Lợn rừng và vị thuốc dã trư
Lợn rừng (Sus scrofa L.) thuộc họ lợn (Suidae), tên khác là lợn lòi, heo rừng, là loài thú
rừng cỡ lớn. Thân dài 1-1,3m, cao 50-60cm. Đầu to, mõm dài nhọn, tai to vểnh, mũi nhỏ
bẹt, răng nanh dài và tầy, nanh dưới lộ hẳn ra ngoài và uốn cong lên. Lưng phẳng, gồ cao
ở phía trước gần gáy, thuôn dần về phía sau, đuôi ngắn. Bụng thon nhỏ, không xệ như lợn
nhà. Chân cao mảnh, có móng guốc nhỏ. Da rất dày phủ bởi lớp lông rậm, dài và cứng,
nhất là ở cổ và bả vai. Bộ lông màu xám đen. Lợn đực to hơn lợn cái.
Lợn rừng phân bố ở miền rừng núi, trung du và các hải đảo, nhiều nhất ở Tây Bắc và Tây
Nguyên. Nó sống ở thung lũng ven sông suối, các trảng cỏ cao, cây bụi, rừng nguyên
sinh và thứ sinh.
Nhiều bộ phận của lợn rừng được dùng làm thuốc trong y học cổ truyền và kinh nghiệm
dân gian.
- Thịt lợn rừng (dã trư nhục) chứa 17% protein, 0,5% lipid, có vị ngọt, tính bình, không
độc, có tác dụng tư bổ, nhuận da, trị hư nhược, trừ kinh giản, cầm máu, chữa sốt rét, động
kinh, băng huyết, kiết lỵ ra máu. Dạng dùng thông thường là thức ăn – vị thuốc, nấu ăn
hằng ngày.
- Mỡ lợn rừng (dã trư cao). Khi săn bắn được lợn rừng, đồng bào miền núi thường lột
da, rồi treo trên giàn bếp (mỡ lợn có rất ít ở thịt mà chỉ khu trú ở dưới lớp da và ngay
trong da). Khi cần mỡ, họ hơ da lợn lên than hồng để mỡ chảy ra, hứng lấy mà dùng. Họ
lấy mỡ đến khi da teo quắt lại mới thôi. Mỡ lợn rừng có vị ngọt, tính bình, có tác dụng
làm tăng tiết sữa và làm se. Phụ nữ sau khi sinh con, nếu thiếu sữa, thường lấy mỡ lợn
rừng, 1-2 thìa cà phê, hòa với ít rượu, uống làm 3 lần trong ngày. Dùng mỡ lợn rừng bôi
ngoài để chữa bỏng, nhọt độc, ghẻ ngứa, vết thương.
- Mật lợn rừng (dã trư đảm) chứa acid chenodesoxycholic, acid 3a– hydroxy-6-oxo-5a
cholanic, acid lithocholic, có vị đắng, tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc. Mỗi lần
dùng 1,5-2g mật hòa với rượu, uống chữa sản hậu, thũng độc (tài liệu nước ngoài). Dùng
ngoài, bôi nước mật để chữa bỏng lửa.
- Dương vật và tinh hoàn lợn rừng (dã trư âm kinh) phơi hoặc sấy khô, giã nhỏ, rây bột
mịn; ngày uống 6-12g chữa liệt dương, di tinh, lưng đau, gối mỏi. Dùng ngoài, lấy dương
vật giã nhỏ với nõn cây chuối rừng, đắp băng để rút tên, đạn hoặc que cắm vào da thịt.
(Kinh nghiệm của đồng bào Tây Nguyên).
Người ta còn dùng móng chân lợn rừng (dã trư đề) sao với cát cho phồng, tán bột uống
để chữa trúng phong, tê bại. Phân lợn rừng (dã trư phẩn) chữa hoàng đản, thủy thũng, đầy
chướng. Răng lợn rừng (dã trư nha) chữa sốt cao, phát cuồng, ung nhọt, thổ huyết. Sỏi
mật lợn rừng (dã trư hoàng) chữa kinh phong, kiết lỵ ra máu, mụn lở chảy nước vàng.