ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------------------------

NGUYỄN THỊ THANH TRÀ

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP

QUYỀN VÀ THỰC TIỄN XÂY DỰNG NHÀ

NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH TRIẾT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2015-X

Hà Nội – 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------------------------

NGUYỄN THỊ THANH TRÀ

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP

QUYỀN VÀ THỰC TIỄN XÂY DỰNG NHÀ

NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH TRIẾT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2015-X

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. TRẦN THỊ ĐIỂU

Hà Nội – 2019

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết em xin chân thành

cảm ơn sự dạy dỗ nhiệt tình của các thầy cô giáo trong khoa Triết học, trường

Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong suốt

thời gian em học tập tại khoa, tại trường.

Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới TS. Trần Thị Điểu

đã giúp đỡ và hướng dẫn em rất tận tình trong quá trình thực hiện và hoàn

thiện khóa luận tốt nghiệp này.

Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn khóa luận sẽ không tránh khỏi

những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý

kiến của các thầy, các cô, cùng toàn thể các bạn để khóa luận này được hoàn

thiện hơn.

Hà Nội, ngày 1 tháng 5 năm 2019.

Sinh viên

Nguyễn Thị Thanh Trà

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

NỘI DUNG ....................................................................................................... 7

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC

PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM ............................... 7

1.1. Tư tưởng và học thuyết về nhà nước pháp quyền trong lịch sử

nhân loại ............................................................................................. 7

1.1.1. Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kì cổ đại ..................................... 7

1.1.2. Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kì trung cổ và thời kì Phục hưng ........ 12

1.1.3.Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kì cận – hiện đại .......................... 15

1.2. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền ...... 20

1.2.1. Khái niệm .............................................................................................. 20

1.2.2. Đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền ........................................ 22

1.3. Quá trình nhận thức và đặc trưng cơ bản Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ................................................. 23

1.3.1. Quá trình nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ......... 23

1.3.2. Đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam .......... 32

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .................................................................... 35

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM. ....................................................... 37

2.1. Các nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam ................................................................................. 37

2.2. Những thành tựu đã đạt được và những khó khăn trong xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. ............. 41

2.2.1. Những thành tựu đã đạt được trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa ở Việt Nam. ............................................................................... 42

2.2.2. Những khó khăn trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa ở Việt Nam ...................................................................................... 48

2.3. Một số giải pháp trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa ở Việt Nam ....................................................................... 54

KẾT LUẬN .................................................................................................... 65

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 67

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Ngay từ thời cổ đại, mầm mống của tư tưởng về Nhà nước pháp quyền

đã xuất hiện ở cả phương Đông và phương Tây với tư cách là một phương

pháp giữ gìn trật tự xã hội, chống lại việc lạm dụng quyền lực trong xã hội.

Hiện nay, mô hình Nhà nước pháp quyền được coi là một cách thức tổ chức

quyền lực nhà nước tối ưu dựa trên nguyên tắc công bằng, nhân văn và được

nhiều quốc gia lựa chọn làm mô hình hoạt động của mình. Mỗi quốc gia,

vùng lãnh thổ lại có những điều kiện cụ thể khác nhau nên việc xây dựng mô

hình Nhà nước pháp quyền ở từng nước cũng có những đặc điểm riêng biệt

khác nhau. Ở mỗi quốc gia, chế độ pháp quyền đều có sự điều chỉnh nhất định

cho phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước. Tư tưởng về Nhà nước pháp

quyền đã hình thành từ rất lâu đời từ trong lịch sử nhân loại (cả phương Đông

và phương Tây) tuy nhiên hiện nay để phân định và đánh giá rạch ròi các tư

tưởng này thì rất khó khăn với nhiều luồng ý kiến khác nhau.

Thực tiễn xây dựng và phát triển nhà nước pháp quyền trên thế giới

hiện nay đang đặt ra vấn đề cần có những khái quát chung về đặc trưng bản

chất cũng nhờ tính quy luật cho sự phát triển của mô hình nhà nước này từ

phương diện triết học. Tùy theo đặc điểm kinh tế, xã hội, truyền thống văn

hóa, lập trường giai cấp, quan điểm nhận thức với những nét đặc thù riêng đã

tạo nên các mô hình nhà nước pháp quyền khác nhau. Điều đó thể hiện tính đa

dạng muôn vẻ của các quốc gia trong quá trình tồn tại và phát triển.

Điều 2 Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) “Nhà

nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước

thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với nông

dân và tầng lớp trí thức”. Đó là cơ sở pháp lý và cũng là văn bản pháp luật

1

quan trọng nhất để xây dựng đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời cũng thể chế hoá đường lối của Đảng đề ra

trong “cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội” và “chiến lược ổn định phát triển kinh tế - xã hội”. Theo đó, Nhà nước

pháp quyền Việt Nam là Nhà nước của giai cấp công nhân với nông dân và

tầng lớp trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước pháp

quyền Việt Nam là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tôn trọng và thực

sự bảo vệ quyền con người. Do vậy việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa trở thành một nguyên tắc bắt buộc trong hoạt động của Nhà

nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam để tạo cơ sở thực thi nền dân chủ

xã hội chủ nghĩa, đảm bảo vai trò của nhân dân trong công cuộc xây dựng và

quản lí đất nước và là giải pháp cho các vấn đề về tổ chức quyền lực Nhà

nước, mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân... Xây dựng nhà nước pháp

quyền vừa tạo nên thiết chế phục vụ cho công cuộc đổi mới đất nước toàn

diện vừa tạo ra các cơ cấu tổ chức, pháp luật phù hợp, cơ chế tuân thủ nghiêm

chỉnh pháp luật để đảm bảo cho việc thực hiện đầy đủ các quyền, lợi ích của

công dân, tổ chức và xã hội; đảm bảo cho các cơ quan nhà nước trở về với xã

hội công dân, chấm dứt tình trạng Nhà nước đứng trên xã hội. Như vậy, việc

xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã

trở thành nhiệm vụ cấp thiết của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước nói

chung cũng như đổi mới hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa nói riêng.

Tuy nhiên cho đến nay, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam vẫn là một vấn đề có nội dung lớn, đòi hỏi phải có sự

nghiên cứu toàn diện cả về lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy, tôi đã mạnh dạn

chọn đề tài “Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền và thực

tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay” nhằm góp phần

vào quá trình nghiên cứu về nhà nước pháp quyền hiện nay ở nước ta. Nghiên

2

cứu vấn đề này trong thời điểm hiện nay không chỉ có ý nghĩavề mặt lý luận

mà còn có ý nghĩa lớn lao trong thực tế để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Vấn đề nhà nước nói chung và nhà nước pháp quyền nói riêng luôn

được các học giả trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm nghiên cứu. Nhà

nước pháp quyền là một vấn đề không hề mới trong nhiều nghiên cứu khoa

học bởi tính cấp thiết của nó trong việc đáp ứng nhu cầu cả về lý luận và thực

tiễn đối với các lĩnh vực quan trọng trong đời sống như luật học, chính trị

học… thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu trên thế giới nói

chung và Việt Nam nói riêng. Tôi xin phép được điểm qua một số các công

trình ở các mảng nghiên cứu sau:

Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về vấn đề lý luận cơ bản về khái

niệm nhà nước pháp quyền

Ở mảng nghiên cứu này, có thể kể đến các công trình: Tư tưởng pháp

trị của pháp gia với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của

nhóm tác giả Doãn Chính, Nguyễn Văn Trịnh; bài viết Tư tưởng đề cao pháp

luật trong quản lý xã hội theo học thuyết pháp trị 3 của Hàn Phi Tử của Đỗ

Đức Minh; Công trình triết học pháp quyền của Lão Tử của Bùi Ngọc Sơn...

Đây là những công trình đi sâu nghiên cứu những tư tưởng về nhà nước pháp

quyền ở phương Đông, thông qua một số tư tưởng của các nhà triết học Trung

Quốc thời cổ, trung đại từ đó chỉ ra ý nghĩa, giá trị của những tư tương này

trong xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Trong công trình

Triết học chính trị Montesquieu với việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt

Nam, ngoài phần giới thiệu về Montesquieu với triết học chính trị phương

Tây, tác giả Lê Tuấn Huy đặt ra vấn đề nhà nước pháp quyền, nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và học thuyết phân quyền của Montesquieu.

Trong đó, tác giả chú ý đến sự chuyển hóa nhận thức trong tiến trình đổi mới

và vấn đề phân quyền xã hội chủ nghĩa. Trong cuốn sách chuyên khảo Xây

3

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các tác giả đã dùng

một dung lượng tương đối lớn để nghiên cứu quan niệm về nhà nước pháp

quyền trong lịch sử tư tương ở cả phương Đông và phương Tây, phân tích sự

thay đổi nội hàm của khái niệm nhà nước pháp quyền trong lịch sử để từ đó

xác lập nên nội dung chủ yếu của khái niệm nhà nước pháp quyền. Công trình

Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của Trần Hậu Thành cũng phân tích

quá trình hình thành và phát triển tư tưởng nhà nước pháp quyền trong tiến

trình lịch sử nhân loại, một số quan điểm và thực tiễn tổ chức nhà nước pháp

quyền hiện nay trên thế giới, cũng như việc xây dựng nhà nước xã hội chủ

nghĩa của dân, do dân, vì dân. Bài viết Khái quát về tư pháp của mốt số nước

trên thế giới của Nguyễn Đức Minh thiên về việc điểm qua những tư tưởng

nhà nước pháp quyền ở phương Tây trong lịch sử, đặc biệt là quan niệm về

quyền tư pháp. Nhìn chung, các nghiên cứu thuộc nhóm này đã khảo cứu lịch

sử quan niệm về nhà nước pháp quyền, các tư tưởng chi phối quá trình xây

dựng nhà nước pháp quyền….Các tác giả khẳng định, trải qua quá trình phát

triển nhà nước pháp quyền với các mô hình trên thế giới đã thể hiện tính hiệu

quả và những giá trị ưu việt mà nhân loại hướng tới.

Thứ hai, các công trình nghiên cứu về thực trạng xây dựng nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Những năm qua, các văn kiện của Đảng và Nhà nước, các bài phát biểu

của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước tại các diễn đàn đã đề cập nhiều

đến vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền. Đây là định hướng cơ bản và

quan trọng nhằm hoàn thiện nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Đây là mảng nghiên cứu nhận được sự quan tâm nghiên cứu đông đảo

của giới học thuật Việt Nam. Có thể nêu tên một số công trình tiêu biểu sau:

Công trình: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam – Một số vấn đề lý

luận và thực tiễn của Nguyễn Văn Niên; sách chuyên khảo Xây dựng nhà

nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân của Nguyễn Trọng Thóc; Nguyễn

4

Thúy Vân, “Nhận thức triết học về nhà nước pháp quyền và sự vận dụng nó

trong thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt nam

hiện nay”; công trình Cải cách hành chính và công cuộc xây dựng nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Đoàn Trọng Truyến là những

công trình nêu ra nội dung lý luận và thực tiễn quan trọng trong quá trình xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Công trình Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân – Lý

luận và thực tiễn do Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Tất Viễn chủ biên khái quát

lịch sử hình thành và phát triển của học thuyết nhà nước pháp quyền; chủ

nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản

Việt Nam về nhà nước và nhà nước pháp quyền. Các tác giả nêu khái niệm,

những đặc trưng cơ bản và chức năng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa của dân, do dân, vì dân; thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và các yếu

tố quy định, chi phối quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam.

Về cơ bản, phần lớn các vấn đề về nhà nước nói chung và về nhà nước

pháp quyền nói riêng đã được các học giả, các nhà nghiên cứu đi trước nghiên

cứu rất khoa học và chi tiết, do đó, khóa luận tốt nghiệp xin được tổng hợp

các nghiên cứu của các học giả đi trước và đưa ra một số ý kiến mới cho công

cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

3. Mục đích của khóa luận và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích: Nghiên cứu một số vấn đề về nhà nước pháp quyền, từ đó

tìm ra những phương hướng để xây dựng và ngày càng hoàn thiện nhà nước

pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Với mục đích đó, nhiệm vụ chính của khóa luận là:

Thứ nhất, làm rõ một số nội dung cơ bản về nhà nước pháp quyền.

Thứ hai, khái quát về thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt

Nam hiện nay; từ đó đưa ra một số giải pháp trong xây dựng nhà nước pháp

5

quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta .

4. Phương pháp nghiên cứu

Khóa luận triển khai dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa

duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử và sử dụng các phương pháp

nhận thức cụ thể sau: Phương pháp văn bản học, phương pháp phân tích, tổng

hợp, thống nhất lịch sử và logic…

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu về một số vấn đề lý luận

cơ bản về nhà nước pháp quyền và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở

Việt Nam hiện nay.

Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận chỉ nghiên cứu trong phạm vi các vấn

đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền và thực tiễn xây dựng nhà nước

pháp quyền ở Việt Nam từ khi đổi mới (năm 1986) cho đến nay.

6. Kết cấu của khóa luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo nội dung của

6

khóa luận gồm có 2 chương, 6 tiết.

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC

PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

1.1. Tư tưởng và học thuyết về nhà nước pháp quyền trong lịch sử

nhân loại

1.1.1. Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kì cổ đại

Ngay từ thời cổ đại, mầm mống tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã

xuất hiện ở cả phương Đông và phương Tây

Tư tưởng nhà nước pháp quyền ở phương Đông thời kì cổ đại.

Trong lịch sử tư tưởng chính trị - pháp luật ở phương Đông thời kì cổ

đại đã xuất hiện tư tưởng nhà nước pháp quyền tập trung chủ yếu ở Trung

Quốc, được thể hiện trong quan điểm của một số nhà tư tưởng ở thời kì này.

Đầu tiên không thể không nhắc đến Mạnh Tử (372 –289 TCN). Mạnh

Tử cho rằng, vua vâng mệnh trời để trị dân, nhưng mệnh trời phải hợp với

lòng dân, vai trò chủ chốt là của dân và sự phụ thuộc của nhà cầm quyền vào

nhân dân. Nhà cầm quyền nếu có đạo đức sẽ cảm hóa được người dân. Giải

pháp chính trị của Mạnh Tử có thể gọi là một nhà nước nhân nghĩa. Nền

chính trị nhân nghĩa yêu cầu nhà cầm quyền phải coi trọng dân. “Nhà nước

cầm quyền phải thực thi điều nghĩa đối với người dân: phải coi dân làm trọng,

lấy dân làm gốc, làm cho dân đủ ăn đủ mặc, có đời sống vật chất đầy đủ sung

túc, giáo hóa đạo đức cho dân. Một nhà nước nhân nghĩa đã gợi mở những tư

tưởng về một nhà nước do dân và vì dân”[4,101].

Học thuyết thứ hai có thể kể đến trong hệ tự tưởng về nhà nước pháp

quyền ở phương Đông thời kì cổ đại đó là học thuyết của Mặc Tử (479-

381TCN). Tư tưởng chính trị của Mặc gia mang tính nhân bản cao, và đã tiềm

ẩn những quan điểm về bình đẳng và dân chủ. Kiêm ái có thể hiểu là vì

hạnh phúc chung của mọi người. Thuyết kiêm ái muốn hướng tới một trật tự

7

xã hội công bằng, mọi người yêu thương nhau không phân biệt đẳng cấp hay

bất cứ một lí do gì và cùng nhau xây dựng cuộc sống tốt đẹp, và xã hội đó

cũng không có những cuộc chiến tranh. Mục đích của chính sách kiêm ái là

vì người dân, có ý nghĩa xác định trách nhiệm của nhà nước trong việc phục

vụ những lợi ích cho nhân dân. Nhân dân được đặt vào trung tâm của

những chính sách của nhà nước. Có thể nói rằng đó chính là những tư tưởng

dân chủ sơ khai.

Lão Tử (nhiều học giả hiện đại cho rằng ông sống vào thế kỉ IV TCN)

nổi tiếng với thuyết vô vi về nhà nước và pháp luật. Những quan điểm của

Lão Tử về nhà nước vô vi có một mức độ trừu tượng hóa rất cao, không đơn

thuần chỉ là những tư tưởng chính trị - pháp lý đơn thuần mà đã được nâng

lên đến tầm triết học. Lý thuyết vô vi của ông thực chất là muốn đặt vấn đề

rằng nhà nước và pháp luật phải tôn trọng bản tính tự nhiên của con người, tự

do của con người. Đây là một tư tưởng có nhiều nét gần gũi với lý thuyết tự

nhiên của triết học phương Tây. Học thuyết pháp lý tự nhiên chủ trương cũng

giống như lý thuyết vô vi của Lão Tử rằng các đạo luật do nhà nước ban hành

phải phù hợp với sự tự nhiên vốn có của con người, tôn trọng tự do của con

người. Lý thuyết vô vi, cũng như lý thuyết pháp lí tự nhiên có ý chống lại sự

chuyên chế của nhà nước, nó vạch ra những giới hạn là những sự tự nhiên

của con người, tự do của con người mà nhà nước và pháp luật của nhà nước

phải tôn trọng, không được vi phạm, và chỉ có những tác động phù hợp. Chủ

trương xây dựng nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng chính trị -

pháp lý phương Tây có nội dung nhằm giới hạn sự lộng quyền của nhà nước,

sự can thiệp quá mức của quyền lực công vào khu vực tư nhân. Nhà nước

pháp quyền được chỉ ra nhiều dấu hiệu đặc trưng. Nhưng suy cho cùng, thì

những dấu hiệu đặc trưng của nhà nước pháp quyền đều hướng đến mục đích

hạn chế sự lạm quyền của nhà nước, chống lại sự can thiệp quá mức của

quyền lực nhà nước và xã hội dân sự, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của

con người. Nhà nước pháp quyền là một nhà nước thừa nhận và có nghĩa vụ

bảo đảm tự do của con người, không được can thiệp vào đời sống cá nhân của

8

con người. Tư tưởng này rất gần với tư tưởng vô vi của Lão Tử. Lý thuyết vô

vi của Lão Tử có sự gặp gỡ với học thuyết nhà nước pháp quyền. Nếu như có

tư tưởng về nhà nước pháp quyền ở phương Đông thì có lẽ đầu tiên phải kể

đến tư tưởng của Lão Tử [4, 144 -145]. Đối lập với thuyết đức trị của Khổng

Tử là thuyết pháp trị của các học giả phái pháp gia, sản sinh cùng thời với đạo

Khổng Tử do Quản Trọng, Tử Sản, Thương Ưởng, Thân Bất Hại, Thận Đáo

đề xướng. Sau này Hàn Phi Tử phát triển và hoàn chỉnh. Nội dung cơ bản và

quan điểm cai trị của phái này là: pháp trị là phương pháp duy nhất dùng để

cai trị. Vì vậy, học thuyết này không thừa nhận Nho giáo. Theo thuyết pháp

trị thì Vua trị nước phải có ba yếu tố: pháp, thế, thuật. Nghĩa là: pháp luật,

mệnh lệnh, chiếu chỉ của Vua là khuôn mẫu của thiên hạ; nhằm trừng trị, răn

đe, dân phải sợ, phải tuân thủ. Vua phải có thế, phải tạo ra uy quyền tuyệt đối

của mình. Vua phải có thuật dùng người và chế độ thưởng phạt. Một khi Vua

đã có đủ ba yếu tố pháp, thế, thuật thì vua phải chuyên quyền, độc đoán,

thẳng tay dùng nghiêm hình phạt để cai trị. Quản Trọng và Tử Sản chủ trương

dùng pháp luật làm công cụ cơ bản để cai trị đất nước và đề ra nguyên tắc

“pháp bất vị thân”[19, 25], bất cứ ai đều phải tuân thủ pháp luật. Pháp luật

ban ra phải cẩn trọng và ít thay đổi, pháp luật của Vua phải rành mạch về luật

- hình - chính. Đây là luận điểm của phái pháp trị chống lại phái đức trị là

phái chủ trương “hình phạt chỉ dành cho hạng thứ dân mà bậc trương phu

không phải chịu hình phạt”[1,17]. Đến Hàn Phi Tử (280 -233TCN) là

người phát triển tư tưởng pháp trị lên đỉnh cao, nội dung chủ yếu của tư

tưởng này là lấy pháp luật thay cho lễ làm công cụ trị nước, an dân. Theo Hàn

Phi Tử, hình phạt không trừ bậc đại phu “pháp luật không thể a dua người

sang cũng như dây mực không thể uốn theo gỗ cong (cho nên) trị tội thì

không chừa các quan lớn, thưởng công thì không bỏ sót dân thường”[4, 165].

Mô hình pháp luật Trung Quốc đã ảnh hưởng lớn đến các quốc gia phương

Đông thời cổ đại, trung đại, cận đại và cả đến ngày nay.

Tóm lại, tư tưởng về nhà nước ở phương Đông thời kì cổ đại do có các

quan điểm khác nhau, cách đánh giá xã hội khác nhau, chính vì vậy mà có

9

nhiều luận giải khác nhau. Nếu Nho gia chủ trương dùng Nhân trị hay “Đức

trị” để lấy “nhân nghĩa làm gốc” để cải tạo xã hội, để xoá bỏ tình trạng loạn

lạc; Mặc gia lấy “Kiên ái”, “Thượng đồng”, “Thượng hiền” để xoả bỏ tình

trạng đó; Đạo gia thì lại chủ trương “Vô vi nhi trị”, “thuận theo tự nhiên”,…

Còn riêng đối với pháp gia, để trị nước họ đã dùng các căn cứ, thực tiễn lịch

sử xã hội và những tiền đề lý luận của mình và có chủ trương dùng pháp luật

của Nhà nước làm công cụ quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của đời sống

xã hội và củng cố, cải tạo trật tự xã hội phong kiến Trung Hoa lúc bấy giờ. Có

thể nói, những tư tưởng này có để lại những giá trị nhất định về vấn đề xây

dựng nhà nước ở Trung Hoa lúc bấy giờ và các nước phong kiến chịu ảnh

hưởng bởi văn hóa Trung Hoa, song, phần lớn những tư tưởng trên vẫn có

những hạn chế về thời đại, về văn hóa.

Tư tưởng nhà nước pháp quyền ở phương Tây thời kì cổ đại

Arixtot (384 - 322 TCN) - nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ đại cho

rằng pháp luật cần thống trị trên tất cả. Theo ông thì yếu tố cấu thành cơ bản

của phẩm chất chính trị trong luật pháp là sự phù hợp của tính đúng đắn về

chính trị của nó với tính pháp quyền; không thể có pháp luật nếu như việc

cầm quyền không tuân theo pháp luật, chà đạp lên pháp luật, mưu toan thống

trị bằng bạo lực.

Pôlybi (Polybe, 201-120 tr. CN) là người La Mã đầu tiên nêu lên những

tư tưởng quan trọng về Nhà nước pháp quyền. Theo ông, ''không phải lý trí

mà kinh nghiệm đã dạy chúng ta rằng hình thức chính phủ hoàn hảo nhất là

hình thức được tạo nên từ ba chính thể quân chủ, quý tộc và cộng hoà". Trong

đó cơ quan chấp chính tối cao thuộc về vua, nguyên lão viện (nghị viện) thuộc

về quý tộc và các cơ quan dân biểu (hội đồng) thuộc về nhân dân (chủ nô).

Phân bố và giám sát quyền lực hợp lý, chặt chẽ là hai yếu tố cơ bản bảo đảm

một Nhà nước vững mạnh và phát triển quốc gia La Mã thành một đế quốc

hùng mạnh.

Xixêrôn (Ceceron, 106 - 43 TCN) cho rằng, Nhà nước là ''một cộng

10

đồng pháp lý''. Nhà nước là của chung nhân dân và là trật tự chung. Nhà nước

chỉ có ở nơi nào không có bạo lực và chuyên quyền. Sự cần thiết của Nhà

nước bắt nguồn từ bản chất trốn chạy sự cô đơn và khao khát đời sống cộng

đồng của con người. Công bằng là mệnh lệnh từ lý trí của con người mà Nhà

nước phải tuân theo. Pháp luật là ''lẽ phải chính trực phù hợp với bản chất có

trong tất cả mọi sinh vật''. Pháp luật là công pháp giữ vai trò điều chỉnh các

mối quan hệ xã hội. ''Phục tùng pháp luật là bắt buộc đối với tất cả mọi

người”. Xixêrôn đã xác định được pháp quyền tự nhiên, nhưng pháp quyền đó

chưa tìm thấy điểm tựa trong hiện thực.

Như vậy có thể thấy, ngay từ thời cổ đại đã có những tư tưởng đề cao

vấn đề dân chủ như một hình thức Nhà nước. Theo đó, Nhà nước chỉ là sự thể

hiện quyền lợi chung của công dân và lấy việc phục vụ con người cá nhân và

xã hội làm mục đích. ý tưởng về sự kết hợp giữa Nhà nước và pháp luật là

cách tốt nhất để khách quan hoá Nhà nước, hạn chế ý muốn chủ quan của nhà

cầm quyền. Nhà nước tuân theo pháp luật là tuân theo ý chí chung của xã hội.

Xuất hiện yêu cầu về Nhà nước pháp quyền nhằm bảo đảm sự phát triển của

kinh tế - xã hội, vừa bảo đảm sự tồn tại của bản thân Nhà nước. Bên cạnh đó,

quyền lực Nhà nước dù của vua, của quý tộc hay của dân đều thông qua các

cá nhân cầm quyền và có xu hướng bị lạm dụng. Quyền lực Nhà nước luôn

luôn cũng có xu hướng bành trướng và hạn chế quyền tự do của con người.

Để khắc phục tình trạng này cần phân biệt quyền lực Nhà nước thành các

quyền khác nhau theo chức năng, nhiệm vụ của nó. Cùng với tư tưởng quản lý

xã hội bằng pháp luật, tư tưởng phân chia, kiểm soát quyền lực trong một Nhà

nước đã bắt đầu có những mầm mống xuất hiện.

Socrates, Platon, Democritus, Arixtot, Polibius và Ciciro là những

người đã đưa ra quan niệm về sự liên hệ tương tác giữa pháp luật và quyền

lực nhà nước và về nhà nước như một tổ chức thực hiện hoạt động của mình

trên cơ sở luật. Theo họ, quyền lực nhà nước được xem là công bằng, khi nó

thừa nhận luật pháp và đồng thời bị hạn chế bởi luật pháp. Socrates, Polibius

11

và Ciciro thì đưa ra các luận điểm về vị thế quyền lực của luật như là sự kết

hợp giữa sức mạnh và luật pháp, về việc phân biệt giữa các hình thức cẩm

quyền đúng đắn và không đúng đắn. Democritus và các nhà ngụy biện thì đưa

ra các luận điểm về vai trò của luật pháp trong các loại hình nhà nước, về môì

quan hệ giữa các quyền tự nhiên và quyền do ý chí xác lập. Một số nhà ngụy

biện đưa ra tư tưởng khởi đầu vềs ự bình đẳng của các cá nhân, về quyền tự

nhiên. Đặc biệt, Polybius (200-118 TCN), một sử gia Hy Lạp cổ đại đã đưa ra

tư tường phân quyền mà sau này được Montesquieu kế thừa trong tác phẩm

“Tinh thần pháp luật“. Ciciro (106 TCN – 43 TCN), một nhà tư tưởng chính

trị nổi tiếng trong thời kỳ La Mã cổ đại, coi nhà nước là “công việc của nhân

dân”, như là sự liên kết về mặt luật và như là “trật tự luật pháp chung”.

Tư tưởng nhà nước pháp quyền trong thời kỳ Hy Lạp, La Mã cổ đại có

ảnh hưởng quan trọng đến sự hình thành và phát triển các quan niệmvề nhà

nước pháp quyền sau này.

1.1.2. Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kì trung cổ và thời kì Phục hưng

Trong suốt hơn một nghìn năm thời kỳ Trung cổ ở Tây Âu, mô hình

nhà nước thần quyền ngự trị trong đó có sự thống trị công khai, toàn bộ của

thần học và học thuyết nhà thờ. Trong bổi cảnh đó, chưa xuất hiện lý thuyết

chính trị tự do có khả năng phản ánh một cách rõ ràng sự xung đột giữa cá

nhân và nhà nước. Tuy nhiên, ngay trong lòng xã hội phong kiến, đã xuất hiện

những lực lượng mới đề cao quốc gia có chủ quyền và quyền tự trị của cá

nhân, gắn liền với sự hình thành đạo Tin lành và các tư tưởng nhân văn của

thời kỳ Phục hưng.

Trong thời kỳ Phục hưng ở Tây Âu, khi chủ nghĩa tư bản đang được

hình thành để thay thế cho chế độ phong kiến đang dần suy tàn, xuất hiện các

tư tưởng và quan niệm mới hướng đến việc xây dựng lý thuyết về nhà nước

pháp quyền, được khởi xướng bởi các nhà tư tưởng chính trị tiên phong đại

diện cho thế giới quan của giai cấp tư sản thời kỳ đó như N. B. Machiavelli ở

12

Ý, Lev Sapega ở Lithuania và Jean Bodin ở Pháp.

Trên cơ sở khái quát các kinh nghiệm hình thành và phát triển của các

nhà nước qua nhiều thế kỷ, cố gắng lý giải nguyên tắc của chính trị,

N.B.Machiavelli (1469-1527) xem xét nhà nước trong mối quan hệ giữa chính

phủ và thần dân dựa vào nỗi sợ hãi và tình yêu của các thần dân. Nhà nước trở

nên vững chắc, khi chính phủ không tạo ra lý do đưa đến sự phẫn uất và các

âm mưu lật đổ, khi nỗi sợ hãi của các thần dân không chuyển thành lòng hận

thù, và khi tình yêu không chuyển thành sự khinh bỉ. Là người đầu tiên chú ý

đến vai trò của vĩ nhân trong lịch sử, Machiavelli đề cao năng lực thực tế của

chính phủ trong việc điều khiển các thần dân. Trong tác phẩm nổi tiêng

“Quân vương” (hoàn thành năm 1513 và xuất bản năm 1532), Machiavelli đã

hệ thống hóa các tri thức về nhà nước và quản lý nhà nước, đưa ra các nguyên

tắc giành quyền lực và duy trì chế độ quân chủ và nền cộng hòa[11]. Cơ sở

cho sự bền vững của nhà nước, theo ông, là việc bảo đảm an toàn cho cá nhân

và tính bất di bất dịch của sở hữu tư nhân. Ông cho rằng, điều nguy hiểm nhất

đối với nhà cầm quyền là động chạm đến tài sản của các thần dân, bởi vì đây

là yếu tố đưa đến sự hận thù. Kế thừa tư. tưởng của Polybius về sự xuất hiện

của nhà nước và vòng tuần hoàn của các hình thức cai trị, Machiavelli ủng hộ

hình thức nhà nước hỗn hợp (giữa chế độ quân chủ, chế độ quý tộc và chế độ

dân chủ). Tuy vậy, ông vẫn coi nền chế độ quân chủ tuyệt đối là hình thức

quản lý tốt nhất. Trong các hình thức nhà nước, Machiavelli đề cao nền cộng

hòa, vì nền cộng hòa có khả năng tốt nhất trong việc thực hiện quyền tự do và

bình đẳng của công dân.Với việc tách chính trị khỏi thần học, đưa ra cách giải

thích duy lý về nhà nước và pháp quyền, và chủ trương gắn nhà nước và pháp

quyền với các lợi ích của các thần dân, quan niệm của Machiavelli về nhà

nước đã có ảnh hường đáng kể đến các quan niệm sau này.

Trong khi đó, các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền như phân chia

quyền lực hay ưu thế của luật có thể thấy rất sớm ở Quy chế của Lithuania

năm 1529, một trong những bộ luật được hệ thống hóa đầu tiên ở châu Âu

13

được Lev Sapega (1557-1633), một nhà tư tưởng chính trị Lithuania soạn

thảo. Theo Sapega, không phải con người, mà các luật thống trị trong quốc

gia. Trong quy chế này, ông chia quyền lực nhà nước thành quyền lập pháp,

quyền hành pháp và quyền tư pháp. Quyền lập pháp thuộc nghị viện, quyết

hành pháp thuộc quốc vương hay quận vương, quyền tư pháp thuộc các tòa án

trung ương và các địa phương.

Trong tác phẩm “Sáu cuốn sách về nhà nước” xuất bản năm 1586, Jean

Bodin (1530-1596) cho rằng, nhà nước là sự quản lý về mặt pháp luật được

thực hiện bởi quyền lực tối cao đối với tập hợp các hộ gia đình và đối với các

tài sản chung. Theo ông, quyền lực tự chủ của nhà nước là quyền lực thường

xuyên và tuyệt đối, không bị hạn chế bởi bất cứ điều kiện nào. Chủ thể của

quyền lực đó có thể chuyển nó cho người khác. Quyển lực tự chủ của nhà

nước có tính thống nhất, tức là nó không thể bị phân chia, không thể đồng

thời thuộc về quốc vương, tầng lớp quý tộc và dân chúng. Bodin chống lại

quan niệm về hình thức nhà nước hỗn hợp được đưa ra bởi Polybius, Ciciro,

và Machiavelli. Đưa ra ba kiểu nhà nước: dân chủ, quý tộc và quân chủ,

Bodin cho rằng hạn chế chung của nhà nước dân chủ và nhà nước quý tộc là ở

chỗ trong các kiểu nhà nước này, các phiếu bầu được kiểm, nhưng không

được cân theo trọng lượng của phẩm hạnh. Theo Bodin, chế độ quân chủ là

kiểu nhà nước tốt nhất có thể giúp khắc phục cuộc khủng hoảng về chính trị

và tôn giáo, vì chế độ đó phù hợp với bản chất của quyền lực tự chủ, vói tính

thống nhất và tính không thể bị phân chia của quyền lực đó. Ông chỉ ra ba hạn

chế có thể đối với quyền lực tuyệt đối, liên quan đến: (1) các luật do Thượng

Đế xác lập; (2) Các quy luật do giới tự nhiên xác lập và (3) các luật của con

người, được xác lập bởi quyền lực tự chủ, bởi thỏa thuận chung và bởi các

dân tộc [11] .

Theo Bodin, mục đích của nhà nước không phải là mang đến hạnh phúc

cho con người, mà là đảm bảo hòa bình bên trong, công bằng và sự hài hòa xã

hội, đặc biệt là bảo vệ khỏi kẻ thù bên ngoài. Kế thừa tư tưởng của

14

Machiavelli, Bodin cho rằng, nguyên nhân của các xung đột xã hội là do sự

phân chia tài sản không đều, do cuộc đấu tranh của các đảng phái và do sự

thiêu kiên nhẫn về tôn giáo.

1.1.3.Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kì cận – hiện đại

Trong thời kỳ cận đại thế kỷ XVII – XVIII, xuất hiện một loạt quan

niệm có tính cách mạng của các nhà Khai sáng Tây Âu về nhà nước pháp

quyển Hugo Grotius (1583-1645) và Benedictus de Spinoza (1583-1645) ở

Hà Lan, Thomas Hobbes (1588 -1679), John Locke (1632-1704) ở Anh, B.

Montesquieu (1588-1679), Denis Diderot (1713-1784), Jean Jacques

Rousseau (1712-1778) ở Pháp, Thomas Jefferson (1743-1826) ở Mỹ, v.v…

Đây là các quan niệm nền tảng cho các cuộc cách mạng tư sản ở các nước

phương Tây.

Được coi là nhà lý luận đầu tiên của trường phái về quyền tự nhiên,

xem thể chế pháp luật phong kiến là trái với bản chất con người, Hugo

Grotius (1583-1645) đòi hỏi thể chế pháp quyền mới phải đáp ứng được các

quy luật của lý tính. Theo ông, mục đích của nhà nước là duy trì sở hữu tư

nhân thông qua các quy định của pháp luật nhằm đảm bảo cho mỗi người

quyền sử dụng các tài sản của mình phù hợp với tất cả mọi người. Grotius coi

khế ước xã hội là nguồn gốc của bất kỳ hình thức nhà nước nào, vì khi xây

dựng nhà nước, nhân dân có thể lựa chọn một hình thức nhà nước nào đó,

nhưng một khi đã chọn, nhân dân không thể không tuân thủ các nhà cầm

quyền.

Mặc dù là người bảo vệ chế độ quân chủ tuyệt đối ở Anh, phát triển

quan niệm về nhà nước pháp quyền, Thomas Hobbes (1588 -1679) đã đưa ra

những luận điểm tiến bộ về sự thông trị của pháp quyền trong đời sống xã hội,

trong đó có luận điểm về bình đẳng hình thức trước pháp luật và luận điểm về

tính bất di bất dịch của các khế ước. Đặc biệt, theo Hobbes, quyền tự ảo của

con người là quyền làm tất cả những gì mà luật không cấm [11]. Với luận

điểm này, Hobbes đã đóng góp vào việc hoàn thành cơ sở lý luận cho một

15

nguyên tắc điều tiết về mặt pháp quyền các mối quan hệ xã hội.

Chia sẻ quan niệm của Hobbes, John Locke (1632-1704) đã đưa ra tư

tưởng về sự thống trị của pháp quyền, theo đó luật pháp được coi là có tính tối

thượng, một khi nó phù hợp với các quyền tự nhiên, thừa nhận các quyền tự

nhiên và các quyền tự do của cá nhân. Các quyền tự nhiên của con người

được Locke luận chứng, bao gồm quyền sống, quyền tự do và quyền sở hữu.

Chúng được coi như những nguyên tắc cơ bản. Nhiệm vụ của nhà nước là ở

chỗ bảo vệ các nguyên tắc này. Còn quyền tự do cá nhân của con người được

Locke xem là quyền tự do theo đuổi mong muốn của mình mà luật không cấm

và không phụ thuộc vào ý chí độc đoán thường xuyên nào đó của người khác.

Mặt khác, John Locke đã đặt cơ sở cho học thuyết về phân chia quyền lực. Để

loại bỏ các khả năng lạm dụng quyền lực, theo ông, quyền lực nhà nước phải

được phân chia thành một số quyền lực độc lập và việc tập trung toàn bộ

quyền lực vào tay một số người là không được phép. Một nhà nước dựa vào

sự thống trị của pháp quyền như vậy, là hoàn toàn đối lập với chế độ chuyên

chế. Theo đánh giá của Marx, John Locke là người thể hiện kinh điển các

quan niệm pháp quyền của xã hội tư bản đối lập với xã hội phong kiến [11].

Liên quan đến đóng góp cho lịch sử tư tưởng phương Tây về nhà nước

pháp quyền, phải kể đến tên tuổi của nhà triết học Hà Lan B.Spinoza (1632-

1677), một trong những người đầu tiên đưa ra luận chứng về nhà nước dân

chủ. Ông cho rằng, bị ràng buộc bởi các đạo luật, nhà nước phải đảm bảo các

quyền và tự do thực tế của con người. Theo ông, nhà nước chỉ hùng mạnh, khi

nhà nước đảm bảo việc duy trì cuộc sống và việc thỏa mãn các lợi ích của mỗi

công dân, và khi những người cầm quyền không xâm phạm đến sở hữu, an

ninh, danh dự, tự do và các lợi ích khác của các thần dân.

Các tư tưởng về nhà nước pháp quyền đạt được bước ngoặt đặc biệt ở

các nhà Khai sáng Pháp, đặc biệt là B. Montesquieu, Denis Diderot, Jean

Jacques Rousseau.

B. Montesquieu (1588-1679) có thể coi là một trong những nhà tư

16

tưởng vĩ đại nhất trong lịch sử các học thuyết về nhà nước pháp quyền. Công

lao của Montesquieu trước hết là ở chỗ đã hệ thống hóa các quan niệm mới về

phân chia quyền lực. Ông cho rằng, để ngăn ngừa nguy cơ lạm dụng quyền

lực, cần phải phân chia các quyền lực nhà nước trong mỗi quốc gia thành ba

loại: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, rằng các quyền lực

này có thể kìm chế lẫn nhau. Theo ông, chính sự phân chia quyền lực, sự

kiềm chế và đối trọng lẫn nhau của ba loại quyền lực này là điều kiện cơ bản

cho việc đảm bảo các quyền và tự do chính trị của công dân trong mối quan

hệ với bộ máy nhà nước. Sự phân chia quyền lực được ông coi là nguyên tắc

pháp quyền mà bản chất của nó là không cho phép tập trung toàn bộ quyền

lực nhà nước vào một trong ba loại quyền lực: quyền lập pháp, quyền hành

pháp và quyền tư pháp nhằm ngăn ngừa sự lạm quyền [11]. Sau này, nguyên

tắc này được xem là dâu hiệu quan trọng của một nhà nước dân chủ. Quan

niệm “tam quyền -phân lập” này của Montesquieu có ảnh hưởng rõ nét không

chỉ đến các lý thuyết sau này về chế độ nhà nước pháp quyền, mà còn đến quá

trình lập hiến và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở các nước phương

Tây cho đến ngày nay. Montesquieu đã được coi là người sáng lập của quan

niệm phân quyền, mặc dù trước ông, những tư tưởng như vậy đã được J.

Locke ở Anh, và xa hơn nữa Polybius ở La Mã cổ đại đưa ra.

Denis Diderot (1713-1784) là một nhà tư tưởng Khai sáng Pháp đưa ra

những tư tưởng quan trọng về nhà nước pháp quyền. Ông cho rằng, quyền lực

nhà nước là sản phẩm của khế ước xã hội. Để bảo đảm các quyền lợi và sự

thông nhất ý chí và sức mạnh của tất cả mọi người, các cá nhân chuyển giao

cho nhà nước phần nào sự phụ thuộc tự nhiên của mình. Như vậy, quyền lực

nhà nước phải dựa trên ý chí của nhân dân với tính cách là người có chủ

quyền. Ông viết: “Chỉ dân tộc mới là người có chủ chân chính; chi có nhân

dân mới là người lập pháp chân chính, chỉ có ý chí của nhân dân mới là nguồn

gốc của quyền lực chính trị” [11]. Theo quan điểm của Diderot, mục đích chủ

17

yêu của nhà nước là ở chỗ đảm bảo những quyền không thể tách rời và hạnh

phúc của các công dân. Tư tưởng này sau đó được I. Kant phát triển trong

quan niệm của ông về nhà nước pháp quyền.

Jean Jacques Rousseau (1712-1778) đã phát triển tư tưởng về nhà nước

pháp quyền trên co sở kế thừa những nhà tư tưởng trước đó theo cách riêng

của mình. Quan niệm của Rousseau về nhà nước pháp quyển Rousseau đã dựa

vào các quan niệm về quyền tự nhiên của con người, về quyền tự do và bình

đẳng, về nguồn gốc của sự bất bình đẳng, đặc biệt là về khế ước xã hội, về ý

chí chung và về quyền lực tối cao. Theo Rousseau, con người, tạo hóa sinh ra

có quyền tự do và bình đẳng, và những quyền đó về thực chất, trong bản chất

con người là không thể tách rời, không thể chuyển nhượng [11]. Ông coi tự

do và bình đẳng là hai mục tiêu cao nhất của các hệ thống lập pháp, hoàn toàn

phù hợp với quyền tự nhiên bẩm sinh của con người. Theo ông, với tính cách

là hiện thân của ý chí chung của toàn thể nhân dân, khế ước xã hội là một

trong những giải pháp hữu hiệu để khắc phục tình trạng bất bình đẳng trong

xã hội. Rousseau luôn đặt quyền lực nhân dân với tính cách là quyền lực tối

cao ở vị trí cao nhất, chi phối các quyền lực khác. Theo Rousseau, quyền lực

tối cao là thống nhất và không thể phân chia được. Tuy nhiên, để quyền lực

tối cao có thể được thực thi một cách hữu hiệu và thống nhất, cần được phân

định thông qua ba bộ phận hợp thành và không thể tách rời của nó. Đó là

quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Rousseau viết: “Nhà lập

pháp là kỹ sư sáng chế ra máy; ông vua chỉ là người thợ dựng máy lên và vận

hành máy… Người lập pháp quyết không phải là một vị pháp quan hay một

quốc vương” [11].

Đề cập đến khả năng lạm dụng quyền lực, Rousseau cho rằng, chính

phủ cũng thường hay có xu hướng làm trái với quyền lực tối cao và ý chí

chung của toàn thể dân chúng, không chịu cai trị theo pháp luật, thậm chỉ lấn át

cơ quan quyền lực tối cao. Theo ông, để tránh nguy cơ này, tất yếu phải có sự

phân định rạch ròi giữa các quyền lực chính trị trong một quốc gia: quyền lập

18

pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp như những quyền lực độc lập không

thể để trong tay một người, một tổ chức. Tư tưởng này của Rousseau sau này

được áp dụng trong việc xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền và được phổ

biến một cách hiệu quả trong thực tiễn chính trị ở nhiều nước phương Tây

chống lại các nguy cơ độc tài về chính trị và tham nhũng về kinh tế.

Kế thừa các quan niệm của các nhà tư tưởng Khai sáng Anh và Pháp,

Immanuel Kant (1724-1804) đã đưa ra luận chứng triết học cho lý luận về nhà

nước pháp quyền. Đặt con người, cá nhân và quyền tự do ở vị trí trung tâm

của nhà nước, Kant cho rằng, nguyên tắc quan trọng nhất của pháp quyền là ở

chỗ nhân dân có đặc quyền đòi sự tham gia của mình vào việc xác lập trật tự

pháp luật bằng quyền phúc quyết, thông qua hiến pháp thể hiện ý chí của

mình [11]. Theo ông, quyền tối thượng của nhân dân xác định quyền tự do,

quyền bình đẳng và quyền độc lập của tất cả các công dân trong quốc gia với

tính cách là sự liên kết của tập hợp các cá nhắn tuân thủ các bộ luật của pháp

quyền. Đây là luận điểm thể hiện đóng góp của Kant cho việc phát triển học

thuyết về nhà nước pháp quyền. Nhà nưóc pháp quyền, theo Kant, chỉ có ở

nơi mà bộ máy nhà nước được vận hành trên cơ sở quyền hiến định, phù hợp

với ý chí chung của nhân dân, nơi mà không có việc hạn chế các quyền công

dân như quyền tự do cá nhân, tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, tự do hoạt

động kinh tế. Theo quan niệm của Kant, công dân trong nhà nước pháp quyền

phải có khả năng buộc những người cầm quyển phải thực thi luật một cách

chính xác. Cũng như Locke và các nhà tư tưởng Khai sáng Pháp, Kant gắn cơ

cấu pháp quyển với việc phân chia quyền lực thành quyền lập pháp thuộc

nghị viện, quyền hành pháp thuộc chính phủ và quyền tư pháp được thực thi

qua xét xử của các hội thẩm được nhân dân bầu ra. Theo Kant, cách thực tổ

chức quyền lực như vậy cần bảo đảm không chỉ sự phân chia quyền lực, mà

còn sự cân bằng quyền lực.

Có thể nói, quan niệm của I. Kant về nhà nước pháp quyền có ảnh

hưởng đáng kể đến sự phất triển của tư tưởng chính trị – pháp quyền và thực

19

tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở nhiều nước phương Tây.

Ở George VVilhelm Friedrich Hegel (1770-1831) có thể thấy rõ ảnh

hưởng của quan niệm Kant về nhà nước pháp quyền. Hegel coi nhà nước

cũng chính là pháp quyền, bởi vì nhà nước thừa nhận “tất cả các quyển còn lại

của cá nhân, gia đình và xã hội” [12,185]. Đề cao nhà nước thành cái tuyệt

đối vượt lên trên cá nhân và xã hội, Hegel cho rằng, nhà nước đó có trước xã

hội công dẫn, là tổ chức hoàn thiện nhất của đời sống xã hội, trong đó tất cả

đều được xây dựng trên cơ sở luật. Coi đây là hạn chế chủ yếu của quan niệm

của Hegel về nhà nước, Karl Marx cho rằng, xã hội là có trước nhà nước, rằng

nhà nước chi là sản phẩm và kết quả của sự phát triển xã hội. Mặt tích cực của

quan niệm của Hegel về nhà nước là ở chỗ chống lại tình trạng tùy tiện vô

luật trong việc sử dụng bạo lực dưới mọi hình thức từ phía các cá nhân, các

phe phái chính trị và quyền lực nhà nước, và ở chỗ cho rằng, chức năng trấn

áp và bạo lực của nhà nước là không phải là quan trọng. Mô hình hiện thực về

nhà nước pháp quyền được áp dụng phổ biến ở nhiều quốc gia phương Tây

hiện nay là thành quả vĩ đại, là sự kết tinh các giá trị mang tính phổ quát mà

nhân loại đã chắt lọc được từ thực tiễn lịch sử xây dựng các thể chế nhà nước

qua hàng ngàn năm và từ các quan niệm về nhà nước pháp quyền trong lịch

sử tư tưởng phương Tây kể từ thời kỳ cổ đại đến nay.

1.2. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền

1.2.1. Khái niệm

Trong những thập kỷ gần đây, nhà nước pháp quyền là một trong các

chủ đề thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của các ngành khoa học khác

nhau như triết học, chính trị học, luật học, sử học, xã hội học, hành chính

công, v.v.. Đối với nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, nhà nước pháp

quyền được xem vừa là một cứu cánh, vừa là một mô hình nhà nước hữu hiệu

nhất, dân chủ nhất và phù hợp nhất trong thời đại hiện nay như một phương

tiện có khả năng khắc phục hoặc hạn chế tình trạng bất bình đẳng xã hội, bất

công xã hội, tình trạng tham nhũng lãng phí, tình trạng lạm quyền lực của các

20

cơ quan quyền lực nhà nước như quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền

tư pháp, đặc biệt tình trạng chính phủ lạm quyền hoặc cướp quyền để mưu đồ

cho lợi ích nhóm và lợi ích cá nhân. Ở các quốc gia này, xây dựng nhà nước

pháp quyền với tính cách là một nhà nước đảm bảo tốt nhất các quyền và tự

do con người, là một nhiệm vụ khó khăn, một sứ mạng lớn lao hướng đến một

xã hội phồn vinh, dân chủ, công bằng và văn minh, thể hiện tính nhân văn cao

cả của nhân loại trong thế giới hội nhập toàn cầu.

Khái niệm “nhà nước pháp quyền” trong tiếng Việt, “Rule of law”,

“state of law” trong tiếng Anh lần đầu tiên được đưa ra vào năm 1797 bởi nhà

triết học Đức Immanuel Kant trong tác phẩm “Siêu hình học đạo đức”, và sau

đó được sử dụng và phổ biến bởi Robert von Mohl trong cuốn sách “Khoa học

cảnh sát Đức theo các nguyên lý của nhà nước pháp quyền xuất bản năm 1832.

Vậy nhà nước pháp quyền là gì? Có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng

các quan điểm đó đều thừa nhận tư tưởng cơ bản sau đây: Nhà nước pháp

quyền là nhà nước 1) tuyệt đối tuân thủ vào tính tối thượng của pháp luật

nhân bản và công bằng, thể hiện ý chí chung, khế ước xã hội và chủ quyền tối

cao của toàn thể nhân dân, 2) thực thi các hoạt động của mình trong giới hạn

được xác định bởi pháp luật và có trách nhiệm bảo vệ các quyền con người

cho các công dân của mình. Tính tối thượng của pháp luật được hiểu là:

không một tổ chức xã hội hay cá nhân nào được đứng trên pháp luật, hay

ngoài pháp luật, được miễn trừ việc tuân thủ và thực thi luật. Mọi công dân

đều bình đẳng trước pháp luật. Nguyên tắc cơ bản của nhà nước pháp quyền

là 1) có sự phân chia rạch ròi, kiểm soát quyền lực giữa quyền lập pháp, hành

pháp và tư pháp; 2) Có quyền tư pháp hoàn toàn độc lập.

Tuy nhiên, quan niệm về nhà nước pháp quyền đã trải qua một quá

trình hình thành và phát triển lâu dài trong suốt lịch sử tư tưởng nhân loại từ

các tư tưởng ban đầu từ thời cổ đại.

Nhà nước pháp quyền là nhà nước tạo ra được các điều kiện đảm bảo

đầy đủ nhất các quyền và tự do của con người, là hình thức tối ưu của mối

21

quan hệ tương tác giữa cá nhân, nhà nước và xã hội. Với tính cách là cơ sở

cho các mô hình nhà nước pháp quyền tiên tiến trên thế giới, các quan niệm

hiện nay về nhà nước pháp quyền chủ yếu dựa vào tư tưởng của C.

Montesquieu (1689-1755) và I. Kant (1724-1804), đồng thời ở mức độ nào đó

còn dựa vào tư tưởng của các triết gia khác thời kỳ cận đại như Hugo Grotius

(1583-1645), Baruch Spinoza (1632-1677), John Locke (1632-1704), Denis

Didro (1713-1784), Ịean Ịacques Rousseau (1712- 1778), v.v… Cho đến nay

kể hơn hai thế kỷ qua, những quan niệm ấy đã biên thành lý luận chặt chẽ về

nhà nước pháp quyền và được hiện thực hóa ở hàng loạt nước trên thế giới.

1.2.2. Đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền

Qua nghiên cứu các quan niệm của các nhà triết học, có thể thấy rằng

tư tưởng về nhà nước pháp quyền là một trong những giá trị chung có tính

chất phổ biến của nhân loại. Những giá trị phổ biến này thể hiện những đặc

trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền và đánh dấu sự phát triển không

ngừng trong nhận thức và thực tiễn tổ chức nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu

vận động khách quan của xã hội. Bằng việc tổng kết lịch sử về nội dung phạm

trù khái niệm nhà nước pháp quyền, có thể chỉ ra một số đặc trưng cơ bản của

nhà nước pháp quyền như sau. Thứ nhất, nhân dân là chủ thể quyền lực trong

nhà nước pháp quyền. Thứ hai, nhà nước pháp quyền bảo vệ những quyền tự

nhiên, căn bản của con người như quyền được sống, quyền tự do, bình đẳng,

quyền mưu cầu hạnh phúc. Thứ ba, pháp luật giữ vị trí tối thượng trong đời

sống nhà nước và xã hội. Nhà nước không những hành động theo pháp luật

mà còn phải đặt dưới pháp luật. Sự hạn chế quyền lực của nhà nước có thể

được đảm bảo theo cách thức tổ chức quyền lực nhà nước thành các cơ quan

có năng lưc kiểm soát, hạn chế lẫn nhau. Thứ tư, tổ chức nhà nước theo

nguyên tắc phân chia quyền lực, dùng quyền lực để kiểm tra và giám sát

quyền lực. Thứ năm, nhà nước pháp quyền kết hợp với xã hội dân sự thành

22

một chỉnh thể thống nhất.

1.3. Quá trình nhận thức và đặc trưng cơ bản Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

1.3.1. Quá trình nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Trong chủ nghĩa xã hội hiện thực trước đây, chưa có nhà nước nào thể

hiện đầy đủ các tiêu chuẩn của một nhà nước pháp quyền. Một trong những

nguyên nhân của tình trạng đó chính là do nhận thức không đúng về nhà nước

pháp quyền, coi nhà nước pháp quyền là nhà nước của giai cấp tư sản mà

không thấy được tính hợp lý và tiến bộ của hệ thống cơ chế, thiết chế tổ chức

và vận hành bộ máy của nó. Chúng ta có những sự rút kinh nghiệm, kế thừa

và phát huy từ quan niệm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiêu biểu là

tư tưởng ở Liên Xô và Trung Quốc.

Cũng như nhiều nước xã hội chủ nghĩa khác, việc nhận thức về nhà

nước pháp quyền ở Liên Xô cũng bắt đầu khá muộn. Cho tới những năm 70 –

80 của thế kỷ XX, “sự hiểu biết có tính lý luận về quan hệ giữa chủ nghĩa xã

hội và quan niệm về nhà nước pháp quyền còn là một vấn đề mới của nền

khoa học” [28, 10]. Những thông tin đầu tiên về quan điểm xây dựng nhà

nước pháp quyền được Đảng Cộng sản Liên Xô công bố tại Hội nghị toàn liên

bang lần thứ XIX (họp từ 28-6 đến 1-7-1988), trong đó nêu rõ quan niệm nhà

nước pháp quyền gắn bó chặt chẽ với việc mở rộng tự do dân chủ. Tuy

nhiên,việc xây dựng nhà nước pháp quyền để thay thế cho chế độ quan liêu

mệnh lệnh được triển khai ở Liên Xô một cách nóng vội, chủ quan, duy ý chí

đã đẩy xã hội vào cuộc khủng hoảng trầm trọng không thể cứu vãn được vào

cuối những năm 80 – đầu những năm 90 của thế kỷ trước. Thất bại của Liên

Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu cho thấy tầm quan trọng to lớn

của việc nghiên cứu, vận dụng những yếu tố hợp lý và tiến bộ của nhà nước

pháp quyền vào quá trình xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Qua việc nhân thức một cách nghiêm túc nguyên nhân sụp đổ của Liên

Xô và các nước Đông Âu, các nước còn lại trong hệ thống xã hội chủ nghĩa

23

trước đây đã tập trung nghiên cứu về vấn đề nhà nước và cải cách bộ máy nhà

nước theo hướng pháp quyền. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa đặc sắc Trung Quốc lần đầu tiên chính thức được đặt ra tại Đại hội XV

của Đảng Cộng sản Trung Quốc vào năm 1997, trong đó nêu rõ: “Quản lý đất

nước bằng pháp luật, chính là quảng đại quần chúng nhân dân dưới sự lãnh

đạo của Đảng, dựa vào các quy định của Hiến pháp và pháp luật, thông qua

các con đường và hình thức thực hiện quản lý các công việc của Nhà nước,

quản lý sự nghiệp kinh tế văn hóa, quản lý công việc xã hội, bảo đảm các

công tác của Nhà nước đều được tiến hành theo pháp luật, từng bước thực

hiện chế độ hóa, pháp luật hóa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, làm cho chế độ

và pháp luật không vì sự thay đổi người lãnh đạo mà thay đổi theo, không vì

sự thay đổi quan điểm và sự chú ý của người lãnh đạo mà thay đổi theo”[24,

24]. Quan điểm về một nhà nước pháp trị “dĩ pháp trị quốc” truyền thống đã

tồn tại lâu đời trong xã hội Trung Quốc cũng đang dần được thay thế bởi quan

điểm về nhà nước pháp quyền “y pháp trị quốc” hiện đại với các đặc trưng cơ

bản là: pháp luật là tối thượng; hoạt động lập pháp phải đảm bảo tính dân chủ;

hệ thống pháp luật phải hoàn thiện; tư pháp phải đảm bảo công bằng; quyền

lực nhà nước phải được chế ước; pháp luật phải giải quyết hợp lý mối quan hệ

giữa quyền lợi và nghĩa vụ [24, 41-51]. Tuy nhiên, xây dựng nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa là một quá trình hoàn thiện lâu dài, đòi hỏi các nhà

lãnh đạo Đảng, nhà nước cũng như các nhà nghiên cứu Trung Quốc phải vừa

tìm hiểu, vừa tổng kết và rút kinh nghiệm.

Ở Việt Nam, có hình thành rất nhiều những quan niệm về nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhưng trong khóa luận, tôi xin phép chỉ nêu ra

hai quan niệm tiêu biểu nhất

Thứ nhất, quan niệm của Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa. Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng đưa ra một số quan niệm về

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –

Lênin. Tuy nhiên, các hướng tiếp cận với khái niệm nhà nước pháp quyền xã

24

hội chủ nghĩa hết sức đa dạng, phức tạp với nhiều các cách tiếp cận khác

nhau, do đó chưa đạt tới sự thống nhất về khái niệm “Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa”. Có rất ít các công trình nghiên cứu đưa ra được một khái

niệm cụ thể về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chủ yếu đưa ra các

đặc trưng cơ bản thuộc nội hàm khái niệm này. Có quan điểm cho rằng: nhà

nước pháp quyền là một hình thức nhà nước vì nó có cách tổ chức đối nghịch

với các nhà nước độc tài, chuyên chế; đối nghịch với hình thức nhà nước

được tổ chức theo phương pháp nhân trị và cũng đối nghịch với hình thức nhà

nước được tổ chức theo pháp trị [4, 32-33]. Nhà nước pháp quyền nói chung

và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng là hình thức tổ chức nhà

nước có nhiều khả năng nhất trong việc chế ước quyền lực nhà nước [2, 121]

Ngoài chịu sự ảnh hưởng của các quan niệm về nhà nước pháp quyền

trong lịch sử tư tưởng nhân loại, quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa ở nước ta còn chịu ảnh hưởng khá sâu sắc bởi tư tưởng của các

nhà chính trị học Việt Nam như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Hồ Quý Ly,

Nguyễn Trường Tộ,... mà trực tiếp nhất chính là tư tưởng Hồ Chí Minh về

nhà nước pháp quyền và sự thay đổi về mặt nhận thức của Đảng Cộng sản

Việt Nam trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

hiện nay.

Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - người cộng sản Việt Nam đầu tiên –

mặc dù Người chưa đề cập trực tiếp tới thuật ngữ “nhà nước pháp quyền”

nhưng đã tiếp thu giá trị phổ biến, tiến bộ trong tư tưởng của các nhà triết học

về nhà nước pháp quyền và vận dụng vào thực tiễn đất nước ta.Tư tưởng về

nhà nước của Hồ Chí Minh có hạt nhân là quan điểm về quyền lực và chủ thể

quyền lực nhà nước. Nhà nước Việt Nam mới, theo Người, là nhà nước dân

chủ, trong đó "nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại

biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy” [10, 218 –219]. Đó là nhà nước

của dân, do dân và vì dân, được nhân dân lập nên, hoạt động vì lợi ích của

25

nhân dân và đặt dưới quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân.

Luôn có ý thức và quan điểm rõ ràng về việc thiết lập quyền lực của

nhân dân, Hồ Chí Minh cho rằng, việc sớm xây dựng Hiến phápvà pháp luật

của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là đặc biệt cần thiết và quan trọng.

Ngay từ năm 1919, trong “Việt Nam yêu cầu ca”, Hồ Chí Minh đã đòi hỏi

phải ban hành Hiến pháp và khẳng định “trăm điều phải có thần linh pháp

quyền”. Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ

Chí Minh đã khẳng định rằng, chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Điều

này cho thấy Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã sớm chú ý đến Hiến pháp

và pháp luật,coi đó là công cụ bảo vệ công lý và quyền con người cũng như

nhằm bảo đảm quyền tự do dân chủ cho các tầng lớp nhân dân, trên cơ sở

công nông liên minh và do giai cấp công nhân lãnh đạo.

Người khẳng định, "Phép luật là phép luật của nhân dân, dùng để ngăn

cản những hành động có hại cho nhân dân, để bảo vệ lợi ích chung của đại đa

số nhân dân" [10,453]. Vì vậy, để có một "chính quyền trong sạch", Chủ tịch

Hồ Chí Minh đòi hỏi pháp luật phải nghiêm minh, cần phải thẳng tay trừng trị

những ai làm hại đến tính mệnh và lợi ích của dân, làm tổn hại đến thanh

danh, uy tín của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, “pháp trị” phải nâng đỡ, phát

huy cái tốt, cái thiện trong mỗi con người bằng cách kết hợp với “đức trị”, thể

hiện ở nguyên tắc “có tình, có lý” trong xử lý các hành vi vi phạm pháp luật,

không vì công mà quên lỗi, không vì lỗi mà quên công.

Về vấn đề tổ chức bộ máy nhà nước, Hiến pháp năm 1946 được soạn

thảo và ban hành dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể

hiện tư tưởng của Người về cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước, trong đó nêu

lên quan điểm về ba bộ phận cấu thành quan trọng của nhà nước là Nghị viện

nhân dân (cơ quan lập pháp), chính phủ (cơ quan hành pháp) và toà án (cơ

quan tư pháp). Người đặc biệt quan tâm tới vai trò, vị trí của Chính phủ trong

bộ máy Nhà nước, khẳng định “chế độ của ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là

chủ. Chính phủ là đày tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê

26

bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ

lợi ích của nhân dân. Vì vậy, nhân dân lại có nhiệm vụ giúp đỡ Chính phủ,

theo đúng kỷ luật của Chính phủ và làm đúng chính sách của Chính phủ, để

Chính phủ làm tròn phận sự mà nhân dân đã giao phó cho" [10,368]. Người

cũng khẳng định tư tưởng về một Chính phủ toàn dân, liêm khiết, biết làm

việc, một Chính phủ của toàn dân đoàn kết và tập hợp nhân tài không đảng

phái, coi trọng tính hiệu quả và thiết thực: "Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ

có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và

Chính phủ có lỗi" [10, 572-574].

Thứ hai là quan điểm của Đảng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam. Có thể thấy, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt

Nam là một tất yếu khách quan trên con đường tạo lập một xã hội mới, đạt

được các mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn

minh. Nhưng tính tất yếu đó chỉ có thể được thực hiện thông qua hoạt động

chủ quan của con người, mà trước hết chính là sự nhận thức của Đảng Cộng

sản Việt Nam – đảng duy nhất cầm quyền, đại diện cho lợi ích của giai cấp

công nhân và nhân dân lao động cũng như toàn dân tộc Việt Nam.

Tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, Đảng ta đã ý thức được

nhiệm vụ của cuộc cách mạng do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo là chuyển

giao quyền lực cho nhân dân chứ không phải cho thiểu số thống trị. Tuy

nhiên, trong thời kỳ đầu và trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ, do

hoàn cảnh chiến tranh, vấn đề nhà nước và pháp quyền đề cập nhiều trong văn

kiện Đại hội I (3/1935), Đại hội II (2/1951), Đại hội III (9/1960) của Đảng ta.

Tuy nhiên, từ Đại hội II, trong Báo cáo chính trị của Đại hội II (tháng

2/1951), Đảng ta vẫn đề cập tới vấn đề “xây dựng Việt Nam dân chủ mới”,

khẳng định: “Hình thức của nhà nước Việt Nam hiện nay là cộng hoà dân chủ

nhân dân. Nội dung của nó là nhân dân dân chủ chuyên chính” [5, 93 –94].

Từ đây, quan điểm về Nhà nước chuyên chính vô sản trở thành quan điểm chủ

đạo về Nhà nước của Đảng ta trong suốt thời kỳ trước đổi mới, được thể hiện

27

tiếp tục qua các Đại hội IV (12/1976), Đại hội V (3/1982), trong đó đặc biệt

nhấn mạnh:“tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là một yêu cầu cấp thiết để

nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước, bảo đảm quyền làm chủ tập thể của

nhân dân lao động,....khẩn trương cụ thể hóa Hiến pháp mới bằng hệ thống

pháp luật,...các cơ quan quản lý nhà nước phải cải tiến phương pháp hoạt

động, đổi mới phong cách làm việc, làm cho hoạt động quản lý có tính chiến

đấu, sắc bén, dứt khoát và thiết thực” [6,115 –116].

Đại hội VI (12/1986) là Đại hội đổi mới về chất của Đảng Cộng sản

Việt Nam trong mọi mặt, trong đó có cả quan điểm về Nhà nước xã hội chủ

nghĩa. Báo cáo chính trị của Đại hội khẳng định: “Nhà nước ta là công cụ của

chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa...Trong thời kì quá độ, đó là Nhà

nước chuyên chính vô sản thực hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dưới sự

lãnh đạo của Đảng, chức năng của Nhà nước là thể chế hóa bằng pháp luật

quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ của nhân dân lao động và quản lí kinh tế, xã hội

theo pháp luật” [13, 799]. Tại Đại hội VI cũng đã nêu ra phương châm "lấy

dân làm gốc" và cơ chế "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" nhằm bảo

đảm chế độ nhân dân lao động tự quản lí Nhà nước của mình, phát huy quyền

làm chủ của nhân dân.

Có thể nói tư tưởng về nhà nước pháp quyền của Đảng ta chỉ mới bắt

đầu định hình từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 –1991) với

việc thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội, trong đó không đề cập tới khái niệm Nhà nước chuyên chính vô sản nữa,

mà thay vào đó là khái niệm “Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân

dân, do nhân dân, và vì nhân dân" và nền "dân chủ xã hội chủ nghĩa ". Nhà

nước chính là “tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân,

thay mặt nhân dân, Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra

luật pháp và tổ chức quản lí mọi mặt đời sống xã hội bằng luật pháp. Sửa đổi

hệ thống tổ chức Nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện toàn các cơ

quan lập pháp để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lí Nhà nước" [7, 151].

28

Do đó, cần “tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước theo phương hướng nhà nước

thực sự là của dân, do dân, vì dân. Nhà nước quản lý xã hội bẳng pháp luật,

dưới sự lãnh đạo của Đảng; tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung

dân chủ, thực hiện thống nhất quyền lực nhưng phân công, phân cấp rành

mạch” [7, 152-153]. Đảng cũng khẳng định: "Nhà nước Việt Nam thống nhất

ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp với sự phân công rành mạch ba

quyền đó" [7, 153]. Đây là lần đầu tiên các chức năng lập pháp, hành pháp và

tư pháp được định danh “các quyền” trong văn kiện của Đảng, cũng là một

trong những dấu hiệu đầu tiên trong việc nhận thức về nhà nước pháp quyền

của Đảng ta.

Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ, khóa VII (năm 1994) đã

chính thức đưa vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt

Nam vào văn kiện của Đảng. Trong văn kiện của Đảng tại Hội nghị này đã

nêu ra nhiệm vụ: "Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp

quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,

quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo

định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng

trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa

giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng ta

lãnh đạo” [8, 230]. Đây là lần đầu tiên trong văn kiện của Đảng chính thức

nêu cụ thể những quan điểm, nguyên tắc, nội dung xây dựng nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ đây, việc xây dựng nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trở thành một chủ trương có tầm chiến

lược, bao trùm toàn bộ tổ chức, hoạt động của Nhà nước trong cho tới nay.

Đại hội VIII (tháng 6 –1996) đã khẳng định quan điểm xây dựng nhà

nước của dân, do dân, vì dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân

công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước; quán triệt nguyên tắc

tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước; tăng cường pháp

chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quản lý xã

29

hội bằng pháp luật, đông thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức; tǎng

cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đồng thời, để xây dựng,

kiện toàn bộ máy nhà nước vững mạnh, trong sạch, có hiệu lực và hiệu quả,

Đảng ta đề ra 4 nhiệm vụ chính là: đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lập

pháp và giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của Nhà

nước, cải cách hành chính Nhà nước, cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp,

đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng. Khái niệm “nhà nước pháp quyền”

lần đầu tiên được đề cập trong văn kiện Đại hội Đảng VIII đã khẳng định:

“nhà nước pháp quyền từ những ý tưởng ban đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh

được thể hiện rất ngắn ngủi trong những năm 1945 -1946, qua giai đoạn bước

lùi do hoàn cảnh của hai cuộc kháng chiến, đến chỗ là những thể hiện lí luận

tự phát có yếu tố pháp quyền, rồi trở thành một quan điểm chưa gọi tên, nay

chính thức được định danh. Nhận thức về nhà nước pháp quyền đã đạt đến

trình độ tự giác trong quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam" [17, 171-

172].

Đại hội IX (tháng 4 –2001) đã thể hiện rõ sự tự giác trong nhận thức về

nhà nước pháp quyền của Đảng ta khi khẳng định tính chất của nhà nước Việt

Nam là “...công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà

nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất,

có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trongviệc thực hiện

các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp

luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp

hành Hiến pháp và pháp luật” [9, 131–132]. Đồng thời, Đảng đề ra nhiệm vụ

điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ,

nguyên tắc bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; phân công, phân cấp; tách cơ

quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công; tách chức

năng quản lý nhà nước với sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp; tiếp tục

cải cách thủ tục hành chính; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch,

30

có năng lực; thiết lập trật tự kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng...

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (tháng 4/2006) của Đảng tiếp tục

khẳng định mạnh mẽ đường lối xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Về phương

hướng, Đảng ta nêu rõ: xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về

nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa

các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn

thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn

bản pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến

và hợp pháp trong các hoạt độngvà quyết định của các cơ quan công quyền.

Theo phương hướng đó, Đại hội X nêu lên mục tiêu trước mắt là; đẩy

nhanh công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên cả bốn

mặt: chức năng, nhiệm vụ; tổ chức bộ máy; cán bộ và phương thức hoạt động;

định rõ những việc Nhà nước phải làm và bảo đảm đủ các điều kiện để làm

tốt; mối quan hệ giữa các cơ quan của Đảng và cơ quan nhà nước; hiện đại

hoá nền hành chính nhà nướcvới các nhiệm vụ cụ thể như: tiếp tục đổi mới tổ

chức và hoạt động của Quốc hội, của Chính phủ, của các cơ quan tư pháp; đẩy

mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp; tăng cường hiệu lực và hiệu

quả các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp; xây dựng cơ chế phán

quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư

pháp; nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân

dân các cấp.

Ngay sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, tại phiên khai

mạc kỳ họp đầu tiên Quốc hội khóa XII, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh có bài

phát biểu quan trọng, trong đó chủ yếu đề cập đến quan điểm đổi mới phương

thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Dẫn Nghị quyết Đại hội X, Tổng

Bí thư khẳng định: mấu chốt của đổi mới phương thức lãnh đạo là Đảng lãnh

đạo Nhà nước bằng cương lĩnh, đường lối, quan điểm, chủ trương, các nghị

31

quyết, nguyên tắc giải quyết các vấn đề lớn, có ý nghĩa chính trị quan trọng.

Đảng lãnh đạo nhưng không làm thay Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống

chính trị. Đề phòng và khắc phục khuynh hướng tổ chức Đảng buông lỏng sự

lãnh đạo hoặc làm thay, cũng như khuynh hướng các cơ quan Nhà nước thụ

động, né tránh trách nhiệm, việc gì cũng xin ý kiến cấp ủy Đảng nhằm thực

hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự trong sạch, vững mạnh,

hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.

Như vậy, quan điểm về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam là sự tổng kết những tinh hoa của lịch sử tư tưởng nhân loại, tiếp thu học

thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và

pháp quyền. Đó là một quá trình đi từ nhận thức về vai trò của pháp luật trong

quản lý xã hội tới thừa nhận nhà nước pháp quyền, từ nhận thức được những

yếu kém, khuyết điểm trong quá trình xây dựng mô hình nhà nước xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam tới thừa nhận tính tất yếu khách quan của việc xây dựng

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội

truyền thống Việt Nam. Từ đó, những đặc trưng cơ bản của mô hình nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng khởi xướng và lãnh đạo xây

dựng đã hình thành.

1.3.2. Đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định trên

cơ sở kinh tế là tiền đề kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ sở

chính trị là một chế độ dân chủ nhất nguyên do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh

đạo, cơ sở xã hội là khối đại đoàn kết dân tộc - những tiền đề mang đặc thù

Việt Nam. Trên nền thực tiễn đó, sự vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư

tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta vào sự nghiệp xây dựng nhà nước theo

hướng pháp quyền đã khẳng định nhà nước ta mang bản chất giai cấp công

nhân và cũng chính nhờ có bản chất này mà thật sự có được tính nhân dân và

tính dân tộc, phản ánh sự thống nhất giữa tính chính trị và tính nhân văn của

32

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là Nhà nước của dân,

do dân, vì dân; đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của một đảng, đó là Đảng Cộng

sản Việt Nam; trên cơ sở liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với

nông dân và đội ngũ trí thức; là công cụ quyền lực chủ yếu để nhân dân xây

dựng một quốc gia dân tộc độc lập xã hội chủ nghĩa theo mục tiêu dân giàu,

nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, góp phần tích cực vào cuộc

đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được hình thành và

phát triển trên cơ sở điểm xuất phát của quá trình xây dựng nhà nước rất thấp

cùng với những khó khăn, yếu kém của hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến

trúc xã hội. Qua mấy chục năm phấn đấu, xây dựng và đổi mới phương thức

tổ chức và hoạt động, đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa

VII (1994), lần đầu tiên trong văn bản chính thức của Đảng, chúng ta mới xác

định việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của

nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đó là một nhà nước vừa phải thể hiện

được các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền trên thế giới, vừa phải

khẳng định được bản sắc, đặc trưng của riêng mình. Các đặc trưng của Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là:

Một là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước

của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

Hai là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và

bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý

giữa Nhà nước và công dân.

Ba là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải được tổ

chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và phải đảm bảo cho Hiến

pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc

tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Bốn là, quyền lực nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là

thống nhất, có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan nhà

33

nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Năm là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và

hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

Sáu là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng

Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Đây là đặc điểm nổi bật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

được Hiến pháp ghi nhận và nhân dân Việt Nam đồng tình ủng hộ. Đảng lãnh

đạo Nhà nước thông qua cương lĩnh, đường lối, chính sách được thể chế bằng

pháp luật. Đảng không làm thay Nhà nước và phải hoạt động trong khuôn khổ

của Hiến pháp và pháp luật. Đảng không ngừng đổi mới phương thức lãnh

đạo của mình nhằm tạo điều kiện cho bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu

quả, đặc biệt trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa. Mặt khác, Đảng không ngừng đổi mới công tác tổ chức và xây

dựng bộ máy để bảo đảm Đảng vẫn giữ được vai trò lãnh đạo Nhà nước,

nhưng không chồng chéo với các cơ quan chức năng tương ứng trong bộ máy

của Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan tư pháp. Nguồn gốc, nội dung quyền

lãnh đạo của Đảng cũng như quyền lực quản lý của Nhà nước đều xuất phát

từ nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chủ trương, đường lối của Đảng và

chính sách, pháp luật của Nhà nước đều phản ánh ý chí, nguyện vọng và lợi

ích của nhân dân, do đó không thể tách rời Đảng với Nhà nước, tách rời chủ

trương, đường lối của Đảng với chính sách, pháp luật của Nhà nước. Bộ máy

Nhà nước phải lấy đường lối, chính sách của Đảng làm mục tiêu, định hướng

cho toàn bộ hoạt động của mình. Theo đó, pháp luật do Nhà nước ban hành và

tổ chức thực hiện phải thể hiện được đầy đủ, sâu sắc quan điểm, nội dung

đường lối, chính sách của Đảng. Thực hiện được điều đó mới đảm bảo định

hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước

34

pháp quyền của dân, do dân và vì dân ở nước ta hiện nay.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã xuất hiện ở cả phương Đông và

phương Tây từ thời Cổ đại. Ban đầu nó chỉ là những tư tưởng về mối quan hệ

giữa quyền lực và pháp luật, về vai trò của pháp luật trong nhà nước và trong

xã hội. Trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, tư tưởng về nhà nước pháp

quyền ngày càng hoàn thiện, dần trở thành học thuyết và được hiện thực hóa

trong xã hội.

Nhà nước pháp quyền là lý thuyết đang nhận được sự quan tâm của

nhiều nhà nghiên cứu hiện nay. Tuy nhiên, việc đưa ra một khái niệm về nhà

nước pháp quyền vẫn chưa được thống nhất, mặc dù các giá trị chung của mô

hình nhà nước pháp quyền đã được đông đảo các nhà nghiên cứu thừa nhận.

Quan điểm của chúng tôi là, nhà nước pháp quyền là khái niệm dùng để chỉ

hình thức tổ chức và phương thức vận hành của bộ máy nhà nước với tinh

thần cơ bản là hạn chế quyền lực nhà nước bằng pháp luật và nguyên tắc tổ

chức bộ máy nhà nước là tam quyền phân lập, tăng cường tính tự quản của

nhân dân nhằm bảovệ các quyền cơ bản của con người. Ở trình độ phát triển

cao, nhà nước pháp quyền chính là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,

bởi chỉ có trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, người dân mới thực

sự là chủ thể của nhà nước, quyền con người, quyền công dân được pháp luật

và nhà nước với nguyên tắc thống nhất, phân công và phối hợp trong tổ chức

và hoạt động bảo đảm thực hiện. Để đi đến quan điểm về nhà nước pháp

quyền và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một quá trình

nhận thức và hoạt động thực tiễn lâu dài của Đảng ta. Tiếp thu quan điểm của

các nhà tư tưởng phương Đông, phương Tây về nhà nước và pháp quyền, với

tiền đề kinh tế - chính trị - xã hội là sự phát triển của đất nước sau đổi mới,

Đảng ta đã xây dựng nên quan điểm về nhà nước xã hội chủ nghĩa mang tính

pháp quyền ở Việt Nam. Đó là nhà nước do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh

đạo, Nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về

35

nhân dân; trong đó, quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành

mạch và phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan nhà nước trong việc thực hiện

các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; được tổ chức và hoạt động trên

cơ sở Hiến pháp, pháp luật; tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền

công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân.Từ

nhận thức đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo, chỉ đạo việc xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, coi đó là một

trong những nội dung quan trọng trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất

nước ta hiện nay. Quá trình này đã đạt được những thành tựu nhất định,

đồng thời cũng làm bộc lộ những tồn tại, hạn chế cần nhanh chóng tìm ra

những giải pháp khắc phục. Đây chính là những nội dung mà tôi sẽ đề cập

36

đến trong chương 2 của khóa luận này.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.

2.1. Các nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với những đặc điểm

được nêu ở chương 1 chỉ có thể được xây dựng thành công và đảm bảo không

chệch hướng xã hội chủ nghĩa khi được thực hiện theo hệ thống các nguyên

tắc nhất định. Khóa luận xin được nêu các nguyên tắc cơ bản của việc xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Một là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

phải giữ vững tính chất giai cấp công nhân, tính chất nhân dân và tính chất

nhân đạo của Nhà nước [21,86]. Nhà nước Việt Nam được hình thành với tính

cách là sản phẩm của cuộc cách mạng dân chủ nhân dân và được tổ chức theo

mô hình một nhà nước vô sản -nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân

lao động. có vai trò lịch sử là cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới –xã hội

xã hội chủ nghĩa.Giữ vững tính chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta là

giữ cho Nhà nước ta luôn luôn là nhà nước của giai cấp công nhân Việt Nam,

do giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo, được tổ chức, hoạt động, hoàn

thiệntheo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính

sách của Đảng cộng sản Việt Nam. Giữ vững tính chất nhân dân là giữ cho

Nhà nước ta luôn là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, là hình

ảnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ

quốc. Giữ vững tính nhân đạo là đảm bảo mọi chủ trương, chính sách, pháp

luật của Nhà nước đều xuất phát từ nhu cầu, lợi ích cơ bản của con người và

đều nhằm đáp ứng nhu cầu, lợi ích của con người; các quyền tự do được mở

rộng đối với mỗi cá nhân, sự công bằng, quyền bình đẳng được ghi nhận và

bảo vệ; bên cạnh những chủ trương, chính sách, pháp luật có giá trị như nhau

đối với mọi người còn có chủ trương, chính sách pháp luật dành riêng cho các

đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước như thanh niên, trẻ

37

em, người già, người tàn tật, người và gia đình có hoàn cảnh khó khăn, đồng

bào dân tộc thiểu số, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao...Trong điều

kiện hiện nay của Việt Nam, bên cạnh việc giữ vững tính chất của giai cấp

công nhân, tính chất nhân dân, tính chất nhân đạo của Nhà nước, Nhà nước

còn phải phát huy vai trò bảo vệ và điều hòa lợi ích xã hội. Năng lực chính trị

và vị trí của Nhà nước được bộc lộ qua khả năng bảo đảm quyền lợi của các

giai cấp, tầng lớp, những nhóm người, các tập thể trong xã hội theo định

hướng của các lợi ích chung. Để Nhà nước thực hiện và phát huy vai trò của

mình trong hệ thống chính trị, cần có những điều kiện khách quan khác mà

một trong đó là yếu tố xã hội. Dân cư, các giai cấp, tầng lớp người, các tập

thể, cá nhân trog cơ cấu xã hội chính là chỗ dựa vững chắc của Nhà nước và

giờ đây, hơn lúc nào hết, chức năng xã hội của Nhà nước phải được đề cao ở

thứ tự ưu tiên. Vì vậy, cùng với việc giữ vững tính chất giai cấp công nhân

của Nhà nước, cần củng cố cơ sở rộng lớn của xã hội.

Hai là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

phải nhằm phát huy được các giá trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và bảo

đảm quyền làm chủ của nhân dân [21,87]. Xây dựng nhà nước pháp quyền là

thiết lập một nhà nước đại diện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân,

đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường

lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều phải xuất phát từ lợi

ích của nhân dân và có sự tham gia ý kiến của nhân dân. Xã hội dân chủ đòi

hỏi cán bộ, đảng viên và công chức phải thực sự là công bộc của nhân dân,

phải xác định các hình thức tổ chức và có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền

dân chủ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Một nhà nước

như vậy mới có thể phát huy được quyền dân chủ của nhân dân, đảm bảo

quyền sống, quyền được làm việc, được lao động, được học hành, được đảm

bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa của dân, do dân và vì dân cần được tiến hành trên mọi lĩnh vực của đời

sống xã hội. Trong nhà nước đó, dân chủ đi đôi với kỷ cương trật tự, được thể

38

chế hoá thành pháp luật, trong khuôn khổ của pháp luật. Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân biểu hiện trực tiếp sức

mạnh của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Đó là một

nhà nước đại diện cho quyền lực chân chính của nhân dân; một tổ chức nhà

nước dựa trên nền dân chủ, vì dân chủ và do đó bằng pháp luật và vì công lý.

Ba là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải

được tiến hành đồng bộ với với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và đổi mới

hệ thống chính trị [21,87]. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam phải được đặt trong tổng thể công cuộc đổi mới tổ chức và hoạt

động của cả hệ thống chính trị nước ta, bởi vì Nhà nước là một bộ phận cấu

thành hệ thống chính trị, có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại với Đảng và

các tổ chức xã hội khác; việc đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà

nước theo hướng nhà nước phápquyền do Đảng chỉ đạo và cần có sự giúp đỡ

của các tổ chức chính trị xã hội; bộ máy Đảng đang được đổi mới về cơ cấu tổ

chức, nội dung, hình thức phương pháp, năng lực hoạt động để lãnh đạo Nhà

nước có chất lượng và hiệu quả hơn; các tổ chức xã hội khác cũng đang được

đổi mới về tổ chức và hoạt động để tham gia tích cực và hiệu quả hơn vào

quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Có thể nói, Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam là kết quả tổng hợp của toàn bộ công cuộc đổi mới hệ

thống chính trị chứ không chỉ là kết quả của riêng đổi mới bộ máy nhà nước.

Sự ra đời và vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã

tạo ra bước chuyển mạnh mẽ trong đời sống kinh tế, xã hội của đất nước, trình

độ của lực lượng sản xuất có sự phát triển nhanh chóng làm thay đổi và xuất

hiện nhiều loại quan hệ kinh tế mới trong xã hội. Điều này tất yếu dẫn đến

nhu cầu khách quan là Nhà nước phải thực hiện các biện pháp mà trước hết là

xây dựng hệ thống pháp luật. Như vậy, nền kinh tế thị trường tự nó đã là một

đòi hỏi tất yếu, khách quan buộc Nhà nước phải thay đổi phương thức quản

lý kinh tế, xã hội. Nhà nước phải quản lý kinh tế, xã hội bằng pháp luật, phải

xây dựng thể chế kinh tế thị trường đủ ở mức tạo hành lang pháp lý an toàn

39

cho hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo đảm công bằng, bình đẳng, hợp tác

cùng phát triển lâu dài giữa các thành phần kinh tế. Đó là tiền đề quan trọng

để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân,

do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở nềnvăn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân

tộc và xã hội thật sự dân chủ, bình đẳng; ngược lại, nền văn hóa tiên tiến, đậm

đà bản sắc dân tộc và xã hội thật sự dân chủ, bình đẳng cũng chỉ có thể được

xây dựng khi có nhà nước pháp quyền thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì

nhân dân. Bởi vậy, cần gắn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam với phát triển văn hoá, xã hội.

Bốn là, cần tiếp thu và vận dụng các giá trị phổ biến và kinh nghiệm thế

giới về xây dựng nhà nước pháp quyềnvào quá trình xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam [21,88]. Đảng ta coi việc xây dựngvà hoàn

thiện nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là

nhiệm vụ trung tâm của sự nghiệp xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội

chủ nghĩa. Cùng với việc khẳng định chủ thể tối cao củaquyền lực nhà nước

là nhân dân, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do của công dân, thực hiện chế độ

dân chủ, chế độ lập hiến...lý luận về nhà nước pháp quyền hướng tới xác lập

một phương thức quản lý xã hội bằng pháp luật và tổ chức nhà nước theo

nguyên tắc phân công và giám sát quyền lực. Sự phát triển của xã hội có giai

cấp ở mọi thời đại đều cần đến một nhà nước mạnh mẽ và sáng suốt chứ

không phải nhà nước độc tài, quan liêu. Đây là tiến bộ xã hội, là giá trị chung

có tính phổ biến và không phải là giá trị riêng của nhà nước tư sản. Những giá

trị có tính phổ biến này cần được tiếp thu có chọn lọc trong quá trình xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của Việt Nam

là một nhà nước vừa phải thể hiện được các giá trị phổ biến của nhà nước

pháp quyền đã được xác định trong lý luận và thực tiễn của một chế độ dân

chủ hiện đại, vừa khẳng định được bản sắc, đặc điểm của riêng mình. Do đó,

40

để xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải

tiếp thu và vận dụng sáng tạo những giá trị phổ biến của tư tưởng về nhà nước

pháp quyền trong lịch sử nhân loại, các bài học kinh nghiệm có giá trị của thế

giới về xây dựng nhà nước pháp quyền trong quá trình xây dựng nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Năm là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam [21,88]. Đảng

cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền và sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ

thống chính trị và đối với xã hội là một tất yếu lịch sử. Việc quán triệt nguyên

tắc Đảng lãnh đạo sẽ đảm bảo cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam luôn phù hợp với ý chí, nguyện vọng của toàn dân và đáp

ứng được lợi ích của nhân dân.Nguyên tắc này đòi hỏi trách nhiệm của Đảng,

Nhà nước và nhân dân. Đảng phải thường xuyên tổng kết, đánh giá thực

tiễn, phân tích thực tiễn để kịp thời đưa ra những quyết sách đúng đắn cho

nhà nước và nhân dân thực hiện; thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động

của Nhà nước và nhân dân; đề xuất quan điểm và giải pháp khắc phục những

thiếu sót, khuyết điểm của nhân dân. Nhà nước thường xuyên chủ động và kịp

thời thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật, tổ chức tốt

việc thực hiện và bảo vệ pháp luật; thường xuyên tổng kết thực hiện để vừa có

thêm bài học kinh nghiệm cho mình, vừa cung cấp cho Đảng những luận cứ

để Đảng tiếp tục hoàn thiện đường lối, chính sách của mình; phản biện đường

lối, chính sách của Đảng; nhân dân phản biện đường lối, chính sách của Đảng,

pháp luật của Nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của Đảng và Nhà nước;

tham gia tích cực vào việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp

luật của Nhà nước; kiến nghị với Đảng, Nhà nước về mọi vấn đề liên quan

đến tổ chức và hoạt động của Đảng và Nhà nước trên tinh thần vì một nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

2.2. Những thành tựu đã đạt được và những khó khăn trong xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Qua hơn 20 năm đổi mới đất nước, chúng ta đã thu được những thành

41

tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử quan trọng. Đó là: “Chúng ta đã từng bước xây

dựng được nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền

dân chủ xã hội chủ nghĩa với Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân

dân, vì nhân dân; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây

dựng khối đoàn kết toàn dân tộc mà nền tảng là liên minh công nhân -nông

dân -trí thức; xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân với lực

lượng vũ trang nhân dân cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,

ngày càng đủ mạnh để bảo vệ Tổ quốc và cuộc sống yên lành của nhân dân;

xây dựng một nền ngoại giao độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa

dạng hóa với tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các

nước trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển,

không ngừng mở rộng các quan hệ đối ngoại, nâng cao uy tín, vị thế của nước

ta trên trường quốc tế"[16, 3]

Đặc biệt, Nhà nước ta đã có những bước tiến quan trọng trong việc đổi

mới tổ chức và hoạt động theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa. Sự quyết tâm xây dựng và hoàn thiện nhà nước không chỉ dừng ở

chủ trương, quan điểm mà còn thể hiện trong việc xây dựng nền dân chủ xã

hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền công dân, quyền con người, xây dựng hệ thống

pháp luật và tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay. Thực tiễn đổi mới

trong giai đoạn vừa qua một mặt cho thấy những thành tựu, mặt khác bộc lộ

rõ những vấn đề mới, phức tạp về tổ chức và hoạt động của Nhà nước, của

nền hành chính và của cả hệ thống chính trị nước ta.

2.2.1. Những thành tựu đã đạt được trong xây dựng nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Lênin đã chỉ ra rằng, nhà nước là một bộ máy dễ rơi vào tình trạng

quan liêu và biến dạng. Việc nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của nhà

nước không chỉ là mục tiêu mà còn là yêu cầu cấp bách của nhà nước ta hiện

nay. Bước chuyển căn bản nhất, quan trọng nhất ở Việt Nam trong những

năm qua là pháp luật đã trở thành công vụ quản lý chủ yếu của Nhà nước,

42

nguyên tắc pháp quyền ngày càng được khẳng định và phát huy hiệu quả, tổ

chức bộ máy Nhà nước ngày càng hoàn thiện, quyền dân chủ của nhân dân

được mở rộng, tạo điều kiện để nhân dân tham gia và thực hiện quyền giám

sát hoạt động của các cơ quan nhà nước.

Tổng kết lý luận và thực tiễn sau hơn hai mươi năm đổi mới ở nước ta

cho thấy, việc thực hiện các nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, tạo ra những

bước tiến cơ bản cho quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam. Cụ thể là:

Đầu tiên, đối với nguyên tắc phải giữ vững tính chất giai cấp công nhân

và tính chất nhân dân, tính nhân đạo của Nhà nước được thực hiện và phát

huy ở mức độ cao. Trên cơ sở của Hiến pháp năm 1992, tính chất nhà nước ta

đã được xác định là sự thống nhất giữa tính chất giai cấp công nhân, tính nhân

dân và tính nhân đạo. Sau hơn 20 năm đổi mới, nguyên tắc giữ vững tính chất

giai cấp công nhân và tính chất nhân dân, tính nhân đạo của Nhà nước đã

được giữ vững và phát huy, trở thành mặt mạnh cơ bản của hệ thống chính trị

và của nền dân chủ ở nước ta. Giai cấp công nhân nước ta đang tiếp tục phát

huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Ðảng

cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa

xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước và hội nhập kinh tế quốc tế, lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp

công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của

Ðảng; đóng góp trực tiếp to lớn vào sự phát triển của đất nước.

Thành tựu trong việc thực hiện nguyên tắc này của Nhà nước còn thể

hiện ở những kết quả của đổi mới hệ thống chính trị và Nhà nước trong hơn

hai mươi năm qua, được thể hiện cụ thể trong các quy định về nguyên tắc tổ

chức và hoạt động của bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương; của

các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đó là, bộ máy nhà nước được tổ

chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ nhằm phát huy dân chủ

43

đến mức cao độ. Nhà nước từng bước quản lý, điều hành xã hội trên tất cả các

lĩnh vực theo pháp luật, từng bước thực hiện nhiệm vụ đại diện cho quyền lực

chân chính của nhân dân. Đồng thời nỗ lực xây dựng một nền pháp luật mang

tính dân chủ thực sự, bảo đảm đầy đủ quyền làm chủ của nhândân lao động và

xuất phát từ nhu cầu, lợi ích cơ bản của con người và đều nhằm đáp ứng nhu

cầu, lợi ích của con người. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người,

quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân,

thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.

Thứ hai là nguyên tắc phát huy các giá trị của nền dân chủ, xây dựng

một nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đã được coi là mục

tiêu, động lực của công cuộc đổi mới. Để thực hiện nguyên tắc này, Ðảng ta

đã xác định xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là

động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối

quan hệ gắn bó máu thịt giữa Ðảng, Nhà nước và nhân dân. Kết quả là, dưới

sự lãnh đạo của Ðảng, cơ chế dân chủ được từng bước hoàn thiện đã phát huy

cao sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tạo nên động lực to lớn phát triển đất

nước. Nhờ cơ chế dân chủ từng bước được xây dựng, bổ sung và hoàn thiện

trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, các tầng lớp nhân dân trở

nên tích cực, chủ động, sáng tạo, năng động trong việc tham gia công việc của

đất nước. Các quan hệ xã hội được xây dựng hài hòa, sự đồng thuận xã hội và

dân chủ hóa trên các lĩnh vực của đời sống -xã hội được tăng cường. Ðặc biệt,

nội dung và hình thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân

dân ngày càng thiết thực. Quy chế dân chủ ở cơ sở được thực hiện rộng rãi

hơn, nhất là ở xã, phường, được thực hiện tốt ở nhiều địa phương, đơn vị, cơ

quan, trường học, đã phát huy được công sức, trí tuệ của tập thể của đội ngũ

cán bộ, công nhân, viên chức và người lao động, tạo động lực để họ hăng hái

thi đua lao động, sản xuất, giảng dạy và học tập, hoàn thành xuất sắc nhiệm

vụ được giao.

Thứ ba là nguyên tắc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

44

Việt Nam phải tiến hành đồng bộ với với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và

đổi mới hệ thống chính trị đã được quán triệt trong nhận thức và hành động.

Điểm lại kết quả của 20 năm đổi mới khẳng định rằng chúng ta đã bảo đảm

tốt hơn sự gắn kết, đồng bộ giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây

dựng Ðảng là then chốt với phát triển văn hóa -nền tảng tinh thần của xã hội.

Cùng với đổi mới kinh tế và trên cơ sở đổi mới kinh tế, chúng ta đã từng bước

đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị;đổi mới và

chỉnh đốn Ðảng, đổi mới công tác tổ chức và cán bộ, mở rộng dân chủ trong

Ðảng, đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước và xã hội;

quá trình đổi mới hệ thống chính trị, phát triển kinh tế đã gắn kết chặt chẽ

kinh tế với văn hóa - xã hội, đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội

ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; gắn kết chặt chẽ phát

triển kinh tế với nhiệm vụ quốc phòng - an ninh và đối ngoại.

Kết quả là, các mặt của đời sống xã hội đều có những bước tiến quan

trọng: thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng

bước đầu, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, hội nhập kinh tế quốc tế và kinh tế

đối ngoại có bước tiến mới rất quan trọng. Giáo dục vàđào tạo có bước phát

triển khá, quy mô giáo dục được mở rộng và trình độ dân trí đã được nâng lên

rõ rệt. Khoa học và công nghệ có tiến bộ, tập trung hơn vào nghiên cứu ứng

dụng, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; văn hóa,xã hội có tiến bộ

trên nhiều mặt, việc gắn kết giữa phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề

xã hội có chuyển biến tích cực, chỉ số phát triển con người được nâng lên; đại

đoàn kết dân tộc vì sự nghiệp phát triển đất nước tiếp tục được tăng cường;

chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường, quan hệ đối

ngoại được mở rộng, tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, xã hội.

Thứ tư: nguyên tắc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam cần có sự tiếp thu và vận dụng các giá trị phổ biến và kinh nghiệm

thế giới về xây dựng nhà nước pháp quyền được nhận thức đầy đủ và được

thực hiện thường xuyên trên thực tế.Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp

45

quyền xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã cơ bản thực hiện nguyên tắc tiếp thu và

vận dụng sáng tạo các giá trị phổ biến và kinh nghiệm của thế giới về xây

dựng nhà nước pháp quyền, không phủ định sạch trơn thành tựu của quá khứ,

mà trân trọng và kế thừa những kinh nghiệm dựng nước và giữ nước của cha

ông, những thành tựu của cách mạng, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân

tộc, đồng thời kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những thành quả của văn minh

nhân loại, trong đó có mặt tích cực của kinh tế thị trường, những giá trị trong

tư tưởng về nhà nước pháp quyền - những thứ trước đây bị coi là riêng có của

chủ nghĩa tư bản. Nhà nước và nhân dânta đã lĩnh hội và tiếp thu được những

tinh hoa văn hóa của nhân loại –các chế định pháp lý được thừa nhận chung

của cộng đồng quốc tế như: sự ngự trị của pháp luật trong các lĩnh vực sinh

hoạt của xã hội; tính tối cao của pháp luật trong các lĩnh vực hoạt động của

nhà nước, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, sự tôn trọng và bảo vệ các

quyền tự do của con người như là những giá trị xã hội cao quý nhất. Bên cạnh

đó, chúng ta không áp dụng nguyên tắc “tam quyền phân lập” gắn với chế độ

đa nguyên, đa đảng như ở các nước tư bản chủ nghĩa mà khẳng định quyền

lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà

nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp dưới sự lãnh

đạo của một chính đảng duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, việc

tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của trí tuệ nhân loại về nhà nước pháp

quyền ở nước ta đang từng bước được tích cực thực hiện. Bên cạnh những đặc

điểm chung nhất của nhà nước pháp quyền, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam có những nét riêng, phù hợp với đặc điểm về kinh tế, chính

trị, xã hội, văn hoá của đất nước.

Cuối cùng là nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng công sản Việt Nam

thường xuyên được quán triệt và thực hiện nghiêm túc. Trong hơn hai mươi

năm đổi mới, Đảng cộng sản Việt Nam đã thực hiện thành công vai trò là lực

lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.Trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm, tổng

46

kết sáng kiến của nhân dân, Đảng ta đã đề ra và lãnh đạo thực hiện đường lối

đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phù hợp với thực

tiễn Việt Nam và bối cảnh quốc tế mới.

Hai mươi năm qua, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, quá trình xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã đạt được những

thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử:nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa được phát triển đẩy mạnh; đời sống nhân dân được cải thiện rõ

rệt; hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng

cường;chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng và an ninh được giữ vững; vị thế

nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao; sức mạnh tổng hợp

của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục

đi lên với triển vọng tốt đẹp. Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối lãnh đạo

của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của

nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và

con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm

lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa, về nhà nước pháp

quyềnvà quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

đã hình thành trên những nét cơ bản. Công cuộc xây dựng nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa là cả một cuộc cách mạng lâu dài và nhiều khó khăn,

đòi hỏi phải thực hiện từng bước mà bắt đầu từ việc đề ra và thực hiện nghiêm

túc các nguyên tắc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhằm

đảm bảo sự phát triển đúng hướng của đất nước. Để thực hiện thành công các

nguyên tắc ấy lại cần có sự tập trung, thống nhất cao độ về nhận thức và tư

tưởng của toàn Đảng, toàn dân. Như trên đã phân tích, việc thực hiện các

nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong

thời gian qua đã thu được những thành tựu đáng khích lệ. Nguyên nhân của

những kết quả đó trước hết là do đã sự thống nhất về nhận thức của toàn dân

về mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; sự lãnh đạo tài

tình, sáng suốt của Đảng ta, một đảng chân chính do Chủ tịch Hồ Chí Minh

sáng lập và rèn luyện, luôn trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin vận dụng

47

và phát triển sáng tạo vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta; gắn bó mật

thiết với nhân dân, lãnh đạo, tổ chức, tập hợp và phát huy sức mạnh đoàn kết

của dân tộc; giữ vững nguyên tắc nhưng luôn mềm dẻo và đổi mới. Một

nguyên nhân khác rất quan trọng là, Nhà nước ta, trong mỗi giai đoạn cách

mạng, luôn thể hiện rõ bản chất tốt đẹp của mình. Đó là một nhà nước tận

tâm, tận lực vì dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân, làm tốt nhiệm vụ

quản lý, điều hành xã hội và đất nước; tổ chức toàn dân tập trung mọi nguồn

lực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

2.2.2. Những khó khăn trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Bên cạnh những thành tựu đã nêu trên, việc đổi mới tổ chức và hoạt

động của Nhà nước ta theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa cũng còn có nhiều hạn chế cho thấy những khó khăn, vướng mắc cần

giải quyết. Đó chínhlà những khó khăn, vướng mắc cản trở con đường đổi

mới, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân

ở nước ta.

Thứ nhất, việc giữ vững tính chất giai cấp công nhân và tính chất nhân

dân, tính chất nhân đạo của Nhà nước chưa được thực hiện triệt để. Địa vị

chính trị của giai cấp công nhân chưa thể hiện đầy đủ. Giai cấp công nhân còn

hạn chế về phát huy vai trò nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với

giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Giác ngộ

giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không đồng đều; sự hiểu biết về

chính sách, pháp luật còn nhiều hạn chế.Tuy trong quá trình phát triển kinh tế

- xã hội của đất nước, việc làm và đời sống của nhân dân ngày càng được cải

thiện; nhưng lợi ích của một bộ phận được hưởng chưa tương xứng với những

thành tựu của công cuộc đổi mới và những đóng góp của chính mình; việc

làm, đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận nhân dân đang có nhiều

khó khăn, bức xúc.

Thứ hai, các giá trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được phát

huy nhưng chưa xứng tầm với yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ

48

nghĩa . Biểu hiện ở chỗ, thể chế luật pháp để bảo đảm dân chủ được thực thi

chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ, thiếu ổn định và tính khả thi của nó. Không ít

quy định pháp luật được xây dựng công phu, tốn kém, nhưng mới ban hành

chưa lâu đã có nhu cầu phải bổ sung, sửa đổi. Tổ chức bộ máy còn cồng kềnh,

chồng chéo, kém hiệu quả, một bộ phận đội ngũ cán bộ, công chức sa sút về

phẩm chất, yếu kém về năng lực. Chính vì vậy, vẫn diễn ra tình trạng mất

dânchủ, vi phạm dân chủ trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước. Về phía

người dân, một bộ phận đáng kể có trình độ dân trí thấp, ít hiểu biết về pháp

luật nên việc sử dụng quyền dân chủ chưa đúng đắn. Một bộ phận lại lợi dụng

dân chủ để mưu cầu lợi ích riêng. Thực tế này tồn tại trên nền tảng một nền

kinh tế đang ở tình trạng kém phát triển, những hậu quả từ các nhân tố truyền

thống (thói gia trưởng “phép vua thua lệ làng”...) cùng sự chống phá quyết liệt

của các thế lực thù địch càng làm cho việc thực thidân chủ thêm khó

khăn.Tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong bộ máy nhà nước tuy

đã thực hiện một số biện pháp ngăn ngừa và trừng trị, nhưng các biện pháp đó

chưa tỏ ra có hiệu quả, do đó, các tệ nạn này vẫn còn xảy ra khá gay gắt, trầm

trọng, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với chính quyền và gây ảnh hưởng

xấu trong xã hội. Sự thiếu công tâm, minh bạch trong công vụ của một bộ

phận công chức làm cho người dân bất bình, ảnh hưởng xấu đến phát triển

kinh tế - xã hội. Về vai trò người dân, công chức, người lao động, một bộ

phận còn thờ ơ do chưa nhận thức đầy đủ dân chủ là thể thống nhất giữa

quyền lợi và nghĩa vụ; một bộ phận cán bộ lãnh đạo, người sử dụng lao động

chưa công khai, minh bạch với nhân dân và người lao động...

Thứ ba, công cuộc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị

còn nhiều hạn chế, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn

yếu về khả năng cạnh tranh. Bộ máy của hệ thống chính trị còn quá cồng

kềnh, chưa thật trong sạch, vững mạnh; hiệu lực và khả năng quản lý, điều

hành chưa ngang tầm với tình hình mới, cơ chế vận hành chưa thật khoa học,

tình trạng lẫn lộn chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ phận cấu thành hệ thống

49

chính trị còn xuất hiện ở nhiều cấp, nhiều địa phương, mối quan hệ phân cấp

trung ương - địa phương còn nhiều mặt chưa cụ thể (như về quản lý đầu tư, tài

chính, tổ chức bộ máy, kết hợp quản lý theo ngành và lãnh thổ...) làm cho tình

trạng tập trung quan liêu cũng như phân tán, cục bộ chậm được khắc phục. Sự

phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện 3 quyền:

lập pháp, hành pháp, tư pháp còn nhiều điểm chưa rõ ràng về chức năng,

nhiệm vụ.Tính thống nhất quyền lực nhà nước và sự phân công, phối hợp trên

quan điểm chung đã được nhất trí, nhưng trong hoạt động thực tiễn còn có

vướng mắc, trùng lắp, chưa tạo ra được sự đồng bộ, ăn khớp nên chưa phát

huy được hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn yếu về khả

năng cạnh tranh, chưa tăng cường được vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước,

chưa phát triển được kinh tế hợp tác và phát huy khả năng của các thành phần

kinh tế, chậm đổi mới so với yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế, chưa đáp

ứng được yêu cầu của thời kỳ đổi mới. Một bộ phận doanh nghiệp kinh doanh

phi pháp, tội phạm kinh tế có chiều hướng gia tăng về quy mô và thủ đoạn,

một bộ phận cán bộ nhà nước lợi dụng chức vụ, quyền hạn tham nhũng, làm

giàu bất chính.

Thứ tư, trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam cần có sự tiếp thu và vận dụng các giá trị phổ biến và kinh nghiệm thế

giới về xây dựng nhà nước pháp quyền còn có những hạn chế nhất định. Cụ

thể là: hệ thống pháp luật về hội nhập quốc tế chưa được hoàn thiện,việc

nghiên cứu và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành

viên chưa được quan tâm đầy đủ. Đặc biệt trong các lĩnh vực kinh tế, thương

mại,đầu tư, tín dụng quốc tế, sở hữu trí tuệ, thuế quan, bảo vệ môi

trường...chưa có các thiết chế bảo vệ nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế, vv..

Thứ năm, sự lãnh đạo của Đảng chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi

mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước, vẫn còn tình trạng buông lỏng và

50

bao biện, chồng chéo nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu

lực điều hành của bộ máy nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng chưa đưựơc thể

chế hóa, nên vô hình chung, nó chỉ có giá trị bắt buộc đối với đảng viên, chưa

phát huy được sức mạnh của toàn xã hội. Công tác quản lý, kiểm tra, giám sát

của Đảng chưa được tiến hành thường xuyên, các biện pháp xử lý vi phạm

của Đảng còn nhẹ tay nên hạn chế về tính răn đe.

Việc nhìn nhận những hạn chế, yếu kém trong thực hiện các nguyên tắc

xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa sẽ giúp tìm ra những nguyên

nhân khách quan, chủ quan để có những biện pháp khắc phục có hiệu quả.

Thứ nhất, những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa bỏ

qua chế độ tư bản chủ nghĩa đã tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế -

chính trị -xã hội, trong đó có quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa ở Việt Nam. Việt Nam xây dựng nhà nước pháp quyền từ một xã

hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ, quá độ lên xã hội chủ nghĩa,

bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều đó gây ra những khó khăn cho chúng ta

khi nền kinh tế thị trường đang trong quá trình hình thành và hoàn thiện dần,

lối sống tiểu nông, tâm lý không tôn trọng và tuân thủ pháp luật, dư âm của cơ

chế tập trung quan liêu bao cấp còn quá lớn. Đây chính là những đặc điểm,

tính chất của thời đại chi phối quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa ở Việt Nam.

Thứ hai,những hậu quả của chiến tranh không chỉ thể hiện trong đời

sống xã hội mà còn ở ngay trong vấn đề tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà

nước. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã kết thúc hơn 30 năm nhưng

những ảnh hưởng của nó vẫn còn rất sâu đậm. Điều này thể hiện qua cách tổ

chức nhà nước cồng kềnh, việc phân cấp phân quyền giữa trung ương và địa

phương phức tạp, hoạt động nhà nước được tiến hành theo mệnh lệnh hành

chính. Đặc biệt, chiến tranh đã để lại dấu ấn trong phong cách quân sự của

một bộ phận cán bộ công chức nhà nước, làm hạn chế tính chuyên nghiệp và

năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ công chức.

Thứ ba, chưa làm rõ các vấn đề về mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền

51

với Nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách

mạng Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Trong một thời gian dài, do yêu cầu

của chiến tranh, các tổ chức đảng có lúc, có nơi đã bao biện, làm thay công

việc của nhà nước. Chính vì thế, những vấn đề lý luận và thực tiễn về Đảng

cầm quyền trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

việc phân định vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của nhà nước

chưa được đặt ra một cách bức thiết. Hiện nay, do yêu cầu của công cuộc đổi

mới, vấn đề phân định vai trò của Đảng và Nhà nước được đặt ra nhằm đảm

bảo quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng ta cũng như đảm bảo quyền chủ động

của Nhà nước được triển khai nghiên cứu ở nhiều ngành khoa học khác nhau.

Tuy nhiên, nhiều vấn đề vẫn chưa được làm sáng tỏ và cụ thể về lý luận, do

đó trong thực tiễn tổ chức và hoạt động của các cấp uỷ đảng và các cơ quan

nhà nước không tránh khỏi sự chồng chéo, bao biện.

Thứ tư, nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước chưa được nhận thức

đầy đủ. Quan điểm về tính thống nhất của quyền lực, về sự phân công, phối

hợp giữa ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và tập trung dân chủ là

nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam. Tuy nhiên, trên phương diện lý luận cũng như trong thực tiễn đã

nảy sinh hàng loạt vấn đề chưa được giải đáp. Điều đó gây khó khăn cho việc

pháp luật hoá nguyên tắc này, đặc biệt là trong việc quy định thẩm quyền,

chức năng, nhiệm vụ của từng loại cơ quan, tạo nên nguy cơ về tình trạng

quan liêu hoặc dân chủ vô chính phủ, quyền hạn không đi đôi với trách nhiệm

của một số cơ quan nhà nước và đội ngũ công chức nhà nước.

Thứ năm, sự tác động của tình hình quốc tế trên nhiều phương diện,

đặc biệt là về ý thức hệ giữa chủ nghĩa cộng sản với chủ nghĩa tư bản và các

thế lực thù địch. Tình hình thế giới đang ngày càng trở nên phức tạp. Xu

hướng toàn cầu hoá chi phối mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của tất cả các

quốc gia. Các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo,... đang ngày càng trở nên gay

52

gắt hơn.Cuộc cách mạng khoa học công nghệ; toàn cầu hoá; nền kinh tế tri

thức; đánh giá về chủ nghĩa xã hội,vai trò của các nước xã hội chủ nghĩa trong

trật tự thế giới; vai trò và sự chi phối của các nước lớn đối với hoà bình, an

ninh của thế giới, khu vực và các quốc gia, các vấn đề an ninh phi truyền

thống như an ninh lương thực, môi trường, tài chính, tiền tệ... đang không

ngừng ảnh hưởng tới Việt Nam. Một mặt, tình hình thế giới đã tạo điều kiện

cho Việt Nam trong việc nhanh chóng đi tắt đón đầu, tiếp thu những tinh hoa

nhân loại trong công cuộc cải cách kinh tế - xã hội và phát triển đất nước. Mặt

khác, sự chống phá của các thế lực thù địch nhằm thực hiện “diễn biến hòa

bình” ở Việt Nam khiến chúng ta càng phải thận trọng trong việc tiến hành cải

cách các thiết chế và thể chế nhà nước nhằm giữ vững độc lập dân tộc và chủ

nghĩa xã hội.

Nói tóm lại, nguyên nhân của những hạn chế, trước hết, là do việc xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện chuyển đổi nền

kinh tế là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của chúng ta còn ít, có nhiều việc phải

vừa làm, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm. Nguyên nhân sâu xa và quan trọng hơn

cả là một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân có nhận thức

không đúng, không đầy đủ về ý nghĩa, tầm quan trọng của các nguyên tắc và

việc thực hiện các nguyên tắc;một bộ phận khác coi việc thực hiện các

nguyên tắcnày là trách nhiệm của các cơquan nhà nước chứ không phải của

bản thân mình; công tác tổ chức thực hiện các nguyên tắc chưa được quan tâm

đúng mức, chưa có biện pháp cụ thể nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả các

nguyên tắc, chưa quy định trách nhiệm cụ thể cho các cơquan nhà nước, tổ

chức xã hội và công dân trong việc thực hiện các nguyên tắc;không có các

biện pháp kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm trong việc thực hiện các nguyên

tắc.Bên cạnh đó, nước ta đang trong giai đoạn quá độ, nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa còn non trẻ, yếu về khả năng cạnh tranh, trình độ

văn hóa, dân trí còn hạn chế. Trong khi tình hình thế giới có nhiều biến động

53

phức tạp, chúng ta phải đối mặt với những âm mưu phá hoại thâm độc của kẻ

thù trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa...những nguyên nhân đó ảnh hưởng

không nhỏ tới quá trình tổ chức thực hiện các nguyên tắc xây dựng nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới hạn chế trong quá trình xây dựng nhà

nước pháp quyền ở Việt Nam, trong đó chủ yếu là do việc xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế là

nhiệm vụ mới mẻ; hiểu biết của chúng ta còn ít, có nhiều việc phải vừa làm,

vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm. Do đó, cần phải kịp thời xử lý những vấn đề

phát sinh trong thực tiễn đổi mới, đặc biệt là những vấn đề nổi lên ngày càng

bức xúc như tình trạng quan liêu, lãng phí, tham nhũng,thiếu trách nhiệm

trong bộ máy nhà nước; tìm ra những biện pháp cải cách, nhất là cải cách

hành chính, cải cách tư pháp cương quyết hơn, triệt để hơn để tạo chuyển biến

tích cực nhằm khắc phục những khuyết điểm, tồn tại đó trong thời gian tới.

2.3. Một số giải pháp trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa ở Việt Nam

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một

cuộc cách mạng, cuộc cách mạng ấy chỉ có thể thành công khi đã hội tụ đầy

đủ các điều kiện theo yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đây

là một cuộc cách mạng lâu dài và nhiều khó khăn, thử thách, đòi hỏi có sự

định hướng cụ thể cho từng bước đi. Có thể coi các nguyên tắc xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là những định hướng cơ bản cho cuộc cách

mạng đó và việc thực hiện các nguyên tắc chính là việc tạo ra các điều kiện về

kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa...làm tiền đề cho sự hình thành nhà nước

pháp quyền. Nói cách khác, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

chỉ được xây dựng thành công khi các nguyên tắc đó được thực hiện đầy đủ

và nghiêm túc. Dưới đây, xin đề xuất một số giải pháp chính trị, pháp lý

nhằm thực hiện các nguyên tắc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

54

nghĩa Việt Nam.

Đầu tiên có thể bàn đến những giải pháp bảo đảm việc xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải giữ vững tính chất giai cấp

công nhân và tính chất nhân dân, tính chất nhân đạo của Nhà nước. Để bảo

đảm thực hiện nguyên tắc giữ vững tính chất giai cấp công nhân và tính chất

nhân dân, tính nhân đạo của Nhà nước, về mặt chính trị cần có đầy đủ những

đảm bảo để giai cấp công nhân phát huy được vai trò lãnh đạo cách mạng

thông qua đội tiên phong là Đảng cộng sản Việt Nam; để Nhà nước ta thực sự

là nhà nước do nhân dân làm chủ và mọi chủ trương, chính sách, pháp luật

của Nhà nước đều xuất phát từ nhu cầu, lợi ích cơ bản của con người. Ở đây,

khóa luận xin đề xuất một số giải pháp như sau:

Một là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đây

là lý tưởng, là mục tiêu và con đường mà chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng

ta đã lựa chọn ngay từ những ngày đầu thành lập. Độc lập dân tộc là mục

tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc, là tiền đề và điều kiện để xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đồng thời chủ

nghĩa xã hội bảo đảm chắc chắn và bền vững nhất cho nền độc lập của

dân tộc Việt Nam ta. Chỉ khi nào lợi ích của giai cấp công nhân phù hợp

và thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động, của dân tộc và xã hội,

giải phóng giai cấp công nhân gắn với giải phóng xã hội, độc lập dân tộc

gắn với xây dựng quốc gia dân tộc theo mục tiêu lý tưởng của chủ nghĩa

xã hội thì mới đảm bảo cho dân tộc có độc lập thực sự và nền độc lập thực

sự của dân tộc sẽ tìm thấy sự bền vững của nó trên con đường phát triển

của chủ nghĩa xã hội. Hiện nay cũng như về sau, nhà nước ta phải kiên

định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với việc

phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,

văn minh. Bởi dân có giàu thì nước mới mạnh, sự phồn vinh của đất nước

không thể tách rời sự tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân, không thể

tách rời với quá trình xây dựng xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

Thứ nhất, kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -Lênin, tư

55

tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ tư

tưởng của giai cấp công nhân trên toàn thế giới nói chung và giai cấp công

nhân Việt Nam nói riêng. Đó cũng chính là một nội dung chủ yếu thể hiện

bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng ta khẳng

định chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và

kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Để thực hiện điều đó, cần tăng cường

tuyên truyền, giáo dục bản chất cách mạng và khoa học, phương pháp luận

của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; trên cơ sở đó phải biết

vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của từng cấp, từng ngành, từng địa

phương và cơ sở. Có như vậy mới bảo đảm cho lý luận có sức sống trong thực

tiễn, khắc phục được khuynh hướng giáo điều, bảo thủ; thường xuyên coi

trọng công tác tổng kết, đúc rút kinh nghiệm, bổ sung, phát triển chủ nghĩa

Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giải đáp những vấn đề thực tiễn đặt ra,

đồng thời phải biết kế thừa, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp

thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, tri thức mới của thời đại, nâng cao năng

lực trí tuệ, năng lực tư duy lý luận; kiên quyết đấu tranh chống mọi thủ đoạn,

luận điệu xuyên tạc, phủ nhận, hạ thấp chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ

Chí Minh, và những tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, sai trái.

Thứ hai, phải nhằm phát huy được các giá trị của nền dân chủ xã hội

chủ nghĩa và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.

Trong suốt quá trình đổi mới, Đảng ta đã có sự lãnh đạo nhất quán, liên

tục về dân chủ, thực hiện phương châm cách mạng là sự nghiệp của quần

chúng; mọi đường lối, chủ trương của Đảng đều xuất phát từ thực tiễn và lấy

dân làm gốc; mọi hành động cách mạng đều thực sự của dân, do dân và vì

dân; kiên quyết thực hiện nguyên tắc dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.

Cùng với tiếp tục những tư tưởng về dân chủ xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn

cách mạng mới, Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là

mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng,Nhà nước và nhân dân. Nhà

56

nước là đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức và

thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chính sách của Đảng

và pháp luật của Nhà nước đều phải phản ánh lợi ích của đại đa số nhân dân.

Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định và

thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước”

[10, 44].

Thứ ba, bảo đảm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam được tiến hành đồng bộ với với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và đổi

mới hệ thống chính trị.

Về chính trị, báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng

khóa IX tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã rút ra bài học cho quá trình

đổi mới ở nước ta là, phải: “đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước

đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt

động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời

sống xã hội...”. Trên tinh thần đó,việc xây dựng nhà nước pháp quyền phải

được tiến hành toàn diện với bước đi thích hợp từ nhận thức, tưtưởng đến

hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, quan hệ đối ngoại đến tất cả các lĩnh

vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà

nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Trước

hết, cần tập trung vào xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa và từng bước đổi mới hệ thống chính trị; tiếp theo, phải tiến hành đồng

thời đổi mới kinh tế với đổi mới hệ thống chính trị. Cụ thể là:

Về kinh tế, cần thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa, tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách

phát triển kinh tế nhiều thành phần. Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị

trường; đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước, giữ vững

và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Đây là vấn đề có tính nguyên

tắc và là nhân tố quyết định nhất bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của

kinh tế thị trường, cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước.

Về xã hội, cần giải quyết tốt các vấn đề xã hội, hướng vào phát triển và

57

lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng xã hội, coi đây là bảo đảm tính ưu

việt của chế độ xã hội mới.Trong tình hình hiện nay, chúng ta phải phát huy

sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện đồng bộ các chính sách và pháp

luật của Nhà nước nhằm phát huy dân chủ và giữ vững kỷ cương trong xã hội.

Bằng nhiều giải pháp tạo ra nhiều việc làm mới; chăm lo cải thiện điều kiện

làm việc, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn và bệnh

nghề nghiệp cho người lao động. Từng bước mở rộng hệ thống bảo hiểm xã

hội và an sinh xã hội. Tiếp tục thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo,

chăm sóc những người có công với nước, thương binh, bệnh binh, cha mẹ, vợ

con liệt sĩ, gia đình chính sách. Đồng thời, đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng

chống tội phạm, giữ gìn trật tự và kỷ cương xã hội, ngăn chặn và bài trừ các tệ

nạn xã hội. Kiên quyết đấu tranh với những tiêu cực khác do mặt trái của cơ

chế thị trường gây ra.

Về văn hóa, phát triển văn hóa với tư cách nền tảng tinh thần của xã

hội, trước hết cần phải xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người

Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Sự gắn kết chặt chẽ

chiến lược phát triển kinh tế, xây dựng và chỉnh đốn Đảng với chiến lược phát

triển văn hóa phải được đặt lên vị trí hàng đầu. Bởi lẽ, văn hóa không đứng

ngoài kinh tế, phát triển kinh tế bền vững không thể thiếu nền tảng văn hóa ổn

định, văn hóa không chỉ là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, mà còn là “hệ

điều tiết” cho sự phát triển kinh tế bền vững. Ngoài ra, cần giữ gìn và phát

huy các giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc đồng thời mở rộng

giao lưu quốc tế và khu vực,tiếp thu có chọn lọc cái hay, cái tiến bộ trong tinh

hoa văn hóa các dân tộc khác để làm giàu thêm cho nền văn hóa dân tộc, làm

cho văn hóa Việt Nam bắt kịp sự phát triển của văn hóa nhân loại trong thời

đại ngày nay.

Thứ tư, đảm sự tiếp thu và vận dụng các giá trị phổ biến và kinh

nghiệm thế giới về xây dựng nhà nước pháp quyền vào quá trình xây dựng

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tổng kết kinh nghiệm của 20 năm đổi mới, một trong những bài học

58

được Đảng ta rút ra là: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam phải có sự tiếp thu những thành tựu, tinh hoa của nhân loại đã đạt được

trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền. Để thực hiện nguyên tắc này,

đòi hỏi chúng ta phải sớm hội nhập kinh tế quốc tế, chỉ trên cơ sở hội nhập

kinh tế quốc tế chúng ta mới có thể nhanh chóng tiếp cận với những thành

tựu, tinh hoa của thế giới về xây dựng nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, việc

hội nhập kinh tế quốc tế phải trên cơsở giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn

lãnh thổ, hội nhập vì lợi ích đất nước, giữ vững định hướng xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,

bảo vệ và phát triển nền văn hóa dân tộc, tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong quá trình hội nhập quốc tế,

phải khơi dậy và phát huy cao độ tinh thần cách mạng, ý chí tự lực tự cường

của mọi tầng lớp nhân dân để chủ động và tích cực tận dụng cơ hội, đương

đầu với cạnh tranh, vượt qua thách thức. Hội nhập kinh tế quốc tế phải đựơc

coi là công việc của toàn dân, toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị dưới sự

lãnh đạo của Đảng. Tăng trưởng kinh tế phải đi liền với tiến bộ và công

bằngxã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái, giữ gìn và phát huy bản

sắc văn hóa dân tộc, giữ vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội. Khai thác có

hiệu quả mọi nguồn lực để phát triển đất nước. Giữ vững và tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng, đồng thời nâng cao vai trò chủ động của Nhà nước, của

Mặt trận và các tổ chức chính trị -xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân

dân, của sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Mặt khác, thông qua mở rộng hợp tác quốc tế làm cho bạn bè quốc tế

hiểu biết đất nước và con người Việt Nam hơn, tăng thêm tình cảm, sự ủng

hộ, giúp đỡ đối với công cuộc đổi mới của Việt Nam và qua đó chúng ta góp

phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân tiến bộ thế giới vì mục tiêu của

thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Trên cơ sở hội

nhập quốc tế, cần nghiên cứu và dự báo xu hướng phát triển chủ yếu của thế

giới và khu vực, những tác động nhiều mặt của quá trình toàn cầu hoá; nghiên

59

cứu về chiến lược và chính sách của các nước lớn trong bối cảnh toàn cầu hoá

và sự tác động đến nước ta; định rõ vị thế, bước đi và chính sách chủ động hội

nhập của Việt Nam vào các thể chế kinh tế toàn cầu và khu vực. Nghiên cứu

các lý thuyết và kinh nghiệm phát triển trên thế giới để tìm ra con đường phát

triển phù hợp với điều kiện của đất nước, con người và xã hội Việt Nam...

Thứ năm, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Sự lãnh đạo của

Đảng bảo đảm cho Nhà nước hoạt động theo đúng đường lối chính trị, bảo

đảm phối kết hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị,

tạo cơ chế cho Nhà nước và các tổ chức hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ.

Phương thức lãnh đạo của Đảng không phải là dùng mệnh lệnh hành chính,mà

là phát huy dân chủ, đề cao tính đảng và nâng cao năng lực thực tế của tổ

chức đảng và đảng viên hoạt động ở các cơ quan nhà nước. Để thực hiện

nguyên tắc xây dựng nhà nước pháp quyền đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng

cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Đại hội X của Đảng chỉ ra giải

pháp cụ thể là: “Tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với

Nhà nước, coi đây là khâu mấu chốt trong việc đổi mới phương thức lãnh đạo

của Đảng nói chung”.[4,18]

Theo đó, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, quan điểm, các nghị

quyết, quyết định, nguyên tắc giải quyết các vấn đề trọng đại của quốc kế dân

sinh; xử lý những vấn đề cụ thể, nhưng có ý nghĩa chính trị quan trọng, mệnh

hệ tới nhiều giai cấp, tầng lớp và những vấn đề phức tạp trong quan hệ quốc

tế. Trong khi kiên trì nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối và trực tiếp về mọi

mặt đối với lĩnh vực quốc phòng và an ninh, cần phát huy tốt vai trò, chức

năng quản lý, điều hành của Nhà nước trong các lĩnh vực đó. Xây dựng cơ

chế vận hành của Nhà nước, bảo đảm tất cả mọi quyền lực nhà nước đều

thuộc về nhân dân.

Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối của Đảng

thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương trình mục tiêu lớn của Nhà

nước, bảo đảm cho Nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống một cách đầy đủ,

60

kịp thời và hiệu quả. Đảng lãnh đạo nhưng không bao biện, làm thay Nhà

nước; trái lại, phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước

trong quản lý đất nước và xã hội.

Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước phù hợp với nhiệm vụ mới, trước

hết bảo đảm xây dựng Nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh, hoạt động có

hiệu lực, hiệu quả cao. Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc thống nhất

lãnh đạo và quản lý công tác tổ chức cán bộ và đội ngũ cán bộ chủ chốt công

tác trong các cơ quan nhà nước; đồng thời tôn trọng, phát huy trách nhiệm của

các tổ chức, phát huy mọi sáng kiến của cán bộ, đảng viên là công chức, viên

chức. Trong việc đổi mới tổ chức, cán bộ và phương thức hoạt động của Nhà

nước, phải đặc biệt quan tâm, bảo đảm ổn định, giữ vững định hướng xã hội

chủ nghĩa, nhất là trước những bước ngoặt của cách mạng, sự biến động

không thuận lợi của đời sống chính trị quốc tế.

Kết hợp chặt chẽ việc lãnh đạo bằng tổ chức đảng với lãnh đạo thông

qua cá nhân đảng viên, nhất là người đứng đầu, trongbộ máy nhà nước theo

nguyên tắc tập trung dân chủ và nêu cao vai trò trách nhiệm của đảng viên là

người đứng đầu. Cùng với việc kiện toàn bộ máy, làm rõ chức năng, nhiệm vụ

của các tổ chức đảng, trước hết là đảng đoàn, ban cán sự đảng trong các cơ

quan nhà nước, cần chú trọng nâng cao trách nhiệm và tính đảng của các đảng

viên hoạt động trong các cơ quan này. Mọi đảng viên, bất kể ở cương vị nào,

đều phải luôn nêu cao tính đảng cả trong nhận thức, hành động, trong giữ gìn

phẩm hạnh và lối sống; gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng quyền làm

chủ của nhân dân.

Đảng kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước thông qua tổ

chức đảng, đảng viên; đồng thời, lãnh đạo công tác thanh tra của Nhà nước;

lãnh đạo tổ chức, động viên quần chúng kiểm tra, giám sát các công việc và

hoạt động của Nhà nước; phát huy mặt tốt, khắc phục mặt yếu kém, đẩy lùi

tiêu cực. Thông qua đó, tổng kết kinh nghiệm, luôn bổ sung, hoàn chỉnh

đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Xây

dựng quy chế công tác và chỉ đạo việc phối hợp kiểm tra của cấp ủy với thanh

61

tra nhà nước và thanh tra.

Về xây dựng pháp luật, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền,

những quan hệ cơ bản, nhất là quan hệ lãnh đạo và quản lý, phải được

thể chế hóa – cả về quyền hạn lẫn trách nhiệm. Trên phương diện pháp lý,

có thể nói, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, mọi nghị quyết

của Đảng chỉ có giá trị bắt buộc đối với đảng viên và tổ chức đảng tương ứng.

Muốn những nghị quyết đó được thực hiện bằng sức mạnh của toàn dân,

của toàn bộ quần chúng trong phạm vi lãnh đạo của cơ quan đảng tương

ứng, chúng phải được thể chế hóa thành pháp luật, hay quy chế, quy định,

chính sách... của cơ quan nhà nước. Nói cách khác, trong quản lý xã hội, pháp

luật cần được xem là tối thượng, việc quản lý nhà nước đơn thuần bằng nghị

quyết cần được khắc phục triệt để.

Hiện nay, trong Hiến pháp chỉ mới ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng

đối với Nhà nước và xã hội nói chung (Điều 4). Do đó, các quan điểm chỉ

đạo cơ bản của Đảng về tổ chức bộ máy, nội dung và mục tiêu căn bản trong

hoạt động của Nhà nước cần phải được thể chế hóa, công khai hóa và triển

khai thực hiện bằng Nhà nước theo hệ chuẩn pháp luật đã xác định. Hệ thống

quy phạm đó phải xác định rõ thẩm quyền, phạm vi và trách nhiệm... lãnh đạo

của Đảng, nhiệm vụ của Nhà nước trong quan hệ với chủ trương, đường lối,

quan điểm của Đảng.

Thể chế hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước cần

được cụ thể hóa cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, cơ chế vận hành của

từng loại cơ quan trong bộ máy lập pháp, hành pháp, tư pháp, thích hợp với

từng lĩnh vực và từng cấp hành chính. Ở đây, trước hết từ các nguyên tắc hiến

pháp, hiến định, cần xác định rõ vai trò và phương thức lãnh đạo của Bộ

Chính trị, Ban chấp hành trung ương đối với Quốc hội trong công tác tổ chức

bộ máy nhà nước và việc thực hiện các chức năng lập hiến, lập pháp; giám

sát tối cao; quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; đồng thời,

cần tính đến khảnăng ban hành đạo luật quy định chi tiết về vai trò và

62

phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đối với chính quyền các cấp.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Sau hơn 30 năm đổi mới, Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam bên

cạnh việc khẳng định được vai trò, vị thế đối với quốc gia, dân tộc, vai trò,

trách nhiệm đối với những vấn đề chung trên thế giới, cũng bộc lộ nhiều yếu

kém, bất cập. Sự vận động khách quan của hiện thực trong nước cũng như sự

biến đổi nhanh chóng của tình hình quốc tế đã và đang đặt ra những yêu cầu

cấp bách cho việc tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nhà nước ta theo hướng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cùng với thực tiễn của quá trình xây dựng

nhà nước Việt Nam độc lập, nhận thức về nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam dần được hình thành và định hình gắn với sự nhận thức, kế

thừa có phê phán, chọn lọc những lý luận về nhà nước pháp quyền trên thế

giới của Đảng và Nhà nước ta. Những quan điểm đó ngày càng được bổ

sung, phát triển, được thể hiện rõ trong các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt

Nam. Những thành quả to lớn mà Việt Nam đã đạt được trong thực tiễn xây

dựng nhà nước pháp quyền những năm qua chứng tỏ quá trình đổi mới tư duy

lý luận của Đảng ta về vấn đề đặc biệt quan trọng này. Một mặt, quan điểm

của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cơ sở,

định hướng chính trị quan trọng để giới khoa học tiếp tục đi sâu nghiên cứu,

phát triển lý luận về nhà nước pháp quyễn xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặt

khác, giới khoa học từ nghiên cứu của mình tham mưu cho Đảng để quá trình

đổi mới tư duy của Đảng về nhà nước pháp quyền có những bước tiến mới.

Bên cạnh đó, cần tiếp tục nghiên cứu, làm sâu sắc hơn những luận điểm cơ

bản mang tính nguyên tắc trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa Việt Nam, đó là: giữ vững bản chất giai cấp công nhân, tính

nhân dân, tính dân chủ và tính nhân đạo của nhà nước; đảm bảo phù hợp với

tình hình thực tiễn Việt Nam và phục vụ cho sự phát triển đất nước; kế thừa

và phát huy truyền thống, kinh nghiệm quản lý đất nước củaViệt Nam cũng

như của các nhà nước trên thế giới. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

63

chủ nghĩa Việt Nam là yêu cầu cấp bách đối với toàn bộ tổ chức và hoạt động

của bộ máy Nhà nước nhưng cũng là một quá trình từ thấp đến cao, từ chưa

hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện, do đó phải tiến hành từng bước vững

64

chắc với những giải pháp cụ thể đã được nêu.

KẾT LUẬN

Trong dòng chảy lịch sử tư tưởng của nhân loại, tư tưởng về nhà nước

pháp quyền đã có những đóng góp to lớn mang tính thời đại. Đó là những tư

tưởng về quyền lực nhà nước; sự phân chia quyền lực giữa lập pháp, hành

pháp và tư pháp...tư tưởng tự do, dân chủ, bác ái mà các nhà tư tưởng thời kì

này nêu lên đã trở thành khẩu hiệu cho phong trào cách mạng, dân chủ và tiến

bộ trên thế giới. Đó cũng là khẩu hiệu mà nhiều nhà nước tiến bộ trên thế giới

hiện nay đã và đang cố gắng thực hiện. Thực tiễn xây dựng nhà nước pháp

quyền trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay đang đặt ra những yêu cầu về việc

hoàn thiện mô hình lý luận trong sự biến đổi không ngừng của hiện thực. Từ

những khái quát về khái niệm nhà nước pháp quyền đã phần nào giải quyết

được ở tiền đề của những yêu cầu đó.

Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam một tất

yếu khách quan được đặt ra trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có

nhiều biến đổi mạnh mẽ, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế và công cuộc

đổi mới toàn diện ở nước ta hiện nay. Với những tiền đề kinh tế - chính trị -

xã hội trong thực tiễn cũng như tiền đề lý luận về nhà nước pháp quyền và

nhà nước xã hội chủ nghĩa của phương Đông cũng như phương Tây, vấn đề

xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đặt ra như một quá

trình nhận thức và kiểm nghiệm, đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên tổng kết

thực tiễn, nghiên cứu lý luận, từng bước hình thành và phát triển mô hình nhà

nước mới. Với tính tích cực của nó trong việc bảo vệ quyền con người, quyền

công dân, phát huy dân chủ, quản lý xã hội bằng pháp luật, trong tổ chức và

hoạt động của bộ máy nhà nước, vấn đề cần quan tâm là phải giữ vững định

hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền mang

đặc thù Việt Nam giai đoạn hiện nay. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác –

Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc tư tưởng, học

65

thuyết về nhà nước pháp quyền phương Tây và tư tưởng về nhà nước và pháp

luật của phương Đông, trong suốt nhiều năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam,

Đảng ta đã không ngừng hình thành và phát triển lý luận về nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta với mục tiêu, phương hướng và những biện

pháp cụ thể. Đặc biệt, sau khi nước ta tiến hành đổi mới 1986, công cuộc xây

dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam đã chính thức

được khởi động và đạt được nhiều thành tựu to lớn, góp phần thúc đẩy quá

trình công nghiệp hóa –hiện đại hóa nước ta, nâng cao đời sống tinh thần và

vật chất của người dân, giữ vững an ninh quốc phòng, phát triển đất nước theo

hướng “hòa nhập” nhưng không “hòa tan”. Bên cạnh đó, công cuộc xây dựng

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng có những vấn đề tồn

tại do thực tiễn và lý luận đặt ra, đòi hỏi chúng ta phải không ngừng nghiên

cứu, làm sâu sắc hơn những luận điểm cơ bản đã được khẳng định. Trên cơ sở

đó, đẩy nhanh cải cách cơ chế phối hợp và phân chiaquyền lực nhà nước,

hoàn thiện hệ thống pháp luật, không ngừng phát huy quyền dân chủ, bảo vệ

quyền con người và quyền công dân,đẩy mạnh xây dựng và chỉnh đốn Đảng,

tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây dựng nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam... để chính quyền của dân, do dân và vì dân

ngày càng phát huy tính ưu việt, phục vụ đắc lực mục tiêu “dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, nhanh chóng đưa nước ta hội

nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đây là những nhiệm vụ

mang tính thời sự, cấp bách hiện nay và để thực hiện chúng cũng rất khó

khăn, phức tạp, đòi hỏi phải huy động một sức mạnh tổng hợp của khối đại

đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công nhân, nông dân và đội ngũ trí

thức.Những nội dung được đề cập đến trong khóa luận này mới chỉ là những

tìm tòi bước đầu về vấn đề nhà nước pháp quyền,nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Mặc dù còn

có những thiếu sót trong quá trình nghiên cứu, song những gì đã đạt được

trong khóa luận sẽ là cơ sở cho hướng nghiên cứu tiếp theo của tác giả về vấn

66

đề nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo tổng hợp (2001), “Xây dưng nhà nước pháp quyền của dân, do

dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng”, Chương trình KHXH 05, Đề tài

KHXH. 05.05.

2. Nguyễn Đăng Dung (2008), Chế ước quyền lực nhà nước, Nxb. Đà Nẵng.

3. Nguyễn Đăng Dung (2001), “Nhà nước pháp quyền, một hình thức tổ

chứcnhà nước”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 6.

4. Nguyễn Đăng Dung (chủ biên) (2009), Giáo trình lịch sử các học thuyết

chính trị, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 12, Nxb.

CTQG, Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 43, Nxb.

CTQG, Hà Nội

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb.

CTQG, Hà Nội

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 53, Nxb.

CTQG, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX,Nxb. CTQG, Hà Nội

10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X,

NXB Chính trị quốc gia, Hà nội 2006.

11. Nguyễn Vũ Hảo (2018), Giáo trình triết học phương tây hiện đại, Nxb

Đại học quốc gia Hà Nội

12. Nguyễn Vũ Hảo, Quan niệm về nhà nước pháp quyền

13. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 7, Nxb. CTQG, Hà Nội.

14. Lê Tuấn Huy (2006), Triết học chính trị Montesquieu với việc xây dựng

67

nhà nước pháp quyềnViệt Nam, Nxb.Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh

15. Trần Ngọc Liêu (2009), “Khái niệm nhà nước pháp quyền”, Tạp chí Triết

học, số 11/2009

16. Nông Đức Mạnh (2004), “Ba mươi năm thực hiện Di chúc của Bác Hồ”,

Tạp chí Cộng sản, số 17.

17. Lê Hữu Nghĩa - Nguyễn Văn Mạnh (2001), 55 năm xây dựng Nhà nước

của dân, do dân và vì dân – Một số vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb CTQG,

Hà Nội.

18. Nguyễn Văn Niên (1996), Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam - một

số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. CTQG, Hà Nội.

19. P.S. Taranop (2006), 106 nhà thông thái, Nxb. Chính trị Quốc gia.

20. Trần Hậu Thành (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nxb. Lý

luận chính trị.

21. Đào Trí Úc (1992), Tìm hiểu về nhà nước pháp quyền, Nxb Pháp lý, Hà

Nội.

22. Đào Trí Úc chủ biên (2005), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

23. Đào Trí Úc - Phạm Hữu Nghị (2009), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã

hội chủnghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay: Một sốvấn đề lý luận và

thực tiễn, Nxb Từ điển bách khoa toàn thư, Hà Nội.

24. Đỗ Tiến Sâm (2008), Trung Quốc với việc xây dựng nhà nước pháp quyền

XHCN, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

25. Bùi Ngọc Sơn (2006), Xây dựng Nhà nước pháp quyền trong bối cảnh văn

hoá Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

26. Nguyễn Thúy Vân, “Bàn về trách nhiệm của nhà nước trong điều kiện

xây dựng và phát triển kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” (trong sáchVai

trò của nhà nước Việt Nam sau 2 năm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới

68

WTO), Nxb Thế giới, 2009.

27. Nguyễn Thúy Vân“Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề xây

dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân”, Hội thảo khoa học quốc tế "Di

sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay" nhân kỷ niệm 120 năm ngày sinh

của Hồ Chí Minh, Nxb Quân đội Nhân dân, 2010.

28. V.Kudriavseve (1991), Nhà nước pháp quyền – xã hội và cá nhân, Thông

tin khoa học xã hội, Hà Nội, số 5.

29. Nguyễn Thúy Vân, “Nhận thức triết học về nhà nước pháp quyền và sự

vận dụng nó trong thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

ở Việt nam hiện nay”, đề tài cấp ĐHQGHN, 2012-2014.

30. Nguyễn Văn Yểu –Lê Hữu Nghĩa (2006), Xây dựng nhà nước pháp quyền

69

XHCN Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Nxb.CTQG, Hà Nội.