
Lịch sử điện ảnh
Lịch sử điện ảnh là quá trình ra đời và phát triển của điện ảnh từ cuối thế
kỉ 19 cho đến nay. Sau hơn 100 năm hình thành và phát triển nhanh chóng, điện
ảnh đã chuyển từ một loại hình giải trí mới lạ đơn thuần trở thành một nghệ thuật
và công cụ truyền thông đại chúng, giải trí quan trọng bậc nhất của xã hội hiện đại.
Sự ra đời của điện ảnh
Roundhay Garden Scene
Theo sách Kỷ lục Guinness thì cuốn phim ghi lại hình ảnh chuyển động đầu
tiên còn được biết tới ngày nay là đoạn phim Roundhay Garden Scene được quay
với tốc độ 12 khung hình trên giây tại Leeds, Anh năm 1888. Đây là thử nghiệm
của nhà phát minh người Pháp Louis Le Prince.
Sau đó 5 năm, năm 1893, tại Hội chợ thế giới tổ chức tại Chicago, Hoa Kỳ,
Thomas Edison đã giới thiệu với công chúng hai phát minh mang tính đột phá là

Kinetograph, một dạng máy ghi lại hình chuyển động, và Kinetoscope, một thiết bị
bao gồm các cuộn phim celluloid (phát minh của William Kennedy Laurie
Dickson, kỹ sư trưởng trong phòng thí nghiệm của Edison) được quay bằng một
động cơ, người xem khi ghé mắt vào một kính lúp sẽ nhìn thấy các hình ảnh
chuyển động nhờ sự chiếu sáng của một ngọn đèn phía sau các cuộn phim. Tuy
vậy Edison có lẽ chỉ coi phát minh quan trọng này là một thiết bị giải trí đơn giản,
ông không tiếp tục phát triển nó và bỏ lỡ cơ hội lịch sử trở thành cha đẻ của ngành
điện ảnh.
La Sortie de l'usine Lumière à Lyon, một trong số những phim đầu tiên
Năm 1895 tại Lyon, Pháp, anh em Auguste và Louis Lumière đã phát minh
ra cinématographe (máy chiếu phim), một thiết bị ba trong một bao gồm máy
quay, bộ phận in tráng và máy phóng hình. Ngày 22 tháng 3 năm 1895, tại Salon
Indien (Phòng khách Ấn Độ) nằm dưới tầng hầm của quán cà phê Grand Café ở
Paris, hai người đã tổ chức buổi trình chiếu có bán vé đầu tiên[1]. Khán giả tham
dự buổi chiếu được xem một chuỗi chừng 10 đoạn phim ngắn quay cảnh sinh hoạt
thường ngày. Trong số này có bộ phim mà về sau trở nên nổi tiếng La Sortie de
l'usine Lumière à Lyon (Buổi tan ca của nhà máy Lumière ở Lyon), được quay vào
mùa hè năm 1895, ghi lại cảnh các công nhân rời khỏi nhà máy của nhà Lumière ở
Lyon. Buổi chiếu này được coi là ngày khai sinh của điện ảnh cả với tư cách một
môn nghệ thuật - nghệ thuật thứ bảy, cả với tư cách một ngành công nghiệp - công

nghiệp điện ảnh. Một thời gian ngắn sau đó, các phương tiện chiếu hình chuyển
động khác cũng liên tục được phát minh. Ở Mỹ, Edison cho ra đời loại máy có tên
Vitascope, còn ở Berlin, Đức, anh em Max và Emil Skladanowsky giới thiệu loại
máy Bioscop.
Điện ảnh nhanh chóng trở thành một thứ giải trí mới lạ và quầy chiếu phim
trở thành một gian hàng không thể thiếu tại các hội chợ lớn. Tại đó người ta
thường trình chiếu các đoạn phim ngắn dưới một phút, mô tả những cảnh sinh hoạt
thường nhật hoặc các hoạt động thể thao. Mặc dù các bộ phim chưa hề được biên
tập, chú ý tới các góc quay hay đơn giản là chưa hề có đạo diễn, những bộ phim
này vẫn được ưa chuộng và tạo điều kiện để điện ảnh phát triển mạnh mẽ trong thế
kỉ sau đó.
Kỷ nguyên phim câm
Những tiến bộ về kỹ thuật và thương mại
Ngay từ thời kì đầu, các nhà phát minh và các nhà điện ảnh đã cố gắng
đồng bộ hóa hình ảnh và âm thanh nhưng cho đến cuối thập niên 1920, không giải
pháp kỹ thuật nào thực sự có hiệu quả trong việc thu để sau đó phát đồng thời cả
hình ảnh và âm thanh. Vì vậy trong suốt 30 năm, các bộ phim ra đời không hề có
tiếng động và chúng thường được gọi là phim câm. Để minh họa cho các bộ phim
này, người ta phải sử dụng các dàn nhạc hoặc các nghệ sĩ tạo tiếng động trực tiếp
tại nơi chiếu. Một cách khác là sử dụng các intertitle (bảng dẫn chuyện hoặc ghi
thoại) chèn vào giữa các cảnh phim.
Năm 1902, nhà điện ảnh người Pháp Georges Méliès cho ra mắt bộ phim
Le Voyage dans la Lune (Cuộc du hành lên Mặt Trăng), bộ phim giả tưởng mang
tính cách mạng trong việc sử dụng các kỹ xảo điện ảnh và việc xây dựng kịch bản

gồm nhiều cảnh phim khác nhau. Méliès đã mở ra một hướng đi mới của điện ảnh,
đó là sử dụng kỹ thuật quay và in tráng để biến đổi các hình ảnh quay được theo trí
tưởng tượng chứ không còn chỉ thuần túy là quay lại những cảnh tượng có thật
ngoài đời. Năm 1903, Edwin S. Porter, một đạo diễn làm việc cho Edison đã thực
hiện bộ phim miền Tây đầu tiên, The Great Train Robbery. Porter cũng là người
đề ra cấu trúc cơ bản của một bộ phim phải là các cảnh quay (shot) chứ không phải
là các cảnh tĩnh (scene) như trong sân khấu.
Góp phần vào sự phát triển của điện ảnh thời kì này phải nói tới sự ra đời
của hàng loạt các rạp chiếu phim. Sau thời kì phải sử dụng các rạp hát để trình
chiếu các bộ phim, những rạp chuyên dụng để chiếu phim đầu tiên, những
nickelodeon (được đặt tên dựa theo tiền vé thông thường của các rạp này là 1
nickel tuơng đương 5 xu) ra đời. Cho đến năm 1908, đã có tới 10.000 nickelodeon
tại Mỹ. Tại Pháp, một loạt công ty điện ảnh lớn như Pathé Frères hay Gaumont
được thành lập và nhanh chóng đưa điện ảnh trở thành một lĩnh vực kinh doanh
thực sự mang lại lợi nhuận lớn. Trong lĩnh vực kỹ thuật, Thomas Edison đã cho
thành lập công ty Motion Picture Patents Company, cơ sở nắm giữ hầu hết các
bằng sáng chế quan trọng về phim ảnh và thiết bị quay, qua đó đã gần như độc
quyền lĩnh vực này không chỉ ở Mỹ mà còn trên thế giới trong một thời gian khá
dài.
Sự phát triển của nghệ thuật điện ảnh

Charlie Chaplin trong Kid Auto Races in Venice, 1914
Thay cho các bộ phim quay cảnh sinh hoạt thông thường mang tính phim tư
liệu hoặc phim thời sự, các nhà điện ảnh những năm đầu thế kỉ 20 đã bắt đầu thực
hiện các bộ phim điện ảnh với độ dài và kịch bản, quá trình sản xuất hoàn chỉnh.
Bộ phim Úc The Story of the Kelly Gang phát hành năm 1906 với độ dài tới 80
phút được coi là một trong những bộ phim điện ảnh thực sự đầu tiên. Là trung tâm
văn hóa của thế giới giai đoạn này, châu Âu cũng nhanh chóng cho ra đời các bộ
phim điện ảnh ăn khách như La Reine Elizabeth (Pháp, 1912), Quo Vadis? (Ý,
1913) hay Cabiria (Ý, 1914).
Tuy nhiên Thế chiến thứ nhất đã làm vị trí thống trị của nền điện ảnh châu
Âu suy yếu khi các hầu hết các nước lớn ở lục địa già bị cuốn vào cuộc chiến.
Thay thế vào đó, nền điện ảnh Hoa Kỳ bắt đầu nổi lên với sự vượt trội cả về chất
lượng nghệ thuật và thương mại. Năm 1915, đạo diễn D.W. Griffith cho ra đời bộ
phim điện ảnh nổi tiếng The Birth of a Nation, tác phẩm đưa ra những quy tắc cho
quá trình làm phim và cũng là bộ phim có nội dung gây tranh cãi đầu tiên về vấn
đề phân biệt chủng tộc. Cho đến thập niên 1920, mỗi năm các hãng phim Mỹ
(phần lớn tập trung ở Hollywood, tiểu bang California) đã cho ra đời chừng 800
bộ phim điện ảnh mỗi năm, chiếm 82% sản lượng phim toàn cầu[2]. Những ngôi
sao điện ảnh lớn của Mỹ như Charlie Chaplin hay Buster Keaton không chỉ nổi
danh ở trong phạm vi nước Mỹ mà còn được hâm mộ trên khắp các châu lục.
Ở châu Âu, sau chiến tranh các nền điện ảnh cũng từng bước khôi phục vị
trí của mình. Tại Pháp, một lớp các nhà điện ảnh trẻ đã đưa ra những thử nghiệm
mới về hiệu ứng ánh sáng, hình ảnh và thay đổi nhịp điệu phim bằng việc biên tập.
Trào lưu này thường được biết tới như là trào lưu điện ảnh ấn tượng Pháp. Điện
ảnh Đức cũng nổi lên như một đối thủ cạnh tranh của Mỹ với Chủ nghĩa biểu hiện