LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết

quả nêu trong khóa luận là trung thực và chưa được công bố trong các công trình

khác. Nếu không đúng như trên, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về đề tài của

mình.

Người cam đoan

Nguyễn Hồng Hạnh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1

2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................... 2

3. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 4

5. Bố cục khóa luận .......................................................................................... 4

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI QUẢN LÝ, ĐIỀU

HÀNH VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH TRONG CÔNG

TY CỔ PHẦN ....................................................................................................... 5

1.1. Khái quát về người quản lý, điều hành công ty cổ phần? ......................... 5

1.1.1. Người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần? .............................. 5

1.1.2. Mối quan hệ giữa người quản lý, điều hành với chủ sở hữu trong công

ty cổ phần ......................................................................................................... 7

1.2. Khái quát về trách nhiệm của người quản lý, điều hành công ty trong công

ty cổ phần? .......................................................................................................... 8

1.2.1. Trách nhiệm của người quản lý, điều hành trong công ty là gì? ......... 8

1.2.2. Những trách nhiệm cơ bản mà người quản lý, điều hành phải thực hiện

khi quản lý, điều hành công ty cổ phần? ......................................................... 9

1.2.3. Trách nhiệm pháp lý của người quản lý, điều hành trong công ty cổ

phần ........................................................................................................... 15

1.3. Vai trò của việc xác định người quản lý, điều hành và trách nhiệm của

người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần ............................................... 18

CHƯƠNG 2. TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH

TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 ..... 20

2.1. Người quản lý, điều hành công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp 2014?

20

2.2. Trách nhiệm của người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần theo Luật

Doanh nghiệp 2014? ......................................................................................... 21

2.2.1. Trách nhiệm thực hiện đúng điều lệ, nghị quyết của đại hội đồng cổ

đông, luật doanh nghiệp và luật có liên quan. ............................................... 23

2.2.2. Trách nhiệm cẩn trọng....................................................................... 24

2.2.3. Trách nhiệm trung thành ................................................................... 24

2.2.4. Trách nhiệm thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác về doanh nghiệp

mà họ và người có liên quan của họ làm chủ hoặc có phần vốn góp, cổ phần

chi phối. .......................................................................................................... 28

2.3. Trách nhiệm pháp lý của người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần

theo luật doanh nghiệp 2014? ........................................................................... 29

2.4. Thực tiễn thi quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 về người quản lý, điều

hành và trách nhiệm của người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần. Một

số vấn đề pháp lý đặt ra. .................................................................................... 30

CHƯƠNG 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA

NGƯỜI QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN ............. 38

3.1. Các yếu tố tác động đến pháp luật về trách nhiệm của người quản lý, điều

hành trong công ty cổ phần ............................................................................... 38

3.2. Một số biện pháp để “các quy định pháp luật về trách nhiệm của người

quản lý, điều hành trong công ty cổ phần” thực thi có hiệu quả trên thực tế…40

3.3. Một số kiến nghị cụ thể để hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người

quản lý, điều hành trong công ty cổ phần. ........................................................ 42

KẾT LUẬN ......................................................................................................... 48

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Vấn đề quản trị công ty cổ phần là một trong những nội dung trọng tâm của

pháp luật về công ty cổ phần. Trong công ty cổ phần, các cổ đông nhỏ lẻ chiếm số

lượng lớn và không thể thường xuyên theo dõi hoạt động quản lý, điều hành của

công ty. Để bảo vệ các nhà đầu tư, những người nắm giữ cổ phần, thì việc quy

định rõ về trách nhiệm quản lý, điều hành công ty cổ phần là vấn đề rất quan trọng.

Người quản lý trong công ty cổ phần tham gia vào quản lý, điều hành các

hoạt động diễn ra thường xuyên của công ty. Một người quản lý tốt, trung thành

với lợi ích của cổ đông của công ty sẽ khiến công ty phát triển. Tuy nhiên, trong

nội bộ doanh nghiệp, có thể thấy, người quản lý có thể lạm dụng vị trí, có những

hành vi tư lợi để làm hại đến lợi ích của những chủ sở hữu, nhà đầu tư khác.

Từ luật công ty năm 1999 đến nay, pháp luật Việt Nam đã luôn quan tâm đến

các quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của người quản lý, điều hành. Tuy vậy, luật

doanh nghiệp 2014 vẫn còn thiếu những quy định cụ thể về các trách nhiệm cơ

bản đó để điều luật có thể được áp dụng. Khi pháp luật không có các quy định,

hoặc quy định không rõ trách nhiệm, nghĩa vụ hợp lý cho người quản lý điều hành

trong công ty cổ phần thì việc áp dụng các quy định pháp luật về quản trị công ty

sẽ kém hiệu quả, không thể bảo vệ được quyền lợi của các cổ đông và các bên có

liên quan như chủ nợ, người lao động và khách hàng của công ty.

Trong quản trị công ty, việc xác định đầy đủ, hợp lý và cụ thể trách nhiệm

của người quản lý, điều hành dựa trên cơ sở các quy định hiện hành của pháp luật

là một trong những cơ sở đảm bảo cho việc thiết lập và quản trị công ty một cách

hiệu quả.

1

Chính bởi các lý do trên, tác giả xin lựa chọn đề tài: “Trách nhiệm của

người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp

2014” làm đề tài cho Khóa luận tốt nghiệp của mình.

2. Tình hình nghiên cứu

Pháp luật về quản trị công ty nói chung và trách nhiệm của người quản lý,

điều hành nói riêng là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, trong đó phải

kể đến một số công trình nghiên cứu như sau:

Luận văn “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quản trị công ty cổ phần”,

2014, Hoàng Thị Mai, luận văn thạc sĩ, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội.

Trong luận văn này, tác giả đã tập trung nghiên cứu về quản trị công ty nói chung,

nghiên cứu các thiết chế: đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị, ban giám đốc,

ban kiểm soát; luận văn đã so sánh pháp luật quản trị của Việt nam với các nước

trên thế giới, từ đó chỉ ra yêu cầu khách quan cần hoàn thiện pháp luật.

Luận văn “Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo Pháp luật Việt Nam”,

2015, Nguyễn Hoàng Duy, luận văn thạc sĩ, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà nội;

luận văn đã nêu được khái niệm người quản lý, nguồn gốc của nghĩa vụ, những

trách nhiệm cơ bản mà người quản lý phải có và hướng hoàn thiện pháp luật.

Bài viết của PGS. TS Bùi Xuân Hải: “Người quản lý công ty theo Luật Doanh

nghiệp 1999 – Nhìn từ góc độ luật so sánh” đăng trên tạp chí Khoa học pháp lý

Tháng 4 năm 2005 và bài viết: “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề trong pháp

luật công ty Việt nam” đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý năm 2007; Bài viết

của Lê Đức Nghĩa “Trách nhiệm người quản lý theo luật công ty Việt nam” trên

tạp chí nghiên cứu lập pháp;

2

Sách “CEO và Hội đồng quản trị” của Phạm Trí Hùng; cuốn “Luật Doanh

nghiệp Vốn và quản lý trong công ty cổ phần của ThS. Nguyễn Ngọc Bích

(2006),…

Có thể thấy, tới nay đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học nghiên cứu

về vấn đề quản trị công ty nói chung; những khuyến nghị của OECD đối với quản

trị công ty cổ phần ở Việt Nam và các vấn đề về trách nhiệm, nghĩa vụ của người

quản lý, điều hành. Các công trình này đã đóng góp không nhỏ cho khoa học pháp

lý và tạo dựng nền tảng lý luận vững chắc cho các bước nghiên cứu tiếp theo.

Tuy nhiên, không phải vì thế mà chúng ta không cần tiếp tục nghiên cứu về

quản trị công ty nói chung cũng như trách nhiệm của người quản lý, điều hành.

Hiện nay, Luật doanh nghiệp 2014 được áp dụng được hơn hai năm, tuy nhiên

thực tiễn thi hành pháp luật về người quản lý, điều hành công ty còn nhiều bất cập.

Vậy nên, việc nghiên cứu về “trách nhiệm của người quản lý, điều hành” vẫn là

mảnh đất cần được khai phá.

3. Phương pháp nghiên cứu

Để thực đề tài này, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học:

- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được sử dụng chủ yếu

trong Chương 1 khi nghiên cứu những vần đề chung về người quản lý, điều hành

và trách nhiệm của người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh được sử dụng chủ yếu ở

Chương 2 khi phân tích các quy định của Pháp luật hiện hành về trách nhiệm của

người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần và thực thi những quy định đó trên

thực tế.

3

- Phương pháp diễn giải, quy nạp được sử dụng chủ yếu trong Chương 3 để

đưa ra định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người quản

lý, điều hành trong công ty cổ phần.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Theo đề tài này, mục tiêu của tác giả là tìm hiểu, phân tích và làm rõ các vấn

đề cơ bản về lý luận và thực tiễn về người quản lý, điều hành công ty trong công

ty cổ phần, trách nhiệm của người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần; từ đó

giúp hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty nói chung và trách nhiệm người quản

lý, điều hành trong công ty cổ phần nói riêng.

Đề tài tập chung xác định giới hạn người quản lý, điều hành trong công ty cổ

phần, những quy định trong luật doanh nghiệp 2014 về trách nhiệm cơ bản của

người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần. Đề tài cũng tìm hiểu thực trạng

việc thực thi những quy định pháp luật đó tại Việt Nam và chỉ ra những điểm còn

bất hợp lý của pháp luật, từ đó kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm người

quản lý, điều hành trong công ty cổ phần.

5. Bố cục khóa luận

Khóa luận gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về người quản lý, điều hành và trách nhiệm

của người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần.

Chương 2: Trách nhiệm của người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần

theo Luật Doanh Nghiệp 2014 và Thực tiễn thi hành các quy định.

Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người quản lý, điều hành

trong công ty cổ phần.

4

CHƯƠNG 1.

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ

NGƯỜI QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH VÀ TRÁCH NHIỆM

CỦA QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN

1.1. Khái quát về người quản lý, điều hành công ty cổ phần.

1.1.1. Khái niệm người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần.

Chúng ta đã biết, khi nói đến mô hình quản trị công ty cổ phần có nghĩa là

nói đến cấu trúc của bộ máy quản lý – điều hành, vậy nên căn cứ theo các mô hình

quản trị phổ biến trên thế giới, ta có thể xác định được người quản lý chính trong

công ty cổ phần.

Xét mô hình quản trị một tầng (one tier board model): mô hình này phổ biến

ở các nước theo hệ thống luật Anh- Mỹ. Bộ phận quản lý – điều hành chỉ do một

cơ quan đảm nhiệm là hội đồng giám đốc (board of directors). Hội đồng giám đốc

gồm các giám đốc (directors). Các thành viên của hội đồng giám đốc có trách

nhiệm quản lý hoạt đồng hàng ngày của công ty, tham gia quyết định những vấn

đề quan trọng của công ty thuộc thẩm quyền của mình. [21] Giám đốc (diretors) ở

đây không để chỉ chức vụ, một “director” có thể là chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng

hay thư ký. [5] Theo Luật công ty 2008, “director” được định nghĩa là thành viên

trong hội đồng giám đốc (de jure director) hoặc người giữ vị trí, vai trò như một

giám đốc bất luận chức danh của họ là gì (de factor director) hoặc người đưa ra

các chỉ đạo để các người quản lý khác làm theo (shadow director). [19] Các

“directors” có thể được bầu thông qua quyết định thông thường của đại hội đồng

cổ đông bầu ra hoặc quyết định bổ nhiệm của ban giám đốc. [17]

Như vậy, người quản lý trong công ty theo hệ thông luật Anh – Mỹ được xác

định khá rộng, những người quản lý, điều hành không chỉ được xác định trên chức

5

danh mà còn được xác định trên hành động thực thế của họ. Chúng ta có thể thấy

ở đây có một tấm lọc lưới 3 tầng: tầng thứ 1 là các “de jure director” – người được

bổ nhiệm chức danh quản lý; tầng thứ 2 là các “de factor director” – người quản

lý thực tế, không được bổ nhiệm chức danh quản lý nhưng giữa vai trò vị trí như

một người quản lý; tầng thứ 3 là các “shadow director” – người quản lý giấu mặt,

những người mong muốn sử dụng công ty và lợi ích các quy định về người quản

lý, điều hành để đẩy trách nhiệm cho người khác. [8]

Xét mô hình hai tầng (two tier board model): mô hình này phổ biến ở các

nước theo hệ thống luật Châu Âu lục địa. Ở mô hình này, cấu trúc quản lý- điều

hành gồm 2 bậc là hội đồng giám sát (supervisory board) và ban quản trị

(management board). Về hội đồng giám sát, hội đồng giám sát do đại hội đồng cổ

đông bầu ra, song người lao động cũng có quyền bầu thành viên hội đồng giám

sát, số lượng thành viên hội đồng giám sát bầu ra tùy thuộc vào quy mô người lao

động của công ty. Hội đồng giám sát tham gia trực tiếp vào việc đưa ra quyết định

quan trọng trong quản trị công ty.Về ban quản trị, ban quản trị do hội đồng giám

sát có thẩm quyền bầu, bổ nhiệm. Ban quản trị thực hiện chức năng điều hành hoạt

động kinh doanh hàng ngày của công ty. [25] Như vậy, có thể thấy, đối với mô

hình quản trị hai tầng, người quản lý, điều hành công ty cổ phần được xác định là

những thành viên của hội đồng giám sát và thành viên của ban quản trị.

Tóm lại, qua phân tích, không có khái niệm chung về người quản lý, điều

hành nhưng có thể hiểu người quản lý, điều hành là những người được cơ quan

chủ sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra, những người này có thể giữ hoặc không

giữ chức danh quản lý nhưng tham gia vào ra quyết định, định hướng phát triển

công ty; tham gia việc quản lý, điều hành hoạt động hàng ngày của công ty.

6

1.1.2. Mối quan hệ giữa người quản lý, điều hành với chủ sở hữu trong công ty cổ

phần

Nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng mối quan hệ giữa người quản lý

và chủ sở hữu trong công ty là mối quan hệ đại diện. [10] Người quản lý là những

người được cơ quan sở hữu là đại hội đồng cổ đông trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra

để quản lý, điều hành hoạt động hàng ngày của công ty. Các cổ đông của công ty

trao quyền và nghĩa vụ cho người quản lý thông qua bản điều lệ của công ty, bản

điều lệ sẽ quy định rõ thẩm quyền và nhiệm vụ mà người quản lý được phép làm.

Trong mối quan hệ giữa người quản lý và chủ sở hữu luôn tồn tại nguy cơ

xung đột lợi ích. Theo quan điểm của một số học giả, mâu thuẫn lợi ích này xuất

phát từ vị thế mà người quản lý được hưởng. Người quản lý công ty, cho dù họ có

là cổ đông hay là thành viên của công ty hay không thì họ đều có rất nhiều cơ hội

để tư lợi cho riêng mình hay cho những người mà họ mong muốn. Có rất nhiều

cách thức mà người quản lý công ty có thể kiếm chắc, từ lợi từ doanh nghiệp mình

quản lý, chẳng hạn thông qua các giao dịch, hợp đồng với những người không liên

quan, hay tiết lộ những bí mật của công ty cho người khác,… [3]

Hơn nữa, giữa người quản lý và chủ sở hữu không phải lúc nào cũng cùng

chung mục tiêu theo đuổi. Ví dụ như đối với những người quản lý ưa mạo hiểm,

đặc biệt là các trường hợp giám đốc/ tổng giám đốc không phải cổ đông của công

ty, họ được thuê về để quản lý công ty; họ mong muốn mở rộng hơn nữa thị phần

của công ty, nhưng điều đó đôi khi rất rủi ro, trong khi đó, nhiều cổ đông những

người chủ sở hữu của công ty chỉ mong muốn có lợi nhuận ổn định ít rủi ro.

Tóm lại, bản chất quan hệ giữa người quản lý và chủ sở hữu là quan hệ đại

diện, người quản lý đại diện cho các chủ sở hữu điều hành hoạt đồng hàng ngày

của công ty. Vì vậy, việc quy định trách nhiệm của người quản lý trong công ty là

7

rất quan trọng đối với lợi ích của các chủ sở hữu nói riêng và sự phát triển công ty

nói chung.

1.2. Khái quát về trách nhiệm của người quản lý, điều hành công ty trong

công ty cổ phần.

1.2.1. Khái niệm trách nhiệm của người quản lý, điều hành trong công ty.

Trong tiếng Anh, có hai thuật ngữ cùng được hiểu là “trách nhiệm”:

“responsibility” và “accountability”. Hai thuật ngữ này thường được dùng thay thế

cho nhau, nhưng có một sự khác biệt cơ bản giữa hai thuật ngữ này. Trách nhiệm

với nghĩa là “responsibility” thường được hiểu là việc phải làm, như là bổn phận,

nghĩa vụ. Còn "accountability" có nghĩa rộng hơn “responsibility”, không chỉ có

nghĩa là những việc phải làm, mà còn bao gồm việc đứng ra nhận và chịu trách

nhiệm về kết quả thực hiện những việc đó.

Theo Từ điển Tiếng Việt, trách nhiệm được hiểu theo hai nghĩa như sau:

Nghĩa thứ nhất: Phần việc được giao cho hoặc coi như được giao cho, phải bảo

đảm làm tròn, được hiểu là nghĩa vụ, bổn phận; Nghĩa thứ hai: Sự ràng buộc đối

với lời nói, hành vi của họ, bảo đảm đúng đắn, nếu sai trái thì phải gánh chịu phần

hậu quả. [6]

Như vậy, khi nói đến trách nhiệm của người quản lý, điều hành trong công

ty có thể được hiểu là những bổn phận, nghĩa vụ mà người quản lý, điều hành phải

thực hiện. Cũng có thể hiểu trách nhiệm của người quản lý, điều hành là những

bổn phận phải thực hiện và việc phải chịu trách nhiệm cho những hành vi thực

hiện trái với bổn phận, nghĩa vụ đó.

Trong đề tài khóa luận lần này, tác giả khóa luận xin đề cập chủ yếu đến nội

hàm từ trách nhiệm người quản lý, điều hành là bổn phận, nghĩa vụ mà người quản

8

lý, điều hành phải thực hiện, những điều người quản lý, điều hành được phép làm,

không được làm và nên làm.

1.2.2. Những trách nhiệm cơ bản mà người quản lý, điều hành phải thực hiện khi

quản lý, điều hành công ty cổ phần.

Như đã phân tích ở trên, người quản lý, điều hành có thể xem là người đại

diện cho chủ sở hữu. Nhưng không phải lúc nào lợi ích của người sở hữu và người

quản lý, điều hành cũng giống nhau. Vì vậy, việc quy định rõ về trách nhiệm của

người quản lý, điều hành là rất cần thiết. Pháp luật của hầu hết các nước trên thế

giới đều có quy định về hai trách nhiệm cơ bản mà người quản lý công ty phải

thức hiện đó là:

- Trách nhiệm cẩn trọng (duty of care)

- Trách nhiệm trung thành (duty of loyalty)

1.2.2.1. Trách nhiệm cẩn trọng (Duty of care).

Trách nhiệm cẩn trọng của người quản lý, điều hành hay bổn phận cẩn trọng

(duty of care), hiểu một cách đơn giản là người quản lý, điều hành đã hoàn toàn

nghiêm túc khi đưa ra quyết định. Cụ thể hơn là người quản lý, điều hành đó phải

hành xử với kỹ năng, sự thận trọng, sự chú ý của một người bình thường trong

tình huống đó. [24]

Theo Pháp luật của Anh Quốc, Điều 174 Luật Công ty của Anh (2006) yêu

cầu thành viên của hội đồng quản trị phải có sự cẩn trọng (care), kỹ năng (skills)

và sự thận trọng (diligence) ở mức độ hợp lý. [17] Sự cẩn trọng, kỹ năng và sự

thận trọng này sẽ được đánh giá qua hành vi của một người bình thường với những

kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm chung chung mà một thành viên Hội đồng quản

trị phải có (ojecttive test). Tuy nhiên, còn tùy thuộc vào năng lực và trình độ của

từng thành viên Hội đồng Quản trị mà sự cẩn trọng, kỹ năng và sự thận trọng trên

9

được đánh giá cụ thể hơn (subjective test). [9] Ví dụ A là thành viên Hội đồng

Quản trị của công ty X, công ty X cần quyết định nhanh việc mua một con tàu. Giả

định A không biết gì về tàu biển thì bổn phận cẩn trọng sẽ dẫn A đến quyết định

mời một đơn vị giám định tàu biển để xác định giá trị con tàu mà Công ty X sẽ

mua. Tuy nhiên, nếu A đã có kinh nghiệm chuyên sâu trong lĩnh vực tàu biển và

việc mời một đơn vị định giá có thể khiến cho cơ hội ký kết của Công ty X vuột

mất, trách nhiệm cẩn trọng của A được nâng lên một mức cao hơn. Tức là A có

thể bị coi là vi phạm bổ phận cẩn trọng khi mời công ty giám định tàu biển.

Pháp luật Hoa Kỳ thì quy định về bổn phận cẩn trọng từ việc quy định về vi

phạm bổn phận cẩn trọng. Về cơ bản thì có hai loại vi phạm là không làm gì

(nonfesanse) và làm sai (misfesanse). [9]

Không làm gì: trong trường hợp này, người quản lý không làm gì cả hoặc gần

như không làm gì cả, để mặc doanh nghiệp. Ví dụ không tham gia các cuộc họp

Hội đồng Quản trị, không đọc các tài liệu liên quan, không xử lý các báo cáo,…

Làm sai: trong trường hợp này, người quản lý 'có hành động” và việc hành

động đó gây hại cho công ty. Cổ đông kiện họ vì đã không sử dụng các kỹ năng,

kiến thức và kinh nghiệm mà một người bình thường ở vị trí của họ phải sử

dụng. Để xem xét việc người quản lý, điều hành có hành động đúng với các kỹ

năng, kiến thức và kinh nghiệm của một người bình thường ở vị trí của họ phải sử

dụng không. Tòa án nước này áp dụng một quy tắc có tên là: “business judgment

rule” (quy tắc phán đoán trong kinh doanh). Quy tắc này phản ánh những nguyên

tắc cơ bản trong kinh doanh, xoay quanh vấn đề người quản lý, điều hành khi đưa

ra quyết định phải:

(i) Quyết định đưa ra một cách thiện chí

(ii) Quyết định đó vì lợi ích tốt nhất của công ty

(iii) Không vì lợi ích của bản thân,

10

(iv) Thông báo cho chủ thể của quyết định mà họ cho là hợp lý. [23]

Nếu người quản lý, điều hành công ty thực hiện đầy đủ các yếu tố trên thì dù

kết quả quyết định có dẫn đến kinh doanh thua lỗ thì người quản lý điều hành cũng

không phải chịu trách nhiệm. Điều này là hợp lý vì người quản lý không thể đảm

bảo tuyệt đối là các quyết định của họ luôn dẫn đến thành công. Thẩm phán sẽ

xem xét trách nhiệm của người quản lý trên khía cạnh tuân thủ các trình tự/thủ tục

hợp lý để ra quyết định chứ không xác định quyết định kinh doanh của họ trên

việc có gây thua lỗ cho công ty không.

Để hiểu rõ hơn về trách nhiệm cẩn trọng của người quản lý điều hành, chúng

ta cùng xem xét vụ kiện “Russell P.Miller v. American Telephone & Telegraph

Company (hereinaffer referred to as AT&T)” được tóm tắt và phân tích dưới đây:

“Các cổ đông của công ty Telephone & Telegraph Company nhân danh công

ty đã kiện các thành viên của hội đồng giám đốc vì đã không thu hồi nợ khoảng

1,5 triệu USD sau khi cung cấp dịch vụ cho Đảng Dân Chủ tại thời kì Đại hội

Đảng Dân Chủ. Nguyên đơn cho rằng: “không thành viên nào của ban giám đốc

có hành động nào đó để thu hồi số nợ kể từ ngày 20/08/1968 (ngày phát sinh nợ)

đến ngày (31/03/1972), do đó đã vi phạm nghĩa vụ của người quản lý điều hành là

không kiên trì mẫn cán trong quá trình điều hành công ty. Bên bị kiện thì viện dẫn

quy tắc phán đoán trong kinh doanh rằng: hành vi chậm trễ của họ là có cơ sở và

vì lợi ích của công ty. Câu hỏi đặt ra ở đây là, liệu các thành viên của hội đồng

giám đốc có vi phạm nghĩa vụ cẩn trọng. Và cuối cùng, toà án đã ra phán quyết,

việc không thu hồi khoản nợ 1,5 triệu USD đã vi phạm nghĩa vụ cẩn trọng, lý do

các cổ đông khởi kiện là hoàn toàn chính xác. Các thành viên giám đốc đã hành

động không thiện chí, không vì lợi ích của công ty”. [11]

11

1.2.2.2. Trách nhiệm trung thành (Duty of loyalty).

Trách nhiệm trung thành hay bổn phận trung thành, như tên gọi của nó, liên

quan đến các xung đột lợi ích, khi mà người quản lý đã đặt quyền lợi cá nhân của

mình lên trên quyền lợi của doanh nghiệp.

Trách nhiệm trung thành ngoài buộc người quản lý phải hành động vì lợi ích

cao nhất của công ty còn được thể hiện bởi việc người quản lý điều phải giữ bí

mật của công ty, không được tiết lộ, sự dụng bất kì thông tin nào họ được biết với

tư cách làm người quản lý điều hành để tư lợi, người quản lý điều hành phải báo

cáo mọi xung đột lợi ích có thể xảy ra. [20]

Pháp luật công ty Hoa kỳ pháp điển hóa bổn phận trung thành bằng cách đưa

ra khái niệm chung là người quản lý phải thực hiện nhiệm vụ của mình theo cái

cách mà người đó đánh giá một cách hợp lý là vì lợi ích cao nhất của công ty.

Và tựu trung lại thì bổn phận trung thành được thể hiện qua ba nhóm hành vi

sau:

(i) Không tự trục lợi (self-dealing);

(ii) Không tước đoạt cơ hội kinh doanh của công ty và

(iii) Không tham gia vào các hoạt động cạnh tranh với công ty. [9]

Không tự trục lợi:

Một cách đơn giản đó là việc người quản lý đứng ở cả hai đầu của giao

dịch. Ví dụ: X là giám đốc của Công ty A ký một hợp đồng sử dụng dịch vụ của

công ty B mà X là một cổ đông lớn. Dĩ nhiên, tự thân việc tham gia một giao dịch

tự trục lợi không tự nó vi phạm bổn phận trung thành. Bổn phận này chỉ bị vi phạm

khi X tác động đến Công ty A để doanh nghiệp này ký một hợp đồng có thể gây

tổn hại cho chính họ.

Như vậy, xác định giao dịch tư lợi dựa trên ba yếu tố:

12

(i) Thành viên và công ty là hai bên đối nghịch nhau

(ii) Thành viên gây ảnh hướng để công ty ký kết giao dịch

(iii) Thành viên có một lợi ích về tiền bạc mà có tiềm năng là trái ngược với

lợi ích tài chính của công ty. [5]

Tuy nhiên, trên thực tế người quản lý khi tham gia các giao dịch này vẫn có

thể đem đến nhiều quyền lợi hơn cho công ty. Vậy nên, theo Luật Mỹ, một giao

dịch giữa công ty và người quản lý, điều hành sẽ không bị vô hiệu nếu đáp ưng

điều kiện:

(i) Được thông qua hoặc được phê chuẩn bởi thành viên hội đồng giám đốc,

sau khi đã được giải trình đầy đủ và biểu quyết không có sự tham gia của

thành viên liên quan đến lợi ích từ giao dịch đó

(ii) Được thông qua hoặc phê chuẩn bởi các cổ đông (không có sự tham gia

số cổ đông thuộc quyền sở hữu hay được biểu quyết dưới sự kiểm soát

của người quản lý đó)

(iii) Giao dịch là “công bằng”

Ở đây, chúng ta hiểu rang các điều kiện (i) và (ii) đã bao gồm yếu tố công

bằng, loại trừ yếu tố lừa dối, lạm quyền. Đây chính là điều kiện áp dụng cho các

giao dịch giữa hai công ty mà thành viên hội đồng giám độc của công ty này cũng

là thành viên hội đồng giám đốc công ty kia. [11]

Không tước đoạt cơ hội kinh doanh của Công ty:

Nghĩa vụ này được hiểu là việc người quản lý của công ty không lợi dụng

các thông tin mà mình có trên vị trí của mình để trục lợi cho bản thân.

Để xem xét người quản lý có tước đoạt cơ hội kinh doanh của công ty, vi

phạm nghĩa vụ trung thành không, Pháp luật Mỹ có quy định quy tắc “Corporate

opportunity rule” (cơ hội kinh doanh). Theo học thuyết cơ hội kinh doanh này,

13

thì cơ hội kinh doanh đầu tiên được trao cho công ty, và nó chỉ được trao cho

người quản lý, điều hành khi công ty từ chối cơ hội kinh doanh đó. [21]

Dưới đây, chúng ta cùng xem xét vụ kiện “Broz v. Cellular Information

systems, Inc” để hiểu rõ về việc áp dụng thuyết cơ hội kinh doanh trong xem xét

trách nhiệm của người quản lý, điều hành:

Tóm tắt vụ kiện: công ty CSI (nguyên đơn) kiện Robert Broz (bị đơn) là

giám đốc công ty CSI, cũng đồng thời là chủ tịch và cổ đông duy nhất của công ty

RFBC, một đối thủ cạnh tranh của của CSI trong thị trường dịch vụ điện thoại di

động. Vào thời điểm bấy giờ, CSI đã trải qua những khó khăn về tài chính và bắt

đầu tháo bỏ những giấy phép của mình. Một bên cung cấp dịch vụ di động thứ 3

là Mackinac đang tìm cách bán giấy phép của mình và họ đã tìm đến Broz. Broz

đã nói chuyện không chính thức với các giám đốc khác trong CSI, tất cả họ nói

rằng CSI không quan tâm đến giấy phép và kể cả khi có quan tâm thì họ cũng

không có khả năng. Vào thời điểm đó thì có Pricellular, tiến hành thảo luận mua

CSI và thảo luận mua giấy phép của Mackinac. Sau đó thì Mackinac đã bán giấy

phép cho RFBC nơi Broz làm chủ tịch. Khi hoàn tất mua CSI, công ty này đã kiện

Broz vì không đưa cơ hội kinh doanh cho CSI. [16]

Tòa án kết luận: Broz không vi phạm thuyết cơ hội kinh doanh bởi lập luận,

một cơ hội kinh doanh tồn tại cho công ty khi:

(i) Công ty có khả năng tài chính để khai thác cơ hội;

(ii) Cơ hội nằm trong ngành kinh doanh của công ty;

(iii) Công ty có lãi suất hoặc kỳ vọng trong cơ hội đó.

Và người quản lý, điều hành của công ty sẽ có được cơ hội kinh doanh khi:

(i) Cơ hội đã được trình bày cho hội đồng giám đốc và công ty không có năng

lực thực hiện

14

(ii) Cơ hội không đem lại lợi ích cho công ty

(iii) Giám đốc không sử dụng sai các nguồn lực để thực hiện cơ hội kinh doanh

đó. [21]

Ở đây, Broz đã có cuộc gặp gỡ không chính thức với hội đồng giám đốc của

CSI và họ cũng đã đồng ý là CSI không có khả năng mua giấy phép đó. Vậy nên,

Broz không vi phạm quy tắc cơ hội kinh doanh.

Không tham gia vào các hoạt động cạnh tranh với công ty:

Được hiểu là người quản lý không thực hiện các hoạt động cạnh tranh trực

tiếp với Công ty X. Việc cạnh tranh cũng có thể chấp nhận khi:

(i) Hành động một cách ngay tình và việc cạnh tranh không làm tổn hại

Công ty hoặc

(ii) Thông báo về hoạt động đó cho những người không liên quan của Công

ty X và nhận được sự chấp thuận của những người này.

Tuy nhiên, nếu người quản lý, điều hành có hành động cạnh tranh trực tiếp

với công ty thì hoạt động cạnh tranh như vậy nó cũng phần nào khiến Công ty X

bị tổn hại. Ngoài ra việc những người quản lý khác không liên quan chấp thuận

cho một người quản lý với chính doanh nghiệp cũng đặt chính người quản lý đó

vào tình huống vi phạm trách nhiệm cẩn trọng của chính họ.

Vì vậy, pháp luật mỗi nước quy định khác nhau về những điều kiện người

quản lý, điều hành được phép cạnh tranh với công ty.

1.2.3. Trách nhiệm pháp lý của người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần

Như đã phân tích ở phần trên, trách nhiệm nói chung của người quản lý, điều

hành có thể hiểu theo hai cách, bao gồm: bổn phận, nghĩa vụ hoặc việc phải chịu

trách nhiệm cho những hành vi của mình.

15

Trong phần này, chúng ta sẽ tìm hiểu trách nhiệm pháp lý của người quản lý,

điều hành trong công ty, tức là tìm hiểu về việc người quản lý, điều hành phải chịu

trách nhiệm trước pháp luật về những hành động sai trái trong hoạt động quản lý,

điều hành.

Theo giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, trách nhiệm pháp lý

là hậu quả bất lợi do nhà nước áp dụng đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm pháp

luật, theo đó cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật phải chịu những chế tài được quy

định tại phần chế tài của quy phạm pháp luật

Tùy theo tính chất, mức độ hành vi vi phạm pháp luật mà cá nhân, tổ chức vi

phạm phải gánh chịu những loại trách nhiệm pháp lý khác nhau như trách nhiệm

hình sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm bồi thường dân sự, trách nhiệm kỷ

luật.

Như vậy, hiểu rộng ra, trách nhiệm pháp lý của người quản lý, điều hành

trong công ty cổ phần là hậu quả bất lợi do nhà nước áp dụng đối với người quản

lý, điều hành trong công ty nếu vi phạm pháp luật. Hơn nữa, người quản lý, điều

hành trong công ty còn phải gánh hậu quả bất lợi khi vi phạm các thỏa thuận, quy

định trong điều lệ, văn bản nội bộ của công ty.

Như vậy, các dạng trách nhiệm pháp lý mà người quản lý điều hành có thể

phải gánh chịu bao gồm:

 Trách nhiệm hình sự

 Trách nhiệm hành chính

 Trách nhiệm dân sự

 Trách nhiệm kỷ luật

16

Trách nhiệm pháp lý hình sự là loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất

do Tòa án nhân danh nhà nước áp dụng đối với những người có hành vi phạm tội

được quy định trong bộ luật hình sự.

Đối với người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần, nếu họ thực hiện các

hành vi trái quy định của pháp luật mà hành vi đó cấu thành tội phạm thì sẽ bị truy

cứu trách nhiệm hình sự.

Trách nhiệm pháp lý hành chính là loại trách nhiệm pháp lý do cơ quan

quản lý nhà nước áp dụng đối với mọi chủ thể khi họ vi phạm pháp luật hành

chính.

Người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần có những hành vi vi phạm

pháp luật, xâm phạm trật tự công cộng mà không đến mức cấu thành tội phạm thì

có thể bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật.

Trách nhiệm pháp lý dân sự là loại trách nhiệm pháp lý do tòa án áp dụng

đối với mọi chủ thể khi họ vi phạm pháp luật dân sự.

Người quản lý, điều hành thực hiện hành vi vi phạm quy định của pháp luật,

của điều lệ công ty, dẫn đến gây thiệt hại cho các chủ thể khác: bản thân công ty,

cổ đông,… thì phải thực hiện trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật

Trách nhiệm pháp lý kỷ luật là loại trách nhiệm pháp lý do thủ trường các

cơ quan, xí nghiệp, áp dụng đối với cán bộ, công nhân vien của cơ quan xí nghiệp

mình khi họ vi phạm nội quy, quy chế nội bộ cơ quan.

Người quản lý, điều hành khi vi phạm quy định pháp luật hoặc quy định nội

bộ như nội quy lao động, điều lệ của công ty thì theo quy định của công ty đó

người đó có thể phải chịu trách nhiệm kỷ luật như: hạ lương, thôi giữ chức vụ,…

17

Trong công ty cổ phần nói chung, hoạt động quản lý, điều hành của người

quản lý, điều hành mang tính chất tư nên trách nhiệm pháp lý người quản lý, điều

hành thường phải chịu là trách nhiệm dân sự và trách nhiệm kỷ luật.

1.3. Vai trò của việc xác định người quản lý, điều hành và trách nhiệm của

người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần

Thực tế, người quản lý trong công ty cổ phần có thể là người có chức danh

hoặc là những người thực hiện công việc như người quản lý hoặc là những người

chỉ đạo người quản lý thực hiện. Vậy nên, nếu chỉ xác định người quản lý trong

công ty cổ phần theo các chức danh quản lý mà bỏ quả người quản lý thực tế (de

jure directors), người quản lý bóng tối (de factor directors) thì có thể gây hậu quả

đáng tiếc trong việc xác định không đầy đủ những người phải chịu trách nhiệm khi

vi phạm pháp luật, điều lệ công ty,…

Hơn nữa, việc xác định rõ người quản lý cũng là để đảm bảo cho quyền lợi

của cổ đông, của các chủ nợ, của khách hàng,… Bởi lẽ, khi xác định rõ người quản

lý, điều hành, những người này sẽ phải tuân theo các quy định của pháp luật, điều

lệ,… mà không thể trốn tránh là đó không phải trách nhiệm của mình. Mặt khác,

khi xác định đúng người quản lý thì các cơ chế giám sát trong công ty như: đại hội

đồng cổ đông, ban kiểm soát,… mới có thể theo dõi và buộc họ phải thực hiện

đúng trách nhiệm của mình.

Việc quy định rõ trách nhiệm của người quản lý trong công tỷ cổ phần giúp

ngăn chặn các xung đột lợi ích giữa người quản lý và chủ sở hữu. Ngay từ đầu,

khi đảm đương nhiệm vụ người quản lý, điều hành, họ đã biết rõ được những trách

nhiệm của mình là gì, từ đó họ có thể cẩn trọng khi thực hiện các hành vi. Thêm

nữa, quy định rõ trách nhiệm của người quản lý, điều hành cũng là đảm bảo quyền

là lợi ích hợp pháp khác của họ.

18

Kết luận Chương 1

Chương 1 đã làm rõ khái niệm thế nào là người quản lý, điều hành và những

vấn đề trách nhiệm của người quản lý, điều hành. Người quản lý, điều hành là

những người thường xuyên đưa ra các quyết định ảnh hưởng đến công ty nên vấn

đề quy định cụ thể trách nhiệm này sẽ làm hạn chế sự lạm dụng quyền lực ảnh

hưởng đến lợi ích của công ty, của các cổ đông khác. Tuy nhiên, vấn đề quy định

về người quản lý, trách nhiệm của người quản lý có thể phụ thuộc vào thể chế

chính trị, tình hình phát triển kinh tế - xã hội của từng nước, dẫn đến sự khác biệt

giữa các hệ thống pháp luật.

19

CHƯƠNG 2.

TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH

TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014

2.1. Người quản lý, điều hành công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp 2014.

Khái niệm người quản lý được quy định tại Khoản 18, Điều 3, Luật Doanh

nghiệp 2014:

“Người quản lý doanh nghiệp là người quản lý công ty và người quản lý

doanh nghiệp tư nhân, bao gồm chủ tịch doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp

danh, chủ tịch hội đồng thành viên, thành viên hội đồng thành viên, chủ tịch công

ty, chủ tịch hội đồng quản trị, thành viên hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc tổng

giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác có thẩm quyền nhân danh công

ty ký kết giao dịch của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty.”

Như vậy, theo luật Doanh nghiệp 2014 người quản lý trong công ty cổ phần

bao gồm: thành viên hội đồng quản trị, chủ tịch hồi đồng quản trị, giám đốc/ tổng

giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác có thẩm quyền nhân danh công

ty ký kết giao dịch của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty.

Có thể thấy, nhìn vào điều khoản quy định trên, ta có thể đưa ra ba nhận định

cơ bản:

Thứ nhất, luật Doanh nghiệp 2014 đã sử dung cụm từ “người quản lý” không

chỉ để chỉ những người quản lý mà còn chỉ người điều hành các công việc hàng

ngày của công ty: giám đốc/ tổng giám đốc.

Thứ hai, một số chức danh quản lý luôn có trong các công ty cổ phần: thành

viên hội đồng quản trị, chủ tịch hội đồng quản trị, giám đốc/ tổng giám đốc; ngoài

20

những cá nhân quản lý trên, thì tùy quy mô của công ty cổ phần, công ty sẽ quy

định các cá nhân quản lý khác trong điều lệ

Thứ ba, pháp luật hiện hành của nước ta vẫn xác định người quản lý của công

ty thông qua các chức danh quản lý mà không dựa vào có hay không hành vi quản

lý điều hành diễn ra trên thực tế.

Tóm lại, qua những nhận định trên có thể thấy, pháp luật hiện hành tuy đã

quan tâm đến vấn đề cần phải xác định rõ người quản lý trong công ty nhưng vẫn

chưa chú trọng đến việc xác định người quản lý là người trực tiếp thực hiện công

việc quản lý điều hành trên thực tế.

Thành viên hội đồng quản trị

Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công

ty để quyết định thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm

quyền của đại hội đồng cổ đồng. Thành viên hội đồng quản trị do đại hội đồng cổ

đông bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm. Số lượng thành viên hội đồng quản trị từ 3 đến

11 thành viên, tùy vào quy mô công ty. Các thành viên trong hội đồng quản trị bầu

ra một người làm chủ tịch hội đồng quản trị. Chủ tịch hội đồng quản trị có thể

kiểm giám đốc/ tổng giám đốc công ty trừ trường hợp điều lệ và pháp luật quy

định khác. [1]

Giám đốc/Tổng giám đốc

Giám đốc/ Tổng giám đốc do hội đồng quản trị bầu từ một trong các thành

viên hội đồng quản trị hoặc thuê từ bên ngoài. Giám đốc/ Tổng giám đốc là người

điều hành công việc kinh doanh hang ngày của công ty. [1]

2.2. Trách nhiệm của người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần theo

Luật Doanh nghiệp 2014

21

Việc quy định trách nhiệm của người quản lý không có sự thay đổi từ luật

doanh nghiệp 2005 đến nay, luật doanh nghiệp 2014 chỉ thay cụm từ “nghĩa vụ”

thành cụm từ “trách nhiệm” còn nội dung quy định hoàn toàn không thay đổi:

“1. Thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc tổng giám đốc và người

quản lý khác có trách nhiệm sau đây:

a) Thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao theo đúng quy định của Luật này,

pháp luật có liên quan, điều lệ công ty, nghị quyết của đại hội đồng cổ đông;

b) Thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao một cách trung thưc, cẩn trọng,

tốt nhất nhằm đảm bảo lợi ích hợp pháp đối đa của công ty;

c) Trung thành với lợi ích của công ty và cổ đông; không sử dụng thông tin, bí

quyết, cơ hội kinh doanh của công ty, địa vị, chức vụ và sử dụng tài sản của

công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác;

d) Thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác cho công ty về doanh nghiệp mà họ và

người có liên quan của họ làm chủ hoặc có phần vốn góp, cổ phần chi phối;

thông báo này được nhiêm yết tại trụ sở chính và chi nhánh của công ty.

2. Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và điều lệ công ty.” [1]

Như vậy, trách nhiệm của mỗi người quản lý, điều hành trong công ty gồm:

 Trách nhiệm thực hiện đúng quy định của điều lệ, nghị quyết đại hội đồng

cổ đông, luật doanh nghiệp và luật có liên quan.

 Trách nhiệm thực hiện quyền và nghĩa vụ một cách trung thực, cẩn trọng

nhằm tối đa hóa lợi ích của công ty.

 Trách nhiệm trung thành với lợi ích của công ty và cổ đông, không lợi dụng

thông tin, bí mật, vị trí để trục lợi.

22

 Trách nhiệm công khai, thông báo về doanh nghiệp mà người quản lý và

người có liên quan có họ làm chủ hoặc có phần vốn chi phối.

2.2.1. Trách nhiệm thực hiện đúng điều lệ, nghị quyết của đại hội đồng cổ đông,

luật doanh nghiệp và luật có liên quan.

Như đã phân tích tại chương lý luận, về cơ bản, người quản lý, điều hành

trong công ty cổ phần được xem là người đại diện cho các chủ sở hữu, các cổ đông

trong công ty để trực tiếp thực hiện các công việc quản lý, điều hành hàng ngày

của công ty.

Người quản lý, điều hành được trao quyền quản lý, điều hành thông qua một

bản điều lệ của công ty. Bản điều lệ này được xem là luật nội bộ của công ty. Tại

đó, quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các thành viên hội đồng quản trị, chủ tịch

hội đồng quản trị, giám đốc/ tổng giám đốc. Chính vì vậy, người quản lý, điều

hành phải tuân thủ các nghĩa vụ quy định trong đó về các việc được phép và không

được phép thực hiện.

Người quản lý, điều hành phải tuân thủ các nghị quyết của đại hội đồng cổ

đông. Đây là cơ quan có quyền quyết định cao nhất của công ty, cơ quan chủ sở

hữu. Khi tiến hành họp đại hội đồng cổ đông, các cổ đông thống nhất thông qua

các phương hướng phát triển của công ty, thông qua quyết định quan trọng của

công ty… Người quản lý, điều hành phải căn cứ vào các nghị quyết này để điều

hành hoạt động hàng ngày của công ty.

Việc người quản lý, điều hành có trách nhiệm thực hiện đúng điều lệ, nghị

quyết cũng chính là tuân thủ luật doanh nghiệp và các luật liên quan. Bởi lẽ, các

văn bản nội bộ quy định về trách nhiệm người quản lý điều hành thường được quy

định chi tiết hơn quy định của văn bản pháp luật và tuân thủ các quy định của pháp

luật.

23

Tóm lại, một người quản lý điều hành luôn có trách nhiệm thực hiện đúng

các quyền và nghĩa vụ trong điều lệ, nghị quyết đại hội đồng cổ đông, các pháp

luật về trách nhiệm người quản lý điều hành.

2.2.2. Trách nhiệm cẩn trọng

Nghĩa vụ cẩn trọng lần đầu tiên được xuất hiện trong luật doanh nghiệp 1999.

Tại thời điểm đó, các nhà làm luật đã vay mượn quy định này của hệ thống pháp

luật Anh – Mỹ. Cho đến Luật Doanh nghiệp 2014, trách nhiệm cẩn trọng của người

quản lý vẫn tiếp tục được quy định. Điểm b, khoản 1, Điều 160, Luật Doanh

nghiệp 2014 quy định về trách nhiệm cẩn trọng của người quản lý, điều hành:

“Thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt

nhất nhăm bảo đảm lợi ích tối đa của công ty”

Trách nhiệm cẩn trọng là một trách nhiệm định tính và đến nay, sau hơn nhiều

năm thi hành luật doanh nghiệp 2014, các nhà lập pháp vẫn chưa có một văn bản

hướng dẫn chi tiết về trách nhiệm này.

2.2.3. Trách nhiệm trung thành

Trách nhiệm trung thành cũng được các nhà lập pháp Việt Nam vay mượn

cùng với trách nhiệm cẩn trọng. Điểm c, khoản 1, Điều 16, Luật Doanh nghiệp

2014 quy định về trách nhiệm trung thành của người quản lý, điều hành: “Trung

thành với lợi ích của công ty và cổ đông; không sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội

kinh doanh của công ty, địa vị, chức vụ và sử dụng tài sản của công ty để tư lợi

hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác.”

Đến nay, cũng như trách nhiệm cẩn trọng vẫn chưa có một văn bản pháp luật

nào giải thích cụ thể trách nhiệm trung thành của người quản lý điều hành trong

công ty là gì, hay các yếu tố để xác định hành vi của người quản lý, điều hành đó

có vi phạm trách nhiệm trung thành hay không.

24

Tuy nhiên, chúng ta có những điều luật rải rác trong các văn bản pháp luật

liên quan đến trách nhiệm trung thành của người quản lý, điều hành như:

Quy định về việc người quản lý, điều hành không được cạnh tranh với công

ty tại Khoản 5, Điều 159, Luật Doanh nghiệp 2014:

“Thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc hoặc tổng giám đốc nhân danh cá nhân

hoặc nhân danh người khác để thực hiện công việc dưới mọi hình thức trong phạm

vi công việc kinh doanh của công ty đều phải giải trình bản chất, nội dung của

công việc đó trước hội đồng quản trị, ban kiểm soát và chỉ được thực hiện khi

được đa số thành viên còn lại của hội đồng quản trị chấp thuận, nếu thực hiện mà

không khai báo hoặc không được sự chấp thuận của hội đồng quản trị thì tất cả

thu nhập có được từ hoạt động đó thuộc về công ty.”

Điều này chỉ ra rằng, luật doanh nghiệp 2014 đã chú ý đến một vấn đề trong

trách nhiệm trung thành của người quản lý là không cạnh tranh với công ty: người

quản lý sẽ không được thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp một công việc trong phạm

vi công việc kinh doanh của công ty nếu không được đa số thành viên không liên

quan còn lại chấp thuận.

Các quy định về giao dịch tư lợi được luật doanh nghiệp được thể hiện dưới

các điều luật về:

Công khai lợi ích liên quan:

“…1. Công ty phải tập hợp và cập nhật danh sách những người có liên quan

của công ty theo quy định tại khoản 17 Điều 4 của Luật này và các giao dịch tương

ứng của họ với công ty;

2. Thành viên Hội đồng quản trị, Kiểm soát viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc

và người quản lý khác của công ty phải kê khai các lợi ích liên quan của họ với

công ty…” [1]

25

Đối với công ty đại chúng, việc công khai thông tin còn được quy định chặt

chẽ hơn: thành viên hội đồng quản trị, thành viên ban kiểm soát, giám đốc (tổng

giám đốc) điều hành có trách nhiệm báo cáo và công bố thông tin về giao dịch

trong trường hợp sau:

 Các giao dịch giữa công ty với công ty mà các thành viên nêu trên là thành

viên sáng lập hoặc là thành viên hội đồng quản trị, giám đốc/ tổng giám đốc

điều hành trong thời gian ba năm trước

 Các giao dịch giữa công ty với công ty trong dó người liên quan của các

thành viên nêu trên là thành viên hội đồng quản trị, giám đốc/ tổng giám

đốc điều hành hoặc cổ đông lớn.

 Các giao dịch có thể mang lại lợi ích vật chất hoặc phi vật chất đối với các

thành viên nêu trên.

Hay “Hợp đồng phải được sự chấp thuận của hội đồng quản trị, đại hội đồng

cổ đông”:

“Hợp đồng, giao dịch giữa công ty với các đối tượng sau đây phải được

Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị chấp thuận:

a) Cổ đông, người đại diện ủy quyền của cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần

phổ thông của công ty và những người có liên quan của họ;

b) Thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người có liên

quan của họ;

c) Doanh nghiệp quy định tại khoản 2 Điều 159 Luật này.” [1]

Luật doanh nghiệp 2014, không có định nghĩa về giao dịch tư lợi nhưng đã

có sự quy định gián tiếp về giao dịch tư lợi. Cách quy định về công khai lợi ích

liên quan, hợp đồng phải có sự chấp thuận của hội đồng quản trị, đại hội đồng cổ

đông là việc thể hiện sự kiểm soát các giao dịch tư lợi.

26

Hay trách nhiệm của người quản lý trong việc thông báo các thông tin về giao

dịch với người liên quan, quyền không được biểu quyết các vấn đề trong giao dịch

liên quan được quy định chi tiết tại thông tư 121/2012/TT – BTC quy định về quản

trị công ty đại chúng:

 Người quản lý, điều hành có nghĩa vụ thông báo cho hội đồng quản trị các

giao dịch giữa công ty, công ty con, công ty do công ty đại chúng nắm quyền

kiểm soát với chính thành vien đó hoặc người có liên quan tới thành viên

đó.

 Người quản lý, điều hành không được biểu quyết đối với các giao dịch mà

thành viên đó hoặc người có liên quan đến thành viên đó tham gia, bao gồm

cả giao dịch vật chất hay phi chất.

Về các quy định về “không sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh

của công ty, địa vị, chức vụ và sử dụng tài sản của công ty để tư lơị hoặc phục vụ

lợi ích của tổ chức, cá nhân khác” chưa được hướng dẫn trong một văn bản chung

áp dụng cho mọi công ty, nhưng nó được quy định chi tiết hơn tại Thông tư

121/2012/TT – BTC quy định về quản trị công ty của các công ty đại chúng:

“2. Thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát, Giám đốc (Tổng

giám đốc) điều hành, cán bộ quản lý khác và những người liên quan tới các thành

viên này không được phép sử dụng những cơ hội kinh doanh có thể mang lại lợi

ích cho công ty vì mục đích cá nhân; không được sử dụng những thông tin có được

nhờ chức vụ của mình để tư lợi cá nhân hay để phục vụ lợi ích của tổ chức hoặc

cá nhân khác.

4. Công ty không được cấp các khoản vay hoặc bảo lãnh cho các thành viên Hội

đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát, Giám đốc (Tổng giám đốc) điều hành,

cán bộ quản lý khác và những người có liên quan tới thành viên nêu trên, trừ khi

Đại hội đồng cổ đông có quyết định khác.

27

6. Các thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát, Giám đốc (Tổng

giám đốc) điều hành, cán bộ quản lý khác và những người có liên quan tới các

thành viên nêu trên không được sử dụng các thông tin chưa được phép công bố

của công ty hoặc tiết lộ cho người khác để thực hiện các giao dịch có liên quan.”

[2]

Các quy định tại thông tư 121 trên đã quy định chi tiết hơn so với quy định

của Luật Doanh nghiệp 2014, tuy vậy, vẫn chưa làm rõ được các vấn đề cơ bản

như: “cơ hội kinh doanh mang lại lợi ích cho công ty” mà người quản lý, điều hành

không được sử dụng vì mục đích cá nhân là gì, có trường hợp nào người quản lý,

điều hành được phép sử dụng cơ hội này không,.. Tưởng chừng được quy định “rõ

ràng” để áp dụng cho công ty đại chúng, nhưng điều luật vẫn dường như khó có

thể đi vào thực tế.

Tóm lại, pháp luật hiện hành nói chung và luật doanh nghiệp 2014 nói riêng

đã có những quy định về trách nhiệm trung thành của người quản lý. Tuy nhiên,

việc quy định còn thiếu thống nhất, các quy định còn rải rác, một số quy định được

làm rõ trong Thông tư 121/2012/ TT – BTC sẽ chỉ áp dụng cho người quản lý của

công ty đại chúng. Việc quy định thiếu chi tiết, thiếu thống nhất, khiến cho việc

thực thi các quy định trên thực tế rất khó khăn.

2.2.4. Trách nhiệm thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác về doanh nghiệp mà họ

và người có liên quan của họ làm chủ hoặc có phần vốn góp, cổ phần chi phối.

Trách nhiệm thông báo này có thể xem là một trách nhiệm phái sinh của

trách nhiệm trung thành của người quản lý, điều hành.

Trong luật doanh nghiệp 2014, có nói tới trách nhiệm công khai các lợi ích

liên quan, điều hành tại Điều 159. Quy định này, buộc các người quản lý, điều

hành công ty phải kê khai về doanh nghiệp mà học và người có liên quan của họ

làm chủ hoặc có vốn góp. Điều này, sẽ giúp ích khi xem xét trách nhiệm của người

28

quản lý, điều hành có hay không sự vi phạm trách nhiệm vì khi đó chúng ta sẽ xem

giữa công ty và người quản lý, điều hành; có hay không sự xung đột các về lợi ích;

Tại thông tư 121/2012/TT – BTC về quản trị công ty đại chúng thì có quy

định rõ hơn về trách nhiệm thông báo kịp thời này: “Thành viên hội đồng quản

trị, thành viên ban kiểm soát, giám đốc/ tổng giám đốc điều hành và các cán bộ

quản lý khác có nghĩa vụ thông báo cho hội đồng quản trị các giao dịch giữa

công ty, công ty con, công ty do công ty đại chúng năm quyền kiểm soát với chính

thành viên đó hoặc với những người có liên quan đến thành viên đó theo quy định

của pháp luật. Việc công bộ thực hiện trong thời gạn 24 giờ trên trang thông tin

điện tử của công ty và báo cáo ủy ban chứng khoán nhà nước.”[2]

Việc thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác về doanh nghiệp mà người quản

lý, điều hành và người có liên quan của họ làm chủ hoặc có phần vốn góp, vốn cổ

phần chi phối cũng là để tạo điều kiện cho các cơ quan giám sát trong công ty: đại

hội đồng cổ đông, ban kiểm soát,… theo dõi.

2.3. Trách nhiệm pháp lý của người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần

theo luật doanh nghiệp 2014

Trong luật doanh nghiệp 2014, trách nhiệm pháp lý của người quản lý, điều

hành trong công ty cổ phẩn không được quy định tại điều riêng mà nó được quy

định tại các điều về giám đốc, tổng giám đốc và hội đồng quản trị:

 Giám đốc/ tổng giám đốc điều hành công việc kinh doanh hằng ngày

của công ty theo của pháp luật, điều lệ công ty hợp đồng lao động ký với công ty

và nghị quyết của hội đồng quản trị. Trường hợp điều hành trái với quy định này

mà gây thiệt hại thì giám đốc hoặc tổng giám đốc phải chịu trách nhiệm trước pháp

luật và bồi thường thiệt hại cho công ty.

29

 Trường hợp nghị quyết do hội đồng quản trị thông qua trái với quy định

của pháp luật hoặc của điều lệ công ty gây thiệt hại cho công ty thì các thành viên

tán thành thông qua nghị quyết đó phải cùng liên đới chịu trách nhiệm cá nhân về

nghị quyết đó và phải đền bù thiệt hại cho công ty; thành viên phản đối thông qua

được miễn trừ trách nhiệm.

Có thể nhận thấy, các quy định trên đã nói đến trách nhiệm pháp lý của người

quản lý, điều hành, tuy không nêu cụ thể bốn loại trách nhiệm nhưng có thể hiểu

được người quản lý, điều hành sẽ phải phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi tùy

vào mức độ vi phạm pháp luật, điều lệ,…

2.4. Thực tiễn thi hành của các quy định về trách nhiệm của người quản lý,

điều hành theo Luật doanh nghiệp 2014 và một số vấn đề pháp lý đặt ra.

Luật Doanh nghiệp 2014 có những quy định về trách nhiệm của người quản

lý, điều hành trong công ty cổ phần. Tuy nhiên, việc thiếu những quy định hoặc

quy định chưa cụ thể dẫn đến một số bất cập trong việc thi hành quy định trên. Tại

chương này, tác giả sẽ xem xét các giả định, các vụ việc trên thực tiễn dưới quy

định của pháp luật hiện hành để thấy rõ hơn những vấn đề pháp lý cần hoàn thiện.

Về xác định người quản lý, điều hành: chưa xác định người quản lý, điều

hành thực tế

Theo quy định của pháp luật hiện hành, Luật Doanh nghiệp xác định người

quản lý trên cơ sở xác định chức danh quản lý. Điều này, có hợp lý không khi có

những người trên thực tế không nắm giữa chức danh quản lý những có những hành

động như người quản lý, điều hành hay như có những người có chức danh quản lý

lại là người quản lý, điều hành bù nhìn; bị điều khiển, chỉ đạo thực hiện bởi những

người đứng sau.

Chúng ta cùng xem xét vụ việc về Ngân hàng ACB:

30

Ông Nguyễn Đức Kiên là cổ đông góp vốn lớn nhất vào năm thành lập ACB,

và từ năm 1994-2008, Kiên là phó chủ tịch hội đồng quản trị. Năm 2008, sau khi

nhận thâý pháp luật quy định vị trí Phó chủ tịch hội đồng quản trị không được vay

vốn ngược từ chính tổ chức tín dụng, hạn chế kinh doanh riêng; Kiên đã chủ động

rút khỏi hội đồng quản trị. Sau đó, Kiên lập ra cái gọi là “Hội đồng sáng lập”.

Trước đó, Kiên đã kịp đề nghị hội đồng quản trị ra quyết định thành lập và phê

chuẩn quy chế làm việc của hội đồng sáng lập do Kiên làm phó chủ tịch. Theo đó

hội đồng sáng lập được phép tham dự các cuộc họp của thường trực hội đồng quản

trị và ban lãnh đạo, được cho ý kiến về mọi hoạt đồng kinh doanh trong toàn ngân

hàng, được báo cáo và cung cấp tài liệu liên quan đến hoạt động kinh doanh của

ACB. Trên thực tế, các kết luận của hội đồng sáng lập sau đó đều trở thành Nghị

quyết, chính các nghị quyết này đã đưa ACB đến chỗ bất chấp luật pháp trong hoạt

động cấp tín dụng. [12]

Bình luận:

Theo điều lệ, quy chế hoạt động và các quy định của pháp luật Việt nam

không quy định những thành viên hội đồng sáng lập là người quản lý của ngân

hàng ACB. Nhưng, có thể thấy theo quy chế hoạt động của hội đồng, những hành

động của các thành viên không khác gì hành động quản lý, điều hành. Vậy khi,

chúng ta không xem họ là người quản lý, điều hành, thì quy chế nào sẽ được áp

dụng để kiểm soát những thành viên trong hội đồng sáng lập này, họ không phải

thực hiện các quy định về trách nhiệm cẩn trọng, trung thành của người quản lý.

Như vậy, họ có thể dễ dàng vi phạm các trách nhiệm này mà không chịu sự kiểm

soát.

Có thể thấy, nếu vụ việc của Nguyễn Đức Kiên, không bị xem xét trách nhiệm

hình sự, có lẽ những thành viên hội đồng sáng lập như Nguyễn Đức Kiên và những

người đứng sau chỉ đạo sẽ không bị đưa ra xử lý, bồi thường thiệt hại.

31

Suy rộng ra, nếu không quy định người quản lý còn có thể là những người

đứng sau để chi đạo các người quản lý thực hiện hoạt động của công ty nói chung

thì chúng ta đã tạo điều kiện cho một sự vi phạm pháp luật diễn ra hiển nhiên.

Như vậy, nếu xảy ra một vụ việc dân sự liên quan đến trách nhiệm của người

quản lý, điều hành, chúng ta đã dễ dàng bỏ quên trách nhiệm của người quản lý,

điều hành thực tế.

Tiếp theo, chúng ta cùng xem xét các giả định với các trường hợp như: một

giám đốc A đã hết nhiệm kỳ theo quyết định bổ nhiệm, nhưng sau đó, công ty vẫn

chưa bổ nhiệm được người thay thế để bàn giao công việc, thì giám đốc hết nhiệm

kì vấn tiếp tục thực hiện các công việc bình thường thì có được coi là người quản

lý không? Hay trường hợp giám đốc được bổ nhiệm sai quy định, vẫn thực hiện

các công việc điều hành công ty thì được coi là người quản lý không?

Các giả định trên cũng chỉ ra những bất cập của việc xác định người quản lý

theo chức danh hiện nay.

Có thể thấy, việc xác định người quản lý, điều hành dựa trên hành động thực

tế là rất cần thiết khi hoàn thiện pháp luật hiện nay.

Về quy định trách nhiệm cẩn trọng: chưa làm rõ khái niệm cẩn trọng

hay quy định các yếu tố để xác định một người quản lý, điều hành thực hiện

đúng trách nhiệm cẩn trọng.

Luật Doanh nghiệp 2014 có nhắc đến nghĩa vụ cẩn trọng của người quản lý,

điều hành. Buộc người quản lý, điều hành thực hiện các quyền và nghĩa vụ được

giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích tối đa của công

ty. Tuy nhiên, pháp luật không xác định rõ thế nào được coi là hành động cẩn trọng

trung thực. Chính vì vậy, các vụ việc hiện này xảy ra, hiếm được xử lý trên yêu

cầu: “Người quản lý, điều hành vi phạm nghĩa vụ cẩn trọng”.

Chúng ta cùng xem xét các vụ việc sau:

32

Tháng 9 năm 2009, cơ quan điều tra ra lệnh bắt ông Lương Hoài Nam, tổng

giám đốc của Jestar Pacific Airline, một liên doanh hàng không giá rẻ giữa

Vietnam Airlines và Quantas Airways. Ông Nam bị truy cứu trách nhiệm hình sự

về tội “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”, khiến công ty bị lỗ nghiêm

trọng. Phía Quantas đã khẳng định ông Nam là làm tròn trách nhiệm và việc thua

lỗ là do lý do khách quan. Sau hơn 10 tháng điều tra, thì cơ quan điều tra đã miễn

truy cứu trách nhiệm hình sự với ông Nam và ra quyết định đình chỉ vụ án. [14]

Bình luận:

Về vụ việc trên, chúng ta cùng xem xét dưới góc độ dân sự, chúng ta sẽ thấy,

những quyết định của ông Nam liên quan đến trách nhiệm cẩn trọng. Vậy tòa án

sẽ dùng cách nào để đánh giá các quyết định của ông Nam là cẩn trọng, các quyết

định của ông là vì lợi ích của cổ đông và của công ty; việc thua lỗ là do yếu tố

khách quan. Có thể thấy, với việc quy định của pháp luật hiện hành, điều luật về

trách nhiệm cẩn trọng của người quản lý, điều hành, dường như là một điều luật

“chết” khi mà các cổ đông không thể sử dụng để kiện người quản lý, điều hành và

người quản lý, điều hành thì không thể chứng minh được mình đã thực hiện trách

nhiệm cẩn trọng.

Chúng ta cùng xem xét vụ việc tiếp theo:

Năm 1994, Vietnam airlines bị một luật sư người Italya tên là Liberati kiện

đòi bồi thường thiệt hại liên quan đến một hợp đồng địa lý bán vé ký giữa Vietnam

airlines và Falcomar, một công ty Italya, tỏng giai đoạn 1991-1992. Theo đơn kiện,

Falcomar đã thuê ông Leberati làm một số việc có liên quan đến Vietnam airlines

những chưa thanh toán tiền công cho ông này.

Tháng 3 năm 2000, tòa sơ thẩm Roma ra phán quyết buộc Vietnam airlines

phải bồi thường cho ông Liberati một khoản tiền tương đương với 4,3 triệu euro.

Điều đáng lưu ý là Vietnam airlines không tham gia phiên tòa tại Italia mà không

33

có lý do rõ ràng nào. Người có trách nhiệm của Vietnam airlines cho rằng họ khó

bị tác động bởi một bản án được tuyên ở nước ngoài. Đến tháng 5 năm 2002,

Vietnam airlines nhận được thu của ông Liberati và bản sao bản án của tòa sơ thẩm

Roma, yêu cầu thanh toán 4,3 triệu euro. Vietnam airlines vẫn không hề có bất kỳ

phản ứng gì với yêu cầu này. Đến khi ủy ban đồi nợ và tịch biên pháp theo yêu

cầu của ông Liberati đã phong tỏa số tiền bán vé máy bay của Vietnam airlines tại

pháp để thi hành án, số tiền gốc và lãi lúc này là 5,2 triệu euro, thì lúc nãy Vietnam

airlines phải nộp đủ số tiền vào tài khoản phong tỏa của chủ tịch đoàn luật sư Paris

để thi hành án. [9]

Bình luận:

Chúng ta xem xét vụ việc của Vietnam airlines dưới góc độ pháp luật hiện

hành. Những người quản lý, điều hành của Vietnam airlines đã nhiều lần không

để ý đến các yêu cầu của tòa án, dẫn đến khi bị phong tỏa tài khoản và bị buộc

phải thi hành phán quyết, việc bồi thường thiệt hại của công ty đã lớn hơn rất

nhiều, do phải chịu cả tiền lãi. Và nếu ngày từ đầu, người quản lý, điều hành của

Vietnam airlines quan tâm đến những yêu cầu tham gia vụ kiện của tòa án thì số

tiền bồi thường đã có thể giảm xuống.

Vấn đề đặt ra là, liệu những người quản lý, điều hành Vietnam airlines có

phải bồi thường thiệt hại cho cổ đông của mình vì hành động phớt lờ các phán

quyết của tòa án, gây thêm thiệt hại cho công ty không. Đây có sự vi phạm nghĩa

vụ cẩn trọng mà một người quản lý, điều hành phải có hay không. Pháp luật hiện

hành vẫn chưa giải quyết được vấn đề trên.

Về quy định trách nhiệm trung thành: chưa quy định rõ về trường hợp

người quản lý không được tước đoạt cơ hội kinh doanh của công ty, không

được cạnh tranh với công ty.

34

Theo khoản 5, Điều 159, Luật Doanh nghiệp 2014 đã quy định về việc:

“Thành viên hội đồng quản trị, giám đốc hoặc tổng giám đốc nhân danh cá nhân

mình hoặc người khác để thực hiện công việc dưới mọi hình thức trong phạm vi

công việc kinh doanh của công ty đều phải giải trình, và chỉ được thực hiện khi

được đa số thành viên còn lại của hội đồng quản trị chấp thuận”.

Có thể đánh giá rằng, điều luật này nhằm nói đến hành vi không được cạnh

tranh của người quản lý, điều hành với công ty. Tuy nhiên, tác giả cho rằng điều

luật này quy định chưa rõ ràng. Có hai vấn đề cần xem xét trong điều luật này:

Thứ nhất, “Phạm vi kinh doanh” của công ty mà người quản lý, điều hành

không được thực hiện ở đây là gì? Hiện này, các công ty khi đăng ký thành lập

thường đăng ký ngành nghề rộng hơn so với thực tế các ngành nghề kinh doanh

của mình. Vì vậy, không phải mọi ngành nghề được đăng ký đều đã được công ty

tiến hành hoạt động kinh doanh. Chúng ta cần xác định phạm vi kinh doanh này

được giới hạn là các ngành nghề mà công ty đó đang thực hiện hay là phạm vi kinh

doanh được xác định bao gồm tất cả những ngành nghề kinh doanh công ty đã

đăng ký. Việc xác định hợp lý phạm vi kinh doanh sẽ đảm bảo quyền và lợi ích

của người quản lý, điều hành.

Thứ hai, về vấn đề chấp thuận, người quản lý, điều hành muốn được chấp

thuận để trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện hoạt động kinh doanh trong phạm vi

hoạt đồng cần được sự đồng ý của đa số thành viên còn lại không liên quan. Nếu

một công ty có năm thành viên trong hội đồng quản trị, có bốn người gián tiếp

cùng muốn được hoạt động kinh doanh trong phạm vi hoạt động của công ty, thì

một người là người được xác định có quyền biểu quyết cho bốn thành viên trên

thực hiện. Liệu điều này đã hợp lý chưa. Hay như, nếu tất cả 5 thành viên trong

hội đồng quản trị đều có liên quan thì ai là người quyết định cho năm thành viên

này thực hiện hoạt động. [15] Pháp luật hiện nay cũng chưa quy định rõ vấn đề

này.

35

Về việc sử dụng cơ hội kinh doanh của công ty, luật doanh nghiệp chưa làm

rõ hành động “sử dụng/ tước đoạt cơ hội kinh doanh của công ty”. Khi nào được

xác định đó là cơ hội kinh doanh của công ty. Có phải tất cả các cơ hội kinh doanh

đều là của công ty và người quản lý, điều hành không được sử dụng cơ hội đó cho

mình.

Trường hợp, một công ty đang đăng ký kinh doanh ở ngành hóa chất, bất

động sản nhưng mới thực hiện hoạt động kinh doanh trong ngành bất động sản,

hoặc trường hợp, một công ty đang đăng ký và thực hiện kinh doanh trong ngành

bất động sản. Vậy, khi người quản lý điều hành phát hiện một cơ hội kinh doanh

trong ngành hóa chất thì có được coi là sử dụng cơ hội kinh doanh của công ty

không. Bởi công ty luôn có xu hướng mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của

mình. Những vấn đề mà luật doanh nghiệp còn bỏ ngỏ, chưa quy định hướng dẫn

chi tiết, thật khó để toà án áp dụng điều luật trong thực tiễn.

36

Kết luận chương 2

Chương 2 chúng ta đã phân tích những quy định của Luật Doanh nghiệp

2014 về trách nhiệm của người quản lý điều hành trong công ty cổ phần và việc

thực tiễn áp dụng pháp luật. Luật Doanh nghiệp 2014 đã quy định về trách nhiệm

của người quản lý, điều hành. Tuy nhiên, việc quy định đó mới mang tính chất

định tính, chưa cụ thể và khó xác định trách nhiệm của người quản lý, điều hành,

chính vì vậy một số điều luật không thể áp dụng trên thực tiễn. Để hội nhập phát

triển sâu rộng, nhằm đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư, chủ sở hữu và các bên

có liên quan thì vấn đề trách nhiệm của người quản lý cần được tiếp tục hoàn thiện.

37

CHƯƠNG 3.

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM

CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN

3.1. Các yếu tố tác động đến pháp luật về trách nhiệm của người quản lý,

điều hành trong công ty cổ phần.

Các yếu tố tác động đến pháp luật về trách nhiệm của người quản lý, điều

hành cũng chính là các yếu tố tác động đến pháp luật nói chung. Các yếu tố tác

động đến pháp luật gồm 2 nhóm yếu tố chính là yếu tố chủ quan và yếu tố khách

quan. Trong đó yếu tố chủ quan là từ hoạt động lập pháp. Các yếu tố khách quan

bao gồm đường lối chính sách của đảng, kinh tế - xã hội của đất nước, các tư tưởng

học thuyết pháp lý, phong tục tập quán. Những nhân tố này đã làm cho pháp luật

Việt Nam ngày càng trở nên tiến bộ và toàn diện hơn.

 Hoạt động lập pháp

Nhận thức của các nhà lập pháp tác động rất lớn đến pháp luật về trách nhiệm

của người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần. Các nhà lập pháp có kiến

thức hiểu biết rộng, tầm nhìn bao quát, có thể xây dựng ra pháp luật hợp tình hợp

lí phục vụ đời sống xã hội, áp dụng được trên thực tiễn.

 Đường lối chính sách của Đảng

Đường lối chính sách của Đảng định ra mục tiêu và phương hướng phát triển

kinh tế - xã hội của đất nước trong một giai đoạn nhất định, định ra những phương

pháp cách thức cơ bản để có thể thực hiện những mục tiêu và phương hướng đó.

Những mục tiêu, phương hướng, phương pháp và cách thức đó sẽ được nhà nước

thể chế hóa thành pháp luật và tổ chức thực hiện trong thực tế. Vì thế đường lối

chính sách của Đảng là một trong những yếu tố có sức ảnh hưởng lớn nhất đến nội

38

dung của pháp luật. Nội dung các quy định trong tất cả các văn bản quy phạm pháp

luật, từ hiến pháp, luật cho đến các văn bản dưới luật đều phải phù hợp, không

được trái với đường lối, chính sách của Đảng. Vì vậy, nội dung pháp luật thế về

trách nhiệm của người quản lý, điều hành sẽ tuân theo chủ chương của Đảng.

 Các tư tưởng, học thuyết pháp lý

Các tư tưởng học thuyết pháp lý cũng là một yếu tố ảnh hưởng khá lớn đến

nội dung của pháp luật. Các tư tưởng học thuyết pháp lý chủ yếu cần nói đến là:

tư tưởng nhà nước pháp quyền, tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin, các học

thuyết của nước ngoài: đại diện,…

So với thế giới, hệ thống pháp luật nước ta còn khá non trẻ, chúng ta tiếp thu

các tư tưởng học thuyết của nước ngoài để xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói

chung. Như đã nêu trên, các thuật ngữ “trách nhiệm cẩn trọng” “trách nhiệm trung

thành” được chúng ta học tập từ học thuyết đại diện ở hệ thống pháp luật Anh –

Mỹ. Vậy, có thể thấy pháp luật về trách nhiệm của người quản lý, điều hành trong

công ty chịu tác động lớn của của các tư tưởng, học thuyết trên thế giới.

 Phong tục, tập quán

Phong tục tập quán được hiểu là: “những cách ứng xử hay những thói quen

ứng xử hay những quy tắc xử sự chung được hình thành một cách tự phát trong

một cộng đồng dân cư nhất định, được đảm bảo thực hiện bằng thói quen, bằng

sức thuyết phục của chúng, bằng dư luận xã hội và có thể bằng cả một số biện

pháp cưỡng chế phi Nhà nước

Những phong tục tập quán tốt đẹp, phù hợp với đạo đức cũng như ý chí của

Nhà nước được Nhà nước thừa nhận sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến nội

dung của pháp luật.

 Kinh tế

39

Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, như vậy có thể thấy kinh tế

có tác động mạnh mẽ đến pháp luật. Pháp luật quy định ra để phục vụ người dân

trong đời sống, kinh doanh,… Cùng với sự phát triển của kinh tế, pháp luật cũng

luôn phải thay đổi để phù hợp với nhu cầu của xã hội.

 Hội nhập quốc tế

Thế giới ngày nay là thế giới phẳng, sự đầu tư kinh tế giữa các quốc gia được

diễn ra thường xuyên. Việt Nam là một trong nhiều nước có nhiều công ty nước

ngoài tham gia kinh doanh, đầu tư. Các quy định về quản trị nói chung, về trách

nhiệm của người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần ở Việt Nam nói riêng

cần có sự tiến tới thông lệ chung của quốc tế. Bởi lẽ, chỉ có cách đó thì mới tạo ra

một sân chơi chung, phù hợp với các nhà đầu tư nước ngoài.

Tóm lại, chúng ta cần lưu tâm đến các yếu tố ảnh hướng đến pháp luật nói

trên để xây dựng được một chế định pháp luật về trách nhiệm người quản lý, điều

hành hợp tình, hợp lý, phù hợp với môi trường kinh tế - xã hội ở Việt nam, phù

hợp với thông lệ quốc tế.

3.2. Một số biện pháp để “các quy định pháp luật về trách nhiệm của người

quản lý, điều hành trong công ty cổ phần” thực thi có hiệu quả trên thực tế.

Để các quy định về trách nhiệm của người quản lý, điều hành trong công ty

cổ phần được thực thi một cách có hiệu quả, ngoài việc căn cứ vào các yêu tố tác

động đến pháp luật để xây dựng một chế định về trách nhiệm của người quản lý,

điều hành trong công ty cổ phần hợp tình, hợp lý; cần quan tâm các yếu tố khác

như: hệ thống pháp luật Việt nam nói chung; năng lực áp dụng pháp luật của cơ

quan tư pháp; năng lực quản trị của người quản lý, điều hành. Các yếu tố kể trên

tác động không nhỏ đến việc các quy định về trách nhiệm của người quản lý, điều

hành được thi hành hiệu quả trên thực tế.

40

Thứ nhất, phải xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ nói

chung; hệ thống pháp luật về quản trị công ty, về người quản lý điều hành nói

riêng.

Nhận thấy rằng, các quy định về trách nhiệm của người quản lý, điều hành

không tách biệt ra khỏi hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật quản trị công ty

nói riêng; Bởi lẽ, các quy định này chỉ phát huy hiệu quả khi đồng thời có những

quy định khác về quản trị công ty, ví dụ như: cần phải quy định một cơ chế giám

sát về người quản lý, điều hành để đảm bảo họ có vi phạm các trách nhiệm này

không; hay phải có một cơ chế khởi kiện rõ ràng cho các cổ đông khi thấy được

các vi phạm của người quản lý, điều hành…

Thứ hai, nâng cao năng lực áp dụng pháp luật của cơ quan tư pháp.

Để các quy định về trách nhiệm của người quản lý, điều hành được áp dụng

trên thực tế thì năng lực áp dụng của cán bộ tư pháp phải ngày càng nâng cao: phải

có trình độ chuyên môn và có kinh nghiệm. Thường thì, một điều luật không thể

quy định chi tiết để áp dụng cho mọi trường hợp diễn ra trên thực tế. Vì vậy, năng

lực phán xử của các thẩm phán phải được để cao, để có thể áp dụng mềm dẻo quy

định của pháp luật.

Hơn nữa, hiện nay, chúng ta đã coi án lệ là một nguồn pháp luật. Vậy để các

án lệ có thể trở thành một nguồn tốt, thì năng lực phán xử lại càng được quan tâm

hơn nữa. Cần thường xuyên nâng cao năng lực của cơ quan tư pháp, tổ chức các

buổi trao đổi kinh nghiệm giữa các tòa án cấp trên với cấp dưới…

Thứ ba, nâng cao nhận thức hiểu biết của chính người quản lý, điều hành

trong công ty, các cổ đông của công ty.

Chính những người quản lý, điều hành trong công ty là người trực tiếp thi

hành các quy định về trách nhiệm của người quản lý, điều hành. Họ phải là người

nhận thức rõ và hiểu rõ về các quy định. Nếu họ không có kiến thức, kinh nghiệm

41

về các vấn đề về quản trị công ty nói chung thì họ sẽ luôn vi phạm các quy định

về trách nhiệm của người quản lý, điều hành. Một công ty mà người quản lý, điều

hành không có nhận thức về quản lý, điều hành, thường xuyên vi phạm các quy

tắc quản trị nói chung, các quy định về trách nhiệm quản lý, điều hành nói riêng

thì là một công ty hoạt động không hiệu quả.

Các cổ đông của công ty là chủ sở hữu của công ty, vì vậy, họ càng phải có

hiểu viết về quản trị công ty, nhằm giám sát, theo dõi hoạt động của người quản

lý điều hành, để từ có thể ngăn chặn các hành vi vi phạm kịp thời, hoặc khởi kiện

để bảo vệ quyền và lợi ích cả mình.

3.3. Một số kiến nghị cụ thể để hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người

quản lý, điều hành trong công ty cổ phần.

Thứ nhất, cần xác định lại khái niệm người quản lý công ty

Như đã phân tích ở trên, khái niệm người quản lý trong luật Doanh nghiệp

2014 chưa bao hàm được hết các chủ thể quản lý trong công ty trên thực tế. Việc

xác định đúng người quản lý có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc xác định trách

nhiệm của người quản lý.

Chúng ta nên sửa đổi khái niệm người quản lý theo hướng sau: “người quản

lý công ty là tất cả những người nào được bổ nhiệm hoặc giữ vai trò quản lý công

ty hoặc tuy không được bổ nhiệm, chỉ định làm người quản lý công ty nhưng thực

tế hành động như người quản lý công ty hoặc những người có hành động chỉ đạo

những người quản lý của công ty thực hiện.” Việc quy định 3 tầng lưới: de jure

director (giám đốc luật định), de factor director (giám đốc thực tế), shadow director

(giám đốc giấu mặt) như các nước theo hệ thống pháp luật Anh – Mỹ, giúp cho

việc xác định chính xác người quản lý, không để lọt trường hợp nào. Ở phần sau

42

khái niệm người quản lý, có thể liệt kê theo kiểu: “bao gồm nhưng không giới hạn”

một số người quản lý theo luật định như luật Doanh nghiệp 2014 hiện nay.

Thứ hai, làm rõ những điều kiện để xác định người quản lý, điều hành không

vi phạm trách nhiệm cẩn trọng.

Như đã đề cập ở chương hai, mặc dù “trách nhiệm cẩn trọng” được đề cập từ

luật doanh nghiệp 1999 và tiếp tục được khẳng định lại trong Luật Doanh nghiệp

2014 nhưng đến nay, chúng ta vẫn chưa đưa ra khái niệm trách nhiệm cẩn trọng

của người quản lý, điều hành là gì? Hay những điều kiện nào để xác định người

quản lý, điều hành có hay không sự vi phạm. Đây là một thiếu sót rất lớn trong

việc xây dựng pháp luật.

Theo tác giả có thể định nghĩa: “trách nhiệm cẩn trọng được hiểu là việc

người quản lý, điều hành đã hoàn toàn nghiêm túc khi đưa ra quyết định. Cụ thể

hơn là người quản lý, điều hành đó phải hành xử với kỹ năng, sự thuận trọng, sự

chú ý của một người bình thường trong tình huống đó”

Như chúng ta biết, việc định nghĩa trách nhiệm cẩn trọng cũng chưa làm rõ

được nội hàm của trách nhiệm đó, việc áp dụng trách nhiệm này trong hệ thống

luật Anh – Mỹ còn được kết hợp với “business judgment rule” (nguyên tắc phán

đoán trong kinh doanh) để xác định người đó đã hành xử với kỹ năng, sự thận

trọng, sự chú ý của một người bình thường trong tình huống đó chưa.

Vậy nên, chúng ta cần xem xét học tập về việc áp dụng “business judgment

rule” của hệ thống luật Anh Mỹ, để xây dựng các điều kiện nhằm xác định việc

người quản lý điều hành có trung thực, cẩn trọng, ra quyết định một cách cẩn thận

hay không.

Thứ ba, quy định rõ về trách nhiệm trung thành, xác định rõ các vấn đề trong

trách nhiệm trung thành như “phạm vi công việc kinh doanh của công ty” “cơ hội

kinh doanh của công ty”.

43

Trách nhiệm trung thành của người quản lý, điều hành cũng được đề cập từ

luật Doanh nghiệp 1999, tuy nhiên đến nay cũng chưa có định nghĩa về trách nhiệm

trung thành của người quản lý, điều hành; mặc dù, một số vấn đề của trách nhiệm

trung thành đã được nhắc đến trong luật: công khai thông tin, không được cạnh

tranh với công ty…

Như vậy, chúng ta nên xây dựng một định nghĩa trách nhiệm trung thành của

người quản lý và nội hàm của nó gồm những vấn đề gì, sau đó lần lượt làm rõ các

vấn đề. Chúng ta có thể học tập hệ thống pháp luật Anh – Mỹ, trách nhiệm trung

thành gồm 3 thành tố cơ bản: không tự trục lợi; không cướp cơ hội kinh doanh của

công ty; không cạnh tranh với công ty.

Pháp luật hiện nay cũng cần làm rõ hơn vấn đề không cạnh tranh với công ty

và không cướp cơ hội kinh doanh của công ty. Như đã phân tích tại chương hai,

hai vấn đề cạnh tranh và cơ hội kinh doanh của công ty chưa được quy định cụ

thể. Điều này khiến pháp luật vừa khó bảo vệ các nhà đầu tư vừa không đảm bảo

quyền lợi của người quản lý, điều hành công ty.

Về vấn đề người quản lý, điều hành phải được sử chấp thuận khi thực hiện

công việc dưới mọi hình thức trong phạm vi công việc kinh doanh của công ty.

Theo tác giả nên quy định “phạm vi công việc kinh doanh của công ty” là

những công việc hiện tại công ty đang thực hiện kinh doanh, đầu tư, chứ không

phải tất cả các ngành nghề kinh doanh của công ty. Điều này là hợp lý, vì không

thể một ngành công ty không kinh doanh mà lại bắt người quản lý, điều hành xin

sự chấp thuận của số thành viên không liên quan còn lại, đôi để xin sự chấp thuận

này làm tuột mất cơ hội kinh doanh của người quản lý, điêu hành.

Về vấn đề xác định “cơ hội kinh doanh của công ty” là gì, những trường hợp

nào thì “cơ hội kinh doanh” đó được trao lại cho người quản lý, điều hành.

44

Theo tác giả, pháp luật nên quy định một cơ hội kinh doanh được coi là của

công ty khi đáp ứng các điều kiện:

(i) Công ty có khả năng tài chính để khai thác cơ hội

(ii) Cơ hội nằm trong phạm vi đăng ký kinh doanh của công ty

(iii) Công ty có lãi suất hoặc kỳ vọng trong cơ hội đó

Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện hệ thống án lệ, thống nhất các văn bản pháp luật

về trách nhiệm của người quản lý, điều hành nói riêng.

Trước đây, Việt Nam không sử dụng án lệ là một nguồn của pháp luật, tuy

nhiên để hội nhập thể giới, để phát triển sâu rộng, thì việc quy định án lệ là điều

cần thiết. Vì thực tế đã cho thấy, các văn bản pháp luật không thể quy định cụ thể

hết các trường hợp phong phú đa dạng diễn ra trong thực tế.

Lần đầu tiên, thuật ngữ “án lệ” đã được nhắc đến trong nghị quyết 48/NQ -

TW của bộ chính trị, sau đó “vấn đề án lệ” được quy định tại Luật tổ chức tòa án

năm 2014 và tiếp theo để áp dụng quy định sử dụng án lệ, thì tòa án nhân dân tối

cao đã ban hành nghị quyết 03/2015/ NQ – HĐTP về quy trình, lựa chọn,công bố

và áp dụng án lệ, bên cạnh đó là công bố 6 án lệ đồng tiên được áp dụng trong xét

xử từ ngày 01/06/2016. Như vậy, đến nay, việc sử dụng án lệ trong hoạt động xét

xử hiện này còn non trẻ; số lượng án lệ về người quản lý điều hành trong công ty

còn ít. Do đó mà thực tiễn áp dụng dựa vào án lệ gần như không có. Như vậy,

chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống án lệ nói chung và hệ thống án lệ về trách

nhiệm của người quản lý, điều hành nói riêng.

Hơn nữa, hệ thống pháp luật của nước ta về kinh doanh cũng như về trách

nhiệm của người quản lý, điều hành còn chưa được thống nhất. Chúng ta cần quy

định thống nhất từ văn bản luật, nghị định, thông tư cũng như các hướng dẫn khác.

Tránh tình trạng như đã nêu trên, chưa có các văn bản pháp luật hướng dẫn cụ thể

trách nhiệm của người quản lý, điều hành nói chung mà tại Thông tư 121/ 2012/

45

TT – BTC đã hướng dẫn một số vấn đề về trách nhiệm của người quản lý, điều

hành trong công ty đại chúng.

46

Kết luận chương 3

Nội dung chương 3 đã đề cập đến các yếu tố ảnh hướng đến pháp luật về

trách nhiệm của người quản lý, điều hành trong công ty cổ phần; chỉ ra các biện

pháp để thực hiện các quy định về trách nhiệm của người quản lý, điều hành một

cách hiệu quả. Hơn nữa, tác giả đã nêu ra một số kiến nghị pháp luật cụ thể để

hoàn thiện pháp luật: sửa đổi khái niệm về người quản lý, điều hành; quy định về

cơ hội kinh doanh của công ty, làm rõ phạm vi kinh doanh của công ty,… Điều

này không chỉ góp phần để các nhà lập pháp xem xét, nghiên cứu mà nó còn góp

phần làm nền tảng cho các nghiên cứu sau này được tiếp tục phát triển.

47

KẾT LUẬN

Trách nhiệm của người quản lý, điều hành trong công ty là chế định cơ bản

của pháp luật về quản trị công ty nhằm đảm bảo công ty hoạt động hiệu quả. Việc

xác định rõ người quản lý, điều hành; quy định hợp lý trách nhiệm của người quản

lý, điều hành là rất cần thiết trong hoạt động lập pháp. Khi có các quy định rõ về

trách nhiệm của người quản lý, điều hành, nó đảm bảo quyền và lợi ích không chỉ

của các cổ đông mà còn đảm bảo quyền và lợi ích của các bên liên quan: người

lao động, chủ nợ, khách hàng,…

Tuy nhiên, các quy định về trách nhiệm của người quản lý, điều hành trong

công ty chịu nhiều tác động của các yếu tố khách quan và chủ quan. Muốn xây

dựng được một chế định phù hợp với Việt Nam, chúng ta cần học tập, tiếp thu có

chọn lọc các chế định của các nước phát triển. Và để chế định này đi vào thực tiễn

thì ngoài quy định một chế định về trách nhiệm của người quản lý, điều hành phù

hợp chúng ta cần tiến hành đồng thời các biện pháp: xây dựng hệ thống pháp luật

quản trị công ty đồng bộ, nâng cao năng lực của cơ quan tư pháp, năng cao hiểu

biết của người quản lý, điều hành và các cổ đông.

Trong khuôn khổ hạn hẹp của khóa luận, tác giả đã cố gắng làm rõ các vấn

đề lý luận cơ bản về người quản lý, điều hành và trách nhiệm của họ. Phân tích

các quy định pháp luật hiện hành của Việt nam để chỉ ra những điểm bất cập. Từ

đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật: sửa đổi khái

niệm người quản lý, điều hành; làm rõ các yếu tố trong trách nhiệm cẩn trọng, quy

định rõ về phạm vi kinh doanh, cơ hội kinh doanh của công ty,…

48

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

TÀI LIỆU TRONG NƯỚC

Văn bản pháp luật

1. Luật Doanh nghiệp 2014

2. Thông tư 121/2012/ TT – BTC quy định về quản trị công ty đại chúng

Giáo trình và sách chuyên khảo

3. PGS. TS Bùi Xuân Hải, 2011, “Luật Doanh nghiệp – bảo vệ cổ đông pháp

luật và thực tiễn”, NXB Chính trị đại học quốc gia

4. Phạm Trí Hùng (2006), CEO và Hội đồng quản trị

5. TS. Nguyễn Ngọc Bích (2006), Công ty: vốn, quản lý và tranh chấp

6. Từ điển tiếng việt (2002), NXB Đà Nẵng

Luận văn, luận án

7. Hoàng Thị Mai (2014), “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quản trị công

ty cổ phần”, luận văn thạc sĩ, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội.

8. Nguyễn Hoàng Duy (2015), “Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo

pháp luật Việt nam”, luận văn thạc sĩ, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà

nội.

Bài viết, bài nghiên cứu

9. Counselvietnam, (2015), “Fiduciary duty”, trên trang:

www.vietnamlawgate.wordpress.com , truy cập ngày 10/3/2017.

10. GS. TS Bùi Xuân Hải, (2007), “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề trong

pháp luật công ty Việt nam”, tạp chí khoa học pháp lý.

11. Lê Đức Nghĩa, “Trách nhiệm của người quản lý công ty theo luật công ty

Việt nam”, tạp chí nghiên cứu lập pháp.

49

12. Nhóm phóng viên Petrotimes, (2013), “Hội đồng sáng lập – Chuyện chỉ có

ở ngân hàng ACB”, trên trang: www.petrotimes.vn, truy cập ngày

13/3/2017.

13. PGS.TS Bùi Xuân Hải, (2005), “Người quản lý công ty theo Luật Doanh

nghiệp 1999 – Nhìn từ góc độ luật so sánh”, tạp chí khoa học pháp lý, số 4.

14. Tiến Nguyên, “Nguyên tổng giám đốc Jetstar Pacific được miễn trách

nhiệm hình sự”, trên trang: www.dantri.com.vn, truy cập ngày 12/3/2017.

15. Văn phòng luật sư Minh Long, “Bàn về nghĩa vụ trung thành của người

quản lý trong công ty cổ phần”, trên trang: www.npklaw.com.vn, truy cập

ngày 12/3/2017.

TÀI LIỆU NƯỚC NGOÀI

16. “Broz v. Cellular information system, Inc.” case, trên trang:

www.quimbee.com, truy cập ngày 10/3/2017

17. A company law solutions company, “Directors’ duities”, trên trang:

www.companylawclub.co.uk, truy cập ngày 15/3/2017

18. David Block, (2016), “One - tier and two - tier board structure: a

comparison between the United states and Germany”, trên trang:

www.scholarship.law.upenn.edu, truy cập ngày 16/4/2017.

19. Deloitte, “Duties of director”, (2013), trên trang www.deloitte.com, truy

cập ngày 12/3/2017

20. Investopedia, “Duty of loyalty”, trên trang: www.investoedia.com, truy cập

ngày 12/3/2017

21. Legal information institute, “Corporate opportunity”, trên trang:

www.cornell.edu, truy cập ngày 24/3/2017.

50

22. Nick Gibbon, Giles Peel, Clive Garston and Bridget salaman, (2016)

“Corporate gorvernance and directors’ duties in the the UK (English and

wales): overview”, trên trang: www.uk.particcallaw.com, truy cập ngày

16/4/2017.

23. Rottenstein law group LLP, “What is business judgment rule”, trên trang:

www.rotlaw.com, truy cập ngày 12/3/2017

24. Rottenstein law group LLP, “What is the duty of care”, trên trang:

www.rotlaw.com, truy cập ngày 12/3/2017

25. Theodor Baums, “Personal liabilities of company directors in germany

law”, trên trang: www.core.ac.uk, truy cập ngày 16/3/2017.

51