Kỹ thuật gây tê đám rối thần kinh cánh tay
I. Đại cương
1. Sơ lượt lịch sử
- m 1885 Halstead người lần đầu tiên thực hiện bơm thuốc tê trực tiếp vào
đám rối thần kinh cánh tay trong trường hợp đám rối thần kinh cánh tay đã được
bộc lộ.
- m 1911 Hirschel Kulenkampff thai kthuật gây tê đám rối thần kinh
cánh tay đường qua nách và đường trên trên xương đòn.
- Năm 1921 Belg Reding tkỹ thuật chọc đường qua nách cao (vùng cao của
hỏm nách).
- Năm 1940 và 1944 Macintosh Mushin tả lại k thuật chính xác của
Kulenkampff. Sau đó nhiều tác giả khác cải tiến kỹ thuật của Kulenkampff để ứng
dụng trong lâm sàng.
- Năm 1964 Winnie, Lavallee và Colins đưa ra kỹ thuật chọc cạnh mạch máu.
- Năm 1970 Winnie cải tiến kỹ thuật chọc cạnh mạch máu bằng cách lấy mốc chọc
vtrí C6 chính đây sở cho sự ra đời kthuật chọc đường qua bậc
thang.
- Năm 1973, Raj, Mongomer và Nettels mô tả đường chọc dưới xương đòn.
- Vsau này nhmáu kích thích thần kinh cơ nên việc thực hiện các kỹ thuật
gây tê đám rối thần kinh cánh tay dễ thực hiện và có hiệu quả n.
2. Giải phẫu đám rối thần kinh cánh tay
Đám rối thần kinh cánh tay bắt nguồn từ các rễ thần kinh cổ C5, C6, C7, C8, đôi khi
thêm nhánh nối tC4 hoặc D1, D2. Các r thần kinh này hp lại thành 3 thân
nhất, khi ra khỏi mức của cơ bậc thang chúng gặp động mạch dưới đòn phân
chia thành các nhánh trước và nhánh sau. Ctập hợp các thần kinh và mạch u
này chạy qua khe sườn đòn phân bcủa các thân thần kinh lớn liên quan với
động mạch dưới đòn như sau:
- Thần kinh giữa nằm ở trên động mạch.
- Thần kinh quay nằm ở sau động mạch.
- Thần kinh trụ nằm ở dưới động mạch.
Trước khi vào ti hõm nách, các dây thần kinh bì dây thần kinh mũ đã được
tách ra khỏi đám rối và m cho việc gây các dây thn kinh này rất khó khăn,
thường phải tiêm thuốc tê thêm. Tất cả các y thần kinh và mạch máu này kt
chxuất phát của chúng cho tới hõm nách đều nằm trong một bao bọc chung hay
nói cách khác trong một khoang tế bào tương đối kín.
Ở phía trước là gân cổ giữa, phía sau là cân liên đốt sống, phía trong là hai cột dọc,
phía ngoài cân c nông, trừ hai dây thần kinh cơ bì dây thần kinh mũ tách ra
sớm, còn lại các thân thần kinh lớn đều nằm trong bao cân này.
Hình 11.1. Giải phẫu đám rối thần kinh cánh tay
3. Nguyên lý gây tê
Liên quan quan trọng khi gây tê đám rối thần kinh cánh tay đó là muốn gây tê toàn
bcác nhánh thần kinh cần sử dụng thtích thuốc tê ln vì th tích khoang này
rộng. Do vậy, khi tiêm thuốc gây tê nếu càng phần trên xương đòn gần cột
sống thì khnăng làm toàn bcác nhánh thần kinh càng dễ. Thất bại trong tê
đám rối thần kinh cánh tay thường gặp do thể tích thuốc không đủ lớn hoặc tiêm
ra ngoài bao cân thần kinh và mạch máu.
Một điểm nữa cần nhớ là liên quan trực tiếp đám rối thần kinh cánh tay:
+ Phần trên của đám rối thần kinh cánh tay: phía trên và phía trong là các
lchia sát với tuỷ sống nên cý đặc biệt khi y theo đường giữa các bậc
thang có thể chọc vào tuỷ sống gây biến chứng gây tê tusống toàn bộ.
+ bên dưới của đám rối thần kinh cánh tay: đỉnh màng phổi nên
thể chọc vào màng phổi khi tiến hành kỹ thuật theo đường trên xương đòn.
II. Chỉ định gây tê đám rối thần kinh cánh tay
1. Các chỉ định ngoại khoa
- Các phẫu thuật nằm chi trên, hay được sdụng cho các cuộc mổ từ khuỷu tay
xuống tới bàn tay.
- Đặc biệt cho các bệnh nhân có chống chỉ định gây mê toàn thân.
2. Các chỉ định nội khoa
- Điều trị đau do bị viêm thần kinh (zona), hoặc đau giữa các mõm cụt.
- Đau tay khi luyện tập.
- Các trường hợp thiếu máu của chi gây đau, đặc biệt áp dụng kỹ thuật gây tê đám
rối thần kinh cánh tay liên tục.
3. Chỉ định chọn lựa kỹ thuật theo vị trí mổ
- Gây theo đường ch thường áp dụng cho các cuộc mổ tkhuỷu tay đến bàn
tay có gây tê thêm dây thần kinh cơ bì và bì cánh tay.
- Gây dường trên xương đòn hoặc dưới xương đòn tháp dụng cho các phẫu
thuật ở 1/3 dưới cánh tay trở xuống ban tay.
- Gây đường giữa c bậc thang thể áp dụng cho các phẫu thuật vùng
vai trở xuống bàn tay.
4. Chng chỉ định của gây tê đám rối thần kinh cánh tay
- Nếu có tổn thương thần kinh ngoại vi hoặc trung ương của chi trên từ trước.
- Nhiễm trùng tại chỗ chọc kim, rối loạn đông máu và đang điều trị bằng các thuốc
chống đông.
- Các bệnh nhân rối loạn dẫn truyền nhĩ thất, loạn nhịp tim là chống chỉ định
tương đối.