNG QUỐC VÀ HOA KỲ TẠI KHU VỰC ĐÔNG
NAM Á ............................................................................................................. 6
1.1. Một số vấn đề lý luận về quan hệ quốc tế .............................................. 6
1.1.1. Một số khái niệm, lý thuyết về quan hệ quốc tế ................................. 6
1.1.1.1 Khái niệm về quan hệ quốc tế ........................................................... 6
1.1.1.2 Các lý thuyết quan hệ quốc tế ........................................................... 7
1.1.2. Đặc trưng và tính quy luật của quan hệ chính trị quốc tế ................... 8
1.1.2.1. Đặc trưng của quan hệ chính trị quốc tế .......................................... 8
1.1.2.2. Tính quy luật trong quan hệ chính trị quốc tế ................................ 10
1.1.3 Quan điểm của Đảng về ngoại giao đa phương ................................. 12
1.2. Cơ sở thực tiễn tại khu vực Đông Nam Á từ năm 2016 đến nay ......... 13
1.2.1. Tình hình khu vực ............................................................................. 13
1.2.2. Vị trí chiến lược của khu vực Đông Nam Á ..................................... 15
1.2.3. Lợi ích của Mỹ và Trung Quốc tại Đông Nam Á ............................. 16
1.2.3.1 Lợi ích của Mỹ ................................................................................ 16
1.2.3.2 Lợi ích của Trung Quốc .................................................................. 18
1.3. Thực trạng quan hệ Trung – Mỹ những năm đầu thế kỷ XXI ............. 19
Tiểu kết chương 1........................................................................................ 21
CHƢƠNG 2: THỰC TRANG QUAN HỆ CẠNH TRANH GIỮA
TRUNG QUỐC VÀ HOA KỲ VỀ ĐÔNG NAM Á TỪ NĂM 2016 ĐẾN
NAY ................................................................................................................ 22
2.1 Các hình thức cạnh tranh giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ tại Đông Nam Á . 22
2.1.1 Cơ sở cạnh tranh Trung Quốc và Hoa Kỳ .......................................... 22
2.1.2 Cạnh tranh trong các lĩnh vực công nghệ .......................................... 23
2.1.3 Cạnh tranh ảnh hưởng tại các khu vực và diễn đàn quốc tế .............. 24
2.1.4 Cạnh tranh liên quan về lợi ích ở các điểm nóng an ninh quốc tế và
khu vực ........................................................................................................ 25
2.2 Nội dung thực trạng quan hệ cạnh tranh giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ tại
Đông Nam Á ............................................................................................... 27
2.2.1 Cạnh tranh trong mối quan hệ song phương tại khu vực ................. 27
2.2.2. Cạnh tranh tại các diễn đàn đa phương ............................................. 38
2.2.3 Cạnh tranh trực diện giữa hai nước .................................................... 44
Tiểu kết chương 2........................................................................................ 48
CHƢƠNG 3: TÁC ĐỘNG CỦA CẠNH TRANH TRUNG QUỐC VÀ
HOA KỲ TỚI KHU VỰC ĐÔNG NAM Á VÀ VIỆT NAM VÀ DỰ BÁO
CHIỀU HƢỚNG CẠNH TRANH THỜI GIAN TỚI ................................ 49
3.1. Tác động tới khu vực ........................................................................... 49
3.1.1. Tác động tích cực .............................................................................. 49
3.1.2. Tác động tiêu cực .............................................................................. 50
3.2. Tác động tới Việt Nam ......................................................................... 51
3.2.1. Tác động tích cực .............................................................................. 51
3.2.2. Tác động tiêu cực .............................................................................. 54
3.3. Dự báo chiều hướng cạnh tranh Mỹ - Trung trong thời gian tới ......... 55
3.4. Khuyến nghị cho Việt Nam ................................................................. 57
Tiểu kết chương 3........................................................................................ 59
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 62
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đông Nam Á là khu vực đang nổi lên, có vị trí chiến lược đặc biệt quan
trọng trong chiến lược phát triển của hầu hết các nước lớn (nằm trên tuyến
đường biển nối liền các khu vực có tiềm lực kinh tế, chính trị và quân sự như
Đông Bắc Á, Trung Đông, nhiều nước thuộc khu vực Thái Bình Dương…), là
nơi hiện diện và tập trung nhiều lợi ích và ưu tiên chiến lược của nhiều nước.
Bên cạnh đó, tiềm lực kinh tế của đa số các quốc gia trong khu vực liên tục
tăng trưởng ở mức cao, các hình thức liên kết và hợp tác giữa các thành viên
trong khối ASEAN không ngừng được đẩy mạnh, tạo cho khu vực Đông Nam
Á trở thành một trong những trung tâm kinh tế, chính trị của Châu Á – Thái
Bình Dương. Chính vì thế, xung đột lợi ích và cạnh tranh ảnh hưởng giữa các
quốc gia đã bắt đầu diễn ra nhanh chóng và phức tạp trong khu vực này.
Những yếu tố tiềm năng trên đã đưa Đông Nam Á trở thành khu vực có vị trí
chiến lược quan trọng trong tính toán và triển khai chiến lược của Trung Quốc
và Hoa Kỳ tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Với sự giao thoa lợi ích
của các cường quốc ở Đông Nam Á, cọ xát Trung Quốc và Hoa Kỳ có nhiều
biểu hiện gia tăng. Trung Quốc đã và đang gia tăng ảnh hưởng tại nhiều nước
Đông Nam Á, tăng cường hợp tác nhiều mặt với các nước ASEAN và có ý đồ
lấn lướt ảnh hưởng của Mỹ trong tiến trình hợp tác khu vực. Mỹ buộc phải
điều chỉnh chính sách theo hướng tăng cường quan hệ với khu vực; sự hiện
diện của Mỹ tại khu vực là nhân tố quan trọng nhằm duy trì sự cân bằng
quyền lực, ngăn chặn ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực và ngăn chặn
Trung Quốc thách thức vai trò và lợi ích của Mỹ.
Cạnh tranh nước lớn luôn ảnh hưởng, gây ra những hệ lụy trực tiếp đối
với quá trình xây dựng chính sách, chiến lược của các nước, ảnh hưởng tới sự
hợp tác của các quốc gia trên góc độ song phương cũng như toàn cầu. Nghiên
cứu quan hệ Trung Quốc – Hoa Kỳ và đặc biệt là sự cạnh tranh giữa Trung
Quốc và Hoa Kỳ ở Đông Nam Á là một trong những việc làm có ý nghĩa quan
1
trọng, có giá trị thực tiễn nhất trong tổng thể nghiên cứu quan hệ quốc tế và
kiến nghị chính sách cho Việt Nam. Trong quan hệ đối ngoại, Trung Quốc là
nước láng giềng, là nước lớn có tác động trực tiếp tới sự ổn định và phát triển
của Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử. Trong khi đó, Hoa Kỳ là một trong
những đối tác lớn của Việt Nam cùng với việc quan hệ Việt – Mỹ đang ngày
càng được mở rộng và phát triển sâu sắc trên nhiều lĩnh vực. Do đó, tìm hiểu
rõ mặt cạnh tranh trong mối quan hệ Trung Quốc và Hoa Kỳ sẽ góp phần tạo
nền tảng cơ sở cho việc hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của
Việt Nam nhằm tận dụng những điểm thuận lợi và hạn chế của những điểm
bất lợi trong quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc, Hoa Kỳ và các nước
Đông Nam Á trong khu vực. Với lý do trên, tôi nhận thấy rằng việc nghiên
cứu vấn đề này có ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn và có những tác động
trực tiếp đến lợi ích chiến lược của Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trung Quốc và Hoa Kỳ là hai cường quốc lớn nhất thế giới. Vì vậy,
những diễn biến trong mối quan hệ giữa hai nước này không chỉ ảnh hưởng
trực tiếp tới quan hệ của hai nước đó mà còn tác động không nhỏ tới tình hình
chính trị quốc tế. Chính vì vậy, nghiên cứu quan hệ Trung – Hoa Kỳ luôn là
một trong những đề tài quan trọng nhất trong tổng thể nghiên cứu quan hệ
quốc tế và kiến nghị chính sách đối ngoại của Việt Nam, được nhiều nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm.
Ở trong nước, phải kể đến cuốn sách “Quan hệ Mỹ – Trung hợp tác và
cạnh tranh luận giải dưới góc độ cân bằng quyền lực do PSG. TS. Nguyễn
Thái Yên Hương chủ biên xuất bản năm 2011. Cuốn sách tập trung đánh giá,
phân tích về quan hệ Mỹ – Trung trong hơn 30 năm kể từ khi thiết lập quan
hệ ngoại giao (1979) và triển vọng của mối quan hệ này đến năm 2020 theo
góc độ xem xét quan hệ nước lớn dưới dựa trên sự cân bằng lực lượng; từ đó
góp phần phục vụ cho việc hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của
Việt Nam trong hiện tại và tương lai.
2
Bài viết “Chiến lược mới của Mỹ đối với một Trung Quốc mới của tác
giả Vũ Lê Thái Hoàng đã chỉ ra nguyên nhân Mỹ thay đổi chiến lược với
Trung Quốc và phân tích mối quan hệ “tích cực, hợp tác và toàn diện của hai
nước trong thế kỷ XXI. Tác giả chỉ ra rằng tuy Mỹ nhấn mạnh tiềm năng hợp
tác là rất lớn nhưng bất đồng là đương nhiên và cạnh tranh là tất yếu.
Bên cạnh các nghiên cứu của tác giả Việt Nam, còn có một số bài viết
của nước ngoài nói về quan hệ giữa hai nước này và đây cũng là một nguồn
tài liệu quan trọng để thực hiện luận văn này.
Cuốn sách “Trung Quốc mộng của Đại tá Lưu Minh Phúc, giảng viên
Đại học Quốc phòng Bắc Kinh xuất bản năm 2010 đã đưa ra nhiều so sánh
trong quan hệ giữa Mỹ – Trung – Nga, và các đế chế trong lịch sử, đặc biệt lý
giải những thuận lợi, thách thức của các siêu cường trước đây và những bước
đi để Trung Quốc có thể thay thế được Mỹ để trở thành siêu cường số một
trong thời gian tới.
Tham luận “Cạnh tranh Mỹ – Trung tại Biển Đông: Tác động chiến
lược đối với an ninh khu vực của Tiến sĩ Fu-Kuo Liu – Trường Đại học
Chính trị, Đài Loan trong Hội thảo khoa học quốc tế lần thứ 2 với chủ đề
“Biển Đông: Hợp tác vì An ninh và Phát triển trong khu vực diễn ra ngày 11
– 12/11/2010 đã chỉ ra những vấn đề tiếp tục xảy ra trên thực tế sau khi ký
DOC và xem xét những hệ lụy của chính trị cường quyền hiện nay giữa Mỹ
và Trung Quốc, điều mà cho đến nay đã lan sang Biển Đông. Cạnh tranh Mỹ
– Trung ở khu vực sẽ mang lại tác động sâu sắc đối với an ninh và cách thức
hợp tác ở khu vực. Các vấn đề Biển Đông do đó trở thành một phần không thể
tránh né trong mối quan hệ Mỹ – Trung. Trong khi không có bất kỳ tiến triển
rõ rệt nào trong việc giải quyết hòa bình tranh chấp ở Biển Đông, thay đổi
trong cạnh tranh chiến lược Mỹ và Trung Quốc sẽ định hình nên những luật
chơi mới.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu và bài viết đã xuất bản đều đề
cập đến khía cạnh này hoặc khía cạnh khác của quan hệ Trung - Mỹ, chính
3
sách của Mỹ đối với Trung Quốc hoặc nói đến sự cạnh tranh trong một lĩnh
vực cụ thể. Tuy nhiên, các tài liệu vẫn chưa đề cập đầy đủ sự cạnh tranh
trong các lĩnh vực, tại một thời điểm cụ thể hoặc sự so sánh đó là trong một
phạm vi rộng. Do đó, trên cơ sở nghiên cứu, phân tích và tiếp thu các
nguồn tài liệu đó, khóa luận sẽ tập trung vào sự cạnh tranh Trung Quốc và
Hoa Kỳ ở khu vực Đông Nam Á một cách hệ thống và chỉ rõ tác động của
nó tới khu vực và Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Trong khuôn khổ nghiên cứu, khóa luận sẽ tập trung làm rõ
thực trạng cạnh tranh Trung Quốc và Hoa Kỳ tại Đông Nam Á từ năm 2016
- 2022 trên một số lĩnh vực chính, phân tích nguyên nhân khách quan và
chủ quan dẫn tới thực trạng trên, dự báo chiều hướng quan hệ thời gian tới
và những tác động của cục diện cạnh tranh Trung – Mỹ đối với khu vực và
Việt Nam.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
* Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về quan hệ Trung Quốc – Hoa Kỳ
tại khu vực Đông Nam Á từ năm 2016 đến nay.
* Trên cơ sở đó đề tài tập trung phân tích, làm rõ thực trạng quan hệ
cạnh tranh Trung Quốc và Hoa Kỳ tại Đông Nam Á từ năm 2016 đến nay.
* Đánh giá về những ảnh hưởng, tác động đối với khu vực Đông Nam
Á nói chung và Việt Nam nói riêng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu mặt cạnh tranh của cặp quan hệ
Trung Quốc và Hoa Kỳ tại khu vực Đông Nam Á thông qua chính sách của
hai quốc gia ở khu vực này, những tác động của việc cạnh tranh này đối với
bản thân hai nước cũng như đối với khu vực và Việt Nam và chiều hướng
cạnh tranh của Trung Quốc và Hoa Kỳ trong thời gian tới.
- Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu giai
đoạn từ năm 2016 đến năm 2022.
4
- Phạm vi nghiên cứu về không gian: Khu vực Đông Nam Á và Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đánh giá, tìm hiểu
nguồn gốc sâu xa của các vấn đề chính trị quốc tế; quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, của Đảng và Nhà nước Việt Nam về những vấn đề quốc tế, đồng
thời tham khảo một số lý thuyết quan hệ quốc tế hiện đại để giải quyết vấn đề.
Ngoài ra, khóa luận chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu quan hệ
quốc tế và các phương pháp nghiên cứu liên ngành để giải quyết các vấn đề
đề tài nghiên cứu đặt ra như: phương pháp lịch sử – logic, so sánh – đối chiếu,
phân tích – tổng hợp và dự báo.
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khoá luận gồm ba
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về quan hệ Trung Quốc – Hoa
Kỳ tại khu vực Đông Nam Á từ năm 2016 đến nay
Chương 2: Thực trạng quan hệ cạnh tranh Trung Quốc và Hoa Kỳ
tại Đông Nam Á từ năm 2016 đến nay
Chương 3: Tác động của cạnh tranh Trung Quốc và Hoa Kỳ tới
khu vực Đông Nam Á và Việt Nam - dự báo chiều hướng cạnh tranh thời
gian tới
5
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG QUAN HỆ
GIỮA TRUNG QUỐC VÀ HOA KỲ TẠI KHU VỰC ĐÔNG NAM Á
1.1. Một số vấn đề lý luận về quan hệ quốc tế
1.1.1. Một số khái niệm, lý thuyết về quan hệ quốc tế
1.1.1.1 Khái niệm về quan hệ quốc tế
Trong quá trình tham gia của các chủ thể vào đời sống chính trị quốc tế
vì mục tiêu quốc gia, khu vực và quốc tế, những quan hệ chính trị quốc tế
từng bước được xác lập và phát triển. Quan hệ chính trị quốc tế có cơ sở từ
quan hệ chính trị quốc gia, những quan hệ được thiết lập trước hết do việc
thực hiện các chính sách đối nội ra phạm vi quốc tế, chính sách đối ngoại
được xác lập và từng bước được thực hiện, theo đó những quan hệ chính trị
quốc tế cũng được xác lập. Việc hoạch định và thực hiện chính sách đối nội
và chính sách đối ngoại phản ánh sự chín muồi về mặt chính trị của mỗi nhà
nước. Các chủ thể chính trị quốc tế, mà quan trọng nhất là nhà nước của các
quốc gia có chủ quyền, tham gia vào công việc chính trị quốc tế chủ yếu
thông qua việc hoạch định và thực thi hệ thống chính sách đối nội và đối
ngoại. Bởi vậy, có thể coi chính trị quốc tế là sự tiếp tục hoạch định và thực
thi chính sách đối nội của các quốc gia trên phạm vi quốc tế; quan hệ chính trị
quốc tế là kết quả của việc hoạch định và thực hiện chính sách đối nội và đối
ngoại của quốc gia.
Quan hệ quốc tế là phạm trù lịch sử, là sản phẩm của quá trình phát
triển xã hội loài người. Khi giai cấp, dân tộc xuất hiện, chính trị (mà biểu hiện
tập trung ở nhà nước) hình thành và từng bước khẳng định vai trò to lớn của
mình trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. Trong xã hội có giai cấp,
giao cấp thống trị, thông qua chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước
khẳng định vai trò của mình, đồng thời mở rộng sự ảnh hưởng vượt khỏi
phạm vi quốc gia. Bởi thế, chính quan hệ chính trị quốc tế từng bước được
6
xác lập, phát triển và biến đổi. Ở mỗi thời kỳ lịch sử nhất định, quan hệ chính
trị quốc tế có những đặc trưng khác nhau, song xuyên suốt vẫn là quan hệ
chịu sự chi phối bởi các nước lớn.
Trong xã hội đương đại, quan hệ quốc tế phản ánh và là biểu hiện tập
trung của quan hệ kinh tế quốc tế và của đời sống chính trị quốc tế. Mặc dù
trong đời sống chính trị quốc tế không còn tồn tại một chính phủ thế giới,
song quan hệ chính trị quốc tế lại bị chi phối bởi một tổ chức có qui mô lớn
nhất hành tinh là Liên hợp quốc. Tuy nhiên, quan trọng nhất vẫn là cơ chế tác
động của các quốc gia.
Quan hệ quốc tế là quan hệ nảy sinh, hình thành và phát triển do sự tác
động qua lại giữa các chủ thể chính trị quốc tế, trước hết và quan trọng nhất là
các quốc gia và các tổ chức quốc tế, trong qúa trình tham gia vào đời sống
chính trị quốc tế vì mục đích, lợi ích quốc gia, khu vực và quốc tế.
1.1.1.2 Các lý thuyết quan hệ quốc tế
Các lý thuyết quan hệ quốc tế giải thích các quốc gia có quan hệ với
nhau như thế nào trong nền chính trị quốc tế, nó bao gồm việc giải thích hành
vi chính sách đối ngoại trong nhiều lý thuyết quan hệ quốc tế. Thật vậy, mọi
nỗ lực làm rõ các mối quan hệ quốc tế hầu hết đều liên quan tới việc giải thích
chính sách đối ngoại. Đa số các lý thuyết quan hệ quốc tế, nếu không muốn
nói là tất cả, đều tập trung vào tác động của hệ thống quốc tế tới chính sách
đối ngoại. Việc nghiên cứu, đánh giá và có một cái nhìn súc tích về lý thuyết
quan hệ quốc tế sẽ giúp làm rõ hơn vị trí của chính sách đối ngoại trong bối
cảnh của lĩnh vực nghiên cứu quan hệ quốc tế.
Thứ nhất, lý thuyết hiện thực. Các lý thuyết hiện thực về quan hệ quốc
tế có đặc trưng là dựa vào các giả định về tình trạng vô chính phủ và tự cứu,
và nhận thức về các quốc gia như là những chủ thể đơn nhất và duy lý. Theo
đó, các nhà hiện thực cho rằng để tồn tại, quốc gia cần phải nỗ lực tối đa hóa
sức mạnh của mình.
Thứ hai, lý thuyết tự do. Mặc dù những biến thể của chủ nghĩa tự do có
7
chung một vài giả định với chủ nghĩa hiện thực, nhưng các nhà tự do khác với
các nhà hiện thực ở chỗ đối với họ, hệ thống quốc tế về bản chất là thuận lợi
cho sự hợp tác. Theo các lý thuyết tự do về quan hệ quốc tế, hợp tác với nhau
bản thân nó chính là lợi ích của các quốc gia.
Thứ ba, lý thuyết kiến tạo. Thuyết kiến tạo cho rằng thế giới có cấu trúc
xã hội, được tạo ra bởi những động lực vật chất và ý tưởng. Các quốc gia với
tư cách là những chủ thể có tính xã hội đánh giá, nhận thức về tình hình thế
giới dựa trên đặc thù lịch sử, văn hóa, xã hội trong từng quốc gia đó. Tương
tự như vậy, qua một quá trình tương tác, các quốc gia tự hình thành lên những
nhận thức chủ quan, về bản sắc của mình, về các nước khác và về các thể
chế/tổ chức quốc tế. Thuyết kiến tạo tốt nhất nên được gọi là một cách tiếp
cận hơn là một lý thuyết về quan hệ quốc tế.
1.1.2. Đặc trưng và tính quy luật của quan hệ chính trị quốc tế
1.1.2.1. Đặc trưng của quan hệ chính trị quốc tế
Thứ nhất, quan hệ chính trị quốc tế là mối quan hệ phức tạp, nhiều
chiều, nhiều lĩnh vực, được xem xét từ nhiều khía cạnh, đan xen nhiều sự kiện,
nhiều quá trình. Hình thức, nội dung các mối quan hệ cũng như nguyên nhân,
hậu quả của nó không phải khi nào cũng có thể lường trước được. Do vậy
việc mô tả, phân tích, giải thích các mối quan hệ chính trị quốc tế không được
quá nhấn mạnh vào thuyết nhân quả, hoặc thuyết định mệnh, mà cần có cách
nhìn nhận tổng hợp từ nhiều góc cạnh, thậm chí không loại trừ cả yếu tố ngẫu
nhiên.
Thứ hai, chủ thể quan hệ chính trị quốc tế ngày càng phong phú, đa
dạng và có vai trò đa chiều trong đời sống chính trị quốc tế.
Quốc gia có vai trò chủ đạo và không thể phủ định được trong quan hệ
chính trị quốc tế. Bản chất của nền chính trị thế giới là mối quan hệ giữa các
quốc gia, là đấu tranh không khoan nhượng vì lợi ích của quốc gia. Tuy nhiên,
trong thế giới ngày nay xuất hiện nhiều chủ thể quan hệ chính trị mới, phi
truyền thống, chủ thể "ngoài chủ quyền", ngoài quốc gia. Đó là các tổ chức
8
quốc tế liên chính phủ và phi chính phủ, các tập đoàn kinh tế, tài chính, các
công ty xuyên quốc gia, các tập đoàn truyền thông, các nhóm cá nhân, các
cộng đồng dân tộc, các tổ chức tôn giáo, các tổ chức không chính thức, bất
hợp pháp (kể cả các tổ chức tội phạm, maphia, khủng bố...), các lãnh tụ, cá
nhân...Các nhà nước đang mất dần quyền kiểm soát hoạt động xuyên quốc gia
của các chủ thể này. Nhiều khi, hoạt động của các chủ thể này vi phạm
nguyên tắc cao nhất của quan hệ chính trị quốc tế - chủ quyền quốc gia. Do
vậy, sự độc quyền của quốc gia trong quan hệ chính trị quốc tế đang dần bị
phá vỡ bất chấp các nỗ lực và cố gắng của các chính phủ.
Vai trò của các chủ thể phi quốc gia đang ngày càng lớn mạnh và chính
sách đối với các chủ thể này không thể xây dựng trên cơ sở cách suy nghĩ
truyền thống về chính sách đối ngoại, về ngoại giao nhà nước. Các khái niêm
cơ bản gắn với quốc gia như an ninh, chủ quyền, sức mạnh, lực lượng, cân
bằng lực lượng... cần phải được điều chỉnh và áp dụng một cách linh hoạt
trong quan hệ với các chủ thể ngoài quốc gia.
Thứ ba, cách thức ứng xử của các chủ thể quan hệ chính trị quốc tế
phụ thuộc vào đặc điểm của đời sống chính trị thế giới.
Cách ứng xử của các quốc gia trong quan hệ chính trị quốc tế luôn phụ
thuộc vào sự tương quan và phân bố lực lượng giữa các nước trên thế giới,
trước hết là giữa các cường quốc lớn, vào đặc điểm của cục các chủ thể quan
hệ chính trị quốc tế có ảnh hưởng và tác động đến chiều hướng phát triển các
mối quan hệ chính trị quốc tế, đến cách thức giải quyết các vấn đề quốc tế và
khu vực. Do đó, nhận thức đúng đắn đắn đặc điểm của hệ thống chính trị và
dự báo chính xác sự vận động của đời sống quốc tế là điều kiện quan trọng để
xác định đúng đường lối phát triển của mỗi quốc gia.
Cấu trúc hệ thống chính trị quốc tế bao gồm ba mô hình cơ bản: một
cực đa cực và hai cực.Trong hệ thống thế giới hai cự, hai quốc gia hùng mạnh
nhất thống trị thế giới, tính chất của quan hệ chính trị quốc tế phụ thuộc rất
lớn vào tính chất quan hệ giữa hai quốc gia này. Chúng chi phối hoạt động và
9
tính chất quan hệ giữa các quốc gia khác và luôn tìm cách thu hút các quốc
gia đó về bên mình. Trong hệ thống thế giới đa cực, các quốc gia lớn (các
cực) đều có ảnh hưởng quốc tế ngang nhau và tác động ngang nhau đến quá
trình chính trị thế giới. Sự lớn mạnh vượt trội của một quốc gia, hơn hẳn các
quốc gia còn lại sẽ dẫn đến sự hình thành hệ thống thế giới một cực với trung
tâm là quốc gia còn lại sẽ dẫn đến sự hình thành hệ thống thế giới một cực với
trung tâm là quốc gia đế chế và các quốc gia vệ tinh. Lịch sử quan hệ chính trị
quốc tế đã từng trải qua các thời kỳ một cực, đa cực, hai cực. Cách thức ứng
xử của mỗi quốc gia trong quan hệ chính trị quốc tế phụ thuộc vào đặc điểm
của từng hệ thống thế giới này.
1.1.2.2. Tính quy luật trong quan hệ chính trị quốc tế
Một là, cơ sở hoạt động của các quốc gia trên trường quốc tế là lợi ích
quốc gia. Lợi ích không chỉ là mục tiêu, mà còn là động lực của các hoạt động
quốc tế nói chung, hoạt động chính trị quốc tế nói riêng. Lợi ích, đặc biệt là
lợi ích quốc gia, là vấn đề căn bản, thôi thúc các chủ thể tham gia ngày càng
sâu hơn, rộng hơn vào đời sống chính trị thế giới. Các quốc gia khi tham gia
vào quan hệ quốc tế luôn được quan tâm trước hết đến lợi íc dân tộc, hướng
các quan hệ quốc tế vào việc bảo vệ, phát triển lợi ích quốc gia. Bởi vậy, quan
hệ chính trị quốc tế nhiều khi còn được xem là lĩnh vực tranh chấp, xung đột,
hoà giải, hợp tác lợi ích giữa các quốc gia. Đây là vấn đề mang tính quy luật
chi phối quan hệ chính trị quốc tế. Tất nhiên trong quan hệ chính trị quốc tế,
bên cạnh lợi ích quốc gia còn có nhiều nhóm lợi ích khác như lợi ích cá nhân,
lợi ích tổ chức (giai cấp, nhóm, đảng phái, tổ chức chính trị - xã hội), lợi ích
nhân loại ..., song, tất cả các lợi ích này đều được xem xét, nhìn nhận dưới
góc độ bảo vệ, phát triển lợi ích quốc gia và được thúc đẩy phát triển khi nó
hài hoà với lợi ích quốc gia.
Hai là, trong quan hệ chính trị quốc tế luôn tồn tại xu hướng vừa hợp
tác vừa đấu tranh.
Thực tiễn cho thấy, hợp tác và đấu tranh là những xu thế phổ biến trong
10
mọi thời kỳ lịch sử. Trong thế giới đương đại, do tính chất phức tạp của tình
hình thế giới, sự tác động nhiều chiều của các yếu tố khách quan và chủ quan,
quan hệ chính trị quốc tế cũng trở lên đặc biệt hơn. Xu thế chung hiện nay là
vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh quyết liệt nhằm giành quyền quyết định
trong giải quyết các vấn đề quốc tế. Hợp tác diễn ra ở nhiều lĩnh vực, từ kinh
tế đến quân sự, văn hoá, giáo dục trên cơ sở các bên đều có lợi; hợp tác giữa
các quốc gia để giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu. Tuy nhiên, sự
phức tạp trong quan hệ quốc tế thể hiện ở chỗ, bên cạnh mặt hợp tác lại đồng
thời tồn tại mặt đấu tranh, xuất phát từ những mâu thuẫn về lợi ích nào đó,
như lãnh thổ, dân tộc, tôn giáo, chế độ chính trị... Sự phù hợp hay bất đồng về
lợi ích giữa các chủ thể không mang tính thuần nhất, một chiều. Không tồn tại
quan hệ hợp tác toàn diện triệt để mà không có đấu tranh, đồng thời không có
xung đột gay gắt mà không có lợi ích chung nào đó có thể hợp tác. Nghĩa là,
trong quan hệ chín trị quốc tế, không có đồng minh vĩnh viễn và cũng không
có kẻ thù vĩnh viễn.
Ba là, trong quan hệ chính trị quốc tế, các cường quốc, các trung tâm
quyền lực luôn đấu tranh với nhau nhằm giành quyền thống trị thế giới hoặc
gây ảnh hưởng đến các khu vực nhất định. Trong lịch sử thế giới thường
xuyên có những đế quốc muốn xâm chiếm, áp đặt ý chí của mình lên các
nước khác, như: Hy Lạp, La Mã thời cồ đại, đế quốc Phrăng, Nguyên Mông
thời trung đại, đế quốc Ôman, nước Pháp (Naponeon) thời cận đại, phát xít
Đức và nước Mỹ thời hiện đại. Giữa các cường quốc thường diễn ra cuộc đấu
tranh giành quyền quyết định các vấn đề quốc tế, khẳng định vị thế của mình
trong đời sống thế giới. Đó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến những cuộc
chiến tranh thế giới trong lịch sử. Hai cuộc chiến tranh thế giới thế kỷ XX
diễn ra do các nước đế quốc gây ra, đều xuất phát từ mâu thuẫn về lợi ích
quốc gia và tranh giành quyền thống trị thế giới. Hiện nay, cục diện đa cực
Mỹ - Tây Âu - Nhật Bản - Trung Quốc - Nga... cũng không nằm ngoài quy
luật này. Tuy nhiên, trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể, giữa các cường
11
quốc không phải lúc nào cũng đấu tranh gay gắt, mà có thể vừa hợp tác vừa
đấu tranh với nhau. Phương thức đấu tranh và hình thức biểu hiện ngày càng
tinh vi, phức tạp hơn.
1.1.3 Quan điểm của Đảng về ngoại giao đa phương
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, lần đầu tiên khái
niệm “đối ngoại đa phương được chính thức đưa vào văn kiện. Kể từ đây,
đối ngoại đa phương trở thành một định hướng chiến lược của Đảng trong
đường lối đối ngoại chứ không còn là công cụ thực hiện công tác đối ngoại
như trước kia. Văn kiện Đại hội XII chỉ rõ, định hướng lớn “nâng cao chất
lượng công tác đối ngoại đa phương , theo đó Việt Nam cần “chủ động tham
gia và phát huy vai trò trong cá cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên
hợp quốc . Định hướng này đòi hỏi công tác đối ngoại đa phương của Việt
Nam cần chủ động, tích cực hơn trong việc góp phần xây dựng và định hình
các quy tắc, luật lệ của các cơ chế đa phương chứ không chỉ dừng lại ở việc
tham gia. Bởi lẽ đó, Văn kiện Đại hội XII cũng đặt ra yêu cầu mới đới với
công tác da phương giai đoạn này là phải chuyển mạnh từ “ký kết, gia nhập,
tham gia sang “chủ động và tích cực góp phần xây dựng, định hình các quy
tắc, luật lệ mới của các cơ chế đa phương mà chúng ta hiện đang tham gia.
Tại Đại hội XIII của Đảng, trên cơ sở xác định định hướng đối ngoại cho giai
đoạn 2021- 2030 là: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện,
sâu rộng, có hiệu quả… ; Đảng ta chỉ rõ, về đối ngoại đa phương cần thực
hiện nhiệm vụ: “Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là
đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân . Trong đó nội
hàm “toàn diện thể hiện triển khai đối ngoại của nước ta qua các chủ thể, đối
tượng và các địa bàn, trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục
khoa học công nghệ, quốc phòng, an ninh…; nội hàm “hiện đại là trên cơ sở
kế thừa truyền thống ngoại giao Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh, vì lợi ích
quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc
12
và luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi, thích ứng linh hoạt trước những
chuyển biến của tình hình thế giới và khu vực.
1.2. Cơ sở thực tiễn tại khu vực Đông Nam Á từ năm 2016 đến nay
1.2.1. Tình hình khu vực
Cuộc cạnh tranh địa chính trị đang định hình thời đại của chúng ta là
cuộc cạnh tranh giữa Trung Quốc và Mỹ. Trong lúc căng thẳng gia tăng xoay
quanh vấn đề thương mại và Đài Loan, cùng nhiều vấn đề khác, có thể hiểu
được tại sao nhiều quốc gia lại ngày càng lo ngại về một tương lai được định
hình bởi sự cạnh tranh giữa các cường quốc. Tuy nhiên, một khu vực đã tự tạo
ra con đường hòa bình và thịnh vượng xuyên qua kỷ nguyên lưỡng cực này.
Nằm ở trung tâm địa lý của cuộc tranh giành ảnh hưởng giữa Trung Quốc và
Mỹ, Đông Nam Á không chỉ cố gắng duy trì mối quan hệ tốt đẹp với Bắc
Kinh và Washington, đi dây ngoại giao để giữ vững lòng tin của cả hai bên,
mà còn khiến Trung Quốc và Mỹ đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng và
phát triển của mình.
Ba mươi năm trước, nhiều nhà phân tích tin rằng châu Á chắc chắn sẽ
xảy ra xung đột. Như nhà khoa học chính trị Aaron Friedberg đã viết vào năm
1993, châu Á có khả năng trở thành “tuyến đầu của xung đột giữa các cường
quốc (the cockpit of great-power conflict) cao hơn nhiều so với châu Âu. Về
lâu dài, ông dự đoán, “Quá khứ của châu Âu có thể là tương lai của châu Á .
Nhưng, dù sự ngờ vực và cạnh tranh vẫn tiếp diễn – đặc biệt là giữa Trung
Quốc và Nhật Bản, cũng như giữa Trung Quốc và Ấn Độ – châu Á hiện đang
ở thập niên thứ năm của một nền hòa bình tương đối, trong khi châu Âu một
lần nữa xảy ra chiến tranh. (Xung đột lớn gần đây nhất ở châu Á, Chiến tranh
Việt-Trung, đã kết thúc vào năm 1979). Đông Nam Á vẫn có những xung đột
nội bộ nhất định – đặc biệt là ở Myanmar – nhưng nhìn chung, khu vực này
rất yên bình, không hề có xung đột giữa các quốc gia, dù các sắc tộc và tôn
giáo ở đây cực kỳ đa dạng. Đông Nam Á cũng đã phát triển thịnh vượng.
Trong khi mức sống của người Mỹ và người châu Âu giảm sút trong 20 năm
13
qua, người Đông Nam Á đã đạt được những thành tựu phát triển kinh tế và xã
hội đáng kể.
Giai đoạn phát triển và hòa hợp đặc biệt này ở châu Á không phải chỉ là
ngẫu nhiên trong lịch sử. Nhưng nguyên nhân phần lớn là nhờ ASEAN, bất
chấp những thiếu sót trong tư cách là một liên minh chính trị và kinh tế, đã
giúp hình thành một trật tự khu vực có tính hợp tác, được xây dựng trên nền
văn hóa thực dụng và thỏa hiệp. Trật tự đó đã giúp dàn xếp những chia rẽ
chính trị sâu sắc trong khu vực và giúp hầu hết các nước Đông Nam Á tập
trung vào tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nghịch lý thay, sức mạnh lớn nhất
của ASEAN lại nằm ở việc họ tương đối yếu và không đồng nhất, qua đó đảm
bảo rằng không một cường quốc nào coi họ là mối đe dọa. Như nhà ngoại
giao Singapore Tommy Koh đã nhận xét, “Mỹ, Trung Quốc và Ấn Độ không
thể đảm nhận vai trò lèo lái khu vực này vì họ không có chương trình nghị sự
chung. ASEAN tự lèo lái được chính là vì ba cường quốc trên không thống
nhất được với nhau. Và chúng ta có thể tiếp tục làm như vậy chừng nào các
cường quốc vẫn thấy chúng ta trung lập và độc lập.
Cách tiếp cận tinh tế và thực dụng của ASEAN trong việc quản lý cạnh
tranh địa chính trị giữa Trung Quốc và Mỹ ngày càng được coi là hình mẫu
cho các nước đang phát triển. Đại đa số dân số thế giới sống ở các nước
phương Nam, nơi mà các chính phủ chủ yếu quan tâm đến phát triển kinh tế,
chứ không muốn chọn phe trong cuộc cạnh tranh giữa Bắc Kinh và
Washington. Trung Quốc đã tiến sâu vào khắp châu Phi, châu Mỹ Latinh, và
Trung Đông. Nếu Mỹ muốn duy trì và làm sâu sắc hơn mối quan hệ với các
quốc gia trong khu vực này, thì họ nên học hỏi từ câu chuyện thành công của
ASEAN. Một cách tiếp cận thực dụng, “có tổng là dương – chủ trương
không nhắc đến những khác biệt chính trị trong quá khứ và sẵn sàng hợp tác
với tất cả mọi quốc gia – sẽ được đón nhận nồng nhiệt hơn ở các nước
phương Nam so với cách tiếp cận “có tổng bằng không, vốn có mục đích
phân chia thế giới thành các khối đối đầu.
14
1.2.2. Vị trí chiến lược của khu vực Đông Nam Á
Về mặt địa – chiến lược, Đông Nam Á (bao gồm mười một quốc gia là
Việt Nam, Brunei, Campuchia, Đông Timor, Indonesia, Lào, Malaysia,
Myanmar, Philippines, Singapore và Thái Lan) được đánh giá là có giá trị đặc
biệt do nằm án ngữ tuyến giao thông vận tải biển nối liền Đông – Tây, từ Á
sang Âu qua Trung Đông với eo biển chiến lược Malacca và Lombok (trung
bình hơn 50% giá trị thương mại thế giới được chu chuyển qua eo biển này).
Hơn nữa, Đông Nam Á luôn là địa bàn diễn ra cạnh tranh gay gắt ảnh hưởng
của các nước lớn (Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga, Ấn Độ…) do là cửa ngõ
phía Đông Nam của lục địa Á – Âu. Nắm được quyền kiểm soát khu vực cũng
đồng nghĩa với việc nắm được quyền tự do vươn ra ngoài của các nước trong
lục địa, hay tự do tiếp cận và thâm nhập vào lục địa của các nước bên ngoài.
Đây chính là lý do vì sao trong một cuộc họp báo ngày 7/4/1954, Tổng thống
Mỹ Eisenhower đã đề cập tới việc ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản lan tràn
xuống phía khu vực Đông Nam Á, một quan điểm vẫn được biết đến là “Học
thuyết Domino nổi tiếng trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Về mặt địa – chính trị, tất cả các quốc gia khu vực Đông Nam Á (trừ
Đông Timor) đều là thành viên của ASEAN vì vậy Đông Nam Á có vai trò
quan trọng trong việc “duy trì và thúc đẩy hòa bình, an ninh và ổn định, tăng
cường hơn nữa các giá trị hướng tới hòa bình trong khu vực [5]. Trải qua
hơn 40 năm hình thành và phát triển, hiện nay ASEAN đang chuyển sang giai
đoạn phát triển mới với mục tiêu bao trùm là hình thành Cộng đồng ASEAN
vào năm 2015, hoạt động dựa trên cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN.
Cộng đồng ASEAN được xây dựng dựa trên ba trụ cột: APSC, AEC và
ASCC. Trong đó, nhiệm vụ bao trùm của APSC chính là tạo dựng môi trường
hòa bình và an ninh cho sự phát triển của khu vực Đông Nam Á thông qua
nâng cao hợp tác chính trị – an ninh trong nội khối cũng như tăng cường hợp
tác giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài. Hợp tác an ninh – chính trị
ASEAN đến nay đã đạt được nhiều tiến triển tích cực, các biện pháp và hoạt
15
động đã và đang được triển khai mạnh mẽ. Với mục tiêu xây dựng thành công
Cộng đồng ASEAN, đưa Hiệp hội thành “một nhóm hài hòa các dân tộc Đông
Nam Á, gắn bó trong một cộng đồng các xã hội đùm bọc lẫn nhau [6], vai trò
địa – chính trị của khu vực ngày càng được tăng cường và củng cố, đặc biệt
trong tính toán chiến lược của các nước lớn trong và ngoài khu vực.
Về mặt địa - kinh tế, Đông Nam Á là một khu vực phát triển năng động.
Từ năm 2010 đến năm 2020, Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN),
bao gồm 10 quốc gia với tổng GDP là 3 nghìn tỷ USD vào năm 2020, đã đóng
góp nhiều hơn vào tăng trưởng kinh tế toàn cầu so với Liên minh châu Âu,
vốn có tổng GDP là 15 nghìn tỷ USD. Cộng đồng kinh tế ASEAN là một
trong ba trụ cột chính của Cộng đồng ASEAN với tổng dân số của mười nước
thành viên tham gia hiện nay khoảng gần 700 triệu người. Ban Thư ký
ASEAN đang cùng nhiều cơ quan và tổ chức xây dựng “kế hoạch phát triển
toàn diện để đưa các nước trong khu vực liên kết chặt chẽ với nhau hơn và
đang tìm kiếm sự tham gia của tất cả các bên liên quan nhằm thúc đẩy đà tăng
trưởng mạnh mẽ về thương mại và đầu tư trong khu vực và với bên ngoài.
Các nước Đông Nam Á đều có thế mạnh riêng và đều có khả năng hội nhập
cao, có thể đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương và kinh tế thế giới.
1.2.3. Lợi ích của Mỹ và Trung Quốc tại Đông Nam Á
1.2.3.1 Lợi ích của Mỹ
Với tư cách là một cường quốc biển có vị trí địa lý được bao bọc bởi
hai đại dương (Đại Tây Dương và Thái Bình Dương), từ xa xưa Mỹ đã luôn
quan tâm đến vai trò của biển và quyền lực biển đối với việc xây dựng, phát
triển và bảo vệ an ninh đất nước. Các chiến lược của Mỹ coi việc kiểm soát
đại dương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và là nhân tố chính trong việc kiểm
soát thế giới. Điều này lý giải vì sao từ rất sớm, nước Mỹ đã hoạch định chiến
lược kiểm soát đại dương, xây dựng lực lượng hải quân hùng hậu nhất thế
giới, lấy đó làm cơ sở xác lập và mở rộng ảnh hưởng trên tất cả các đại
16
dương. Chính vì vậy mối quan tâm tới Châu Á – Thái Bình Dương và Đông
Nam Á gần như là điều tất yếu với tất cả các đời Tổng thống Mỹ.
Đông Nam Á là mắt xích quan trọng tại Châu Á – Thái Bình Dương,
nơi được Chính quyền Mỹ coi là khu vực năng động nhất, một trung tâm
chính của quyền lực toàn cầu trong thế kỷ XXI và là một trọng tâm trong
chiến lược “tái cân bằng khu vực nhằm duy trì vai trò lãnh đạo của nước Mỹ.
Lợi ích chiến lươc xuyên suốt của Mỹ đối với khu vực là bảo đảm sự hiện
diện quân sự của Mỹ tại khu vực; ngăn chặn không cho một nước hoặc một
nhóm nước nổi lên đe dọa lợi ích Mỹ tại khu vực; đảm bảo an toàn tự do hàng
hải, hàng không và chống khủng bố. Ngoài ra, việc kiểm soát được các tuyến
đường vận tải biển quan trọng nhất trên thế giới nằm ở Đông Nam Á như eo
biển Malacca và Biển Đông cũng giúp Mỹ có thể triển khai lực lượng Mỹ từ
Tây Thái Bình Dương tới Ấn Độ Dương và Vùng Vịnh và gây áp lực đối với
các nước khác (đồng minh cũng như đối thủ) cả về khía cạnh quân sự và
thương mại. Trong Chiến tranh Lạnh, việc duy trì tự do hàng hải tại các tuyến
đường biển này cho tàu quân sự của Mỹ trong khi từ chối quyền tự do tương
tự cho Liên Xô trong trường hợp xảy ra chiến tranh là ưu tiên chiến lược hàng
đầu của Mỹ; khi những mối đe dọa quân sự toàn cầu dần suy giảm, những
tính toán về mặt kinh tế được Mỹ cân nhắc kỹ lưỡng và rõ ràng hơn. Trong
khi tỷ trọng thương mại của Mỹ đi qua các vùng biển này không lớn, đồng
minh (Nhật, Hàn, Úc và Philippines) và đối tác (Singapore) của Mỹ lại phụ
thuộc rất lớn vào những tuyến đường vận tải biển tại đây; do vậy, Mỹ có lợi
ích trong việc duy trì niềm tin của các quốc gia Đông Nam Á rằng Mỹ vẫn là
nước bảo trợ đáng tin cậy cho tự do hàng hải toàn cầu. Hơn nữa, tại Đông
Nam Á, Mỹ có hai trong số năm đồng minh theo hiệp ước của Mỹ tại khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương là Philippines và Thái Lan; có mối hợp tác chặt
chẽ với Singapore (nhất là trong vấn đề quân sự); chia sẻ nhiều lợi ích chung
với Indonesia và Việt Nam.
17
1.2.3.2 Lợi ích của Trung Quốc
Trung Quốc luôn coi Đông Nam Á là khu vực chỉ gồm các nước vừa và
nhỏ (sáu nước hải đảo và năm nước lục địa), nằm kề cận tại biên giới phía
Tây Nam, không có thực lực lẫn ý chí để thách thức các lợi ích của Trung
Quốc, nhưng ngược lại Trung Quốc dễ dàng gây ảnh hưởng và tác động. Vì
vậy, từ xa xưa khu vực Đông Nam Á luôn được các lãnh đạo và chiến lược
gia Trung Quốc nhìn nhận là sân sau của mình. Theo đó:
Khu vực Đông Nam Á không tạo thành mối uy hiếp đối với Trung
Quốc, tuy nhiên lo ngại lớn nhất về an ninh của Trung Quốc ở khu vực là các
cường quốc bên ngoài lôi kéo tăng cường quan hệ an ninh với Đông Nam Á
và xây dựng căn cứ quân sự ở khu vực đe dọa, kiềm chế Trung Quốc. Đông
Nam Á được coi là mục tiêu quan trọng trong chiến lược hướng Nam của
Trung Quốc. Để đối phó với những thách thức này, những năm qua, với sự
phát triển kinh tế nhanh chóng, Trung Quốc đã nhanh chóng hiện đại hoá
quân sự. Các chiến lược gia của Trung Quốc cũng đang tích cực thực hiện
một loạt dự án để khắc phục điểm yếu lớn nhất của Trung Quốc là khả năng
bị cô lập từ biển: xây dựng kho dự trữ dầu lửa chiến lược; đường ống dẫn dầu
liên lục địa với Nga và Trung Á; tìm kiếm tài nguyên dưới biển tại các khu
vực gần bờ; các đường vận tải mới xuyên qua Đông Nam Á có thể cho phép
vận chuyển dầu khí từ Trung Đông mà không phải đi qua eo biển Malacca;
xây dựng cảng và sân bay ở Myanmar và Pakistan có thể sử dụng khẩn cấp
bởi lực lượng “phản ứng nhanh của Trung Quốc trong tương lai; làm sâu sắc
hơn mối quan hệ đối tác chiến lược với Iran để có thể trở thành một đầu cầu
cho Trung Quốc ở vùng Vịnh; và phát triển các tàu sân bay và tàu ngầm hạt
nhân tấn công, và một số lượng lớn tàu ngầm diesel để tăng cường năng lực
bảo vệ đường biển và tấn công tàu của đối phương. Đó là chưa kể đến các lợi
ích của việc liên kết kinh tế giữa ASEAN và Trung Quốc trong khuôn khổ
khu vực thương mại tự do CAFTA; Kế hoạch hợp tác kinh tế vành đai Vịnh
Bắc Bộ mở rộng; Hợp tác tiểu khu vực sông Mê Kông và đường sắt xuyên Á
18
trong việc giúp Trung Quốc mở rộng thị trường, thực hiện chiến lược “hướng
ngoại và “khai phá miền Tây của mình. Ngoài ra, với tốc độ phát triển kinh
tế nhanh chóng, Trung Quốc ngày càng trở nên phụ thuộc vào các nguồn tài
nguyên bên ngoài được vận chuyển bằng đường biển qua các khu vực biển
then chốt tại Đông Nam Á (hàng năm có khoảng 50.000 tàu chở hàng, chiếm
khoảng 1/5 khối lượng hàng hóa chuyên chở bằng đường biển, và 80% lượng
dầu nhập khẩu của Trung Quốc đi qua eo biển Malacca [8].
1.3. Thực trạng quan hệ Trung – Mỹ những năm đầu thế kỷ XXI
Khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991 và cần có một lý do chính đáng khác
để tiếp tục can dự với Trung Quốc, Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã nhanh
chóng hành động. Sau khi cam kết “không dung túng những kẻ bạo chúa, từ
Baghdad đến Bắc Kinh, và chỉ trích người tiền nhiệm vì đã bắt tay như
thường lệ với những kẻ đã giết chết tự do ở Quảng trường Thiên An Môn ,
cuối cùng ông chuyển sang ca ngợi Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân,
vận động hành lang để trao cho Trung Quốc quy chế “tối huệ quốc , và thậm
chí còn giúp đưa nước này gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Bill
Clinton là Tổng thống Mỹ đầu tiên đặt tên cho chính sách mới này là “can dự
toàn diện . Ông hy vọng rằng một khi Trung Quốc tiếp nhận chủ nghĩa tư
bản, dân chủ sẽ là đích đến tiếp theo.
Các tập đoàn và người tiêu dùng Mỹ đều được hưởng lợi từ những
chính sách này, ngay cả khi Mỹ buộc phải thỏa hiệp một số nguyên tắc dân
chủ và chịu thâm hụt thương mại ngày càng tăng. Nhưng Trung Quốc được
hưởng lợi nhiều nhất: chính sách can dự đã vô hiệu hóa Mỹ với tư cách là một
đối thủ vào thời điểm thuận lợi nhất cho Trung Quốc. Trong hơn 30 năm đó,
Trung Quốc đã thoát khỏi “cái kén cách mạng , phát triển nền kinh tế mong
manh, đặt nền móng cho cơ sở hạ tầng hiện đại và trở thành một phần quan
trọng của các thể chế toàn cầu. Trong môi trường được bao bọc, mà ở đó
nước này không phải đối mặt với nguy cơ xảy ra chiến tranh với một cường
quốc lớn khác hay thậm chí là thái độ thù địch, Trung Quốc không chỉ sống
19
sót mà còn phát triển thịnh vượng.
Tuy nhiên, với việc ông Tập Cận Bình lên nắm quyền vào năm 2012,
bản chất của mối quan hệ song phương quan trọng này đã bắt đầu thay đổi.
Ông Tập Cận Bình đã thay thế khẩu hiệu “trỗi dậy hòa bình của người tiền
nhiệm bằng ý tưởng “Giấc mộng Trung Hoa và “sự hồi sinh vĩ đại của dân
tộc Trung Hoa mang tính hiếu chiến hơn. Những ý tưởng này vạch ra tầm
nhìn lớn về một Chính phủ Trung Quốc quyết đoán hơn và có ảnh hưởng hơn
ở cả trong và ngoài nước. Nhưng thái độ quyết đoán không nhân nhượng của
ông Tập Cận Bình trong chính sách đối ngoại và chủ nghĩa độc đoán ngày
càng mở rộng ở trong nước đã bắt đầu khiến Mỹ cũng như nhiều đối tác
thương mại nhỏ hơn xa lánh. Họ thấy mình bị mắc kẹt trong mối quan hệ
ngày càng bất bình đẳng, và đôi khi thậm chí bị lợi dụng.
Hậu quả không chỉ là sự gia tăng căng thẳng trong quan hệ ngoại giao
với Hoa Kỳ, một cuộc chiến thương mại cùng với sự chia tách giữa các yếu tố
trong nền kinh tế của hai cường quốc, mà còn là sự suy yếu về cấu trúc hợp
tác xã hội dân sự xuyên quốc gia và thậm chí là sự gián đoạn giao lưu văn
hóa. Với tất cả những điều kể trên, Trung Quốc đã cung cấp cho Hoa Kỳ mọi
vũ khí cần thiết để thay đổi lập trường một thời bao dung của họ. Kết quả là
một lập trường chính thức gay gắt hơn nhiều, với sự ủng hộ của một trong
những liên minh bất ngờ nhất trong chính trị Mỹ: Một mặt trận thống nhất
gồm các nghị sĩ thuộc cả hai đảng Cộng hòa và Dân chủ vốn hiếm khi nhất trí
với nhau. Nếu trong quan hệ Trung – Mỹ không phải vẫn còn sự tồn tại của
chất xúc tác là sự cải cách chính trị của Trung Quốc, thì viễn cảnh sự gắn kết
Mỹ-Trung lấy lại được niềm tin ở Mỹ trong tương lai gần là điều khó có thể
hình dung. Và khi chia tách thay thế cho gắn kết thì sự can dự sẽ trở nên vô
nghĩa.
20
Tiểu kết chƣơng 1
Đông Nam Á là khu vực có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng trong
chiến lược phát triển của hầu hết các nước lớn (nằm trên tuyến đường biển nối
liền các khu vực có tiềm lực kinh tế, chính trị và quân sự như Đông Bắc Á,
Trung Đông, nhiều nước thuộc khu vực Thái Bình Dương…).Thực tế lịch sử
cho thấy, khu vưc Đông Nam Á ngày càng thu hút sự quan tâm đăc biê của
cả Mỹ và Trung Quốc. Điều này thể hiê qua việc hoạch định chính sách cũng
như việc triển khai chính sách của Mỹ và Trung Quốc tại khu vực. Đây là khu
vực hiện diện và tập trung nhiều lợi ích và ưu tiên chiến lược của nhiều nước.
Bên cạnh đó, tiềm lực kinh tế của đa số các quốc gia trong khu vực liên tục
tăng trưởng ở mức cao, các hình thức liên kết và hợp tác giữa các thành viên
trong khối ASEAN không ngừng được đẩy mạnh, tạo cho khu vực Đông Nam
Á trở thành một trong những trung tâm kinh tế, chính trị hàng đầu của Châu Á
– Thái Bình Dương. Chính vì thế, xung đột lợi ích và cạnh tranh ảnh hưởng
giữa các quốc gia đã bắt đầu diễn ra nhanh chóng và phức tạp trong khu vực
này. Những yếu tố tiềm năng trên đã đưa Đông Nam Á trở thành khu vực có
vị trí chiến lược quan trọng trong tính toán và triển khai chiến lược của Mỹ và
Trung Quốc tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
21
CHƢƠNG 2: THỰC TRANG QUAN HỆ CẠNH TRANH GIỮA
TRUNG QUỐC VÀ HOA KỲ VỀ ĐÔNG NAM Á
TỪ NĂM 2016 ĐẾN NAY
2.1 Các hình thức cạnh tranh giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ tại
Đông Nam Á
2.1.1 Cơ sở cạnh tranh Trung Quốc và Hoa Kỳ
Trên thực tế, vị thế “thống trị của Mỹ trong thời gian qua bị thách thức
bắt nguồn từ chính sách cải cách, mở cửa và hội nhập nhanh chóng của Trung
Quốc vào nền kinh tế - chính trị khu vực và thế giới; sức mạnh tương đối của
Mỹ và phương Tây được nhiều chuyên gia đánh giá là đang suy giảm. Trên
cơ sở phân tích số liệu kinh tế giai đoạn 1983 - 2023 cho thấy, tốc độ tăng
trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trung bình của các nước lớn trong giai
đoạn này là: Trung Quốc tăng 9,78%/năm, Mỹ: 2,8%/năm; Anh: 2,33%/năm,
Pháp: 1,99%/năm, Đức: 1,88%/năm, Nhật Bản: 1,52%/năm, Liên minh châu
Âu (EU): 2,27%/năm. Như vậy trong vòng 40 năm qua, so với các cường
quốc trong Nhóm các nền công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G-7), mỗi
năm, Trung Quốc có mức tăng trưởng trung bình cao từ 3,5 đến 5,2 lần. Nhờ
tốc độ tăng trưởng cao liên tục trong suốt bốn thập niên qua, GDP đầu người
của Trung Quốc từ 347 USD (năm 1990) tăng lên 12.970 USD (năm 2022),
tăng cao gấp 37,4 lần, trong khi đó số lần tăng của Mỹ, Anh, Pháp, Đức lần
lượt là 3,2; 2,4; 2,3 và 1,9 lần (điều này có nghĩa rằng trong 32 năm, Trung
Quốc đã thu hẹp khoảng cách với Mỹ và các nước G-7 từ 11,68 lần đến hơn
20 lần). Về quy mô quốc gia, năm 1990, nền kinh tế Trung Quốc chỉ bằng
1/16 nền kinh tế Mỹ và 1/16 kinh tế EU; đến năm 2021, Trung Quốc chính
thức vượt EU và dự kiến đến năm 2030 sẽ vượt Mỹ. [3]
Không chỉ vậy, sự phát triển nhanh chóng và ổn định về kinh tế tạo
thuận lợi cho Trung Quốc tăng cường tiềm lực quốc phòng và quân sự. Trong
khi đó, dù vẫn là quốc gia chi tiêu nhiều nhất cho quốc phòng, Mỹ tiếp tục bị
rút ngắn khoảng cách về tiềm lực quân sự với Trung Quốc. Theo các nhà phân
22
tích, trong bối cảnh diễn biến phức tạp của cuộc xung đột tại Ukraina và nhiều
nơi khác trên thế giới, nếu bị vướng vào một cuộc xung đột tổng lực kéo dài,
Mỹ cũng cần phải thay đổi mạnh mẽ để có thể duy trì thế răn đe chiến lược,
bảo vệ đồng minh, đối tác trước các sức ép nhiều mặt từ Trung Quốc...
Sự thay đổi trong tương quan sức mạnh giữa Mỹ và Trung Quốc về
kinh tế, quốc phòng và quân sự, ảnh hưởng đối với hệ thống đồng minh và đối
tác cùng với việc thay đổi nhanh chóng của các công nghệ mới (bao gồm
công nghệ chiến tranh, như vấn đề an ninh mạng, chiến tranh điện tử...) và
thực trạng vấn đề quốc phòng - an ninh cũ và mới của thế giới tiếp tục ở thế
khó giải quyết trong ngắn hạn, khiến cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung Quốc
ngày càng diễn ra sâu sắc trên nhiều lĩnh vực và là động lực chính định hình
cục diện quan hệ quốc tế trong tương lai.
2.1.2 Cạnh tranh trong các lĩnh vực công nghệ
Dưới thời kỳ chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump, dưới áp lực
của thâm hụt thương mại khổng lồ Mỹ - Trung Quốc cũng như chính sách
“Nước Mỹ trên hết , Mỹ tập trung vào việc cắt giảm thâm hụt thương mại, áp
đặt các mức thuế chưa từng có trong quan hệ với Trung Quốc, giảm thiểu
nhập khẩu từ Trung Quốc và đưa sản xuất “trở lại nước Mỹ . Thời gian qua,
về cơ bản chính quyền Tổng thống Mỹ Joe Biden tiếp tục duy trì các nỗ lực
này một cách toàn diện thông qua việc làm sâu sắc thêm cạnh tranh về công
nghệ trong quan hệ với Trung Quốc. Ngày 7-10-2022, Chính phủ Mỹ công bố
các công ty Mỹ sẽ cần một loại giấy phép đặc biệt mới được bán chíp máy
tính và thiết bị sản xuất chíp sang Trung Quốc. Động thái này cho thấy trong
thời gian tới, Trung Quốc sẽ bị hạn chế tiếp cận chíp máy tính tiên tiến trong
duy trì và phát triển siêu máy tính cũng như sản xuất chất bán dẫn. Các quy
định mới ngăn Trung Quốc tiếp cận công nghệ quan trọng ở nhiều lĩnh vực
kinh tế, nhưng điểm nhấn lớn nhất có thể nằm ở việc ngăn Trung Quốc sản
xuất các loại vũ khí quân sự tiên tiến. Cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc bắt đầu từ
thương mại hiện nay đang lan sang các lĩnh vực khác và ngày càng diễn ra
23
gay gắt, nhất là trên lĩnh vực công nghệ. Trong môi trường quốc tế hiện nay,
cạnh tranh vị trí thống trị công nghệ giữa Mỹ và Trung Quốc đang có những
tác động sâu rộng đến sự phát triển của thế giới, khu vực và các quốc gia,
trong đó có Việt Nam. Thế giới hiện đang bước vào thời kỳ đầu của cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0). Việc ứng
dụng công nghệ tiên tiến trong cuộc cách mạng công nghiệp này được nhận
định có khả năng tác động đến nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội với
quy mô và mức độ lớn hơn nhiều so với ba cuộc cách mạng công nghiệp
trước đó. Đồng thời, cục diện an ninh - chính trị thế giới cũng biến động
nhanh chóng, phức tạp, khó lường, tác động mạnh mẽ đến an ninh và phát
triển của mọi quốc gia. Nước Mỹ dưới thời chính quyền Tổng thống Donald
Trump đã đề ra khẩu hiệu “Nước Mỹ trước tiên , “Làm cho nước Mỹ vĩ đại
trở lại , chủ trương có lập trường cứng rắn hơn với Trung Quốc. Trong bối
cảnh đó, cạnh tranh công nghệ Mỹ - Trung Quốc đang nổi lên trở thành “tâm
điểm của cuộc cạnh tranh chiến lược giữa hai nền kinh tế đứng đầu thế giới,
mà rộng hơn là giữa hai siêu cường với sức mạnh tổng hợp vượt trội so với
các quốc gia còn lại. Tại Đối thoại Shangri-La lần thứ 18 được tổ chức ở
Singapore (tháng 6-2019), quyền Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Patrick
Shanahan đã cáo buộc Trung Quốc “lấy cắp công nghệ từ các quốc gia khác
và cảnh báo nguy cơ gián điệp từ mạng viễn thông của Tập đoàn đa quốc gia
về thiết bị mạng và viễn thông Huawe. Trước các cáo buộc từ phía Mỹ, ngày
2-6-2019, Trung Quốc đã công bố Sách trắng “Lập trường của Trung Quốc về
các cuộc tham vấn kinh tế - thương mại Trung Quốc - Mỹ khẳng định Trung
Quốc không “lấy cắp công nghệ mà nỗ lực tự phát triển công nghệ và bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ.
2.1.3 Cạnh tranh ảnh hưởng tại các khu vực và diễn đàn quốc tế
Mỹ và Trung Quốc tiếp tục cạnh tranh ảnh hưởng mạnh mẽ tại các khu
vực, nhất là tại châu Á - Thái Bình Dương - nơi đang tồn tại nhiều “điểm
nóng và tiếp tục là đầu tàu phát triển của thế giới. Ngoài ra, cạnh tranh tại
24
khu vực Mỹ La-tinh, các quốc đảo Nam Thái Bình Dương tiếp tục diễn ra
quyết liệt, được hiện thực hóa bởi hàng loạt chuyến đi, phát biểu và cam kết
của cả hai bên đối với các khu vực này. Cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc còn thể
hiện rõ nét tại các diễn đàn đa phương, như Đối thoại Shangri-La, Diễn đàn
An ninh Munich khi hai bên không ít lần chỉ trích lẫn nhau về những động
thái liên quan đến lợi ích của hai nước tại các khu vực. Theo dõi diễn biến
quan hệ Trung Quốc-Mỹ trong vòng một năm qua có thể thấy, Tổng thống
Biden tuy vẫn tiếp tục thi hành chính sách cứng rắn nhưng đã có điều chỉnh
nhất định về cách thức tiếp cận để linh hoạt và mềm dẻo hơn, nhất là đối với
những vấn đề Mỹ không thể đơn phương giải quyết được như biến đổi khí
hậu, ngăn chặn sự lây lan của đại dịch Covid-19... Còn các nhà lãnh đạo Bắc
Kinh cũng nhấn mạnh rằng, chiến lược phát triển của Trung Quốc không
nhằm tranh hùng xưng bá với ai mà chỉ để cho người dân Trung Quốc được
sống tốt hơn mà thôi. Đông Nam Á có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng
ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Đặc biệt, nơi đây là địa bàn trọng điểm
của cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung Quốc. Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh,
an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đang đứng trước thách thức lớn,
tiềm ẩn nguy cơ xung đột. Tranh giành ảnh hưởng và sự lôi kéo của các nước
lớn để tập hợp lực lượng ở khu vực này khiến sự đoàn kết và tính đồng thuận
của ASEAN phải đối mặt với nhiều thách thức.
2.1.4 Cạnh tranh liên quan về lợi ích ở các điểm nóng an ninh quốc
tế và khu vực
Hiện nay, Trung Quốc và Mỹ tiếp tục cạnh tranh liên quan đến các
điểm nóng trên thế giới, như vấn đề Đài Loan (Trung Quốc), Biển Đông, cuộc
xung đột Nga - Ukraina... Tại Đối thoại Shangri-La năm 2022, giới quan sát
tập trung vào bài phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng hai nước như một chỉ
dấu để đo lường mức độ căng thẳng giữa hai nước tại khu vực Ấn Độ Dương
- Thái Bình Dương, góp phần phản ánh bức tranh địa - chính trị trong khu
vực. Đối với vấn đề Biển Đông, cả Mỹ và Trung Quốc đều quan tâm tới các
25
giá trị chiến lược của Biển Đông đối với khu vực và các nước. Tại khu vực
Ấn Độ Dương–Thái Bình Dương, cạnh tranh giữa các nước lớn, đặc biệt là
giữa Mỹ và Trung Quốc được cho là sẽ còn gay gắt hơn và chưa có dấu hiệu
dịu đi trong năm tới. Đại hội 20 của Đảng Cộng sản Trung Quốc vừa qua cho
thấy Bắc Kinh vẫn hướng đến mục tiêu thay thế Mỹ trở thành siêu cường số 1
thế giới vào năm 2049. Trung Quốc sẽ thúc đẩy mọi biện pháp để phát triển
lực lượng quân đội tinh nhuệ bậc nhất thế giới ngang bằng với Mỹ và xây
dựng ảnh hưởng của Trung Quốc ở nước ngoài. Dù vậy, họ cũng nhận thức
được những rủi ro từ chưa có vị thế mạnh như Mỹ, môi trường quốc tế khó
đoán định cũng như các vấn đề kinh tế khó khăn trong nước. Trung Quốc
cũng nhìn nhận Đài Loan là vấn đề cốt lõi ảnh hưởng đến lợi ích của mình.
Báo cáo Đại hội 20 cho biết Trung Quốc sẽ “nỗ lực thống nhất hòa bình với
thiện chí cao nhất, nhưng sẽ không từ bỏ việc sử dụng vũ lực . Thời gian tới,
Trung Quốc có thể tăng cường hiện diện quân sự và bán quân sự gần Đài
Loan, gây sức ép kinh tế mạnh hơn và mở rộng việc sử dụng các biện pháp
pháp lý. Trong khi đó, chính quyền Tổng thống Biden đang thể hiện quyết
tâm bảo vệ vị trí siêu cường số một thế giới. Chiến lược an ninh quốc gia mới
công bố của Mỹ cho thấy hai đối thủ chính của Mỹ trên thế giới là Trung
Quốc và Nga, nhưng Trung Quốc ở vị trí cao hơn. Mỹ đang có nhiều động
thái cạnh tranh toàn diện với Trung Quốc, bao gồm thúc đẩy các sáng kiến đa
phương như Bộ tứ (Quad - gồm Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Australia) hay liên
minh AUKUS (Mỹ, Anh và Australia). Về vấn đề Đài Loan, Mỹ coi đây là
tâm điểm cạnh tranh với Trung Quốc. Mỹ công nhận “một nước Trung Quốc
nhưng vẫn tập trung giúp Đài Loan tăng cường khả năng phòng thủ, đồng thời
hợp tác với các đồng minh để tăng cường khả năng răn đe hải quân trong khu
vực. Hiện tại, căng thẳng hai nước cũng đang được mở rộng trong các vấn đề
thương mại, trí tuệ nhân tạo, chip máy tính, chất bán dẫn… những mảng cốt
lõi trong hoạt động kinh tế thời kỳ mới. Mỹ vẫn giữ nguyên mức thuế đối với
hàng hóa Trung Quốc mà chính quyền tiền nhiệm Donald Trump đã áp đặt,
26
thực hiện các biện pháp thắt chặt kiểm soát xuất khẩu đối với vi mạch cao cấp
và thiết bị sản xuất chip cho Trung Quốc nhằm ngăn chặn tiến bộ công nghệ
và quân sự của nước này. Mặc dù đang cạnh tranh với nhau gay gắt nhưng các
nước lớn vẫn tránh đối đầu trực tiếp. Mức độ phụ thuộc lẫn nhau sâu sắc về
kinh tế khiến Mỹ và Trung Quốc vẫn cố gắng quản lý vấn đề Đài Loan. Hơn
nữa, các nước lớn cũng lo ngại xung đột trực tiếp có thể dẫn tới cuộc chiến
tranh hạt nhân không thể kiểm soát.
2.2 Nội dung thực trạng quan hệ cạnh tranh giữa Trung Quốc và
Hoa Kỳ tại Đông Nam Á
2.2.1 Cạnh tranh trong mối quan hệ song phương tại khu vực
Cạnh tranh ảnh hưởng giữa Mỹ và Trung Quốc trong quan hệ với các
nước Đông Nam Á đang và dự kiến sẽ tiếp tục diễn ra gay gắt, mạnh mẽ hơn
cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Về ch nh trị – ngoại giao, xuất phát từ vai trò địa – chính trị quan trọng
của khu vực Đông Nam Á như đã phân tích ở trên, cả Mỹ và Trung Quốc đều
muốn cải thiện và tăng cường mối quan hệ với ASEAN nói chung và với từng
nước trong khu vực nói riêng. Lịch sử quan hệ hai nước với khu vực có nhiều
giai đoạn sóng gió. Trong khi lịch sử quan hệ Việt – Mỹ chịu dấu ấn nặng nề
của 21 năm chiến tranh, với thương vong và tổn thất về người và của cho cả
hai phía, cũng như những vấn đề còn tồn đọng cho tới ngày nay vẫn chưa
thực sự được giải quyết (vấn đề chất độc da cam dioxin, vấn đề tìm kiếm lính
Mỹ mất tích trong chiến tranh...) thì lịch sử quan hệ Việt – Trung cũng có
những sự kiện (Trung Quốc chiếm đóng Hoàng Sa 1974, chiến tranh biên giới
1979...) để lại hệ quả tiêu cực tới những nỗ lực cải thiện quan hệ giữa hai
nước cho tới ngày nay.
Thời gian gần đây, Trung Quốc đã tiến hành nhiều hoạt động ngoại
giao với các chuyến công du tới khu vực của lãnh đạo cấp cao Trung Quốc
như: Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị đã thăm năm nước
Myanmar, Indonesia, Philipppines, Malaysia và Thái Lan (7/2022). Với
27
Myanmar, ông Vương Nghị hiện đã đến TP Bagan của Myanmar - điểm dừng
chân đầu tiên trong chuyến công du. Ông là quan chức cấp cao nhất của
Trung Quốc đến Myanmar kể từ sau loạt khủng hoảng chính trị ở nước này
hồi tháng 2 năm 2021. Tại đây, ông đã đồng chủ trì Hội nghị bộ trưởng ngoại
giao lần thứ bảy cơ chế Hợp tác Lan Thương - Mekong, với sự tham dự của
những người đồng cấp từ các nước hạ lưu sông Mekong gồm Việt Nam, Thái
Lan, Myanmar, Lào và Campuchia. Điểm đến tiếp theo của ông Vương là
Thái Lan, nước chủ nhà Hội nghị cấp cao APEC vào tháng 11/2022. Hai bên
đã thảo luận về thúc đẩy hợp tác thương mại hậu đại dịch COVID-19, bao
gồm việc tạo thuận lợi cho hoạt động vận chuyển nông sản từ Thái Lan sang
Trung Quốc, đầu tư và kết nối như việc liên kết tuyến đường sắt Trung Quốc -
Lào với hệ thống đường sắt của Thái Lan. Sau đó ông Vương thăm
Philippines và Malaysia, trước khi đến Indonesia để tham dự Hội nghị thượng
đỉnh bộ trưởng ngoại giao Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng
đầu thế giới (G20). Tại Philippines, ông Vương ngày 6 - 7 đã gặp tân Ngoại
trưởng Philippines Enrique Manalo và hai bên đã thảo luận về nhiều vấn đề
quan trọng đối với hai quốc gia. Ông Vương cũng đã gửi lời cám ơn đến
chính quyền của tân Tổng thống Ferdinand Marcos Jr. về việc Manila sẽ tiếp
tục theo đuổi chính sách thân thiện với Bắc Kinh [27]. Nhận lời mời của Tổng
Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình, Tổng Bí thư Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và đoàn đại
biểu cấp cao Việt Nam đã thăm Trung Quốc từ ngày 30/10 đến 1/11/2022.
Trong số nhiều nhà lãnh đạo nước ngoài được mời tới thăm Trung Quốc sau
Đại hội lần thứ XX Đảng Cộng sản Trung Quốc (từ 16 - 22/10/2022), Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng là “quốc khách đầu tiên của Tổng Bí thư, Chủ tịch
nước Tập Cận Bình, người vừa được bầu lại làm Tổng Bí thư, nhiệm kỳ thứ 3
liên tiếp, của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ở chiều ngược lại, Trung Quốc là
quốc gia đầu tiên mà người đứng đầu Đảng ta tới thăm chính thức, kể từ Đại
28
hội lần thứ 13 của Đảng. Việc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là lãnh đạo
nước ngoài cao nhất đầu tiên được Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc
và Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đón tiếp ngay sau
Đại hội XX Đảng Cộng sản Trung Quốc - sự kiện chính trị trọng đại hàng đầu
của Đảng và nhân dân Trung Quốc, thể hiện “sự coi trọng lẫn nhau giữa hai
Đảng, hai nước, nhất là sự trân trọng của Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung
Quốc và cá nhân Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đối
với Tổng Bí thư Đảng ta, thông qua việc thu xếp đón Tổng Bí thư Đảng ta với
mức lễ tân cao nhất và có nhiều thu xếp đặc biệt . Đây không phải là chuyến
thăm Trung Quốc đầu tiên của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhưng
chuyến thăm này được coi là sự kiện đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam và
Trung Quốc, được dư luận hai nước và quốc tế rất quan tâm. Đây là dịp hai
nhà lãnh đạo cao nhất của hai đảng cộng sản cầm quyền ở hai nước xã hội chủ
nghĩa gặp nhau trực tiếp lần đầu tiên, sau Đại hội mới nhất của mỗi đảng, để
cùng bàn thảo và thống nhất chủ trương về những vấn đề trọng đại hàng đầu,
cả ở tầm chiến lược lâu dài cũng như những chính sách, bước đi cụ thể, nhằm
đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn
diện Việt Nam - Trung Quốc trong thời đại mới. Trung Quốc là một trong số
không nhiều quốc gia thuộc hàng đối tác chiến lược toàn diện của Việt Nam.
Do vậy, Trung Quốc luôn là một trong những đối tác được ưu tiên hàng đầu
trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Đối với cả hai nước Việt Nam và
Trung Quốc, mối quan hệ song phương Việt – Trung có tầm quan trọng đặc
biệt trong tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng, ngoại
giao, văn hóa, xã hội…[16] Trong khi đó, Mỹ cũng đã tiến hành nhiều hoạt
động đối ngoại dồn dập với các nước trong khu vực: Tháng 12/2021, Ngoại
trưởng Mỹ Antony Blinken bắt đầu chuyến công du Đông Nam Á đầu tiên tại
Indonesia, và sau đó là Malaysia, Thái Lan, nhằm thực hiện mục tiêu nâng
quan hệ với ASEAN lên mức “chưa từng có . Chuyến công du 4 ngày của
ông Blinken bắt đầu tại Jakarta (Indonesia) ngày 13 - 12 và sau đó là Kuala
29
Lumpur, Bangkok. Ông Blinken sẽ theo đuổi mục tiêu của Tổng thống Joe
Biden là đưa cam kết với ASEAN lên mức “chưa từng có . Washington sẽ tập
trung vào củng cố hạ tầng an ninh khu vực để đối phó với sự “bắt nạt từ
Trung Quốc cũng như tầm nhìn về một khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương -
Thái Bình Dương, nhằm tăng cường hợp tác với ASEAN về các lĩnh vực như
kinh tế số, chuỗi cung ứng, thương mại, năng lượng sạch. Ngoại trưởng Mỹ
dự kiến nhấn mạnh tầm quan trọng chiến lược của Đông Nam Á. Khu vực này
là trọng tâm trong nỗ lực của Washington thúc đẩy một “Ấn Độ Dương - Thái
Bình Dương tự do và cởi mở . Một số vấn đề khác sẽ được đề cập như tình
hình Myanmar. Các nhà phân tích và ngoại giao cho biết ông Blinken có thể
sẽ tìm cách lôi kéo các nước bằng triển vọng đưa các công ty Mỹ rời Trung
Quốc về khu vực này [17]. Chính quyền Mỹ đang chịu áp lực phải đưa ra một
chiến lược kinh tế để cho các đồng minh và đối tác thấy sự cam kết tham gia
kinh tế lâu dài trong khu vực, chính quyền Biden đã thể hiện sự nghiêm túc
trong việc tăng cường gắn kết với Đông Nam Á thông qua một loạt chuyến
thăm cấp cao trong năm nay, sự tham gia của ông Biden tại các hội nghị
thượng đỉnh khu vực và hợp tác an ninh lâu dài. Nhưng họ không có phản ứng
với Trung Quốc về kinh tế. Trung Quốc đã dẫn trước cuộc chơi 20 năm. Mỹ
cần phải làm gì đó để giúp các nước Đông Nam Á kém phát triển hơn, vì tàu
sân bay đến thăm thôi là chưa đủ . Ngày 22/8/2021, Phó Tổng thống Mỹ
Kamala Harris đã tới Singapore, điểm dừng chân đầu tiên trong chuyến công
du hai nước Đông Nam Á là Singapore và Việt Nam - hai quốc gia có vai trò
quan trọng đối với nền kinh tế Mỹ. Tiếp sau hàng loạt chuyến thăm của các
quan chức cấp cao khác của Mỹ tới Đông Nam Á, chuyến đi này của bà
Kamala Harris được coi là lời tái khẳng định những ưu tiên của chính quyền
Mỹ đối với Đông Nam Á, khu vực cạnh tranh địa chiến lược quan trọng.
Trọng tâm của chuyến thăm là tăng cường vai trò của Mỹ, mở rộng hợp tác an
ninh, làm sâu sắc thêm quan hệ kinh tế, bảo vệ trật tự dựa trên quy định quốc
tế, đặc biệt là ở Biển Đông, đồng thời ủng hộ những giá trị của chúng ta và
30
bạn bè, đối tác. Thông qua chuyến thăm này, Mỹ có lẽ muốn xây dựng sự
liên kết chặt chẽ hơn với Đông Nam Á. Đặc biệt, chuyến thăm diễn ra vào
thời điểm quan trọng đối với chính quyền Tổng thống Mỹ Joe Biden. Taliban
đã giành quyền kiểm soát Afghanistan sau khi Mỹ rút quân khiến nhiều quốc
gia khác đặt câu hỏi về khả năng duy trì các cam kết của Washington.Bên
cạnh đó, Chính quyền Mỹ cũng cử nhiều quan chức ngoại giao cấp Trợ lý
Ngoại trưởng tới các nước Đông Nam Á (trong năm 2019) như Philippines,
Indonesia, Singapore và Malaysia để thúc đẩy triển khai định hướng chiến
lược quốc phòng mới tại Đông Nam Á (thông qua bán vũ khí và thiết bị quốc
phòng, triển khai đào tạo, huấn luyện… cho quân đội các nước, tạo cơ sở cho
sự phối hợp hành động nhằm đối phó với các thách thức khu vực).
Về inh tế - thương mại, thời gian qua, cả Mỹ và Trung Quốc không
ngừng thúc đẩy quan hệ kinh tế – thương mại và đầu tư với ASEAN. Có thể
nói, trên lĩnh vực này, hiện Trung Quốc có một số lợi thế nhất định so với
Mỹ. Trong số các đối tác thương mại chính của Trung Quốc, ASEAN tiếp tục
là đối tác lớn nhất, với quy mô xuất nhập khẩu đạt 951,93 tỷ nhân dân tệ, tăng
9,6% so cùng kỳ năm ngoái, chiếm 15,4% tổng giá trị ngoại thương của
Trung Quốc. Trong đó, giá trị xuất khẩu hàng hóa của Trung Quốc sang
ASEAN đạt 570 tỷ nhân dân tệ, tăng 17,9% so cùng kỳ; nhập khẩu hàng hóa
từ ASEAN đạt 381,93 tỷ nhân dân tệ, giảm 0,9%; xuất siêu 188,07 tỷ nhân
dân tệ, tăng 83,7% so cùng kỳ. Trong đó, Trung Quốc xuất siêu nhiều nhất
sang Singapore, chiếm tới 38% tổng giá trị xuất siêu sang ASEAN. Những
năm gần đây, trao đổi thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN liên tục tăng
nhờ lợi thế về vị trí địa lý và các thỏa thuận thương mại như Hiệp định thương
mại tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA), RCEP. Mới đây, hai bên đã khởi
động tiến trình đàm phán, nhằm nâng cấp ACFTA lên phiên bản 3.0, mở ra
triển vọng đưa quan hệ kinh tế - thương mại hai bên lên tầm cao mới [15].
Theo cơ quan hải quan Trung Quốc, tổng xuất khẩu và nhập khẩu của Trung
Quốc đến 10 quốc gia thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
31
(ASEAN) đã tăng 2% trong năm nay, đạt 297,8 tỉ USD. ASEAN hiện đóng
góp 14,7% trong tổng thương mại của Trung Quốc giai đoạn tháng 1 đến
tháng 6-2020, tăng so với con số 14% của năm 2019. “Trung Quốc duy trì
quan hệ thân thiết cùng các nước như Việt Nam, Malaysia và Singapore,
những nơi góp phần trong chuỗi cung ứng toàn cầu cho ngành công nghiệp
điện tử , ông Lý Khôi Văn, người phát ngôn Tổng cục Hải quan Trung Quốc,
phát biểu ngày 14-7. Dù Mỹ đã chặn đứng việc bán chip điện tử cho Trung
Quốc, nhiều chuyến hàng vẫn tìm tới được quốc gia này thông qua Đông Nam
Á. Hoạt động thương mại còn được củng cố bởi các doanh nghiệp Trung
Quốc đặt cơ sở sản xuất tại những nước ASEAN. Trong số đó, nhiều nhà
xưởng lắp ráp các linh kiện cần thiết để chuyển tới Trung Quốc. Trung Quốc
và ASEAN đã kích hoạt một thỏa thuận thương mại tự do được sửa đổi vào
tháng 10-2019. Theo ông Lý, thỏa thuận này đã “hạ thấp rào cản về quy tắc
xuất xứ, tiền tệ, dịch vụ, đầu tư và các lĩnh vực khác, nhân đôi lợi thế của một
hiệp định thương mại tự do . Theo Cục Đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế
hoạch và đầu tư, Việt Nam đã thông qua gói đầu tư trực tiếp từ Trung Quốc
đại lục trị giá 3 tỉ USD vào năm 2019, tăng 75% so với 1 năm trước đó. Quyết
định này biến Trung Quốc trở thành nhà đầu tư ngoại lớn thứ 3 của Việt Nam
[14]. Điển hình cho quan hệ kinh tế – thương mại và đầu tư song phương giữa
Trung Quốc với các nước trong khu vực Đông Nam Á trước hết thể hiện ở sự
trợ giúp tài chính từ Trung Quốc cho Lào. Trung Quốc đang là nhà đầu tư lớn
thứ 2 tại Lào (sau Việt Nam) với tổng đầu tư trị giá gần 3,7 tỷ USD vào 479
dự án năm 2019. Trong lĩnh vực thương mại, Trung Quốc dành nhiều ưu đãi
đặc biệt, giảm thuế tới 0% cho gần 400 mặt hàng của Lào vào Trung Quốc.
Một điểm đáng chú ý nữa là Trung Quốc rất tích cực rót tiền vào các dự án cơ
sở hạ tầng cơ sở của Lào và Campuchia. Campuchia đã thu hút được 2,32 tỷ
USD vốn đầu tư tài sản cố định từ Trung Quốc trong năm 2021, tăng 67% so
với mức 1,39 tỷ USD năm 2020. Báo cáo được công bố ngày 4/3/2022 của
Hội đồng phát triển Campuchia cho thấy đầu tư của Trung Quốc vào nước
32
này đã tăng mạnh trong năm 2021, bất chấp tác động tiêu cực của đại dịch
COVID-19, qua đó thể hiện niềm tin của các nhà đầu tư Trung Quốc vào môi
trường kinh doanh của Campuchia. Theo báo cáo nói trên, Campuchia đã thu
hút được 2,32 tỷ USD vốn đầu tư tài sản cố định từ Trung Quốc trong năm
ngoái, tăng 67% so với mức 1,39 tỷ USD năm 2020. Trung Quốc vẫn là nhà
đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Campuchia, chiếm đến 53,4% tổng vốn đầu tư
4,35 tỷ USD mà quốc gia Đông Nam Á này phê duyệt trong năm ngoái. Vốn
đầu tư của Trung Quốc vào Campuchia tập trung vào các lĩnh vực bất động
sản, hàng may mặc, du lịch và nông nghiệp, cùng nhiều lĩnh vực khác [19].
Có thể nói các nước nhỏ như Lào và Campuchia đã bị cuốn hút mạnh mẽ vào
quỹ đạo kinh tế của Trung Quốc đến nỗi hai nước này hiện được gọi là “quốc
gia khách hàng của Bắc Kinh và họ hỗ trợ lập trường của Trung Quốc trong
các tranh chấp ở khu vực. Trong khi đó, sau nhiều thập niên nghi ngờ lẫn
nhau, gần đây Mỹ cũng đã bắt đầu chương trình phát triển quan hệ song
phương với Lào, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thúc đẩy quan
hệ thương mại giữa hai nước; do đó, tổng kim ngạch thương mại song phương
Mỹ – Lào đạt 104 triệu USD vào năm 2016 và tăng lên 254 triệu USD năm
2020. Bên cạnh Lào (nước Đông Nam Á lục địa), Malaysia (nước Đông Nam
Á hải đảo) cũng là một ví dụ cho thấy những cạnh tranh ảnh hưởng gay gắt
giữa Mỹ và Trung Quốc trên lĩnh vực kinh tế. Là một trong những mắt xích
quan trọng trong chiến lược hướng Nam của Trung Quốc, Malaysia được coi
là bàn đạp để Trung Quốc tiến sâu vào các quốc gia khác ở Đông Nam Á và
đẩy vai trò của Mỹ ra khỏi khu vực này, Malaysia đã dần dần trở thành đối tác
thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong số các nước thành viên ASEAN.
Kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1974, quan hệ kinh tế –
thương mại song phương Trung Quốc – Malaysia đã phát triển đáng kể. Hiện
Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Malaysia trên toàn cầu còn
Malaysia là đối tác thương mại lớn nhất trong 10 nước ASEAN của Trung
Quốc với tổng kim ngạch thương mại song phương đạt 180 tỷ USD năm
33
2020. Trong khi đó, sau khi Malaysia trở thành thành viên của WTO,
Malaysia và Mỹ (đều ủng hộ tự do hóa thương mại và đầu tư) thiết lập quy
chế NTR và cam kết với mục tiêu Bogor của APEC về mậu dịch và đầu tư mở
tại Châu Á vào năm 2020. Nhận định về quan hệ kinh tế với Malaysia, Đại
diện Thương mại Mỹ Ron Kirk cho biết hiện nay Malaysia đã tiến hành cải
cách kinh tế sâu rộng và cam kết với Mỹ sẵn sàng ký kết một hiệp định tiêu
chuẩn cao, trong đó giải quyết các vấn đề bất đồng trong các phiên đàm phán
trước. Nhờ đó, tổng kim ngạch thương mại song phương Mỹ – Malaysia tăng
từ 78 tỷ USD năm 2016 lên 140 tỷ USD năm 2021. Mỹ là đối tác thương mại
lớn thứ 4 của Malaysia trong khi đó Malaysia là đối tác thương mại lớn thứ 2
trong số 10 nước ASEAN; Mỹ và Malaysia đang đàm phán TPP.
Về an ninh – quốc phòng, thời gian qua, Trung Quốc và Mỹ đã không
ngừng tăng cường chú ý đến khu vực Đông Nam Á và gia tăng sự hiện diện
quân sự tại đây. Dựa vào sức mạnh kinh tế, chính trị đang lên trong khu vực
và trên thế giới, Trung Quốc ngày càng tỏ rõ thái độ quả quyết tại Đông Nam
Á với việc triển khai các chương trình hiện đại hóa quân sự và những tuyên
bố cứng rắn đối với những xung đột mà Trung Quốc có liên quan, và kiên
quyết chống lại sự can dự từ bên ngoài. Đáng chú ý, gần đây Trung Quốc tăng
cường hoạt động quân sự tại khu vực thông qua sự hiện diện quân sự, viện trợ
an ninh và can dự với quân đội các nước, chủ yếu theo hướng tích cực: (i)
Tăng cường số lượng và tần suất các chuyến viếng thăm lẫn nhau của Bộ
trưởng quốc phòng và Tham mưu trưởng của Trung Quốc và các quốc gia
Đông Nam Á; (ii) Ký kết một số hiệp định trong khuôn khổ quốc phòng rộng
lớn, song phương với Thái Lan, Philippines, Malaysia và Việt Nam; (iii)
Quan sát các cuộc tập trận trong khu vực, trong đó có các cuộc tập trận mà
Mỹ có mời Trung Quốc tới quan sát, như cuộc tập trận Hổ mang vàng; (iv)
Tham gia các cuộc tập trận song phương với Thái Lan và Singapore, cũng
như tiến hành các cuộc tuần tra chung trên biển với Việt Nam; (v) Tạo thêm
cơ hội cho các đại diện quân sự của các nước Đông Nam Á tham dự các
34
chương trình giáo dục quân sự của Trung Quốc; (vi) Bán thiết bị quân sự cho
một số quốc gia có lựa chọn trong khu vực. Ngày 5/10/2020, Đại diện thương
mại Mỹ Ron Kirk thông báo Chính phủ Mỹ chấp thuận Malaysia tham gia các
cuộc đàm phán về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Về phía
mình, Mỹ đã tăng cường can dự với hai đồng minh hiệp ước tại Đông Nam Á
là Thái Lan và Philippines, tiến hành các cuộc đối thoại chính trị – an ninh –
quốc phòng với Việt Nam, đối thoại về chính sách quốc phòng cấp cao với
Campuchia và Malaysia. Mỹ cũng lập tùy viên quân sự ở tất cả các nước
ASEAN; duy trì tham vấn thường niên với Indonesia, Philippines, Singapore,
Thái Lan và Việt Nam; viện trợ quân sự và cung cấp vũ khí cho Campuchia,
Lào, Myanmar, Philippines và Thái Lan; hợp tác đào tạo và tiến hành diễn tập
quân sự với Singapore và Thái Lan. Bên cạnh đó , khẳng định chính sách tăng
cường can dự của Mỹ đối với khu vực Đông Nam Á, các hướng triển khai
điều chỉnh chính sách của Mỹ: (i) Thể hiện rõ ràng thông qua lời nói và hành
động rằng các lực lượng của Mỹ vẫn sẽ tiếp tục sự hiện diện và với tư thế là
lực lượng quân sự vượt trội trong khu vực; (ii) Khẳng định quyền tự do lưu
thông của tàu Hải quân Mỹ; (iii) Xây dựng các mối quan hệ an ninh mạnh mẽ
hơn với các đối tác trong khu vực thông qua các cuộc đối thoại chiến lược,
các cuộc trao đổi quân sự, tập trận và huấn luyện; (iv) Tích cực tham gia các
diễn đàn đa quốc gia giải quyết các vấn đề an ninh như Diễn đàn khu vực
ASEAN. Mỹ cũng tiếp tục duy trì các lực lượng hải quân và tăng cường cử
tàu vào khu vực Biển Đông với nhiều mục đích khác nhau. Thông qua một
loạt hoạt động hợp tác an ninh từ các cuộc thảo luận song phương cho đến các
cuộc tập trận đa phương, Mỹ hướng tới mục đích góp phần giúp các quốc gia
trong khu vực vượt qua những rào cản lịch sử và văn hóa lâu đời để tăng
cường hợp tác, nhất là trong lĩnh vực an ninh hàng hải. Bộ chỉ huy Thái Bình
Dương của Mỹ (PACOM) đã phối hợp chặt chẽ với một số quốc gia như
Indonesia, Malaysia và Philippines tiến hành huấn luyện và trang bị từ ra đa
đến máy bay tuần tra, tạo điều kiện để các nước này khẳng định sự kiểm soát
35
đối với các tuyến hàng hải được các đường dây buôn lậu ma túy, buôn lậu vũ
khí và các mạng lưới khủng bố sử dụng. Gần đây, Mỹ tiến hành nhiều cuộc
tập trận trong khu vực, tiêu biểu là cuộc diễn tập SEACAT - 2022 tại căn cứ
quân hải quân Chan-gi và khu vực biển phụ cận của Singapore, với sự tham
gia của lực lượng hải quân Mỹ cùng với hải quân 6 nước ASEAN (Singapore,
Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Brunei) nhằm tăng cường khả
năng phối hợp chống khủng bố, tội phạm trên biển, chia sẻ thông tin tình báo
nhằm đảm bảo an ninh hàng hải...
Về giáo ục - đào tạo, nhằm tạo ảnh hưởng sâu rộng tại khu vực Đông
Nam Á, Trung Quốc đã kết hợp nhiều biện pháp khác nhau, trong đó sử dụng
“sức mạnh mềm vẫn được Trung Quốc xác định là cách thức chiến lược
phục vụ cho quá trình xâm nhập vào khu vực này vì Trung Quốc cho rằng sự
gia tăng tính hấp dẫn sẽ khiến các nước khác không thấy Trung Quốc là một
“mối đe dọa đồng thời thông qua sự lan tỏa ngày càng sâu rộng của sức
mạnh mềm, Trung Quốc sẽ từng bước tạo thành một loại quyền lực giúp gia
tăng hơn sự cạnh tranh quốc tế. Trong thời gian gần đây, Trung Quốc đã tăng
tốc mạnh mẽ tiến trình thực hiện chiến lược truyền bá sức mạnh mềm vào
Đông Nam Á trên nhiều lĩnh vực nhằm chi phối tình hình tại một số quốc gia
trong khu vực. Sức mạnh mềm đã làm các quốc gia kém phát triển tại Đông
Nam Á phụ thuộc vào sự phát triển của Trung Quốc trên một số lĩnh vực,
từng bước buộc các nước này thay đổi chính sách để thích nghi với hệ giá trị
mà Trung Quốc đã xác lập. Hiện nay một số quốc gia Đông Nam Á như
Philippines, Lào, Campuchia, Myanmar là những quốc gia được xếp trong
danh sách nghèo nàn, lạc hậu, và chịu tác động tiêu cực của nạn tham nhũng
cũng như quá trình thực hiện sức mạnh mềm của Trung Quốc [13]. Đầu tiên
Trung Quốc tích cực triển khai gia tăng sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc
ở nhiều phương thức như mở nhiều Học viện Khổng tử tại các nước Đông
Nam Á, trung bình mỗi nước Đông Nam Á có khoảng 10 Học viện Khổng tử
Về nguyên tắc, viện Khổng tử hoạt động với ba mục tiêu chính bao gồm
36
truyền bá tiếng Trung, văn hóa Trung Quốc và thúc đẩy các chương trình hợp
tác và trao đổi văn hóa giữa Trung Quốc và các nước nhưng trên thực tế các
hoạt động này rất đa dạng. Nhiều sinh viên trong khu vực Đông Nam Á đã
đăng ký học tại các trường đại học của Trung Quốc. Campuchia là một “mô
hình thu nhỏ cho tham vọng về văn hóa của Trung Quốc. Viện Khổng Tử ở
Campuchia có 31 giáo viên Trung Quốc và hơn 1,000 sinh viên. Ngoài ra,
Trung Quốc đã cung cấp gần 500 học bổng cho sinh viên Campuchia học tại
các trường đại học của Trung Quốc. Một trong những chuỗi cửa hàng sách
lớn nhất của Trung Quốc mới đây đã mở cửa hàng đầu tiên tại Campuchia –
đất nước có 57 trường học tiếng Trung với hơn 40,000 sinh viên mặc dù nhiều
trường trong số này không nhận được sự hỗ trợ từ Trung Quốc. Tiếng Trung
là ngôn ngữ phổ biến thứ hai tại Campuchia. Trung Quốc cũng tạo dựng hình
ảnh một quốc gia ôn hòa thông qua việc áp dụng những chính sách quốc tế
hòa nhã hơn, chủ động tham gia vào các tổ chức khu vực, cung cấp nguồn
viện trợ quan trọng, tăng cường quan hệ kinh tế với những khoản lợi nhuận
đáng kể đổ dồn về cho các nước Đông Nam Á. Đặc biệt tại Lào, Trung Quốc
không ngừng hỗ trợ, giúp đỡ dưới nhiều hình thức như: đầu tư cho giáo dục,
thể thao, văn hóa, trồng trọt, khai khoáng, đào tạo nhân lực, xây dựng cơ sở
hạ tầng... Trung Quốc cũng đang cạnh tranh với Mỹ và một số quốc gia khác
để trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Campuchia: viện trợ hàng triệu
USD cho Campuchia trong thập kỷ qua, đồng ý xóa nợ và trao cho
Campuchia quy chế miễn giảm thuế quan đối với khoảng 400 mặt hàng, ký
kết với Campuchia nhiều thỏa thuận kinh tế trị giá tới hàng tỷ USD... Trong
khi đó, Mỹ cũng đã triển khai một chiến lược tương đối toàn diện để tăng
cường sức mạnh mềm trong khu vực thông qua các chương trình trao đổi giáo
dục và viện trợ (có thể được xem là đa dạng hơn của Trung Quốc, song mức
độ ảnh hưởng tới khu vực ít hơn Trung Quốc). Trái ngược với Chính phủ
Trung Quốc, những hoạt động của Chính phủ Mỹ tại khu vực tập trung nhiều
hơn vào trao đổi hoặc chuyển nhượng ý tưởng như nghiên cứu học thuật, tạo
37
điều kiện để tìm hiểu về các giá trị và văn hóa Mỹ, đào tạo tiếng Anh. Những
năm gần đây, Mỹ trao hàng nghìn học bổng Fulbright cho sinh viên, học giả
và giáo viên ở khu vực Đông Nam Á (nhất là từ các nước Philippines và
Indonesia).
2.2.2. Cạnh tranh tại các diễn đàn đa phương
ề ch nh tri – ngoại giao, do Đông Nam Á là một khu vực bao gồm
nhiều nước (mười một thành viên) với chế độ chính trị, sự phát triển kinh tế,
nền văn hóa đa dạng, lịch sử quan hệ của Trung Quốc và Hoa Kỳ với từng
quốc gia trong khu vực không phải lúc nào cũng diễn ra suôn sẻ. Ngoài những
nỗ lực thúc đẩy và cải thiện quan hệ với từng nước trong khu vực, cả Mỹ và
Trung Quốc cũng sẽ tiếp tục thúc đẩy quan hê không ngừng với ASEAN như
một khối thống nhất. Thông qua việc cải thiện quan hệ với ASEAN, Mỹ và
Trung Quốc đều mong muốn tạo dựng và duy trì hình ảnh về đối tác ôn hòa
và đáng tin cậy với toàn khối, dần xóa bỏ đi những mối nghi kỵ trong các
nước thành viên. Thời gian qua, Trung Quốc tỏ rõ hơn thế “công trong triển
khai “chính sách láng giềng thân thiện nhắm vào Đông Nam Á và ASEAN.
Trên cơ sở chiến lược “hướng ngoại , Trung Quốc trở thành nước lớn ngoài
khu vực đầu tiên chính thức nêu nhiều đề xuất mới với khu vực Đông Nam Á.
Trung Quốc chủ động xin gia nhập TAC của ASEAN, nâng cấp quan hệ lên
thành khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược. Đặc biệt, chính sách ngoại giao
của Trung Quốc xoay quanh việc ủng hô thành lập EAS với vai trò trung tâm
của ASEAN vào năm 2005, mà không có sự tham gia của Mỹ vào thời điểm
đó. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN – Trung Quốc lần thứ 25 (11/11/2022),
Trung Quốc nhất trí với ASEAN triển khai Tuyên bố chung về Quan hệ Đối
tác Chiến lược ASEAN – Trung Quốc vì Hòa bình và Thịnh vượng, tại Hội
nghị Cấp cao ASEAN-Trung Quốc lần thứ 25, Thủ tướng Trung Quốc nhấn
mạnh ASEAN là ưu tiên cao trong chính sách láng giềng của mình, tái khẳng
định tôn trọng vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực, mong
muốn cùng ASEAN triển khai hiệu quả quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện
38
mới thiết lập, tiếp tục cam kết hỗ trợ ASEAN xây dựng Cộng đồng và phát
huy vai trò trên các diễn đàn khu vực và quốc tế [2]. Bên cạnh đó, Trung
Quốc cũng chủ trương gia tăng hợp tác phát triển cho các nước Đông Dương,
giúp Đông Dương có mức phát triển ngang bằng với các nước ASEAN. Để
thực hiện mục tiêu trên, Trung Quốc nhìn chung ủng hộ sự ổn định chính trị
tại Việt Nam và Myanmar, coi đây là nền tảng chiến lược của Trung Quốc đối
với Đông Nam Á. Trong khi đó, sau một thời gian dài không thực sự chú
trọng tới mối quan hệ với khu vực Đông Nam Á. Bên cạnh đó, Mỹ có ý định
xây dựng một nhóm nước (gồm Singapore, Indonesia, Việt Nam, phần nào là
Thái Lan và Phillipines) làm “nòng cốt để thúc đẩy tăng cường thực chất
quan hệ Mỹ – ASEAN và hợp tác nội khối trong ASEAN. Hội nghị cấp cao
ASEAN – Mỹ chính là một cơ chế giúp Mỹ tăng cường và cải thiện quan hệ
với cả khối. Khi nhận xét về Hội nghị cấp cao ASEAN – Mỹ, có ý kiến cho
rằng đây là một trong những dàn xếp ngoại giao khả thi giữa ASEAN và Mỹ,
nhờ đó quan hệ ASEAN – Mỹ sẽ tiếp tục được củng cố. Trong khi đó, quan
hệ ASEAN – Trung Quốc sẽ tiếp tục được thúc đẩy trên khung đối tác chiến
lược như đã được thiết lập, và hai bên sẽ tăng cường hợp tác để giải quyết
một số vấn đề còn tồn đọng, vốn được xem như những tác nhân gây cản trở
cho khả năng cải thiện quan hệ. Đó chính là vấn đề tranh chấp biển đảo giữa
Trung Quốc và một số nước thành viên ASEAN, cũng như những nghi kỵ
giữa các bên liên quan tới thực trạng gần đây các nước không ngừng tăng
cường vũ trang.
ề inh tế - thương mại, xuất phát từ nhu cầu mở rộng và đa dạng hóa
thị trường nước ngoài, đặc biệt với vị trí địa lý gần gũi giữa Trung Quốc và
khu vực Đông Nam Á, ngay từ năm 2000, Trung Quốc đã chủ động kiến nghị
thành lập khu vực mậu dịch tự do với ASEAN với khẩu hiệu “cùng thắng .
Năm 2002 đánh dấu cột mốc lớn trong quan hệ hai bên khi Trung Quốc và 44
ASEAN nhất trí khởi động đàm phán về CAFTA, theo đó đến ngày 1/1/2010
khu mậu dịch này chính thức đi vào hoạt động với việc Trung Quốc và sáu
39
nước ASEAN là Singapore, Philippines, Malaysia, Indonesia, Thái Lan và
Brunei giảm thuế xuống mức xấp xỉ 0%, trong khi các nước ASEAN còn lại
sẽ giảm dần để đến năm 2015, 90% dòng thuế đối với hàng Trung Quốc sẽ về
0 - 5% [1]. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng là nhân tố quan trọng giúp các
nước Đông Nam Á duy trì mức tăng trưởng cao và sự ổn định về tài chính,
tiền tệ trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới còn nhiều biến động. Theo
thống kê của Trung Quốc, năm 2022, kim ngạch thương mại ASEAN – Trung
Quốc đạt giá trị xuất khẩu hàng hóa của Trung Quốc sang ASEAN đạt 570 tỷ
nhân dân tệ, tăng 17,9% so cùng kỳ; nhập khẩu hàng hóa từ ASEAN đạt
381,93 tỷ nhân dân tệ, giảm 0,9%; xuất siêu 188,07 tỷ nhân dân tệ, tăng
83,7% so cùng kỳ. Trong đó, Trung Quốc xuất siêu nhiều nhất sang
Singapore, chiếm tới 38% tổng giá trị xuất siêu sang ASEAN. Đáng chú ý,
dưới sự nỗ lực chung của hai bên , hàng loạt sáng kiến do Lãnh đạo hai bên
tuyên bố tại Hội nghị Cấp cao kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hê ASEAN –
Trung Quốc diễn ra năm 2021 đã và đang được thực hiện tích cực, xây dựng
Khu vực mậu dịch tự do không ngừng sâu sắc , hợp tác thực tế trong các lĩnh
vực khoa hoc công nghệ, bảo vệ môi trường, văn hóa, giáo dục…được thúc
đẩy vững chắc, quan hê đối tác chiến lược ASEAN – Trung Quốc không
ngừng thu đươc thành quả rực rỡ [29]. Về phần mình, Mỹ cũng chủ trương
thúc đẩy tăng cường quan hệ kinh tế đa phương với khu vực Đông Nam Á.
Tới năm 2015, các thành viên khác của ASEAN là Việt Nam, Lào,
Campuchia và Myanmar mới chính thức tuân thủ quy định này. Hiệp định
khung về thương mại và đầu tư (TIFA) với ASEAN chín nước là Brunei,
Myanmar, Campuchia, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan
và Việt Nam. Mỹ cũng đã thành lập khu vực mậu dịch tự do với Singapore và
đang trong quá trình đàm phán FTA với Malaysia và Thái Lan. Mặc dù tầm
quan trọng của Mỹ đối với ASEAN trong mậu dịch giảm so với Trung Quốc
nhưng Mỹ vẫn là nước có lượng đầu tư nước ngoài trực tiếp quan trọng tại
khu vực. Đặc biệt từ năm 2008 tới nay, Mỹ đặc biệt tích cực trong việc thúc
40
đẩy các bên đàm phán Hiệp định TPP7, thông qua đó đẩy mạnh hợp tác với
các nước trong khu vực, đồng thời thực hiện ý đồ hình thành cơ chế thúc đẩy
hợp tác thương mại – đầu tư với các nước trong khu vực mà không có sự
tham gia của Trung Quốc, một đối thủ lớn của Mỹ trên lĩnh vực này. TPP
được coi là “lối thoát trong bối cảnh đàm phán Doha đang rơi vào bế tắc,
quan hệ kinh tế đa phương (quốc tế và trong khu vực) gặp nhiều khó khăn,
nội bộ Mỹ cũng không thuận trong tăng cường quan hệ thương mại quốc tế
bởi vậy Mỹ muốn Hiệp định TPP trở thành một nền tảng trụ cột trong sự liên
kết kinh tế khu vực để có thể giải quyết các vấn đề thương mại trong thời đại
mới và tạo ra các cơ hội cho nền kinh tế khu vực.
ề an ninh – quốc phòng, cả Trung Quốc và Mỹ đều có những bước đi
rõ ràng, đặc biệt liên quan tới việc hình thành cấu trúc khu vực mới như EAS.
EAS ra đời và trở thành một diễn đàn đối thoại, nơi các bên trao đổi về những
vấn đề chiến lược, kinh tế, chính trị rộng lớn với lợi ích và quan tâm chung
nhằm mục tiêu thúc đẩy hòa bình, ổn định và thịnh vượng tại khu vực Đông
Á. Đây là một diễn đàn mở nhằm thúc đẩy các khái niệm toàn cầu và các giá
trị được chấp nhận rộng rãi với ASEAN là một động lực thúc đẩy trong tinh
thần quan hệ đối tác giữa các bên tham gia. Sự tham gia của Trung Quốc vào
thời điểm Mỹ đang phải tập trung mọi nguồn lực vào hai cuộc chiến tại Trung
Đông cho thấy rõ ý đồ tranh thủ quan hệ với các nước tại khu vực của Trung
Quốc. Tuy nhiên, với việc Mỹ tham gia vào EAS từ năm 2011 với năm
nguyên tắc chính đã được Ngoại trưởng Michael Richard Pompeo nêu ra tại
cuộc họp EAS-13 (10/2018) sẽ có tác động mạnh tới việc hình thành một cấu
trúc khu vực mới, và trong cấu trúc khu vực đó những cạnh tranh ảnh hưởng
giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ được thể hiện rõ hơn. Trên thực tế, việc tham gia
EAS mang lại lợi ích thực chất cho Mỹ trong tiến trình tăng cường can dự với
khu vực. Trong Năm nguyên tắc chủ chốt Mỹ can dự vào EAS: (i) Mỹ cam
kết lâu dài với thể chế này, hợp tác chặt chẽ với các thành viên của EAS với
chương trình nghị sự và các sáng kiến, cũng như xác định nhiều lĩnh vực hợp
41
tác tiềm năng hơn. (ii) Trong tiến trình EAS, Mỹ tin tưởng ASEAN tiếp tục
đóng vai trò trung tâm. (iii) Với các thành viên và vị thế ngày càng lớn mạnh,
Mỹ tin tưởng EAS có thể theo đuổi chương trình nghị sự chủ động liên quan
tới nhiều vấn đề quan trọng nhất của thời đại (phổ biến VKHN, tăng cường vũ
trang thông thường, an ninh biển, biến đổi khí hậu, thúc đẩy giá trị chung và
xã hội dân sự). (iv) Mỹ tin tưởng các cuộc thảo luận tại diễn đàn sẽ bổ trợ và
củng cố thành quả đạt được tại các diễn đàn khác. (v) Khi tham gia EAS và
các thể chế khác, Mỹ sẽ tiếp tục thúc đẩy các mối quan hệ song phương, tham
vấn các đồng minh hiệp ước, mở rộng quan hệ với các nước đối tác trong và
ngoài khuôn khổ EAS khi Cấp cao ASEAN – Mỹ mới chỉ là cơ chế đối thoại
giữa Mỹ và ASEAN, không có sự tham gia của Trung Quốc; ARF và
ADMM+ lại là những cơ chế đối thoại ở cấp Bộ trưởng. Trong bối cảnh
Trung Quốc đang nổi lên, cơ chế an ninh khu vực chưa đủ mạnh và không có
sự tham gia của Mỹ, việc tham gia vào EAS sẽ tạo cơ hội để Mỹ can dự sâu
hơn vào hợp tác khu vực nói chung và mạnh hơn với Trung Quốc nói riêng.
Bên cạnh đó, sự tăng cường các mối quan hệ chính trị sẽ mở đường cho các
quan hệ khác mà Chính quyền Mỹ đang quan tâm thúc đẩy (kinh tế – thương
mại, năng lượng, môi trường...). Trong khi đó, về việc mở rộng EAS (với sự
tham gia của Mỹ và Nga vào năm 2011), Trung Quốc cho rằng tại khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương có nhiều cơ chế hợp tác đang tồn tại là hợp lý và
đang phát huy tác dụng tốt, Trung Quốc ủng hộ nguyên trạng các cơ chế như
hiện nay. Đối với việc Mỹ tham gia EAS, Trung Quốc luôn thể hiện thái độ
cảnh giác, một mặt bày tỏ thái độ “cởi mở , coi trọng lập trường của các nước
ASEAN, “hoan nghênh Mỹ, Nga cùng tham gia , nhưng mặt khác luôn nhấn
mạnh cần đạt đồng thuận của tất cả các nước thành viên EAS; yêu cầu duy trì
tính chất của EAS là diễn đàn đối thoại chiến lược cấp cao và nên tập trung
bàn các vấn đề như phát triển hợp tác kinh tế, tài chính, đối phó với biến đổi
khí hậu... Có nhiều ý kiến cho rằng sau khi Mỹ tham gia EAS, việc giải quyết
các vấn đề khu vực sẽ phức tạp hơn cho Trung Quốc, Trung Quốc không còn
42
quyền chủ đạo và cũng không còn bí mật gì để trao đổi. Hơn nữa, việc Mỹ
tham gia EAS sẽ làm cho cuộc chơi trong khu vực phức tạp hơn và sẽ tạo ra
biến cố mới cho hợp tác khu vực Đông Á: (i) Cơ chế hợp tác khu vực Đông Á
sẽ phức tạp hơn, cạnh tranh giữa các nước trong cơ chế quyết liệt hơn, hiệu
quả hợp tác giảm sút; (ii) Việc tăng thêm thành viên sẽ khó khăn hơn trong
việc đạt được nhất trí và nhận thức chung; (iii) Cạnh tranh quyền chủ đạo
trong hợp tác khu vực là khó tránh khỏi, dàn xếp giữa các nước lớn và sự
phức tạp của “cuộc chơi sẽ chiếm ưu thế, quyền chủ đạo của ASEAN bị
thách thức; (iv) Mô hình hợp tác Đông Á có thể bị “biến chất .
Trên lĩnh vực môi trường, từ khi được thành lập, Ủy hội sông Mê Kông
luôn coi trọng việc tranh thủ sự hỗ trợ các mặt của cộng đồng quốc tế, cũng
như tăng cường quan hệ hướng tới sự gia nhập của hai nước vùng thượng lưu
là Trung Quốc và Myanmar. Những năm gần đây, hiểu rõ về những vấn đề
cấn cá giữa Trung Quốc và các nước Mê Kông, Mỹ đã triển khai chính sách
tăng cường can dự vào tiểu vùng khu vực bằng sáng kiến Hợp tác tiểu vùng
sông Mê Kông do Ngoại trưởng Mike Pompeo kế thừa từ Ngoại trưởng tiền
nhiệm là Clinton đề xuất. Sau sáng kiến này, Ngoại trưởng Mỹ và Ngoại
trưởng các nước tiểu vùng sông Mê Kông đã họp lần thứ tư bên lề Hội nghị
Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (AMM-42) và ARF tại Phuket, Thái Lan vào
tháng 7/2017. Nội dung thảo luận tập trung vào việc tăng cường hợp tác trong
một số lĩnh vực như môi trường, biến đổi khí hậu, y tế, giáo dục và phát triển
cơ sở hạ tầng. Cuộc họp cũng hoan nghênh việc kết nghĩa giữa Ủy ban sông
Mê Kông và Uỷ ban sông Mississippi (Mỹ) để chia sẻ kinh nghiệm về biến
đổi khí hậu, đối phó thiên tai, phát triển thủy điện, nguồn nước... Tại Hội nghị
Bộ trưởng Hạ nguồn sông Mê Kông và Mỹ (23/7/2017), Ngoại trưởng Mỹ
Mike Pompeo đã thông báo kế hoạch ba năm nhằm giúp các nước khu vực
phát triển một chiến lược hợp tác để ứng phó với ảnh hưởng của biến đổi khí
hậu. Tại Hội nghị, các Bộ trưởng tập trung chủ yếu vào việc rà soát các hoạt
động hợp tác được triển khai kể từ sau Hội nghị lần thứ nhất đồng thời thúc
43
đẩy hợp tác giữa Mỹ và các nước hạ nguồn Mê Kông, tập trung vào bốn lĩnh
vực chính là bảo vệ môi trường, y tế, giáo dục và phát triển hạ tầng. Nhằm
khai thác và bảo vệ các nguồn tài nguyên Mê Kông, Ủy ban sông Mê Kông
quốc tế đã được thành lập từ 1956 dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc để điều
phối quản lý tài nguyên trong lưu vực và các hoạt động tài trợ phát triển.
Trong những thập kỷ 1960 - 1970, do chiến tranh, bất ổn chính trị và chia rẽ
trong khu vực nên các hoạt động hợp tác Mê Kông rất khó khăn, có lúc bị
gián đoạn. Tuy nhiên, hợp tác về Mê Kông vẫn được duy trì và khẳng định sự
cần thiết của mình. Đến 1995, sau bầu cử tại Campuchia, bốn nước
Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam đã ký Hiệp định hợp tác Mê Kông
1995 và thành lập Ủy hội sông Mê Kông (thay cho Ủy ban sông Mê Kông
trước đây). Về phía Trung Quốc, những năm trước đây mặc dù các nước Ủy
hội sông Mê Kông tích cực yêu cầu nhưng Trung Quốc từ chối các đề nghị
hợp tác do Ủy hội đề xuất. Tuy nhiên, trước việc Mỹ tăng cường ảnh hưởng
qua Sáng kiến hợp tác tiểu vùng sông Mê Kông do Ngoại trưởng Mike
Pompeo đưa ra hồi tháng 7/2019 về tổ chức cuộc gặp lần đầu tiên cấp ngoại
trưởng giữa Mỹ và 4 nước hạ lưu sông Mê Kông (Thái Lan, Lào, Việt Nam
và Campuchia), Trung Quốc đã tỏ ra có trách nhiệm hơn đối với các vấn đề
phát sinh trên lưu vực sông Mê Kông. Trong cuộc họp thượng đỉnh các quốc
gia sông Mê Kông (5/4/2019) tại Thái Lan, với tư cách nước tham gia đối
thoại, Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Tống Đào khẳng định “Trung
Quốc có cùng quan tâm với các nước hạ nguồn sông Mê Kông trong việc bảo
tồn, phát triển và sử dụng nguồn nước . Trung Quốc đã đề xuất sáu phương
hướng trong việc hợp tác với các quốc gia sông Mê Kông gồm lập cơ chế đối
thoại, mở rộng phạm vi hợp tác, bảo vệ môi trường, thủy lợi, tăng cường hợp
tác trong báo cáo lũ và huấn luyện phòng chống hạn hán, trao đổi về thủy
điện...
2.2.3 Cạnh tranh trực diện giữa hai nước
Như đã phân tích ở trên, về cơ bản quan hê Trung – Mỹ diễn ra trong
44
khuôn khổ vừa hợp tác vừa cạnh tranh. Cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc
thể hiện trên nhiều lĩnh vực (Đài Loan, Tây Tạng, kinh tế – thương mại, dân
chủ – nhân quyền...) và ở nhiều khu vực nhưng tại Đông Nam Á, sự cạnh
tranh này biểu hiện rõ rệt nhất trên vấn đề Biển Đông. Biển Đông được coi là
“con đường tơ lụa trên biển với khoảng 50% lượng hàng hóa chuyên chở
bằng đường biển đi qua. Ngoài ra, Biển Đông còn được biết đến là nơi có
lượng tài nguyên dầu mỏ và khí đốt tự nhiên phong phú. Do liên quan tới lợi
ích thiết thân, trên thực tế, ở một góc độ nào đó, Biển Đông đang dần trở
thành khu vực cạnh tranh của Mỹ và Trung Quốc. Trong những năm gần đây,
Mỹ từ khi ông Donald Trump lên nắm quyền đã thay đổi rõ rệt quan điểm của
mình về vấn đề Biển Đông và Trung Quốc thông qua những động thái cứng
rắn hơn, lập trường chống đối công khai hơn. Nếu như dưới thời Tổng thống
Barack Obama, hải quân Mỹ chỉ tổ chức một vài cuộc tuần tra đảm bảo tự do
hàng hải đi kèm thông điệp hết sức trung tính là thực thi quyền tự do hàng hải
của tàu bè nước ngoài trên vùng biển quốc tế thì từ năm 2017, nước này đã có
hơn 10 cuộc tuần tra như vậy diễn ra với những thông điệp mang tính thách
thức như Mỹ sẵn sàng duy trì hiện diện xung quanh các thực thể mà Trung
Quốc chiếm đóng trái phép. Trung Quốc là một con hổ và một con hổ thì
không quan tâm gì đến luật pháp mà nó chỉ cần thỏa mãn cơn đói, ở đây là
tham vọng chủ quyền ở Biển Đông. Để đối phó với Trung Quốc thì chúng ta
cần phải vận dụng hết sức những lợi thế của đoàn kết và hợp tác, tránh sa đà
vào cạnh tranh sức mạnh thuần túy với họ. Một điểm đáng chú ý trong tình
hình Biển Đông thời gian qua là Mỹ và các nước đồng minh đã bắt đầu tham
gia đấu tranh chống tham vọng chủ quyền của Trung Quốc trên phương diện
pháp lý mà điển hình là việc hàng loạt quốc gia (trong đó có Mỹ) gửi công
hàm bác bỏ các yêu sách phi lý của Bắc Kinh lên Liên Hợp Quốc. Mỹ từ
tháng 5 đến tháng 7 - 2020 cũng liên tục đưa ra những tuyên bố xác lập rõ là
nước này không chấp nhận cái gọi là đường chín đoạn của Trung Quốc ở Biển
Đông và cảnh báo trực tiếp ý đồ biến Biển Đông thành đế chế hàng hải của
45
Bắc Kinh. Việc ngày càng nhiều nước chọn đấu tranh pháp lý với Trung Quốc
là một dấu hiệu đáng khích lệ và về dài hạn sẽ tốt hơn cho tình hình của Biển
Đông hơn là sự xuất hiện dày đặc của các loại tàu chiến, tàu sân bay. Đối với
những nước nhỏ, luật pháp quốc tế là công cụ hữu hiệu để đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của mình không bị xâm phạm bởi vì một lý do đơn giản, khi
chúng ta hành xử đúng luật thì toàn thế giới sẽ đứng về phía chúng ta và điều
đó có sức mạnh hơn bất kỳ đội quân hùng mạnh nào. Việc tận dụng công cụ
pháp lý cũng giúp hạn chế nguy cơ Trung Quốc lợi dụng sơ hở, xuyên tạc luật
pháp quốc tế để củng cố yêu sách chủ quyền phi pháp của mình. Tàu sân bay
USS Ronald Reagan của Mỹ quay lại Biển Đông theo Cổng thông tin chính
thức của Hạm đội 7 hải quân Mỹ ngày 15 – 10 – 2020 cho biết nhóm tác
chiến tàu sân bay USS Ronald Reagan vừa tiến vào Biển Đông để thực hiện
các hoạt động tập trận, diễn tập đa lực lượng và Đây là lần thứ ba nhóm tàu
này quay lại Biển Đông trong năm nay. Chỉ huy nhóm tác chiến tàu sân bay
USS Ronald Reagan, Chuẩn đô đốc George Wikoff khẳng định: “Chúng tôi
tiếp tục thể hiện cam kết của Mỹ đối với hoạt động hợp pháp tại các vùng
biển quốc tế và sẽ luôn hợp tác với các đồng minh và đối tác ở Ấn Độ Dương-
Thái Bình Dương để thúc đẩy ổn định khu vực . Ngoài Biển Đông, USS
Ronald Reagan gần đây cũng hoạt động ở Ấn Độ Dương, thực hiện hai
chuyến đi qua eo biển Malacca và hoàn thành nhiều cuộc tập trận đa quốc gia
ở Thái Bình Dương. Nhận thức được ý đồ và hành động của Mỹ, Trung Quốc
đã tham gia vận động một cách không chính thức, thể hiện sự phản đối của
mình với các nước Đông Nam Á về các vấn đề đang được quốc tế hóa. Bắc
Kinh lặp lại chỉ đàm phán song phương giữa Trung Quốc với từng bên các
nước có yêu sách. Quan hê Mỹ– Trung trong những năm qua diê ra theo chu
kỳ thăng – trầm đan xen, dù đôi khi mối quan hệ có “gợn sóng trong mô vài
trường hơp cụ thể song về cơ bản mối quan hệ chưa bao giờ đổ vỡ. Do đó, sau những cọ xát trực tiếp, hai bên đều điều chỉnh chính sách theo hướng tích
cực nhằm đưa quan hệ đi vào ổn định. Mặc dù có sự căng thẳng, va chạm lợi
46
ích trực tiếp với nhau ở khu vực Đông Nam Á, song thời gian tới, quan hệ
Mỹ – Trung có nhiều khả năng sẽ không đi đến đối đầu trưc tiếp. Cả Mỹ và
Trung Quốc sẽ tiếp tục gia tăng ảnh hưởng và cạnh tranh lẫn nhau taị khu
vực song sự cạnh tranh Mỹ– Trung chủ yếu xảy ra thông qua việc tăng
cường quan hê với bên thứ ba , nguyên nhân là do: (i) Thế và lực của Mỹ
không cho phép Mỹ theo đuổi chính sách đối đầu với Trung Quốc; (ii) Nội
bộ Mỹ ủng hộ việc “can dự Trung Quốc; (iii) Trung Quốc không theo đuổi
một chính sách đối đầu với Mỹ; (iv) Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa Mỹ và
Trung Quốc về kinh tế, thương mại.
47
Tiểu kết chƣơng 2
Những phân tích nêu trên cho thấy, Đông Nam Á đang dần trở thành
khu vực cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc nhằm tranh giành
ảnh hưởng, tập hợp lực lượng để kiềm chế lẫn nhau, không để nước kia
giành quyền kiểm soát toàn bộ khu vực. Cạnh tranh Mỹ – Trung trong quan
hệ với các nước Đông Nam Á đang diễn ra gay gắt, mạnh mẽ cả về chiều
rộng lẫn chiều sâu trên mọi cấp độ từ đa phương, song phương cho tới cạnh
tranh trực tiếp và trong mọi lĩnh vực từ chính trị – ngoại giao, kinh tế –
thương mại, an ninh – quốc phòng tới giáo dục – đào tạo và hợp tác giải
quyết các vấn đề liên quan tới môi trường… Tuy nhiên, do tồn tại những lợi
ích chung, có không gian hợp tác tương đối lớn nên mối quan hệ Mỹ –
Trung xảy ra cọ xát, căng thẳng, thậm chí va chạm lợi ích trực tiếp song
không dẫn đến đổ vỡ quan hệ.
48
CHƢƠNG 3: TÁC ĐỘNG CỦA CẠNH TRANH TRUNG QUỐC VÀ
HOA KỲ TỚI KHU VỰC ĐÔNG NAM Á VÀ VIỆT NAM VÀ DỰ BÁO
CHIỀU HƢỚNG CẠNH TRANH THỜI GIAN TỚI
3.1. Tác động tới khu vực
3.1.1. Tác động tích cực
Trong bối cảnh quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc với khu vực Đông
Nam Á có những lợi ích đan xen phức tạp, xuất phát từ những diễn biến mới
trong khu vực, cả Mỹ và Trung Quốc đều đã có những điều chỉnh chính sách
về cơ bản theo hướng coi trọng hơn vai trò của khu vực. Sự điều chỉnh tích
cực của cả Mỹ và Trung Quốc nhìn chung làm cho vị thế của khu vực được
nâng cao. Việc Mỹ và Trung Quốc tăng cường cạnh tranh ảnh hưởng tại khu
vực góp phần tạo thêm không gian tự do, bổ sung “phương tiện mặc cả cho
việc theo đuổi chính sách “cân bằng lực lượng , đa phương hóa, đa dạng hóa
các mối quan hệ quốc tế của ASEAN và các nước thành viên, làm cho Hiệp
hội này trở nên quan trọng hơn trong bàn cờ chiến lược giữa các nước lớn.
Phát biểu tại Ban Thư ký ASEAN ở Jakarta (1/2010), Ủy viên Quốc vụ Trung
Quốc Đới Bỉnh Quốc nói trong 10 năm qua “ASEAN đã trở nên ảnh hưởng
nhiều hơn về chính trị, cạnh tranh hơn về kinh tế và đã đóng “vai trò quan
trọng và duy nhất trong việc bảo vệ và thúc đẩy sự ổn định khu vực, phát triển
và hợp tác , đồng ý về “vai trò lãnh đạo của ASEAN trong việc phát triển
kiến trúc an ninh khu vực . Trong khi đó, phát biểu tại Cấp cao Đông Á lần
thứ 5 (10/2010), Ngoại trưởng Clinton tuyên bố “trong quá trình phát triển
của EAS, Mỹ tin tưởng rằng ASEAN cần đóng vai trò trung tâm. Vai trò lãnh
đạo của Hiệp hội là cần thiết cho sự phát triển lớn hơn tại khu vực và đánh
giá “là đòn bẩy cho một cấu trúc khu vực đang hình thành . Bên cạnh đó, việc
Mỹ và Trung Quốc không ngừng cạnh tranh về thương mại – đầu tư sẽ giúp
khu vực Đông Nam Á có sức hút lớn hơn với bên ngoài, góp phần mở rộng
quan hệ thương mại – đầu tư giữa khu vực với thế giới bên ngoài nói chung.
Đây là một nhân tố quan trọng đối với sự phát triển của các nước trong khu
49
vực vì nền kinh tế của các nước chủ yếu vẫn ở trong giai đoạn đang phát triển
rất cần vốn và kỹ thuật – công nghệ. Trong khi Mỹ là một trong những nguồn
đầu tư lớn trên thế giới và là nền kinh tế phát triển với hàm lượng kỹ thuật
cao, việc Mỹ chú trọng hơn tới khu vực nhằm cạnh tranh ảnh hưởng với
Trung Quốc sẽ giúp các nước trong khu vực sẽ tranh thủ được nguồn lực vốn
và kỹ thuật – công nghệ của Mỹ. Với dân số gần 1,5 tỷ người và tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao, Trung Quốc là một thị trường tiềm năng cho hàng hóa
(đặc biệt là nông – lâm – khoáng sản) của các nước Đông Nam Á. Phát biểu
tại phiên điều trần về các hoạt động của Trung Quốc tại Đông Nam Á của Ủy
ban đánh giá kinh tế và an ninh Mỹ – Trung thuộc Quốc hội Mỹ (2/2019),
Walter Lohman, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Châu Á tại Tổ chức
Heritage ở Washington, cho rằng “Nếu Trung Quốc muốn đầu tư vào cơ sở hạ
tầng của Đông Nam Á, thì Mỹ nên xây dựng quan hệ trong khu vực bằng cách
giúp ASEAN xác định được những ưu tiên cũng như mối quan ngại của họ.
Nếu các công ty đa quốc gia Trung Quốc muốn đầu tư vào ASEAN, hãy đưa
họ vào chuỗi cung cấp của Mỹ theo chuẩn mực thân thiện. Nếu có những thoả
thuận thương mại ASEAN – Trung Quốc, các công ty Mỹ phải tương tác với
cả hai bên. Hãy dùng sự tín nhiệm của người lãnh đạo để đối phó với xu thế
kinh tế hiện tại [32].
3.1.2. Tác động tiêu cực
Quan hệ Mỹ –Trung gia tăng cạnh tranh cũng tạo ra khó khăn nhất định
đối với khu vực. Các nước trong khu vực xử lý thấu đáo và toàn diện quan hệ
với hai nước Mỹ – Trung, tránh để việc tranh thủ sự ủng hộ của một nước gây
mâu thuẫn với nước kia (đặc biệt liên quan đến tranh chấp chủ quyền tại Biển
Đông hay trong vấn đề cạnh tranh thương mại), tránh gây hiểu nhầm là
ASEAN đứng về một bên để chống bên kia. Trong cục diện Mỹ và Trung
Quốc tăng cường cạnh tranh ảnh hưởng tại Đông Nam Á, không loại trừ khả
năng các nước trong khu vực sẽ rơi vào thế bị kẹt giữa hai nước. Việc Mỹ nối
lại quan hệ hợp tác với Các lực lượng đặc biệt Quân đội Indonesia và quyết
50
định tham gia EAS năm 2011 khi Indonesia làm Chủ tịch có thể được xem là
nhằm mục đích thu hút thêm sự ủng hộ của Indonesia để tăng cường sức ép
lên Trung Quốc khi cần thiết, bên cạnh việc nhằm thúc đẩy quan hệ Mỹ –
Indonesia một cách thuần túy. Hơn nữa, việc Mỹ và Trung Quốc tăng cường
quan hệ với các nước trong khu vực còn tạo ra cạnh tranh ngầm lẫn nhau
trong nội khối để giành được sự quan tâm và ưu tiên của nước lớn phục vụ
cho sự phát triển của từng nước, và mối quan hệ giữa các nước trong nội khối
cũng còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết.
3.2. Tác động tới Việt Nam
3.2.1. Tác động tích cực
Quan hệ Mỹ – Trung hiện đang diễn ra đa chiều, tương tác với tất cả
các nước Đông Nam Á. Xu hướng phát triển của quan hệ Mỹ – Trung nói trên
cơ bản là thuận lợi cho Việt Nam thực hiện các nhiệm vụ đối ngoại chủ yếu
trong thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước hiện nay. Tương tự
như đối với các nước khác ở khu vực, cạnh tranh ảnh hưởng giữa Mỹ với
Trung Quốc tạo cho Việt Nam một đối trọng ngẫu nhiên trong quan hệ giữa
Việt Nam với hai nước lớn, thúc đẩy cả hai nước tăng cường quan hệ nhiều
mặt với Việt Nam và có sự kiềm chế nhất định đối với các hành động gây áp
lực đối với Việt Nam trong các vấn đề có tranh chấp hoặc bất đồng. Xu
hướng điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc nói trên cho thấy
khả năng trong những năm tới Mỹ sẽ tăng cường quan hệ nhiều mặt với Việt
Nam để cạnh tranh ảnh hưởng với Trung Quốc, do đó có thể sẽ giảm bớt khả
năng Mỹ gây áp lực với Việt Nam về các vấn đề chính trị nhạy cảm. Song
điều đó không có nghĩa là Mỹ sẽ thôi không sử dụng các vấn đề chính trị để
thực hiện diễn biến hòa bình đối với Việt Nam, vì “tự do , “dân chủ’ và “nhân
quyền không chỉ là mục tiêu mà còn là phương tiện thực hiện các mục tiêu
đối ngoại của Mỹ. Mặt khác, khi quan hệ Việt – Mỹ tiến triển, Trung Quốc
cũng có những động thái tranh thủ Việt Nam hơn vì rõ ràng việc để quan hệ
hai nước quá căng thẳng, “đẩy Việt Nam gần hơn về phía Mỹ và phương
51
Tây hoàn toàn không có lợi cho Trung Quốc. Ngoài ra, cạnh tranh Mỹ –
Trung cũng tạo cơ hội để Việt Nam tiếp tục theo đuổi chiến lược đối ngoại đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, từ đó củng cố độc lập, tự chủ và
đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Việt Nam không chỉ là thành viên tích cực của
ASEAN, mà quan trọng hơn là nằm ở nơi tiếp giáp, cầu nối trực tiếp cả phần
đất liền và biển giữa Đông Nam Á và Trung Quốc, có bờ biển dài rộng,
hướng ra Biển Đông, nơi có tuyến đường hàng hải và vị trí chiến lược trong
phòng thủ quốc tế. Trung Quốc muốn mở rộng quan hệ với Việt Nam để gia
tăng nhanh hơn ảnh hưởng với các nước còn lại của ASEAN. Còn Mỹ cũng
muốn cải thiện và tăng cường quan hệ với Việt Nam để góp phần duy trì sự
can dự vào các vấn đề của Đông Nam Á, kiềm chế ảnh hưởng ngày càng lớn
của Trung Quốc tại khu vực này. Nếu như xu hướng đa cực hoá tạo ra nhiều
hơn “không gian co giãn trong lựa chọn chính sách, thì sự gia tăng cạnh
tranh chiến lược giữa các nước lớn ở Đông Nam Á làm tăng thêm nguồn “tài
nguyên – địa chính trị và “phương tiện đặt điều kiện của Việt Nam. Báo cáo
chính trị của Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định
nhiệm vụ của công tác đối ngoại thời gian tới là bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ bên cạnh các nhiệm vụ khác
không kém phần quan trọng là giữ vững môi trường hoà bình, thuận lợi cho
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao vị thế của đất nước, góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội trên thế giới. Bên cạnh đó, Đại hội Đảng XI cũng khẳng định định
hướng chiến lược đối ngoại quan trọng nhất có tính chất bao trùm là lấy lợi
ích quốc gia, dân tộc trong đó bao gồm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ làm cơ sở hàng đầu cho mọi quyết sách và hành
động đối ngoại. Với ý thức sâu sắc rằng sự toàn vẹn lãnh thổ, trong đó bao
gồm chủ quyền biển đảo, là thiêng liêng đối với cả dân tộc, Việt Nam đã
nhiều lần khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của mình đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nêu rõ Việt Nam là nhà nước đầu tiên xác
52
lập chủ quyền và là quốc gia duy nhất quản lý liên tục, hòa bình, phù hợp với
các quy định của luật pháp quốc tế đối với hai quần đảo này và Việt Nam có
đầy đủ bằng chứng lịch sử và căn cứ pháp lý khẳng định chủ quyền, quyền
chủ quyền, quyền tài phán đối với Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông. Để
giải quyết các tranh chấp tại Biển Đông, Việt Nam chủ trương sử dụng các
biện pháp hòa bình phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp
quốc tế, nhất là Công ước Luật biển năm 1982 của Liên hợp quốc. Việt Nam
cũng chủ trương tranh chấp liên quan giữa hai nước thì đàm phán song
phương để giải quyết; tranh chấp liên quan nhiều nước thì thông qua đàm
phán đa phương với các nước liên quan để giải quyết với nguyên tắc “Tôn
trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực, bình đẳng và
cùng có lợi . Đường lối nhất quán của Việt Nam trong công cuộc đấu tranh
bảo vệ chủ quyền biển đảo, chiều hướng điều chỉnh chính sách của Mỹ và
cạnh tranh Trung – Mỹ trong vấn đề Biển Đông vừa tạo cho Việt Nam cơ hội
trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ và quyền lợi ở Biển Đông,
đồng thời cũng đặt ra những thách thức, nhất là trong việc xử lý quan hệ của
Việt Nam với Trung Quốc. Mỹ là nước lớn duy nhất công khai phản đối và
đang tiến hành các biện pháp kiềm chế không để Trung Quốc gây mất ổn
định, đe dọa tự do hàng hải và các quyền lợi của Mỹ ở Biển Đông (trong khi
một số nước khác đã phải khuất phục trước sức ép của Trung Quốc, rút hoạt
động dầu khí ra khỏi khu vực Trung Quốc yêu cầu). Thực tiễn cho thấy, Mỹ
là lực lượng duy nhất có khả năng ngăn chặn và khiến Trung Quốc chùn tay.
Mỹ đã có một số điều chỉnh chính sách được xem là có lợi cho Việt Nam: (i)
Lập trường cơ bản của Mỹ phù hợp với lập trường của Việt Nam (giải quyết
hòa bình, không dùng vũ lực, thúc đẩy ngoại giao) sẽ gây thêm khó khăn cho
Trung Quốc, có lợi cho Việt Nam và một số nước ASEAN có lợi ích chính
đáng ở Biển Đông. (ii) Sự quan tâm ngày càng cao và phản ứng ngày càng
mạnh của Mỹ đối với Trung Quốc làm cho dư luận quốc tế thấy Việt Nam
53
không đơn độc, tạo thế cho cả Việt Nam và ASEAN trong cuộc đấu tranh bảo
vệ chủ quyền và quyền lợi biển chính đáng; khiến dư luận quốc tế, nhất là của
khu vực, quan tâm hơn đến Biển Đông, buộc Trung Quốc dè chừng hơn và
tạo điều kiện để một số nước khác có thái độ rõ ràng hơn. (iii) Các biện pháp
quân sự của Mỹ có tác dụng nhất định, kiềm chế không cho Trung Quốc đi
quá xa. (iv) Thúc đẩy xu hướng quốc tế hóa việc giải quyết tranh chấp ở Biển
Đông là điều Trung Quốc không muốn. Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ theo
hướng cứng rắn hơn với Trung Quốc cũng có thể làm cho quan hệ Mỹ –
Trung và tình hình Biển Đông căng thẳng, làm tăng nguy cơ mất ổn định khu
vực, gây khó xử cho Việt Nam trong quan hệ với cả Trung Quốc và Mỹ.
3.2.2. Tác động tiêu cực
Cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung ở khu vực trên nhiều vấn đề (từ an
ninh quân sự, Hiệp định TPP, sáng kiến hợp tác tiểu vùng sông Mê kông...)
làm tăng sự phức tạp và nhạy cảm trong quan hệ ứng xử của Việt Nam với hai
quốc gia này. Một là, Việt Nam luôn phải tính đến yếu tố Trung Quốc trong
quan hệ với Mỹ. Việc Mỹ tăng cường quan hệ với Việt Nam, dù xuất phát từ
nguyên nhân nào, trong chừng mực nhất định cũng gây xói mòn lòng tin trong
quan hệ Việt – Trung ở những mức độ nhất định, có thể dẫn đến những hành
động trả đũa của Trung Quốc trong quan hệ nhiều mặt với ta. Hai là, Việt
Nam cũng gặp nhiều khó khăn trong quan hệ với Trung Quốc khi cạnh tranh
Mỹ – Trung khiến Trung Quốc tăng cường củng cố sức mạnh, gây sức ép với
Việt Nam từ đó tác động tiêu cực tới quan hệ Việt – Trung đồng thời khiến
Việt Nam bỏ lỡ nhiều cơ hội tăng cường quan hệ với Mỹ, lãng phí những cơ
hội chính đáng để tăng cường hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đóng góp tích
cực vào hòa bình ổn định và phát triển của khu vực. Ba là, trong bối cảnh khu
vực Đông Nam Á luôn có sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước lớn, Việt Nam
luôn phải cảnh giác với những thỏa hiệp của các nước lớn có thể gây phương
hại đến an ninh, độc lập chủ quyền của đất nước. Chính trị nước lớn bản chất
là xung đột quyền lợi, nhưng cũng sẵn sàng thỏa hiệp đổi chác với nhau trên
54
lưng nước nhỏ. Do đó, không loại trừ khả năng Mỹ hoặc Trung Quốc, để đạt
được lợi ích ở khu vực chiến lược của mình, sẽ có sự thỏa hiệp ở khu vực
Đông Nam Á. Nếu điều đó diễn ra, các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt
Nam, có thể gặp những khó khăn, phức tạp trong chính sách cân bằng quan hệ
với các nước lớn tại khu vực. Với việc nhận ra sức mạnh kinh tế và những
ảnh hưởng chính trị tương xứng của mình ngày càng tăng, Trung Quốc đã trở
nên quyết đoán hơn trong việc gây sức ép đối với những yêu sách về lãnh thổ
của mình. Tháng 3/2010, Trung Quốc đã tuyên bố xem Biển Đông như “lợi
ích cốt lõi của nước này, ngang bằng với Tây Tạng và Đài Loan. Trong khi
đó, lợi ích của Mỹ ở khu vực Biển Đông là quá lớn nên khó có khả năng Mỹ
“đánh đổi cho Trung Quốc về vấn đề Biển Đông với vấn đề nào đó khác. Mỹ
sẽ can dự vào vấn đề Biển Đông trong trường hợp lợi ích của Mỹ bị đe dọa
hoặc khi xảy ra xung đột giữa đồng minh của Mỹ với Trung Quốc ở khu vực
Biển Đông. Nhiều căng thẳng nổi lên tại Biển Đông trong thời gian gần đây là
do những điều chỉnh có tính toán của cả Trung Quốc và Mỹ. Và Biển Đông
trở thành khu vực then chốt thử thách ý chí giữa Mỹ và Trung Quốc. Việt
Nam là một trong những nước ở khu vực Đông Nam Á có tranh chấp chủ
quyền ở Biển Đông với Trung Quốc. Tuy nhiên, do sự phụ thuộc lẫn nhau
giữa Mỹ và Trung Quốc rất lớn và hai bên phải tính tới những lợi ích chiến
lược khác trong quan hệ đa chiều giữa hai nước, và vì vậy sự răn đe của Mỹ
sẽ có giới hạn và Trung Quốc sẽ phải kiềm chế để không dẫn đến xung đột
quân sự trực diện giữa hai nước.
3.3. Dự báo chiều hƣớng cạnh tranh Mỹ - Trung trong thời gian tới
Hầu hết các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách đều cho rằng
trong thời gian tới quan hệ Trung - Mỹ sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, quan hệ
hai nước sẽ luôn song hành các mặt hợp tác – cạnh tranh và mặt cạnh tranh sẽ
không quá gay gắt. Do lợi ích đan xen và sự phụ thuộc lẫn nhau lớn, trong bất
cứ trường hợp nào, quan hệ Trung Quốc với Hoa Kỳ sẽ tránh đi đến đối đầu
gây đổ vỡ quan hệ và tổn hại đến lợi ích của hai nước. Về phía Mỹ, thế và lực
55
đang bị suy yếu tương đối không cho phép Mỹ theo đuổi một chính sách đối
đầu với Trung Quốc trong thập niên tới. Mỹ công khai thừa nhận tầm quan
trọng và ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc. Hơn nữa, Mỹ cũng cần
Trung Quốc để cùng giải quyết các vấn đề cấp bách của thế giới mà một mình
Mỹ không thể giải quyết được. Mỹ cần Trung Quốc để xoa dịu tình hình căng
thẳng ở bán đảo Triều Tiên, thúc đẩy đàm phán chương trình hạt nhân với
Iran, tiến trình hòa bình Trung Đông, cuộc chiến tranh giữa Nga và Ukraine,
và nhiều vấn đề khác như biến đổi khí hậu, chống khủng bố, dịch bệnh… Về
phía Trung Quốc, trong thời gian tới, Trung Quốc sẽ tiếp tục là nền kinh tế
lớn thứ hai thế giới sau Mỹ nhưng cần Mỹ là thị trường tiêu thụ hàng hóa của
Trung Quốc đồng thời là nguồn cung cấp công nghệ cao cho quá trình công
nghiệp hóa và hiện đại hóa của Trung Quốc. Trung Quốc rất cần một nền kinh
tế Mỹ phát triển ổn định, ít nhất là trong 1 - 2 thập kỷ tới, để đáp ứng lợi ích
phát triển của Trung Quốc. Ban đầu, Mỹ tỏ thận trọng với khái niệm này của
Trung Quốc, chỉ nêu “quan hệ kiểu mới , tuy nhiên sau đó, phía Mỹ thể hiện
thái độ tiếp nhận hơn khái niệm này song hưởng ứng có mức độ, đồng thời
khẳng định không chấp nhận mô hình kiểu G2, do: (i) Bản chất quan hệ hai
nước là cạnh tranh chiến lược, tranh giành ảnh hưởng, do đó hai bên luôn tồn
tại nghị kỵ chiến lược. Mỹ muốn duy trì trật tự hiện nay, duy trì vị trí cường
quốc số một; Trung Quốc hiện chưa thể thay đổi trật tự nhưng có khả năng
thách thức Mỹ trong tương lai; (ii) Nhiều lợi ích cốt lõi của Trung Quốc (Đài
Loan, Biển Đông và Biển Hoa Đông…) liên quan trực tiếp đến lợi ích quốc
gia của Mỹ và lợi ích của các đồng minh, đối tác quan trọng của Mỹ tại khu
vực; (iii) Để duy trì vị trí cường quốc số một, Mỹ cần giữ uy tín với đồng
minh và đối tác, cần tránh để các nước hiểu rằng Mỹ – Trung thỏa hiệp hy
sinh lợi ích của các nước khác. Tuy công khai, Mỹ thể hiện “tích cực hơn với
mô hình “quan hệ nước lớn kiểu mới , nhưng thực ra hai bên khó có thể
thống nhất hoàn toàn về nội hàm (nhất là vấn đề lợi ích cốt lõi); Mỹ cũng sẽ
không chấp nhận Trung Quốc đứng ngang hàng với mình và sẽ vẫn tiếp tục
56
triển khai các bước đi ứng phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc (vẫn tiếp tục
tăng hiện diện quân sự ở Châu Á – Thái Bình Dương, thúc đẩy Hiệp định TPP
và các liên kết kinh tế không có Trung Quốc, tăng cường hợp tác quân sự,
nâng cao năng lực quốc phòng của đồng minh và các đối tác trong khu
vực…). Tuy chính quyền Biden tăng cường củng cố quan hệ với các đồng
minh và đối tác, trong đó có khu vực Đông Nam Á, nhưng tình hình nội bộ
bất ổn của Mỹ gần đây về cả kinh tế và chính trị, cũng làm cho các nước khu
vực này lo ngại về ưu tiên và cam kết của Mỹ. Nếu ưu tiên của Mỹ ở khu vực
Đông Bắc Á (bao gồm Đài Loan) và với Philippines tăng lên, thì ưu tiên của
Mỹ ở khu vực Đông Nam Á (bao gồm Biển Đông) và với Việt Nam có thể
giảm bớt xuống.
3.4. Khuyến nghị cho Việt Nam
Việt Nam gần đây đã nổi lên như một trong các đối tác quan trọng
nhất của Mỹ tại khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, và là một nước
“tiền tuyến chống chọi sức ép từ Trung Quốc ở Đông Nam Á, nhất là tại
Biển Đông. Trong bối cảnh Mỹ và Trung Quốc tăng cường cạnh tranh chiến
lược tại khu vực này, Việt Nam dễ bị mắc kẹt, phải tìm cơ hội hóa giải bằng
cách tăng cường quan hệ với Mỹ.
- Cơ hội
Tại cuộc điều trần tại Thượng viện Mỹ (13/7/2021), ứng viên đại sứ
mới tại Việt Nam Marc Knapper nói rằng nâng cấp quan hệ hai nước lên đối
tác chiến lược là ưu tiên hàng đầu, ông sẽ thực hiện điều đó bằng cách tăng
cường quan hệ an ninh với Việt Nam. Đó không chỉ là ưu tiên của Đại sứ
Knapper mà còn là ưu tiên của chính quyền Biden. Lâu nay nhiều người vẫn
lo ngại cam kết của đại sứ mới có thể bất khả thi vì còn nhiều rào cản.
Trong một lần trao đổi với báo chí ở Hà Nội cuối năm 2022, đại sứ Knapper
tự tin hơn khi nói rằng năm 2023 hai nước sẽ kỷ niệm 10 năm quan hệ đối
tác toàn diện. Đó là dịp tốt để hai nước có thể nâng cấp lên đối tác chiến
lược, vì quan hệ hai nước “về bản chất cốt lõi mang tầm chiến lược . Ông
57
nhấn mạnh “nếu đây không phải là quan hệ đối tác chiến lược thì tôi không
biết như thế nào mới là chiến lược , và cho rằng “bầu trời là giới hạn .
Có bốn trụ cột cho đối tác chiến lược Việt - Mỹ. Một là thỏa thuận
nhằm thúc đẩy khả năng phục hồi chuỗi cung ứng. Hai là coi an ninh tại
Biển Đông là ưu tiên hàng đầu và Mỹ có thể giúp Việt Nam về công nghệ
quốc phòng để bảo vệ chủ quyền. Ba là tăng cường hợp tác đối phó với biến
đổi khí hậu, chủ yếu là bảo vệ môi trường đồng bằng sông Mekong. Bốn là
tổ chức đối thoại cấp cao hàng năm về chiến lược và quốc phòng. Quan hệ
Việt-Mỹ đã vượt qua một quãng đường dài, từ kẻ thù thành bạn, nay là đối
tác chiến lược. Nhưng trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung, Việt
Nam dễ mắc kẹt vì “yếu tố Trung Quốc cản đường.
Việt Nam cần điều chỉnh chính sách đối ngoại, với xu thế hiện nay của
cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc (cạnh tranh toàn diện song trong mức độ kiểm
soát được) và sự điều chỉnh chính sách của các nước lớn khác, với lợi thế cả
về mặt địa lý, thành công trong đổi mới và hội nhập quốc tế, vị thế quốc tế và
khu vực đang gia tăng trên trường quốc tế,... Việt Nam cần tranh thủ thời cơ
thuận lợi để tiếp tục đẩy mạnh triển khai chính sách đối ngoại đa phương hóa,
đa dạng hóa, tăng cường hợp tác với tất cả các nước, bao gồm cả quan hệ
chiến lược với các nước lớn (gồm Trung Quốc, Nga, Mỹ...), cũng như phát
triển quan hệ với các nước khác.
Cần nâng cao năng lực tự chủ, đây là yếu tố phù hợp với xu thế chung
cũng như yêu cầu phát triển của Việt Nam trong dài hạn, từ các yếu tố nền
tảng như giáo dục, y tế, môi trường đến khả năng nghiên cứu, sản xuất,
thương mại, cũng như tích cực tham gia các chuỗi cung ứng, đấu tranh bảo vệ
chủ quyền biển, đảo, tham gia định hình luật lệ quốc tế... Tuy nhiên, khi đi
vào cụ thể cũng cần có quy hoạch tổng thể và sự tính toán hợp lý.
- Thách thức
Sau khi Nga xâm lược Ukraine (24/2/2022), áp lực chọn phe chưa bao
giờ mạnh như thế, đe dọa phá vỡ sự cân bằng trong quan hệ của Việt Nam với
58
các nước lớn như Trung Quốc, Mỹ, và Nga. Việt Nam buộc phải vận dụng
“ngoại giao cây tre với các nước lớn và chơi cờ thế (hedging) để chờ thời cơ
thay đổi tình thế nhằm “tái cân bằng chiến lược . Việt Nam chúng ta cần phải
nhượng bộ Trung Quốc về một số vấn đề nhỏ để làm giảm áp lực trong các
vấn đề lớn hơn có thể đe dọa ổn định và an ninh quốc gia.
- Tăng cường quan hệ quốc tế, ngoại giao đa phương
Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ đối tác chiến lược với 18 nước
nhưng chưa có Mỹ. Vì vậy, nâng cấp quan hệ với Mỹ lên đối tác chiến lược là
một điều tất yếu, chỉ là vấn đề thời gian. Nếu quá sớm cũng không được, hay quá
muộn cũng có hại cho Việt Nam, vì tương quan trong quan hệ Việt - Trung và
Việt – Mỹ. Nay cơ hội đã có và thời điểm đã tới. Nhưng đối tác chiến lược với
Mỹ không thay thế cho nội lực và cân bằng chiến lược nước lớn.
Tiểu kết chƣơng 3
Thực trạng cạnh tranh trong quan hệ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ với
khu vực Đông Nam Á cho thấy những lợi ích đan xen phức tạp, cả Trung
Quốc và Mỹ đều đã có những điều chỉnh chính sách về cơ bản theo hướng coi
trọng hơn vai trò của khu vực. Cạnh tranh Trung Quốc – Hoa Kỳ cũng tác
động rất lớn tới sự phát triển của Việt Nam. Chúng ta đã tranh thủ sự hợp tác
với cả Trung Quốc và Mỹ, đồng thời tận dụng một cách khéo léo mâu thuẫn
và những khác biệt giữa hai nước về mục tiêu và lợi ích để tạo thế có lợi nhất,
giúp ta củng cố được môi trường hòa bình, ổn định, phục vụ cho mục tiêu
phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Thế và lực của cả Trung Quốc và
Hoa Kỳ sẽ còn tiếp tục thay đổi trong 1 – 2 thập kỷ tới theo hướng Mỹ tuy
suy yếu nhưng vẫn là cường quốc số một thế giới, Trung Quốc ngày càng
tham vọng dẫn đến nguy cơ chiến tranh. Do đó, quan hệ Trung – Mỹ sẽ tiếp
tục diễn biến phức tạp, luôn song hành các mặt hợp tác – cạnh tranh và mặt
cạnh tranh sẽ không quá gay gắt do đan xen lợi ích và phụ thuộc lẫn nhau.
59
PHẦN KẾT LUẬN
Đông Nam Á ngày càng có vai trò quan trọng trong chiến lược của các
nước lớn đặc biệt là Trung Quốc và Hoa Kỳ. Xuất phát từ lợi ích chiến lược
đa dạng của mình, cả Trung Quốc và Mỹ thời gian qua đã có những bước đi
quyết liệt, toàn diện tại khu vực. Trong khuôn khổ quan hê ràng buộc Trung –
Mỹ “vừa hơp tác vừa đấu tranh , cạnh tranh giữa hai nước vừa qua (về an ninh – quân sư, vấn đề Biển Đông, hay kinh tế – thương mại) có thời điểm
trở nên rất căng thẳng nhưng không tới mức quá gay gắt để có thể gây đổ vỡ
quan hê hai nước. Trong bối cảnh tình hình khu vực tiếp tục diễn biến nhiều
chiều với lợi ích đa dạng của nhiều quốc gia liên quan (trong cũng như ngoài
khu vực) và đặc biệt trước tham vọng và sự lớn mạnh không ngừng của Trung
Quốc, thời gian tới cục diện cạnh tranh ảnh hưởng giữa Trung Quốc và Mỹ tại
khu vực sẽ tiếp tục gia tăng song khó có thể dẫn tới tình trạng đối đầu trực
tiếp giữa hai nước hay giữa các nhóm nước tại khu vực. Trung Quốc và Mỹ
có mối quan hệ ràng buộc và vẫn rất cần đến nhau để xử lý nhiều vấn đề phức
tạp liên quan đến hai nước (từ vấn đề thâm hụt thương mại, tỷ giá đồng Nhân
dân tệ, đến vấn đề Đài Loan, Tây Tạng, Tân Cương, hạt nhân Triều Tiên,
Iran, Myanmar...). Mặc dù cạnh tranh ảnh hưởng Trung – Mỹ tại khu vực thời
gian qua diễn ra gay gắt, song nhìn chung Viê Nam đã có chính sách đúng
đắn trong quan hệ với cả Trung Quốc, Mỹ. Trên cơ sở đánh giá sát và đúng
tình hình khu vực, ý đồ chiến lược của các bên, Việt Nam đã có những bước
đi phù hợp. Với Mỹ, tận dụng đà quan hê những năm gần đây và chiến lược
“tái cân bằng khu vực Châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ , Việt Nam đã đẩy
mạnh quan hê ở tầm chiến lược nâng quan hệ Việt – Mỹ lên Đối tác toàn diện,
gắn quan hệ song phương với bối cảnh đa phương và khu vực ASEAN nhằm
thúc đẩy giải quyết vấn đề Biển Đông với nhiều triển vọng mới. Việt Nam đã
tranh thủ vai trò thành viên nòng cốt của ASEAN, tạo kết quả tổng hợp làm
tăng thêm “sức nặng chiến lược của Việt Nam trong chính sách khu vực của
Mỹ, trong khi không làm tổn haị quan hê với Trung Quốc, thể hiện được sự
60
độc lập của mình trong những quyết sách chiến lược cũng như trong các bước
đi cụ thể để triển khai chính sách đối ngoại. Đặc biệt từ năm 2016, Việt Nam
đã kết hợp nhịp nhàng giữa hợp tác và đấu tranh, khéo léo sử dụng quan hệ
với ASEAN và Mỹ để tạo thế trong quan hệ với các nước, nhất là trong việc
đấu tranh về Biển Đông. Quan hệ Trung – Mỹ có đặc điểm không ổn định, lên
xuống thất thường và dễ kéo theo những ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu
cực đối với khu vực. Thời gian tới ta cần tiếp tục thực hiện chính sách cân
bằng quan hệ giữa các nước lớn, đặc biệt giữa Trung Quốc và Mỹ, trong khu
vưc . Điều này sẽ giúp Việt Nam duy trì khả năng linh hoạt trong việc triển
khai chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, tránh bị phụ thuộc vào bất cứ một
nước lớn nào, đồng thời không bị mắc kẹt vào mâu thuẫn hoặc xung đột giữa
đối thủ cạnh tranh trong khu vực. Theo đó, chúng ta vừa tranh thủ sự hợp tác
với cả Trung Quốc và Hoa Kỳ, vừa tận dụng một cách khéo léo mâu thuẫn và
những khác biệt giữa họ với nhau để tạo thế có lợi nhất, giúp ta củng cố được
môi trường hòa bình, ổn định, phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế – xã
hội của Việt Nam theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
61
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tiếng việt
1. E được và mất gì khi gia nhập FTA với Trung Quốc,
http://www.mofahcm.gov.vn/ ngày 09-01-2015
2. Ban Thời sự VTV (2022), Hội nghị Cấp cao ASEAN - Trung Quốc
lần thứ 25, https://vtv.vn/ ngày 11-11-2022
3. Lại Thái Bình (2023), Cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung Quốc và
tác động đến điều chỉnh chính sách của các nước lớn,
https://www.tapchicongsan.org.vn/ngày 30-3-2023
4. Lê Hải Bình (2013), Tác động của quan hệ Mỹ - Trung đến an ninh
ở hu vưc Đông am sau Chiến tranh ạnh,Luận án Tiến sĩ – chuyên
ngành Quan hệ Quốc tế, Học viện Ngoại giao.
5. Bộ Ngoại giao Việt Nam, Hiến chương E , Điều 1, mục 1
6. Bộ Ngoại giao Việt Nam, Tầm nhìn ASEAN 2020,
http://asean.mofa.gov.vn/ ngày 14-05-2010
7. Bruce W. Jentlesonb (2004), Ch nh sách đối ngoại Hoa Kỳ Động cơ
của sự lựa chọn trong thế kỷ XXI, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
8. Sông Cầu (2012), Eo biển Malacca Dường nối Biển Đông với Ấn
Độ Dương, http://biendong.net/ ngày 13-02-2012
9. Công ước của iên hợp quốc về Luật biển (1982),
http://www.tapchicongsan.org.vn/ ngày 04-11-2022
10. Cuộc họp các nước hạ nguồn sông Mê Kông với Mỹ,
http://www.baomoi.com/ ngày 22-10-2010
11. Vĩ Cường (2020), Cạnh tranh Mỹ - Trung ở Biển Đông Cơ hội từ
những thách thức, https://hcmussh.edu.vn/ ngày 15-10-2020
12. Vĩ Cường (2022), Trung Quốc ra sức mở rộng ảnh hưởng ở Đông
Nam Á, https://plo.vn/ ngày 07-07-2022
13. Đông Ngàn & Từ Sơn (2014), Trung Quốc và chiến lược iên
giới mềm, quyền lực mềm”, http://www.baomoi.com/ ngày 24-04-2014
62
14. Nguyên Hạnh (2020), Đông am ất ngờ trở thành đối tác
thương mại lớn nhất của Trung Quốc, https://tuoitre.vn/ngày15-7-2020
15. Hữu Hưng (2023), Kim ngạch thương mại ASEAN - Trung Quốc
tăng mạnh,https://nhandan.vn/ ngày 09-03-2023
16. Huyền Lê, Chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thư guyễn Phú
Trọng thành công mọi mặt”, https://vnexpress.net/ngày 2/12/2022.
17. Mỹ Lệ (2021), Thông điệp từ chuyến thăm Đông am của Ngoại
trưởng Mỹ Antony Blinken, https://dantri.com.vn/ngày13-12-2021
18. Xuân Linh (2020), Mỹ hỗ trợ 4 triệu cho tiểu vùng sông Mê Kông,
http://www.tinmoi.vn/ ngày 15-3-2020
19. Khánh Ly (2022), Đầu tư của Trung Quốc vào Campuchia tăng
mạnh, https://bnews.vn/ ngày 08-04-2022
20. Phạm Bình Minh (chủ biên) (2010), Cục diện thế giới đến 2020,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
21. Phương Minh (2010), Tướng lĩnh Trung Quốc nói về sức mạnh
qu n sự,http://vnexpress.net/ ngày 5-3-2010
22. Lê Khương Thùy (2003), Chiến lược của Mỹ đối với E trong
và sau Chiến tranh ạnh, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
23. Lê Linh Lan (chủ biên) (2004), Về Chiến lược an ninh của Mỹ hiện
nay,Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
24. Lưu Minh Phúc (2010), Trung Quốc mộng, Ban lịch sử – truyền
thống Ngoại giao, Bộ Ngoại giao.
25. Nguyễn Quốc Uy (2022), Một chuyến thăm có tầm quan trọng
chiến lược, https://vneconomy.vn/ngày 07-11-2022
26. Phạm Quốc Trụ (2010), Quan hệ ASEAN - Trung Quốc thời kỳ hậu
Chiến tranh Lạnh, http://nghiencuubiendong.vn/ ngày 24-11-2010
27. Bích Thuận (2022), Trung Quốc tìm cách tăng ảnh hưởng ở
Đông am , https://vov.vn/ ngày 04-07-2022
28. Thế lực của người Hoa ở các nước Đông am ,
63
http://www.reds.vn/ ngày 10-08-2022
29. Thông tấn xã Việt Nam (2012), “Vai trò của Trung Quốc đối với
Đông am và iệt am trong lĩnh vực kinh tế , Tài liệu tham khảo đặc biệt
số 140.
30. Thông tấn xã Việt Nam (2014), “Liệu Mỹ có đóng vai trò t ch cực
hơn tại Đông am , Tài liệu tham khảo đặc biệt, ngày 9/6, tr 3.
31. Duy Trinh (2023), Trung Quốc có ự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới,
https://www.vietnamplus.vn/ ngày 06-02-2023
II.Tiếng nƣớc ngoài
32. CRS Report for Congress, China – Southeast Asia Relations:
Trends, Issues, and Implications for the United States,
http://fas.org/sgp/crs/row/RL32688.pdf
III. Trang web bổ trợ
33. Nghiên cứu Quốc tế - Nghiencuuquocte.org