Liên kết kinh tế vùng: từ lý thuyết đến thực tiễn Việt
Nam
Nhìn từ bên trong, ln bên ngoài: bài toán “liên kết vùng” hiện nay
không chnhắm đến mục tiêu to lực, mà còn làm sao phân chia nguồn
lực một cách hiệu năng. Bài toán này khó bởi nhng hạn chế trong việc
quản lý kinh tế vùng hiện nay. Xu hướng liên kết có, nhưng một sự khởi
đầu không phải đơn giản.
Người đầu ngành trong nghiên cu về chiến lược, GS Michael Porter (người
đã đến thuyết trình Việt Nam vào m ngoái) đưa ra tầm quan trọng của
cụm ngành” (cluster) trong việc gia tốc cnh tranh.
Cụm ngành, theo Porter, là một nhóm các công ty, tổ chức hiệp hội liên quan
với nhau trong một lĩnh vực cụ thể, cùng tập trung tại một khu vực địa lý,
liên kết dựa vào những khía cạnh tương đồng và bổ sung.
Hiện tượng cụm ngành không mi. đã tng xuất hiện trong quá khứ, lẫn
hiện tại qua các di khảo, chuyện kể về những khu vực, địa danh nổi tiếng về
một sản phẩm hay một dịch vụ nào đó. Cái mới của Porter là đã đưa nó vào
hệ thống và lập luận những lợi ích mà cụm ngành mang lại. Điểm quan trọng
nhất: cụm ngành giúp ng năng suất và thúc đẩy sáng kiến.
Một mặt, thể tham gia trong cm ngành ddàng tiếp xúc với mng lưới
khách hàng, nhà cung cp và s hữu các thông tin chuyên biệt hơn so với
bên ngoài. Mt khác, do sức ép cạnh tranh, các công ty thuộc cụm ngành
thường xuyên trong quá trình “tự phê bình và thay đổi”, luôn phải sẵn sàng
tiến hành ci cách. Quá trình này có thể dễ dàng hơn khi có mạng lưới chung
các công ty cùng mục tiêu. Hơn nữa, đồng thanh tđồng tiếng: khả năng
phản ánh lên giới hoạch định chính sách sẽ nhanh và bài bn hơn.
Cụm ngành, theo Porter, là một nhóm các công ty, tổ chức hiệp hội liên quan
với nhau trong một lĩnh vực cụ thể, cùng tập trung tại một khu vực địa lý,
liên kết dựa vào những khía cạnh tương đồng và bổ sung.
Liên kết cái gì?
Như vậy, theo Porter, liên kết để tăng sức cnh tranh, trước hết là trong
khuôn khổ doanh nghip. Trên bình diện kinh tế vùng, lập luận đó có thể
được diễn giải theo hai cách. Thứ nhất, nếu đồng ý xem cụm ngành là ca
khóa cnh tranh, thì chiến lược vùng phải dựa vào tư duy liên kết ngành.
Tùy theo li thế cạnh tranh, hay thế mạnh riêng. Điểm then chốt là cần xây
dựng một mạng lưới cụm ngành bổ sung.
Xuất khẩu gạo, cà phê, cao su không chỉ là việc cấy lúa, trồng cây mà còn
hệ thống phân phối, tiêu thụ, cộng với những cơ quan thông tin kinh tế với
nhim vụ thu thập, lưu trữ, phổ biến thông tin về sn phẩm, về hoạt động của
doanh nghiệp địa phương. Nhưng khi một ngành vượt quá quy mô một vùng
hay cn các ngành bổ sung rộng lớn hơn thì thế nào?
Đó là cách nhìn thhai, nhu cầu “liên kết vùng”, với những khu vực trọng
điểm và những khu vực ngoại vi tập trung những ngành nghề bổ sung. Nói
ngoại vi hay bổ sung, không phải những ngành đó không quan trọng. Tùy
theo đặc tính từng cụm ngành, tng khu vực. Chẳng hạn như du lịch, không
chỉ danh lam thắng cảnh, mà các dch vụ vây quanh như khách sạn, nhà
hàng, hoạt động giải trí, cả thái độ, ứng xử của người dân bản địa đóng góp
một phần lớn vào mức độ thành bại sản phẩm cuối cùng.
Công nghiệp xe i một thí dụ khác. Bang miền Nam Baden-
Württemberg (CHLB Đức) mệnh danh là thủ phủ ôtô, vì tập trung được một
lượng ngành phụ trội dày đặc. Ngoàing xe như Daimler AG, Porsche,
Audi,… còn hiện diện nhà cung cp thiết bị như Robert Bosch, ZF
Friedrichshafen, chế tạo máy như Trumpf, Heidelberger Druckmaschinen,
Festo. Thành phm cuối cùng là ôtô, những ngành khác đóng vai trò phụ trợ.
Đặt vấn đề như trên, vậy liên kết vùng là liên kết các ngành mang tính b
sung lẫn nhau, mục tiêu là tăng năng lực cạnh tranh. Phương thức đa dạng,
tùy thuộc vào chuỗi giá trị sản phẩm. Có thể là một hạt nhân chủ đạo, các vệ
tinh ngành khác xung quanh, nhưng cũng có thể là chui cùng một thành
phm đưa qua nhiều giai đoạn, mà mỗi địa phương đảm nhận vai trò trung
chuyển.
Thực tiễn Việt Nam: bài tn khó
Theo dõi các diễn đàn kinh tế vùng nước ta, xut hin hai vấn đề chính được
tranh lun sôi nổi.
Thứ nhất, nhiu chuyên gia đặt vấn đề về tình trng manh mún, rời rạc, nhỏ
ltrong phát triển kinh tế địa phương. Đặc biệt ởc khu vực trọng điểm,
tim năng lớn. Thực tế cho thấy, do giới hạn mức độ địa giới hành chính mà
nhiều tỉnh đã trở nên kém hấp dẫn dưới mắt nhà đầu tư trong những dự án
quy mô. Ngoài ra, đặc thù địa phương về công tác hành chính, thuế má cũng
tạo ra những rào cn vô hình.
Vấn đề này có thể thấy tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Nói như lời
một quan chức Phòng Thương mi và Công nghiệp Việt Nam chi nhánh Cần
Thơ thì vi chính sách còn xé lẻ như hin nay, các địa phương đang tự “trói
tay mình”. Gần đây nhất là tiếng nói từ ngành du lịch. Do những tương đồng
về địa lý, văn hóa, các tỉnh Đng bằng sông Cửu Long chưa tìm ra được cho
mình một “li thế so sánh” để cạnh tranh. Không có tính liên kết giữa các
vùng, dn đến rập khuôn mô thức du lịch.
Thứ hai, bởi vì chưa phối hợp, chưa có điều chỉnh tổng thể, nhiều khả năng
dẫn đến “tâm lý bầy đàn”. Tỉnh bạn có cảng, tỉnh mình cũng phải có. Bạn
xây công viên phần mềm, mình cũng phải xây. Xu hướng này đáng lo ngại
do song hành với những yếu tố cng sinh như: đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam đang tăng, cơ chế cấp phép dự án còn khiếm khuyết, quản lý chi tiêu
công chưa minh bạch…
Chẳng hạn như khu vực miền Trung với nhiều tiềm năng còn chưa khai thác.
Trong mt hội thảo khoa học bàn vvấn đề liên kết phát triển kinh tế trên
địa bàn khu vc miền Trung - Tây Nguyên, TS Trn Minh Cả - phó chủ tịch
UBND tỉnh Quảng Nam nhận định: Việc quy hoạch gần như các địa phương
tlàm ri trình Chính phủ phê duyệt, không có những nghiên cứu, tham
khảo địa phương bạn để đấu nối, liên kết.
Điều này dn đến tình trạng địa phương nào cũng có sân bay, cảng biển, khu
công nghiệp, trường đại học. Một tỉnh nếu lợi thế cơ shạ tầng, sân bay,
cảng sâu có thể là một lợi thế về cạnh tranh. Nhưng xét tổng thể, đó chưa
chắc là một quyết định tối ưu. Như mô hình chủ đạo, và các vệ tinh ngành
bao bọc trình bày ở trên, yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh không phải
nằm ở số lượng, mà nm ở câu hỏi làm sao xây dng được chuỗi giá tr
mang tính hiu năng nhất.
Huế không cần xây sân bay, khu giải tliên hợp để cạnh tranh với Đà Nng.
Vai trò của Huế trong chuỗi giá trị là biểu tượng văn hóa, truyn thống, cổ
kính, làm nên li thế cạnh tranh riêng. Ngược lại, Huế có thể liên kết với Đà
Nẵng, mạnh về cơ sở hạ tầng, cùng tạo ra thành phm cuối cùng là điểm đến
ưa thích của khách thập phương. Không ai cm Huế không được tận dụng
li thế Đà Nng. Và cũng không ai cấm Đà Nng đưa sông Hương, chùa
Thiên Mụ, Thành Ni vào chui phân tích giá trị của mình.
Ngược li, nếu mỗi địa phương đồng loạt đầu tư tạo một chuỗi giá trị riêng
cho mình, trong khi khnăng chỉ có thể tối ưu hóa từ một đến hai giá trị, thì
nguy cơ lãng phí srất cao. Hoặc giả như chuỗi giá trị vẫn hình thành,
nhưng bị bó hẹp trong một khuôn giới hạn nhất định, thì năng lực cạnh tranh
với các vùng khác sbị ảnh hưởng đáng kể.
Như vậy, nhìn từ bên trong, lẫn bên ngoài: bài toán “liên kết vùng” hiện nay
không chỉ nhắm đến mục tiêu tạo lực, mà còn làm sao phân chia ngun lực
một cách hiệu năng. Bài toán này khó bi những hạn chế trong việc quản
kinh tế vùng hin nay. Xu hướng liên kết có, nhưng một sự khởi đầu không
phải đơn giản.
Thứ nhất, ai sẽ cm cờ hiệu lệnh. Về lý thuyết, các chính quyền địa phương
sẽ đóng vai trò tích cực, nhưng tn căn bản, mỗi tỉnh đều ngang nhau, k
một địa phương nào dám đứng ra làm “anh c”. Ngay cả nếu có, liệu đã
có cơ sở pháp lý đảm bảo việc đó kng sai luật? Rõ ràng cần thiết dưới sự
điều hành của Chính phủ Trung ương. Và đó cũng là vấn đề nan giải thứ hai.
Đối với những công trình trọng điểm quốc gia, vai trò hoạch định của Chính
phủ là không bàn cãi. Nhưng với những dự án liên vùng khác, thì sự tham
gia của một bộ hay một đơn vị hành chính vi tư cách người qun lý “chủ
đạo” trong tổng thể một cụm gồm nhiều ngành nghề khác nhau trên nhiều
địa bàn khác nhau sẽ làm quá trình tiến hành chậm và phc tạp n.
Nông quá thì skhông đi sát tình hình thực tế. Sâu quá thì vi phm quyền
phân cấp mỗi địa phương. Vậy mới biết đối đầu dễ, nhưng hợp tác khó. Nhất
là hợp tác giữa những tỉnh cùng li thế cạnh tranh. Liên kết du lịch Đồng
bằng sông Cửu Long có thể xem như thí dụ!