
DÒNG LỊCH SỬ CỦA ĐIỆN ẢNH VIỆT
NAM
Ngày nay trên toàn thế giới, các nhà sử gia, nghiên cứu về lịch sử Điện ảnh đều công
nhận rằng ngành nghệ thuật thứ bảy chính thức được khai sinh ra vào những ngày
đông giá buốt cuối năm 1895 tại Pháp bởi hai anh em nhà Lumière. Không lâu sau đó,
tức chỉ ba năm sau, điện ảnh đã được người Pháp du nhập vào Việt Nam một cách
nhanh chóng. Thời ấy, người ta gọi những buổi trình chiếu phim là buổi trình diễn “trò
chớp bóng”...
Trước năm 1945
Sau khi thành lập vào ngày 11 tháng 9 năm 1923, công ty Phim và Chiếu bóng Ðông
Dương liền bắt tay sản xuất phim tại Việt Nam. Từ 1923 đến 1938, người Pháp đã sản
xuất được 10 phim (trong đó có 3 phim truyện).
Tính theo giai đoạn từ năm 1920-1945 đã có một số bộ phim do Việt Nam làm hoặc
do Pháp sản xuất với diễn viên là người Việt Nam như: Kim Vân Kiều, Huyền Thoại
Bà Đế, Một Đồng Kẽm Tậu Được Ngựa, Cánh Đồng Ma, Trận Phong Ba, Một Buổi
Chiều Trên Sông Cửu Long, Thầy Pháp Râu Đỏ, Trọn Với Tình, Toét Sợ Ma…
Kim Vân Kiều của đại thi hào Nguyễn Du được hãng phim của Pháp- Indochine Films
et Cinema (IFEC) đưa lên màn bạc, với các diễn viên là các đào kép tuồng của ban
Quảng Lạc, Hà Nội. Phim mắc phải nhiều sai lầm về nội dung, phần diễn xuất cũng
chẳng có gì khác hơn hát trên sân khấu, đào kép thì ăn mặc và cử chỉ như hát
tuồng…Sau cái thất bại của phim Kim Vân Kiều, hãng IFEC lại thực hiện hai cuốn
phim hài do tài tử người Tàu lai tên Tou Fou đóng vai chánh. Hai phim này cũng thất
bại luôn! Vẫn không nản lòng, IFEC cố gắng làm một phim dài về Việt Nam, đó là
phim Huyền Thoại Bà Ðế do Paul Numier viết kịch bản, dựa theo câu chuyện đau
thương của một cô gái được truyền tụng trong dân gian. Vai chánh do cô đầm lai
Georges Spesct thủ diễn, các tài tử Việt chỉ đóng vai phụ và phim này cũng không
được hoan nghinh, bởi có nhiều cái ngớ ngẩn, sai lạc.
Kế đó chẳng bao lâu thì tiệm chụp ảnh Hương Ký ở Hà Nội của ông Nguyễn Lan
Hương- một người nhiệt tình với nghệ thuật thứ bảy trong giai đoạn sơ khai, đã mướn
một chuyên viên người Pháp dạy ông và phim đầu tiên là cuốn phim hài Một Ðồng
Tiền Kẽm Tậu Ðược Ngựa, phỏng theo tác phẩm Perrette Et Le Pot De Lait, truyện
ngụ ngôn của La Fontaine. Phim thứ hai của Hương Ký cũng là phim hài với tựa phim
là Cả Lố, nhưng phim đang quay dở dang lại phải bỏ, vì có sự bất đồng giữa Hương
Ký và tài tử đóng phim. Sau đó, Hương Ký còn quay phim tài liệu về đám tang vua
Khải Ðịnh và lễ Tấn phong Hoàng Ðế Bảo Ðại. Tuy được hoan nghênh, nhưng vì
không có thị trường nên không đủ bù đắp vào số vốn đã bỏ ra thực hiện phim. Phim

chiếu ở Hà Nội được 27 ngày, doanh thu khoảng 5.000 đồng tiền Ðông Dương, trong
khi chi phí sản xuất gần 30.000.
Nhờ có tiếng vang, ông được Tỉnh trưởng tỉnh Vân Nam (Trung quốc) đặt hàng làm
hai phim phóng sự quay tại Trung Quốc (một trong hai phim là Ðám Tang Tướng
Ðường Kế Nghiêu, năm 1929). Nhưng sau đó người ta không thấy ông Nguyễn Lan
Hương làm phim tiếp, mà lặng lẽ trở về với nghề nhiếp ảnh của mình. Có người cho
rằng chính quyền Thực dân Pháp không muốn có một công ty Việt Nam cạnh tranh
với Công ty Phim và Chiếu bóng của người Pháp đang bị thua lỗ nặng nề sau khi làm
ba phim thất bại. Hãng phim đầu tiên của người bản xứ - hãng Hương Ký - tự xóa sổ
sau vài năm tồn tại. Từ đó, hoạt động sản xuất phim của người Việt Nam ngưng hoạt
động suốt 7 năm liền (1930-1936). Dầu sao, ông Nguyễn Lan Hương cùng hãng phim
Hương Ký của mình đã chứng minh được một điều: Người Việt Nam có thể làm phim
và đã từng làm được phim của mình vào những năm cuối thời kỳ phim câm của điện
ảnh thế giới.
Dù bước đầu của điện ảnh Việt khó khăn và thất bại, nhưng ma lực của điện ảnh vẫn
khiến nhiều nhóm bạn trẻ khác hăng hái theo đuổi. Nhóm Nguyễn Tấn Giàu (Antoine
Giàu) với hai phim Một Buổi Chiều Trên Sông Cửu Long, và Thầy Pháp Râu Ðỏ. Kế
tiếp là ông Richard Nguyên với phim Huế Ðẹp Và Thơ, các phim trên đều quay bằng
phim 16 ly… Những năm 30 của thế kỷ XX đánh dấu nhiều sự kiện quan trong trong
đời sống của nhân dân Việt Nam: Ðảng Cộng Sản Ðông Dương ra đời (3-2-1930),
nhiều cuộc đấu tranh của nông dân, thợ thuyền chống lại chính sách hà khắc của thực
dân Pháp. Một mặt, do nước Pháp phải bận tâm dồn sức đối phó với thế lực phát xít
đang ráo riết chuẩn bị chiến tranh thế giới lần thứ hai. Mặt khác, nhờ Mặt trận Bình
dân ở Pháp thắng lợi trong cuộc bầu cử, lập chính phủ mới vào năm 1936, nới lỏng
ách cai trị đối với các thuộc địa. Tại Việt Nam, hình thành một lớp trí thức, văn nghệ
sỹ, nhà báo, thanh niên thành thị tiếp thu những tinh hoa của văn hóa Pháp. Một cao
trào sáng tác văn học, sân khấu, âm nhạc nở rộ. Trong bối cảnh đó, từ năm 1936 đã
xuất hiện nhiều nhóm thanh niên Việt Nam có ý định làm phim. Những thanh niên
này tập hợp nhau lại trong một tổ chức có tên là An Nam nghệ sỹ đoàn (An Nam là
tên gọi trước đây của Việt Nam). Họ say mê nghệ thuật thứ bảy, tự học hỏi về nghề
nghiệp mới mẻ này qua sách vở gửi mua từ Pháp. Họ có đủ nhiệt tình duy chỉ thiếu
tiền và phương tiện máy móc. Chuyến thăm Hà Nội và Sài Gòn của thiên tài điện ảnh
Charlie Chaplin cùng vợ là Paulette Godart vào năm 1937 lại càng thổi bùng lên ngọn
lửa nhiệt tình trong tim họ.
Ðầu năm 1937, một thương gia người Hoa giàu có ở Hải Phòng tên Trịnh Lâm Ký đã
tiếp xúc với An Nam Nghệ sỹ đoàn, bàn việc đưa một đoàn diễn viên Việt Nam sang
Hong Kong quay phim. Nhưng việc không thành vì xảy ra cuộc chiến Trung - Nhật.
An Nam Nghệ sỹ đoàn tiếp tục vận động những người giàu có ở Hà Nội bỏ tiền ra làm
phim, nhưng không có kết quả.
Cuối tháng 11 năm 1937, An Nam Nghệ sỹ đoàn ký được một hơp đồng làm phim với

Công ty điện ảnh Nam Trung hoa (The South China Motion Pictures Co.) để sản xuất
bộ phim truyện dài Cánh Đồng Ma. Theo hợp đồng, phía Việt Nam chịu trách nhiệm
viết kịch bản, cung cấp 22 diễn viên cho các vai chính phụ trong phim, tự chi tiền vé
khứ hồi bằng đường thủy Hải Phòng - Hong Kong - Hải Phòng, trả tiền thù lao cho
các diễn viên và sẽ được hưởng 15% lợi nhuận sau khi trừ toàn bộ chi phí. Phía Công
ty điện ảnh Nam Trung Hoa cử người làm đạo diễn, quay phim cùng các chuyên viên
kỹ thuật, phương tiện máy móc, tổ chức sản xuất, in tráng, hậu kỳ, in hàng loạt các
bản phim để chiếu ở các rạp, được hưởng 85% lợi nhuận.
Kịch bản phim Cánh Đồng Ma do Ðàm Quang Thiện viết (bút danh trên phim là
Nguyễn Văn Nam). Nhân vật chính là Hùng, một sinh viên trường Y, học hành rất
thông minh, nhưng vì xuất thân trong một gia đình bất hảo (cha mẹ đều là dân ăn
chơi) nên Hùng nhiễm cái gien của cha mẹ mình. Do vậy, càng hấp thu được nhiều
kiến thức khoa học, Hùng càng có nhiều hành động dị thường. Ðàm Quang Thiện vốn
là một sinh viên Y khoa, nên kịch bản của ông muốn chứng minh cho luận thuyết di
truyền trong y học. Song, Công ty điện ảnh Nam Trung Hoa cùng Ðạo diễn Trần Phì,
người Trung Hoa, đã tự ý sửa nội dung kịch bản, biến nó thành một phim trinh thám
với nhiều máu và đàn bà. Các nghệ sỹ Việt Nam cực lực phản đối nhưng không kết
quả. Họ đành phải uất ức mà diễn theo những nội dung không có từ trước trong kịch
bản. Sau 13 ngày quay cật lực, phim Cánh Đồng Ma đã hoàn thành giai đoạn quay vào
ngày 30-1-1938.
Sau khi xong Cánh Đồng Ma, Công ty Nam Trung Hoa đã dụ dỗ 6 diễn viên người
Việt ở lại Hong Kong để quay tiếp cho họ phim Trận Phong Ba, một phim 100% là
phim Hong Kong tuy câu chuyện nói về người Việt và do người Việt đóng. Truyện
phim kể về cuộc đời của một học sinh gốc nông thôn được cha mẹ cho ra thành phố ăn
học, nhưng đã sa ngã trong "gió bụi kinh thành". Cuối cùng chàng bị cha mẹ, vợ hiền
từ bỏ, nên đã tự tử để thoát đời trần tục. Phim Trận Phong Ba khởi quay 6 ngày sau
khi kết thúc cảnh quay cuối cùng của phim Cánh Đồng Ma. Công ty Nam Trung Hoa
gấp rút hoàn thành phim này với âm mưu tung ra chiếu trước phim Cánh Đồng Ma.
Do phim làm một cách cẩu thả, vội vã nên khi đưa sang chiếu ở Việt Nam bị người
xem kịch liệt phản đối la ó ầm ĩ ngay trong rạp. Báo chí ở Việt Nam hồi ấy đều cho
rằng đây là một thứ hàng giả dán nhãn hiệu Việt Nam, đồng thời cũng lên án 6 diễn
viên người Việt ở lại Hong Kong để đóng phim này.
Ðến đầu tháng 7 năm 1938, phim Cánh Đồng Ma mới được Công ty Nam Trung Hoa
tung ra chiếu (sau Trận Phong Ba 1 tháng). Tuy có hơn Trận Phong Ba một chút,
nhưng khán giả cũng như dư luận báo chí đều chê trách những yếu kém của phim. Sau
Cánh Đồng Ma, các nghệ sỹ trong An Nam Nghệ sỹ đoàn còn tham gia hai phim
truyện nói tiếng Pháp do Hãng Franco Film thực hiện tại Việt Nam rồi không tiếp tục
hoạt động nữa vì không có ai dám bỏ vốn ra làm phim tiếp. An Nam Nghệ sỹ đoàn chỉ
tồn tại trong 2 năm nhưng họ đáng được ghi nhận như những người Việt Nam đầu tiên
hợp tác làm phim với nước ngoài, tuy không đựơc thuận lợi như ta đã biết.

Cuối năm 1937, chủ Hãng đĩa hát Asia tên là Nguyễn Văn Ðinh, vốn là một kỹ sư say
mê nghệ thuật điện ảnh, đã cho ra đời Hãng phim Châu Á (Asia Film) tại Sài Gòn.
Ông bỏ tiền mua máy móc thiết bị từ bên Pháp về để sản xuất phim có tiếng cỡ 35mm
đầu tiên tại Việt Nam. Ðầu năm 1938, hãng Asia Film khởi quay bộ phim đen trắng
35mm Trọn Với Tình có độ dài 90 phút. Ðạo diễn là Nguyễn Văn Danh (tức Tám
Danh), xuất thân từ nghệ sỹ sân khấu cải lương. Kịch bản, quay phim và dựng phim
do Giám đốc hãng là Nguyễn Văn Ðinh thực hiện. Phim được quay và làm hậu kỳ
hoàn toàn tại Việt Nam do các chuyên viên kỹ thuật Việt Nam đảm nhiệm mà lực
lượng nồng cốt là các kỹ thuật viên của hãng đĩa Asia. Trình độ nghề nghiệp thấp, kỹ
thuật non yếu không thể mang lại thành công cho phim Trọn Với Tình như mong đợi.
Dầu sao, khi tung ra chiếu vào đầu năm 1939, người xem cũng đông để cổ vũ cho
phim nước nhà, vì đây là một bộ phim "có tiếng nói" 35mm đầu tiên tại Việt Nam, do
người Việt Nam sản xuất.
Sau Trọn Với Tình, Nguyễn Văn Ðinh còn cho ra tiếp 3 phim nữa do mình tự viết
kịch bản, tự đạo diễn, tự quay phim, dựng phim v.v... Ðó là các phim: Cô Nga Dạo
Thị Thành (1939), Khúc Khải Hoàn và Toét Sợ Ma (1940), nhưng nghệ thuật và kỹ
thuật của cả 3 phim đều không hơn gì Trọn Với Tình. Từ năm 1940, hãng phim Châu
Á ngừng hoạt động cho đến những năm 60, mới hoạt động trở lại tại Sài Gòn.
Năm 1939, một hãng phim mới ra đời nữa tại Sài Gòn là hãng Việt Nam Phim với bộ
phim truyện ra mắt có tên là Một Buổi Chiều Trên Sông Cửu Long. Phim được quay
16mm, có độ dài 90 phút với âm thanh ngoài phim (nhạc, lời, tiếng động được thu vào
đĩa, khi chiếu được bật lên cùng hình ảnh). Thực sự đây là một phim "câm "do
Nguyễn Tấn Giầu viết kịch bản, đạo diễn, quay phim, viết nhạc kiêm giám đốc sản
xuất. Phim kể về một cô gái bất hạnh bị cha mẹ ép gả cho một trọc phú ít học, cục
mịch và thô lỗ, nên đã cùng người yêu chạy trốn ngay trong đêm tân hôn. Không may,
người yêu trượt chân ngã xuống thác nước chết. Cô gái chôn cất người yêu xong, cắt
tóc đi tu. Phim Một Buổi Chiều Trên Sông Cửu Long chỉ ra mắt được vài buổi ở Sài
gòn và Mỹ Tho rồi không thấy được chiếu ở đâu nữa. Cuối năm 1939, Nguyễn Tấn
Giầu lại bắt tay làm tiếp phim truyện hài Lão Thầy Pháp Râu Đỏ và phim tài liệu Ðèo
Ngang Tức Cảnh. Cả hai phim này đều chung số phận "chết yểu" như bộ phim trước.
Dầu sao cũng cần ghi nhận rằng: Qua những bộ phim của mình, Nguyễn Tấn Giầu có
ý định phê phán xã hội Việt Nam đương thời như việc ép duyên, mê tín dị đoan v.v...
Ðến đây có thể nói đã chấm dứt giai đoạn khởi đầu của điện ảnh Việt Nam bắt đầu từ
buổi chiếu phim tại Hà Nội ngày 28. 4. 1899 cho đến 3 bộ phim chết yểu của hãng
Việt Nam phim vào năm 1939. Ðiều đáng chú ý là đến năm 1940, số lượng rạp chiếu
bóng ở Việt Nam đã vượt quá con số 60, trên dân số lúc đó là 20 triệu người, chủ yếu
tập trung vào các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, Huế. Ðiện ảnh
không còn xa lạ với người dân đô thị Việt Nam. Lẽ ra trước sự hâm mộ của đông đảo
khán giả đối với bộ môn nghệ thuật mới mẻ này, nền sản xuất phim Việt Nam đã có
thể có những bước tiến mạnh mẽ hơn. Tiếc rằng điều đó đã không xảy ra. Một mặt vì

sự non kém, thiếu học hỏi chuẩn bị đến nơi đến chốn của những người làm phim Việt
Nam, một mặt do chính quyền thực dân Pháp cũng không khuyến khích, thậm chí còn
kiềm chế để giành lợi thế cho các công ty kinh doanh phim, nhập khẩu phim mà chủ là
những người Pháp. Một số rạp chiếu phim còn bị chính quyền thực dân đe doạ không
cho nhập phim nước ngoài nếu chiếu phim do người Việt Nam sản xuất. Dầu sao
trong quãng thời gian từ 1924 1939, người Việt Nam đã sản xuất được một số phim.
Nghệ sỹ Vĩnh Lộc cũng là một người nặng lòng với phim ảnh trong thập niên 1940.
Ông tên thật là Nguyễn Văn Bé, sinh năm 1926 tại Đức Nghĩa, Phan Thiết. Vì ưa
thích tự do và ca hát nên dù 17 tuổi đã đậu Primaire, ông vẫn không thích vướng vào
nghiệp quan trường. Thời Pháp thuộc, tại Phan Thiết đã nở rộ điện ảnh với hai cuốn
phim trắng đen do vợ Phạm Ngọc Thìn là cô Bê đóng chung với các tài tử Duy Chánh,
Mai Hiếu và Lê Quỳnh.
Đó là những tư liệu quý thời điện ảnh Việt còn phôi thai, những người làm nghệ thuật
cũng như tài tử đóng phim còn rất xa lạ với nghệ thuật thứ bảy. Những phim nói trên
trôi nổi ở đâu, nếu còn, chắc chỉ có thể ở trong tay các nhà sưu tập tư nhân?!
Các hãng phim hay nói đúng hơn là các nhóm làm phim, chỉ hoạt động được một thời
gian ngắn vì thiếu vốn đầu tư, thiếu kỹ thuật, bị các nhà tư sản Pháp độc quyền mạng
lưới chiếu bóng và chính quyền thuộc địa gây nhiều khó khăn. Sau năm 1940, quân
Nhật tiến vào Đông Dương, người Việt Nam không còn ai đứng ra làm phim. Các rạp
chỉ chủ yếu chiếu phim Nhật và các nước đồng minh của Nhật.
1945-1954
Ngay từ những ngày đầu giành lại được độc lập, mặc dù phải gặp rất nhiều khó khăn,
nạn đói năm 1945 hoành hành, nền kinh tế bị kiệt quệ bởi chính sách bóc lột của Nhật
và Pháp, Chính phủ lâm thời Việt Nam vẫn cố gắng xây dựng được một bộ phận cho
Điện ảnh và Nhiếp ảnh. Mặc cho phương tiện, máy móc thiếu thốn, chiến sự bùng nổ,
hoạt động điện ảnh vẫn không vì thế mà đình trệ, một số thước phim tài liệu ngắn ghi
lại những thời khắc lịch sử như: Hồ Chủ Tịch Từ Pháp Trở Về (1946), Trận Đánh Tại
Ô Cầu Dền (1946)… Nền điện ảnh còn trẻ trung non kém của nước Việt Nam ra đời
như thế đó, nhưng nó đã đánh một dấu mốc lịch sử quan trọng trong sự hình thành
một nền điện ảnh Cách Mạng về sau này.
Đầu năm 1953, trên đà thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tình hình
điện ảnh của chúng ta đã có những bước phát triển đáng kể và đây cũng chính là thời
gian chín muồi để có thể thành lập một tổ chức điện ảnh có tính chất toàn diện trên cả
nước. Vào ngày 15/3/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh thành lập ngành
Điện ảnh Cách Mạng Việt Nam tại chiến khu Việt Bắc. Từ đó, ngày này cũng chính
thức được coi là ngày khai sinh ra nền điện ảnh dân tộc. Chiến khu Đồi Cọ tại Thái
Nguyên, nơi làm việc của phòng Điện ảnh - Nhiếp ảnh, đã trở thành cái nôi của điện
ảnh Việt Nam, nơi đã sản sinh ra những lão thành cách mạng Điện ảnh như Nghệ sĩ
nhân dân Phạm Văn Khoa, Nghệ sĩ nhân dân Bùi Đình Hạc, đạo diễn Khắc Lợi, cùng
các nghệ sĩ khác. Mặc dù vào thời điểm đó, hoạt động điện ảnh đã nhộn nhịp hẳn lên,