intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Lợi thế thị trường bán lẻ Việt Nam – thị trường mới nổi: Thu hút nhà đầu tư nước ngoài

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

20
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung bài viết này nêu lên các yếu tố dân số, mức độ đô thị hóa, du lịch, thu nhập và sức mua, chính sách pháp luật đã phần nào cho thấy Việt Nam đang là một trong những thị trường bán lẻ tiềm năng cho các nhà đầu tư nước ngoài. Đây là cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài khi thâm nhập vào Việt Nam nhằm khai thác tối đa những lợi thế mà thị trường hiện có. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Lợi thế thị trường bán lẻ Việt Nam – thị trường mới nổi: Thu hút nhà đầu tư nước ngoài

  1. LỢI THẾ THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ VIỆT NAM – THỊ TRƯỜNG MỚI NỔI: THU HÚT NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI ThS. Tiêu Vân Trang Đặt vấn đề Với sự gia tăng thu nhập bình quân đầu người, tốc độ đô thị hóa nhanh chóng cùng với sự gia tăng mức sống, Việt Nam được xem là một trong những nền kinh tế mới nổi sôi động nhất ở Đông Nam Á. Cùng với lợi thế người tiêu dùng tương đối trẻ, trong đó 70% dân số trong độ tuổi từ 15-64 tuổi, đây được xem là sức hút của thị trường bán lẻ ở Việt Nam đối với nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh những tiềm năng đó, thị trường bán lẻ ở Việt Nam còn được chú trọng bởi khả năng phục hồi của nó mặc dù gặp nhiều khó khăn do suy thoái kinh tế trong thời gian qua cũng như những ảnh hưởng từ khủng hoảng tài chính toàn cầu và khủng hoảng nợ công. Cụ thể năm 2014, thị trường bán lẻ ở Việt Nam tăng ở mức 10%, đánh bại các nền kinh tế khu vực như Malaysia (7%), Phiippines (7%), Singapore (3%) hay Thái Lan (1%). Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO) vào ngày 26/11/2006 và chính thức trở thành thành viên của Tổ chức này vào ngày 11/1/2007. Như vậy, theo lộ trình thì một khoảng thời gian nhất định được hưởng ân hạn và tối huệ quốc thì Việt Nam phải mở cửa hoàn toàn hay tháo bỏ những hạn chế nhất định đối với nhà đầu tư nước ngoài. Điều này càng giúp Việt Nam nổi lên như là một trong những thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất trong khu vực và thế giới. Nhiều tập đoàn bán lẻ quốc tế đã gia nhập thị trường, cung cấp nhiều lựa chọn hơn cho người tiêu dùng trong nước. 1. Dân số Với dân số khoảng 90 triệu dân được xem là động lực chính của thị trường bán lẻ ở Việt Nam, 70% dân số hiện đang trong độ tuổi từ 15 đến 64 tuổi, và điều này được dự báo sẽ tiếp tục tăng 2017 (xem hình 1,2). Điều này sẽ thúc đẩy nhu cầu đối với sự lựa chọn hơn trong các sản phẩm, nhãn hiệu, và các loại sản phẩm. 31
  2. Hình 1. Dân số và tốc độ tăng dân số của Việt Nam Hình 2. Dân số theo độ tuổi của Việt Nam từ năm 2008 – 2017F từ năm 2008-2014 và dự đoán đến năm 2017F Nguồn: Economist Intelligence Unit 2. Đô thị hóa Trong năm 2013, 32% dân số Việt Nam đã tập trung tại các thành phố. Trong điều kiện tuyệt đối, điều này đại diện cho một mức tăng khoảng 5 triệu hay 21% kể từ năm 2008 (xem hình 3). Theo dự thảo chương trình phát triển đô thị quốc gia do Bộ Xây dựng đề xuất, Việt Nam dự kiến sẽ đạt được một tỷ lệ đô thị hóa 38% với 870 đô thị vào năm 2015 và dự kiến sẽ tăng lên 45% với gần 940 khu vực đô thị vào năm 2020. Đây được xem là động lực với các nhà kinh doanh thương mại hiện đại vì họ muốn tập trung vào các đô thị, thành phố lớn như các khu vực thuộc trung tâm và xung quanh thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, điều này giúp họ triển khai các mô hình bán lẻ hiện đại cho người dân thành thị dễ dàng hơn cho nông thôn. Đây được xem là cơ hội giúp họ khai thác thị trường bán lẻ tại Việt Nam. Hình 3. Dân cư đô thị và nông thôn của Việt Nam từ năm 2008-2013 Nguồn: Tổng cục Thống kê 32
  3. 3. Du lịch Hội nhập toàn cầu và khu vực đã không chỉ cho phép Việt Nam đạt được thành công kinh tế, mà còn thu hút một lượng lớn khách du lịch quốc tế. Khách du lịch đến Việt Nam đã tăng gấp đôi từ năm 2005 đến năm 2013, đạt hơn 7,5 triệu khách du lịch trong 2013 (xem hình 4). Là một phần trong kế hoạch của mình để thúc đẩy phát triển kinh tế, Chính phủ cũng đưa ngành du lịch là một trong những ngành cần quan tâm đặc biệt nhằm giúp tăng trưởng cho thị trường bán lẻ, như sự gia tăng về số lượng khách du lịch sẽ cung cấp một tăng cho ngành bán lẻ địa phương và điều kiện thuận lợi cho sự xâm nhập của các tập đoàn bán lẻ quốc tế, đặc biệt là ở các thành phố lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Hình 4. Số lượng khách du lịch quốc tế từ năm 2005 đến 2013 Nguồn: Tổng cục Thống kê 4. Thu nhập và sức mua Thu nhập ở Việt Nam đã tăng đáng kể trong thập kỷ qua, và dự kiến sẽ tiếp tục tăng trưởng nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Số liệu cụ thể cho thấy, Việt Nam đã phát triển thành một quốc gia thu nhập trung bình với tổng thu nhập cá nhân là 127 tỷ USD và tổng chi tiêu tiêu dùng 111 tỷ USD vào năm 2013 (xem hình 5). Tăng thu nhập này có thể sẽ dẫn đến một sự gia tăng tiếp theo sức mua và tăng trưởng trong chi tiêu bán lẻ người tiêu dùng. 33
  4. Hình 5. Tổng thu nhập cá nhân và tổng chi tiêu hộ gia đình ở Việt Nam từ năm 2008 – 2017F Nguồn: Economist Intelligence Unit 5. Chính sách pháp luật Mặc dù Chính phủ tiếp tục thực hiện quyền kiểm soát bán lẻ, ngành đã được tự do hóa theo các điều kiện là thành viên của Việt Nam khi gia nhập WTO và các hiệp định thương mại khác. Tuy nhiên, bất kỳ sự thay đổi nhất định trong các quy định và / hoặc chính sách của Chính phủ liên quan đến các lĩnh vực bán lẻ với sẽ mang lại cả cơ hội và thách thức đối với các nhà bán lẻ. Thành viên WTO Về mức độ mở cửa, lộ trình mở cửa áp dụng cho các nhà bán lẻ nước ngoài so với nhiều phân ngành khác là khá ngắn. Cụ thể, Việt Nam cam kết cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được thực hiện hoạt động phân phối tại Việt Nam sau thời điểm Việt Nam gia nhập WTO ngày 11-1-2007 dưới hình thức bắt buộc là liên doanh với đối tác Việt Nam (phần vốn nước ngoài trong liên doanh bị giới hạn không quá 49%); từ ngày 1-1-2008 được phép hoạt động dưới hình thức liên doanh nhưng không bị hạn chế về tỷ lệ vốn nước ngoài trong liên doanh; và được phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong lĩnh vực bán lẻ kể từ sau ngày 1-1-2009 mặc dầu theo cam kết là đến 11/1/2015. Như vậy, chỉ chưa đầy ba năm sau thời điểm gia nhập WTO, Việt Nam đã mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ, đây là cơ hội hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài khi thâm nhập vào thị trường bán lẻ của Việt Nam. Hiệp định đối tác thương mại xuyên Thái Bình (TPP) Việt Nam hiện đang trải qua đàm phán để tham gia vào quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) nhằm thiết lập một khu vực thương mại tự do chung cho các nước đối tác trong khu vực châu Á Thái Bình Dương. Đàm phán TPP hiện đang là một trong những đàm phán thương mại quan trọng nhất của Việt Nam, bao gồm không chỉ các vấn đề về mở cửa thị trường hàng hóa và dịch 34
  5. vụ mà còn cả những vấn đề phi thương.Việt Nam đã tham gia, cạnh tranh giữa các nhà bán lẻ trong nước và nước ngoài, điều này giúp các doanh nghiệp kinh doanh một cách bình đẳng hơn tại nước sở tại. Hiệp định thương mại tự do (FTA) Khi tham gia thì các FTA sẽ giúp Nhà nước Việt Nam nỗ lực cải cách trong như tái cơ cấu, đổi mới mô hình tăng trưởng, cải cách DN Nhà nước, cải thiện môi trường kinh doanh, Hiệp định này là điển hình của hiệp định thương mại tự do hoàn toàn mới vì bên cạnh các vấn đề truyền thống như thương mại, hàng hóa, thương mại-dịch vụ hay đầu tư thì Hiệp định còn bàn đến những vấn đề phi truyền thống khác như: sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn lao động, tiêu chuẩn môi trường có liên quan thế nào đến thương mại. Hiệp định cũng đề cập đến chính sách cạnh tranh của DN Nhà nước, thương mại điện tử. Đây đều là những lĩnh vực mới, được cho rằng sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc định hình môi trường kinh doanh là điều mà các nhà đâu tư nước ngoài quan tâm. Theo số liệu của Bộ Công thương, tính đến 31/12/2014, Việt Nam đã ký và tham gia 8 Hiệp định thương mại tự do, trong đó có 6 hiệp định manh tính khu vực gồm các Hiệp định: ASEAN-Trung Quốc, ASEAN-Hàn Quốc, ASEAN-Nhật Bản, ASEAN-Ấn Độ, ASEAN-Australia-New Zealand. Hai hiệp định còn lại là 2 hiệp định song phương với Nhật Bản và Chile. Các Hiệp định tập trung chủ yếu ở Đông Á và có 6 hiệp định ASEAN với đối tác bên ngoài. Còn các đối tác lớn như EU, Hoa Kỳ, Nga chưa có quan hệ thương mại tự do. Vì thế ta đang đàm phán 7 Hiệp định thương mại tự do nữa gồm: Hiệp định Thương mại tự do xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định với Liên minh châu Âu, Hiệp định với Liên minh hải quan, Hiệp định thương mại tự do song phương với Hàn Quốc, Hiệp định thương mại tự do với 4 nước Thụy Sỹ, Nauy, Iceland và Liechtenstein. Bên cạnh đó ta cũng phối hợp đàm phán với ASEAN 2 hiệp định gồm: Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) hay còn gọi là Hiệp định ASEAN+6 và Hiệp định giữa ASEAN và Hồng Kông. Trong đó, có 2 Hiệp định cơ bản hoàn tất là Hiệp định thương mại tự do với Liên minh hải quan và Hàn Quốc đang tiến hành rà soát pháp lý để ký kết chính thức. Còn hiệp định với Liên minh châu Âu đã đạt một số kết quả khả quan, cụ thể hóa và kết thúc đàm phán trong thời gian tới. Tóm lại: Như vậy, từ các yếu tố dân số, mức độ đô thị hóa, du lịch, thu nhập và sức mua, chính sách pháp luật đã phần nào cho thấy Việt Nam đang là một trong những thị trường bán lẻ tiềm năng cho các nhà đầu tư nước ngoài. Đây là cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài khi thâm nhập vào Việt Nam nhằm khai thác tối đa những lợi thế mà thị trường hiện có. Đồng thời, việc mở cửa cho các nhà đầu 35
  6. tư nước ngoài cũng góp phần phát triển kinh tế xã hội của chúng ta trong thời gian tới và người tiêu dùng được hưởng nhiều lợi ích nhưng không thể không đề cập đến những thách thức, khó khăn mà các doanh nghiệp trong nước đã, đang và sẽ gặp phải. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Southeast Asia Consumer Business Practice, Retail in Vietnam Emerging market, emerging growth, 2014. 2. The Liveliness of Retail Markets in Asia-Pacific 2014, CBRE 3. www.eiu.com 4. www.gso.gov.vn 36
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2