Khởi nghiệp và tăng trưởng kinh tế
(Phần 3)
Kinh điển khởi nghiệp: Tại sao không lượm tờ 20$?
Những hiu biết cơ bản nhất thu nhn từ thực tế về tăng trưởng kinh tế đã
phản bác cách thức chỉ tập trung vào các yếu tố đầu vào được đưa vào q
trình sản xuất. Đồng thời nó hướng tới việc xem xét bản thân chính quá trình
sản xuất. Theo quan đim n cổ đin, các thay đổi của hàm sn xuất có tác
động tới tăng trưởng kinh tế mnh hơn các thay đổi ca các yếu tố nguồn lực
được đưa vào sản xuất. Số lượng và chất lượng ca cả nguồn vốn vật chất
ln con người đều quan trọng, nhưng đó là mt sản phẩm của nền kinh tế
chứ không phải các yếu tố ngoại sinh đối với nền kinh tế. Cả hai yếu tố
ngun vốn này (con người và vật chất) như chúng ta đã thy đều đã tng
thừa thãi ở nước Trung Quốc cổ đại, và thậm c ngày hôm nay các Kim t
tháp Ai-Cập (vn vt chất) cũng như kiến thức uyên bác ca Leonardo da
Vinci (vốn con người) cũng đều khiến người khác kính phục cả, nhưng chưa
hẳn là tăng trưởng kinh tế...
Blanchard và Fischer (1989) nhận thức rằng "GDP thực tế đã lớn gấp
khoảng 37 lần hồi năm 1874, 7 lần so với GDP năm 1919, và 3 lần so với
năm 1950. Việc ngoại suy lùi dẫn tới một kết luận nổi tiếng rằng tăng
trưởng kinh tế ở các tốc độ như đã xảy ra sẽ không thể tiếp tục xảy ra sau
vài thế kỷ nữa." Đất đai, lao động và vốn từ lâu đã bt đầu quá trình biến đổi
trở thành tăng trưởng kinh tế. Chính bản thân quá trình (chứ không phải là
yếu tố đầu vào sản xuất) giúp kết hợp các yếu tố đầu vào mi tạo ra ng
trưởng kinh tế bền vững.
Thay vì xem xét sản xuất trong bi cảnh hàm sn xuất
Ricardo, Bohm-Bawerk (1959) dựng lên một cấu trúc
sản xuất như một "đường vòng" khi sdụng các phương
pháp sn xut gián tiếp. Ý tưởng của Bohm-Bawerk là
một phần hữu cơ của thuyết vốn trường phái Áo
(Hayek 1941) và được ứng dụng vào để giải thích các
chu kỳ kinh doanh (Hayek 1933, 1935) và thậm c giúp
soi sáng quá trình tăng trưởng kinh tế (Kirzner 1986).
Hệ thống lý thuyết này, tập trung vào các kích thích lợi ích hướng tới
thay đổi quá trình sn xuất, là hiu biết về cách thức những người khởi
nghiệp khám phá ra các quá trình sản xuất mới. Trong mô hình Solow,
các quá trình sn xut mi bị gộp cả vào yếu tố thi gian t trong hàm sn
xuất, và tác động ca t thường được thừa nhận "thông qua" sự tiến bộ về
công ngh-kỹ thuật.
Khởi nghiệp và Tiến bộ kỹ thuật-công ngh
Theo pơng pháp lunn cổ điển, sản phẩm được sản xuất ra bằng cách
kết hợp các yếu tố đầu vào sản xuất, cách suôn sẻ nhất để tạo ra tiến bộ công
nghệ chính là sn sinh ra công nghệ mới. Nghiên cu và phát triển (R&D)
được trin khai bằng việc kết hợp các nguồn lực đất đai, lao động và tư bản,
để tạo nên nhưng thay đổi tiến bộ công nghệ-kỹ thut. Rõ ràng không ai
"Khởi nghiệp kinh
doanh là một nhân
tố thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế"
thể bác bỏ những thành công nhđầu tư
vào nghiên cứu và phát triển, nhưng bản
thân việc chi tiêu cho nghiên cu và phát
triển (R&D) chỉ là mt phầnu chuyện
mà thôi. Một khi nghiên cứu đã hoàn tất,
các kết quả nghiên cứu cần được ứng dụng
vào thc tế để sáng tạo ra các công đoạn sản xuất có giá thành thấp hơn,
hoặc thậm chí còn bí ẩn hơn, kết quả nghiên cứu cần phải sản xuất ra các
hàng hóa-dịch vụ mà trước đó chưa từng được sinh ra trên đời. Đây chính
là vai trò của khởi nghiệp.
Kirner (1973) mô tnhững người khởi nghiệp kinh doanh là nhng con
người có đủ khả năng nhạy bén để phát hiện được các cơ hội lợi nhuận
mà trước đó chưa bị phát hiện ra, thế rồi tận dụng các cơ hội đó. Theo
cách Kirzner mô tả, quá trình khởi nghiệp liên quan chặt chẽ tới khả năng
phát hin và cý tới những thứ mà không ai trước đó từng chú ý. Tuy
nhiên, một số người có năng lực và ở vị trí quant một số kiu hi lợi
nhuận nhất định tốt n những người khác. Ví d, những người được đào
tạo tốt v k thuật cơ khí sẽ có khnăng tìm đượchội lợi nhuận tiềm
năng trong việc thiết kế động cơ đốt trong tốt hơn nhiều so với một luật sư.
Một người chưa bao giờ tới bãi biển sẽ khó nắm bắt đượchội bán kem
hoặc m cửa hàng bán áo phông (pull) trên bãi bin. Những người thường
xuyên đi li sẽ nhận thấy những thiết bị dịch vụ hữu ích xuất hiện ở i này
mà chưa có ở nơi kia, có thể tạo ra cơ hội lợi nhuận.
Sự nhạyn khởi nghiệp bản thân nó chẳng liên quan gì ti kiến thức, và s
nhạy bén này không y tn kém chi phí gì cả, theo nghĩa là, "nhy n"
không cn phải sử dụng nguồn lực gì. Tuy nhiên, nhng hoạt động trong quá
khứ của một cá nhân lại có ảnh hưởng mật thiết tới năng lực của cá nhân đó
trong việc nắm bắt một cơ hội lợi nhuận khi hi đó xuất đầu lộ diện. Tất
cmi người đều có những kiến thức cụ thể đối với những loại hoạt động
của mình -- kiến thức có tính thời gian và không gian đặc thù mà không nhất
thiết những người khác có thể chia scùng.
Chính những hiểu biết này khiến cho ng lực quan sát các
hi của con người khác nhau rất khác nhau. Chẳng hạn,
chẳng có gì trùng hợp hay ngẫu nhiên c khi người sáng tạo
ra con chip vi x là một kỹ sư điện, chứ không phải một
nhà thơ. Tất nhiên, kiến thức bản thân nó không tạo ra nhận
thức khởi nghiệp, nhưng kiến thức tạo ra hội để quan sát
thấy những thứ mà trước kia chưa ai chú ý do thiếu loại kiến thức cần thiết.
Điều này tạo ra sự kết nối giữa kiến thức kiểu Hayek và quá trình khi
nghiệp kiểu Kirzner. Lý thuyết kinh tế đã khiến cho nhiều kinh tế gia bị định
kiến về cơ hội lợi nhuận sai lầm, bởi lẽ tại điểm cân bằng cạnh tranh tân cổ
điển, mọi cơ hội lợi nhuận đều biến mất do quá trình cạnh tranh.[7]
[7] Câu chuyện khôi hài sau đây về kinh tế học đã được kể li trong Olson
(1996) có thminh họa điểm này. Hai nhà kinh tế học, một là p giáo sư,
người kia là giáo, đang đi bộ dc theo phố. Bỗng tay phó giáo sư nói:
“Ô này, có tờ 20$ rơi ở vỉa hè kia.” Tay giáo sư phán: “Làm gì có
chuyn. Nếu có cơ hội đó, ai đó đã lượm ngay rồi còn đâu.”
Trên thực tế, hầu hết các cơ hội tạo lợi nhuận mà các nhà khởi nghip quan
sát thy được đều là cơ hội mới. Điều này vn đúng cho dù thành công của
khởi nghiệp xảy ra ngoạn mục hay cũng chỉ xoàng xoàng. Chúng ta hãy
quan sát thử những sản nghiệp ln của Hoa K trong lịch sử.
Andrew Carnegie có thể tạo dựng nên được nền móng của tập đoàn
thép US Steel nhờ việc tận dụng được quy trình sn xuất Bessemer
vừa mi ra đời.
John D. Rockefeller phát trin được Công ty dầu lửa Standard Oil
Company nhờ việc ôngthể kiểm soát được hệ thống phân phi,
thời kỳ đó hoàn toàn phụ thuộc vào nhng hạ tầng đường sắt mi
được xây dựng.
Các dây chuyền sản xuất của Henry Ford ch trở thành khả thi khi mà
th trường xe hơi đã phát triển đủ lớn.
Sản nghiệp ca Bill Gatesng lên theo sự phát trin của ngành công
nghệ máy tính nhân (PC).
Chẳng có ai trong số này tmình sn sinh ra được các công nghệ mà nhờ đó
làm cho họ trở nên giàu có, mà họ có hiểu biết giúp họ tận dụng được cơ hội
khởi nghiệp nào đó.
Tuy vy, cũng cần lưu ý rng trong mi tình huống như thế thì thường có
một cơ hội khởi nghiệp vừa mi được xuất hiện, và cơ hội đó tht không
may ch trạng thái ít được nhận biết trong khoảng thời gian ngắn thôi,
trước khic nhà kinh doanh lập tức nm bắt nó. Các cơ hội lợi nhun đâu
có nm n lóc ch cho chúng ta tới lượm nó đi. Ngược li, chúng xuất hiện
bất ngờ và các nhà khi nghiệp liên lao ti ẵm chúng đi để có thể tận dụng
hi.