VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ HƢƠNG GIANG
XÁC MINH ĐIỀU KIỆN THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2021
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ HƢƠNG GIANG
XÁC MINH ĐIỀU KIỆN THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 9 38 01 07
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS HOÀNG THẾ LIÊN
Hà Nội - 2021
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực.
Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
LỜI CAM ĐOAN
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Thị Hƣơng Giang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ............................. 7
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .......................................................... 7
1.2. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu đề tài luận án .......................................... 21
1.3. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu.................................... 22
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 23
Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÁC MINH ĐIỀU
KIỆN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ .................................................................. 25
2.1. Khái niệm, đặc điểm xác minh điều kiện thi hành án dân sự ............ 25
2.2. Ý nghĩa của xác minh điều kiện thi hành án trong hoạt động thi
hành án dân sự ........................................................................................... 34
2.3. Nội dung điều chỉnh pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án
dân sự ........................................................................................................ 37
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả xác minh điều kiện thi hành
án dân sự ................................................................................................... 59
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 66
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI
HÀNH PHÁP LUẬT VỀ XÁC MINH ĐIỀU KIỆN THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ Ở VIỆT NAM ................................................................................ 68
3.1. Các quy định hiện hành về xác minh điều kiện thi hành án dân sự ........ 68
3.2. Các vướng mắc, bất cập chủ yếu của pháp luật xác minh điều
kiện thi hành án dân sự ........................................................................... 115
Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................ 126
Chƣơng 4: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ
XÁC MINH ĐIỀU KIỆN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM .... 127
4.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành
pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án dân sự ............................... 127
4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành
pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án dân sự ............................... 135
Tiểu kết chƣơng 4 ........................................................................................ 153
KẾT LUẬN .................................................................................................. 154
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .................................................................... 157
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 158
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CHV: Chấp hành viên
EU: Liên minh châu Âu
IFES: Quỹ quốc tế về các hệ thống bầu cử
NCS: Nghiên cứu sinh
TAND: Toà án nhân dân
THA: Thi hành án
THADS: Thi hành án dân sự
TPL: Thừa phát lại
UBND: Uỷ ban nhân dân
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài
Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định yêu cầu Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật, các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân phải luôn tôn trọng và nêu cao
tinh thần thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Các bản án, quyết định của TAND có
hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức,
cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành, các giá trị của công lý phải được
tôn vinh và bảo vệ. Trong bối cảnh đó, công tác THADS đang ngày càng có vị trí và
ý nghĩa tích cực, quan trọng trong việc bảo vệ pháp chế XHCN, thực thi công lý,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương
và ổn định.
Xác minh điều kiện THADS là việc CHV/TPL thu thập thông tin, tiếp cận,
xác định đối tượng mục tiêu cần phải thi hành (tài sản, thu nhập của người phải
THA, vật, giấy tờ, nhà phải trả…) và các thông tin khác phục vụ cho quá trình tổ
chức THADS như: nhân thân, hoàn cảnh gia đình của người phải THA… Đây là
hoạt động rất quan trọng trong quá trình tổ chức THADS. Kết quả xác minh là cơ
sở để CHV/TPL thuyết phục đương sự tự nguyện, thỏa thuận THA, là cơ sở để
Thủ trưởng cơ quan THADS ra các quyết định ủy thác, hoãn, đình chỉ THA hay
lựa chọn biện pháp cưỡng chế THA thích hợp. Mặt khác, việc xác minh điều kiện
THADS còn là cơ sở để phân loại án, là căn cứ cho việc thống kê số án tồn đọng.
Có thể nói, xác minh điều kiện THADS chính là căn cứ làm phát sinh hàng loạt
các tác nghiệp khác trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định, đòi
hỏi CHV/TPL cần thiết phải nắm vững cơ sở pháp lý của việc xác minh, kỹ năng
xác minh và xử lý kết quả xác minh phù hợp với quy định của pháp luật về
THADS. Nếu coi điều kiện THADS của người phải THA là “chìa khóa” để “mở
cánh cửa” cho việc tổ chức THADS thành công, thì hoạt động xác minh điều kiện
THADS của CHV và các chủ thể khác là một “cuộc hành trình” đi tìm chiếc chìa
khóa đó.
Để nâng cao hiệu quả của công tác THADS, các cơ quan THADS cần tổ
chức thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
THADS, tạo chuyển biến cơ bản, bền vững, hoàn thành các yêu cầu, nhiệm vụ về
THA theo Nghị quyết số 111/2015/QH13 của Quốc hội khóa XIII về công tác tư
1
pháp. Theo đó, việc xác minh điều kiện THADS có ý nghĩa quan trọng trong việc
góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác THADS, giảm án tồn đọng,
giảm áp lực đối với cơ quan THADS. Nói cách khác, nâng cao hiệu quả của hoạt
động xác minh điều kiện THADS là một trong những giải pháp căn bản nhất để thi
hành dứt điểm bản án, quyết định, góp phần bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia
hoạt động THADS.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật THADS năm 2014 có hiệu lực từ
01/7/2015, đã khắc phục được nhiều bất cập, vướng mắc sau 06 năm thi hành Luật
THADS năm 2008. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng thiếu hiệu quả của hoạt động
xác minh điều kiện THADS. Chẳng hạn như trong năm 2016, số tiền có điều kiện
THA là 86.254.000.000 đồng/tổng số tiền phải THA là 133.619.000.000 đồng
(chiếm 64,6%) [12]; năm 2017, số tiền có điều kiện THA là 92.000.000.000
đồng/tổng số tiền phải THA là 163.658.000.000 đồng (chiếm 56,2%) [13]; năm
2018, số tiền có điều kiện THA là 90.010.000.000 đồng/tổng số tiền phải THA là
178.628.000.000 đồng (chiếm 50,4%) [14]; năm 2019, số tiền có điều kiện THA là
148.791.000.000 đồng/tổng số tiền phải THA là 251.172.000.000 đồng (chiếm
59,2%), [15]. Như vậy, trong 4 năm gần đây, số tiền có điều kiện THA trên số tiền
phải THA có tỉ lệ thấp, trung bình chưa tới 60%.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, trong đó có nguyên nhân từ
sự bất cập của quy định pháp luật cũng như những khó khăn, vướng mắc, hạn chế
trong thi hành pháp luật về xác minh điều kiện THADS. Cụ thể như thiếu hành
lang pháp lý cho hoạt động xác minh của các chủ thể xác minh điều kiện thi hành
án; chế tài chưa đủ sức răn đe đối với hành vi không kê khai hoặc kê khai thiếu
trung thực về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; sự thiếu rõ ràng
trong vấn đề quản lý tài sản thuộc sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án…
có tác động rất lớn đến hiệu quả công tác xác minh điều kiện thi hành án. Vì vậy,
để các quy định pháp luật về xác minh điều kiện THA tiếp tục được hoàn thiện,
phù hợp, bắt nhịp kịp với cuộc sống vốn dĩ sinh động này thì việc phân tích, đánh
giá một cách toàn diện thực trạng quy định pháp luật và dự liệu những thách thức
mới đặt ra đối với thực thi pháp luật về xác minh THADS, để từ đó đề xuất các
giải pháp, kiến nghị thiết thực, có hiệu quả là hết sức cần thiết.
Với các lý do trên, NCS lựa chọn đề tài “Xác minh điều kiện thi hành án
dân sự theo pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án
2
tiến sỹ luật học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là nghiên cứu nhằm góp phần xây dựng cơ sở khoa học
và thực tiễn phục vụ việc tiếp tục đổi mới, hoàn thiện quy định pháp luật về xác
minh điều kiện THADS ở Việt Nam trên hai phương diện điều chỉnh pháp luật và
thực thi pháp luật.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. Cụ
thể, tiến hành thu thập các tài liệu, công trình khoa học liên quan đến đề tài luận án,
tìm hiểu, nhận xét, đánh giá và nêu quan điểm về những vấn đề đã được các công
trình khoa học trước đó nghiên cứu. Từ đó, xác định các nội dung cần được kế thừa,
những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu trong luận án.
Thứ hai, nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề lý luận cơ bản về xác minh điều kiện
THADS như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của xác minh điều kiện THADS, nội
dung điều chỉnh pháp luật về xác minh điều kiện THADS, các yếu tố ảnh hưởng
đến xác minh điều kiện THADS.
Thứ ba, phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật và thực
tiễn áp dụng pháp luật về xác minh điều kiện THADS ở Việt Nam, rút ra các nhận
xét về những ưu điểm cũng như những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp
luật hiện hành về xác minh điều kiện THADS.
Thứ tư, luận giải về các yêu cầu đổi mới, hoàn thiện pháp luật về xác minh
điều kiện THADS và kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật về
xác minh điều kiện THADS.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu quy định pháp luật về xác minh điều kiện THADS và
thực tiễn thi hành pháp luật về xác minh điều kiện THADS ở nước ta. Nội dung
pháp luật về xác minh điều kiện THADS ở Việt Nam là đối tượng nghiên cứu của
luận án bao gồm: chủ thể xác minh; phương thức xác minh; nội dung xác minh;
trình tự, thủ tục xác minh; thời điểm xác minh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về xác minh điều kiện
3
THADS, các quy định pháp luật cũng như thực tiễn thi hành pháp luật về xác minh
điều kiện THADS với không gian nghiên cứu là ở Việt Nam. Thời gian nghiên cứu
được giới hạn từ sau khi Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 có hiệu lực pháp
luật (từ ngày 01/7/2015) đến nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung của khoa học xã hội và
các phương pháp nghiên cứu đặc thù của luật học để giải quyết các vấn đề khoa học
đặt ra. Các phương pháp chủ yếu bao gồm: phương pháp mô tả, phương pháp phân tích
và tổng hợp, phương pháp phân tích lịch sử, phương pháp so sánh pháp luật. Cụ thể:
- Phương pháp mô tả
Phương pháp này được sử dụng chủ yếu để mô tả lại các quy định của pháp
luật và các vụ việc có liên quan, thông qua đó tái hiện thực trạng pháp luật và thực
tiễn áp dụng pháp luật Việt Nam về xác minh điều kiện THADS, từ đó tìm ra các bất
cập và nguyên nhân của các bất cập đó.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp
Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để phân tích và khái quát
hoá các vấn đề về lý luận, thực trạng các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng quy
định pháp luật về xác minh điều kiện THADS, các yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật
cũng như những đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật về xác minh
điều kiện THADS. Phương pháp này được sử dụng trong tất cả các chương của Luận án.
- Phương pháp phân tích lịch sử
Phương pháp này được sử dụng để tìm hiểu nguồn gốc phát sinh, quá trình
phát triển của xác minh điều kiện THADS và pháp luật về xác minh điều kiện
THADS ở Việt Nam, đồng thời rút ra các kinh nghiệm lịch sử cần thiết.
- Phương pháp so sánh
Phương pháp này được sử dụng nhằm phân tích, so sánh các quy định của
pháp luật hiện hành với quy định của pháp luật các giai đoạn trước đây, giữa quy định
của pháp luật Việt Nam với quy định của pháp luật một số quốc gia khác trên thế giới
về xác minh điều kiện THADS. Thông qua đó, luận án tìm ra những giải pháp phù
hợp góp phần hoàn thiện pháp luật và thực thi pháp luật về xác minh điều kiện
4
THADS của Việt Nam.
5. Những đóng góp mới của luận án
Là một công trình khoa học nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về
xác minh điều kiện THADS ở Việt Nam, luận án có những đóng góp mới chủ yếu
sau đây:
- Luận án phân tích và luận giải những vấn đề lý luận về xác minh điều kiện
THADS, cụ thể như:
+ Xây dựng khái niệm, làm rõ đặc điểm của xác minh điều kiện THADS; chỉ
ra các ý nghĩa của xác minh điều kiện THADS.
+ Xây dựng nội dung điều chỉnh pháp luật về xác minh điều kiện THADS
bao gồm: chủ thể xác minh, phương thức xác minh, nội dung xác minh, thủ tục xác
minh và thời điểm xác minh.
+ Làm sáng tỏ các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả xác minh điều kiện
THADS.
Đây là cơ sở để luận án phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn
thi hành pháp luật, từ đó, đề xuất các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về xác minh
điều kiện THADS.
- Luận án phân tích, đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện, có hệ thống về
thực trạng pháp luật thực định và thực tiễn thực hiện pháp luật về xác minh điều
kiện THADS ở Việt Nam qua đó góp phần làm rõ những ưu điểm, các bất cập, hạn
chế trong quy định pháp luật và thực thi pháp luật về xác minh điều kiện THADS.
- Luận án xác định rõ các yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về xác minh
điều kiện THADS, đồng thời đề xuất một số kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung một
số quy định pháp luật về xác minh điều kiện THADS.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án
Những kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm phong phú thêm hệ thống
lý luận cơ bản về xác minh điều kiện THADS và pháp luật về xác minh điều kiện
THADS ở Việt Nam.
Luận án là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong quá trình xây dựng pháp luật THADS nói chung và pháp luật về xác minh điều
kiện THADS nói riêng. Luận án cũng là tài liệu cho các cơ sở nghiên cứu khoa học,
giảng dạy, học tập về pháp luật THADS; tài liệu tham khảo cho các CHV, các chủ thể
thực hiện chức năng tư pháp khác hoặc đối với các cá nhân, tổ chức tham gia hoặc có
5
liên quan đến hoạt động xác minh điều kiện THADS.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Chương 2: Những vấn đề lý luận về xác minh điều kiện thi hành án dân sự
Chương 3: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về xác minh
điều kiện thi hành án dân sự ở Việt Nam
Chương 4: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về xác
6
minh điều kiện thi hành án dân sự
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về lý luận liên quan đến xác minh điều kiện thi
hành án dân sự
Thi hành án dân sự và xác minh điều kiện THADS là đối tượng nghiên cứu
của nhiều công trình nghiên cứu trong nước từ sau năm 2004 cho đến thời điểm
hiện nay. Trước thời điểm năm 2004, thời điểm Pháp lệnh THADS năm 1993 đang
có hiệu lực, các công trình nghiên cứu trong nước về THADS và xác minh điều kiện
THADS còn rất ít, lý do là hoạt động THADS còn khá mới mẻ trong bối cảnh nền
kinh tế - xã hội nước ta thời kỳ đó, pháp luật về THADS quy định khá sơ sài về thủ
tục THADS nói chung và xác minh điều kiện THADS nói riêng. Các công trình
nghiên cứu nước ngoài về THADS và xác minh điều kiện THADS cũng khá nhiều,
tuy nhiên, NCS không thể nghiên cứu trực tiếp, đầy đủ các công trình nghiên cứu đó
mà chỉ có thể tiếp cận được một số bài viết nghiên cứu, tham luận khoa học, kỷ yếu
hội thảo về THADS có liên quan đến xác minh điều kiện THADS.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã công bố về xác minh điều kiện
THADS đều đề cập cả ba phương diện là lý luận, thực trạng pháp luật và quan
điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện THADS. Ở mỗi phương
diện nghiên cứu, kết quả của các công trình nghiên cứu đã đạt được ở mức độ khác
nhau. Trong khuôn khổ một chương của luận án, NCS xin tổng quan tình hình
nghiên cứu từ một số công trình khoa học đã công bố như sau:
1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến khái niệm, đặc điểm xác
minh điều kiện thi hành án dân sự
Về khái niệm xác minh điều kiện thi hành án dân sự
Tác giả Hoàng Thị Thu Trang, Cục THADS tỉnh Nghệ An trong chuyên đề
“Hoàn thiện quy định pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án dân sự”, đã đưa
ra khái niệm về xác minh điều kiện THADS như sau: "Xác minh điều kiện THADS
là việc CHV thu thập thông tin, tiếp cận, xác định đối tượng, mục tiêu cần phải thi
hành (tài sản, thu nhập của người phải THA, vật, giấy tờ, nhà phải trả…) và các
thông tin khác phục vụ cho quá trình tổ chức THA như: Nhân thân, hoàn cảnh gia
7
đình của người phải THA”[85].
Định nghĩa nêu trên về xác minh điều kiện THADS tuy chưa đầy đủ nhưng
cũng đã đề cập đến những yếu tố rất cơ bản của việc xác minh điều kiện THADS như:
mục đích của việc xác minh, chủ thể xác minh, nội dung cần xác minh… Đây là những
chất liệu giúp NCS có định hướng tốt hơn khi xây dựng khái niệm xác minh điều kiện
THADS, một trong nội dung nghiên cứu của luận án.
1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến vai trò của xác minh điều
kiện thi hành án
Bàn về vai trò của xác minh điều kiện THADS đối với hiệu quả của THADS,
tài liệu “Thực tiễn tốt nhất trong khu vực: Thi hành bản án của Toà án. Bài học kinh
nghiệm từ Châu Mỹ La tinh” trong chuỗi nghiên cứu về nhà nước pháp quyền của
Quỹ quốc tế về các hệ thống bầu cử (IFES) – một tổ chức phi chính phủ ở Mỹ đã
đưa ra mô hình THA hiệu quả gồm 12 tiêu chí [105] và một trong những tiêu chí
không thể thiếu, đó là cơ chế xác minh điều kiện THADS hữu hiệu, tạo điều kiện
thuận lợi nhất cho việc tiếp cận các thông tin về người phải THA.
Tác giả Heike Gramckow khi nghiên cứu về đấu giá THA cũng cho rằng một
điều kiện tiên quyết để hoạt động đấu giá hiệu quả là xây dựng một khung pháp lý
hiệu quả để xác định và định vị tài sản của người phải THA, bao gồm một khung
pháp lý vững chắc để truy tìm tài sản và giảm cơ hội người phải THA che giấu và
chuyển tài sản để trốn tránh việc THA [104].
Cũng bàn về vai trò của xác minh điều kiện THADS, Giáo trình “Nghiệp vụ
thi hành án dân sự” của Học viện Tư pháp đã chỉ ra rằng, xác minh điều kiện
THADS có vai trò quan trọng đối với hầu hết các giai đoạn khác của quá trình
THADS. Kết quả xác minh sẽ là cơ sở, định hướng để CHV tổ chức thi hành theo
đúng quy định pháp luật. Trên cơ sở kết quả xác minh, CHV có thể xử lý hồ sơ theo
hướng: ủy thác, đình chỉ, đưa vào loại việc chưa có điều kiện thi hành hay CHV có
thể áp dụng các biện pháp bảo đảm hoặc áp dụng các biện pháp cưỡng chế
THA...[47, tr.90]
Tác giả Hoàng Thị Thu Trang trong chuyên đề “Hoàn thiện quy định pháp
luật về xác minh điều kiện thi hành án dân sự”, Tham luận của Cục THADS tỉnh
Nghệ An đã cho rằng xác minh điều kiện THADS là hoạt động trung tâm, quan
trọng nhất trong quá trình tổ chức THADS [85].
Những nghiên cứu về vai trò của công tác xác minh điều kiện THADS là
những tài liệu quan trọng giúp NCS tiếp tục làm rõ, làm sâu sắc hơn vai trò của hoạt
8
động xác minh điều kiện THADS trong quá trình tổ chức THADS.
1.1.1.3. Các công trình nghiên cứu về điều chỉnh pháp luật đối với xác minh
điều kiện thi hành án
Giáo trình Nghiệp vụ thi hành án dân sự của Học viện Tư pháp đã phân tích
tổng thể về chủ thể xác minh, nội dung xác minh, thủ tục xác minh, thời điểm tiến
hành xác minh [47, tr.91-108]. Giáo trình cung cấp những kiến thức về kỹ năng của
CHV trong hoạt động xác minh điều kiện THADS theo đúng tinh thần của một cơ
sở đào tạo nghề như tại Học viện Tư pháp là “cầm tay chỉ việc”. Đây là một tài liệu
tham khảo hữu ích để NCS nghiên cứu, xác định nội dung pháp luật về xác minh
điều kiện THADS.
Cuốn sách “Sổ tay Chấp hành viên” của Học viện Tư pháp được xuất bản
năm 2009 có nội dung hướng dẫn về nghiệp vụ xác minh điều kiện THADS cho
CHV. Xác minh điều kiện THADS được nghiên cứu dưới góc độ kỹ năng nghiệp vụ
về xác minh của CHV. Theo đó, để xác minh điều kiện THADS, CHV phải xây
dựng kế hoạch xác minh để mô tả khái quát những công việc phải làm và khi có kết
quả xác minh thì CHV xử lý kết quả xác minh. Cuốn sách chỉ dẫn nghiệp vụ xác
minh cho CHV một cách cụ thể nhất, dễ áp dụng nhất mà không đi sâu luận giải về
cơ sở lý thuyết nào để CHV thực hiện các công việc về xác minh như vậy. Đối với
những việc THADS cụ thể, cuốn sách cũng chưa đề cập về định hướng xác minh
cho CHV theo những trường hợp cụ thể như thi hành nghĩa vụ về tiền, thi hành
nghĩa vụ về nhân thân gắn với tài sản [45, tr.119-146]... Tuy là cuốn “cẩm nang”
nhưng giúp ích cho NCS khá nhiều trong nghiên cứu, đánh giá vai trò của sự điều
chỉnh pháp luật đối với hoạt động xác minh điều kiện THADS.
Đề tài 95-98-114/ĐT “Những cơ sở lý luận và thực tiễn về định chế Thừa
phát lại” (Đề tài cấp Bộ) do Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp và Sở
Tư pháp TP.Hồ Chí Minh phối hợp thực hiện năm 1995, trên cơ sở nghiên cứu chế
định TPL của Việt Nam trước đây và của một số nước trên thế giới, làm rõ cơ sở lý
luận và thực tiễn, mô hình tổ chức và hoạt động của TPL. Đề tài đã bước đầu đưa ra
những căn cứ cho khả năng xã hội hoá một số hoạt động THADS ở Việt Nam [87].
Hiện nay, hoạt động của Văn phòng TPL đã được triển khai ở nhiều địa phương,
ngày càng trở thành một tổ chức cung cấp dịch vụ pháp lý quen thuộc với người
dân, trong đó có hoạt động xác minh điều kiện THADS và tổ chức THADS. Tài liệu
này sẽ giúp cho NCS có thêm tư liệu để luận giải về chức năng của TPL trong hoạt
động xác minh THADS với tư cách là chủ thể tiến hành hoạt động xác minh điều
9
kiện THADS.
Liên quan trực tiếp đến nội dung xác minh điều kiện THADS, Kỷ yếu Hội
thảo “Các mô hình tổ chức THA trên thế giới” do Nhà pháp luật Việt - Pháp tổ
chức ngày 17-18/4/2006 đã giới thiệu nội dung về quy định của pháp luật Nhật Bản
là: “khi người được THA có đơn yêu cầu THA thì việc THA mới được tiến hành.
Trong đơn yêu cầu phải chỉ rõ tài sản (tiền, bất động sản...) của người phải THA có
ở đâu, tình trạng như thế nào? Người được THA phải tự tìm hiểu về tình trạng tài
sản của người phải THA để cung cấp thông tin cho cơ quan THA. Đây là điều kiện
tiên quyết không thể thiếu được của việc THA” [65]. Quy định này rất tương đồng
với pháp luật THADS trước đây (theo Luật THADS 2008) của Việt Nam. Từ những
kiến thức tổng hợp này, NCS sẽ so sánh, đối chiếu với pháp luật thực định của Việt
Nam về chủ thể xác minh điều kiện THADS.
Tài liệu Nghiên cứu số JAI/A3/2002/02: về việc thực thi hiệu quả hơn các
quyết định tư pháp trong Liên minh Châu Âu, phiên bản ngày 18/2/2004 của tác giả
Burkhard Hess đã phân tích về các chủ thể, phương thức tìm kiếm tài sản của người
phải THA ở các quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu. Tác giả cũng đưa ra
các lập luận để chứng minh cho các khuyến nghị của mình về các điều kiện để nâng
cao hiệu quả công tác xác minh điều kiện THADS ở các quốc gia châu Âu [106].
Những phân tích này giúp cho NCS nghiên cứu, tìm hiểu những điểm tương đồng
và những sự khác biệt của hệ thống pháp luật một số nước về xác minh điều kiện
THADS. Đây sẽ là tài liệu hữu ích giúp cho việc nghiên cứu xác minh điều kiện
THADS của các nước một cách bài bản, đầy đủ hơn, từ đó, rút ra những bài học phù
hợp với điều kiện của quốc gia mình.
Bài viết “Làm thế nào để thi hành bản án” của tác giả William T. Tanner đã
đưa ra các bước để xác định tài sản của người phải THA. Trong mỗi bước thực hiện
này, tác giả đã chỉ ra thời điểm thực hiện việc xác minh, quy trình xác minh, cách
thức xác minh và một số cách thức xử lý khi xảy ra tình huống trong quá trình xác
minh tại bang California của Mỹ [111]. Từ tài liệu này, NCS có thêm một góc nhìn
về chủ thể xác minh và các cơ chế đảm bảo cho chủ thể xác minh được tiến hành
một cách hiệu quả và thuận lợi nhất theo pháp luật Mỹ.
Bài viết “Trách nhiệm cung cấp thông tin tài sản thi hành án dân sự trong
pháp luật châu Âu và cộng hoà liên bang Đức” của tác giả Nguyễn Văn Nghĩa giới
thiệu về quy định của pháp luật châu Âu và Đức trong trách nhiệm cung cấp thông
10
tin tài sản THA. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích về chủ thể cung cấp thông
tin, mức độ thông tin về tài sản, thời điểm cung cấp thông tin, chế tài áp dụng nếu
người phải THA vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin [62]. Đây là tài liệu giúp NCS
bổ sung những vấn đề lý luận cần thiết trong chủ thể xác minh, thời điểm xác minh,
các biện pháp chế tài nếu vi phạm quy định về xác minh.
Đề tài KX.04.06 (thuộc Chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước 2001-
2005): “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, hoàn
thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án
trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân” do Bộ Tư pháp chủ trì đã
nghiên cứu THA trong mối quan hệ với hệ thống tư pháp và việc thực hiện quyền tư
pháp, trong đó xác định cơ quan THA tuy không phải là cơ quan tố tụng “nhưng có thể
coi là cơ quan thuộc hệ thống tư pháp”, đề xuất một số vấn đề cải cách tổ chức và hoạt
động của cơ quan THA, như là một trong những nội dung của cải cách tư pháp. Nghiên
cứu của đề tài gợi mở cho NCS một cách tiếp cận mang tính hệ thống về mối liên hệ
giữa Tòa án và cơ quan THA là đều có chung một mục tiêu phải đảm bảo cho bản án,
quyết định của Tòa án được thi hành trên thực tế. Một vấn đề đặt ra hiện nay là pháp
luật chưa có quy định Tòa án phải làm rõ điều kiện THA trước khi ra bản án, quyết
định [9]. Từ cơ sở lý luận của đề tài này, NCS sẽ tham khảo để nghiên cứu phát triển
trong luận án của mình về đề xuất tăng cường mối quan hệ giữa cơ quan THA và Tòa
án bằng điều chỉnh pháp luật trong việc tìm kiếm thông tin về điều kiện THA.
Luận án tiến sĩ luật học “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt
Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thanh Thủy đã trực tiếp nghiên cứu làm sáng
tỏ khái niệm, đặc điểm, nội dung, vai trò của pháp luật THADS, xác định các tiêu
chí hoàn thiện pháp luật THADS, đưa ra các quan điểm và đề xuất các giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật THADS, nâng cao hiệu quả hoạt động THADS. Luận án
căn cứ vào thực tiễn THADS từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 2009,
đánh giá toàn diện thực trạng pháp luật THADS; cơ chế THADS và thực tiễn tổ
chức thực hiện pháp luật THADS; làm rõ những mặt được, những mặt còn hạn chế,
vướng mắc bất cập trong pháp luật THADS và tổ chức thực hiện pháp luật THADS,
nêu các nguyên nhân và bài học kinh nghiệm. Phân tích các yêu cầu, quan điểm và đề
xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật THA nói chung và pháp luật THADS nói riêng
ở Việt Nam đến năm 2020. Xác minh điều kiện THADS không được luận án này đề
cập nghiên cứu ở phần thực trạng pháp luật. Xác minh điều kiện THADS là một thủ tục
11
pháp lý của THADS nói chung [84]. Do đó, kết quả nghiên cứu của luận án về các vấn
đề lý luận về THADS, tiêu chí để hoàn thiện pháp luật THADS (luận án đã đưa ra 6
tiêu chí hoàn thiện pháp luật THADS) và giải pháp hoàn thiện pháp luật THADS là
một nguồn tài liệu tham khảo cho NCS nghiên cứu về cơ sở lý luận của luận án và
hoàn thiện pháp luật đối với xác minh điều kiện THADS.
Cuốn tài liệu hội thảo được tổ chức tại liên bang Nga “Hệ thống thi hành án
của nhà nước và tư nhân: phân tích so sánh và các thực tiễn hay nhất”, tuyển tập Tài
liệu của Hội nghị Khoa học và Thực tiễn Quốc tế lần thứ 9, ngày 10-13 tháng 10
năm 2018, Sochi, Vùng Krasnodar tổng hợp 37 bài tham luận của 37 thành viên đến
từ 30 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Cuốn tài liệu chủ yếu tập trung vào
việc so sánh mô hình thi hành án công và mô hình thi hành án tư nhân ở các quốc
gia trên thế giới, từ đó, mỗi quốc gia sẽ tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia
khác trong việc xây dựng mô hình tổ chức thi hành án để nâng cao hiệu quả công
tác thi hành án [103]. Xác minh điều kiện THADS, với tư cách là một thủ tục không
thể thiếu trong quá trình tổ chức THADS cũng được bàn luận dưới góc nhìn về cơ
chế xác minh mà các quốc gia theo đuổi. Các tài liệu này giúp NCS nhìn nhận rộng
hơn về xác minh điều kiện thi hành án trong mối liên hệ với mô hình tổ chức thi hành
án ở nhiều quốc gia trên thế giới và cách thức mà các quốc gia này xây dựng các cơ chế
để việc xác minh điều kiện thi hành án có hiệu quả.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về thực trạng pháp luật về xác minh điều kiện
thi hành án
Luật THADS 2008 lần đầu tiên quy định về nghĩa vụ xác minh điều kiện
THADS thuộc về người được THA. Chủ thể có nghĩa vụ xác minh điều kiện
THADS thay đổi từ cơ quan THADS sang cá nhân, tổ chức được THA. Áp dụng
vào thực tiễn, quy định này làm cho người dân gặp rất nhiều khó khăn trong việc tự
mình xác minh điều kiện THADS. Phản ánh khách quan thực trạng này, có rất nhiều
bài viết đề cập đến vướng mắc khi áp dụng quy định về chủ thể xác minh điều kiện
THADS. Có thể nói, chưa khi nào xác minh điều kiện THADS trở thành đối tượng
được nghiên cứu dưới góc độ thực tiễn áp dụng nhiều như trong thời gian từ năm
2009 đến năm 2014 - khoảng thời gian Điều 44 Luật THADS 2008 về xác minh
đang có hiệu lực thi hành. Các bài viết về thực trạng xác minh điều kiện THADS
đều phân tích về tính không phù hợp giữa luật thực định và thực tiễn cuộc sống về
chủ thể xác minh điều kiện THADS. Một số bài viết tiêu biểu về vấn đề này là: Bài
12
“Quy định về xác minh điều kiện thi hành án còn nhiều bất cập” của tác giả Trần
Đại Sỹ đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật – Số chuyên đề về Thi hành án dân
sự số 03/2009 [80]; Bài “Những vướng mắc từ thực tiễn thi hành Luật Thi hành án
dân sự” của tác giả Nguyễn Thị Khanh đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật số
3/2010 [54]; Bài viết “Khó khăn trong xác minh điều kiện thi hành án” của tác giả
Ý Công đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật tháng 9/2011 [90]; Bài viết “Những
vấn đề thực tiễn về xác minh, cung cấp thông tin và hướng hoàn thiện” của tác giả
Hồ Quân Chính đăng trên Website của Bộ Tư pháp ngày 30/11/2011 [21]; Bài “Cần
hướng dẫn và quy định khả thi hơn về xác minh điều kiện thi hành án” của tác giả
Lại Văn Thắng đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật tháng 4/2012 [81]; Bài viết
“Một số bất cập sau ba năm thực hiện Luật Thi hành án dân sự” của tác giả Phan
Đức Vũ đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân tháng 1/2013 [88]… Mục tiêu chung
của các bài viết này là đều mong muốn sửa đổi quy định tại Điều 44 Luật THADS
2008 về chủ thể xác minh hoặc đưa ra một cơ chế thi hành rõ ràng hơn để tháo gỡ
khó khăn cho người dân khi tự mình đi xác minh điều kiện THADS. Tham khảo
kinh nghiệm lập pháp của một số nước, thì nghĩa vụ xác minh điều kiện THADS
thuộc về người được THA, đòi hỏi trước khi yêu cầu THA thì người được THA
phải thu thập thông tin và cung cấp thông tin cho cơ quan THADS, chứ không phải
là nghĩa vụ thuộc về cơ quan THADS như Pháp lệnh THADS 2004 quy định. Các
bài viết về thực trạng áp dụng pháp luật mang tính tranh luận, phê phán nêu trên, sẽ
là nguồn tài liệu gợi mở cho việc nghiên cứu về chủ thể xác minh của Việt Nam.
Bài viết “Về một quyết định hủy kết quả thi hành án” của tác giả Phạm Công
Ý đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 6 năm 2013 [92]. Bài viết nêu và phân
tích về vụ việc thi hành án của Chi cục THADS huyện H đối với bản án số
02/2011/DSST ngày 19/7/2011 của Tòa án nhân dân huyện H. Quá trình THA,
CHV đã vi phạm Điều 44 Luật THADS 2008 về xác minh điều kiện THADS. Cụ
thể, CHV đã tự mình xác minh điều kiện THADS trong khi chưa có bằng chứng xác
thực về việc người được THA không thể xác minh được. Do áp dụng không đúng
trình tự thủ tục về xác minh, hệ quả là kết quả THA bị Thủ trưởng cơ quan THADS ra
quyết định hủy kết quả THA. Vấn đề hủy kết quả THA có nhiều quan điểm khác nhau.
Nội dung bài viết là nguồn tài liệu thực tế để NCS phân tích, diễn giải về thẩm quyền
của chủ thể trong xác minh điều kiện THADS.
Bài viết “Xác minh điều kiện thi hành án theo Luật sửa đổi, bổ sung một số
13
điều của Luật Thi hành án dân sự” của tác giả Bùi Nguyễn Phương Lê đã phân tích
thay đổi của quy định pháp luật về xác minh điều kiện THADS theo Luật sửa đổi bổ
sung một số điều của Luật THADS 2014 về 07 (bảy) khía cạnh sau: Về trách nhiệm
xác minh điều kiện THADS; về thời hạn xác minh; về trách nhiệm của người phải
THA; về biên bản xác minh; về căn cứ và thời hạn xác minh lại; về ủy thác xác
minh và về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc xác minh
điều kiện THADS. Bài viết thể hiện quan điểm bình luận của tác giả về những điểm
mới của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật THADS 2014 [56].
Bài viết “Những trường hợp khó thi hành thường gặp trong thi hành án dân
sự” của tác giả Trần Ngọc Bàn phản ánh thực trạng khó THA bởi Tòa án tuyên
không rõ ràng, không phù hợp với thực tế của đương sự. Ngoài ra, án khó thi hành
vì đối với tài sản của người phải THA là tài sản chung, đặc biệt đối với đồng bào
dân tộc miền núi, tài sản của hộ gia đình có nhiều thế hệ cùng chung sống, việc xác
định tài sản chung, tài sản riêng của người phải THA gặp nhiều khó khăn, họ luôn
tìm cách che giấu khối tài sản của mình, nhằm trốn tránh nghĩa vụ THA. Do đó, khi
CHV tổ chức thi hành những việc này, thường nhận được sự phản ứng quyết liệt từ
các đồng sở hữu. Tác giả bài viết đã phản ánh thực trạng tổ chức đời sống của bà
con dân tộc miền núi ảnh hưởng đến việc THA, trong đó có hoạt động xác minh
điều kiện THADS [1]. Đây là những tư liệu sống động của đời sống, trong quá trình
xác minh điều kiện THADS, CHV ngoài việc nắm vững các quy định chung của
pháp luật thì cần phải có hiểu biết về phong tục, tập tục địa phương nơi mình công
tác để có những kỹ năng xác minh điều kiện THADS phù hợp.
Bài viết “Thực tiễn thi hành án dân sự đối với cá nhân, tổ chức là người
nước ngoài ở Bình Dương” của tác giả Nguyễn Văn Lộc phản ánh thực trạng THA
tại địa bàn tỉnh Bình Dương - một tỉnh có đặc thù là có nhiều doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài và có nhiều việc thi hành có giá trị THA lớn. Có một số hệ lụy
liên quan đó là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp không còn ở Việt
Nam, thậm chí toàn bộ người quản lý doanh nghiệp bỏ trốn, không ai quản lý tài
sản. Vấn đề đặt ra CHV sẽ xác minh điều kiện THADS như thế nào, thông báo cho
người đại diện theo pháp luật đã bỏ trốn như thế nào khi chưa xử lý xong các khoản
nợ tại Việt Nam? Nếu CHV không kịp thời ngăn chặn xuất cảnh đối với người phải
THA thì việc THA sẽ gặp khó khăn, thậm chí bế tắc [58].
Các bài viết về thực trạng THA và xác minh tài sản đối với án tham nhũng
14
trong bài “Chủ tịch nước: Thi hành án phải tăng hiệu quả thu hồi tài sản tham
nhũng” [63] và bài “Tổng cục Thi hành án dân sự: Vì sao khó thu hồi tài sản các vụ
tham nhũng?” [82]. Nội dung các bài viết phản ánh thực trạng hiện nay là khó thi
hành (chẳng hạn việc THA đối với Dương Chí Dũng trong vụ Tổng công ty Hàng
hải Việt Nam (Vinalines) là 110 tỷ đồng nhưng quá trình THA, cơ quan THADS đã
xử lý tài sản mới kê biên và thu được trên 14 tỷ đồng, trong khi nghĩa vụ THA của
Dương Chí Dũng còn rất lớn). Bài viết nêu thực trạng việc xác minh điều kiện
THADS, ngoài các tài sản đã được kê biên, tuyên xử lý trong bản án, quyết định của
Tòa án, cơ quan THADS khó có thể xác minh được thêm tài sản hoặc nguồn thu
nhập khác, vì tội phạm tham nhũng thường tìm mọi cách để tẩu tán, che giấu, hợp lý
hóa tài sản. Trong khi đó, cơ quan THADS chỉ có thể căn cứ vào tình trạng pháp lý
hiện hành của tài sản để xử lý mà không có thẩm quyền điều tra, chứng minh nguồn
gốc tài sản do phạm tội mà có.
Bài viết “Có khởi tố vụ tẩu tán tài sản để “né' thi hành án?” nêu cụ thể về
việc chiếc tàu đánh cá được nạo sửa đã bị biển số, mù mờ, một điều rất cấm kỵ với
ngư dân và đã thay đổi địa bàn hoạt động. Đây là tài sản để THA, tuy nhiên CHV
khi xác minh đã sơ suất không phát hiện hoặc cố ý không phát hiện ra những vấn đề
khuất tất của con tàu [83]. Bài viết cho NCS thông tin về loại tài sản có đăng ký
quyền sở hữu những có khả năng di chuyển tại nhiều địa điểm khác nhau như tàu
đánh cá trên biển, vậy trong trường hợp cụ thể này CHV cần phải lưu ý những nội
dung gì khi xác minh?
Bài viết “Một số vấn đề xác minh điều kiện thi hành án tại các tổ chức tín
dụng” của tác giả Võ Hoài Nam cho rằng, trong quá trình THA, việc xác minh tiền,
tài sản gửi của người phải THA đã trở thành công việc thường xuyên của các cơ
quan THADS. Từ khi Luật THADS năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành
có hiệu lực, công tác xác minh thông tin về số dư tài khoản, tiền gửi, tài sản gửi của
khách hàng tại các tổ chức tín dụng thời gian qua đã có nhiều thuận lợi. Tuy nhiên,
trên thực tế, vẫn tồn tại không ít khó khăn cần được tháo gỡ. Trong bài viết của
mình, tác giả đã làm rõ những khó khăn, bất cập trong thực tiễn tiến hành công tác
xác minh tại các tổ chức tín dụng; đồng thời đưa ra một số đề xuất, kiến nghị nhằm
tạo điều kiện tối đa cho các TPL khi thực hiện thẩm quyền của mình [59].
Cũng trong bài viết “Xác minh điều kiện thi hành án theo Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự”, tác giả Bùi Nguyễn Phương Lê đã
15
phân tích quy định về biên bản xác minh; về căn cứ và thời hạn xác minh lại; về ủy
thác xác minh và về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc
xác minh điều kiện THADS [56]. Bài viết thể hiện quan điểm bình luận của tác giả
về những điểm mới của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật THADS 2014 và
là tài liệu tham khảo để NCS phân tích các quy định pháp luật về thủ tục xác minh
điều kiện THADS.
1.1.3. Tình hình nghiên cứu về giải pháp hoàn thiện pháp luật về xác minh
điều kiện thi hành án dân sự
Bài viết “Tiêu chí đánh giá hiệu quả áp dụng pháp luật trong thi hành án
dân sự” của tác giả Đặng Đình Quyền đã cho rằng để đánh giá hiệu quả áp dụng
pháp luật trong THADS nên dựa vào hai tiêu chí: Tiêu chí đưa pháp luật THADS
vào cuộc sống và tiêu chí đưa cuộc sống vào pháp luật THADS. Luận giải cho mỗi
tiêu chí đánh giá, tác giả phân tích cụ thể dưới góc độ lý luận về áp dụng áp luật
(gồm 4 giai đoạn) và hoàn thiện pháp luật [79]. NCS sẽ tham khảo về hai tiêu chí
này trong phần đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về xác minh điều kiện
THADS nhìn nhận dưới góc độ hiệu quả áp dụng pháp luật THADS.
Bài viết “Bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực
pháp luật được chấp hành trên thực tế” của tác giả Vũ Thuần Nho đã phân tích về
một số vướng mắc bất cập về trình tự, thủ tục THADS, trong đó có xác minh điều
kiện THADS. Tác giả nêu một số đề xuất, kiến nghị về cải cách thể chế đảm bảo
cho bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực được chấp hành trên thực tế
[66]. NCS quan tâm đến đề xuất, kiến nghị của tác giả về việc xác minh điều kiện
THADS phải được tiến hành và được áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành trước khi
xét xử, nhằm ngăn chặn hành vi tẩu tán tài sản, trốn tránh việc THA, khắc phục một
phần tình trạng bản án, quyết định của Tòa án chỉ có ý nghĩa trên giấy, không chấp
hành trên thực tế. Với kiến nghị này, tác giả không phân tích và làm sáng tỏ nội
hàm của của cụm từ “xác minh điều kiện THADS phải được tiến hành và được áp
dụng biện pháp bảo đảm thi hành trước khi xét xử”. Do đó, có rất nhiều câu hỏi
xung quanh kiến nghị này như: nội dung phải thực hiện được hiểu cụ thể như thế
nào? Tòa án hay cơ quan THADS “phải” thực hiện hoạt động này và cơ chế nào để
thực hiện điều này?... Đây là một quan điểm mới mẻ, tuy nhiên, dưới góc độ khoa
học nội dung này đòi hỏi cần phải được nghiên cứu sâu sắc và toàn diện hơn nữa.
Về kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động của TPL nói chung, trong đó có
16
hoạt động xác minh điều kiện THADS, có một số bài viết sau: Bài “Nâng cao hiệu
quả thi hành án dân sự và xác minh điều kiện thi hành án của Thừa phát lại” của
tác giả Nguyễn Tiến Pháp đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 11/2012 [67]
và bài “Thủ tục thực hiện công việc của thừa phát lại” của tác giả Lê Xuân Hồng
đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật - Số chuyên đề Thi hành án dân sự và vấn
đề xã hội hóa năm 2009 [49]. Theo các tác giả, thực trạng hoạt động của TPL còn
gặp một số vướng mắc như: một số cơ quan nhà nước còn quá máy móc về luật
chuyên ngành đã từ chối cung cấp thông tin cho TPL vì Văn phòng TPL không phải
là cơ quan nhà nước; chưa đề cập đến thẩm quyền xác minh trong quá trình khởi
kiện tại Tòa án… Từ thực tế này, các tác giả có đề xuất là tiếp tục tăng cường công
tác thông tin tuyên truyền về TPL tới người dân, tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ
TPL, hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa Văn phòng TPL với cơ quan THADS trong
việc sử dụng kết quả xác minh điều kiện THADS.
Bài viết “Kiến nghị hoàn thiện Luật Thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn
Duy Phương đã đề xuất pháp luật cần quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và cơ chế
phối hợp. Cần có các chế tài cụ thể đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ
thông tin không cung cấp thông tin hoặc cung cấp chậm trễ thông tin khi được CHV
yêu cầu mà không có lý do chính đáng, không có văn bản trả lời người yêu cầu [69].
Nội dung kiến nghị này sẽ được NCS tiếp tục nghiên cứu và phát triển trong luận án.
Đề tài khoa học cấp nhà nước độc lập "Luận cứ khoa học và thực tiễn của
việc đổi mới tổ chức hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam trong giai đoạn mới"
(Mã số đề tài 2000-58-198) do Bộ Tư pháp chủ trì đã nghiên cứu một cách khá toàn
diện, khoa học về các vấn đề cả về tổ chức và hoạt động THADS nói chung cũng
như nghiên cứu đặc trưng của từng loại hình THADS, đưa ra mục tiêu, quan điểm,
yêu cầu và những giải pháp nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động THADS ở Việt
Nam trong thời gian tới [8].
Các tài liệu nghiên cứu nói trên là các tài liệu tham khảo giúp NCS đưa ra
các giải pháp toàn diện và đồng bộ để cải thiện hiệu quả công tác xác minh điều
kiện THADS.
1.1.4. Đánh giá chung tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.1.4.1. Đánh giá những kết quả nghiên cứu đã đạt được
*Về lý luận
- Các nghiên cứu đã làm rõ mối liên hệ hữu cơ giữa thủ tục THADS và xác
17
minh điều kiện THADS. Đây là mối quan hệ nội tại giữa cái chung – cái riêng của
pháp luật THADS. Do vậy, xác minh điều kiện THADS là một “mắt xích” quan
trọng trong quy trình thủ tục THADS, phải được nghiên cứu trong mối quan hệ tổng
thể của toàn bộ quy trình THADS. Kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên
cứu đã chỉ ra về lý luận: Xác minh điều kiện THADS là một thủ tục pháp lý bắt
buộc, có vai trò quan trọng trong hoạt động tổ chức THADS, kết quả của xác minh
điều kiện THADS có ảnh hưởng đến kết quả tổ chức THADS và được tiến hành bởi
các chủ thể nhất định.
- Một số tác giả đã đưa ra quan niệm về xác minh điều kiện THADS trên cơ
sở quy định của pháp luật, với nội hàm của khái niệm là: xác minh điều kiện thi
hành án dân sự là việc thu thập thông tin về điều kiện thi hành án của người phải
THA. Như vậy, nội hàm của thuật ngữ “xác minh”, theo các tác giả nghiên cứu là
gần như đồng nhất với thuật ngữ “thu thập thông tin” hay làm “sáng tỏ thông tin” về
điều kiện THADS của người phải THA.
- Các công trình khá thống nhất với nhau về vai trò, ý nghĩa của xác minh,
chủ thể tiến hành xác minh, chủ thể tham gia hoạt động xác minh, thủ tục tiến hành
xác minh, xử lý kết quả xác minh điều kiện THADS. Những nội dung này, có thể
coi là những vấn đề lý luận cơ bản về điều chỉnh pháp luật đối với xác minh điều
kiện THADS.
- Về lý thuyết, xác minh là một thủ tục pháp lý được tiến hành ở nhiều địa
điểm khác nhau (không gian khác nhau) và đối tượng được xác minh khác nhau,
phụ thuộc vào tính chất cụ thể của mỗi việc THADS. Do vậy, sẽ không có một
“công thức” chung về kỹ năng tiến hành xác minh điều kiện THADS cho tất cả các
trường hợp.
- Phần lớn các tác giả thống nhất với nhau ở nội dung: quy định pháp luật về
xác minh điều kiện THADS nói riêng, thủ tục THADS nói chung là các quy định
của luật hình thức. Cơ chế áp dụng hiệu quả của các quy định về xác minh hay thủ
tục THADS phụ thuộc vào các quy định pháp luật nội dung có liên quan. Đây là cơ
sở lý luận gợi mở định hướng nghiên cứu quan trọng cho NCS trong luận án.
*Về thực trạng pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án
- Các công trình nghiên cứu về thực trạng pháp luật về xác minh điều kiện
THADS đã nghiên cứu ở hai góc độ là: Thực trạng các quy định pháp luật và thực
trạng áp dụng pháp luật về xác minh điều kiện THADS. Từ năm 2004 đến nay, các
18
công trình đã phản ánh toàn diện và thực chất các quy định pháp luật về xác minh
điều kiện THADS “đi vào đời sống” ra sao, đã tác động vào hiệu quả hoạt động áp
dụng pháp luật THADS như thế nào. Minh chứng cụ thể là, bức tranh thực trạng xác
minh điều kiện THADS chưa khi nào được phản ánh đậm đặc trong các công trình
nghiên cứu như tại thời điểm khi quy định của Điều 44 Luật THADS 2008 có hiệu lực.
Tuy nhiên, mỗi công trình nghiên cứu trên mới chỉ là những “lát cắt”, một
góc nhìn trong bức tranh tổng thể về thực trạng xác minh điều kiện THADS. Nhiệm
vụ của NCS là kế thừa có chọn lọc các thông tin trong các tài liệu nghiên cứu về
thực trạng, khái quát hóa, đồng thời nghiên cứu, thực hiện khảo sát thực trạng một
cách độc lập để nội dung phần thực trạng pháp luật về xác minh điều kiện THADS
của luận án tại thời điểm hiện nay luôn đảm bảo tính mới, tính thời sự của nội dung
nghiên cứu.
- Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu, ngoài việc đánh giá những thành tựu
của THADS nói chung và xác minh điều kiện THADS nói riêng, cũng đã phản ánh tình
trạng non kém về nghiệp vụ, khả năng áp dụng pháp luật chưa đúng, chưa đầy đủ liên
quan đền trình độ, năng lực và đạo đức của CHV khi xác minh điều kiện THADS… Từ
góc độ của những người trong nghề THA, những tài liệu mang tính khảo sát thực tế
này sẽ rất hữu ích cho NCS khi nghiên cứu luận án với nhiều góc nhìn khác nhau về
thực trạng áp dụng pháp luật xác minh điều kiện THADS.
*Về giải pháp
Các công trình nghiên cứu trên đã đưa ra một số giải pháp sau:
- Các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về xác minh điều kiện
THADS: thời hạn xác minh, xử lý kết quả xác minh, trách nhiệm của người tiến hành
xác minh, trách nhiệm của người phải THA, trách nhiệm phối hợp của các cơ quan có
liên quan trong hoạt động xác minh cần phải được quy định minh bạch, phù hợp hơn.
- Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xác minh như tuyên
truyền pháp luật; động viên, khích lệ người cung cấp thông tin, người phải THA tự
nguyện thi hành; nâng cao đào tạo, bồi dưỡng cho CHV, TPL về kiến thức pháp luật
và kỹ năng xác minh…
Với kết quả nghiên cứu nêu trên, NCS sẽ tiếp tục phát triển và làm sâu sắc
hơn trong luận án của mình ở nội dung nghiên cứu về giải pháp hoàn thiện pháp luật
19
và thực tthi pháp luật trong Luận án.
1.1.4.2. Những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu trong luận án
*Về lý luận
- Khái niệm về xác minh điều kiện THADS chưa được xây dựng một cách đầy
đủ, chưa lột tả hết bản chất của hoạt động xác minh điều kiện THADS. Do đó, nhiệm
vụ đặt ra là phải tổng hợp đầy đủ, phân tích kỹ lưỡng, khoa học các quan niệm đã có
về xác minh điều kiện THADS, từ đó, xây dựng được khái niệm về xác minh điều
kiện THADS phù hợp hơn với điều kiện mới và tiếp cận giá trị chung của thế giới.
- Đặc điểm xác minh điều kiện THADS cũng cần được nhìn nhận một cách
toàn diện hơn, không những để phân biệt với hoạt động khác trong THADS, mà
quan trọng hơn là để nhận diện cho đúng, cho đầy đủ giá trị riêng có của xác minh
điều kiện THADS ở Việt Nam, từ đó, thực hiện việc đổi mới, hoàn thiện pháp luật
về xác minh điều kiện THADS một cách phù hợp.
- Xác minh điều kiện THADS phải được nghiên cứu trong về các mối quan
hệ với quy trình THADS; quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ xác
minh; thủ tục xác minh điều kiện THADS với luật nội dung liên quan; xác minh
điều kiện THADS với các điều kiện đảm bảo thực hiện… Nội hàm của từng mối
quan hệ, mức độ tác động giữa các mối quan hệ và hệ quả tác động giữa các mối
quan hệ với nhau cần được phân tích, lý giải rõ. Đây là những nội dung cần được
nghiên cứu và khái quát hóa về mặt lý luận.
*Về thực trạng
- Thực trạng quy định của pháp luật về xác minh theo Luật sửa đổi bổ sung
một số điều của Luật THADS 2014 đã được nghiên cứu ở các góc độ, các lát cắt
khác nhau. Nhiệm vụ của luận án là: một mặt, phải hệ thống hoá một cách đầy đủ
những phân tích, đánh giá đã có; mặt khác, tiếp tục nghiên cứu, khảo sát, đánh giá
một cách toàn diện hơn, trên cơ sở đó phác hoạ được bức tranh toàn cảnh về các
quy định của pháp luật hiện hành về xác minh điều kiện THADS.
- Thực trạng áp dụng pháp luật về xác minh điều kiện THADS từ năm 2015
đến nay cần được nghiên cứu, đánh giá một cách khách quan, toàn diện và sâu sắc,
qua đó, làm rõ mặt được, mặt còn hạn chế của thực thi pháp luật về xác minh điều
kiện THADS.
- Việc đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về xác minh điều kiện THADS
cần được đặt trong mối liên hệ với pháp luật thực định, yêu cầu giải quyết án tồn
20
đọng - một nhiệm vụ quan trọng của ngành thi hành án; phân tích các yếu tố tác
động, tìm ra những nguyên nhân của những tồn tại, khó khăn, vướng mắc trong quá
trình áp dụng pháp luật.
*Về giải pháp
Trên cơ sở nhận thức lý luận cũng như đánh giá thực trạng pháp luật về xác
minh điều kiện THADS, luận án có nhiệm vụ đưa ra những kiến nghị hoàn thiện
pháp luật về xác minh điều kiện THADS hiện nay. Các giải pháp đảm bảo cho việc
nâng cao hiệu quả hoạt động xác minh điều kiện THADS phải trên cơ sở các tiêu
chí cụ thể, đảm bảo tính hiệu quả và hội nhập quốc tế.
1.2. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu đề tài luận án
Để tiến hành nghiên cứu nội dung của đề tài này, luận án dựa trên các cơ sở
lý thuyết như sau:
(1) Lý thuyết về xét xử công bằng: THADS là một giai đoạn quan trọng để
đảm bảo hiện thực hoá các quyền được toà án ghi nhận. Nếu không có sự bảo đảm
THA nhanh chóng, hiệu quả thì quyền được tiếp cận công lý và quyền được xét xử
công bằng sẽ trở nên vô nghĩa. Theo án lệ của Toà án nhân quyền châu Âu, việc thi
hành bản án hoặc quyết định của Toà án phải được coi là một phần không thể thiếu của
“phiên toà” theo nghĩa của Điều 6 Công ước châu Âu [99, pg. 60]. Do vậy, lý thuyết về
xét xử công bằng có giá trị quan trọng trong việc nghiên cứu lý luận về căn cứ xác
minh điều kiện THADS, cũng như là một trong những cơ sở để đưa ra các đề xuất, kiến
nghị để hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện THADS.
(2) Lý thuyết về tính minh bạch của thông tin, bảo vệ dữ liệu, bảo vệ quyền
riêng tư: Do xác minh điều kiện THADS là hoạt động tìm kiếm các thông tin về
điều kiện THADS của người phải THA nên lý thuyết về tính minh bạch của thông
tin, lý thuyết về bảo vệ dữ liệu, bảo vệ quyền riêng tư cũng là một trong những cơ
sở lý thuyết của luận án.
(3) Lý thuyết về cân bằng quyền lợi của các bên đương sự: Xác minh điều
kiện THADS là hoạt động có mục đích nhằm tổ chức thi hành bản án, quyết định có
hiệu lực thi hành. Trong hoạt động THADS, có hai chủ thể trung tâm với các quyền,
lợi ích đối nghịch nhau là người được THA và người phải THA. Xác minh điều
kiện THADS là một hoạt động của quá trình THADS, do đó, lý thuyết về cân bằng
quyền lợi của các bên đương sự cũng cần được xem xét khi nghiên cứu các vấn đề
21
lý luận về xác minh điều kiện THADS.
(4) Lý thuyết về quyền tự định đoạt trong quan hệ tư: Xác minh điều kiện
THADS là một công đoạn của hoạt động THADS. Hoạt động này có đặc trưng cơ
bản là bảo vệ cho “lợi ích tư” nên thuộc phạm vi điều chỉnh của luật tư. Theo
nguyên tắc của luật tư, quan hệ tài sản hay nhân thân đều do các bên tự định đoạt.
Do vậy, lý thuyết về quyền tự định đoạt sẽ là một nội dung quan trọng khi nghiên
cứu các vấn đề lý luận về xác minh điều kiện THADS.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
Luận án đã xác định các câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu tập
trung vào ba nội dung lớn mà đề tài luận án cần nghiên cứu đó là: lý luận, thực
trạng và kiến nghị liên quan tới vấn đề xác minh điều kiện THADS theo pháp luật
Việt Nam hiện nay.
(1) Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu về lý luận:
Ở Việt Nam hiện nay đã xây dựng được một nền tảng lý luận về xác minh
điều kiện THADS chưa? Những vấn đề lý luận tạo lập nên nền tảng đó là những gì
và chúng như thế nào?
Giả thuyết nghiên cứu:
Hiện ở Việt Nam vẫn chưa xây dựng được nền tảng lý luận hoàn chỉnh về
xác minh điều kiện THADS. Các nhà nghiên cứu chưa nhìn nhận đầy đủ về các
thành tố của nền tảng lý luận về xác minh điều kiện THADS, chưa làm rõ được các
nội dung chủ yếu của các bộ phận cấu thành nên nền tảng lý luận đó.
(2) Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu về thực trạng pháp luật Việt Nam:
Pháp luật về xác minh điều kiện THADS ở Việt Nam hiện nay có xuất phát
từ các nguyên lý khách quan hay nền tảng lý luận thực sự hay không, có đáp ứng
được nhu cầu của xã hội không, có những ưu điểm và hạn chế gì, nguyên nhân của
những vướng mắc, bất cập đó là gì?
Giả thuyết nghiên cứu:
Môi trường pháp lý của Việt Nam hiện nay vẫn chưa thực sự phù hợp đối với
việc phát triển xác minh điều kiện THADS. Nguyên nhân của những bất cập của
các quy định pháp luật trong lĩnh vực này bao gồm cả nguyên nhân chủ quan và
nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu là do chưa có một nền tảng lý luận pháp
22
luật vững chắc về xác minh điều kiện THADS.
(3) Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu về giải pháp hoàn thiện
pháp luật Việt Nam hiện nay
Tại sao cần thiết phải hoàn thiện chế định xác minh điều kiện THADS? Việc
hoàn thiện chế định pháp luật này cần phải tuân thủ các yêu cầu nào để phù hợp với
các nguyên lý khách quan và đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thực tiễn xã hội? Các
giải pháp để hoàn thiện chế định này là những gì?
Giả thuyết nghiên cứu:
Việc hoàn thiện chế định pháp luật xác minh điều kiện THADS là một nhu cầu
cấp thiết nhằm cải thiện hiệu quả công tác THADS, một trong những vấn đề được xã
hội quan tâm trong giai đoạn gần đây. Các yêu cầu và giải pháp hoàn thiện phải phù
hợp với các nguyên lý khách quan, đồng bộ với các chế định pháp luật khác trong hệ
thống pháp luật và phù hợp với thực tiễn xã hội Việt Nam.
Tiểu kết chƣơng 1
Chương 1 của luận án đã khái quát hoá được bức tranh về tình hình nghiên
cứu liên quan đến luận án. Về tình hình nghiên cứu lý luận về xác minh điều kiện
THADS, các công trình nghiên cứu khoa học trong nước đã bước đầu đặt ra và lý
giải khá rõ những vấn đề lý luận về xác minh điều kiện THADS như: khái niệm,
đặc điểm xác minh điều kiện THADS; nội dung điều chỉnh pháp luật về xác minh
điều kiện THADS (chủ thể xác minh, nội dung xác minh, thủ tục xác minh, thời
hạn xác minh; vai trò, ý nghĩa của xác minh điều kiện THADS; một số yếu tố ảnh
hưởng đến xác minh điều kiện THADS). Tuy nhiên, mỗi công trình nghiên cứu
đều chỉ đề cập đến một số khía cạnh của xác minh điều kiện THADS mà chưa đầy
đủ, toàn diện và đủ độ sâu sắc để làm nên nền tảng lý luận vững chắc về vấn đề
này. Bên cạnh đó, một số công trình nghiên cứu ở nước ngoài về xác minh điều
kiện THADS tuy rất sâu sắc nhưng cũng chỉ dừng lại ở giá trị chung của nhân loại.
Đây là những nghiên cứu có giá trị tham khảo đối với luận án để hoàn thiện khung
pháp lý về xác minh điều kiện THADS. Từ đánh giá tình hình nghiên cứu về lý
luận, nhiệm vụ của luận án là cần phải xây dựng khái niệm về xác minh điều kiện
THADS cho phù hợp hơn với bản chất của hoạt động xác minh điều kiện THADS
và tiếp cận với kinh nghiệm của một số nước trên thế giới; luận giải các yếu tố tác
động đến hoạt động xác minh điều kiện THADS và nội dung quy định pháp luật về
23
xác minh điều kiện THADS.
Về tình hình nghiên cứu thực trạng pháp luật và các giải pháp hoàn thiện
pháp luật về xác minh điều kiện THADS, một số công trình nghiên cứu trong
nước cũng đã đánh giá một số khía cạnh về thực trạng pháp luật và các giải pháp
hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện THADS. Tuy nhiên, mỗi công trình
nghiên cứu trên mới chỉ là những “lát cắt” nhỏ trong bức tranh tổng thể về thực
trạng cũng như giải pháp hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện THADS. Từ
đó, đặt ra nhiệm vụ của NCS là kế thừa có chọn lọc các thông tin trong các tài liệu
nghiên cứu về thực trạng, khái quát hóa, đồng thời nghiên cứu, thực hiện khảo sát thực
trạng một cách độc lập để nội dung phần thực trạng pháp luật tại thời điểm hiện nay
nhằm đảm bảo tính mới, tính thời sự của nội dung nghiên cứu. Đồng thời, luận án có
nhiệm vụ đưa ra những kiến nghị, những giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về xác minh điều kiện THADS. Các giải pháp
đảm bảo cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động xác minh điều kiện THADS phải trên
24
cơ sở các tiêu chí cụ thể, đảm bảo tính hiệu quả và hội nhập quốc tế.
Chƣơng 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ XÁC MINH ĐIỀU KIỆN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
2.1. Khái niệm, đặc điểm xác minh điều kiện thi hành án dân sự
2.1.1. Khái niệm xác minh điều kiện thi hành án dân sự
THADS là hoạt động đưa các bản án, quyết định về dân sự của toà án ra thi
hành trên thực tế nhằm hiện thực hoá quyền và lợi ích hợp pháp của người được
THA đã được xác định trong bản án, quyết định. THADS đóng vai trò quan trọng
trong việc xây dựng niềm tin của người dân vào toà án và hệ thống tư pháp nói
chung, bảo đảm quyền con người, đặc biệt là quyền tiếp cận công lý và quyền được
xét xử công bằng [98].
Trong những năm gần đây cộng đồng quốc tế đã có nhiều nghiên cứu và đưa
ra khuyến nghị về mô hình THADS có hiệu quả, không phụ thuộc vào mô hình tổ
chức THADS là mô hình công hay tư, gắn với toà án hay không gắn với toà án.
Theo khuyến nghị về THADS của Hội đồng châu Âu năm 2003, mô hình THADS
hiệu quả bao gồm hai thành tố chủ đạo: thủ tục thi hành án (enforcement
procedures) và con người – tức là cán bộ thi hành án (enforcement agents) [98].
Theo một tài liệu trong chuỗi nghiên cứu về nhà nước pháp quyền của Quỹ quốc tế
về các hệ thống bầu cử (IFES) – một tổ chức phi chính phủ ở Mỹ, mô hình thi hành
án hiệu quả gồm 12 tiêu chí [105]. Cả hai mô hình THADS do EU và IFES khuyến
nghị đều đề cập đến một yếu tố không thể thiếu, đó là cơ chế xác minh điều kiện
THADS hữu hiệu, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc tiếp cận các thông tin về
người phải THA. Có thể nói, xác minh điều kiện THADS là hoạt động trung tâm,
quan trọng nhất của quá trình tổ chức THADS [85]. Kết quả xác minh là cơ sở để
cơ quan THADS thuyết phục đương sự tự nguyện THA, ra các quyết định khác
trong quá trình thi hành án, lựa chọn áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành
án… [47, tr.90]
Với tầm quan trọng đặc biệt như vậy nhưng khái niệm xác minh điều kiện
THADS ít được các nhà khoa học và các nhà hoạt động thực tiễn cả ở Việt Nam và
ở nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu chủ
yếu tập trung vào các nội dung như chủ thể xác minh, phương thức xác minh, thủ
25
tục xác minh.
Về mặt ngữ nghĩa, khái niệm “xác minh điều kiện thi hành án dân sự” được
hợp thành bởi hai cụm từ “xác minh” và “điều kiện thi hành án dân sự”. Theo Từ
điển Từ và ngữ Việt Nam do Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm
1998 thì "xác minh" được hiểu là làm cho rõ với chứng cứ cụ thể [55, tr.2061], còn
theo Đại Từ điển Tiếng Việt do Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin xuất bản năm
1998 thì "xác minh" được hiểu là làm rõ thực chất sự việc với những chứng cứ cụ
thể [91, tr.1848]. Như vậy, có thể hiểu "xác minh" là việc đi tìm các chứng cứ, tài
liệu để tìm hiểu, làm rõ một hoặc nhiều vấn đề nào đó. Xác minh được tiến hành bởi
chủ thể nhất định, tùy theo mục đích và yêu cầu của vấn đề cần được xác minh mà
chủ thể tiến hành xác minh là chủ thể nào.
Điều kiện THADS là khả năng để có thể thực hiện việc THADS. Pháp luật
về THADS đã định nghĩa có điều kiện thi hành án là trường hợp người phải thi
hành án có tài sản, thu nhập để thi hành nghĩa vụ về tài sản; tự mình hoặc thông qua
người khác thực hiện nghĩa vụ thi hành án [75, khoản 6 Điều 3].
Như vậy, bản chất của xác minh điều kiện THADS chính là làm rõ tình hình
tài sản, thu nhập của người phải THA (trong trường hợp thi hành nghĩa vụ trả tiền)
và làm rõ khả năng thực hiện việc THA (trong trường hợp thi hành nghĩa vụ thuộc
về hành vi). Ở nhiều quốc gia trên thế giới, pháp luật gọi tên hoạt động này đúng
theo bản chất của nó thay vì cách sử dụng thuật ngữ mang tính chất khái quát như ở
Việt Nam. Ví dụ ở Mỹ, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn gọi hoạt động
xác minh điều kiện THADS của người phải THA là xác định tài sản của người phải
THA (Locate a debtor’s assets) [111] hay là tìm kiếm tài sản của người phải THA
(discovery to find the debtor’s assets) [94]. Ở Pháp, người ta dùng thuật ngữ nhận diện
tài sản (identifying assets) [96]. Giáo sư Burkhard Hess thì dùng thuật ngữ thu thập
thông tin nhằm mục đích THA (gathering of information for enforcement purposes)
[107, tr.51] và thuật ngữ tìm kiếm thông tin về nơi có tài sản của người phải THA (seek
information about the whereabout of the debtor’s assets) [106, tr.17].
Tiếp cận khái niệm xác minh dưới khía cạnh đặc trưng của hoạt động xác
minh, tác giả Hoàng Thị Thu Trang định nghĩa:
"Xác minh điều kiện THADS là việc CHV thu thập thông tin, tiếp cận, xác
định đối tượng, mục tiêu cần phải thi hành (tài sản, thu nhập của người phải thi hành
án, vật, giấy tờ, nhà phải trả…) và các thông tin khác phục vụ cho quá trình tổ chức thi
26
hành án như: Nhân thân, hoàn cảnh gia đình của người phải thi hành án” [85].
Định nghĩa này đã nêu lên được các đặc trưng của hoạt động bao gồm chủ
thể của hoạt động là CHV; nội dung của hoạt động là thu thập thông tin, tiếp cận,
xác định đối tượng, mục tiêu cần phải THA (tài sản, thu nhập của người phải THA,
vật, giấy tờ, nhà phải trả, nhân thân, hoàn cảnh gia đình…); mục đích của hoạt động
là nhằm tổ chức THA. Tuy nhiên, khi đối chiếu định nghĩa này với đặc trưng của
hoạt động xác minh điều kiện THADS, có thể thấy, định nghĩa này chưa chính xác
ở những điểm sau:
- Thứ nhất, về chủ thể tiến hành hoạt động xác minh: nếu chỉ coi hoạt động
xác minh là hoạt động của CHV là chưa phù hợp bởi CHV không phải là chủ thể
duy nhất của hoạt động xác minh điều kiện THADS. Mỗi quốc gia trên thế giới lựa
chọn trao quyền xác minh điều kiện THADS cho các chủ thể khác nhau tuỳ thuộc
vào cách nhìn nhận của họ đối với hoạt động xác minh cũng như mô hình tổ chức
THA mà quốc gia đó lựa chọn. Ví dụ, ở Mỹ, với quan niệm xác minh điều kiện
THADS cũng giống như hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự nên pháp
luật đã trao nhiệm vụ xác minh cho người được THA [112, Rule 69 (2)]. Ở Pháp,
xác minh điều kiện THADS được giao cho TPL do mô hình tổ chức THA mà quốc
gia này lựa chọn là mô hình THA tư nhân [113, Điều L.152]. Ở Trung Quốc, xác
minh điều kiện THADS được giao cho thẩm phán do mô hình tổ chức THA mà
quốc gia này lựa chọn là mô hình THA dựa vào toà án [103, pg.572]. Ở Việt Nam,
xác minh điều kiện THADS cũng không phải là hoạt động độc quyền của CHV mà
còn là hoạt động của TPL.
- Thứ hai, về nội dung của hoạt động xác minh: nội dung của hoạt động xác
minh không phải là tiếp cận, xác định đối tượng, mục tiêu cần phải THA mà chỉ là
thu thập, xác định tài sản, thu nhập và khả năng THA của người phải THA. Xác
minh điều kiện THADS là một trình tự, thủ tục của hoạt động THADS. Do đó, việc
xác minh điều kiện THADS hướng tới mục đích là để tổ chức thi hành các bản án,
quyết định của Toà án có hiệu lực thi hành. Và để tổ chức THA hiệu quả thì người
phải THA phải có điều kiện, khả năng để thi hành nghĩa vụ. Vì vậy, nội dung của
hoạt động xác minh chính là xác định tài sản, thu nhập, khả năng THA.
Ngoài ra, do định nghĩa nói trên không đặt xác minh điều kiện THADS trong
mối liên hệ với hoạt động THADS nên chưa làm rõ được vị trí của xác minh điều
27
kiện THADS trong THADS.
Với các phân tích trên, NCS đưa ra định nghĩa về xác minh điều kiện
THADS như sau: “Xác minh điều kiện thi hành án dân sự là một thủ tục THADS,
trong đó, người được nhà nước giao quyền thực hiện các trình tự, thủ tục mà pháp
luật quy định nhằm thu thập thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án
khác của người phải thi hành án để làm căn cứ tổ chức thi hành án theo quy định
của pháp luật.”
2.1.2. Đặc điểm xác minh điều kiện thi hành án dân sự
- Xác minh điều kiện THADS là một thủ tục THADS
Xác minh điều kiện THADS là thủ tục THADS, đồng thời là một trong các
thủ tục quan trọng của hoạt động THADS. Một trong những nguyên tắc được khẳng
định trong bản Hướng dẫn thực hiện tốt hơn khuyến nghị của Hội đồng châu Âu về
THA là “Để pháp luật được duy trì và để người dân có niềm tin vào hệ thống toà án,
cần có các quy trình THA hiệu quả. Tuy nhiên, việc THA chỉ có thể đạt được khi
người phải THA có điều kiện hoặc khả năng thoả mãn bản án” [100]. Như vậy, xác
minh điều kiện THADS là một thủ tục trong quy trình THADS, do đó, không có
hoạt động THADS thì không có hoạt động xác minh điều kiện THADS. Đặc điểm
này giúp lý giải cho lý do vì sao pháp luật của nhiều nước yêu cầu để được quyền
thu thập các thông tin về điều kiện THADS của người phải THA thì người được
THA phải xuất trình một văn bản chứng minh rằng mình có quyền THA. Ở Pháp và
Tây Ban Nha không cho phép tìm kiếm thông tin về tình hình tài chính của người phải
THA trước khi có một giấy tờ (title) có thể THA chính thức [106, pg.34]. Đặc điểm
này cũng giúp phân biệt với hoạt động xác minh, thu thập thông tin của các chủ thể
khác. Ví dụ, cũng coi xác minh giống như hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng
dân sự nhưng với hoạt động xác minh điều kiện THADS, người được THA còn được
hỗ trợ bởi quy định về việc bắt buộc phải cung cấp thông tin của người phải THA và
bên thứ ba. Bởi lẽ, khi đã bắt đầu với tiến trình THADS thì người phải THA đang phải
thi hành một nghĩa vụ, do đó, cung cấp thông tin là một việc buộc phải làm, nếu trốn
tránh sẽ là hành vi vi phạm nghĩa vụ và phải chịu hình phạt (như trong quy định pháp
luật của Mỹ, Anh, Canada).
- Chủ thể thực hiện xác minh gắn bó chặt chẽ với hệ thống tổ chức THA mà
mỗi quốc gia lựa chọn cũng như quan điểm của các nhà lập pháp đối với hoạt động
28
xác minh điều kiện THADS.
Thông thường với các hoạt động khác trong quy trình THA như thông báo
THA, giải quyết việc THA, ghi nhận sự thoả thuận của các bên đương sự, cưỡng
chế THA đều do người có thẩm quyền tổ chức THA (CHV/TPL/thẩm phán
THA/cán bộ toà án) thực hiện thì hoạt động xác minh lại không đương nhiên được
quy định như vậy.
Các quốc gia theo quan điểm hoạt động THADS là hoạt động của cơ quan
công quyền thì người có thẩm quyền tổ chức THA là công chức nhà nước, cơ quan
THA là cơ quan nhà nước (có thể nằm trong hệ thống toà án hoặc nằm ngoài hệ
thống toà án). Vì vậy, người thực hiện việc xác minh điều kiện THADS là các công
chức nhà nước như Nga [103, tr.345], Italia [103, tr.452], Trung Quốc [103, tr.572].
Với các nước theo hệ thống pháp luật common law như Anh, Mỹ, Canada thì
lựa chọn giao quyền chủ động xác minh cho người được THA với sự hỗ trợ từ toà
án và chế tài nghiêm khắc đối với hành vi không cung cấp thông tin của người phải
THA [93], [102], [112].
Đối với các quốc gia lựa chọn hệ thống THA tư nhân hoặc bán tư nhân thì
việc xác minh được giao cho TPL như Pháp [94, tr.23], Estonia, Bỉ, Montenegro
[104, tr.7], Bulgaria [103, tr.419].
Ở Việt Nam, cả 3 chủ thể bao gồm CHV, TPL, người được THA đều có
quyền xác minh điều kiện THADS nhưng với các phạm vi quyền hạn khác nhau.
Trong đó, CHV được giao quyền đầy đủ, trong mọi trường hợp, nếu không có yêu
cầu khác từ người được THA thì đều phải xác minh. TPL chỉ tiến hành xác minh
khi đương sự hoặc người có quyền, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu xác minh hoặc
yêu cầu tổ chức THA. Người được THA được lựa chọn tự mình xác minh hoặc uỷ
quyền cho người khác xác minh hoặc để CHV tiến hành xác minh.
- Việc xác minh điều kiện THADS được thực hiện tại nhiều thời điểm, nhiều
địa điểm khác nhau trong quá trình THADS. Việc xác minh điều kiện THADS được
thực hiện tại nhiều thời điểm khác nhau trong quá trình THADS. Chẳng hạn, trường
hợp THA chủ động hoặc xác minh theo yêu cầu của đương sự thì việc xác minh điều
kiện THADS được thực hiện sau khi hết thời gian tự nguyện THA. Trường hợp sau khi
người được THA tiến hành xác minh điều kiện THADS của người phải THA và nộp
đơn yêu cầu THA mà CHV không đồng ý với kết quả xác minh này thì CHV sẽ tiến
hành xác minh điều kiện THADS lại. Trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện
29
pháp khẩn cấp tạm thời thì việc xác minh điều kiện THADS được thực hiện trước,
trong và sau khi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Việc xác minh điều kiện
THADS cũng được thực hiện tại nhiều địa điểm khác nhau tùy thuộc vào đối tượng xác
minh. Chẳng hạn, khi xác minh hiện trạng nhà đất thì địa điểm tiến hành xác minh là
tại nơi có nhà đất, khi xác minh chủ sở hữu phương tiện giao thông thì địa điểm tiến
hành xác minh là tại phòng cảnh sát giao thông; khi xác minh về tiền, tài khoản thì địa
điểm xác minh là tại ngân hàng, các tổ chức tín dụng…
- Nội dung xác minh điều kiện THADS chủ yếu là làm rõ thông tin về thu
nhập, tài sản của người phải THA. Phần lớn nghĩa vụ THADS là nghĩa vụ về tài
sản. Vì vậy, trừ những trường hợp đặc biệt cần xác minh về nhân thân, thái độ của
người phải THA để thi hành nghĩa vụ buộc thực hiện hoặc không thực hiện một
công việc nhất định thì nội dung chủ yếu của việc xác minh là làm rõ thông tin về
thu nhập, tài sản của người phải THA. Để tổ chức THADS thì phải làm rõ tài sản,
thu nhập của người phải THA có những gì? Số lượng và chủng loại cụ thể? Tài sản
của người phải THA do họ giữ hay do người khác giữ? Tài sản vô hình hay tài sản
hữu hình? Tài sản hiện có hay tài sản được hình thành trong tương lai?…
- Việc xác minh điều kiện THADS phải được thực hiện một cách đầy đủ,
chính xác theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định. Pháp luật THADS quy
định cụ thể về trình tự, thủ tục THADS nhằm đảm bảo hiệu quả THADS. Xác minh
điều kiện THADS là một khâu của quá trình THADS. Vì vậy, việc xác minh điều
kiện THADS phải được thực hiện một cách đầy đủ, chính xác theo đúng trình tự,
thủ tục mà pháp luật quy định từ chủ thể xác minh, thể thức văn bản yêu cầu cung
cấp thông tin, thời hạn thực hiện việc xác minh; nơi thực hiện việc xác minh, biên
bản xác minh… để tránh những trường hợp áp dụng một cách tùy tiện.
Ngoài những đặc điểm nêu trên, do xác minh điều kiện THADS là một thủ
tục THADS nên xác minh điều kiện THADS còn có những đặc điểm của THADS
như sau:
Một là, hoạt động THADS tác động trực tiếp đến quyền, lợi ích của đương
sự và luôn chịu sự chống đối quyết liệt của đương sự.
Sự tác động của hoạt động xét xử đến quyền, lợi ích của người khác thông
qua việc Tòa án nhân danh nhà nước tuyên buộc một người, một nhóm người phải
gánh chịu một hoặc nhiều nghĩa vụ nhất định. Tuy nhiên, bản án của Tòa án mới chỉ
là trên bản án trên giấy. Trên thực tế, người có nghĩa vụ chưa bị buộc phải thực hiện
30
nghĩa vụ của mình dưới sự giám sát của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Nhưng
hoạt động THADS lại tác động trực tiếp tới quyền, lợi ích của cá nhân đương sự do
phải thi hành nghĩa vụ của họ theo quyết định trong bản án, quyết định của Tòa án
và của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác. Trong quá trình THA, CHV phải tác
động vào chính những quyền lợi thiết thân của người phải THA, như buộc họ phải
trả tiền, nếu họ không tự nguyện trả tiền thì sẽ kê biên và bán tài sản của họ, yêu
cầu cơ quan quản lý thu nhập của người phải THA trừ vào thu nhập của họ, yêu cầu
người đang giữ tiền hoặc tài sản của người phải THA phải giao tiền, tài sản đó cho
cơ quan THA... Và cũng chính vì vậy mà hoạt động THADS luôn chịu sự chống đối
quyết liệt của đương sự. Thực tiễn cho thấy, không phải lúc nào các đương sự cũng
thỏa mãn với phán quyết của Tòa án, thậm chí, sự chống đối với phán quyết của
Tòa án là tương đối cao. Các đương sự luôn cho là mình đúng; quyền, lợi ích của
mình là hợp pháp và cần được bảo vệ. Do đó, họ sẽ chống đối và chống đối đến
cùng nếu Tòa án không bảo vệ cho quyền, lợi ích của họ. Tuy nhiên, việc xét xử của
Tòa án cũng có giới hạn của nó, đến một thời điểm nhất định, trong giới hạn luật
định, phán quyết của Tòa án là quyết định cuối cùng và đương sự buộc phải thực
hiện phán quyết. Và lúc phán quyết của Tòa án, hay nói cách khác là bản án, quyết
định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, không có kháng cáo, kháng nghị thì cơ quan
THA có nghĩa vụ thi hành bản án, quyết định đó. Lúc này, sự phản kháng, sự chống
đối của người phải THA sẽ mãnh liệt hơn bao giờ hết. Họ cho rằng một tài sản nào
đó đáng lẽ là thuộc về họ thì lại bị cơ quan THA lấy đi. Sau rất nhiều năm có nhà
cửa đàng hoàng thì bỗng chốc họ trở thành “kẻ không nhà” (trong trường hợp cơ
quan THA thực hiện biện pháp cưỡng chế buộc giao nhà)...
Hai là, hoạt động THADS không có tính độc lập tuyệt đối mà luôn phải có
sự phối hợp chặt chẽ với các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan.
Như đã phân tích ở trên, do tính chất phức tạp của hoạt động THADS, trong
quá trình tổ chức THA, CHV cần phải có sự phối hợp, hỗ trợ của các cá nhân, cơ
quan, tổ chức có liên quan. Mối quan hệ phối hợp này được thể hiện ngay trong
những quy định của pháp luật về THADS. Cụ thể, Điều 169 Luật THADS quy định
về nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Công an trong THADS, Điều 170 Luật THADS
quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong THADS, Điều 171 Luật THADS
quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND tối cao trong THADS, Điều 173,
Điều 174, Điều 175 Luật THADS quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban
31
nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã trong
THADS; Điều 176 Luật THADS quy định về trách nhiệm của Kho bạc nhà nước,
ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác trong THADS; Điều 177 Luật THADS quy
định về trách nhiệm của Bảo hiểm xã hội trong THADS; Điều 178 Luật THADS
quy định về trách nhiệm của cơ quan đăng ký tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm
trong THADS...
Thực tiễn THA cho thấy, các cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan có vai trò
rất lớn trong quá trình tổ chức THA của cơ quan THADS. Chẳng hạn như để tổ
chức buổi cưỡng chế THA, cơ quan THA phải có sự phối hợp với các cơ quan liên
quan như UBND, Phòng tài nguyên môi trường, Công an… Với những vụ án phức
tạp cơ quan THA phải báo cáo với Ban chỉ đạo THA để xin ý kiến chỉ đạo. Hoặc để
cơ quan THA xác minh được tài khoản, thu nhập của người phải THA thì phải có sự
phối hợp của Kho bạc nhà nước, Ngân hàng, Bảo hiểm xã hội...
Ba là, hoạt động THADS ở Việt Nam đang ngày càng tăng cả về số lượng án
phải thi hành và tính chất phức tạp của các vụ việc.
Với chủ trương kiên trì đường lối đổi mới trong việc chuyển đổi nền kinh tế
từ tập trung bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo
định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nền
kinh tế xã hội Việt Nam trong thời gian qua đã và đang có những chuyển biến quan
trọng theo chiều hướng ngày càng phát triển năng động, phong phú và đa dạng, đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện, trình độ dân trí tiếp tục được
nâng lên. Song bên cạnh đó, cơ chế thị trường cũng vận động theo quy luật khách
quan của nó, đó là quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh. Chấp
nhận kinh tế thị trường là phải thừa nhận và chịu sự chi phối, tác động của các quy
luật khách quan đó. Trước đây trong cơ chế tập trung bao cấp, các tranh chấp kinh
tế thường được giải quyết theo thủ tục trọng tài kinh tế nhà nước, các tranh chấp
dân sự thường nhỏ, tính chất ít phức tạp, phạm vi công tác THA chủ yếu là tổ chức
thi hành các bản án, quyết định của Tòa án về dân sự, hôn nhân và gia đình, phần
dân sự trong bản án, quyết định về hình sự. Hiện nay, trong điều kiện phát triển kinh
tế thị trường định hướng XHCN, giao lưu dân sự - kinh tế ngày càng phát triển đa
dạng và phong phú, “với đa dạng các chủ thể kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế
tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận, trên cơ sở nguyên
tắc tự do kinh doanh, tự do khế ước, tự do hợp đồng, sẽ làm phát sinh vô số các
32
quan hệ kinh tế, dân sự, thương mại. Tính rủi ro trong các quan hệ này chắc chắn sẽ
làm phát sinh các tranh chấp về lợi ích giữa các chủ thể”. Đặc biệt, những quy định
của Bộ luật dân sự năm 2015 đã tạo ra môi trường pháp lý thông thoáng, bảo đảm
cho tổ chức, cá nhân thực hiện các quyền dân sự của mình một cách chủ động và an
toàn trong nền kinh tế thị trường, góp phần ổn định và phát triển đời sống dân sự.
Người lao động được coi là yếu tố trọng tâm của kinh tế thị trường, nhưng trước
những khuyết tật của nền kinh tế thị trường là luôn trong tình trạng khủng hoảng và
thất nghiệp thì họ lại luôn đứng trước nguy cơ bị xâm phạm quyền lợi và sa thải,
không có việc làm. Bên cạnh những mặt năng động, tích cực do nền kinh tế thị
trường mang lại thì đồng thời mặt trái của cơ chế thị trường cũng đã bộc lộ và tác
động đến mọi mặt của đời sống xã hội. Tình trạng vi phạm pháp luật và tội phạm,
nhất là các tội phạm về kinh tế, buôn lậu, tham nhũng lớn, các tranh chấp dân sự,
kinh tế, lao động, hành chính không ngừng gia tăng. Số lượng vụ việc mà Tòa án
các cấp đã giải quyết ngày càng tăng, giá trị tiền, tài sản phải thi hành ngày càng
lớn, tính chất ngày càng phức tạp. Chính vì vậy, các vụ việc THADS đang ngày
càng gia tăng cả về số lượng, giá trị tiền THA cũng như tính chất phức tạp. Cụ thể,
thống kê kết quả THA trên toàn quốc từ năm 2016 đến nay như sau:
Năm 2016 tổng số việc phải THA là 642.885 việc, tổng số tiền phải THA là
46.505.104.227.000 đồng [12];
Năm 2017 tổng số việc phải THA là 732.179 việc, tổng số tiền phải THA là
70.562.600.894.000 đồng [13];
Năm 2018 tổng số việc phải THA là 779.298 việc, tổng số tiền phải THA là
95.108.655.390.000 đồng [14];
Năm 2019 tổng số việc phải THA là 791.412 việc, tổng số tiền phải THA là
125.956.077.215.000 đồng [15];
Bên cạnh xu hướng gia tăng số lượng vụ việc và giá trị tiền THA thì tính
chất của các vụ việc THA cũng đang ngày càng trở lên phức tạp hơn. Cụ thể, số vụ
việc THA kinh doanh thương mại tăng nhanh, đặc biệt là án tín dụng ngân hàng. Tại
Hội nghị sơ kết thực hiện Quy chế 01 về phối hợp giữa Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam và Bộ Tư pháp trong công tác THADS, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục
THADS Nguyễn Văn Sơn cho biết: Năm 2015 và 6 tháng đầu năm 2016, số việc
phải thi hành cho các tổ chức tín dụng, ngân hàng là 33.365 việc, tương ứng với số
tiền phải thi hành khoảng 130 nghìn tỷ đồng [41]. Không những số lượng ngày càng
33
tăng mà án tín dụng ngân hàng là loại án gây nhiều khó khăn, phức tạp cho cơ quan
THA trong quá trình thi hành từ khâu xác minh điều kiện THA đến khi xử lý tài sản
thế chấp. Nhiều trường hợp tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất có sự chênh lệch
diện tích giữa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được ghi tại bản án với thực tế
xác minh, hoặc bị chồng lấn sang diện tích đất của người khác. Các tài sản thế chấp
là động sản như: ôtô, tàu thuyền… khi yêu cầu THA, ngân hàng chỉ cung cấp được
hồ sơ thế chấp tài sản mà không xác định được tài sản hiện nay đang ở đâu, đây
cũng là vướng mắc lớn cho cơ quan THA khi tiến hành xác minh điều kiện THA.
Ngoài ra, nhiều trường hợp tài sản thế chấp là nhà xưởng được xây dựng trên quyền
sử dụng đất thuê khu công nghiệp cũng gây không ít rắc rối cho cơ quan THA...
Ngoài ra, còn có một số vụ việc THA nổi cộm gần đây, được dư luận xã hội
quan tâm đó là các vụ việc liên quan đến các tội phạm về kinh tế, với các tội danh
như cố ý làm trái các quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm
trọng, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lợi dụng chức vụ quyền hạn trong thi hành công
vụ, nổi lên một số vụ việc điển hình, như: vụ Phạm Thanh Bình (Vinashin), vụ
Nguyễn Đức Kiên, vụ Vũ Quốc Hảo (Công ty đầu tư tài chính II), vụ Huỳnh Thị
Huyền Như… Ngoài việc bị tuyên xử các hình phạt nghiêm khắc, người phải THA
trong các vụ án này còn phải thi hành phần trách nhiệm dân sự với giá trị phải thi
hành rất lớn, có trường hợp số tiền phải THA lên đến hàng nghìn tỷ đồng. Tuy số
tiền phải THA lớn, nhưng tài sản để bảo đảm THA lại có giá trị rất nhỏ, không đủ
thi hành nghĩa vụ mà bản án đã tuyên. Ví dụ, việc THA đối với Dương Chí Dũng
trong vụ Vinalines, theo quyết định của bản án thì Dương Chí Dũng và đồng bọn
phải liên đới bồi thường cho Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam trên 358 tỷ đồng
(chia theo phần: Dương Chí Dũng phải nộp 110 tỷ đồng). Quá trình THA, cơ quan
THA đã xử lý tài sản đã kê biên và thu được trên 14 tỷ đồng, trong khi nghĩa vụ
THA của Dương Chí Dũng còn rất lớn. Ngoài các tài sản đã được kê biên, tuyên xử
lý trong bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan THADS khó có thể xác minh được
thêm tài sản hoặc nguồn thu nhập khác, vì tội phạm tham nhũng thường tìm mọi
cách để tẩu tán, che giấu, hợp lý hóa tài sản…[82]
2.2. Ý nghĩa của xác minh điều kiện thi hành án trong hoạt động thi
hành án dân sự
Xác minh có vai trò quan trọng đối với hầu hết các giai đoạn khác nhau của
quá trình THADS. Kết quả xác minh sẽ là cơ sở, định hướng để CHV tổ chức thi
34
hành theo đúng quy định pháp luật, trên cơ sở kết quả xác minh một cách toàn diện
và đầy đủ, CHV có thể xử lý hồ sơ THADS theo hướng: ủy thác, đình chỉ, đưa vào
loại việc chưa có điều kiện thi hành hay CHV có thể áp dụng các biện pháp bảo
đảm hoặc áp dụng các biện pháp cưỡng chế THA.
Xác minh điều kiện THADS phải được CHV thực hiện thường xuyên liên
tục vừa theo diễn biến của vụ việc THA vừa theo quy định pháp luật. Để trả lời cho
câu hỏi người phải THA có hay không có điều kiện THA chỉ có thông qua kết quả
xác minh mới trả lời được câu hỏi này.
Vì vậy, có thể nói công tác xác minh có vị trí vai trò rất quan trọng trong
chuỗi các hoạt động THADS. Trên thực tế, thời gian thực hiện công tác xác minh
của CHV tính trung bình phải chiếm đến quá nửa thời gian của một hồ sơ kể từ khi
được thủ trưởng giao đến khi kết thúc hồ sơ chưa kể đối với hồ sơ cần phải áp dụng
các biện pháp cưỡng chế có huy động lớn lực lượng thì thời gian và các nội dung
xác minh rất đa dạng, phức tạp bởi tính chất của tài sản và quyền sở hữu tài sản. Kể
cả các hồ sơ đã được xác minh không có điều kiện, xếp vào loại việc chưa có điều
kiện THA nhưng hàng năm (6 tháng hoặc không quá 12 tháng tùy theo loại việc)
CHV vẫn phải xác minh định kỳ.
Công tác xác minh có ý nghĩa quyết định đến công tác phân loại hồ sơ THA.
Phân loại hồ sơ THA đã trở thành một trong các nội dung thuộc bộ tiêu chí được
giao hàng năm khi đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời cũng là một
trong các tiêu chí thi đua của cá nhân và các cơ quan THADS. Công tác phân loại
hồ sơ nhằm giảm áp lực công việc và làm tăng hiệu quả công tác THADS nói chung
và thực hiện chỉ tiêu nhiệm vụ nói riêng.
Như vậy, thông qua công tác xác minh đã làm phát sinh một loạt các tác
nghiệp khác trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Toà án,
đồng thời công tác xác minh làm cho công tác phân loại hồ sơ một cách chính xác,
giảm áp lực công việc và tăng tính hiệu quả của công tác THADS. Kỹ năng xác
minh của CHV là một trong các kỹ năng rất cơ bản trong việc tổ chức thi hành các
bản án, quyết định. Tính hiệu quả và đúng pháp luật được biểu hiện rất rõ trong kết
quả xác minh để CHV xử lý hồ sơ theo quy định.
Việc xác minh điều kiện THADS của người phải THA là cơ sở pháp lý để
CHV áp dụng các biện pháp tiếp theo nhằm tổ chức THADS như ủy thác, hoãn, tạm
đình chỉ, đình chỉ THA, xác định việc chưa có điều kiện THA, áp dụng biện pháp
35
bảo đảm, biện pháp cưỡng chế THA… Mặt khác, việc xác minh điều kiện THADS
còn là cơ sở để phân loại án, là căn cứ cho việc thống kê số án tồn đọng. Vì vậy,
việc xác minh điều kiện THADS có các ý nghĩa sau đây:
Thứ nhất, giúp cho việc phân loại án được chính xác, góp phần nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác THADS, giảm bớt áp lực đối với cơ quan THADS.
Trong THADS thì án dân sự được phân làm hai loại là án dân sự có điều kiện thi
hành và án dân sự chưa có điều kiện thi hành. Căn cứ để phân loại án dân sự có điều
kiện thi hành và án dân sự chưa có điều kiện thi hành dựa trên điều kiện THADS.
Vì vậy, xác minh điều kiện THADS là thủ tục quan trọng, cần thiết để xác định xem
việc THADS đó có điều kiện thi hành hay chưa có điều kiện thi hành. Nếu xác minh
điều kiện THADS được thực hiện đầy đủ và đúng quy định của pháp luật thì việc
phân loại việc THADS (có điều kiện thi hành và chưa có điều kiện thi hành) sẽ
chính xác, từ đó cơ quan THADS sẽ tập trung thời gian, nhân lực, chi phí cho việc
thi hành những việc THADS có điều kiện thi hành và không phải mất thời gian,
công sức vào những việc THADS chưa có điều kiện thi hành.
Thứ hai, góp phần bảo đảm quyền của người được THA. Trong các giao dịch
dân sự, các bên thực hiện trên nguyên tắc tự do, tự nguyện, cam kết, thỏa thuận và
được pháp luật bảo vệ. Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Cá nhân, pháp
nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do,
tự nguyện cam kết, thoả thuận. Mọi cam kết, thoả thuận không vi phạm điều cấm
của pháp luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và
phải được chủ thể khác tôn trọng” [77, khoản 2 Điều 3]. Pháp luật bảo vệ các giao
dịch dân sự bằng cơ chế tài phán: Khi một trong các bên không tôn trọng, không
thực hiện các cam kết, thỏa thuận thì tranh chấp phát sinh và các bên có quyền yêu
cầu Tòa án giải quyết. Do các giao dịch dân sự được xác lập trên nguyên tắc tự
nguyện, các bên tự thỏa thuận và tự giao kết giao dịch với nhau nên để yêu cầu Tòa
án giải quyết tranh chấp thì các bên có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh
cho yêu cầu của mình (khác với vụ án hình sự). Người được THA có được THA
hay không phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện THA của người phải THA. Do vậy,
việc quy định người được THA có nhiệm vụ xác minh điều kiện THA của người
phải THA cũng là một hình thức để bảo đảm quyền, lợi ích của người được THA.
Thứ ba, xác minh điều kiện THADS còn góp phần nâng cao ý thức của
người dân trong việc THA. Căn cứ vào kết quả xác minh điều kiện THA, CHV sẽ
36
tiến hành các công việc tiếp theo như áp dụng biện pháp bảo đảm THA, áp dụng
biện pháp cưỡng chế THA… Nếu người phải THA không tự nguyện thi hành bản
án, quyết định của Tòa án thì sau khi người được THA hoặc CHV tiến hành xác
minh điều kiện THA thì họ sẽ có thể bị áp dụng biện pháp bảo đảm THA, biện pháp
cưỡng chế THA và họ chắc chắn phải chịu những chi phí phát sinh không đáng có.
Do vậy, việc quy định về xác minh điều kiện THA góp phần nâng cao ý thức của
người dân nói chung và ý thức của người phải THA nói riêng trong việc thi hành
bản án, quyết định của Tòa án.
Thứ tư, xác minh điều kiện THADS góp phần bảo đảm hiệu lực các bản án,
quyết định của Toà án. Thi hành án dân sự là giai đoạn cuối cùng nhằm bảo đảm
cho bản án, quyết định của Tòa án được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm
minh của pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN, bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước. Với tầm quan trọng như vậy, THADS có
mục đích và nhiệm vụ làm cho các quyết định của Tòa án trong các bản án, quyết
định trở thành hiện thực trên thực tế. Tuy vậy, điều này lại phụ thuộc rất nhiều vào
khả năng thực tế người phải THA có tài sản, thu nhập để THA hay không? Nói cách
khác là người phải THA có điều kiện THA hay không? Vì vậy, trước khi tổ chức
THA cần phải làm rõ người phải THA có điều kiện THA hay không, tức là phải xác
minh điều kiện THA của người phải THA. Chính vì vậy, việc pháp luật THADS
quy định xác minh điều kiện THA là để bảo đảm việc tổ chức thi hành có hiệu quả
các bản án, quyết định của Tòa án và bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật.
Tóm lại, việc xác minh điều kiện THADS có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, ảnh
hưởng trực tiếp đến kết quả giải quyết việc THA, vì vậy, xây dựng các quy định
pháp luật để đảm bảo hoạt động xác minh hiệu lực, hiệu quả là một nhiệm vụ cần
thiết để nâng cao chất lượng hoạt động THADS.
2.3. Nội dung điều chỉnh pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án dân sự
2.3.1. Chủ thể xác minh điều kiện thi hành án dân sự
Chủ thể xác minh là người được pháp luật giao nhiệm vụ, quyền hạn để thực
hiện việc tìm kiếm, thu thập tài sản, thu nhập, các điều kiện THA khác của người
phải THA. Giữa các quốc gia trên thế giới không có sự thống nhất trong quy định
pháp luật về chủ thể xác minh điều kiện THADS. Tuỳ thuộc vào mô hình tổ chức
THADS mà pháp luật của quốc gia đó giao cho chủ thể có quyền xác minh điều
37
kiện THADS. Hiện nay trên thế giới, các chủ thể có quyền xác minh là thẩm phán,
CHV, TPL và người được THA. Mỗi chủ thể có quyền hạn và giới hạn khác nhau
trong xác minh điều kiện THADS.
2.3.1.1. Thẩm phán thi hành án hoặc nhân viên thi hành án thuộc toà án
Đây là loại chủ thể thuộc hệ thống tổ chức THA định hướng toà án (Court-
oriented Systems). Nghĩa là tổ chức THADS là một bộ phận nằm trong toà án, trách
nhiệm THADS thuộc về thẩm phán THA hoặc nhân viên THA thuộc toà án. Hệ
thống định hướng của tòa án được tìm thấy ở Áo, Tây Ban Nha và cả ở Đan Mạch.
Ở Áo, các tòa án địa phương tại nơi cư trú của người phải THA phải chịu trách
nhiệm về các thủ tục THA, được thực hiện bởi nhân viên tòa án trong một thủ tục
hoàn toàn riêng biệt. Ở Tây Ban Nha thẩm phán nào đã đưa ra phán quyết thì chịu
trách nhiệm đối với việc thực thi bản án đó. Theo đó, thẩm quyền của tòa án Tây
Ban Nha không được xác định bởi nơi cư trú hoặc nơi có tài sản của người phải
THA mà thuộc về người đứng đầu toà án thẩm quyền chung. Do đó, hệ thống THA
ở Tây Ban Nha dựa trên sự hợp tác tư pháp giữa các tòa án khác nhau. Ở Tây Ban
Nha, thẩm phán chịu trách nhiệm chính cho việc thi hành các bản án [107, pg.46-
47]. Theo quy định của pháp luật Tây Ban Nha thì Toà án có thể tìm kiếm sự giúp
đỡ của cơ quan thuế khi tiến hành xác minh địa chỉ, tài sản của người phải THA
[106, pg.24]. Hệ thống THA định hướng Toà án cũng tồn tại ở Italia [104, pg.6].
Theo quy định của pháp luật Italia thì người có thẩm quyền tổ chức THA là công
chức, trợ lý của thẩm phán, hoạt động dưới sự giám sát của Chánh án toà án nơi
người đó công tác. Khi xác minh tài sản, cán bộ toà án được quyền truy cập dữ liệu
qua sổ đăng ký thuế và các dữ liệu công cộng khác để khám phá sự tồn tại của các
tài sản của người phải THA. Ngoài ra, trong trường hợp người phải THA là một
doanh nhân thương mại, điều khoản quy định nêu rõ rằng việc xác minh tài sản có
thể được mở rộng bằng việc kiểm tra tài khoản doanh nghiệp [103, pg.452]. Ở
Trung Quốc, Toà án có trách nhiệm tìm kiếm và xử lý tài sản. Người được THA có
thể nộp đơn lên Toà án để THA ngay cả khi họ không thể cung cấp bất kỳ manh
mối tài sản nào. Trung Quốc có hệ thống điều tra và kiểm soát trực tuyến. Hệ thống
này giúp toà án có thể nhanh chóng tìm ra và kiểm soát kịp thời các tài sản khác
nhau bao gồm bất động sản, tiền gửi, tàu, xe, chứng khoán… sau khi họ tham gia
thủ tục THA [103, tr.572].
Như vậy, pháp luật của các nước theo mô hình tổ chức THA định hướng toà
38
án đã trao quyền xác minh điều kiện THADS cho thẩm phán THA hoặc nhân viên
THA thuộc toà án, là các công chức nhà nước, đồng thời, cũng được trang bị các
quyền để có thể thực hiện việc xác minh điều kiện THADS hiệu quả như tìm kiếm
sự giúp đỡ của cơ quan thuế, được quyền truy cập dữ liệu qua sổ đăng ký thuế và
các dữ liệu công cộng… Điều này phù hợp với bản chất của hoạt động xác minh là
luôn cần sự hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nắm giữ thông tin về tài sản
của người phải THA.
2.3.1.2. Chấp hành viên
Đây là chủ thể thuộc mô hình tổ chức THA thuộc hệ thống hành chính. Ở
châu Âu, mô hình này được tổ chức ở Thụy Điển, Phần Lan và một số quốc gia ở
Liên Xô cũ và Đông Âu [104, tr.6-7]. Ở những nước này, việc THA được thực hiện
bởi một cơ quan hành chính hoạt động hoàn toàn bên ngoài tòa án. Cơ quan THA
Thụy Điển được tổ chức như một cơ quan hành chính (dưới sự giám sát của Bộ Tài
chính) và chia thành 10 cơ quan khu vực mà chính họ được phân chia giữa 84 văn
phòng [107, tr.46-47]. Theo pháp luật Thuỵ Điển, cơ quan THA có thể liên hệ với
cơ quan đăng ký thuế để tìm ra địa chỉ và tình hình tài chính của người phải THA
[106, tr.23].
Ở Nga, CHV là công chức thuộc Cục THA liên bang Nga do Bộ Tư pháp
quản lý. Pháp luật Nga trao cho CHV quyền lực lớn, đăng nhập vào thông tin bí
mật, bao gồm cả hệ thống thông tin cá nhân của công dân [103, pg.345]. Một trong
những nhiệm vụ được giao cho Cục THADS liên bang Nga là truy tìm người phải
THA và tài sản của họ. Để thực thi các nhiệm vụ, quyền hạn được giao, Cục
THADS liên bang Nga có quyền yêu cầu các cơ quan quyền lực nhà nước Liên
bang, các cơ quan quyền lực nhà nước của các chủ thể thuộc liên bang Nga, các cơ
quan tự quản địa phương và các tổ chức bất kể có hình thức tổ chức về pháp lý như
thế nào cung cấp chứng từ, tài liệu, hồ sơ cần thiết khác để giúp quyết định các vấn
đề thuộc lĩnh vực hoạt động của mình [43].
Ở Việt Nam, CHV cũng là người được Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm,
hoạt động dưới sự quản lý của Bộ Tư pháp. Pháp luật Việt Nam giao cho CHV
nhiệm vụ xác minh điều kiện THADS. Đồng thời, để thực hiện nhiệm vụ này, pháp
luật cho phép CHV được yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp
tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của người phải THA [70, khoản 4 Điều 20].
Trong trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân không cung cấp hoặc cung cấp thông
39
tin sai sự thật về điều kiện THADS của người phải THA thì phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật, thanh toán các chi phí phát sinh, trường hợp gây ra thiệt hại thì phải
bồi thường [75, khoản 7 Điều 44].
Tương tự như mô hình tổ chức THA định hướng toà án, việc giao cho CHV
quyền xác minh cũng đảm bảo nguyên lý là việc tổ chức THA phải thuộc về cơ
quan công quyền. Đồng thời, CHV cũng được quyền yêu cầu sự phối hợp của cơ
quan đăng ký thuế, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan khác hoặc được đăng
nhập vào hệ thống thông tin.
2.3.1.3. Thừa phát lại
Đây là chủ thể thuộc mô hình tổ chức THA tư nhân và bán tư nhân. Ở châu
Âu, mô hình này được xây dựng ở các quốc gia như Pháp, Benelux và Scotland
(cũng như ở nhiều nước Đông Âu và ở Bồ Đào Nha). Ở các quốc gia này, việc THA
được thực hiện bởi các TPL đóng vai trò là những người do Nhà nước chỉ định,
nhưng ngoài hệ thống tòa án. TPL được trả thù lao chủ yếu từ lệ phí. Ở Pháp, TPL
cũng được tổ chức như các viên chức nhà nước hoạt động bên ngoài tòa án. Can
thiệp tư pháp (và sự giúp đỡ) có thể nhận được bởi “thẩm phán THA”. Trong các
khu vực pháp lý này, địa vị xã hội (và kinh tế) của TPL là rất cao [107, pg.46]. Xu
hướng tư nhân hoá tất cả hoặc một phần của các dịch vụ THA có thể được tiến hành
trên khắp châu Âu. Một số ví dụ bao gồm Estonia, Bỉ và Montenegro. Tuy nhiên, có
rất ít hệ thống THA tư nhân hoàn toàn. Hầu hết là bán tư nhân và được xác định chủ
yếu bởi trách nhiệm THA thuộc về các TPL độc lập, hoạt động như một doanh nghiệp
tư nhân, chịu một số hình thức kiểm soát và quy định của nhà nước [104, tr.7].
Tại Pháp, văn phòng TPL có quyền nhận được các thông tin cần thiết nhưng
sự hợp tác giữa chính quyền địa phương và trung ương và các văn phòng TPL
không phải lúc nào cũng hiệu quả. TPL được quyền tìm kiếm sự giúp đỡ của phòng
công tố. Hiện nay, pháp luật đang thực hiện cho phép TPL được liên hệ trực tiếp với
cơ quan thuế khi tìm kiếm địa chỉ và tài khoản ngân hàng của người phải THA
[106, tr.23].
Tại Bulgaria, việc tổ chức THA được thực hiện theo mô hình hỗn hợp, nghĩa
là có sự tồn tại song song của THA tư nhân và THA nhà nước. Vì vậy, pháp luật
nước này cũng giao nhiệm vụ xác minh cho hai chủ thể là CHV (thuộc hệ thống
THA nhà nước) và TPL (thuộc hệ thống THA tư nhân). Tuy nhiên, trong quy định
của pháp luật thì thẩm quyền THA của TPL rộng hơn của CHV, do đó, việc theo
40
đuổi người phải THA và tài sản của họ sẽ hiệu quả hơn [103, tr.419].
Theo kết quả so sánh về hệ thống THA nhà nước và THA tư nhân dựa trên
kết quả của bảng câu hỏi do Hiệp hội quốc tế các chức danh tư pháp (UIHJ) đặt ra
thì theo quan điểm thị trường một nhân viên THA tư nhân phải kiếm đủ lợi nhuận
để có một cuộc sống thoải mái. Nhu cầu tạo ra lợi nhuận và cạnh tranh có thể dẫn
đến một hệ thống mà con nợ không còn được coi là con người mà là "quả chanh bị
vắt rồi vứt đi". Luật thị trường có thể là một thực tế tàn khốc [103, pg.354].
Đây là một trong các lý do mà nhiều quốc gia, trong tiến trình cải cách hệ
thống THADS, băn khoăn về việc có xây dựng hệ thống THA tư nhân không. Tuy
nhiên, nếu xét dưới khía cạnh của hoạt động xác minh điều kiện THADS cũng như
trách nhiệm của người được THA trong quan hệ pháp luật tư và sự quá tải của hệ thống
THA nhà nước thì việc xã hội hoá một số công đoạn ít có tác động đến các quyền cơ
bản của con người như xác minh điều kiện THADS là có thể xem xét, cân nhắc.
2.3.1.4. Người được thi hành án
Loại chủ thể xác minh này xuất hiện ở các nước thuộc truyền thống pháp luật
common law như Mỹ, Anh, Canada.
Pháp luật của các quốc gia này giao quyền xác minh điều kiện THA cho
người được THA với sự hỗ trợ có hiệu quả từ phía toà án và chế tài nghiêm khắc
đối với hành vi không cung cấp thông tin về tài sản của người phải THA.
Ở Mỹ, do cách tiếp cận của pháp luật Mỹ là coi hoạt động xác minh điều
kiện THADS tương tự như hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự nên
người được THA được quyền sử dụng các biện pháp thu thập chứng cứ theo quy
định của pháp luật tố tụng dân sự để xác minh tài sản của người phải THA, và cũng
được hưởng các bảo đảm và sự hỗ trợ của toà án như đối với hoạt động thu thập
chứng cứ để giải quyết vụ việc dân sự. Theo khoản 2 Quy tắc số 69 Bộ quy tắc tố
tụng dân sự của liên bang do Toà án tối cao Hoa Kỳ ban hành, để hỗ trợ cho việc
THA, người được THA hoặc người thế quyền của người đó có thể tiến hành các
biện pháp thu thập chứng cứ (discovery) từ bất kỳ người nào, bao gồm cả người
phải THA, theo các quy định về thu thập chứng cứ được quy định trong Bộ quy tắc
tố tụng dân sự của liên bang hoặc theo thủ tục tố tụng của bang nơi có toà án đã ra
bản án. Các biện pháp thu thập chứng cứ có thể là: yêu cầu cung cấp chứng cứ, tài
liệu; thẩm vấn; buộc cung cấp thông tin; lấy lời khai người phải THA và các bên
thứ ba nhằm xác minh tài sản của người phải THA [112, Rule 69(2)]. Nếu người
41
phải THA không hợp tác, không có mặt tại phiên trình diện để kiểm tra thì người
được THA có thể yêu cầu thẩm phán ban hành một lệnh bắt và nộp lệ phí áp dụng
lệnh này [95, Điều 708.110].
Pháp luật Anh cũng quy định một thủ tục tương tự như pháp luật Mỹ để giúp
người được THA xác minh tài sản của người phải THA. Theo đó, người được THA
có quyền nộp đơn yêu cầu toà án ban hành lệnh cung cấp thông tin. Thủ tục này cho
phép người được THA buộc người phải THA phải trình diện trước toà để trả lời câu
hỏi (có tuyên thệ) về tình hình tài chính và tài sản của mình, từ đó, giúp người được
THA quyết định có nên tiếp tục theo đuổi quá trình THA không hay nên dừng lại,
và nếu tiếp tục thì nên sử dụng biện pháp cưỡng chế THA nào [102].
Ở Canada, Luật mẫu về THADS năm 2005 của Uỷ ban nhất thể hoá pháp
luật Canada (đang được các bang Canada xem xét thông qua) dành hẳn một phần
(Phần 8) quy định chi tiết về thủ tục buộc cung cấp thông tin về THA (Obtaining
Disclosure) với sự hỗ trợ của toà án. Uỷ ban nhất thể hoá pháp luật Canada nhấn
mạnh rằng, một quy trình hiệu quả để buộc người phải THA cung cấp thông tin về
tài sản của người đó là yếu tố then chốt để thi hành bản án, bảo đảm quyền lợi hợp
pháp của người được THA. Điều 45 Luật mẫu về THADS quy định người được
THA có 4 biện pháp để buộc người phải THA phải cung cấp thông tin về tài sản
phục vụ cho việc THA: Một là, người được THA gửi văn bản kèm theo một bảng
câu hỏi để trực tiếp yêu cầu người phải THA phải trả lời và gửi lại cho CHV, trong
đó nêu rõ các thông tin chi tiết về mọi tài sản mà người phải THA có lợi ích trên đó,
thông tin chi tiết về mọi khoản nợ của người khác phải trả cho người phải THA, bất
kỳ thông tin hợp lý nào khác mà người được THA muốn thu thập và có thể hỗ trợ
cho người được THA trong việc thi hành bản án, quyết định. Hai là, người được gửi
văn bản yêu cầu người phải THA trình diện trước CHV hoặc một người được CHV
chỉ định để trả lời (có tuyên thệ) về bất kỳ câu hỏi nào liên quan đến các tài sản nêu
trên. Ba là, người được THA nộp đơn yêu cầu toà án ban hành lệnh buộc người phải
THA hoặc người khác phải cung cấp cho toà án thông tin về các tài sản nêu trên,
hoặc buộc người phải THA trình diện trước CHV hoặc người do toà án chỉ định để
thực hiện kiểm tra, xác minh tài sản và trả lời các câu hỏi liên quan đến các tài sản
nêu trên. “Người khác” nắm giữ thông tin về tài sản của người phải THA có thể là
vợ/chồng của người phải THA, cán bộ ngân hàng, kế toán viên hoặc người môi
giới… “Người khác” cũng có thể là các cơ quan đang nắm giữ thông tin về tài sản,
42
thu nhập của người phải THA mà chỉ tiết lộ thông tin nếu được sự cho phép của
người phải THA. Bốn là, người được THA nộp đơn yêu cầu toà án ban hành một
lệnh buộc người phải THA phải lập văn bản uỷ quyền cho cơ quan, tổ chức, cá nhân
đang nắm giữ thông tin về tài sản của người phải THA cung cấp thông tin đó cho
người được THA hoặc CHV. Luật mẫu cung quy định rõ hậu quả pháp lý của việc
không cung cấp thông tin khi được yêu cầu. Trong trường hợp người được THA đã
gửi yêu cầu cung cấp thông tin hoặc yêu cầu trình diện để kiểm tra mà người phải
THA không thực hiện, thì người được THA có thể yêu cầu toà án ban hành lệnh
buộc người phải THA phải cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác cho CHV. Nếu
người phải THA vẫn không cung cấp thông tin hoặc không trình diện để kiểm tra,
hoặc nếu toà án xét thấy việc cung cấp thông tin hoặc trả lại tại phiên trình diện để
kiểm tra là không đầy đủ, không chính xác, thì toà án có thể cho phép CHV hoặc
người được CHV chỉ định tiếp cận bất kỳ địa điểm nào của người phải THA mà có
cơ sở hợp lý cho rằng địa điểm đó cất giữ hồ sơ, tài liệu, thông tin về tài sản của người
phải THA, và cho phép kiểm tra các hồ sơ, tài liệu đó, tạm thu giữ và sao chụp các hồ
sơ, tài liệu. Toà án cũng có thể ban hành lệnh cấm người phải THA hoặc người thứ ba
tiêu huỷ, cất giấu hoặc di chuyển các hồ sơ, tài liệu chứa đựng thông tin về tài sản của
người phải THA. Luật còn quy định rõ ràng lệnh cho phép CHV thâm nhập và tìm
kiếm hồ sơ, tài liệu của người phải THA chỉ được ban hành nếu toà án xét thấy thông
tin về tài sản của người phải THA không thể thu thập được bằng các biện pháp hợp lý
khác. Hành vi không thực hiện yêu cầu cung cấp thông tin của người được THA hoặc
lệnh buộc cung cấp thông tin của toà án bị coi là tội phạm [93].
Từ các phân tích ở trên, có thể thấy, dù pháp luật của các quốc gia giao cho
các chủ thể khác nhau thực hiện nhiệm vụ xác minh điều kiện THA thì điểm chung
của các quy định nói trên là song song với việc giao nhiệm vụ thì luôn xây dựng
hành lang pháp lý phù hợp để các chủ thể đó thực hiện nhiệm vụ một cách hiệu quả
nhất. Như vậy, dù người có nhiệm vụ xác minh là công chức nhà nước hay là những
người hoạt động tự do hay thậm chí là các cá nhân, tổ chức có các quyền phát sinh
từ bản án, quyết định (người được THA) thì để xác minh hiệu quả, pháp luật buộc
phải chú trọng đến việc bảo đảm cho các chủ thể quyền được thu thập thông tin, xác
minh điều kiện THA. Hai yếu tố cơ bản của một cơ chế xác minh điều kiện THADS
hiệu quả chính là bảo đảm tính sẵn có, liên thông, dễ tiếp cận của thông tin và có
chế tài đủ mạnh để buộc người phải THA và các chủ thể có liên quan cung cấp
43
thông tin.
2.3.2. Phương thức xác minh
Phương thức xác minh là các cách thức mà người có quyền thực hiện để thu
thập, xác minh điều kiện THA của người phải THA. Hiện nay, tồn tại ba (03)
phương thức khác nhau để có được thông tin về tài sản của người phải THA:
Phương thức thứ nhất là bắt buộc người phải THA tiết lộ thông tin về nơi ở,
tài sản của người phải THA cho người được THA hoặc cơ quan THA. Phương thức
thứ hai là bắt buộc bên thứ ba đang nắm giữ thông tin về tài sản của người phải
THA phải tiết lộ thông tin về tài sản của người phải THA. Phương thức thứ ba là
cung cấp cho các cơ quan THA các điều kiện để truy cập vào các sổ đăng ký.
2.3.2.1. Phương thức xác minh qua tuyên bố của người phải thi hành
Đây là phương thức mà nguồn thông tin về điều kiện THA của người phải
THA phụ thuộc vào cung cấp của người phải THA.
Ở châu Âu, hầu hết các hệ thống quốc gia (Áo, Đan Mạch, Phần Lan, Đức,
Hy Lạp, Ireland, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Vương quốc Anh, Bỉ,
Pháp, Ý, Luxemburg, Hà Lan) trao quyền cho các cơ quan THA để đặt câu hỏi trực
tiếp đối với người phải THA về tài sản của mình. Tuyên bố của người phải THA có
thể được thực hiện dưới hình thức lời khai trước tòa án THA. Người phải THA
được yêu cầu tham dự một phiên xét xử nơi anh ta bị thẩm phán (hoặc một thư ký
toà án) thẩm vấn; người được THA cũng có cơ hội đặt thêm câu hỏi cho người phải
THA. Ở Ireland và Anh, kiểm tra chéo về tài sản của người phải thi hành cũng có
thể diễn ra và người phải THA phải trình bày bằng chứng về tài sản của mình. Tuy
nhiên, ở các quốc gia thành viên khác, tuyên bố của người phải THA được thực
hiện bằng cách điền vào các mẫu bắt buộc - đôi khi là vai trò của các cơ quan THA
chỉ đơn giản là để giúp người phải THA điền vào các mẫu đơn [106, tr.35].
Ở các nước theo hệ thống pháp luật common law như Anh, Mỹ, Canada, khi
người được THA tiến hành xác minh điều kiện THA của người phải THA thì thông
tin đầu tiên đến từ chính người phải THA, sau khi người được THA đưa ra các câu
hỏi (qua bảng câu hỏi hoặc phiên điều trần, kiểm tra), người phải THA có trách
nhiệm trả lời các câu hỏi đó. Về cơ bản, đây cũng là một hình thức tuyên bố về tài
sản của người phải THA, chỉ có điều tuyên bố đó chịu sự kiểm soát của người được
THA hoặc cơ quan THADS có thẩm quyền. Cũng dưới phương thức xác minh
thông qua tuyên bố của người phải THA, pháp luật Đức lại lựa chọn phương án trao
44
quyền cho cơ quan THADS trực tiếp yêu cầu người phải THA cung cấp thông tin về
tài sản của mình. Theo quy định của pháp luật CHLB Đức, người được THA là
người có quyền lựa chọn cơ quan có thẩm quyền THA hoặc nhân viên toà án tổ
chức THA với các yêu cầu THA của mình. Vì vậy, người được THA mới là người
kiểm soát và quyết định các biện pháp tổ chức THA. Để thuận lợi cho người được
THA trong việc dễ dàng lựa chọn một loạt biện pháp THA phù hợp thì người phải
THA phải có trách nhiệm cung cấp một bản kê khai chi tiết về tài sản của mình cho
người có thẩm quyền THA theo sự lựa chọn của người được THA [62].
Vấn đề cơ bản của tuyên bố của người phải THA nằm ở thực tế là nó phụ
thuộc vào cá nhân người phải THA. Nếu con nợ từ chối tiết lộ tài sản của mình, cơ
quan THA (với sự giúp đỡ của cảnh sát) có thể thực hiện cưỡng chế và bắt giữ anh
ta. Một tuyên bố không chính xác hoặc sai của con nợ được coi là một tội hình sự.
Do đó, tại một số quốc gia thành viên, tuyên bố phải được tuyên thệ [107, tr.51].
Pháp luật Đức quy định bản kê khai chi tiết tài sản của người phải THA phải được
đính kèm với một lời tuyên thệ rằng tất cả thông tin trong đó là chính xác bằng tất
cả sự hiểu biết và kiến thức của mình [62]. Đồng thời, nếu người phải THA không
đến văn phòng của CHV theo lịch hẹn để cung cấp thông tin về tài sản và tình hình
tài chính của mình mà không có lý do chính đáng hoặc từ chối cung cấp thông tin
về tài sản và tình hình tài chính của mình, theo Điều 802c Bộ luật TTDS Đức mà
không đưa ra được bất kỳ một lý do phù hợp nào thì họ sẽ bị bắt giữ để buộc người
phải THA phải cung cấp các thông tin theo yêu cầu. Người phải THA có thể sẽ bị
bắt giam giữ trên cơ sở lệnh bắt giữ được phát hành bởi toà án theo yêu cầu của
người được THA (biện pháp cưỡng chế giam giữ) cho đến khi họ cung cấp được
đầy đủ thông tin về tài sản và tình hình tài chính của mình, thời hạn tối đa của việc
giam giữ này là 6 tháng. Một bản photocopy đã được xác nhận của Lệnh bắt giữ sẽ
được chuyển giao trực tiếp cho người phải THA tại thời điểm bắt giữ. Người có
thẩm quyền bắt giữ người phải THA trong trường hợp này là CHV thi hành án [62].
Ngoài ra, ở Đức, bản tuyên bố của người phải THA còn được đăng ký tại các toà án
địa phương. Theo đó, các toà án địa phương sẽ liệt kê những người đã tuyên thệ
hoặc không tuyên thệ. Tại nhiều toà án địa phương, các sổ đăng ký được duy trì
dưới dạng cơ sở dữ liệu điện tử và phòng công nghiệp và thương mại thường xuyên
nhận được các bản sao (thậm chí là truy cập trực tuyến). Do đó, uy tín tín dụng của
người phải THA là vấn đề hồ sơ công khai. Trong thực tế, việc tránh bị ghi trong sổ
đăng ký của người phải THA là một động lực mạnh mẽ cho người phải THA để hỗ
45
trợ phán quyết được thi hành [106, tr.37].
Phương thức này đã có những hiệu quả nhất định trên thực tiễn áp dụng do nó
đe doạ đến quyền tự do của người phải THA nếu có hành vi gian dối hoặc trốn tránh
(bị bắt giam giữ). Tuy nhiên, nhiều nhà lập pháp lo ngại rằng, đây là biện pháp hình sự
hoá các vấn đề dân sự, do đó, khi áp dụng cần có những cân nhắc cụ thể.
Như vậy, xét dưới khía cạnh bản chất của hoạt động THADS, việc thi hành
nghĩa vụ của người phải THA luôn là trọng tâm của hoạt động này và để thực thi nghĩa
vụ phải có các thông tin về điều kiện thi hành thì quy định về trách nhiệm cung cấp
thông tin của người phải THA là hợp lý và chính đáng. Đồng thời, để ràng buộc trách
nhiệm của người phải THA phải có các biện pháp chế tài đủ tính răn đe, trong đó, các
chế tài răn đe bằng phạt tiền thực tế sẽ không phát huy hiệu quả do bản thân các nghĩa
vụ về tiền trước đó đã không thể thực thi thì việc phạt tiền cũng sẽ không thể ngăn chặn
được sự gian dối hoặc trốn tránh của người phải THA. Vì vậy, hình phạt tước quyền tự
do vẫn là một giải pháp có tính khả thi hơn cả bởi tính áp lực của nó đối với tư tưởng
và hành vi của người phải THA.
2.3.2.2. Phương thức xác minh qua việc truy cập vào các sổ đăng ký
Đây là phương thức thu thập thông tin thông qua các hồ sơ công cộng như sổ
đăng ký thương mại, sổ đăng ký dân số, sổ đăng ký xe cơ giới, sổ đăng ký đất đai,
bộ sưu tập dữ liệu tư nhân, sách điện thoại, sổ đăng ký bảo hiểm xã hội…
Ở Áo và đặc biệt là Tây Ban Nha, các tòa án THA có thể yêu cầu thông tin
về việc làm của người phải THA từ sổ đăng ký bảo hiểm xã hội. Trong khi đó, Tây
Ban Nha và Thụy Điển, các cơ quan THA cũng có thể trực tiếp yêu cầu thông tin từ
hồ sơ tài chính. Trong các khu vực pháp lý này, hiệu quả của thủ tục THA đã được
cải thiện đáng kể. Ở Hà Lan và tại Bỉ, CHV/TPL có thể lấy thông tin về địa chỉ và
việc làm của người phải THA từ hồ sơ an sinh xã hội. Ở Luxembourg, một người
được THA có thể yêu cầu các thẩm phán hoà giải liên lạc với đăng ký bảo hiểm xã
hội để tìm hiểu địa chỉ và việc làm của người phải THA. Ở Pháp, tình hình pháp lý
phức tạp hơn khi TPL không có quyền truy cập trực tiếp vào hỗ trợ hành chính, mà
phải yêu cầu sự giúp đỡ của Văn phòng công tố. Trong thực tế, sự hợp tác này
không hiệu quả do các văn phòng công tố bị quá tải công việc. Ngoài ra, TPL bị
cấm sử dụng thông tin thu được cho các mục đích khác ngoài việc thi hành các loại
bản án, quyết định, tài liệu được tổ chức bởi chủ nợ [107, tr.52].
Ngoài ra, ở liên minh châu Âu, một trong những nguồn thông tin quan trọng
46
để xác định tài sản của người phải THA đó là sổ đăng ký thương mại. Theo Chỉ thị
68/151/EEC, hồ sơ thương mại tại các quốc gia thành viên phải cung cấp các thông
tin sau: (i) Hiến pháp và các đạo luật và bất kỳ sửa đổi nào; (ii) Việc bổ nhiệm,
chấm dứt các chức vụ và chi tiết của những người uỷ quyền đại diện cho công ty
trong các giao dịch với bên thứ ba và tố tụng hợp pháp hoặc tham gia quản lý, giám
sát hoặc kiểm soát công ty; (iii) Ít nhất mỗi năm một lần, số vốn đăng ký, bảng cân
đối kế toán và tài khoản lãi lỗ cho mỗi năm tài chính. Hiện nay, đăng ký kinh doanh
của các quốc gia thành viên cung cấp thông tin chi tiết về các công ty riêng lẻ (tình
trạng hợp pháp, ngày thành lập, vốn công ty, mã văn bản, lĩnh vực hoạt động, cơ
quan doanh nghiệp và quyền đại diện của họ, đôi khi cả số lượng nhân viên). Thông
tin này thường được ghi lại trong sổ đăng ký trung tâm điện tử và có thể truy cập
trực tuyến. Nhược điểm chính của chỉ thị này bắt nguồn từ quy định 3 (1) Chỉ thị
68/151/EEC. Theo quy định này, các quốc gia thành viên được tự do thành lập các
trung tâm đăng ký thương mại địa phương hoặc trung tâm. Do đó, tổ chức của các
đăng ký thương mại tại các quốc gia thành viên vẫn bị phân mảnh: trong khi ở
Vương quốc Anh có ba trung tâm đăng ký bao gồm tất cả thông tin về giao dịch
kinh doanh, ở Đức có đến 400 trung tâm đăng ký được điều hành bởi các toà án địa
phương. Trung tâm đăng ký không phải luôn luôn cho phép người được THA được
truy cập. Bên cạnh đó, thông tin trong sổ đăng ký thương mại không phải lúc nào
cũng đáng tin cậy như nhau: Trong sáu quốc gia thành viên như Phần Lan, Ireland,
Hà Lan, Vương quốc Anh, cơ quan đăng ký không kiểm tra thông tin trước khi nó
được nhập vào sổ đăng ký. Ở một số quốc gia thành viên khác, thông tin trong sổ
đăng ký thương mại có thể bị lỗi thời, vì công ty không báo cáo thay đổi trạng thái
của nó và không phải việc không báo cáo này lúc nào cũng được giải quyết bằng
các biện pháp trừng phạt đầy đủ [106, tr.22-23].
Địa chỉ của người phải THA cũng có thể được tìm thấy trong sổ đăng ký dân
số. Hầu hết các quốc gia thành viên của liên minh châu Âu (ngoại trừ Vương quốc
Anh và Ireland) địa chỉ của tất cả người dân được ghi lại trong sổ đăng ký dân số.
Tuy nhiên, các sổ đăng ký này được tổ chức theo các cách rất khác nhau. Trong một
số quốc gia thành viên chúng được duy trì bởi chính quyền địa phương, vì vậy,
người được THA muốn tìm được địa chỉ của một người phải THA sẽ phải tìm kiếm
tất cả các hồ sơ ở các địa phương trên cả nước – một điều không thể thực hiện. Sổ
đăng ký trung tâm thường không có sẵn cho người được THA (ngoại trừ Áo, sổ
47
đăng ký dân số trung ương có sẵn trực tuyến). Thông tin đáng tin cậy thường được
ghi lại trong các sổ đăng ký thuế, nhưng những hồ sơ này không thể truy cập được
từ người được THA và cơ quan THA – ngoại trừ Thuỵ Điển và (một mức nào đó) ở
Tây Ban Nha. Ở Áo, toà án THA có thể liên hệ với hiệp hội bảo hiểm xã hội Áo để
tìm hiểu nhà tuyển dụng của người phải THA. Thông tin về hoàn cảnh việc làm của
người phải THA cũng có sẵn cho các cơ quan THA ở Phần Lan, Bỉ, Luxembourg và
Tây Ban Nha. Trong các khu vực pháp lý này, người được THA được hỗ trợ bởi các
cơ quan THA và thực hiện việc xác minh mà không cần biết chính xác địa chỉ của
người phải THA [106, tr.23].
Thông tin về địa chỉ, tài sản của người phải THA còn có thể lấy từ các hồ sơ
khác như hồ sơ bầu cử, sổ đăng ký xe cơ giới hoặc sổ đăng ký đất đai. Tuy nhiên,
các thông tin này không phải lúc nào cũng đáng tin cậy và dễ dàng truy cập. Ví dụ
như ở Vương quốc Anh và Ireland thông tin về hồ sơ bầu cử là có sẵn nhưng không
đáng tin cậy [106, pg.24-25]. Hay để tìm kiếm địa chỉ, tài sản của người phải THA
qua sổ đăng ký đất đai thì sổ đăng ký đất đai phải được tập trung và thông tin phải
có thể truy cập bằng tên của chủ sở hữu nhưng không phải mọi quốc gia đều đảm
bảo được yêu cầu này. Ví dụ như ở Anh, nơi đăng ký đất đai (trung ương) không
cung cấp thông tin về đất thuộc sở hữu của người phải THA. Người được THA
muốn tìm kiếm thông tin thì phải biết vị trí của bất động sản – thường là một nhiệm
vụ bất khả thi. Một số sổ đăng ký được vi tính hoá và có thể truy cập trực tuyến
(như ở Áo, Phần Lan, Thuỵ Điển, Scotland), trong khi các quốc gia thành viên khác
chỉ cung cấp sổ đăng ký đất đai ở cấp thành phố (Pháp, Đức). Tuy nhiên, có một xu
hướng hiện nay là tổ chức lại các sổ đăng ký đất đai như cơ sở dữ liệu điện tử và sự
phân mảnh giữa hệ thống các quốc gia có thể được khắc phục bằng dữ liệu điện tử
cho phép truy cập chuẩn vào cơ sở dữ liệu trung tâm tại quốc gia cấp [106, tr.27].
Ở Việt Nam, việc xác minh điều kiện THA của người phải THA cũng được
thực hiện thông qua các sổ đăng ký như sổ đăng ký đất đai, sổ đăng ký xe cơ giới…
Tuy nhiên, cũng như ở nhiều quốc gia châu Âu, ở Việt Nam tổ chức các sổ đăng ký
cũng được thực hiện theo từng địa phương và chưa có dữ liệu điện tử trung tâm, chẳng
hạn như sổ đăng ký đất đai của cá nhân thì cấp quản lý là ở cấp huyện.
Từ các phân tích trên, có thể thấy, nguồn thông tin về địa chỉ, tài sản của
người phải THA từ các sổ đăng ký công cộng hoặc các cơ quan quản lý thông tin là
vô cùng cần thiết. Kể cả các quốc gia xây dựng phương thức xác minh trên cơ sở
48
tuyên bố của người phải THA thì để kiểm soát sự trung thực của người phải THA
vẫn cần sử dụng đến các sổ đăng ký công cộng hoặc cơ quan quản lý thông tin để
kiểm tra thông tin. Ví dụ như ở Đức, ngoài bản tuyên bố thông tin về tài sản do
người phải THA cung cấp thì cơ quan THA có thẩm quyền cũng có thể tiếp cận các
nguồn thông tin khác có chứa các thông tin về cá nhân cũng như tài sản của người
phải THA từ chủ sử dụng lao động của người phải THA, Văn phòng thuế liên bang,
cơ quan quản lý giao thông vận tải liên bang…[62] Tuy nhiên, để việc xác minh
thông qua nguồn tin này có hiệu quả đòi hỏi phải xây dựng được một hệ thống
thông tin mà ở đó, những người có thẩm quyền trong việc xác minh điều kiện được
truy cập trực tiếp vào nguồn tin đó và nguồn tin đó phải được quản lý một cách
thống nhất, minh bạch ở phạm vi lãnh thổ rộng nhất có thể. Ví dụ như ở Pháp, khi
TPL không được truy cập trực tiếp vào nguồn thông tin mà phải thông qua cơ quan
khác (văn phòng công tố) dẫn đến sự chậm trễ và không hiệu quả trong việc tìm
kiếm thông tin [106, tr.23]. Hoặc ở các quốc gia như Vương quốc Anh, Pháp, Đức,
Việt Nam sổ đăng ký đất đai chỉ được quản lý ở cấp huyện, cấp thành phố thì việc
xác minh tài sản của người phải THA dường như thiếu đi tính hiệu quả. Hoặc sổ
đăng ký đất đai trung ương ở Vương quốc Anh không được quản lý theo chủ sở hữu
mà được quản lý theo vị trí thửa đất cũng khiến cho việc xác minh rơi vào bế tắc
cho những người có quyền thực hiện việc xác minh [106, tr.27]. Ngoài ra, đối với
trường hợp chưa xây dựng được hệ thống thông tin thông qua dữ liệu điện tử thì
quy định về cách thức quản lý thông tin cũng như nghĩa vụ cung cấp thông tin của
các cơ quan nắm giữ thông tin về điều kiện THA của người phải THA là yêu cầu tất
yếu. Ví dụ, đối với thông tin về quyền sở hữu đất đai, nếu chưa có dữ liệu điện tử
thì cơ quan quản lý đất đai sẽ là người nắm giữ thông tin này. Vì vậy, việc xác minh
chỉ hiệu quả khi pháp luật quy định cụ thể về trách nhiệm của cơ quan quản lý đất
đai trong việc cung cấp thông tin về quyền sở hữu đất đai cho người có thẩm quyền
xác minh. Ở Pháp, theo quy định về nghĩa vụ, phối hợp và giữ bí mật trong vấn đề
cung cấp thông tin, các cơ quan hành chính của Nhà nước, các khu vực, các sở và
các thành phố trực thuộc trung ương, các công ty được Nhà nước cấp phép hoặc
kiểm soát, các khu vực, các sở và thành phố trực thuộc trung ương, các cơ sở công
cộng hoặc các cơ quan do cơ quan hành chính kiểm soát phải thông báo cho TPL
chịu trách nhiệm THA thông tin đảm bảo rằng có thể xác định địa chỉ của con nợ
hoặc ký gửi các khoản thanh khoản hoặc phải trả và thành phần bất động sản của
anh ta, loại trừ bất kỳ thông tin nào khác, không thể chống lại bí mật chuyên nghiệp
49
[113, Điều L152.1].
2.3.2.3. Phương thức xác minh từ bên thứ ba
Đây là phương thức xác minh từ bên thứ ba có nắm giữ hoặc biết được tình
hình tài sản của người phải THA. Tuy nhiên, phương thức thu thập thông tin từ bên
thứ ba này thường bị ngăn chặn bởi bí mật nghề nghiệp (như bí mật ngân hàng). Ở
các quốc gia thành viên của liên minh châu Âu, các quy định về bí mật nghề nghiệp
có thể được khắc phục nếu người phải THA đồng ý. Có một số tình huống, đặc biệt
là trong bối cảnh bắt đầu một mối quan hệ kinh doanh hoặc khi tìm kiếm một khoản
tín dụng, người phải THA sẽ có lợi ích để tiết lộ thông tin về giá trị tín dụng của họ.
Những thông tin này có thể được sử dụng bởi người được THA. Một cách khác để
có được thông tin (thông thường trước khi bắt đầu mối quan hệ kinh doanh theo hợp
đồng hoặc tương tự) là tham chiếu của ngân hàng. Đây là tài liệu dựa trên sự trao
đổi thông tin giữa các ngân hàng về tình hình tài chính của khách hàng của họ, đặc
biệt là liên quan đến cho vay. Thông tin được truyền tải từ ngân hàng được yêu cầu
đôi khi được chuyển (trên cơ sở tự nguyện) đến người được THA (phải là khách
hàng của ngân hàng). Việc chuyển thông tin này bị giới hạn bởi bảo vệ dữ liệu cũng
như bảo mật ngân hàng, do đó, phải tuân theo uỷ quyền của khách hàng. Ở một số
quốc gia thành viên, tài liệu tham khảo ngân hàng được cung cấp dưới dạng dịch vụ
độc lập trong kinh doanh ngân hàng. Ở Đức, hợp đồng ngân hàng hình thức tiêu chuẩn
thường xuyên có một điều khoản uỷ quyền theo đó khách hàng tư nhân (người tiêu
dùng) đồng ý với việc chuyển thông tin. Tuy nhiên, tại Áo, Toà án dân sự tối cao cho
rằng uỷ quyền của khách hàng theo điều khoản tiêu chuẩn là không hợp lệ.
Ở Việt Nam, mặc dù pháp luật đã loại trừ quy định bí mật nghề nghiệp trong
hoạt động ngân hàng khi các cơ quan này cung cấp thông tin về tài khoản, tài sản
của người phải THA cho CHV, đồng thời, đã quy định mức xử phạt từ 1.000.000
đồng – 3.000.000 đồng nếu không cung cấp thông tin. Tuy nhiên, mức xử phạt này
quá thấp, và thực tế, để bảo vệ khách hàng, các ngân hàng thường tìm các cách khác
nhau để từ chối cung cấp thông tin (nội dung này sẽ được NCS phân tích cụ thể ở
chương thực trạng).
Như vậy, khác với phương thức thu thập thông tin từ sổ đăng ký với các
nhược điểm như không đáng tin cậy, thông tin lỗi thời, thông tin thiếu sự minh
bạch, rõ ràng… thì phương thức thu thập thông tin qua bên thứ ba loại bỏ được các
nhược điểm đó. Bởi lẽ, đây là các thông tin mang tính trực tiếp. Nghĩa là người nắm
50
giữ thông tin đang trực tiếp quản lý hoặc nắm giữ tài sản của người phải THA. Tuy
nhiên, cũng giống như thông tin được thu thập qua tuyên bố của người phải THA,
thì nguồn thông tin này cũng phụ thuộc vào cá nhân người cung cấp thông tin. Vì
vậy, để thực hiện hiệu quả phương thức thu thập thông tin từ bên thứ ba cần phải có
sự đảm bảo từ hai phía là người thu thập thông tin và người cung cấp thông tin. Cụ
thể, đối với người cung cấp thông tin, pháp luật phải đảm bảo sự trung thực và sẵn
sàng cung cấp thông tin của người này. Còn đối với người thu thập thông tin thì
phải có quy định để đảm bảo các thông tin được sử dụng đúng mục đích, không làm
ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người phải THA cũng như người cung
cấp thông tin.
Từ các phân tích về phương thức thu thập thông tin, có thể thấy, mỗi phương
thức thu thập thông tin đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng, do đó, mỗi
quốc gia có thể sử dụng một hoặc kết hợp nhiều phương thức thu thập thông tin tuỳ
thuộc vào từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Đồng thời, trên cơ sở phân tích, xem
xét các ưu điểm, nhược điểm đó, các quốc gia hoạch định cho mình kế hoạch xây
dựng hành lang pháp lý tương ứng để hạn chế các nhược điểm, phát huy các ưu
điểm, giúp cho việc thu thập thông tin hiệu quả, góp phần nâng cao hiệu lực của
hoạt động THADS.
Ngoài ra, phương thức xác minh cũng có mối liên hệ mật thiết với chủ thể
xác minh. Qua nghiên cứu pháp luật của một số quốc gia châu Âu, có thể thấy, đối
với các quốc gia giao quyền chủ động trong việc THA cho người được THA (hay
như cách gọi của giáo sư Burkhard Hess là hệ thống phi tập trung) thì việc truy cập
trực tiếp của người được THA vào các đăng ký được loại trừ bởi quy định bảo vệ
dữ liệu. Ở các quốc gia này, người được THA phải đối mặt với các vấn đề nghiêm
trọng khi tìm cách thi hành các yêu cầu của họ. Một ví dụ nổi bật là Đức, nơi sự lựa
chọn của các cơ quan có thẩm quyền phần lớn phụ thuộc vào địa điểm nơi có tài sản
của người phải THA. Hiện tại, người được THA có bất kỳ thông tin nào tình hình
tài chính của người phải THA thì có thể yêu cầu CHV nơi người phải THA cư trú
để bắt đầu các biện pháp THA. Nếu CHV không liên lạc với người phải THA,
người phải THA có thể được triệu tập để khai báo tài sản của mình. Trên cơ sở cung
cấp thông tin của người phải THA, người được THA bắt đầu các thủ tục THA lần
nữa. Tuy nhiên, trái với tình hình của nhiều quốc gia láng giềng như Áo, CHV
không được trao quyền truy cập trực tiếp vào sổ an sinh xã hội, cũng tồn tại ở Đức.
51
Do đó, người được THA thường mất thời gian (và tiền bạc), khả năng làm việc của
CHV không được sử dụng một cách thích đáng và cuối cùng, tuyên bố của người
phải THA có thể không hữu ích lắm cho người được THA. Trong khi đó, ở các
nước theo hệ thống tập trung, tức là việc tổ chức THA được giao cho một tổ chức
thuộc nhà nước hoặc tư nhân, thì hiệu quả THA được cải thiện đáng kể. Theo đó,
lợi thế của hệ thống tập trung mà ở đó, hệ thống cơ quan THA chuyên trách và có
đủ điều kiện để thực hiện quyền truy cập vào thông tin trực tiếp [107, tr.52].
2.3.3. Nội dung xác minh
Nội dung xác minh là các vấn đề mà người có quyền, nhiệm vụ xác minh
phải làm rõ khi xác minh điều kiện THA của người phải THA. Việc xác định nội
dung xác minh phụ thuộc vào loại nghĩa vụ mà người phải THA phải thi hành. Nếu
nghĩa vụ người phải THA phải thực hiện là nghĩa vụ trả tiền, trả tài sản thì nội dung
xác minh sẽ là tài sản, thu nhập của người phải THA. Nếu nghĩa vụ mà người phải
THA phải thực hiện là nghĩa vụ thuộc về hành vi thì nội dung xác minh sẽ là khả năng
thực hiện hoặc không thực hiện hành vi đó. Pháp luật của các quốc gia trên thế giới đều
không đề cập đến nội dung xác minh. Tuy nhiên, từ các quy định khác của pháp luật
như quy định về thu giữ, bán tài sản, người có thẩm quyền xác minh sẽ xác định các
nội dung mình cần làm rõ khi xác minh điều kiện THA của người phải THA.
2.3.3.1. Xác minh thu nhập, tài sản của người phải thi hành án
Mục đích của xác minh thu nhập, tài sản của người phải THA là để thực hiện
các công đoạn tiếp theo của quá trình THA như cưỡng chế kê biên tài sản, cưỡng
chế giao tài sản… Do vậy, nội dung xác minh tài sản của người phải THA sẽ bao
gồm xác minh quyền sở hữu tài sản, phạm vi các tài sản, hiện trạng các tài sản.
(i) Xác minh quyền sở hữu
Đây là một nội dung quan trọng trong xác minh điều kiện THA của người
phải THA. Bởi lẽ, nếu người phải THA không có tài sản (hay nói cách khác là
không sở hữu tài sản) thì cơ quan THA không thể thực hiện các giai đoạn tiếp theo
của quá trình THA. Tuy nhiên, thực tế, người phải THA có thể có rất nhiều loại tài
sản khác nhau như vật, tiền, giấy tờ có giá, quyền tài sản, đất đai, nhà ở… Những
tài sản này lại được quản lý bởi các cơ quan khác nhau và theo các phương thức
khác nhau. Do vậy, người có quyền, nghĩa vụ xác minh phải xác định được người
phải THA sở hữu những tài sản gì và cơ quan, tổ chức, cá nhân nào có thể cung cấp
52
thông tin về quyền sở hữu đó.
(ii) Phạm vi các tài sản cần xác minh
Về nguyên tắc, các cơ quan THA chỉ kê biên, thu giữ, bán những tài sản
thuộc sở hữu của người phải THA và chỉ xử lý những tài sản đủ để thi hành khoản
nợ. Một trong những nguyên tắc được hướng dẫn trong Khuyến nghị Rec (2003) 17
của Hội đồng châu Âu là cần phải có sự cân bằng hợp lý giữa lợi ích của người
được THA và người phải THA. Một số tài sản và thu nhập thiết yếu của người phải
THA cần được bảo vệ, chẳng hạn như hàng gia dụng cơ bản, trợ cấp xã hội, tiền cho
các nhu cầu y tế thiết yếu và các công cụ làm việc cần thiết [97]. Để thực thi
khuyến nghị trên, Uỷ ban châu Âu về hiệu quả của tư pháp đã ban hành bản Hướng
dẫn chi tiết. Bản hướng dẫn này khẳng định nguyên tắc “Cưỡng chế phải đạt được
sự cân bằng giữa nhu cầu của người được THA và quyền của người phải THA. Các
quốc gia thành viên được khuyến khích giám sát các thủ tục THA, kiểm soát quản
lý toà án và thực hiện các hành động thích hợp để đảm bảo sự bình đẳng về thủ tục
của các bên” [99]. Để thực hiện được các nguyên tắc nói trên trong hoạt động
cưỡng chế thì kết quả xác minh phải thể hiện được tương đối toàn diện tài sản của
người phải THA, từ đó, người có thẩm quyền tổ chức THA mới thực hiện việc lựa
chọn để đảm bảo sự cân bằng lợi ích giữa các bên đương sự. Tuy nhiên, về phạm vi
xác minh, mỗi quốc gia lại có những quy định khác nhau căn cứ vào phương thức
xác minh cũng như chủ thể xác minh mà quốc gia đó lựa chọn. Ví dụ, trong hầu hết
các khu vực pháp lý, nơi tồn tại phương thức xác minh thông qua tuyên bố về tài
sản của người phải THA thì người phải THA phải tiết lộ tất cả các tài sản của mình.
Tuy nhiên, ở Bồ Đào Nha, người phải THA sẽ được toà án THA yêu cầu xác định
tài sản cho việc thu giữ. Ở Pháp, người phải THA phải xác định tài sản nếu người
được THA tìm cách thực thi một yêu cầu nhỏ (dưới 535 Euro) và yêu cầu thu giữ
động sản. Trong phạm vi này, việc người phải THA tiết lộ tài sản bị hạn chế nghiêm
ngặt bởi nhu cầu của người được THA để có được thông tin. Ở các quốc gia thành
viên này, một người phải THA có thể được yêu cầu tiết lộ tài sản của mình trong
một phạm vi hạn chế. Ngay từ cái nhìn đầu tiên, mô hình tiết lộ tài sản hạn chế có
vẻ thích hợp hơn, bởi nó phù hợp với nguyên tắc tương ứng được khuyến nghị ở
trên. Tuy nhiên, nếu nhìn từ góc độ của người được THA thì việc tiết lộ tài sản hạn
chế sẽ giới hạn sự lựa chọn tài sản THA của họ. Ngoài ra, kể cả nhìn từ quan điểm
của người phải THA thì việc tiết lộ giới hạn có thể là gánh nặng nếu người phải
53
THA bị yêu cầu tiết lộ tài sản nhiều lần để THA [106, tr.36].
Ở các bang Michigal, Nevada, Virginia – Mỹ, phạm vi xác minh còn bị ràng
buộc bởi quy định về việc chỉ được kê biên, bán tài sản là bất động sản của người
phải THA sau khi đã xử lý các tài sản cá nhân khác mà không đủ để thi hành khoản
nợ. Ở các bang Hawaii thì tài sản là bất động sản có giá trị không vượt quá giá thị
trường là 30.000 USD thuộc sở hữu của người phải THA là chủ gia đình hoặc trên
65 tuổi thì không được kê biên. Hoặc ở Đảo Rhode – Mỹ, tài sản là nhà ở của người
phải THA có giá trị ở mức 200.000 USD sẽ không bị kê biên, bán. Ở Taxas thì nhà ở
của người phải THA không được phép kê biên, bán [94]. Vì vậy, khi tiến hành xác
minh, chủ thể xác minh phải nắm bắt được những quy định này để xác định phạm vi và
các loại tài sản mà mình cần tiến hành xác minh.
Ở bang Ontario – Canada, tại phiên điều trần để kiểm tra tài sản của người
phải THA, người phải THA (hoặc người nắm được thông tin về tài sản của người
phải THA) phải chuẩn bị để trả lời các câu hỏi về việc làm của người phải THA, bất
kỳ tài sản nào mà người phải THA sở hữu như xe cơ giới hoặc đất đai, và về tất cả
các chi nhánh ngân hàng nơi người phải THA có tài khoản, bao gồm cả tài khoản
chung với người khác [109].
(iii) Xác minh hiện trạng tài sản
Xác minh hiện trạng tài sản là một nội dung quan trọng của xác minh điều
kiện THA. Kể cả trong trường hợp xác minh tài sản được giao theo bản án, quyết
định hay xác minh tài sản để kê biên, xử lý nhằm thu tiền trả cho người được THA
thì việc xác minh hiện trạng tài sản là một yêu cầu bắt buộc của pháp luật nhiều
quốc gia trước khi thực hiện cưỡng chế THA đối với một số loại tài sản như bất
động sản.
Pháp luật Nhật bản quy định trước khi định giá, bán đấu giá tài sản là bất
động sản, toà THA sẽ ra lệnh cho CHV điều tra hiện trạng bên ngoài của bất động
sản, việc chiếm hữu hoặc những vấn đề khác [53].
Pháp luật Pháp quy định trước khi bán tài sản thì phải có biên bản về tình
trạng của bất động sản do TPL lập [101].
Ở Việt Nam, pháp luật không quy định trực tiếp về xác minh hiện trạng mà quy
định khi xác minh CHV phải xác minh cụ thể tài sản [75, điểm b khoản 4 Điều 44].
Từ các phân tích về nội dung xác minh có thể thấy, pháp luật các quốc gia
không quy định nội dung như là một quy định hoàn chỉnh mà quy định vấn đề này
54
dưới các hình thức khác nhau như phạm vi tuyên bố về tài sản của người phải THA
(ở Bồ Đào Nha, Pháp) hoặc yêu cầu trước khi định giá, bán tài sản (Nhật, Pháp)
hoặc chi phối nội dung xác minh qua nguyên tắc kê biên (Mỹ). Dù vậy, đây vẫn là
nội dung không thể thiếu trong quy định về xác minh điều kiện THA. Tuy nhiên,
việc quy định ở mức độ nào tuỳ thuộc vào các quy định khác của pháp luật về THA
và pháp luật khác có liên quan đến hoạt động THA.
2.3.3.2. Xác minh điều kiện thi hành án khác của người phải thi hành án
Đây là trường hợp xác minh khả năng THA của người phải THA đối với nghĩa
vụ thuộc về hành vi. Như đã phân tích ở mục 2.2. của luận án, kết quả xác minh là căn
cứ để tổ chức cưỡng chế THA nên đối với việc cưỡng chế các nghĩa vụ thuộc về hành
vi của người phải THA, CHV phải có kết quả xác minh thể hiện người phải THA đủ
điều kiện để THA. Điều kiện THA ở đây là khả năng tự mình hoặc thông qua người
khác thực hiện nghĩa vụ THA.
2.3.4. Thủ tục xác minh
Thủ tục xác minh là các công việc mà chủ thể xác minh phải thực hiện khi
xác minh điều kiện THA của người phải THA. Như đã phân tích ở mục 2.3.1. của
luận án, mỗi quốc gia sẽ giao cho một chủ thể xác minh khác nhau và lựa chọn
phương thức xác minh khác nhau. Mỗi chủ thể và phương thức lại có các thủ tục xác
minh không giống nhau. Do vậy, việc nghiên cứu về thủ tục xác minh cần phải được
đặt trong mối liên hệ với chủ thể và phương thức xác minh. Cụ thể, thủ tục xác minh có
thể được phân thành hai loại thủ tục tương ứng với hai loại chủ thể xác minh là thủ tục
xác minh trong trường hợp người được THA xác minh và thủ tục xác minh trong
trường hợp chuyên gia THA xác minh. Chuyên gia THA ở đây được hiểu là các CHV
là công chức thuộc các cơ quan THADS nhà nước và các TPL là những người hành
nghề tự do thuộc các tổ chức TPL hoạt động như một doanh nghiệp.
2.3.4.1. Thủ tục xác minh trong trường hợp người được THA xác minh
Người được THA có địa vị pháp lý khá đặc biệt trong hoạt động THADS.
Theo đó, họ là người có các quyền, lợi ích từ các bản án, quyết định hoặc các văn
bản, tài liệu khác có thể thi hành. Và theo quy định của pháp luật nhân quyền châu
Âu, thì quyền được tiếp cận toà án và quyền được xét xử công bằng là một trong
những nội dung của quyền con người. Nếu không có sự bảo đảm THA nhanh chóng
và hiệu quả, quyền được tiếp cận tòa án và quyền được xét xử công bằng sẽ trở nên
55
vô nghĩa. Theo án lệ của Toà án Nhân quyền châu Âu, việc thi hành bản án hoặc
quyết định của tòa án phải được coi là một phần không tách rời của "phiên toà" theo
ý nghĩa quy định tại Điều 6 của Công ước Châu Âu. Điều này đặt ra giả định rằng
các thủ tục THA được hưởng tất cả các bảo đảm về mặt thủ tục của Điều 6, bao
gồm cả tiến độ THA [99]. Tuy nhiên, quyền lợi của họ lại ở trong tư thế “đối lập”
với quyền của người phải THA. Và khi người được THA thực hiện nhiệm vụ xác
minh thì cũng phải tính đến sự cân bằng trong mối quan hệ với quyền của người
phải THA. Đồng thời, quyền của người được THA cũng chỉ ở trong phạm vi “riêng
tư”, do đó, giao nhiệm vụ xác minh là nhìn nhận dưới góc độ chủ động bảo vệ
quyền của người được THA, còn để có thể tiến hành xác minh vẫn cần phải có sự
trợ giúp của các cơ quan công quyền. Vì vậy, pháp luật của các quốc gia khi quy
định việc xác minh của người được THA thì quy định tương đối chặt chẽ về các
công việc phải làm, quyền và nghĩa vụ của các bên khi bắt đầu hoạt động xác minh
cho đến khi kết thúc hoạt động xác minh.
Ví dụ, ở bang Ontario – Canada, thủ tục xác minh được thực hiện theo trình
tự sau [109]:
(i) Nộp thông báo xác minh:
Người được THA điền vào mẫu thông báo xác minh (bao gồm tên người
phải THA) và nộp thông báo xác minh tại văn phòng toà án cùng với bản khai yêu
cầu THA và giấy chứng nhận phán quyết (nếu cần thiết)
(ii) Gửi thông báo xác minh:
Sau khi thư ký toà án ký thông báo, điền ngày thực hiện xác minh thì người
được THA phải giao thông báo này cho người phải THA hoặc người thứ ba đang giữ
thông tin về tài sản của người phải THA trước ít nhất 30 ngày trước phiên điều trần.
(iii) Tham dự phiên điều trần xác minh:
Phiên điều trần xác minh có mặt cả người được THA và người phải THA.
Tại phiên điều trần xác minh sẽ xem xét các vấn đề sau: lý do người phải THA
không thanh toán; thu nhập và tài sản của người phải THA; các khoản nợ của người
phải THA; các tài sản được xử lý trước hoặc sau khi có lệnh của toà án; ý định trả
nợ của người phải THA trong hiện tại, quá khứ và tương lai; người phải THA có ý
định thực hiện việc trả nợ hay có bất kỳ lý do nào để ngăn cản việc trả nợ không; và
56
bất kỳ vấn đề nào khác liên quan đến việc THA.
Quy trình xác minh của Mỹ cũng được thiết kế tương tự.
2.3.4.2. Quy trình xác minh trong trường hợp các chuyên gia thi hành án xác minh
Đối với trường hợp chuyên gia THA xác minh, pháp luật các nước không có
quy định về trình tự thực hiện việc xác minh mà chỉ quy định về quyền, nghĩa vụ
của chuyên gia thi hành khi tiến hành xác minh và trách nhiệm của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan trong việc cung cấp thông tin.
Ví dụ, Luật THADS Pháp, tại các Điều L.152-1, L.152-2, L.152-3 chỉ quy
định về trách nhiệm, nghĩa vụ phối hợp, cung cấp thông tin về địa chỉ, danh tính,
tiền, bất động sản và bất kỳ thông tin khác về người phải THA của các cơ quan nhà
nước, các khu vực, sở và thành phố, công ty được cấp phép hoặc kiểm soát của Nhà
nước khi có yêu cầu của TPL mà không được quyền từ chối vì bảo vệ bí mật nghề
nghiệp. Đồng thời cũng quy định về trách nhiệm của TPL chỉ được sử dụng thông
tin thu được trong phạm vi cần thiết để thực hiện việc THA mà họ đã được yêu cầu.
Bất kỳ hành vi cố ý vi phạm nào cũng đều bị trừng phạt được quy định tại điều 226-
21 của Bộ luật hình sự, nếu không cố ý, nếu cần thiết, có thể bị xử lý kỷ luật và bồi
thường thiệt hại [113].
Luật THA Đài Loan, tại Điều 19 quy định về trách nhiệm của Toà án THA
và người được THA về việc xác minh điều kiện THA của người phải THA. Trong
đó, quy định rõ ràng về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, người thứ ba nắm giữ
thông tin về tài sản của người phải THA trong việc cung cấp thông tin [110].
Ở Việt Nam, xuất phát từ tầm quan trọng của kết quả xác minh điều kiện THA,
đồng thời, để đảm bảo sự thống nhất và bài bản trong hoạt động xác minh, pháp luật
THADS đã quy định thủ tục xác minh điều kiện THA như sau:
(1) Đối với chấp hành viên:
Pháp luật THADS Việt Nam quy định khi xác minh CHV xuất trình thẻ
CHV, lập biên bản thể hiện đầy đủ kết quả xác minh có xác nhận của UBND hoặc
công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân nơi tiến hành xác minh; trường hợp xác
minh bằng văn bản thì văn bản yêu cầu xác minh phải nêu rõ nội dung xác minh và các
thông tin cần thiết khác. Đồng thời pháp luật cũng quy định về trách nhiệm của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc cung cấp thông tin về điều kiện THA
57
cho CHV [75, Điều 44].
(2) Đối với thừa phát lại
Nghị định số 08/2020/NĐ-CP quy định trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ
ngày ký kết hợp đồng dịch vụ, Trưởng văn phòng TPL phải ra quyết định xác minh
điều kiện THA, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Quyết định xác minh
phải ghi rõ căn cứ, nội dung xác minh và được ghi vào sổ xác minh điều kiện THA
được lập theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định. Quyết định xác minh phải
được gửi cho VKSND cấp huyện nơi Văn phòng TPL đặt trụ sở và cơ quan THADS
có thẩm quyền THA theo quy định của pháp luật THADS. Khi trực tiếp xác minh,
TPL phải xuất trình giấy giới thiệu của Văn phòng TPL, thẻ TPL kèm theo các tài
liệu có liên quan và phải công bố quyết định xác minh hoặc quyết định THA trong
trường hợp Văn phòng TPL tổ chức THA; lập biên bản về việc xác minh. Biên bản
phải có chữ ký của TPL, người cung cấp thông tin, xác nhận của cơ quan, tổ chức,
cá nhân cung cấp thông tin. Nếu chưa thực hiện được ngay việc cung cấp thông tin
thì phải ghi rõ lý do trong biên bản. Biên bản được lập thành 02 bản, mỗi bên giữ 01
bản. Trường hợp xác minh bằng văn bản thì văn bản đề nghị cung cấp thông tin
phải có các nội dung xác minh và các tài liệu liên quan. Đồng thời, pháp luật cũng
quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc
cung cấp thông tin về điều kiện THA cho TPL [29, Điều 45, 50].
Từ các phân tích trên, có thể thấy, đối với quy định về thủ tục xác minh điều
kiện THA, pháp luật các nước quy định về việc xác minh của người được THA có
quy định chặt chẽ hơn về thủ tục xác minh, còn các nước trao quyền xác minh cho
hệ thống các cơ quan THA (nhà nước hoặc tư nhân) thì sẽ ít ràng buộc về thủ tục do
việc cung cấp thông tin được thực hiện bởi các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nên
quy định sẽ tập trung ở trách nhiệm cung cấp thông tin nhiều hơn là thủ tục thực
hiện nó.
2.3.5. Thời điểm xác minh
Thời điểm xác minh là các quy định về thời điểm mà người có thẩm quyền
xác minh được quyền hoặc có nghĩa vụ tiến hành xác minh điều kiện THA.
Qua nghiên cứu pháp luật của một số quốc gia về thời điểm xác minh, có thể
thấy, việc quy định về thời điểm xác minh không có sự đồng nhất ở các quốc gia
khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung của các quốc gia đó là để tiến hành xác
minh cần phải có một điểm “mốc” cụ thể, điểm bắt đầu đó có thể là sự tồn tại của
58
quyền THA chính thức hoặc quyền THA tạm thời hoặc sau khi hết thời gian tự
nguyện THA của người phải THA. Việc quy định cho phép các chủ thể xác minh
vào thời điểm nào tuỳ thuộc vào cách nhìn nhận của các quốc gia về quyền của các
bên trong mối quan hệ xác minh điều kiện THA này. Chẳng hạn, ở Pháp và Tây
Ban Nha, không cho phép các cơ quan THA được tìm kiếm thông tin về tài sản của
người phải THA trước khi có văn bản THA chính thức xuất phát từ sự tôn trọng của
họ đối với quyền của người phải THA khi chưa chính thức bị tuyên bố phải trả một
khoản tiền. Hay như ở Việt Nam, việc quy định thời điểm xác minh lại xuất phát từ
quan điểm “tiết kiệm” nguồn lực cho cơ quan THADS và từ sự tôn trọng về quyền
tự nguyện THA của người phải THA.
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả xác minh điều kiện thi hành án
dân sự
2.4.1. Tính minh bạch về thông tin
Khuyến nghị về THA của Hội đồng châu Âu năm 2003 đã đưa ra nguyên tắc
để hướng dẫn các quốc gia thành viên khi xây dựng thủ tục THA là “Việc tìm kiếm
và thu giữ tài sản của người phải THA nên được thực hiện có hiệu quả nhất có thể
có tính đến các điều khoản bảo vệ dữ liệu và quyền con người có liên quan. Cần có
sự thu thập nhanh chóng và hiệu quả các thông tin cần thiết về tài sản của người
phải THA thông qua việc truy cập vào các thông tin liên quan có trong sổ đăng ký
và các nguồn khác, cũng như cho người phải THA khai báo tài sản của họ” [98]. Có
thể thấy, bản khuyến nghị đã tập trung vào các phương thức thu thập thông tin về tài
sản để đưa ra nguyên tắc là cần có sự thu thập nhanh chóng và hiệu quả. Như đã
phân tích ở mục 2.3. nội dung điều chỉnh pháp luật về xác minh điều kiện THA thì dù
chủ thể xác minh là ai cũng sẽ thực hiện việc xác minh, thu thập thông tin về người
phải THA thông qua 03 phương thức chủ yếu là: tuyên bố của người phải THA, các sổ
đăng ký và tuyên bố của người thứ ba. Ba phương thức xác minh này sẽ chỉ được thực
hiện hiệu quả khi thông tin phải minh bạch. Sự minh bạch về thông tin được thể hiện
như sau:
(i) Đối với phương thức xác minh qua tuyên bố của người phải THA
Nhấn mạnh tầm quan trọng của phương thức xác minh qua tuyên bố của
người phải THA, khuyến nghị về THADS của Hội đồng châu Âu năm 2003 đã đưa
ra một trong những nguyên tắc để các thủ tục THA có hiệu lực, hiệu quả nhất có thể
là “người phải THA nên cung cấp thông tin cập nhật về thu nhập, tài sản của họ và
59
về các vấn đề liên quan khác” [98]. Như đã phân tích ở mục phương thức xác minh,
điểm hạn chế của phương thức xác minh qua tuyên bố của người phải THA là phụ
thuộc vào ý chí của người phải THA, nghĩa là nếu họ muốn và sợ thì tuyên bố trung
thực, nếu họ không sợ, không muốn thì không tuyên bố hoặc tuyên bố không trung
thực. Do vậy, để kiểm soát ý chí của người phải THA, buộc họ thực hiện theo đúng
mong muốn của người có quyền thì phải có các thiết chế để gây áp lực lên ý chí của
họ. Ở Đức, pháp luật kiểm soát sự trung thực về thông tin của người phải THA
thông qua hình phạt đối với tự do cá nhân của người phải THA như phạt giam giữ
trong thời hạn tối đa là 06 tháng [62]. Ở Mỹ, Canada, hành vi không thực hiện yêu
cầu cung cấp thông tin của người được THA hoặc lệnh buộc cung cấp thông tin của
toà án bị coi là tội phạm và có thể bị bắt vì hành vi này [93], [112]. Ở hầu hết các
quốc gia châu Âu khác (Áo, Đan Mạch, Hy Lạp, Ireland, Bồ Đào Nha, Tây Ban
Nha, Thuỵ Điển, Anh) thì hình phạt tù (tối đa một hoặc thậm chí hai năm) có thể
được áp dụng đối với người phải THA [106, tr.37]. Ngoài ra, ở Đức, hình phạt dành
cho người phải THA trong việc không trung thực khi khai báo thông tin về tài sản
còn ở việc công bố công khai bản tuyên bố về tài sản của người phải THA. Theo
pháp luật Đức thì bản tuyên bố tài sản của người phải THA được ghi vào sổ đăng ký
công khai nếu người phải THA đã tuyên thệ hoặc không tuyên thệ. Sổ đăng ký này
được duy trì tại các toà án địa phương. Tại nhiều toà án địa phương, các sổ đăng ký
này được duy trì dưới dạng cơ sở dữ liệu điện tử và phòng thương mại và công
nghiệp thường xuyên nhận được các bản sao (hoặc thậm chí được truy cập trực
tuyến). Do đó, ảnh hưởng đến uy tín tín dụng của người phải THA [106, tr.37].
Ở Việt Nam, Nghị định số 62/2015/NĐ-CP đã đặt nền móng cho quy định về
xác minh qua tuyên bố của người phải THA. Cụ thể khoản 1 Điều 9 Nghị định số
62/2015/NĐ-CP quy định: khi tiến hành xác minh, CHV yêu cầu người phải THA
kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện THA.
Nội dung kê khai phải nêu rõ loại, số lượng tiền, tài sản hoặc quyền tài sản; tiền
mặt, tiền trong tài khoản, tiền đang cho vay, mượn; giá trị ước tính và tình trạng của
từng loại tài sản; mức thu nhập định kỳ, không định kỳ, nơi trả thu nhập; địa chỉ, nơi cư
trú của người chưa thành niên được giao cho người khác nuôi dưỡng; khả năng và điều
kiện thực hiện nghĩa vụ THA. CHV phải nêu rõ trong biên bản xác minh điều kiện
THA về việc đương sự kê khai hoặc không kê khai tài sản, thu nhập, điều kiện THA.
Trường hợp người phải THA không kê khai hoặc phát hiện việc kê khai không trung
60
thực thì thuỳ theo mức độ vi phạm, CHV có thể xử phạt hoặc đề nghị người có thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật. Và mức xử phạt được
quy định tại Nghị định số 167/2017/NĐ-CP là 1.000.000-3.000.000 đồng đối với hành
vi không kê khai hoặc kê khai không trung thực và người có thẩm quyền xử phạt là
Cục trưởng Cục THADS. Tuy nhiên, thực tế của quá trình THA, hầu như chưa có
người phải THA nào tự nguyện kê khai tài sản và cũng chưa có cơ quan THADS nào
tiến hành xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi không kê khai này. Có thể thấy,
pháp luật Việt Nam cũng đặt ra vấn đề thu thập thông tin về tài sản, thu nhập thông qua
tuyên bố của người phải THA nhưng quy định pháp luật chưa đủ tính răn đe và thiếu
tính thực tế khi giao thẩm quyền xử phạt cho người có thẩm quyền cao nhất của hệ
thống cơ quan THADS dẫn đến quy định này chỉ là hình thức.
Như vậy, phương thức xác minh qua tuyên bố của người phải THA sẽ chỉ
hiệu quả khi các cơ quan có thẩm quyền kiểm soát được sự trung thực về thông tin
của người phải THA.
(ii) Đối với phương thức xác minh qua sổ đăng ký
Để thực hiện tốt hơn bản khuyến nghị về THA năm 2003, Uỷ ban châu Âu về
hiệu quả của tư pháp đã ban hành một bản hướng dẫn chi tiết. Bản hướng dẫn đã đưa ra
các yêu cầu cụ thể khi thu thập thông tin về người phải THA và tài sản của họ với các
hướng dẫn về quyền truy cập thông tin của người được THA, quyền truy cập thông tin
của cơ quan THA, nhiệm vụ cung cấp thông tin và vấn đề bảo vệ dữ liệu.
- Đối với quyền truy cập thông tin của người được THA, bản hướng dẫn yêu
cầu: để đảm bảo quyền được hỗ trợ đầy đủ cho các thủ tục tố tụng, người được
THA nên được phép truy cập vào các sổ đăng ký công khai để họ có thể xác nhận
thông tin cần thiết về người phải THA, như thông tin xác định về người phải THA
và nơi ở của anh ta cho mục đích THA và dữ liệu có thể truy cập được thông qua sổ
đăng ký công cộng (ví dụ: sổ đăng ký đất đai, sổ đăng ký toà án của các công ty…)
tuân theo quyền tự do thông tin và luật bảo vệ dữ liệu của quốc gia thành viên.
- Đối với quyền truy cập thông tin của cơ quan THA, bản hướng dẫn yêu
cầu: các quốc gia thành viên nên cho phép các cơ quan THA truy cập nhanh chóng
và tốt nhất là truy cập một cách trực tiếp thông tin về tài sản của người phải THA.
Các quốc gia thành viên được khuyến khích xem xét cung cấp thông tin về tài sản
cho cơ quan THA bằng Internet thông qua truy cập bảo mật, nếu có thể. Để ngăn
chặn tình trạng tẩu tán tài sản của người phải THA, các quốc gia thành viên được
61
khuyến khích thiết lập một cơ sở dữ liệu truy cập hạn chế đa nguồn duy nhất về tài
sản gắn liền của người phải THA (nghĩa là quyền sở hữu đối với phương tiện,
quyền bất động sản, các khoản nợ phải trả, khai thuế…). Các quốc gia thành viên
nên cung cấp cơ sở dữ liệu với mức độ bảo mật chấp nhận được. Quyền truy cập
của các cơ quan THA vào các cơ sở dữ liệu phải chịu sự kiểm soát kỹ lưỡng. Sự
hợp tác của các cơ quan khác nhau của nhà nước và tư nhân, tuân thủ luật bảo vệ dữ
liệu là điều cần thiết để cho phép truy cập nhanh chóng vào thông tin đa nguồn trên
tài sản của người phải THA.
- Về nhiệm vụ cung cấp thông tin, bản hướng dẫn yêu cầu: tất cả các cơ quan
nhà nước quản lý dữ liệu với thông tin cần thiết để THA hiệu quả nên có nghĩa vụ
cung cấp thông tin cho các cơ quan THA trong thời hạn đã thoả thuận nếu thông tin
đó phù hợp với luật bảo vệ dữ liệu.
- Về việc bảo vệ dữ liệu, bản hướng dẫn yêu cầu: pháp luật quốc gia về bảo
vệ dữ liệu các nhân nên được xem xét kỹ lưỡng trong trường hợp cần phải điều
chỉnh để cho phép các thủ tục THA hiệu quả. Các cơ quan THA phải chịu trách
nhiệm duy trì bảo mật khi thông tin bí mật hoặc nhạy cảm được họ chú ý trong quá
trình tố tụng. Trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ này, các biện pháp trách nhiệm kỷ
luật nên được áp dụng, cùng với các biện pháp trừng phạt dân sự và hình sự [100].
Có thể thấy, đối với phương thức thông tin qua sổ đăng ký, bản hướng dẫn
chi tiết đã đặt ra các yêu cầu sau:
Thứ nhất, về sổ đăng ký, nên xây dựng một cơ sở dữ liệu đa nguồn về tài sản
của người phải THA;
Thứ hai, về hình thức truy cập, nên cho phép truy cập bằng Internet;
Thứ ba, về cách thức truy cập, nên cho phép truy cập trực tiếp thông tin;
Thứ tư, về việc kiểm soát việc truy cập vào hệ thống thông tin, cần phải chịu
sự kiểm soát kỹ lưỡng;
Thứ năm, về nhiệm vụ cung cấp thông tin, tất cả các cơ quan nhà nước quản
lý cơ sở dữ liệu nên có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho cơ quan THA;
Thứ sáu, về bảo vệ dữ liệu, cần có sự bảo vệ nhưng cũng phải tính đến sự
hiệu quả của hoạt động THA;
Thứ bảy, trách nhiệm của các cơ quan THA khi không đảm bảo trách nhiệm
bảo mật thông tin.
Đây là những yêu cầu giúp đảm bảo tính minh bạch của thông tin về tài sản
62
của người phải THA qua các sổ đăng ký. Mặc dù không phải các quốc gia châu Âu
đều thực hiện được các yêu cầu như bản hướng dẫn đã nêu nhưng thực tế hoạt động
xác minh ở châu Âu và một số quốc gia trên thế giới đã chứng minh việc đảm bảo
càng nhiều các yêu cầu nói trên thì hoạt động xác minh điều kiện THA càng hiệu
quả, việc thiếu một số yêu cầu sẽ làm giảm hiệu quả của công tác xác minh. Ví dụ,
ở Pháp, mặc dù Pháp đã xây dựng được một hệ thống thông tin thống nhất về tài khoản
ngân hàng, nhưng thông tin này không được các cơ quan THA truy cập trực tiếp mà
phải thông qua cơ quan trung gian là FICOBA (cơ quan đăng ký quốc gia về tài khoản
ngân hàng). Các yêu cầu đều được gửi về cơ quan trung gian khiến cho cơ quan này bị
quá tải, nhiều thông tin phải nhiều tháng mới có câu trả lời [97, tr.153].
Ở Đức, Pháp, sổ đăng ký đất đai chỉ được quản lý ở cấp thành phố [106,
tr.27]. Điều này sẽ giới hạn sẽ giới hạn về lãnh thổ khi tìm kiếm thông tin về tài sản
là đất đai của người phải THA.
Ở Trung Quốc, do Trung Quốc xây dựng được một hệ thống điều tra và kiểm
soát trực tuyến. Hệ thống này giúp toà án có thể nhanh chóng tìm ra và kiểm soát
kịp thời các tài sản khác nhau bao gồm bất động sản, tiền gửi, tàu, xe, chứng
khoán… của người phải THA. Đây là lý do khiến việc THA ở Trung Quốc có thể
được thực hiện ngay cả khi người được THA không thể cung cấp các manh mối về
tài sản của người phải THA [103,tr.572].
CHV của Tajikistan có quyền yêu cầu cơ quan thuế, ngân hàng và công
chứng viên cung cấp thông tin cần thiết với bí mật thương mại, ngân hàng cũng như
thông tin về hành vi công chứng. Xuất trình danh thiếp để vào các toà nhà của các
cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu và tại các
địa điểm, nơi cư trú khác của người phải THA và kiểm tra tài sản của người phải
THA [103, tr.557]. Quyền lực này của CHV đã đưa lại các hiệu quả cho công tác
THADS ở Tajikistan.
(iii) Đối với phương thức xác minh qua tuyên bố của bên thứ ba
Cũng như phương thức xác minh qua tuyên bố của người phải THA, xác
minh qua tuyên bố của bên thứ ba sẽ chỉ minh bạch khi kiểm soát được ý chí cá
nhân của bên thứ ba. Các trách nhiệm pháp lý đủ tính răn đe sẽ là cơ sở để đảm bảo
sự trung thực của bên thứ ba đối với việc cung cấp thông tin trung thực về tài sản
của người phải THA.
Từ các phân tích trên có thể thấy, tính minh bạch của hệ thống thông tin về
63
tài sản của người phải THA có tác động lớn đến hiệu quả của công tác xác minh. Vì
vậy, việc xây dựng một hệ thống thông tin minh bạch là một trong những điều kiện
để giúp nâng cao hiệu quả xác minh điều kiện THA.
2.4.2. Trình độ chuyên môn, đạo đức của chấp hành viên, thừa phát lại, thẩm
phán, cán bộ toà án
Ngoại trừ các quốc gia lựa chọn mô hình trao quyền chủ động xác minh cho
người được THA, các quốc gia còn lại giao nhiệm vụ xác minh cho CHV/TPL/thẩm
phán/cán bộ toà án (sau đây gọi chung là CHV). Trình độ chuyên môn, đạo đức của
CHV có tác động rất lớn đến hiệu quả của THA nói chung và xác minh điều kiện
THADS nói riêng.
Ý thức được tầm quan trọng của trình độ chuyên môn, đạo đức của CHV đối
với hiệu quả của hoạt động THA, Khuyến nghị về THADS của Hội đồng châu Âu
năm 2003 đã khẳng định nguyên tắc “Trong tuyển dụng CHV, cần xem xét các tiêu
chuẩn đạo đức của ứng viên, kiến thức pháp lý và vấn đề được đào tạo của họ về
luật pháp và thủ tục liên quan. Để kết thúc quá trình tuyển dụng, họ nên được yêu
cầu làm bài kiểm tra để đánh giá kiến thức lý thuyết và thực tế của họ” [98]. Để
thực hiện tốt hơn nguyên tắc này, bản hướng dẫn của Uỷ ban châu Âu về hiệu quả
của tư pháp đã yêu cầu “Các quốc gia thành viên chỉ nên công nhận các CHV nếu
các ứng viên liên quan có tiêu chuẩn và đào tạo tương xứng với sự phức tạp của
nhiệm vụ. Chất lượng đào tạo cao của các chuyên gia rất quan trọng đối với dịch vụ
công lý và tăng sự tin tưởng của người dân vào hệ thống tư pháp. Các CHV cũng
cần được theo dõi việc đào tạo liên tục bắt buộc” [100]. Thực tế hoạt động THA đã
chứng minh trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của CHV ảnh hưởng rất lớn
đến hiệu quả của công tác THA nói chung và xác minh điều kiện THA nói riêng. Ở
Serbia, để làm CHV không cần đào tạo hay kiến thức đặc biệt, đồng thời mức lương
thấp, thiếu động lực làm việc đã dẫn đến tình trạng CHV bao cho hành vi che dấu
tài sản của người phải THA [103, tr.447]. Điều này dẫn đến sự thiếu hiệu quả của
công tác THA ở Serbia. Ở Trung Quốc, có chuyên gia đánh giá rằng nhân sự chất
lượng thấp không đủ năng lực trong THA là một trong những lý do chính cho sự
chậm trễ của hoạt động THA. Tại Thụy Điển, cơ quan THA là một bộ phận của
chính quyền Nhà nước, sĩ quan cao cấp sẽ là luật sư có trình độ. Ở Thụy Điển, cơ
quan THA dường như hoạt động rất hiệu quả do trình độ chuyên môn cao của nhân
viên và dễ dàng tiếp cận rộng rãi một loạt các hồ sơ công khai liên quan đến người
64
phải THA [108, tr.208].
Ở Việt Nam, để được bổ nhiệm làm CHV sơ cấp, ứng viên phải tốt nghiệp
đại học chuyên ngành luật, có thời gian làm công tác pháp luật từ 03 năm trở lên, đã
được đào tạo nghiệp vụ THADS và trúng tuyển kỳ thi tuyển CHV sơ cấp [75, khoản
2 Điều 18]. Từ quy định pháp luật trên, có thể thấy, trong thời gian vừa qua, trình
độ chuyên môn, điều kiện, tiêu chuẩn của các CHV ở Việt Nam đã được nâng lên
một cách đáng kể. Tuy nhiên, chất lượng công việc của các CHV vẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu thực tiễn công việc. Từ các số liệu thống kê của Tổng cục THADS
cho thấy những sai phạm của CHV dẫn đến xử lý kỷ luật vẫn còn nhiều. Ví dụ năm
2016, xử lý kỷ luật 96 trường hợp [12]. Năm 2017, xử lý kỷ luật 101 trường hợp
[13]. Cũng theo đánh giá của Tổng cục THADS thì một trong những nguyên nhân
dẫn đến những vướng mắc, tồn tại trong THADS là năng lực, phẩm chất, kỹ năng
làm việc của một số CHV còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong
tình hình mới. Một số CHV ý thức trách nhiệm chưa cao, thiếu kiên quyết dẫn đến
hiệu quả công việc còn thấp [14], [15].
Những phân tích trên cho thấy trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức
nghề nghiệp của CHV có liên quan mật thiết đến chất lượng, hiệu quả của THADS
nói chung và xác minh điều kiện THADS nói riêng. Vì vậy, cần phải chú trọng hơn
nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với CHV để một mặt nâng cao trình độ chuyên
môn nghề nghiệp, mặt khác, chú trọng rèn luyện đạo đức nghề nghiệp. Hơn nữa,
vấn đề đạo đức nghề nghiệp của CHV cũng cần được kiểm soát chặt chẽ.
2.4.3. Sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức có liên quan
Trong trường hợp hệ thống thông tin về tài sản của người phải THA không
phải là một hệ thống công khai, đồng thời, việc thu thập thông tin về tài sản của
người phải THA không phải thông qua phương thức tuyên bố của người phải THA
thì việc xác minh bắt buộc phải có sự phối hợp của cơ quan, tổ chức nắm giữ thông
tin về tài sản của người phải THA. Để việc xác minh hiệu quả, cần phải có cơ chế
phối hợp THA hữu hiệu, để các cơ quan nắm giữ thông tin bắt buộc phải cung cấp
thông tin cho người có thẩm quyền xác minh. Ở Tajikistan, để tăng cường hiệu quả
của công tác THA các cơ quan nhà nước, tổ chức khác có nghĩa vụ hỗ trợ CHV
trong việc bảo đảm THA [103, tr.557]. Từ tháng 9/2018, Uzbekistan xây dựng một
hệ thống thống nhất về tương tác điện tử nội bộ. Hệ thống cung cấp cho việc trao
đổi thông tin nhanh chóng giữa Cục THA và 18 cơ quan nhà nước, tổ chức và ngân
65
hàng trong việc tìm kiếm tài sản của người phải THA [103, tr.369]. Hệ thống này đã
giúp nâng cao hiệu quả của THADS ở Uzbekistan. Tại Việt Nam, pháp luật về
THADS luôn chú trọng công tác phối hợp của các cơ quan, tổ chức có liên quan
trong công tác xác minh điều kiện THA. Tại Điều 44 Luật THADS đã quy định về
trách nhiệm cung cấp thông tin của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khi có yêu cầu của
người có quyền xác minh, đồng thời cũng quy định về trách nhiệm pháp lý khi vi
phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin. Tuy nhiên, do các hình phạt được pháp luật quy
định hoặc là chưa rõ ràng hoặc chưa đảm bảo được tính răn đe nên vấn đề phối hợp
trong công tác xác minh vẫn còn những tồn tại, bất cập. Trong báo cáo tổng kết
ngành THA, Tổng cục THADS đã đánh giá “Công tác phối hợp giữa các ngành, các
cấp với cơ quan THADS trong một số trường hợp, đặc biệt là các vụ việc khó khăn,
phức tạp, có giá trị lớn chưa thực sự hiệu quả” [15].
Như vậy, có thể thấy sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức hữu quan có ý
nghĩa vô cùng quan trọng đối với hoạt động xác minh điều kiện THA. Tại Việt
Nam, vấn đề này lại càng có ý nghĩa quyết định, bởi lẽ, phương thức xác minh chủ
yếu đang được áp dụng tại Việt Nam là thông qua các sổ đăng ký hoặc tuyên bố của
người thứ ba (cung cấp thông tin của người thứ ba). Dù pháp luật Việt Nam đã đặt
nền móng cho phương thức xác minh qua tuyên bố của người phải THA (kê khai tài
sản khi tiến hành xác minh) nhưng quy định này thực tế chưa phát huy hiệu quả và
chưa được thực hiện một cách quyết liệt. Trong khi đó, các sổ đăng ký chủ yếu
được quản lý bởi một số cơ quan khác nhau, tuỳ thuộc vào loại tài sản của người
phải THA mà chưa được công khai hoá hoặc truy cập trực tuyến. Do vậy, để
phương thức xác minh này được thực hiện hiệu quả, cần phải xây dựng mối quan hệ
phối hợp hiệu quả và đồng bộ.
Tiểu kết chƣơng 2
Chương 2 đã xây dựng nền tảng lý luận về xác minh điều kiện THADS trên
cơ sở tiếp cận đây là một giai đoạn của hoạt động THADS. Xác minh điều kiện
THADS có mục đích là để tổ chức thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực thi
hành. Kết quả xác minh điều kiện THADS có ý nghĩa quyết định sự thành công của
quá trình tổ chức THADS.
Với bản chất là một “mắt xích” trong hoạt động THADS, chủ thể xác minh điều
kiện THADS gắn liền với chủ thể của hoạt động THADS và bị chi phối bởi mô hình tổ
66
chức THADS. Bên cạnh đó, giá trị pháp lý của các bản án, quyết định có hiệu lực thi
hành cũng đưa đến cho các chủ thể xác minh những “quyền lực” khác với các chủ thể
khác và/hoặc ở các hoạt động xác minh khác.
Ngoài ra, do xác minh điều kiện THA có nội dung là thu thập thông tin về tài
sản, điều kiện THA của người phải THA nên việc thu thập thông tin phụ thuộc vào
người phải THA và các chủ thể quản lý thông tin về tài sản, điều kiện THA của
người phải THA. Vì vậy, phương thức xác minh cũng được xây dựng với những
điểm khác biệt đặt trong mối liên hệ với cách thức quản lý thông tin và nghĩa vụ tôn
trọng bản án, quyết định có hiệu lực thi hành của các chủ thể có liên quan.
Pháp luật THADS có bản chất là pháp luật về thủ tục nên với tư cách là một
công đoạn của quá trình THA, xác minh điều kiện THA cũng cần các quy định
mang tính chất thủ tục để định hướng hoạt động cho các chủ thể có liên quan.
Hơn nữa, xác minh điều kiện THADS sẽ tác động đến đối tượng là thông tin
về tài sản, nhân thân của người phải THA. Những vấn đề này gắn liền với nghĩa vụ
của người phải THA, với các quyền cơ bản của người phải THA là quyền sở hữu,
đồng thời cũng liên quan đến quyền được hưởng các quyền lợi được ghi nhận trong
bản án, quyết định của người được THA. Đặc điểm này quyết định các nội dung cần
phải xác minh và phạm vi xác minh của chủ thể có thẩm quyền.
Cuối cùng, với nội dung chủ yếu là hoạt động thu thập thông tin về tài sản
của người phải THA nên tính minh bạch của thông tin và quản lý thông tin về tài
sản; trình độ chuyên môn, đạo đức của người thu thập thông tin và sự phối hợp,
trách nhiệm của người quản lý thông tin sẽ tác động đến hiệu quả của hoạt động xác
minh điều kiện THADS.
Các nội dung nghiên cứu nói trên sẽ là nền tảng lý luận để luận án đánh giá
thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về xác minh điều kiện THADS
ở Việt Nam, từ đó, kiến nghị các giải pháp khắc phục để nâng cao hiệu quả công tác
67
xác minh điều kiện THADS.
Chƣơng 3
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT
VỀ XÁC MINH ĐIỀU KIỆN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
3.1. Các quy định hiện hành về xác minh điều kiện thi hành án dân sự
3.1.1. Chủ thể xác minh điều kiện thi hành án dân sự
Chủ thể tiến hành hoạt động xác minh là người mà pháp luật trao cho họ
quyền, nghĩa vụ tiến hành hoạt động xác minh điều kiện THADS. Theo quy định
của pháp luật Việt Nam, mỗi thời kỳ, pháp luật có các quy định riêng về chủ thể xác
minh điều kiện THADS. Hiện nay, tại Việt Nam, có sự tồn tại song song của ba chủ
thể tiến hành hoạt động xác minh đó là CHV, TPL và người được THA.
3.1.1.1. Chấp hành viên
Chủ thể chủ yếu tiến hành hoạt động xác minh điều kiện THADS theo quy
định của pháp luật Việt Nam là chấp hành viên. Kể từ thời điểm hoạt động tổ chức
THADS được chuyển giao cho Bộ Tư pháp quản lý và với sự ra đời của Pháp lệnh
THADS năm 1993, nhiệm vụ xác minh điều kiện THADS được giao cho CHV. Đến
năm 2008, dựa trên nguyên tắc việc tư phải tôn trọng quyền định đoạt của các bên
đương sự, Luật THADS năm 2008 quy định chủ thể tiến hành hoạt động xác minh
gồm hai chủ thể là người được THA và CHV, trong đó, người chủ động tiến hành
hoạt động này là người được THA. Để CHV có thể tiến hành hoạt động xác minh
điều kiện THADS thì phải thỏa mãn các điều kiện được pháp luật quy định chứ
không phải đương nhiên CHV được quyền xác minh điều kiện THADS của người
phải THA. Cụ thể, theo quy định tại khoản 1 Điều 44 Luật THADS năm 2008 thì
CHV chỉ chủ động tiến hành xác minh điều kiện THADS trong trường hợp chủ
động ra quyết định THA, còn trường hợp THA theo đơn yêu cầu thì CHV chỉ tiến
hành xác minh khi người được THA có đơn yêu cầu với tài liệu chứng minh đã áp
dụng các biện pháp cần thiết mà không thể tự xác minh được điều kiện THADS của
người phải THA. Tuy nhiên, quy định này gặp phải những vướng mắc trong thực
tiễn áp dụng như các cơ quan, tổ chức không cung cấp thông tin về điều kiện
THADS cho người được THA [51], kết quả xác minh của người được THA không
đủ độ tin cậy [42]. Đồng thời, khi người được THA quay trở lại đề nghị CHV tiến
hành xác minh thì vướng phải thủ tục pháp lý phức tạp gây khó khăn cho cả người
68
được THA khi tiến hành yêu cầu cũng như CHV tiến hành xác minh khiến cho việc
THA bị huỷ do cách hiểu khác nhau khi áp dụng quy định này [92]. Trước những
khó khăn, vướng mắc đó, trong Luật THADS sửa đổi, bổ sung đã thay đổi cách tiếp
cận về vấn đề chủ thể xác minh, theo đó, CHV lại trở về là chủ thể chủ yếu tiến
hành hoạt động xác minh điều kiện THADS.
Khoản 4 Điều 20 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định một
trong những nhiệm vụ, quyền hạn của CHV là “Xác minh tài sản, điều kiện THADS
của người phải THA; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài
liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của người phải THA”. Như vậy, Luật THADS sửa
đổi, bổ sung năm 2014 trao cho CHV nhiệm vụ xác minh điều kiện THADS của
đương sự. Và để thực hiện nhiệm vụ đó, CHV có quyền “yêu cầu cơ quan, tổ chức,
cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của người phải
THA”. Về nguyên tắc, khi Luật quy định quyền cho một chủ thể sẽ đồng nghĩa với
việc các chủ thể khác có liên quan sẽ phải tôn trọng và tạo điều kiện để chủ thể
được trao quyền thực hiện quyền của mình. Để hiện thực hóa quyền của CHV, khoản 6
Điều 44, Điều 175, Điều 176, Điều 177 Luật THADS đã quy định về nhiệm vụ, quyền
hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã, Kho bạc Nhà nước, Ngân hàng và tổ chức tín dụng
khác, Bảo hiểm xã hội và các tổ chức, cá nhân trong việc phối hợp với CHV, cơ quan
thi hành án xác minh điều kiện thi hành án của người phải THA.
Cụ thể, Luật THADS sửa đổi, bổ sung quy định về trách nhiệm của cơ quan,
tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc xác minh điều kiện THADS. Theo đó, tất
các các cơ quan, tổ chức, công chức tư pháp - hộ tịch, địa chính - xây dựng - đô thị
và môi trường, cán bộ, công chức cấp xã khác và cá nhân có liên quan; bảo hiểm xã
hội, ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, cơ
quan đăng ký giao dịch bảo đảm, công chứng và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác
đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của người phải THA đều
phải có trách nhiệm cung cấp thông tin theo yêu cầu của CHV và phải chịu trách
nhiệm về các nội dung thông tin đã cung cấp. Trường hợp các cơ quan, tổ chức, cá
nhân không cung cấp hoặc cung cấp thông tin sai sự thật về điều kiện THADS của
người phải THA thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, thanh toán các chi phí
phát sinh, trường hợp gây ra thiệt hại thì phải bồi thường. [75, Điều 44].
Đây không phải là một quy định hoàn toàn mới của Luật THADS sửa đổi, bổ
sung, có chăng chỉ là sự thể chế hóa từ quy định của Nghị định lên thành quy định
69
của Luật mà thôi. Ngay từ khi ban hành Nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật hành án dân sự về thủ
tục THADS đã quy định về nghĩa vụ phải cung cấp thông tin của cơ quan, tổ chức,
cá nhân có liên quan trong xác minh điều kiện THADS [22]. Tuy nhiên, thực tế triển
khai quy định này cho thấy, mặc dù tình trạng không cung cấp thông tin hoặc trì hoãn
việc cung cấp thông tin vẫn còn tồn tại nhưng chưa có bất kỳ một cơ quan, tổ chức, cá
nhân nào bị xử lý hành chính hoặc phải bồi thường thiệt hại về hành vi này.
Việc các cơ quan THADS hầu như không áp dụng quy định về việc xử phạt
vi phạm hành chính đối với hành vi này xuất phát từ những lý do sau:
Thứ nhất, mức xử phạt thấp, chưa đủ mức răn đe. Theo khoản 2 Điều 64
Nghị định 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân gia đình, THADS, phá
sản doanh nghiệp, hợp tác xã thì trách nhiệm mà cơ quan, tổ chức, cá nhân không
cung cấp thông tin mà không có lý do chính đáng chỉ bị xử phạt với mức từ
1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng [25, Điều 64].
Thứ hai, thủ tục để xử phạt và thu tiền phạt theo quyết định xử phạt hết sức
phiền phức, nhiêu khê. Theo quy định của pháp luật thì thẩm quyền xác minh thuộc
về CHV, vì vậy, tất cả các tác nghiệp liên quan đến công tác phối hợp cũng do CHV
thực hiện. Trong khi đó, theo quy định tại Khoản 1 Điều 85 Nghị định 82/2020/NĐ-
CP ngày 15/7/2020 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư
pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân gia đình, THADS, phá sản doanh nghiệp, hợp
tác xã thì CHV chỉ có quyền phạt tiền với mức tối đa là 500.000 đồng, Chi cục
trưởng Chi cục THADS chỉ được phạt tiền với mức phạt tối đa là 2.500.000 đồng
[25, Điều 85]. Điều này có nghĩa là công việc thì thuộc quyền của CHV nhưng nếu
có vi phạm thì người có quyền xử phạt lại không phải là CHV. Để xử phạt trong
trường hợp này, CHV phải đề xuất Cục trưởng Cục THADS xử phạt đối với người
có hành vi vi phạm. Theo quy định tại Luật xử lý vi phạm hành chính, sau khi ra
quyết định xử phạt, người đã ra quyết định xử phạt có trách nhiệm theo dõi việc
thực hiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính của người bị xử phạt, nếu người bị
xử phạt không tự nguyện thi hành quyết định xử phạt thì bị áp dụng biện pháp
cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt. Bản thân nhiệm vụ thi hành bản án, quyết
định của Tòa án đã là một gánh nặng với rất nhiều cơ quan THADS, do đó, việc “né
tránh” những rắc rối, phiền phức có thể gặp phải khi theo dõi việc thi hành quyết
định xử phạt vi phạm hành chính hoặc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi
70
phạm hành chính của các cơ quan THADS là điều rất dễ xảy ra.
Thứ ba, hoạt động xác minh điều kiện THADS còn cần sự phối hợp của các
cơ quan nhà nước, các cán bộ công chức khác như công chức tư pháp – hộ tịch, địa
chính – xây dựng – đô thị và môi trường, cán bộ, công chức cấp xã khác; văn phòng
đăng ký quyền sử dụng đất, tuy nhiên, pháp luật lại không có quy định cụ thể về
cách thức xử lý những vi phạm của các công chức, cơ quan này trong việc không
cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin không đầy đủ cho CHV.
Như vậy, mặc dù Luật THADS đã trao cho CHV quyền được yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh tài sản của người
phải THA nhưng hành lang pháp lý để đảm bảo cho quyền đó được thực thi trên
thực tế còn quá sơ sài nên tình trạng vi phạm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân về
vấn đề cung cấp thông tin vẫn còn phổ biến, đặc biệt là đối với Ngân hàng, các tổ
chức tín dụng với các “thủ đoạn” hết sức tinh vi. Để minh chứng cho nhận định
trên, NCS xin nêu ra một ví dụ cụ thể như sau:
Quyết định THA số 203/QĐ-CCTHA ngày 18/3/2015 của Chi cục THADS
huyện N. có nội dung: “Buộc ông Nguyễn Văn M phải trả cho ông Nguyễn Tiến H
số tiền là 700.000.000 đồng”. Sau khi được phân công thi hành quyết định THA nói
trên, CHV đã làm việc với người được THA là ông H thì được ông H cung cấp
thông tin ông M có mở tài khoản Z tại Ngân hàng X, chi nhánh Y và đề nghị CHV
xác minh tài khoản trên. Khi CHV đến chi nhánh Y thuộc Ngân hàng X để xác
minh thì được nhân viên lễ tân của chi nhánh Ngân hàng X cho biết Giám đốc chi
nhánh hiện đang đi công tác nên không có người có thẩm quyền thực hiện yêu cầu
của CHV và đề nghị CHV làm việc thông qua văn bản. Trong khoảng thời gian này,
người phải THA đã tẩu tán tiền trong tài khoản, kết quả, Ngân hàng cung cấp thông
tin số dư trong tài khoản cần cung cấp chỉ đảm bảo duy trì hoạt động của tài khoản.
Khi xem xét in sao kê - là chứng từ thể hiện lịch sử các giao dịch mà người phải
THA thực hiện thì có một khoản tiền đã được chuyển ra khỏi tài khoản sau khi
CHV đến Ngân hàng đặt vấn đề cung cấp thông tin và trước khi Ngân hàng cung
cấp thông tin chính thức cho CHV.
Ví dụ trên đặt ra cho chúng ta một câu hỏi: Làm thế nào để ngăn chặn được
hành vi “tiếp tay” của các Ngân hàng, tổ chức tín dụng với đương sự? Theo quy
định tại Điều 5 Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-BTP-BTC-BLĐTBXH-
NHNNVN ngày 14/01/2014 hướng dẫn việc cung cấp thông tin về tài khoản, thu
71
nhập của người phải THA và thực hiện phong tỏa, khấu trừ để THADS thì người có
thẩm quyền cung cấp thông tin là Tổng Giám đốc, Giám đốc, người đại diện theo
pháp luật hoặc người được ủy quyền của cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản
của người phải THA có trách nhiệm xem xét, quyết định việc cung cấp thông tin
theo quy định của pháp luật [17, Điều 5].
Vì lý do này nên cán bộ Ngân hàng thường nại ra rằng người có thẩm quyền
đang đi vắng hoặc chưa có thời gian tiếp CHV, đây chính là cái cớ để lẩn tránh
nghĩa vụ cung cấp thông tin về tài khoản ngay lập tức, giúp đương sự có thời gian
tẩu tán tiền trong tài khoản. Rõ ràng, ở ví dụ trên, thời điểm rút tiền ra khỏi tài
khoản được thực hiện sau khi CHV đến Ngân hàng nhưng CHV lại không có chứng
cứ để chứng minh cho hành vi “tiếp tay” cho đương sự của Ngân hàng. Và lý do
không có người có thẩm quyền cung cấp thông tin cho CHV là một lý do hoàn toàn
chính đáng theo đúng quy định của pháp luật.
Từ những phân tích trên, NCS nhận thấy, xác minh là một công đoạn vô
cùng quan trọng trong trình tự, thủ tục tổ chức THADS, giúp CHV xác định phải đi
tiếp hay tạm thời dừng lại tiến trình giải quyết THA nhưng công đoạn này lại có sự
tham gia, sự ảnh hưởng rất lớn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác mà không
thuộc sự chủ động của CHV. Thực tế này đặt ra cho tác giả một câu hỏi: Liệu có
phải đến lúc các nhà lập pháp cần nhìn lại bản chất của xác minh điều kiện THADS
là một quy trình của THADS, trong đó, quyền được THA là một quyền cơ bản của
người được THA, do vậy, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ tôn trọng
quyền cơ bản đó. Nếu các cơ quan, tổ chức, cá nhân không phối hợp sẽ là hành vi
xâm phạm đến các quyền cơ bản của con người, do vậy, sẽ phải chịu các biện pháp
chế tài tương xứng.
3.1.1.2. Thừa phát lại
Thừa phát lại là người có đủ tiêu chuẩn được Nhà nước bổ nhiệm để thực
hiện tống đạt, lập vi bằng, xác minh điều kiện THADS, tổ chức THADS [29, khoản
1 Điều 2]. TPL thực hiện công việc được giao trong tổ chức hành nghề là Văn
phòng TPL và Văn phòng TPL có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, hoạt động theo
nguyên tắc tự chủ về tài chính [29, Điều 17]. Một trong những căn cứ cho sự ra đời
và tồn tại của TPL là chủ trương xã hội hoá một số hoạt động bổ trợ tư pháp được
đề cập đến trong Nghị quyết 08-NQ/TW và Nghị quyết 49-NQ-TW của Bộ Chính
trị [48, tr.18]. Vì vậy, khi xây dựng Nghị định số 61/2009/NĐ-CP thì các chuyên
72
gia đã xây dựng xác minh điều kiện THA là một trong nhiệm vụ của TPL và gắn
luôn nhiệm vụ này vào khái niệm TPL tại thời điểm đó. Đồng thời, khẳng định rõ
nhiệm vụ này một lần nữa tại khoản 3 Điều 3 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP. Cụ thể,
điều luật này quy định công việc TPL được làm là “xác minh điều kiện thi hành án
theo yêu cầu của đương sự” [23, khoản 3 Điều 3]. Ngoài ra, một công việc khác mà
TPL cũng được thực hiện đó là tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Toà án
theo yêu cầu của đương sự theo quy định của nghị định này và pháp luật có liên
quan. Và trong trình tự tổ chức thi hành án, TPL phải tiến hành xác minh điều kiện
thi hành án. Ngày 08/01/2020, Nghị định số 08/2020/NĐ-CP được ban hành đã thay
thế Nghị định số 61/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của TPL. Nghị định này
tiếp tục quy định xác minh điều kiện thi hành án và tổ chức thi hành các bản án,
quyết định của Toà án theo yêu cầu của đương sự là công việc của TPL. Theo đó,
TPL được “xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” [29, khoản 3 Điều 3] và “tổ chức thi hành các bản án,
quyết định của Toà án theo yêu cầu của đương sự” [29, khoản 4 Điều 3].
Từ các quy định trên, có thể thấy, nhiệm vụ xác minh của TPL sẽ phát sinh
trong những trường hợp sau:
(i) Thứ nhất, xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự và
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
Trong trường hợp này, nhiệm vụ xác minh của TPL chỉ bắt đầu khi đáp ứng
được điều kiện là có yêu cầu của đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan. Khác với CHV, là người có nhiệm vụ xác minh điều kiện THADS như là một
thủ tục buộc phải thực hiện trong trình tự, thủ tục thi hành án, TPL là người xác
minh điều kiện THADS trên cơ sở hợp đồng được ký với người được THA, thực
hiện theo yêu cầu của người được THA, do đó, nghĩa vụ của TPL phụ thuộc vào
hợp đồng mà họ đã ký kết với đương sự. Nếu nhìn dưới góc độ xác minh theo yêu
cầu của đương sự thì rõ ràng, việc quy định nghĩa vụ cho TPL là không cần thiết vì
họ sẽ tiến hành xác minh trên cơ sở hợp đồng, nếu họ vi phạm thì sẽ xử lý bằng
những cam kết được xây dựng, soạn thảo trong hợp đồng đã ký. Vì vậy, Nghị định
số 61/2009/NĐ-CP và Nghị định số 08/2020/NĐ-CP đều không đề cập đến nghĩa
vụ của TPL khi xác minh điều kiện THADS mà để các bên ký kết hợp đồng chủ
động quy định và thảo luận quyền, nghĩa vụ cụ thể trong hợp đồng.
Khi thực hiện quyền xác minh điều kiện THADS, TPL bị hạn chế bởi thẩm
73
quyền theo địa hạt, cụ thể, theo quy định tại Điều 43 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP
thì TPL có quyền xác minh điều kiện THADS mà vụ việc đó thuộc thẩm quyền thi
hành của các cơ quan THADS trên địa bàn cấp tỉnh nơi Văn phòng TPL đặt trụ sở.
Để đảm bảo cho công việc xác minh của TPL, Điều 50 Nghị định số 08/2020/NĐ-
CP đã quy định về trách nhiệm của công chức tư pháp - hộ tịch, địa chính - xây
dựng - đô thị và môi trường, cán bộ, công chức cấp xã khác, cơ quan bảo hiểm xã
hội, tổ chức tín dụng, cơ quan đăng ký đất đai, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm,
tổ chức hành nghề công chứng và các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác đang nắm giữ
thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của người phải THA trong việc phối hợp,
hỗ trợ TPL trong xác minh điều kiện THADS và chịu trách nhiệm về các nội dung
thông tin đã cung cấp. Điều luật này cũng quy định về trường hợp cơ quan, tổ chức,
cá nhân cung cấp thông tin sai sự thật về điều kiện thi hành án của người phải thi
hành án thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, thanh toán các chi phí phát sinh,
bồi thường thiệt hại.
Đồng thời, trước đó, giữa Bộ Tư pháp và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã
ký kết Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-BTP-NHNNVN ngày 17/01/2014
hướng dẫn việc xác minh điều kiện THA của TPL tại các tổ chức tín dụng, trong đó
nêu rõ trách nhiệm của các Ngân hàng, tổ chức tín dụng trong việc cung cấp thông
tin về tài khoản khi TPL có yêu cầu [18].
Mặc dù vậy, thực tế triển khai hoạt động xác minh điều kiện THA, các TPL
cũng vẫn gặp những trở ngại do các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt
động xác minh chưa biết đến sự xuất hiện và tồn tại của chế định TPL. Bên cạnh đó,
những quy định chung chung về trách nhiệm mà không có chế tài đi kèm với nó
khiến cho việc các cơ quan, tổ chức, cá nhân có từ chối cung cấp thông tin cũng
không thể xử lý được sai phạm của họ. Ngay cả với chức danh CHV, nếu cơ quan, tổ
chức, cá nhân từ chối cung cấp thông tin mà không có lý do chính đáng, CHV được
quyền xử phạt vi phạm hành chính mà mức xử phạt chưa hợp lý cũng đã khiến cho việc
xử lý của CHV khó được thực hiện trên thực tế thì quy định chung chung như trên chỉ
càng khiến cho thẩm quyền của TPL chỉ tồn tại giống như “một con hổ giấy” mà thôi.
(i) Thứ hai, xác minh điều kiện thi hành án khi tổ chức thi hành các bản án,
quyết định của Toà án theo yêu cầu của đương sự
Đây là trường hợp TPL được giao nhiệm vụ tổ chức thi hành các bản án,
quyết định của Toà án theo yêu cầu của đương sự. Trong quá trình tổ chức thi hành
74
bản án, quyết định của Toà án, TPL phải tiến hành các trình tự, thủ tục như thông
báo các quyết định, các văn bản khác về THA cho các bên đương sự, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan; xác minh điều kiện THA của đương sự; thuyết phục
các bên tự nguyện THA và ghi nhận sự tự nguyện của các bên đương sự. Như vậy,
xác minh điều kiện THA là một trong những công việc thuộc trình tự, thủ tục tổ
chức thi hành bản án, quyết định. Do đó, khi quy định nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức
THA của TPL, Điều 52 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP đã quy định TPL có nhiệm
vụ, quyền hạn “Xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; đề nghị
cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phối hợp cung cấp thông tin, tài liệu để xác
minh địa chỉ, tài sản của người phải THA”. Rõ ràng, quy định này đã giao cho TPL
nhiệm vụ xác minh giống với CHV khi tổ chức THA. Tuy nhiên, khác với CHV,
khoản 2 Điều 52 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP cũng quy định khi tổ chức THA,
TPL không được xử phạt vi phạm hành chính [29, khoản 2 Điều 52].
Từ các quy định trên có thể thấy, dù được giao nhiệm vụ xác minh điều kiện
THA nhưng trong bất kỳ trường hợp nào thì hành lang pháp lý để tạo thuận lợi cho
TPL thực hiện nhiệm vụ lại thiếu đầy đủ khiến cho việc xác minh của TPL gặp phải
nhiều thách thức trong thực tiễn. Do vậy, để tiếp tục thực hiện tốt chủ trương xã hội
hoá công tác THA đã được Bộ Chính trị đặt ra, pháp luật cần quy định cụ thể hơn
về quyền của TPL cũng như trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan trong quá trình xác minh điều kiện THA của TPL.
3.1.1.3. Người được thi hành án
Luật THADS năm 2008 đã đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho nhiệm vụ xác minh
của người được THA. Khoản 1 Điều 44 Luật THADS năm 2008 quy định đối với
trường hợp THA theo đơn yêu cầu, nếu người được THA đã áp dụng các biện pháp
cần thiết mà không thể tự xác minh được điều kiện THA của người phải THA thì có
thể yêu cầu CHV tiến hành xác minh. Việc yêu cầu này phải lập thành văn bản và
phải ghi rõ các biện pháp cần thiết đã được áp dụng nhưng không có kết quả, kèm
theo tài liệu chứng minh. Có thể thấy, theo quy định này, người được THA là người
giữ vai trò chủ động trong việc xác minh điều kiện THA. Đồng thời, để giải quyết
trường hợp người được THA không thể tự xác minh được điều kiện THA, điều luật
cũng đã quy định cho phép người được THA yêu cầu CHV tiến hành xác minh. Quy
định như vậy là hợp lý, tuy nhiên, do quy định trên tương đối “cực đoan” theo nghĩa
là cơ quan THA chỉ tiến hành xác minh khi người được THA phải chứng minh được
75
mình đã xác minh mà không có kết quả, trong khi đó hành lang pháp lý để người
được THA thực hiện việc xác minh cũng như thu thập các chứng cứ để chứng minh
mình xác minh không có kết quả lại chưa được xây dựng và hoàn thiện nên quy
định này đã vấp phải sự phản đối của người được THA và quy định trên được xem
như là sự “nhiêu khê” của các cơ quan công quyền. Quy định này hoàn toàn không
tạo điều kiện cho người được THA mà là “làm khó” người được THA, đồng thời
“làm khó” chính các CHV cơ quan THADS. Đơn cử như vụ việc được tác giả Phạm
Công Ý đề cập đến trong Tạp chí dân chủ và pháp luật là chỉ vì khi nộp đơn yêu cầu
xác minh bà H không xuất trình được tài liệu hoặc biên bản làm việc để chứng minh
việc bà H đã tiến hành xác minh tại các cơ quan, tổ chức đang nắm giữ thông tin về tài
sản mà không có kết quả mà CHV lại tiến hành xác minh nên vi phạm quy trình, thủ
tục THA dẫn đến hủy kết quả THA [92]. Tác giả Bùi Nguyễn Phương Lê khi bình luận
về những vướng mắc trong quy định pháp luật về xác minh điều kiện THA theo Luật
THADS năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã cho rằng: Các quy định pháp
luật về xác minh đã đẩy người được THA vào “con đường không lối thoát”: muốn nêu
rõ thông tin thì họ phải xác minh, đi xác minh thì không xác minh được, quay sang nhờ
cơ quan THA xác minh thì lại không chứng minh được về việc xác minh không có kết
quả của mình, dẫn đến bị từ chối nhận đơn yêu cầu THA. Vì lẽ đó, nếu đứng từ góc độ
của người được THA, những thực tế nêu trên sẽ không thể khiến họ vui vẻ đặt niềm tin
vào hệ thống công quyền, và “bức xúc” là điều đương nhiên sẽ xảy ra nếu họ bị từ chối
thi hành vụ án mà họ đã theo kiện nhiều tháng, thậm chí nhiều năm [56]. Ngoài ra,
vướng mắc, khó khăn của điều luật này trong thực tiễn áp dụng còn ở các khía cạnh
như thiếu sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan; kết quả xác minh
của người được THA không đáng tin cậy…
Trước thực tế đó, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật THADS đã quy
định nhiệm vụ xác minh thuộc về CHV còn người được THA, thay vì có “nghĩa vụ”
xác minh được chuyển thành “quyền” xác minh. Khoản 5 Điều 44 Luật THADS sửa
đổi bổ sung quy định “Người được THA có quyền tự mình hoặc uỷ quyền cho người
khác xác minh điều kiện THA, cung cấp thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện THA
của người phải THA cho cơ quan THADS”. Như vậy, từ thời điểm Luật THADS sửa
đổi bổ sung có hiệu lực pháp luật thì người được THA không còn phải tự mình xác
minh và phải chứng minh về việc không thể thực hiện được việc xác minh để yêu cầu
CHV xác minh mà việc xác minh là nhiệm vụ của CHV, người được THA có thể tự
76
xác minh nếu thấy cần thiết và có khả năng thực hiện công việc đó.
Còn quy định tại khoản 5 Điều 44 Luật THADS 2014 thì người được THA có
thể xác minh nếu thấy thuận lợi hoặc để CHV xác minh nếu thấy khó khăn. Tuy nhiên,
luật pháp cũng phải tạo hành lang pháp lý cho người được THA để họ thực hiện quyền
của mình, chẳng hạn như mở ra các dịch vụ cung cấp thông tin. Ví dụ như người muốn
được cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm sẽ có đơn yêu cầu cung cấp thông tin gửi
Trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản, và phải trả một khoản phí nhất định. Đó là việc
yêu cầu người được THA tự xác minh hoặc phải xuất trình tài liệu chứng minh về việc
đã áp dụng các biện pháp cần thiết nhưng không có kết quả nhưng pháp luật lại không
có quy định để ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan
trong việc cung cấp thông tin hoặc các chứng cứ đó.
Thực tế công tác THADS thời gian qua cho thấy, đối với những vụ việc mà
đương sự có mối quan hệ mật thiết với nhau hoặc quen biết nhau như khi THA hôn
nhân và gia đình, THA thừa kế, THA đòi nợ... người được THA nắm và hiểu rất rõ
tình hình tài sản, điều kiện THA của người phải THA. Hơn nữa, nếu xét dưới khía
cạnh tâm lý, người được THA sẽ là người có quyền lợi thiết thân đối với quá trình
THA, do đó, họ sẽ bằng mọi cách để có được thông tin về điều kiện THA của người
phải THA. Đồng thời, trong thời điểm kinh tế phát triển như hiện nay, một người có
thể mua tài sản ở các địa phương khác nhau, thậm chí có thể mua tài sản ở quốc gia
khác, nếu muốn việc xác minh hiệu quả thì giao cho người được THA cũng là một
hướng đi đúng đắn. Rõ ràng, việc duy trì quyền xác minh cho người được THA sẽ
tạo hiệu quả cho công tác THA nếu người được THA có điều kiện thực hiện việc
xác minh THA. Tuy nhiên, cũng giống như quy định tại Luật THADS năm 2008,
Luật chỉ ghi nhận quyền mà chưa có hành lang pháp lý để thực thi quyền nên hầu
hết các vụ việc THA hiện nay, để tổ chức THA chủ yếu dựa trên kết quả xác minh
của CHV mà không phải là của người được THA.
Ngoài ra, Luật THADS sửa đổi bổ sung năm 2014 cũng quy định về quyền
cung cấp thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện THA của người phải THA. Đây là
một quyền hết sức chính đáng và hợp lý của người được THA, góp phần đẩy nhanh
tiến trình giải quyết các vụ việc THADS. Thực tế công tác THADS thời gian qua
cho thấy, vụ việc nào có sự tham gia mạnh mẽ của người được THA trong vấn đề
cung cấp thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện THA của người phải THA thì vụ
việc đó sẽ được giải quyết nhanh hơn, dứt điểm hơn. Như đã phân tích ở trên, trong
77
thời đại nền kinh tế mở cửa như hiện nay, việc các cá nhân đầu tư tiền của mình vào
các hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực khác nhau, ở các địa phương khác
nhau là tương đối phổ biến. Trong khi đó, các cơ quan THA chỉ hoạt động bó hẹp
trong phạm vi một địa phương nhất định, chủ yếu chỉ ở địa bàn cấp huyện thì việc
nắm được tình hình tài sản, thu nhập, điều kiện THA của người phải THA ở địa
phương khác là điều không thể thực hiện và pháp luật cũng không thể bắt buộc
CHV phải thực hiện việc xác minh điều kiện THA của người phải THA ở địa
phương khác, trừ khi có các thông tin về tài sản, thu nhập ở những địa phương này.
Và các thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện THA của người phải thi hành được
cung cấp thông qua nguồn chủ yếu là người được THA. Vì vậy, việc Luật THADS
sửa đổi, bổ sung quy định người được THA có quyền cung cấp thông tin về tài sản,
thu nhập, điều kiện THA của người phải THA cho cơ quan THADS là hợp lý. Tuy
nhiên, đây chỉ đơn thuần là hành vi cung cấp thông tin, để biến nó thành điều kiện
THA về tài sản, sẽ phải có nghĩa vụ xác minh của CHV. Trong khi đó, Luật không
đề cập đến nghĩa vụ của CHV khi tiếp nhận cung cấp thông tin của người được
THA. Điều này dẫn đến một bất cập là nếu người được THA cung cấp thông tin
nhưng CHV lại không kịp thời tiến hành xác minh dẫn đến đương sự tẩu tán, hủy
hoại tài sản, gây khó khăn, kéo dài cho quá trình tổ chức THA thì trách nhiệm của
CHV được xử lý như thế nào? Vì vậy, bên cạnh quy định này, tác giả thiết nghĩ,
Luật cần phải có quy định về nghĩa vụ của CHV khi tiếp nhận cung cấp thông tin
của người được THA. Trong đó, cần quy định rõ thời hạn mà CHV phải tiến hành
xác minh khi nhận được yêu cầu của người được THA.
Bên cạnh đó, khoản 7 Điều 44 Luật THADS sửa đổi, bổ sung quy định
“Trường hợp người được THA cung cấp thông tin sai sự thật về điều kiện THA của
người phải THA thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, thanh toán các chi phí
phát sinh, trường hợp gây ra thiệt hại thì phải bồi thường”. Thực ra, đây là một quy
định để ràng buộc trách nhiệm của người được THA khi thực hiện quyền cung cấp
thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện THA của người phải THA. Bởi lẽ, theo quy
định của Luật THADS sửa đổi, bổ sung và các văn bản hướng dẫn thi hành thì chi
phí xác minh hiện nay thuộc về Ngân sách Nhà nước, nếu không ràng buộc trách
nhiệm của người được THA, thì họ sẽ cung cấp thông tin một cách bừa bãi, gây khó
khăn và lãng phí sức lực, tiền của của CHV và các cơ quan THADS. Dù vậy, để
78
thực thi quy định này trên thực tế là một điều không dễ dàng.
3.1.2. Phương thức xác minh điều kiện thi hành án dân sự
3.1.2.1. Phương thức xác minh qua tuyên bố của người phải thi hành án
Luật THADS sửa đổi bổ sung năm 2014 cũng lần đầu tiên quy định về trách
nhiệm kê khai thông tin của người phải THA, đây là một cách thức thể hiện của xác
minh qua tuyên bố của người phải THA. Theo quy định tại khoản 1 Điều 44 Luật
THADS sửa đổi, bổ sung thì “Người phải THA phải kê khai trung thực, cung cấp đầy
đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện THA với cơ quan THADS và phải chịu
trách nhiệm về việc kê khai của mình”. Cụ thể hóa điều luật này, khoản 1 Điều 9 Nghị
định số 62/2015/NĐ-CP quy định về quyền của CHV khi tiến hành xác minh là yêu
cầu người phải THA kê khai, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện
THA. Đồng thời, người phải THA phải có nghĩa vụ kê khai rõ loại, số lượng tiền, tài
sản hoặc quyền tài sản; tiền mặt, tiền trong tài khoản, tiền đang cho vay, mượn; giá
trị ước tính và tình trạng của từng loại tài sản; mức thu nhập định kỳ, không định
kỳ, nơi trả thu nhập; địa chỉ, nơi cư trú của người chưa thành niên được giao cho
người khác nuôi dưỡng; khả năng và điều kiện thực hiện nghĩa vụ THA. Trường
hợp người phải THA không kê khai hoặc phát hiện việc kê khai không trung thực
thì tùy theo mức độ vi phạm, CHV có thể xử phạt hoặc đề nghị người có thẩm
quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật [27, Điều 9].
Điểm c Khoản 2 Điều 64 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp,
hôn nhân và gia đình, THADS, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã đã quy định mức
phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi
không kê khai hoặc kê khai không đầy đủ, không chính xác tài sản, thu nhập, điều
kiện THA khi người có thẩm quyền thi hành án yêu cầu.
Như vậy, theo các quy định hiện hành, khi tiến hành xác minh, CHV phải
yêu cầu người phải THA kê khai trung thực tài sản, điều kiện THA của mình.
Người phải THA có nghĩa vụ kê khai trung thực tài sản, điều kiện THA. Nếu vi
phạm nghĩa vụ, người phải THA có thể sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy
định của pháp luật. Quy định pháp luật thì rõ ràng như vậy nhưng thực tế khi triển
khai áp dụng quy định này, CHV gặp phải không ít lúng túng. Sự lúng túng xuất
phát từ tâm lý của người phải THA trong quá trình THA. Thông thường, nếu người
phải THA tự nguyện THA, thì ngay khi bản án được tuyên và có hiệu lực pháp luật
79
thì họ đã tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình. Còn khi vụ việc đã có sự “vào
cuộc” của cơ quan THADS, có nghĩa là người phải THA đã bước đầu thể hiện hành
vi chống đối nghĩa vụ mà họ phải thi hành theo bản án. Do đó, NCS hình dung quy
định này giống như trong lĩnh vực hình sự, người phạm tội tự nguyện ra đầu thú
trước cơ quan công an. Tuy nhiên, việc đầu thú này phụ thuộc vào “lương tâm”,
“đạo đức” của người phạm tội, và một phần nữa là chính sách khoan hồng của nhà
nước nếu người phạm tội chủ động, thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của
mình. Trong khi đó, đối với việc kê khai tài sản của người phải THA, pháp luật
không đặt ra và không thể đặt ra chính sách giảm nhẹ nghĩa vụ, bởi đây là những
nghĩa vụ đã được Thẩm phán nhân danh Nhà nước phán quyết bằng bản án, quyết
định. CHV chỉ chờ đợi ở lương tâm và đạo đức của người phải THA mà thôi. Còn
đối với hình thức chế tài mà pháp luật quy định CHV thường né tránh áp dụng bởi
sự không hiệu quả cũng như những rắc rối mà CHV có thể gặp phải khi áp dụng
những quy định đó như tác giả đã phân tích ở mục trên. Vì vậy, trên thực tế, CHV
cứ giải thích, cứ hướng dẫn, cứ yêu cầu, còn người phải THA thực hiện đến đâu,
mức độ trung thực như thế nào hoặc thậm chí không thực hiện theo yêu cầu của
CHV thì hầu như chưa có CHV nào tiến hành xử lý đối với hành vi “chống đối” của
người phải THA. Dẫn đến quy định về nghĩa vụ kê khai tài sản của người phải THA
trở thành quy định “trên giấy”, thích thực hiện thì thực hiện, không thích thực hiện
cũng chẳng có vấn đề gì xảy ra.
3.1.2.2. Phương thức xác minh qua sổ đăng ký
Ở Việt Nam, việc xác minh điều kiện THA của người phải THA chủ yếu được
thực hiện thông qua các sổ đăng ký như sổ đăng ký đất đai, sổ đăng ký xe cơ giới…
Tuy nhiên, ở Việt Nam tổ chức các sổ đăng ký cũng được thực hiện theo từng địa
phương và chưa có dữ liệu điện tử trung tâm, chẳng hạn như sổ đăng ký đất đai của cá
nhân thì cấp quản lý là ở cấp huyện; đối với xe ô tô, máy kéo, rơ moóc, sơ mi rơ moóc;
xe mô tô có dung tích xi lanh từ 175cm3 trở lên hoặc xe có quyết định tịch thu của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền và các loại xe có kết cấu tương tự xe nêu trên của cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài, kể cả xe quân đội làm kinh tế có trụ
sở hoặc cư trú tại địa phương thì cơ quan quản lý là Phòng cảnh sát giao thông thuộc
công an cấp tỉnh [6, Điều 3]; đối với tàu biển thì cơ quan quản lý là Cục Hàng hải Việt
Nam hoặc các Chi cục hàng hải, Cảng vụ hàng hải [28, Điều 4] … Như vậy, với mỗi
loại tài sản khác nhau thì sẽ do các cơ quan khác nhau quản lý, đồng thời, phạm vi quản
80
lý cũng thường theo địa giới hành chính. Đây là một trong những khó khăn khiến cho
kết quả xác minh của CHV không cao vì thông thường, CHV chỉ giới hạn ở xác minh
trong phạm vi cấp huyện và cấp tỉnh nơi có trụ sở của cơ quan THADS, trừ khi CHV
có các thông tin khác từ bản án, quyết định hoặc từ người được THA.
3.1.2.3. Phương thức xác minh qua người thứ ba
Ở Việt Nam, phương thức xác minh qua bên thứ ba được thực hiện tương đối
phổ biến nhưng ít có hiệu quả. Cụ thể, đối với việc xác minh qua ngân hàng, mặc dù
pháp luật đã loại trừ quy định bí mật nghề nghiệp trong hoạt động ngân hàng khi
các cơ quan này cung cấp thông tin về tài khoản, tài sản của người phải THA cho
CHV, đồng thời, đã quy định mức xử phạt từ 1.000.000 đồng – 3.000.000 đồng nếu
không cung cấp thông tin. Tuy nhiên, mức xử phạt này quá thấp, và thực tế, để bảo
vệ khách hàng, các ngân hàng thường tìm các cách khác nhau để từ chối cung cấp
thông tin. Tác giả Lê Võ Hồng Hạnh đã nêu 01 ví dụ cụ thể về trường hợp Ngân
hàng “giúp” khách hàng chuyển hoặc rút tiền như sau:
“Thi hành bản án 34/QĐST - KDTM ngày 16/5/2011 của Tòa án nhân dân
tỉnh Thanh Hóa, người được THA có đơn yêu cầu THA, Cục trưởng Cục THADS
tỉnh Thanh Hóa đã ra Quyết định THA số 89/QĐ-CTHA ngày 21/8/2011 cho thi
hành khoản: buộc Công ty xuất nhập khẩu rau quả tỉnh Thanh Hóa, địa chỉ: Số 19
Trần Phú, phường Ngọc Trạo, thành phố Thanh Hóa phải trả cho Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Việt Nam chi nhánh tỉnh Thanh Hóa số tiền gốc và nợ lãi là
3.967.000.000 đồng. Người được THA cung cấp thông tin Công ty Xuất nhập khẩu
rau quả, tỉnh Thanh Hóa mở tài khoản tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển
nông thôn Việt Nam chi nhánh Thanh Hóa với số tiền là 3.500.000.000 đồng. Trên
cơ sở thông tin đó, CHV phải xác minh lại nhưng khi đến làm việc, thì Ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh tỉnh Thanh Hóa cung cấp
hiện nay Công ty xuất nhập khẩu rau quả tỉnh Thanh Hóa đã chuyển hết tiền trong
tài khoản trước đó 15 phút” [42].
Trên đây chỉ là một trong vô vàn các trường hợp mà CHV gặp phải trong quá
trình xác minh điều kiện THA tại Ngân hàng. Và ở trong trường hợp này, tác giả chỉ
nhắc đến kết quả của việc xác minh mà không mô tả về quá trình Ngân hàng tiếp CHV
và cung cấp thông tin. Tuy nguyên nhân dẫn đến kết quả này là vì lý do gì chúng ta
chưa biết chắc được nhưng chắc chắn, nếu không có sự “tiếp tay” của Ngân hàng, nếu
81
pháp luật quy định về việc bất kỳ nhân viên nào của Ngân hàng ngay lập tức phải cung
cấp thông tin cho CHV nếu có yêu cầu thì chắc chắn, tình trạng như trên sẽ không thể
xảy ra trong thực tế.
3.1.3. Nội dung xác minh điều kiện thi hành án dân sự
Pháp luật về THADS không đề cập đến nội dung xác minh điều kiện THA
mà CHV phải tiến hành. Tuy nhiên, từ giải thích của thuật ngữ “có điều kiện THA”
được quy định tại khoản 6 Điều 3 Luật THADS, nội dung xác minh của CHV bao
gồm: xác minh tài sản, thu nhập của người phải THA trong trường hợp thi hành
nghĩa vụ về tài sản và xác minh điều kiện THA khác trong trường hợp thi hành
nghĩa vụ khác như giao tài sản, giấy tờ, chuyển giao quyền sử dụng đất hoặc nghĩa
vụ thuộc về hành vi như buộc phải làm hay không được làm công việc nhất định.
Dưới đây, luận án lần lượt phân tích thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn thực
hiện quy định pháp luật về nội dung xác minh điều kiện THA.
3.1.3.1. Xác minh tài sản thi hành án
Xác minh tài sản của người phải THA được CHV thực hiện khi tổ chức thi
hành loại vụ việc mà trong đó người phải THA có nghĩa vụ trả tiền. Nghĩa vụ trả
tiền thường chiếm tỉ lệ lớn trong các hồ sơ THA. Vì vậy, công tác xác minh trong
trường hợp này là hết sức quan trọng và chiếm nhiều thời gian.
Trong quá trình tổ chức THA, người phải THA không chỉ là cá nhân mà còn
là cơ quan, tổ chức nên trong thực tiễn xác minh CHV cũng sẽ có những kỹ năng
khác nhau và gặp phải những khó khăn khác nhau trong tác nghiệp xác minh điều
kiện THA. Vì vậy, NCS phân chia vấn đề xác minh tài sản người phải THA theo
cách phân loại người phải THA là cá nhân hay cơ quan, tổ chức để đánh giá thực
trạng của công tác xác minh cũng như áp dụng các quy định pháp luật có liên quan
đến hoạt động xác minh điều kiện THA.
3.2.1.1. Xác minh tài sản thi hành án của cá nhân
Thực tiễn hoạt động THA, CHV sẽ phân chia tài sản của người phải THA
thành 06 nhóm sau để thực hiện việc xác minh:
- Nhóm tài sản là tiền;
- Nhóm tài sản là giấy tờ có giá;
- Nhóm tài sản là bất động sản;
- Nhóm tài sản là động sản có đăng ký quyền sở hữu;
- Nhóm tài sản là động sản không có đăng ký quyền sở hữu;
82
- Nhóm tài sản là vốn góp của người phải thi hành án.
(i) Xác minh tiền của người phải thi hành án là cá nhân
Tiền của người phải THA là cá nhân thường được quản lý hoặc sử dụng theo
nhiều cách: có thể để trong tủ của gia đình, có thể đang tồn tại ở ngân hàng dưới
dạng tài khoản, có thể đang gửi ở ngân hàng dưới dạng tiết kiệm, hoặc đang cho
người khác vay...
- Đối với trường hợp người phải THA quản lý tiền dưới hình thức để trong tủ
của gia đình hoặc cất giữ trên người: CHV sẽ không thể xác minh được có hay
không có và có bao nhiêu tiền đang thuộc sở hữu của người phải THA với lý do,
pháp luật hiện hành không cho phép CHV được khám xét người hoặc tài sản được
cất giấu của người phải THA. CHV chỉ có quyền xem xét các tài sản mà CHV nhìn
thấy trong nhà của người phải THA mà không thể yêu cầu người phải THA mở
khóa, mở gói… để kiểm tra tiền cất giấu trong tủ, trong két sắt, trong ví… Trong
khi thực tế hoạt động quản lý tiền của người Việt Nam hình thức cất giữ tiền mặt
của các cá nhân đang hết sức phổ biến thì công tác xác minh theo quy định hiện
hành sẽ gây trở ngại cho CHV trong quá trình xác định điều kiện THA của người
phải THA.
- Đối với trường hợp tiền đang cho người khác vay: Đây cũng là một loại
hình xác minh gần như không đưa đến kết quả trong hoạt động THA. Thông
thường, việc vay mượn tiền mặt giữa các cá nhân với nhau được thực hiện dưới
hình thức “miệng”, hoặc giấy viết tay. Cả hai hình thức vay mượn này đều gây khó
khăn cho CHV trong việc xử lý với lý do nếu người thứ ba không hợp tác với CHV
để tự nguyện thanh toán tiền cho người phải THA thì CHV cũng không có căn cứ
cưỡng chế THA đối với người thứ ba để THA. Vì vậy, thực tế, nếu được cung cấp
thông tin về việc người phải THA có khoản tiền đang cho người khác vay, CHV chỉ
có thể làm việc với người vay tiền của người phải THA, nếu người này công nhận
khoản vay thì CHV ghi nhận vào biên bản xác minh, nếu người này không công
nhận khoản vay thì CHV cũng không có cách nào để xác thực thông tin về khoản
vay, dù có “chứng cứ” là giấy viết tay của hai bên.
- Đối với trường hợp tiền đang để ở Ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng
khác dưới dạng tiết kiệm hoặc tài khoản: So với hai hình thức được phân tích ở trên,
hình thức này có vẻ dễ dàng hơn cho CHV do “người thứ ba” quản lý tiền của
người phải THA là một tổ chức được Nhà nước trao cho một quyền hạn đặc biệt là
83
quyền quản lý tiền của tổ chức, cá nhân khác. Tuy nhiên, thực tế hoạt động xác
minh tài khoản tại Ngân hàng, tổ chức tín dụng không phải là một hoạt động dễ
dàng của CHV. Như thực trạng công tác xác minh đã được NCS phân tích trong mục
3.1.2.3 của luận án.
(ii) Xác minh tài sản là giấy tờ có giá của người phải THA
Theo Khoản 8 Điều 6 Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010: “Giấy tờ có
giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá
với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các
điều kiện” [71, Điều 6].
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22
tháng 2 năm 2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm thì: “Giấy tờ có giá bao
gồm: Cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc,
chứng chỉ quỹ, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật, trị giá được thành
tiền và được phép giao dịch” [24, khoản 1 Điều 1].
Thực tế, tùy thuộc vào từng loại giấy tờ có giá mà CHV sẽ tiến hành xác
minh qua những đối tượng nào, xác minh tại đâu và xác minh những nội dung gì.
Ngoài ra, bản thân giấy tờ có giá hiện nay cũng tồn tại dưới hai dạng: giấy tờ có giá
có ghi danh và giấy tờ có giá không ghi danh nên việc xác minh của CHV cũng phụ
thuộc vào đặc điểm này của giấy tờ có giá.
Đối với giấy tờ có giá không ghi danh thì việc xác minh giấy tờ có giá của
người phải THA cũng khó khăn như xác minh tiền đang do người phải THA giữ.
Việc xác minh này chỉ thực sự hiệu quả khi người phải THA tự nguyện kê khai tài
sản hoặc tự nguyện xuất trình tài sản, còn nếu người phải THA cố tình giấu diếm thì
CHV không có bất kỳ một biện pháp nào để có thể xác minh được tài sản là giấy tờ
có giá không ghi danh thuộc sở hữu của người phải THA.
Đối với giấy tờ có giá có ghi danh thì việc xác minh của CHV cũng không dễ
dàng bởi phụ thuộc vào việc cung cấp thông tin của các cơ quan, tổ chức phát hành
giấy tờ có giá hoặc các công ty chứng khoán hoặc người phải THA. Nếu các cơ quan
này không phối hợp thì CHV cũng không thể kiểm tra qua bất kỳ một kênh thông tin
nào khác. Trong khi trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân này thì theo quy
định tại khoản 2 Điều 64 Nghị định 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 quy định xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân gia
đình, THADS, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính với
84
mức xử phạt từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng [25, Điều 64].
(iii) Xác minh tài sản là bất động sản của người phải THA
Theo quy định tại Bộ luật dân sự thì bất động sản bao gồm: đất đai; nhà,
công trình xây dựng gắn liền với đất đai; tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công
trình xây dựng; tài sản khác theo quy định của pháp luật [76, Điều 107].
Trong thực tiễn hoạt động xác minh điều kiện THA, khi tiến hành xác minh
tài sản là bất động sản của người phải THA, CHV chủ yếu xác minh tài sản là đất
đai, nhà ở của người phải THA.
Khác với tài sản là động sản, người phải THA rất dễ tẩu tán, che giấu khiến
việc xác minh của CHV gặp phải những khó khăn thì tài sản là bất động sản có vẻ
như không thể gây khó khăn cho CHV trong công tác xác minh do đặc điểm của tài
sản này là không dễ di dời. Tuy vậy, trên thực tế, khi xác minh tài sản là bất động
sản, CHV vẫn gặp phải những khó khăn. Theo tác giả Phạm Văn Bằng hoạt động
xác minh tài sản là bất động sản có vướng mắc như “Khi yêu cầu các cơ quan quản
lý nhà nước như cơ quan tài nguyên môi trường, cơ quan quản lý nhà, cơ quan quy
hoạch đô thị,… cung cấp tài liệu, trích lục bản đồ, hồ sơ địa chính gặp không ít khó
khăn và luôn ở trong tình trạng không đúng thời hạn, có trường hợp yêu cầu các cơ
quan trên cung cấp nhưng không nhận được sự hợp tác…” [3].
Bản thân trong nội tại của quy định pháp luật liên quan đến tài sản là bất
động sản cũng gây không ít khó khăn cho CHV. Cụ thể như quy định về việc cấp
giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản là nhà, đất cho hộ gia đình.
Theo quy định tại Luật Đất đai thì hộ gia đình cũng là một chủ thể sử dụng đất,
thuộc diện được giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai.
Tuy nhiên, xác định các thành viên nào của hộ gia đình được thực hiện các quyền
đối với quyền sử dụng đất để CHV áp dụng các biện pháp tác nghiệp của mình là
một việc làm không dễ dàng. Khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 quy định
“Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi
dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có
quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công
nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất” [73, khoản 29 Điều 3].
Thực tế hoạt động THA cho thấy, việc xử lý tài sản của hộ gia đình sẽ khác hẳn với
việc xử lý tài sản chung của vợ chồng hoặc tài sản riêng của một cá nhân. Hiện nay,
còn tồn tại một thực trạng là tài sản được vợ và chồng của người phải THA nhận
85
chuyển nhượng từ một người khác nhưng trong giấy chứng nhận lại ghi cấp cho hộ
gia đình. Khi tiến hành xác minh thì trong hộ gia đình, ngoài vợ chồng người phải
THA còn có hai thành viên khác là hai đứa trẻ chưa đủ 15 tuổi. Thực tế này đặt ra
cho CHV một câu hỏi: trong kết quả xác minh CHV sẽ ghi đây là tài sản thuộc sở
hữu, sử dụng của người phải THA hay là tài sản thuộc sở hữu, sử dụng của hộ gia
đình? Nếu quyền sử dụng đất này do hộ gia đình của người phải THA được nhận
thừa kế, hoặc được tặng cho thì có thể hai đứa trẻ cũng được quyền sở hữu, sử dụng
hợp pháp đối với quyền sử dụng đất này nhưng nếu người phải THA bỏ tiền ra mua
thì liệu hai đứa trẻ có thể có quyền sở hữu, sử dụng đối với quyền sử dụng đất
không khi chúng không hề đóng góp công sức để tạo lập tài sản chung?
Bên cạnh đó, thực tiễn hoạt động cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
hiện nay cũng gây cho CHV những lúng túng trong hoạt động xác minh điều kiện
THA. Chẳng hạn, theo Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, tài sản phải đăng ký
quyền sở hữu, sử dụng nếu thuộc sở hữu chung của vợ chồng thì phải ghi tên của vợ
và chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác [74, Điều 34]. Nhưng trên
thực tế, rất nhiều tài sản chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng. Khi xác minh những trường
hợp như vậy, buộc CHV phải tìm hiểu thêm thông tin người phải THA đã có vợ
(hoặc chồng) chưa? Thời điểm kết hôn của họ? để xác định quyền sử dụng đất là tài
sản thuộc sở hữu chung hay thuộc sở hữu riêng của người phải THA. Đây là việc
làm gây mất thời gian, công sức của CHV, thậm chí, có những trường hợp CHV xử
lý nhầm tài sản do xác định đây chỉ là tài sản riêng của người phải THA, trong khi
đó, trách nhiệm chính phải thuộc về người đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, đáng lẽ ra họ mới là người phải minh định rõ tài sản này thuộc sở hữu của ai để
ghi vào giấy chứng nhận chứ không phải thuộc trách nhiệm của CHV phải đi tìm
chứng cứ để chứng minh đó là tài sản thuộc sở hữu riêng hay sở hữu chung của
người phải THA với người khác.
Một thực tế nữa cũng gây khó khăn cho hoạt động xác minh của CHV khi
xác định tài sản là bất động sản có thuộc sở hữu, sử dụng của người phải THA hay
không đó chính là tình trạng bất động sản chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Ngay cả trường hợp bất động sản đã ghi rõ cấp cho ai mà còn gây khó
khăn cho CHV thì việc khẳng định tài sản là bất động sản thuộc sở hữu, sử dụng
của ai khi chưa được cấp giấy lại càng gây nên những khó khăn, lúng túng trong
86
hoạt động tác nghiệp.
(iv) Xác minh tài sản là động sản có đăng ký quyền sở hữu của người phải THA
Trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay, vấn đề xác định một cách chính xác
người sở hữu đích thực của tài sản không phải là vấn đề dễ dàng. Thực tế, có nhiều
trường hợp, tài sản là của người phải THA nhưng khi xác minh tại cơ quan đăng ký
quyền sở hữu thì người khác đứng tên sở hữu. Đây là một thực tế mà CHV phải lưu
tâm để tránh việc kê biên hoặc xử lý tài sản trái pháp luật. Chỉ khi tài sản đó đích
thực mang tên người phải THA hoặc có những chứng cứ khác chứng minh rằng tài
sản đó đích thực là của người phải THA dù nó mang tên người khác thì CHV mới
được phép tiến hành kê biên hoặc xử lý tài sản. Vì vậy, khi tiến hành xác minh,
CHV phải xác minh được người sở hữu đích thực của tài sản.
Đây là vấn đề gây nên sự bức xúc của người được THA và cũng khiến người
phải THA có cơ hội để “nhởn nhơ” trêu đùa các cơ quan có thẩm quyền. Rõ ràng
biết người phải THA có tài sản, đang quản lý, sử dụng tài sản nhưng không thể xử
lý được do tài sản không đứng tên người phải THA.
Ngoài ra, do đây là loại tài sản có tính động, có nghĩa là chủ sở hữu có thể
dịch chuyển tài sản từ địa điểm này đến địa điểm khác. Điều này cũng gây khó khăn
không ít cho hoạt động xác minh tài sản của CHV. Cụ thể như vụ việc về chiếc tàu
cá của vợ chồng người phải THA là ông Lê Văn Tiến và bà Trần Thị Lân ở huyện
Hoài Nhơn tỉnh Bình Định đang được dư luận hết sức quan tâm trong thời gian gần
đây. Theo bản án ngày 3/12/2014 của Tòa án nhân dân huyện Hoài Nhơn tuyên
buộc vợ chồng ông Lê Văn Tiến và bà Trần Thị Lân phải trả cho vợ chồng ông
Nguyễn Thanh Hùng 2.636.725.000 đồng. Cơ quan THA huyện Hoài Nhơn đã ra
quyết định THA và tiến hành xác minh tài sản của ông Tiến, bà Lân tại Chi cục
Khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản Bình Định thì Chi cục này xác nhận ông
Tiến, bà Lân có chiếc tàu cá mang biển kiểm soát BĐ 96578 TS. Tuy nhiên, khi
CHV tiến hành xác minh trực tiếp chiếc tàu cá thì không tìm thấy chiếc tàu cá mang
biển kiểm soát BĐ 96578 TS tại cảng cá Tam Quan.
Chi cục THADS huyện Hoài Nhơn yêu cầu bên được THA là gia đình ông
Nguyễn Thanh Hùng cung cấp thông tin nơi hoạt động và nơi neo đậu của tàu cá
BĐ 96578 TS. Sau nhiều nỗ lực, vào ngày 6/7 vừa qua, ông Hùng phát hiện tại cảng
cá Tam Quan có neo đậu 1 tàu cá mang biển số BĐ 96633 TS, biển số này được nạo
87
sửa, mù mờ, một điều rất cấm kỵ với ngư dân.
Xác minh qua Chi cục Thủy sản Bình Định, tàu cá mang biển số BĐ 96633
TS là của ông Đào Minh Vương ở thôn Lâm Trúc, xã Hoài Thanh (Hoài Nhơn).
Ngay sau đó, ông Hùng liên lạc điện thoại với ông Đào Minh Vương thì được biết,
tàu BĐ 96633 TS của ông Vương đang hoạt động tại Bà Rịa-Vũng Tàu chứ không
có neo đậu tại cảng cá Tam Quan. Nghi ngờ đây là chiếc tàu cá BĐ 96578 TS của
ông Lê Văn Tiến đã được thay đổi biển số để dễ lẩn tránh, ngày 7/7 gia đình ông Hùng
làm đơn báo cáo với Chi cục THADS huyện Hoài Nhơn. Nhưng theo ông Huỳnh Quốc
Phong, Chi cục phó Chi cục THADS huyện Hoài Nhơn, khi đơn vị này đi kiểm tra thì
không thấy chiếc tàu BĐ 96633 TS neo đậu ở cảng cá Tam Quan nữa.
Ngày 23/6 vừa qua, Chi cục phát hành văn bản gửi đến Bộ đội Biên phòng các
tỉnh ven biển đề nghị tìm kiếm chiếc tàu cá BĐ 96578 TS để đưa về THA [31], [83].
Theo quy định tại Khoản 5 Điều 162 Luật THADS và điểm a khoản 5 Điều
52 Nghị định 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia
đình, THADS, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã thì đối với hành vi tẩu tán tài sản
để không thực hiện nghĩa vụ THA sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
20.000.000 đồng [25, Điều 52]. Nếu so sánh giữa mức xử phạt vi phạm hành chính
nói trên với nghĩa vụ phải THA là 2.636.725.000 đồng thì việc người phải THA lựa
chọn tẩu tán tài sản thay vì thi hành nghĩa vụ là điều có thể hiểu được.
Ông Nguyễn Xuân Hồng, Cục trưởng Cục THADS tỉnh Bình Định đã đánh
giá về vụ việc tẩu tán chiếc tàu cá nói trên như sau:
“Nếu tài sản THA là chiếc xe, cái nhà thì đã dễ, đằng này là chiếc tàu cá, nó
cứ lẩn trốn trên biển thì khó mà tìm ra. Vụ này cần có sự phối hợp của ngành Công
an, nên chúng tôi chỉ đạo Chi cục THADS huyện Hoài Nhơn có văn bản đề nghị
Công an huyện Hoài Nhơn xem xét trách nhiệm hình sự đối với 2 đương sự là ông
Lê Văn Tiến và bà Trần Thị Lân. Khi đưa ra truy tố hình sự chắc chắn đối tượng sẽ
phải mang tài sản về THA” [83].
Như vậy, có thể thấy nếu thiếu đi sự phối hợp chặt chẽ của cơ quan công an
và Viện kiểm sát thì cơ quan THA sẽ bị rơi vào tình trạng “tiếp tay” cho đương sự
88
tẩu tán tài sản do biết mà không thể xử lý hành vi vi phạm của người phải THA.
(v) Xác minh tài sản là động sản không có đăng ký quyền sở hữu của người
phải THA
Đây là loại tài sản mà người phải THA rất dễ tẩu tán, bởi vì đối với loại tài
sản này, CHV rất khó xác định được tài sản đó là tài sản của người phải THA. Vì
vậy, thực tế công tác xác minh điều kiện THA, khi phát hiện tài sản đó đang do
người phải THA nắm giữ thì CHV mặc nhiên coi tài sản đó thuộc quyền sở hữu của
người phải THA. CHV chỉ chấp nhận tài sản đó không phải là của người phải THA
khi chủ sở hữu đích thực của tài sản chứng minh được đó là tài sản của họ. Các tài
sản là động sản không có đăng ký quyền sở hữu mà CHV xác minh thông thường là
các vật dụng sinh hoạt trong gia đình như ti vi, tủ lạnh, máy giặt, nồi cơm điện, các
vật dụng trang trí, thờ cúng… Tuy nhiên, trong thực tế, khi tiến hành xác minh các
tài sản này CHV thường gặp những lúng túng sau:
- Thứ nhất, do pháp luật không có quy định thế nào gọi là đồ dùng sinh hoạt
cần thiết, đồ dùng thờ cúng thông thường theo tập quán của địa phương nên CHV
rất “e ngại” ghi nhận những tài sản này trong biên bản xác minh. Vì vậy, hầu hết,
trong quá trình ghi biên bản xác minh, CHV đều ghi một cách chung chung về tài
sản của người phải THA như “trong nhà người phải THA có các đồ dùng sinh hoạt
cần thiết như ti vi, tủ lạnh, bàn, ghế…”. Xét về mặt nguyên tắc, khi ghi biên bản xác
minh, CHV phải ghi cụ thể các đồ dùng sinh hoạt là đồ dùng gì. Ví dụ, ti vi là loại ti
vi gì? Bàn ghế gì? Tủ lạnh gì?... Bởi lẽ, thực tế hiện nay có những loại ti vi, tủ lạnh,
bàn ghế có giá trị lớn, những tài sản này liệu có thể coi là đồ dùng sinh hoạt cần
thiết hay không thì pháp luật chưa có quy định cụ thể.
- Thứ hai, theo tập quán sinh hoạt của người Việt Nam, tình trạng “tam đại
đồng đường” hay “tứ đại đồng đường” vẫn còn phổ biến thì việc phân định tài sản
là đồ dùng sinh hoạt thuộc sở hữu riêng của người phải THA hay thuộc sở hữu
chung của người phải THA với những người sống trong gia đình là việc CHV
không thể làm được. Vì khó khăn đó, CHV thường lựa chọn “bỏ qua” tài sản này
trong biên bản xác minh để tránh những hậu quả khó xử lý về sau.
(vi) Xác minh tài sản là phần vốn góp của người phải THA
Phần vốn góp cũng là một loại tài sản thuộc sở hữu của người phải THA.
Tuy nhiên, đây là một loại tài sản hết sức đặc biệt thuộc sở hữu của người phải
THA. Sự đặc biệt của loại tài sản này là ở tính “động” của giá trị tài sản. Như chúng
89
ta đã biết, giá trị tài sản của một doanh nghiệp ở từng thời điểm khác nhau là khác
nhau, điều này phụ thuộc vào hiệu quả của hoạt động sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp trong từng thời điểm. Vì vậy, phần vốn góp của người phải THA
trong doanh nghiệp cũng sẽ thay đổi theo giá trị của doanh nghiệp.
Khi tiến hành xác minh tài sản là phần vốn góp, CHV thường gặp phải sai lầm đó
là tiến hành xác minh các tài sản mà người phải thi hành đã góp vốn vào doanh nghiệp
và coi đó như là phần vốn góp thuộc sở hữu của người phải THA. Đây là một quan niệm
sai lầm, bởi khi tài sản đã hoàn tất thủ tục góp vốn thì tài sản này không còn thuộc sở
hữu, sử dụng của người phải THA mà thuộc sở hữu của doanh nghiệp.
Tác giả Hồ Quân Chính đã nêu một vụ việc thực tế về việc xử lý phần vốn
góp của người phải thi hành như sau:
Ông A là người phải THA trả cho ông B số tiền 1,5 tỷ đồng. Trong quá trình
thi hành án CHV xác minh biết ông A có căn nhà đang ở trị giá khoảng 450 triệu
đồng đang là thành viên của Công ty TNHH SL có số vốn góp vào Công ty SL là
2,5 tỷ đồng, cụ thể là ông A đã góp 500 triệu đồng tiền mặt, một chiếc xe ôtô trị giá
350 triệu đồng và quyền sử dụng đất trị giá 1,56 tỷ đồng (thủ tục góp vốn đã hoàn
tất theo quy định pháp luật).
Do ông A không tự nguyện THA nên CHV đã tiến hành kê biên, phát mãi
căn nhà của ông để THA. Nhưng số tiền phát mãi căn nhà không đủ để thi hành nên
CHV tiếp tục kê biên giá trị quyền sử dụng đất mà ông A đã góp vốn vào Công ty
SL. Khi tiến hành cưỡng chế kê biên (đại diện Công ty SL không đồng ý với quyết
định kê biên) CHV đã thông báo cho đại diện theo pháp luật của Công ty SL
biết quyền khởi kiện yêu cầu Toà án xác định phần sở hữu của Công ty đối với tài
sản bị kê biên [20].
Trong vụ việc trên, rõ ràng, sai lầm của CHV không phải xuất phát từ quy
định của pháp luật mà xuất phát từ hiểu biết của CHV đối với tài sản là phần vốn
góp. Nếu CHV hiểu biết hơn về quyền sở hữu tài sản đối với chủ thể là doanh
nghiệp, CHV sẽ không cần làm rõ ông A đã góp những tài sản gì mà chỉ cần quan
tâm ông A đã góp bao nhiêu vốn vào doanh nghiệp và số vốn cam kết góp đã góp đủ
vào doanh nghiệp hay chưa. Để giải quyết sai lầm này cần có sự vào cuộc của cơ quan
quản lý THADS trong việc xây dựng kế hoạch đào tạo và tập huấn nghiệp vụ thường
xuyên để nâng cao năng lực cho CHV trong việc xác minh và xử lý các tài sản có tính
90
chất đặc thù.
Ngoài ra, khi tiến hành xác minh tài sản là phần vốn góp của người phải
THA, CHV cũng gặp phải khó khăn trong việc xác định giá trị của phần vốn góp
đó. Bởi lẽ, để quyết định xử lý bao nhiêu phần vốn góp, CHV phải xác định được
phần vốn góp đó có giá trị là bao nhiêu tại thời điểm xác minh. Tuy nhiên, để xác
định được giá trị phần vốn góp, CHV lại phải xác định tổng giá trị tài sản hiện có
của doanh nghiệp. Đây là một việc làm không đơn giản, đòi hỏi phải có sự phối hợp
của chính doanh nghiệp nơi người phải THA góp vốn, trong khi đó, chế tài đối với
“người thứ ba” là doanh nghiệp này lại không được quy định một cách cụ thể.
Trong trường hợp này, không thể coi doanh nghiệp là chủ thể có trách nhiệm cung
cấp thông tin để xử phạt vi phạm hành chính theo khoản 6 Điều 162 Luật THADS
và cũng không thể coi doanh nghiệp là người phải THA để yêu cầu thực hiện trách
nhiệm kê khai, cung cấp thông tin về tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 44 Luật
THADS. Đây chính là một kẽ hở của pháp luật khiến cho việc xác minh của CHV
gặp nhiều khó khăn khi xác minh tài sản là phần vốn góp của người phải THA.
3.2.1.2. Xác minh tài sản THA của doanh nghiệp
Trong hoạt động THADS, người phải THA không chỉ là cá nhân mà còn là
cơ quan, tổ chức. Chủ thể là cơ quan, tổ chức bao gồm doanh nghiệp và các cơ
quan, tổ chức khác như các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, các tổ chức
chính trị - xã hội. Trong luận án này, tác giả chỉ đề cập tới công tác xác minh đối
với chủ thể phải THA là doanh nghiệp.
Trong bài viết “Thiếu thuốc chữa doanh nghiệp chây ỳ THA” đăng trên trang
tin của Công ty luật hợp danh Niềm Tin Việt đã đưa ra hai vụ việc về tình trạng
THA đối với doanh nghiệp như sau:
“Tháng 7-2012, Công ty N khởi kiện Công ty P đòi hơn 100 triệu đồng tiền
mua vật tư thiết bị thi công công trình. Trong buổi hòa giải, Công ty P chấp nhận trả
nợ như đơn khởi kiện nên TAND quận Bình Thạnh (TP.HCM) ra quyết định công
nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Sau khi quyết định có hiệu lực pháp luật, Công
ty N làm đơn yêu cầu THA. Mặc dù Công ty P vẫn hoạt động bình thường nhưng cơ
quan THADS không thể thi hành theo những gì mà công ty N đã yêu cầu vì tài khoản
của Công ty P không có tiền ngoài ít bộ bàn ghế còn lại ở công ty…
Tương tự, tháng 6-2010, bà Đ ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn
với Văn phòng công chứng D trên địa bàn quận Thủ Đức (TP.HCM). Trong quá
91
trình làm việc, hai bên nảy sinh mâu thuẫn nên ngày 15-3-2011, văn phòng công
chứng cho bà Đ nghỉ việc. Tháng 9-2011, TAND quận Thủ Đức xử sơ thẩm, tuyên
hủy quyết định của văn phòng công chứng; buộc phía này trả gần 50 triệu đồng cho
phía bà Đ. Sau khi nhận đơn yêu cầu THA của bà Đ, CHV đã trả lại đơn yêu cầu vì
văn phòng này không có tài sản, không có tài khoản mở tại ngân hàng (dù văn
phòng vẫn hoạt động bình thường).
CHV Trần Quốc Khánh, Chi cục THADS quận 8 (TP.HCM), phân tích Luật
THADS hiện nay vẫn thiếu chế tài đối với những trường hợp nêu trên. Nếu xác định
doanh nghiệp đó vẫn còn hoạt động thì CHV sẽ làm việc với đối tác của công ty
phải THA để xem giá trị của hợp đồng hợp tác làm ăn, thanh toán bằng cách nào
nhằm lần tìm tài khoản của công ty này. Tuy nhiên, việc này cũng không phải dễ vì
CHV khó mà biết được công ty đó đang làm ăn với đối tác nào. Hoặc như Văn
phòng công chứng D nói trên, họ không thực hiện chuyển khoản mà thu phí trực
tiếp bằng tiền thì CHV cũng không biết đường nào để THA.
Ông Lê Minh Tánh, Chi cục trưởng Chi cục THADS quận 9 (TP.HCM) - nơi
trực tiếp thi hành bản án của bà Đ, cho biết cơ quan THADS sẽ áp dụng biện pháp
cưỡng chế THA trong trường hợp tổ chức, doanh nghiệp đó có tài sản mà không
chịu tự nguyện THA. Ngược lại, mặc dù doanh nghiệp, tổ chức đó vẫn hoạt động
nhưng khi xác minh mà không phát hiện được tiền, tài sản có giá trị thì cơ quan
THA buộc phải trả lại đơn yêu cầu THA. Khi phát hiện tổ chức, doanh nghiệp đó có
tài sản thì người được THA phải làm đơn yêu cầu THA lại. Trường hợp cụ thể của
bà Đ thì cơ quan THADS quận 9 đã xác minh nhưng văn phòng công chứng không
có tài sản nên đành chịu...” [114].
Trên đây là các ví dụ rất sống động về thực trạng THA đối với doanh nghiệp
nói chung và thực trạng xác minh điều kiện THA của doanh nghiệp nói riêng. Trong
thực tế, việc xác minh tài sản THA của doanh nghiệp là việc xác minh khó khăn
nhất mà CHV phải đối mặt. Khó khăn này xuất phát từ hai nguyên nhân: nguyên
nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan.
Nguyên nhân chủ quan chính là trình độ chuyên môn nghiệp vụ của CHV.
Như chúng ta đã biết, một trong những điều kiện để CHV được bổ nhiệm là phải có
trình độ cử nhân Luật trở lên, trong khi đó, để nắm được tình hình tài sản của doanh
nghiệp, CHV phải hiểu về cơ cấu quản lý vốn và tài sản của doanh nghiệp. Nhiều
CHV khi tiếp xúc với Báo cáo tài chính của doanh nghiệp không thể hiểu được nội
dung của báo cáo đó, chưa nói đến việc có thể khai thác được thông tin từ báo cáo
92
tài chính.
Nguyên nhân khách quan là quy định của pháp luật về quản lý doanh nghiệp.
Theo quy định, các tổ chức, cá nhân muốn thành lập doanh nghiệp chỉ cần thực hiện
các thủ tục hết sức đơn giản mà không bị kiểm soát chặt nguồn thu hoặc tài khoản
của doanh nghiệp nên tình trạng doanh nghiệp “ma” hoặc doanh nghiệp “rỗng” do
chủ doanh nghiệp đã kịp tẩu tán tài sản như các ví dụ trên là hết sức phổ biến khi
THA đối với doanh nghiệp.
3.1.3.2. Xác minh thu nhập của người phải thi hành án
Hiểu theo nghĩa chung nhất thì thu nhập là khoản tiền, của cải vật chất mà
con người có được từ một công việc, một nguồn nào đó để chi dùng cho cuộc sống
trong một khoảng thời gian nhất định. Nó có thể là thu nhập từ hoạt động sản xuất
kinh doanh, thu nhập từ tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp, thu nhập từ đầu
tư, chuyển nhượng vốn, bất động sản; thu nhập từ trúng thưởng; thu nhập từ bản
quyền, nhường quyền thương mại; thu nhập từ nhận thừa kế, từ nhận quà tặng...
Tuy nhiên, giới hạn mà chúng tôi muốn đề cập đến trong khái niệm xác minh thu
nhập ở đây là chỉ những thu nhập mang tính chất thường xuyên, ổn định của người
phải THA.
Theo Khoản 1 Điều 78 Luật THADS thì "Thu nhập của người phải THA
gồm tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao động và thu nhập
hợp pháp khác". Như vậy, những khoản thu nhập được phép áp dụng biện pháp
cưỡng chế này bao gồm:
- Tiền lương: là khoản tiền trả cho cán bộ, công chức làm việc trong các cơ
quan nhà nước, các tổ chức chính trị và chính trị xã hội, được trả từ ngân sách nhà
nước, trả qua hệ thống kế toán tài vụ của cơ quan, tổ chức nơi cán bộ, công chức đó
làm việc. Lương, bảng lương, hệ số lương... đều được thể hiện rõ trên sổ sách kế
toán của cơ quan. Theo quy định của pháp luật hiện hành, thông thường cứ ba năm
cán bộ, công chức sẽ được nâng lương một lần theo ngạch mà công chức, cán bộ đó
đang được hưởng. Như vậy, mức lương sẽ được tăng lên theo thời gian. Ngoài mức
lương chính cán bộ, công chức còn có thể có phụ cấp, chẳng hạn như phụ cấp chức
vụ, phụ cấp nghề nghiệp, phụ cấp vùng miền...
- Tiền công: là khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động
theo sự thỏa thuận hoặc theo hợp đồng lao động,... ví dụ, thu nhập của người giúp
việc; cán bộ, công nhân trong các tổ chức kinh tế, các văn phòng dự án,… Khái
93
niệm tiền công có nội hàm rộng hơn và bao hàm cả tiền lương. Tuy nhiên, từ trước
tới nay khái niệm tiền lương thường được sử dụng trong môi trường công, còn tiền
công thường được sử dụng trong môi trường tư. Như vậy, tiền lương và tiền công là
hai thuật ngữ khác nhau về tên gọi, nhưng về bản chất thì không khác nhau, đều là
khoản tiền do người sử dụng lao động chi trả cho người lao động tương ứng với
công sức của người lao động bỏ ra.
- Tiền lương hưu hoặc trợ cấp mất sức lao động: là khoản tiền trả cho cán bộ,
công chức đã làm việc trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị và chính trị
xã hội sau khi đã đủ năm công tác và đã đủ tuổi nghỉ hưu hoặc theo quy định của
pháp luật, họ được hưởng theo chế độ hưu trí hoặc mất sức lao động.
- Các thu nhập hợp pháp khác là các khoản thu nhập của người phải THA
không phải là thu nhập từ tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức
lao động nhưng không phải là những khoản thu nhập bất thường như: do được tặng
cho, thừa kế, trúng xổ số... vì đây không phải là thu nhập mang tính thường xuyên,
ổn định của người phải THA.
Thực tế, khi tiến hành xác minh loại tài sản là thu nhập của người phải THA,
CHV thường gặp phải sự phản ứng của Bảo hiểm xã hội, cơ quan quản lý thu nhập
của người phải THA. Tuy nhiên, sau khi xây dựng được Thông tư liên tịch số
02/2014/TTLT-BTP-BTC-BLĐTBXH-NHNNCN ngày 14/01/2014 hướng dẫn việc
cung cấp thông tin về tài khoản, thu nhập của người phải THA và thực hiện phong
tỏa, khấu trừ để THADS thì tình trạng khó khăn trong xác minh và xử lý thu nhập
của người phải THA đã được tháo gỡ.
3.1.3.3. Xác minh điều kiện thi hành án khác
Xác minh điều kiện THA có vai trò quan trọng đối với hầu hết các giai đoạn
khác nhau của quá trình THADS. Kết quả xác minh sẽ là cơ sở, định hướng để
CHV tổ chức thi hành theo đúng quy định pháp luật, trên cơ sở kết quả xác minh
một cách toàn diện và đầy đủ, CHV có thể xử lý hồ sơ theo hướng: ủy thác THA,
đình chỉ THA, đưa vào loại việc chưa có điều kiện THA hay CHV có thể áp dụng
các biện pháp bảo đảm hoặc áp dụng các biện pháp cưỡng chế THA. CHV có xác
minh khách quan, chính xác, đầy đủ, đúng luật định về điều kiện THA của người
phải THA, thì mới có kế hoạch, phương án trực tiếp tổ chức THA và tổ chức THA
đạt hiệu quả cao. Theo quy định tại khoản 4 Điều 20 Luật THADS thì CHV có
nhiệm vụ, quyền hạn “xác minh tài sản, điều kiện THA của người phải THA”. Tùy
94
thuộc vào phán quyết của Tòa án, CHV xác định cần xác minh tài sản của người
phải THA hay xác minh những điều kiện THA khác. Để thi hành nghĩa vụ trả vật,
giao nhà, chuyển quyền sử dụng đất, buộc thực hiện hoặc không thực hiện công
việc nhất định… CHV phải xác minh điều kiện THA của người phải THA.
Để tổ chức THA hiệu quả thì xác minh điều kiện THA là một khâu vô cùng
quan trọng và không thể không thực hiện trong quá trình THA. Mặc dù, pháp luật
không có quy định một cách cụ thể về nội dung xác minh, nhưng thực tiễn THA,
các CHV căn cứ vào trình tự, thủ tục thi hành đối với từng loại nghĩa vụ THA đã
được pháp luật quy định để xác định những nội dung cần xác minh trong quá trình
tổ chức THA.
3.2.3.1. Xác minh điều kiện thi hành án để thi hành nghĩa vụ trả vật, giấy tờ
Điều 114 Luật THADS quy định về thủ tục cưỡng chế trả vật có quy định
cách thức xử lý riêng đối cưỡng chế trả vật đặc định và vật cùng loại, xử lý trường
hợp vật không còn hoặc bị hư hỏng, giảm giá trị… Điều 116 Luật THADS quy định
về cưỡng chế giao, trả giấy tờ có quy định cách thức xử lý riêng đối với giấy tờ có
thể cấp lại và giấy tờ không thể cấp lại, xử lý trường hợp giấy tờ không thể thu
hồi… Thực tiễn, CHV căn cứ vào những quy định trên để từ đó xác định các nội
dung cần xác minh:
(i) Thứ nhất, xác minh vật phải trả
CHV xác minh xem vật phải trả có còn không? Nếu vật còn CHV đánh giá
chi tiết hiện trạng vật về số lượng, chất lượng, chủng loại, xác định vật có phải là
vật đã tuyên trong bản án, quyết định hay chỉ là vật cùng loại hoặc từ thời điểm xét
xử đến thời điểm xác minh vật đó đã bị hỏng hóc, thay thế gì chưa... Để đánh giá
được hiện trạng của vật, thông thường CHV phải mời cơ quan chuyên môn để đánh
giá giá trị sử dụng của vật tại thời điểm xác minh. Đồng thời, CHV sẽ xác minh
xem vật phải trả đang được quản lý trong tình trạng như thế nào? Bỏ ngoài trời hay
trong nhà? Vật đó có đang tranh chấp hay không? Nếu vật phải trả không còn, phải
xác minh rõ lý do không còn, đồng thời CHV xác minh tài sản khác hiện có do
người phải THA đang quản lý để đề phòng trường hợp người được THA đề nghị cơ
quan THA giao vật khác thay thế.
(ii) Thứ hai, xác minh về người quản lý vật
Trong quá trình xác minh, CHV cần xác minh xem người đang quản lý vật
đó là ai, có đúng là chủ thể có nghĩa vụ THA không? Vật có bị cầm cố, thế chấp
95
không?... Nếu vật đã bị cầm cố, thế chấp thì hiện tại vật đang do ai quản lý?...
Đối với nghĩa vụ trả giấy tờ, khi xác minh điều kiện THA, CHV xác minh
xem giấy tờ đó hiện còn không? Nếu còn thì tình trạng như thế nào? Đang do ai
quản lý? Giấy tờ đó có thể cấp lại được không?...
Đây là nội dung xác minh đòi hỏi sự phối hợp của người phải THA hoặc
người quản lý vật phải trả. Thực tế, CHV rất khó xác minh do không có sự phối hợp
của người phải THA. Trong khi đó, chế tài để xử phạt hành vi không phối hợp này
không đảm bảo tính răn đe khiến người phải THA phải phối hợp như đã phân tích ở
các phần trên.
3.2.3.2. Xác minh điều kiện thi hành để thi hành nghĩa vụ trả nhà, giao nhà
Đây là trường hợp thi hành nghĩa vụ giao nhà theo bản án, quyết định và bản
án, quyết định cũng đã tuyên rõ nhà phải giao ở địa điểm nào, diện tích cụ thể,
người đang quản lý, sử dụng tài sản… Để thi hành nghĩa vụ giao nhà, CHV xác
minh những nội dung sau:
- Xác minh thực trạng nhà phải giao và người quản lý, sử dụng nhà đó. CHV xác
minh rõ những vấn đề liên quan để thuận lợi cho việc THA như:
+ Vị trí cụ thể của nhà phải giao, số phòng, diện tích sử dụng;
+ Tình trạng nhà phải giao: Xem xét thực trạng nhà hiện tại có đúng như
trong bản án đã tuyên không, người phải THA có sửa chữa, xây dựng thêm hoặc
phá dỡ phần nào không, nếu có thì thời điểm thực hiện công việc đó là thời điểm
nào, trước khi có bản án hay sau khi có bản án và người được THA có biết
không…;
+ Nhà phải giao đang do ai quản lý, sử dụng và sử dụng vào mục đích gì, ở,
cho thuê, hay bỏ không, gia đình thuê, mượn, ở nhờ là ai, nhân hộ khẩu, nghề
nghiệp…;
+ Giấy tờ nhà hiện do ai nắm giữ;
+ Các nhân khẩu đang sinh sống trong nhà phải giao là những ai, có người
già, trẻ em hay đối tượng chính sách không…;
+ Các tài sản trong nhà bao gồm những tài sản gì? Để xác minh nội dung
này, CHV phải đến trực tiếp xem xét để có phương án liệt kê, đóng gói vận chuyển
tài sản đảm bảo không để mất mát, đổ vỡ, hư hỏng.
- Xác minh nơi ở khác của người phải THA. Trường hợp người phải THA
không tự nguyện giao nhà cho người được THA, CHV sẽ tiến hành cưỡng chế buộc
96
họ phải ra khỏi nhà, trong trường hợp này, cần phải có địa chỉ cụ thể để chuyển tài
sản của người phải THA và gia đình họ về nơi ở mới đó. Chính vì vậy, CHV phải
xác minh xem ngoài nơi ở hiện tại người phải THA có còn nơi ở nào khác không.
Nếu người phải THA vẫn còn nơi ở khác thì CHV xác minh xem nơi ở đó hiện tại
như thế nào? Đang do ai quản lý, sử dụng…? Nếu người phải THA không còn nơi ở
nào khác mà người được THA tạo điều kiện như mua, thuê một chỗ ở khác cho
người phải THA thì CHV cũng phải tiến hành xác minh xem nơi ở đó như thế
nào… để thuận lợi cho việc THA.
Để xác minh nội dung này, CHV buộc phải vào được nhà của người phải
THA để tiến hành xác minh. Tuy nhiên, thực tế quá trình xác minh cho thấy, CHV
thường gặp phải sự phản đối của người phải THA, trong khi pháp luật về THADS
không có quy định về việc CHV được huy động lực lượng bảo vệ khi tiến hành xác
minh, đồng thời, vấn đề chi phí cũng thiếu rõ ràng khiến CHV khó khăn khi áp
dụng. Cụ thể, theo quy định tại Điều 73 Luật THADS thì chi phí xác minh điều kiện
THA do nhà nước chi trả và trong quy định của Thông tư 200/2016/TT-BTC quy
định về việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm hoạt động của cơ
quan THADS, kinh phí cưỡng chế THADS thì chi phí xác minh điều kiện THA
được quy định ở Điều 8 “mức chi cưỡng chế THADS” khiến CHV băn khoăn về
việc có được phép áp dụng mức chi này cho việc huy động lực lượng khi xác minh
điều kiện THA không [7, Điều 8].
3.2.3.3. Xác minh điều kiện THA để thi hành nghĩa vụ chuyển giao quyền sử
dụng đất
Đây là trường hợp thi hành nghĩa vụ chuyển giao quyền sử dụng đất theo bản
án, quyết định và bản án, quyết định cũng đã tuyên rõ vị trí, diện tích, tứ cận đất phải
chuyển giao. Tại Điều 117 Luật THADS quy định về cưỡng chế chuyển giao quyền sử
dụng đất trong đó quy định cách thức xử lý đối với các trường hợp cụ thể phát sinh như
tài sản gắn liền với đất hình thành sau khi có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật,
tài sản gắn liền với đất có trước khi có bản án, quyết định sơ thẩm… Thực tiễn THA,
CHV căn cứ vào quy định trên để xác minh những nội dung sau:
- Vị trí, diện tích, tứ cận đất phải giao có đúng với bản án, quyết định không?
Để xác minh, CHV đến nơi có đất để xem xét về vị trí, diện tích cũng như
ranh giới đất. Quá trình xác minh này, CHV không những phải trực tiếp xác minh
tại nơi phải THA mà còn phải xác minh cả những hộ liền kề, đồng thời khi xác
97
minh phải có sự tham gia của chính quyền địa phương.
- Xác minh giấy tờ liên quan đến quyền sử dụng đất.
Để xác minh, CHV phải trực tiếp đến tận nơi để xác minh về giấy tờ liên
quan đến quyền sử dụng đất. Người phải THA có trách nhiệm xuất trình cho CHV
các giấy tờ này. Trong trường hợp người phải THA không xuất trình, từ chối cung
cấp thông tin thì CHV xác minh tại UBND xã, phường, thị trấn hoặc văn phòng
đăng ký quyền sử dụng đất, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý nhà đất.
- Xác minh về tài sản có trên đất, trên đất phải giao có tài sản hay không, nếu
có thì tài sản đó có trước hay sau khi có bản án; số lượng, chủng loại, tình trạng
từng loại tài sản có trên đất.
CHV sẽ gặp khó khăn khi phải xác minh thời điểm xuất hiện tài sản trên đất
bởi lẽ việc xác định thời điểm này sẽ quyết định cách thức CHV xử lý đối với tài
sản cũng như cách thức thi hành bản án, quyết định. Theo khoản 2 Điều 117 Luật
THADS thì nếu tài sản có trước khi có bản án, quyết định sơ thẩm nhưng bản án,
quyết định được thi hành không tuyên rõ việc xử lý đối với tài sản đó thì cơ quan
THADS yêu cầu Toà án đã ra bản án, quyết định giải thích rõ việc xử lý đối với tài
sản hoặc đề nghị Toà án có thẩm quyền xem xét lại nội dung bản án theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm. Tuy nhiên, pháp luật về THADS lại không có quy định cụ
thể về vấn đề này nên trên thực tế, CHV căn cứ vào lời trình bày của đương sự để
xác định thời điểm có tài sản khiến cho việc xác minh của CHV thiếu tính chính xác
nếu cần phải đề nghị Toà án xem xét lại nội dung bản án theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm.
Chẳng hạn như, có nhiều trường hợp bản án tuyên cưỡng chế chuyển giao
quyền sử dụng đất và một số tài sản trên đất. Quá trình xác minh đối với tài sản trên
đất CHV xác minh sơ sài, chung chung, không xác minh một cách cụ thể các loại tài
sản trên đất, trong khi đó có một số tài sản trên đất có trước khi có bản án sơ thẩm
nhưng Tòa án khi giải quyết đã không xem xét và không tuyên trong bản án. Và do
xác minh không cẩn thận nên CHV đã ra quyết định cưỡng chế. Sau khi nhận được
quyết định cưỡng chế THA thì người phải THA đã có khiếu nại về việc xử lý của
CHV… Cụ thể như vụ việc bà Lê Thị Minh Đức, theo bản án dân sự sơ thẩm của
Tòa án nhân dân huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên và bản án dân sự phúc thẩm của
Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên tuyên “Bà Nguyễn Thị Xoa phải giao diện tích đất
251,8m2 tại tờ bản đồ số 13 số thửa 234 ở thôn Triều Dương, xã Hải Triều hiện
98
mang tên ông Vũ Văn Trung trong sổ địa chính cho bà Đức được quản lý sử dụng.
Bà Đức hỗ trợ cho ông Trung 60 triệu đồng tiền công duy trì, tôn tạo mảnh đất và
nhà…”. Ngay sau khi bản án có hiệu lực, bà Đức đã nghiêm chỉnh thực hiện quyết
định của bản án, đã nộp 60 triệu đồng tại Chi cục THA huyện Tiên Lữ để thanh toán
cho ông Trung. Đồng thời, tiến hành làm các thủ tục cần thiết theo quy định của
pháp luật để yêu cầu THA tại Chi cục THADS huyện Tiên Lữ. Sau đó, bà Đức nhận
được giấy triệu tập số 353/GB-THA ra ngày 6/5/2015 của Chi cục THA huyện Tiên
Lữ, với nội dung là vào 7 giờ ngày 13/5/2015 yêu cầu có mặt tại thôn Triều Dương,
xã Hải Triều (nhà bà Nguyễn Thị Xoa) để nhận quyền sử dụng đất theo bản án số
38/2014/PTDS ngày 21/7/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên tuyên đã có
hiệu lực. Tuy nhiên, sau đó, bà Đức lại nhận được thông báo số 362/TB-CCTHA
của Chi cục THADS huyện Tiên Lữ đề ngày 12/5/2015 với nội dung tạm hoãn lùi
thời gian cưỡng chế THA để xin ý kiến Cục THADS tỉnh Hưng Yên. Tiếp đó, ngày
14/8/2015, bà Đức nhận được văn bản của Chi cục THADS huyện Tiên Lữ số
519/QĐ-CCTHA gửi Chánh án Tòa án cấp cao và Viện trưởng Viện kiểm sát Cấp
cao tại Hà Nội xem xét lại bản án số 38/DS-PT ngày 21/7/2014 của TAND tỉnh
Hưng Yên theo thủ tục giám đốc thẩm. Sau những sự việc này, bà Đức đã lên Tòa
án nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát cấp cao và Tổng cục THADS khiếu nại [52].
Qua tìm hiểu thực tế được biết, sở dĩ, Chi cục THADS huyện Tiên Lữ không THA,
mà lại kiến nghị giám đốc thẩm bản án là do xác minh có một số cây cối trên đất,
gồm: 01 cây nhãn, 01 cây khế, 01 cây roi là cây lâu năm mà bản án không tuyên
giao cho ai. Thiết nghĩ, ngay từ đầu khi tổ chức THA cơ quan THA đã phải xác
minh được những cây cối này trên đất và có cách xử lý ngay từ đầu chứ không để ra
quyết định cưỡng chế THA rồi sau đó vì lý do này mà hoãn cưỡng chế THA, rồi sau
đó mới kiến nghị giám đốc thẩm bản án, dẫn đến khiếu nại của người được THA.
Để giải quyết thực trạng trên, thiết nghĩ pháp luật về THADS cần phải quy
định một cách cụ thể về nội dung xác minh điều kiện THA để các CHV căn cứ vào
đó tiến hành xác minh.
3.2.3.4. Xác minh điều kiện THA để thi hành nghĩa vụ buộc thực hiện hoặc
không thực hiện công việc nhất định
Đây là loại nghĩa vụ liên quan đến nhân thân của người phải THA. Do đó,
nội dung xác minh của CHV chính là khả năng, điều kiện thực hiện công việc của
đương sự. Tuy nhiên, thực tiễn THA CHV thường phân biệt nghĩa vụ có liên quan
99
đến tài sản (như buộc tháo dỡ nhà trái phép, mở lối đi, bịt cửa sổ…) hoặc nghĩa vụ
không liên quan đến tài sản (như xin lỗi công khai, cải chính, chấm dứt hành vi,
giao con…) để có cách thức xác minh phù hợp. Về địa điểm thực hiện việc xác
minh phụ thuộc vào từng nghĩa vụ cụ thể, nhưng chủ yếu là ở các địa điểm sau: nơi
thực hiện công việc; nơi người phải THA cư trú; UBND nơi người phải THA cư trú.
Về nội dung xác minh thường tập trung vào các vấn đề sau: điều kiện kinh tế để
thực hiện nghĩa vụ; thể chất, ý thức, thái độ của người phải THA; khả năng tự thực
hiện hành vi; trường hợp người phải THA không tự thực hiện, người khác có thể
thực hiện công việc theo quy định của pháp luật được không.
Thực tiễn THA thời gian qua cho thấy, do pháp luật về THADS không có
quy định cụ thể về nội dung xác minh nên mỗi cơ quan THA xác minh một kiểu và
không có sự thống nhất, nội dung xác minh của từng nơi hoàn toàn phụ thuộc vào
kinh nghiệm cũng như trình độ của CHV. Chính vì vậy, có nhiều trường hợp trong
quá trình xác minh điều kiện thi hành án CHV chưa thực hiện một cách cụ thể, đầy
đủ, chi tiết dẫn đến khó khăn trong quá trình THA tiếp theo.
Mặt khác, theo như phân tích ở trên, thực tiễn THA, để thi hành nghĩa vụ trả
vật, giao nhà, chuyển giao quyền sử dụng đất thì CHV phải đến tận nơi có vật, nhà
hoặc quyền sử dụng đất mà người phải THA đang quản lý, sử dụng để xác minh,
sau đó mới có thể khẳng định được người phải THA có điều kiện hay không có điều
kiện THA. Nhưng hiện tại theo pháp luật hiện hành thì lại không có một quy định
nào cho phép cơ quan THADS được yêu cầu lực lượng công an hỗ trợ khi tiến hành
xác minh điều kiện THA. Trong khi đó theo quy định tại khoản 4 Điều 72 Luật
THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014, khoản 1 Điều 18 Nghị định số
62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ, Thông tư liên tịch số
03/2012/TTLT-BTP-BCA ngày 30/3/2012 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an về việc
quy định cụ thể phối hợp bảo vệ cưỡng chế trong THADS thì trong quá trình tổ
chức THA, trường hợp cần thiết khi áp dụng biện pháp bảo đảm tạm giữ tài sản,
giấy tờ của đương sự hoặc áp dụng biện pháp cưỡng chế THA thì cơ quan THADS
có quyền yêu cầu lực lượng công an hỗ trợ [16]. Trên thực tế, không phải khi CHV
áp dụng biện pháp bảo đảm hay cưỡng chế THA thì đương sự mới chống đối mà có
nhiều trường hợp người phải THA chống đối một cách quyết liệt ngay từ khi cơ
quan THA tiến hành xác minh điều kiện THA, đặc biệt là trong việc THA giao nhà,
chuyển giao quyền sử dụng đất. Trong những trường hợp đương sự chống đối nếu
100
không có lực lượng công an hỗ trợ thì CHV không thể tiến hành xác minh được.
Nhưng vì pháp luật không có quy định nên đối với những trường hợp người phải
THA chống đối trong quá trình xác minh điều kiện THA khi cơ quan THA đề nghị
lực lượng công an hỗ trợ thì họ từ chối vì họ cho biết công an chỉ có trách nhiệm hỗ
trợ khi cơ quan THA tổ chức cưỡng chế THA. Và để giải quyết vấn đề này, trước
khi xác minh hiện trạng vật, nhà hoặc quyền sử dụng đất phải giao có một số cơ
quan THA đã ra quyết định cưỡng chế kiểm tra hiện trạng đối với người phải THA.
Tuy nhiên, hiện Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành không có điều
luật nào cho phép cơ quan THA ra một quyết định như vậy. Đây chỉ là giải pháp
tình thế vì người phải THA yêu cầu cơ quan THA phải có quyết định kiểm tra hiện
trạng thì họ mới cho vào nhà để xác minh điều kiện THA.
Chính vì vậy, pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về THADS nói
riêng cũng cần có quy định cơ chế đảm bảo cho cơ quan THA trong quá trình xác
minh điều kiện THADS.
3.1.3.4. Xác minh điều kiện thi hành án trong trường hợp có yếu tố nước ngoài
Trong thực tiễn của hoạt động THA, rất nhiều trường hợp, cơ quan THA
phải thi hành những vụ việc có yếu tố nước ngoài. Khái niệm yếu tố nước ngoài
không được định nghĩa trong các quy định hiện hành về THADS. Tuy nhiên, trên
thực tế khi thi hành vụ việc, các cơ quan THADS vẫn xem xét áp dụng khái niệm về
vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài được quy định tại khoản 2 Điều 405 Bộ luật tố
tụng dân sự, theo đó, các cơ quan THADS xác định những trường hợp sau được coi
là vụ việc THADS có yếu tố nước ngoài:
- Đương sự là người nước ngoài;
- Đương sự là người Việt Nam định cư ở nước ngoài;
- Đương sự là người Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài;
- Đương sự có tài sản ở nước ngoài.
Khi xác định đương sự là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài không còn cư trú tại Việt Nam; hoặc đương sự là người Việt Nam đang làm
việc ở nước ngoài; hoặc xác định đương sự có thể có tài sản ở nước ngoài, cơ quan
THADS sẽ tiến hành ủy thác tư pháp cho cơ quan có thẩm quyền nơi đương sự đang
cư trú hoặc làm việc. Để làm căn cứ cho hoạt động tương trợ tư pháp về dân sự
trong THA, Điều 181 Luật THADS đã quy định về việc yêu cầu nước ngoài tương
101
trợ tư pháp về dân sự trong THA. Và để cụ thể hóa quy định này, Điều 50 Nghị định
62/2015/NĐ-CP đã quy định về thẩm quyền và trình tự, thủ tục ủy thác tư pháp về
THADS.
Mặc dù pháp luật về THADS đã quy định cụ thể nhưng trên thực tế, việc ủy
thác tư pháp trong lĩnh vực THADS hoàn toàn không đơn giản. Tác giả Nguyễn Văn
Lộc trong bài viết “Thực tiễn THADS đối với cá nhân, tổ chức là người nước ngoài ở
Bình Dương” đã đánh giá về công tác ủy thác tư pháp trong THADS như sau:
“Để thực hiện ủy thác tư pháp, cơ quan THA đã áp dụng tương tự theo quy
định tại khoản 4 Điều 15 Thông tư liên tịch số 15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC
ngày 15/9/2011, sau 06 tháng kể từ ngày Bộ Tư pháp gửi hồ sơ ủy thác tư pháp hợp
lệ lần thứ hai cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài hoặc Bộ Ngoại giao mà
không nhận được thông báo kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, thì cơ quan THADS
cần ủy thác coi như đã thực hiện đầy đủ các trình tự thủ tục đối với đương sự ở
nước ngoài đó và sẽ tiếp tục tổ chức THA theo đúng quy định của pháp luật. Tuy
nhiên, quy định thời hạn gửi hồ sơ ủy thác tư pháp lần hai nhưng không quy định
thời hạn bao lâu kể từ ngày gửi hồ sơ ủy thác tư pháp lần một mà không có kết quả
thì mới tiếp tục gửi lần 2, dẫn đến việc thực hiện ủy thác tư pháp lần thứ nhất có thể
bị kéo dài vô thời hạn. Thực tế tại Cục THADS tỉnh Bình Dương, có những trường
hợp ủy thác tư pháp kéo dài 02 năm nhưng vẫn chưa nhận được kết quả ủy thác tư
pháp, trong khi đó, giá trị thi hành tương đối lớn, ảnh hưởng đến kết quả THA của
đơn vị. Điển hình như vụ Công ty TNHH Hankook Bed ủy thác từ tháng 6/2011; vụ
Công ty TNHH Coint Vina ủy thác tư pháp từ tháng 11/2011 giá trị thi hành là trên
48 tỷ đồng. Việc ủy thác tư pháp mất rất nhiều thời gian không những làm cho việc
THA kéo dài, mà còn phát sinh khiếu nại của đương sự… Ngoài ra, Cục THADS
tỉnh Bình Dương còn thụ lý thi hành các khoản hoàn trả cho cá nhân, tổ chức nước
ngoài một khoản tiền tạm ứng án phí không lớn. Tuy nhiên, do địa chỉ của người
được THA ở nước ngoài, nên cơ quan THA chưa thể hoàn trả được số tiền nêu trên,
trong khi việc ủy thác tư pháp lại tốn kém chi phí, thậm chí nhiều hơn số tiền hoàn
trả gấp nhiều lần. Hiện nay, tình hình cá nhân, tổ chức là người nước ngoài rời khỏi
Việt Nam trong khi chưa xử lý xong các khoản nợ tại Việt Nam bắt đầu phổ biến,
điều này gây lo ngại cho công tác tổ chức THA, do đó, cơ quan THA nếu không kịp
thời ra quyết định hoãn xuất cảnh đối với người phải THA, thì việc THA sẽ gặp
102
nhiều khó khăn” [58].
Đồng thời, theo đánh giá của Bộ Tư pháp trong Báo cáo số 557/BC-CP ngày
21/10/2015 về hoạt động tương trợ tư pháp năm 2015 gửi Quốc hội thì:
“Tổng số yêu cầu UTTP của các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam đã
gửi đi qua đầu mối Bộ Tư pháp là 3149 yêu cầu. Trong đó có 2661 yêu cầu (chiếm
gần 85% tổng số yêu cầu UTTP) được gửi đến những nước chưa có điều ước quốc
về TTTP với Việt Nam.
- Tổng số yêu cầu UTTP có trả lời là 2126/3149 yêu cầu (chiếm gần 68%).
Các hồ sơ UTTP theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam vẫn
chủ yếu là tống đạt giấy tờ, tài liệu, bản án, các quyết định của Tòa án, yêu cầu về
thu thập chứng cứ, lấy lời khai của đương sự hoặc người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan đến vụ việc, tập trung ở các lĩnh vực hôn nhân và gia đình, hành chính,
lao động và các vụ việc về hộ tịch.
Các nước và vùng lãnh thổ mà Việt Nam gửi yêu cầu UTTP nhiều nhất vẫn
là Hoa Kỳ, Ca-na-đa, lãnh thổ Đài Loan, Ốt-xtờ-rây-li-a và Hàn Quốc.
So sánh kết quả chung thực hiện yêu cầu UTTP gửi ra nước ngoài năm 2015
với năm 2014 cho thấy tỷ lệ yêu cầu UTTP gửi đi có trả lời tăng gần 15%. Tuy
nhiên, tỷ lệ có trả lời từ những nước đã có điều ước quốc tế với Việt Nam lại giảm
6%” [26].
Ngoài ra, theo số liệu thống kê tại Bảng tổng hợp số liệu ủy thác tư pháp về
dân sự tiếp nhận qua Bộ Tư pháp năm 2015 kèm theo Báo cáo số 557/BC-CP ngày
21/10/2015 về hoạt động tương trợ tư pháp năm 2015 thì số liệu ủy thác tư pháp
trong lĩnh vực THADS do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam yêu cầu chỉ chiếm
1,15% số lượng các yêu cầu ủy thác tư pháp về dân sự.
Các con số nêu trên không nói lên được kết quả việc ủy thác tư pháp trong
lĩnh vực THA có thuộc vào con số hơn 30% còn lại chưa được trả lời hay không.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu nội dung của các Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt
Nam đã ký với rất nhiều quốc gia trên thế giới, chúng ta có thể nhận thấy, trong các
văn bản này không có bất kỳ một quy định nào về vấn đề ủy thác tư pháp THADS
hay xác minh điều kiện THA. Trong khi đó, về các vấn đề khác như tống đạt giấy
tờ; điều tra, thu thập chứng cứ; triệu tập người làm chứng và người giám định;…
được quy định hết sức rõ ràng.
Tác giả Nguyễn Văn Tuấn đã tổng kết một trong những nguyên nhân gây
103
nên khó khăn cho công tác thi hành các vụ án tham nhũng chính là “Hoạt động hợp tác
quốc tế trong việc THA có yếu tố nước ngoài nói chung và trong truy tìm, xử lý tài sản
bảo đảm THADS ở nước ngoài nói riêng còn chưa cụ thể, thậm chí chưa có quy định,
dẫn đến công tác phối hợp, tổ chức thực hiện gặp khó khăn, lúng túng” [86].
Nghị định số 33/2020/NĐ-CP đã có sửa đổi, bổ sung về thời hạn uỷ thác tư
pháp cũng như cách giải quyết nếu việc uỷ thác tư pháp không hiệu quả, tuy nhiên,
do mới ở tầm văn bản dưới luật, những quy định này vẫn chưa giải quyết được các
vướng mắc đặt ra từ thực tiễn [30]. Từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng, đã
đến lúc, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần xem xét tổng kết một cách cụ thể
về vấn đề tương trợ tư pháp về dân sự nói chung và ủy thác tư pháp về THADS nói
riêng để các bản án, quyết định được ban hành sẽ có hiệu lực trên thực tế, không chỉ
nằm trên giấy và cơ quan THA không có cách nào để thi hành nó do đương sự hoặc
tài sản của đương sự không ở trên lãnh thổ Việt Nam.
3.1.3.5. Ủy quyền xác minh điều kiện thi hành án
Khoản 3 Điều 44 Luật THADS đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định
“Cơ quan THADS có thể ủy quyền cho cơ quan THADS nơi người phải THA có tài
sản, cư trú, làm việc hoặc có trụ sở để xác minh điều kiện THA”. Như vậy, có thể
khẳng định Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật THADS đã chính thức quy
định cơ quan THADS có thể ủy quyền xác minh điều kiện THADS. Đây là một
điểm mới hoàn toàn so với quy định về xác minh điều kiện THA trước đây và có thể
coi là một thay đổi hết sức quan trọng đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của các cơ
quan THA trong việc xác minh điều kiện THA của người phải THA mà người phải
THA không cư trú tại địa phương mình. Ngoài ra, quy định này cũng góp phần giúp
cho chế định ủy thác THA được thuận lợi hơn. Theo quy định tại Điều 55 Luật
THADS về ủy thác THA, căn cứ để cơ quan THADS ủy thác THA là cơ quan
THADS nơi người phải THA có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở. Trong
nhiều trường hợp, cơ quan THA không chỉ căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa
án mà còn căn cứ vào biên bản xác minh của CHV để ủy thác THA. Do đó, để xác
minh được người phải THA có đúng là chuyển về sinh sống tại địa phương đó hoặc
tại địa phương đó có tài sản, hoặc là nơi làm việc của người phải THA thì CHV
cũng cần phải xác minh tại địa phương khác, tránh trường hợp chỉ xác minh tại Ủy
ban nhân dân thuộc địa phương mình cho biết đương sự đã chuyển hộ khẩu về địa
phương khác mà đã ủy thác ngay dẫn đến khi cơ quan THA nơi nhận ủy thác sau
104
khi thụ lý xong, tiến hành xác minh thì được biết đương sự hoàn toàn không chuyển
về sinh sống tại địa phương, dẫn đến đùn đẩy trách nhiệm, hồ sơ ủy thác đi và trả lại
nhiều lần dẫn đến việc THA tồn đọng, kéo dài. Tuy nhiên, theo quy định của Luật
THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành, không có quy định nào cho phép cơ
quan THA được ủy quyền xác minh. Trong khi đó, quy định về chi phí xác minh
không được thể chế hóa một cách rõ ràng khiến cho các cơ quan THA có tâm lý
“ngại” thực hiện xác minh ngoài địa bàn. Hơn nữa, thực tế công tác xác minh cho
thấy, nếu thiếu sự phối hợp thường xuyên, các cơ quan THA rất khó nhận được sự
hợp tác của các cơ quan hữu quan trong vấn đề xác minh. Do đó, trước đây, để việc
THA được thực hiện một cách thuận lợi, các CHV thường sử dụng các mối quan hệ
sẵn có của mình với hệ thống cơ quan THA để “nhờ” xác minh.
Như vậy, việc bổ sung quy định ủy quyền xác minh điều kiện THA của Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật THADS là cần thiết, tạo hành lang pháp lý
cho CHV, cơ quan THA hoàn thành nhiệm vụ của mình. Mặt khác, theo quy định
tại khoản 3 Điều 73 Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì chi phí xác
minh điều kiện THA do Ngân sách nhà nước chi trả. Vì vậy, quy định cho phép ủy
quyền xác minh điều kiện THA đã giúp giảm tải đáng kể chi phí xác minh cho Ngân
sách nhà nước.
Bên cạnh đó, để quy định về ủy quyền xác minh điều kiện THA được thực
thi thống nhất trên thực tiễn thi hành, khoản 6 Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP
đã hướng dẫn cụ thể về hình thức ủy quyền và thời hạn thực hiện việc xác minh
theo ủy quyền đối với từng loại tài sản, trách nhiệm về kết quả xác minh theo nội
dung uỷ quyền. Cụ thể, việc ủy quyền xác minh của cơ quan THADS phải thể hiện
bằng văn bản, nêu rõ nội dung ủy quyền và nội dung cần thiết khác. Thủ trưởng cơ
quan THADS nơi nhận ủy quyền phải chịu trách nhiệm về kết quả xác minh theo
nội dung uỷ quyền, trả lời bằng văn bản kết quả xác minh cho cơ quan THADS đã
ủy quyền xác minh. Ngoài ra, điều luật còn quy định cụ thể thời hạn mà cơ quan
THADS nhận ủy quyền phải trả lời và gửi kết quả cho cơ quan THADS ủy quyền.
Cụ thể: Đối với việc xác minh tài sản là bất động sản, động sản phải đăng ký quyền
sở hữu, thời hạn trả lời kết quả xác minh không quá 30 ngày, kể từ ngày nhận được
ủy quyền. Trường hợp khó khăn, phức tạp thì thời hạn gửi kết quả xác minh có thể
kéo dài nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được ủy quyền. Đối với việc
xác minh các loại tài sản và thông tin khác, thời hạn trả lời kết quả xác minh không
105
quá 15 ngày, kể từ ngày nhận được ủy quyền.
Tuy nhiên, thực tiễn THA thời gian qua cho thấy, nhiều trường hợp cơ quan
THADS nhận ủy quyền xác minh chậm thực hiện việc xác minh theo ủy quyền, vi
phạm về thời hạn xác minh và gửi kết quả xác minh cho cơ quan THADS đã ủy
quyền, thậm chí có nhiều trường hợp cơ quan THADS nhận ủy quyền xác minh tiến
hành xác minh “qua loa” để có kết quả xác minh người phải THA không cư trú hoặc
không có tài sản tại địa phương mình. Sở dĩ như vậy vì trên thực tế nếu kết quả xác
minh cho thấy người phải THA cư trú hoặc có tài sản tại địa phương thì cũng có
nghĩa rằng sau đó cơ quan THADS ủy quyền xác minh sẽ ủy thác THA đến địa
phương mà người phải THA cư trú hoặc có tài sản và do không muốn tổ chức THA
nên cơ quan THADS nhận ủy quyền xác minh sẽ làm như vậy. Trong khi đó, hiện
tại, Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa có quy định về chế tài
đối với cơ quan THADS nhận ủy quyền trong việc chậm xác minh theo ủy quyền
hoặc kết quả xác minh sai, không đúng với thực tế… Chính vì vậy, mặc dù quy định
cho phép cơ quan THA được ủy quyền xác minh là cần thiết, nhưng lại không phát
huy được hiệu quả trên thực tiễn thi hành. Từ phân tích trên, NCS cho rằng, cần sửa
đổi quy định về ủy quyền xác minh điều kiện THA để chế định này thực sự phát
huy hiệu quả trên thực tế.
3.1.4. Trình tự, thủ tục xác minh điều kiện thi hành án dân sự
Pháp luật Việt Nam giao quyền xác minh cho 03 chủ thể là CHV, TPL và
người được THA nhưng lại chỉ đề cập chủ yếu đến thủ tục xác minh của hai chủ thể
là CHV và TPL. Vì vậy, trong tiểu mục này, NCS chỉ phân tích những nội dung về
trình tự, thủ tục xác minh đối với hai chủ thể nói trên.
3.1.4.1. Trình tự thủ tục xác minh điều kiện thi hành án của chấp hành viên
Mặc dù Luật THADS sửa đổi, bổ sung không đưa ra một điều luật cụ thể về
thủ tục xác minh điều kiện THA nhưng khi nghiên cứu khoản 4 Điều 44 Luật
THADS, NCS thấy rằng, ẩn dấu đằng sau trách nhiệm của CHV khi tiến hành xác
minh điều kiện THA là hướng dẫn thủ tục CHV phải thực hiện khi tiến hành xác
minh điều kiện THA. Cụ thể, khi tiến hành xác minh CHV sẽ thực hiện các công
việc như xuất trình thẻ CHV, tiến hành xác minh, lập biên bản xác minh
(i) Xuất trình thẻ Chấp hành viên
Đây là một quy định mới được quy định trong Luật THADS sửa đổi, bổ
sung. Trước đây, CHV khi tiến hành xác minh không phải xuất trình thẻ CHV. NCS
106
cho rằng, đây là một quy định để đảm bảo tính chuyên nghiệp của CHV khi thực thi
nhiệm vụ, giúp nâng cao vị thế của CHV khi xác minh điều kiện THA. Việc xác
minh của CHV tại các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoàn toàn là công việc mang tính
chất quyền lực nhà nước, do đó, hành vi xuất trình thẻ giống như một tuyên bố của
CHV với các cơ quan, tổ chức, cá nhân là “tôi đang thực hiện nhiệm vụ mà Nhà
nước giao phó” và “các anh có trách nhiệm phối hợp, cung cấp” chứ không phải
“tôi đi xin xỏ” và “các anh thích cho thì cho, không thích cho thì thôi”. Tuy nhiên,
trên thực tế, CHV rất ít khi xuất trình thẻ khi tiến hành xác minh. Điều này xuất
phát từ hai nguyên nhân. Thứ nhất, hoạt động xác minh là một hoạt động mang tính
chất thường xuyên, liên tục của CHV. Gần như với mọi quyết định THA được tổ
chức THA, sau khi thông báo quyết định THA và hết thời gian tự nguyện mà người
phải THA không tự nguyện THA thì CHV đều phải tiến hành xác minh. Do vậy,
CHV thường xuyên có mối quan hệ qua lại với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan. Khi đã thiết lập được mối quan hệ như vậy thì việc xuất trình thẻ theo CHV là
sự “khách sáo” không cần thiết. Vì lý do này, CHV chỉ sử dụng thẻ khi lần đầu tiên
thực hiện việc xác minh và lần đầu tiên tiếp xúc với cơ quan, tổ chức, cá nhân để
tiến hành xác minh. Thứ hai, việc tạo cho CHV “quyền lực” trong hoạt động xác
minh không phải từ hình thức là các giấy tờ thể hiện quyền lực mà phải từ nội dung
của nó, có nghĩa là pháp luật phải cung cấp cho CHV quyền lực thực sự mà ở đó,
nếu bất kỳ một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào đi ngược lại yêu cầu của CHV thì sẽ
phải chịu một hình thức chế tài thích hợp.
Từ các phân tích trên, NCS cho rằng quy định về xuất trình thẻ là cần nhưng
chưa đủ, để CHV có thể thực hiện việc xác minh một cách hiệu quả, pháp luật cần
phải cung cấp đủ hành lang pháp lý cho CHV thực hiện nhiệm vụ của mình.
(ii) Thực hiện việc xác minh
Theo quy định tại khoản 4 Điều 44 Luật THADS năm 2014, khi tiến hành
xác minh CHV phải thực tuân thủ các yêu cầu sau:
- Thứ nhất, xác minh cụ thể tài sản, thu nhập, các điều kiện khác để THA; đối
với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm thì còn
phải xác minh tại cơ quan có chức năng đăng ký tài sản, giao dịch đó.
Đây là một quy định được kế thừa từ Pháp lệnh THADS 2004 và các văn bản
hướng dẫn thi hành. Quy định này đòi hỏi CHV phải xác định một cách trực tiếp,
chi tiết tài sản, thu nhập, các điều kiện khác để THA. Có nghĩa là CHV không chỉ
107
dựa vào giấy tờ do đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp,
không chỉ dựa vào nội dung trình bày của đương sự. Trong quá trình tổ chức THA,
căn cứ vào tính chất của mỗi vụ việc CHV phải trực tiếp xác minh để có các biện
pháp áp dụng kịp thời, hiệu quả và đúng pháp luật. Chẳng hạn, đối với vụ việc liên
quan đến nghĩa vụ thanh toán, nghĩa vụ bồi thường, khi xác minh số dư trong tài
khoản, hoặc thu nhập của người phải THA, CHV phải trực tiếp xác minh và sẵn
sàng, ngay lập tức áp dụng biện pháp bảo đảm được quy định tại Điều 66 Luật
THADS, hoặc phải áp dụng ngay các biện pháp cưỡng chế theo Khoản 1, Khoản 2
Điều 71 Luật THADS.
Thực tiễn hoạt động THADS cho thấy, quy định xác minh cụ thể tài sản, thu
nhập, các điều kiện khác để THA chưa được một số CHV tuân thủ một cách triệt để
mà biểu hiện thường gặp là chỉ nắm bắt thông tin qua việc cung cấp của cán bộ tư
pháp tại trụ sở UBND xã (phường) rồi lấy dấu mà không trực tiếp xuống địa chỉ
hoặc nơi ở, nơi cư trú của đương sự để xác minh, hoặc giao cho thư ký THA thực
hiện mà CHV không trực tiếp xuống địa bàn để xác minh.
Ví dụ: tại bản án hình sự có bị cáo là Nguyễn Thị N, tạm trú tại số 4 ngõ 15,
phố HB quận HK, thành phố HN. Hộ khẩu thường trú tại ngách 3, ngõ 125 phố
BTX, quận HBT thành phố HN, đã có chồng và 2 con, hình phạt tù là 8 năm. Trong
hồ sơ của CHV quận HK biên bản xác minh tại UBND phường có ghi: chị Nguyễn
Thị N đang thụ hình, gia đình không còn ở số 4 ngõ 15, phố HB quận HK. Nguyễn
Thị N có hộ khẩu ngách 3, ngõ 125 phố BTX, quận HBT. Căn cứ kết quả xác minh,
CHV đề xuất ủy thác Nguyễn Thị N về quận HBT. CHV quận HBT xác minh theo
hộ khẩu thường trú cho thấy mặc dù Nguyễn Thị N có hộ khẩu tại địa chỉ trên
nhưng đã bán nhà cho ông Nguyễn Văn Ba từ lâu (trước khi phạm tội) ông Nguyễn
Văn Ba đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tại địa chỉ trên không có
một tài sản nào của Nguyễn Thị N, đồng thời CHV quận HBT đến tận địa chỉ số 4,
ngõ 15, phố HB quận HK được ông tổ trưởng tổ dân phố và cảnh sát khu vực cung
cấp thông tin: Nguyễn Thị N đang đi thụ hình, có chồng là Đặng văn C được bà cô
cho ở nhờ, hiện vẫn đang sinh sống làm ăn ở địa chỉ trên. Ngoài ra, CHV quận HBT
còn ghi biên bản giải quyết với anh Đặng Văn C khẳng định các thông tin trên. Vì
không thống nhất các căn cứ ủy thác (hai biên bản xác minh không thống nhất), hai
CHV được đối chất mới thấy CHV quận HK chỉ căn cứ vào các thông tin trong bản
án, sau đó ở cơ quan viết sẵn biên bản xác minh mà không trực tiếp đến tại địa chỉ
của đương sự, do vậy kết quả xác minh thiếu chính xác dẫn đến căn cứ ủy thác
108
không đúng pháp luật [47, tr.94-95].
Ngoài ra, việc xác minh cụ thể cũng giúp CHV trong việc quyết định sẽ áp
dụng biện pháp cưỡng chế nào, hoặc là sẽ kê biên tài sản nào (tài sản thuộc sở hữu
riêng hay tài sản thuộc sở hữu chung của người phải THA với người khác, tài sản là
động sản hay tài sản là bất động sản của người phải THA) hoặc khi đã kê biên tài
sản chung của người phải THA thì CHV sẽ kê biên toàn bộ hay chỉ kê biên phần tài
sản có giá trị tương ứng với nghĩa vụ của người phải THA nếu CHV không xác
minh một cách cụ thể hiện trạng của tài sản.
Như vậy, xác minh cụ thể là một quy định quan trọng mà CHV phải tuân thủ
khi tiến hành xác minh điều kiện THA của người phải THA. Tuy nhiên, thực tế hoạt
động xác minh thực tế tài sản của CHV cũng gặp không ít khó khăn do thiếu các
quy định cụ thể cho hoạt động này. Ví dụ như trường hợp xác minh hiện trạng tài
sản là quyền sử dụng đất. Thực tế quá trình xác minh điều kiện THA đối với quyền
sử dụng đất cho thấy, có rất nhiều trường hợp có sự chênh lệch giữa diện tích đất
thực tế với diện tích đất được ghi trong giấy chứng nhận. Để việc kê biên được
thuận lợi, CHV cần phải làm rõ vấn đề này nhưng các cơ quan quản lý đất đai (văn
phòng đăng ký đất đai và cán bộ địa chính xã) lại đùn đẩy trách nhiệm xác định
nguồn gốc của sự chênh lệch khiến cho việc THA của CHV gặp bế tắc.
- Thứ hai, trường hợp xác minh bằng văn bản thì văn bản yêu cầu xác minh
phải nêu rõ nội dung xác minh và các thông tin cần thiết khác.
Mặc dù quy định này không xác định rõ về các cách thức xác minh mà CHV
được sử dụng nhưng từ tinh thần của điều luật chúng ta có thể thấy Luật cho phép
CHV xác minh bằng hai cách thức khác nhau là xác minh trực tiếp và xác minh
bằng văn bản. Điều luật yêu cầu khi xác minh bằng văn bản thì văn bản yêu cầu xác
minh phải nêu rõ nội dung xác minh và các thông tin cần thiết khác. Đây là một quy
định rất cần thiết, giúp cảnh báo CHV khi soạn thảo công văn đề nghị cung cấp
thông tin phải xác định rõ mục tiêu của mình và đặt những câu hỏi cần thiết để thu
được thông tin phù hợp. Thực tế đã có CHV khi soạn thảo công văn đề nghị Văn
phòng đăng ký quyền sử dụng đất cung cấp thông tin về nhà, đất của người phải
THA chỉ quan tâm đến thông tin nhà, đất có thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người
phải THA hay không mà không quan tâm đến các nội dung khác như nhà, đất có cầm
cố, thế chấp không? Có bị nằm trong quy hoạch không?... Điều này dẫn đến những sai
phạm trong xử lý tài sản như kê biên tài sản của người phải THA đã được cầm cố, thế
109
chấp hợp pháp và giá trị tài sản không đủ để thi hành nghĩa vụ được bảo đảm.
- Thứ ba, trường hợp người phải THA là cơ quan, tổ chức thì CHV trực tiếp
xem xét tài sản, sổ sách quản lý vốn, tài sản; xác minh tại cơ quan, tổ chức khác có
liên quan đang quản lý, bảo quản, lưu giữ thông tin về tài sản, tài khoản của người
phải THA
Quy định này đòi hỏi khi tiến hành xác minh đối với người phải THA là cơ
quan, tổ chức, CHV phải trực tiếp xem xét tài sản, sổ sách quản lý vốn, tài sản; xác
minh tại cơ quan, tổ chức khác có liên quan đang quản lý, bảo quản, lưu giữ thông
tin về tài sản, tài khoản của người phải THA. Tuy nhiên, đây gần như chỉ là quy
định mang tính chất “khuyến nghị” CHV mà không có hành lang pháp lý để thực thi
quy định này.
- Thứ tư, CHV có thể yêu cầu cơ quan chuyên môn hoặc mời, thuê chuyên
gia để làm rõ các nội dung xác minh trong trường hợp cần thiết
Đây là quy định hết sức cần thiết, giúp CHV vững vàng hơn khi tiến hành
xác minh tài sản của người phải THA. CHV là người được Nhà nước giao nhiệm vụ
tổ chức THA các bản án, quyết định đã có hiệu lực thi hành, không phải là “chìa
khóa vạn năng” có thể mở mọi cánh cửa để tổ chức THA. Thực tế hoạt động THA
cho thấy, tài sản thuộc sở hữu sử dụng của người phải THA rất đa dạng, có rất nhiều
loại tài sản, CHV phải nhờ đến sự trợ giúp của các chuyên gia trong lĩnh vực liên
quan đến tài sản đó, thậm chí, có những loại tài sản, CHV cũng vô cùng lúng túng
trong việc xác định đâu là cơ quan chuyên môn có thể có những hiểu biết về loại tài
sản này để giúp CHV trong việc xác định giá trị sử dụng của loại tài sản này. Ngoài
ra, vì pháp luật quy định chưa rõ ràng về chi phí cho việc trả cho cơ quan chuyên
môn, chuyên gia nên các cơ quan THA cũng rất hạn chế khi yêu cầu cơ quan
chuyên môn hoặc mời, thuê chuyên gia để làm rõ các nội dung xác minh. Thực tế,
CHV thường chi trả cho các cơ quan chuyên môn hoặc chuyên gia theo mức chi tiền
họp thông thường nên rất khó mời các chuyên gia.
(iii) Lập biên bản xác minh
Theo quy định tại điểm e khoản 4 Điều 44 Luật THADS năm 2014, CHV
phải lập biên bản thể hiện đầy đủ kết quả xác minh có xác nhận của Ủy ban nhân
dân hoặc công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân nơi tiến hành xác minh.
Biên bản xác minh chính là tài liệu mang tính chất “chứng cứ” giúp CHV có
các quyết định để tổ chức THA. Mặc dù, trong pháp luật THADS ngay từ khi được
110
ban hành đến nay, chưa có bất kỳ một quy định nào thể hiện tầm quan trọng của kết
quả xác minh hay biên bản xác minh. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu của một “chứng
cứ”, đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho CHV trong quá trình xác minh điều kiện
THA, quy định này đã có sự thay đổi rất nhiều trong pháp luật về THADS thời gian
qua. Yêu cầu về việc lập biên bản xác minh điều kiện THADS lần đầu tiên được
quy định tại Luật THADS năm 2008. Tại Điều 44 Luật THADS năm 2008 quy
định: “Việc xác minh phải được lập thành biên bản, có xác nhận của tổ trưởng tổ
dân phố, UBND, công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi tiến hành xác minh.
Biên bản xác minh phải thể hiện đầy đủ kết quả xác minh”. Quy định này đã gây ra
cách hiểu không thống nhất của các cơ quan THA. Có cơ quan THA hiểu rằng quy
định như trên có nghĩa là biên bản xác minh phải bao gồm xác nhận của tất cả các
cá nhân, cơ quan kể trên. Có cơ quan THA hiểu rằng quy định như trên có nghĩa là
biên bản xác minh chỉ cần xác nhận của một trong những cá nhân, cơ quan kể trên
là đủ. Ngoài ra, xét về kỹ thuật lập pháp thì việc quy định biên bản xác minh phải có
xác nhận của tổ trưởng tổ dân phố là chưa phù hợp. Bởi lẽ, trong hệ thống hành
chính nhà nước, chức danh tổ trưởng tổ dân phố chỉ tồn tại ở thành phố, còn ở nông
thôn, chức danh này được gọi là trưởng thôn, ở miền núi, chức danh này được gọi là
trưởng bản, và còn có nhiều tên gọi khác nữa ở các vùng miền khác nhau trong cả
nước như trưởng ấp, trưởng phum, trưởng sóc… Vậy, nếu hiểu theo đúng quy định
pháp luật, chỉ có chức danh tổ trưởng tổ dân phố mới được ký vào biên bản xác
minh, còn các chức danh tương đương khác vì không được quy định nên không
được phép ký vào biên bản xác minh hoặc có ký thì cũng không hợp lệ, kể cả trong
trường hợp chức danh này đã cung cấp thông tin.
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật THADS đã quy định rõ biên bản
xác minh có xác nhận của Ủy ban nhân dân hoặc công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ
chức, cá nhân nơi tiến hành xác minh đã tránh sự thiếu thống nhất trong áp dụng
như đã phân tích ở trên.
Mặc dù những vướng mắc từ quy định pháp luật đã được tháo gỡ nhưng trên
thực tế thực thi quy định về nội dung biên bản xác minh vẫn thể hiện nhiều sai phạm.
Tác giả Trần Thị Phương Hoa đã chỉ ra những sai phạm sau của CHV trong quá trình
xác minh điều kiện THA:
- Nhiều trường hợp nội dung xác minh còn chung chung, chưa rõ ràng, đầy
đủ, chính xác, chưa phản ánh được điều kiện THA của đương sự. Ví dụ: Một số hồ
111
sơ trả đơn yêu cầu THA, người phải THA là doanh nghiệp, trong giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh xác định doanh nghiệp có nhiều chi nhánh nhưng CHV chỉ xác
minh tại trụ sở chính, mà không xác minh tại các chi nhánh đã trình thủ trưởng cơ
quan THADS ký quyết định trả đơn yêu cầu THA.
- Nhiều trường hợp CHV không xác minh trực tiếp tại nơi có tài sản, tại địa
chỉ của người phải THA, mà chỉ xác minh tại Ủy ban nhân dân phường, xã; hoặc
không xác minh tại các cơ quan có thẩm quyền quản lý đối với tài sản phải đăng ký
quyền sở hữu, quyền sử dụng [44].
Tác giả Thanh Dương cũng đánh giá về nội dung xác minh của CHV như
sau: “CHV xác minh điều kiện THA của người phải THA với nội dung chung
chung, chủ yếu mang tính hình thức, chưa rõ ràng, chưa toàn diện, chưa phản ánh
được điều kiện THA của đương sự hoặc xác minh chưa đầy đủ điều kiện của những
người phải THA trong cùng một quyết định. Biên bản xác minh chỉ ghi “đương sự
có mặt tại nhà” nhưng không xác minh rõ đương sự có tài sản không, có nghề
nghiệp không… hoặc biên bản xác minh chỉ ghi “đương sự cư trú tại địa phương,
nghề nghiệp làm nông mà không phản ánh điều kiện kinh tế của đương sự” [39].
Cũng theo tác giả Trần Thị Phương Hoa trong bài viết trên đã nhận định:
những vi phạm nêu trên thể hiện trình độ, năng lực cũng như sự cẩu thả của CHV
trong việc xác minh điều kiện THA. Tuy nhiên, theo NCS, bên cạnh đó, còn do
pháp luật thiếu quy định mang tính răn đe trực tiếp đối với CHV khi có vi phạm quy
định về trình tự, thủ tục xác minh điều kiện THA.
3.1.4.2. Thủ tục xác minh điều kiện THA của TPL
Đối với trường hợp TPL xác minh khi tổ chức thi hành bản án, quyết định
của Toà án thì pháp luật không có quy định về thủ tục xác minh. Còn đối với trường
hợp xác minh điều kiện THA theo yêu cầu của đương sự, người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan được quy định tại Điều 45 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP. Về cơ bản,
thủ tục xác minh điều kiện THA của TPL cũng tương tự như thủ tục xác minh điều
kiện THA của CHV được quy định tại Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi
hành. Điểm khác biệt duy nhất trong thủ tục xác minh điều kiện THA của TPL với
CHV chính là quy định trước khi tiến hành xác minh theo yêu cầu của đương sự,
Trưởng Văn phòng TPL phải ra quyết định xác minh điều kiện THA [29, khoản 1
Điều 45]. Đồng thời, khi trực tiếp xác minh, TPL phải xuất trình thẻ và công bố
quyết định xác minh [29, khoản 3 Điều 45]. Theo NCS, việc pháp luật quy định như
112
vậy là hợp lý bởi lẽ đây là trường hợp TPL xác minh trên cơ sở yêu cầu của đương
sự, nên để đảm bảo tính hợp pháp của việc xác minh cần phải có một văn bản thể
hiện quyền của TPL trong công việc, quyết định xác minh chính là văn bản thể hiện
được thẩm quyền đó.
3.1.5. Thời hạn xác minh điều kiện thi hành án dân sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 44 Luật THADS sửa đổi, bổ sung thì “Trong
thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện THA mà người phải THA
không tự nguyện THA thì CHV tiến hành xác minh; trường hợp thi hành quyết định
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải tiến hành xác minh ngay”. Quy định
này đã khắc phục được những vướng mắc mà các cơ quan THA gặp phải theo quy
định trước đây. Trước đây, theo Khoản 2 Điều 44 Luật THADS năm 2008 thì trong
thời hạn 10 ngày, kể từ ngày chủ động ra quyết định THA hoặc kể từ ngày nhận
được yêu cầu xác minh của người được THA, CHV phải tiến hành việc xác minh.
Theo Điều 36 Luật THADS năm 2008, sau khi nhận đơn yêu cầu THA, cơ quan
THA có 05 ngày làm việc để ra quyết định THA, sau khi ra quyết định THA, Thủ
trưởng cơ quan THA có 02 ngày làm việc để phân công CHV tổ chức thi hành.
Thực tiễn cho thấy, khi nhận đơn yêu cầu THA thì cơ quan THA cũng nhận được
đơn yêu cầu xác minh của người được THA vào cùng thời điểm. Thậm chí, nếu
không có kết quả xác minh thì kèm theo đơn yêu cầu THA phải có đơn yêu cầu xác
minh thì cơ quan thi hành mới nhận đơn yêu cầu THA để ra quyết định THA. Như
vậy, theo quy định nêu trên thì CHV chỉ còn 02 ngày để tiến hành xác minh điều
kiện THA, điều này dẫn đến CHV có thể vi phạm thời hạn xác minh theo quy định.
Hơn nữa, việc tính thời hạn xác minh kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu xác minh
của người được THA cũng bất cập với quy định về thời hạn tự nguyện THA theo
Điều 45 Luật THADS 2008 là 15 ngày, kể từ ngày người phải THA nhận được hoặc
được thông báo hợp lệ quyết định THA. Do đó, nếu CHV xác minh điều kiện THA
trước khi người phải THA tự nguyện thi hành; sau đó, người phải THA lại THA
xong trong thời gian tự nguyện thi hành thì việc xác minh của CHV trở nên lãng
phí, không cần thiết.
Việc Luật THADS sửa đổi, bổ sung quy định thời điểm bắt đầu để tính thời
hạn xác minh là khi hết thời hạn tự nguyện THA đã khắc phục được bất cập nêu
trên, giúp cho việc xác minh của CHV không phải là việc làm lãng phí. Tuy nhiên,
quy định thời hạn 10 ngày để tiến hành xác minh điều kiện THA vẫn là một thời
113
hạn chưa hợp lý đối với CHV. Hiện nay, ở rất nhiều cơ quan THA, mỗi CHV trung
bình phải thi hành 300 vụ việc trong một năm, như vậy, mỗi tháng, CHV đó sẽ phải
thi hành trung bình 25 vụ việc. Thực tế, với cách thức chuyển vụ án không theo
ngày làm việc mà theo đợt như hiện nay tại Tòa án các địa phương thì các vụ việc
THA không phải được thụ lý hàng ngày mà thường được cộng dồn lại trong tuần
hoặc trong tháng. Chẳng hạn, 01 CHV trong 01 ngày được phân công thi hành cùng
một lúc 10 quyết định THA với 10 đương sự khác nhau. Theo quy định thì CHV
phải tiến hành xác minh điều kiện THA đối với 10 đương sự này trong vòng 10
ngày. Chưa tính đến việc CHV đang phải tập trung thi hành các vụ việc khác, chỉ
tính riêng thời gian vật chất để tiến hành xác minh cho 10 vụ việc nói trên đã
“ngốn” hết thời gian giải quyết công việc của CHV. Vì vậy, tình trạng vi phạm về
thời hạn xác minh vẫn thường xuyên xảy ra tại các cơ quan THA. Đây là một trong
những biểu hiện của hành vi trì hoãn hoặc kéo dài thời gian giải quyết việc THA
được giao. Trong báo cáo tổng kết về công tác khiếu nại trong hoạt động THA, một
nguyên nhân khiến đương sự khiếu nại trong hoạt động THA là hành vi trì hoãn việc
giải quyết THA. Tuy nhiên, chế tài dành cho hành vi trì hoãn này lại không được quy
định cụ thể, có chăng chỉ có quy định về quyền được yêu cầu thay đổi CHV của người
được THA tại Khoản 1 Điều 10 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP nếu CHV chậm trễ giải
quyết việc THA. Điều này cũng dẫn đến tâm lý “không coi trọng” của CHV nếu vi
phạm thời hạn xác minh. Trong khi đó, xác minh là một công đoạn hết sức quan trọng
của hoạt động THA, nếu không có kết quả xác minh, CHV sẽ không có định hướng
trong việc giải quyết việc THA trong giai đoạn tiếp theo.
Từ những phân tích trên, NCS cho rằng, pháp luật cần có sự điều chỉnh cho
phù hợp trong quy định về nghĩa vụ tuân thủ thời hạn xác minh điều kiện THA của
CHV. Theo đó, cần điều chỉnh thời gian vật chất mà CHV cần có để có thể sắp xếp
thời gian tiến hành xác minh đúng thời hạn mà không làm ảnh hưởng đến việc giải
quyết các vụ việc THA khác.
Bên cạnh đó, việc pháp luật quy định một cách cứng nhắc về thời điểm CHV
bắt đầu tiến hành xác minh cũng gây nhiều khó khăn cho CHV trong quá trình tổ
chức THA. Ví dụ, trong trường hợp người phải THA có tài khoản tại ngân hàng và
người được THA yêu cầu CHV áp dụng biện pháp bảo đảm phong toả tài khoản của
người phải THA tại ngân hàng. Theo quy định của Luật THADS thì khi áp dụng
biện pháp bảo đảm, CHV được quyền áp dụng trong thời gian tự nguyện THA. Và
114
để áp dụng biện pháp này, CHV phải biết rõ số tiền trong tài khoản do trong quyết
định phong toả tài khoản phải xác định rõ số tiền, tài sản bị phong toả [27, khoản 1
Điều 20]. Trong khi đó, để xác định được số tiền này, CHV phải tiến hành xác
minh. Tuy nhiên, pháp luật lại quy định, CHV chỉ được xác minh sau khi đã hết thời
gian tự nguyện THA mà không có bất kỳ ngoại lệ nào. Điều này khiến CHV lúng
túng trong thực tiễn áp dụng, nếu không xác minh thì liệu việc phong toả tài khoản
có vi phạm quy định về tính chính xác của số tiền cần phong toả, nếu xác minh thì
có vi phạm quy định về thời điểm tiến hành xác minh.
Đối với trường hợp người phải THA chưa có điều kiện THA, khoản 2 Điều
44 Luật THADS sửa đổi, bổ sung quy định: ít nhất 06 tháng một lần, CHV phải xác
minh điều kiện THA; trường hợp người phải THA chưa có điều kiện THA là người
đang chấp hành hình phạt tù mà thời gian chấp hành hình phạt tù còn lại từ 02 năm
trở lên hoặc không xác định được địa chỉ, nơi cư trú mới của người phải THA thì
thời hạn xác minh ít nhất 01 năm một lần. Sau hai lần xác minh mà người phải THA
vẫn chưa có điều kiện THA thì cơ quan THADS phải thông báo bằng văn bản cho
người được THA về kết quả xác minh. Việc xác minh lại được tiến hành khi có
thông tin mới về điều kiện THA của người phải THA.
Quy định trên vẫn còn điểm chưa rõ ràng, gây lúng túng cho CHV trong quá
trình áp dụng. Cụ thể, CHV sẽ dừng tiến hành xác minh sau hai lần thực hiện xác
minh hay sau ba lần thực hiện xác minh. Những người ủng hộ cho quan điểm CHV
sẽ dừng việc tiến hành xác minh sau hai lần xác minh cho rằng Luật đã quy định rõ
sau hai lần xác minh mà người phải THA vẫn chưa có điều kiện THA thì cơ quan
THA thông báo bằng văn bản cho người được THA về kết quả xác minh, do đó, chỉ
cần xác minh hai lần là đủ. Những người ủng hộ cho quan điểm phải xác minh ba
lần thì mới dừng xác minh lại cho rằng đây là trường hợp xác minh đối với người
phải THA chưa có điều kiện THA, mà CHV sẽ chỉ xác định người phải THA chưa
có điều kiện THA trong trường hợp đã có biên bản xác minh thể hiện điều đó.
Theo NCS, tất cả những sự không rõ ràng này cần phải được hướng dẫn cụ
thể trong các văn bản hướng dẫn thi hành trong thời gian tới để đảm bảo sự thống
nhất trong cách áp dụng của các cơ quan THADS.
3.2. Các vƣớng mắc, bất cập chủ yếu của pháp luật xác minh điều kiện thi
hành án dân sự
Pháp luật Việt Nam về xác minh điều kiện thi hành án dân sự hiện hành đã
115
quy định cụ thể, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động này trong quá trình tổ chức thi
hành án dân sự. Tuy nhiên, qua việc nghiên cứu quy định pháp luật hiện hành và
thực tiễn áp dụng cho thấy vẫn còn nhiều bất cập cần được khắc phục nhằm hoàn
thiện hơn nữa pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án dân sự.
Thứ nhất, các chủ thể xác minh chưa được trao đầy đủ quyền lực để thực
hiện việc xác minh, đồng thời, thiếu sự phân công hợp lý về quyền, nghĩa vụ của các
chủ thể xác minh điều kiện thi hành án dân sự.
Pháp luật Việt Nam quy định có ba chủ thể được tiến hành hoạt động xác
minh là CHV, TPL là người được THA. Tuy nhiên, cả ba chủ thể này đều không
được trao quyền một cách đầy đủ để tiến hành một cách thông suốt và hiệu quả đối
với hoạt động xác minh điều kiện THADS.
Đối với CHV, pháp luật THADS quy định các cơ quan, tổ chức, cá nhân nắm
giữ thông tin về điều kiện thi hành án của người phải THA có trách nhiệm cung cấp
thông tin khi CHV yêu cầu, trường hợp không cung cấp thông tin hoặc cung cấp
thông tin sai sự thật về điều kiện thi hành án của người phải THA thì phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật, thanh toán các chi phí phát sinh, trường hợp gây ra thiệt hại
thì phải bồi thường. Tuy nhiên, cơ chế để ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân nắm giữ thông tin thiếu hiệu quả nên cơ quan THADS, CHV không
xử lý hoặc không xử lý được các sai phạm của các chủ thể này như phân tích của
NCS tại mục 3.1.1.1. của luận án. Đây là một trong những lý do chủ yếu khiến hoạt
động xác minh điều kiện THADS của CHV thiếu hiệu quả, ảnh hưởng đến kết quả
của công tác thi hành án dân sự.
Đối với TPL, xác minh điều kiện THADS vừa là một nhiệm vụ độc lập, vừa
là một công đoạn của nhiệm vụ tổ chức thi hành án các bản án, quyết định của Toà
án theo yêu cầu của đương sự. Tuy nhiên, so với quy định còn thiếu rõ ràng về trách
nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nắm giữ thông tin về điều kiện thi hành án
của người phải THA khi nhận được yêu cầu của CHV thì trách nhiệm của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân này nếu không cung cấp thông tin cho TPL còn không được
quy định. Cụ thể, pháp luật hiện hành quy định các cơ quan, tổ chức, cá nhân có
quyền từ chối cung cấp thông tin và phải trả lời bằng văn bản có nêu rõ lý do nhưng
không quy định nếu vi phạm quy định về từ chối cung cấp thông tin hoặc không
cung cấp thông tin thì phải chịu trách nhiệm gì.
Đối với người được THA, pháp luật THADS cũng quy định cơ quan, tổ
116
chức, cá nhân đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của người phải
THA có trách nhiệm cung cấp thông tin khi người được THA hoặc người đại diện
theo uỷ quyền của người được THA có yêu cầu, nếu từ chối thì phải có văn bản trả
lời và nêu rõ lý do nhưng cũng không quy định về cơ chế xử lý nếu các chủ thể này
vi phạm quy định. Vì vậy, trên thực tế, người được THA không thực hiện hoạt động
xác minh điều kiện thi hành, kết quả xác minh phụ thuộc hoàn toàn vào CHV được
giao nhiệm vụ tổ chức thi hành án.
Đồng thời, pháp luật THADS hiện hành giao cho CHV nghĩa vụ xác minh
cho mọi loại quyết định thi hành án và người được THA có quyền xác minh là chưa
đảm bảo tính hợp lý trong bối cảnh quá tải công việc của CHV ở một số cơ quan
THADS và bản chất của hoạt động xác minh cũng như tính chất “tư” của loại quyết
định theo yêu cầu thi hành án.
Theo số liệu của Tổng cục THADS thì, năm 2016, tổng số việc phải THA là
821.216 việc, số việc đã thi hành xong là 530.428 việc [12]; năm 2017, tổng số việc
phải THA là 869.430 việc, số việc đã thi hành xong là 549.415 việc [13]; năm 2018,
tổng số việc phải THA là 914.083 việc, số việc đã thi hành xong là 571.708 việc
[14]; năm 2019, tổng số việc phải THA là 959.508 việc, số việc đã thi hành xong là
579.256 việc [15]. Như vậy, bình quân mỗi năm lượng việc mà các cơ quan THA
phải đảm nhiệm tăng trung bình hàng năm từ 5% đến 10%. Số lượng các vụ việc
tăng như vậy, nhưng số biên chế tăng cho các cơ quan THA hàng năm không đáng
kể dẫn đến tình trạng quá tải công việc của CHV và cán bộ THA. Sự quá tải này
cũng làm ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả và chất lượng việc xác minh điều kiện
THA của CHV cơ quan THADS.
Để tổ chức THA, CHV phải tiến hành nhiều thủ tục theo quy định của pháp
luật như phải xuống tận nơi có tài sản hoặc tận nhà của đương sự để xác minh, đôn
đốc, giáo dục, thuyết phục họ THA…, hơn nữa các đương sự không phải ai cũng ở
gần trụ sở cơ quan THA nên mất rất nhiều thời gian, đặc biệt các tỉnh miền núi.
Thực tiễn cho thấy, nếu một CHV phải tổ chức thi hành khoảng 20 vụ việc trong
một tháng, thì CHV chỉ có đủ thời gian để đôn đốc, xác minh mỗi ngày một vụ việc,
hết một lượt 20 vụ việc này là cũng vừa hết tháng, lại quay lại xác minh, đôn đốc
lượt mới, vì vậy không còn thời gian để thực hiện những công việc khác như hòa
giải, kê biên tài sản, tổ chức cưỡng chế THA… vốn là những việc phải mất rất
117
nhiều thời gian để chuẩn bị, phối hợp và tổ chức thực hiện. Theo Báo cáo kết quả
công tác THADS thì số lượng CHV năm 2016 là 3.699 CHV [12]; năm 2017 là
3.867 CHV [13]; năm 2018 là 4.112 CHV [14]; năm 2019 là 4.138 CHV [15].
Nếu tính số lượng việc trên số lượng CHV chúng ta sẽ thấy tình trạng quá tải
công việc của CHV. Ví dụ, trong năm 2019, trung bình 01 CHV phải tổ chức thi
hành: 232 việc (tổng số việc phải THA là 959.508 việc/tổng số CHV 4.138), trong
khi đó, 01 CHV chỉ tổ chức thi hành xong được trung bình từ 140 - 150 việc (số
việc đã thi hành xong 579.256 việc/tổng số CHV 4.138).
Về bản chất, xác minh điều kiện thi hành án là quá trình thu thập thông tin về
điều kiện thi hành án của người phải THA thông qua các cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền nắm giữ thông tin, ít tác động trực tiếp đến người phải THA nên có
thể trao quyền chủ động cho các chủ thể khác thực hiện mà không nhất thiết phải là
CHV - chủ thể được nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định. Đồng
thời, xét dưới góc độ “tư quyền” trong quan hệ thi hành án theo yêu cầu thì người
được THA là chủ thể phù hợp để giao nhiệm vụ xác minh điều kiện thi hành án.
Thứ hai, quy định về trách nhiệm kê khai thông tin về tài sản, thu nhập, điều
kiện thi hành án của người phải thi hành án còn mang tính hình thức.
Pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam quy định người phải thi hành án có
trách nhiệm kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều
kiện thi hành án. Về bản chất, để cưỡng chế người phải THA thực hiện nghĩa vụ,
trách nhiệm thì phải có chế tài đủ mạnh, đủ sức răn đe đối với hành vi vi phạm. Tuy
nhiên, chế tài xử lý đối với trách nhiệm kê khai này chỉ là xử phạt vi phạm hành
chính với mức xử phạt từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng nếu có hành vi vi
phạm quy định này. Bên cạnh đó, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đối với hành
vi này còn nhiều rắc rối, phức tạp do thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thuộc
về Cục trưởng Cục THADS, trong khi người tổ chức thực hiện việc thi hành án
thường là các chấp hành viên của các Chi cục THADS. Ngoài ra, pháp luật cũng
không có chế tài cụ thể về việc chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự không
xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi không kê khai của người phải THA.
Đây là các nguyên nhân khiến cho các cơ quan thi hành án dân sự hầu như chưa tiến
hành xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi không kê khai thông tin về tài sản,
thu nhập, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. Từ đó, dẫn đến thực
trạng là người phải THA thích thì kê khai, nếu không kê khai thì cũng không phải
118
chịu bất kỳ biện pháp chế tài nào.
Thứ ba, các quy định về trách nhiệm pháp lý của các cơ quan, tổ chức nắm
giữ thông tin về tài sản của người phải thi hành án trong việc cung cấp thông tin
còn chưa hợp lý.
Để xác định được cụ thể tài sản thuộc sở hữu, sử dụng của người phải thi
hành án, cần có sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức nắm giữ thông tin về tài sản
của người phải THA. Luật THADS đã có những điều riêng quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan hữu quan trong hoạt động THADS như quy định nhiệm
vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân, Kho bạc nhà nước, các tổ chức tín dụng, Bảo
hiểm xã hội, cơ quan đăng ký tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm... (từ Điều 173 đến
Điều 180 Luật THADS). Tại khoản 7 Điều 44 Luật THADS cũng quy định
“Trường hợp người được thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá nhân không cung cấp
hoặc cung cấp thông tin sai sự thật về điều kiện thi hành án của người phải thi hành
án thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, thanh toán các chi phí phát sinh,
trường hợp gây ra thiệt hại thì phải bồi thường”. Tuy nhiên, những quy định này
mới chỉ quy định mang tính nguyên tắc, chung chung, chưa cụ thể dẫn đến việc khó
áp dụng và thực hiện trên thực tế. Ngoài ra, hình thức chế tài mà Luật THADS quy
định chỉ dừng lại ở xử phạt vi phạm hành chính và mức xử phạt chỉ ở mức rất thấp
(từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi không thực hiện yêu cầu
của CHV về việc cung cấp thông tin mà không có lý do chính đáng), không có tính
răn đe đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm. Đây chính là lý do khiến cơ
quan có thẩm quyền khó xử lý hành vi vi phạm của các tổ chức tín dụng, các cơ
quan, tổ chức nắm giữ thông tin về tài sản của người phải thi hành án. Từ đó, dẫn
đến thái độ thờ ơ, không cung cấp hoặc không cung cấp kịp thời hoặc hành vi tiếp
tay cho đương sự tẩu tán tiền trong tài khoản như ví dụ NCS đã phân tích trong mục
3.1.2.3. của luận án.
Thứ tư, thiếu vắng các quy định để đảm bảo cho hoạt động xác minh hiện
trạng tài sản của chấp hành viên.
Xác minh hiện trạng tài sản là một trong những cơ sở cho việc tổ chức cưỡng
chế thi hành án. Thực tế, nhiều trường hợp chấp hành viên không thể tiến hành xác
minh hiện trạng tài sản do gặp phải sự chống đối của người phải thi hành án. Mặc
dù, khoản 8 Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và
119
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự đã có có quy định về
trường hợp đương sự, người đang quản lý, sử dụng, bảo quản tài sản không thực
hiện theo yêu cầu của Chấp hành viên thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà chấp hành
viên tổ chức cưỡng chế mở khoá, mở gói; buộc ra khỏi nhà, công trình xây dựng, tài
sản gắn liền với đất hoặc các biện pháp cần thiết khác để kiểm tra hiện trạng, thẩm
định giá, bán đấu giá tài sản hoặc giao tài sản cho cá nhân, tổ chức khác bảo quản
theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, điều luật này mới chỉ dừng lại ở quy định
quyền cho chấp hành viên mà chưa có quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ
chức có liên quan trong việc hỗ trợ chấp hành viên khi kiểm tra hiện trạng tài sản,
đồng thời, quy định về các khoản chi phí chi trả cho hoạt động cưỡng chế để kiểm
tra hiện trạng cũng chưa được quy định cụ thể dẫn đến thực tế là chấp hành viên
chưa thể áp dụng quy định này trên thực tế.
Thứ năm, pháp luật chưa có quy định cụ thể về uỷ thác tư pháp trong xác
minh điều kiện thi hành án dân sự
Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan thì hoạt động
thi hành án dân sự có yếu tố nước ngoài sẽ luôn tồn tại và ngày càng phát triển.
Đồng thời, với các quy định thông thoáng về quyền sở hữu tài sản, bao gồm cả bất
động sản ở nhiều quốc gia trên thế giới thì khả năng người ở quốc gia này có tài sản
ở quốc gia khác cũng là một thực tế không thể phủ nhận. Tuy nhiên, như NCS phân
tích ở mục 3.1.3.4. của luận án, pháp luật thi hành án dân sự chỉ dừng lại ở các quy
định về uỷ thác tư pháp đối với việc thông báo các giấy tờ, tài liệu về thi hành án
mà chưa có quy định về vấn đề uỷ thác tư pháp trong xác minh địa chỉ, tài sản của
người phải thi hành án. Đây là một trong những lý do khiến cho hoạt động thi hành
án có yếu tố nước ngoài chưa phát huy được hiệu quả của nó, trong khi nhiều
trường hợp phát hiện người phải THA có tài sản ở nước ngoài nhưng chưa có cơ
chế truy tìm và xử lý.
Thứ sáu, pháp luật chưa xác định rõ trách nhiệm pháp lý của cơ quan
THADS nơi nhận uỷ quyền xác minh điều kiện thi hành án dân sự
Uỷ quyền xác minh là một quy định phục vụ cho mục đích tăng cường hiệu
quả và tiết kiệm tối đa chi phí tổ chức thi hành án. Theo đó, người phải thi hành án
có thể có tài sản, cư trú, làm việc hoặc có trụ sở ở địa phương khác với nơi đặt trụ
sở của cơ quan thi hành án đang tổ chức thi hành. Với quy định về xác minh điều
kiện thi hành án thì chấp hành viên đang tổ chức thi hành vụ việc có nghĩa vụ xác
120
minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. Tuy nhiên, việc chấp hành
viên ở địa phương này đến địa phương khác để xác minh điều kiện thi hành án sẽ
làm tăng chi phí thực hiện xác minh điều kiện thi hành án dân sự, chưa kể đến
những phức tạp nảy sinh từ các thủ tục hành chính để cung cấp thông tin do chưa
thiết lập được mối quan hệ trong công việc một cách thường xuyên với các cơ quan
nắm giữ thông tin về điều kiện thi hành án của người phải THA tại địa phương. Do
vậy, việc uỷ quyền xác minh là cần thiết trong bối cảnh cơ chế quản lý tài sản ở
nước ta còn manh mún, thuộc thẩm quyền của nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau và
ở các địa phương khác nhau trong phạm vi cấp tỉnh, thậm chí là cấp huyện (đối với
tài sản là quyền sử dụng đất do cấp huyện có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận).
Pháp luật THADS đã quy định cụ thể về vấn đề uỷ quyền xác minh, tuy
nhiên, do chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm pháp lý của cơ quan THADS nơi
nhận uỷ quyền xác minh nên vẫn còn tình trạng cơ quan THADS chậm thực hiện
xác minh hoặc xác minh không đúng, không chính xác về điều kiện thi hành án của
người phải THA.
Thứ bảy, sự thiếu hợp lý trong quy định về thời hạn xác minh điều kiện thi
hành án dân sự.
Trong pháp luật THADS, thời hạn xác minh điều kiện thi hành án dân sự của
chấp hành viên được thể hiện ở hai góc độ là thời hạn xác minh khi chấp hành viên
được giao nhiệm vụ tổ chức thi hành bản án, quyết định và thời hạn xác minh đối
với trường hợp người phải THA chưa có điều kiện thi hành án. Các quy định hiện
hành về thời hạn xác minh điều kiện thi hành án dân sự vẫn còn những điểm thiếu
hợp lý như sau:
Một là, việc quy định thời điểm bắt đầu thời hạn là sau khi hết thời hạn tự
nguyện thi hành án sẽ tạo nên khó khăn, trở ngại cho chấp hành viên trong quá trình
tổ chức thi hành án. Cụ thể như trường hợp người được THA yêu cầu CHV áp dụng
biện pháp bảo đảm thi hành án là phong toả tài khoản ngay trong thời gian tự
nguyện thi hành án thì quy định xác minh sau khi hết thời gian tự nguyện sẽ là rào
cản để CHV thực hiện các biện pháp bảo đảm này. Bởi lẽ, đối với biện pháp phong
toả tài khoản CHV sẽ chỉ áp dụng khi có căn cứ xác định cụ thể số tiền trong tài
khoản của người phải thi hành án. Để xác định cụ thể số tiền này trong tài khoản,
CHV phải thực hiện hoạt động xác minh điều kiện thi hành án dân sự (trừ trường
hợp người được thi hành án cung cấp được kết quả xác minh về số tiền trong tài
121
khoản của người phải thi hành án). Trong khi đó, pháp luật không có quy định ngoại
lệ cho phép chấp hành viên được xác minh trong thời gian tự nguyện đối với trường
hợp áp dụng biện pháp bảo đảm này. Bên cạnh đó, trên thực tế, để tiết kiệm thời
gian đi lại, CHV thường sẽ kết hợp việc xác minh cùng với hoạt động thông báo
quyết định thi hành án cho người phải THA. Tuy nhiên, quy định về thời điểm bắt
đầu thời hạn xác minh là sau khi hết thời gian tự nguyện thi hành án sẽ khiến CHV
không tận dụng được lợi thế của sự kết hợp nhiều công việc cùng lúc.
Hai là, việc quy định giới hạn thời hạn xác minh của CHV chỉ trong 10 ngày
là một thời hạn không hợp lý so với thời gian vật chất mà CHV có cũng như lượng
việc mà CHV được giao trong một năm như NCS phân tích ở mục 3.1.5. của luận
án. Sự không hợp lý này hoặc dẫn đến tình trạng vi phạm về thời hạn xác minh tại
các cơ quan thi hành án dân sự hoặc dẫn đến hành vi đối phó, gian dối của CHV
như ghi ngày xác minh phù hợp với quy định thay vì ghi ngày xác minh mà CHV
thực hiện thực tế. Cả hai hệ quả này đều sẽ ảnh hưởng đến uy tín, hình ảnh của
CHV với tư cách là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết
định của Toà án.
Ba là, quy định CHV chỉ phải xác minh khi có thông tin mới về điều kiện thi
hành án của người phải THA đối với mọi loại việc thi hành án chưa có điều kiện thi
hành án được thống kê để theo dõi riêng là không hợp lý. Cụ thể, đối với việc thi
hành án theo đơn yêu cầu, việc dừng xác minh của CHV là phù hợp vì bên cạnh cơ
quan THA có trách nhiệm thi hành vụ việc, còn có người được THA luôn theo dõi
sát sao quá trình tổ chức THA. Nếu người phải THA “rơi” vào hoàn cảnh chưa có
điều kiện THA thì người được THA sẽ có trách nhiệm theo dõi sự thay đổi về điều
kiện THA của người phải THA và cung cấp thông tin cho CHV khi có sự thay đổi.
Còn đối với trường hợp chủ động ra quyết định THA thì không có ai cung cấp
thông tin mới về điều kiện THA của người phải THA ngoại trừ CHV. Do đó, để biết
được người phải THA có hay không có thông tin mới về điều kiện THA, buộc CHV
phải tiến hành xác minh. Việc dừng xác minh của CHV sẽ làm ảnh hưởng đến
quyền lợi của Nhà nước.
Thứ tám, tính độc lập của chấp hành viên trong việc tổ chức thi hành án nói
chung và xác minh điều kiện thi hành án nói riêng còn chưa được bảo đảm.
Do sự bất cập về mô hình tổ chức của cơ quan THADS nên chưa tạo được vị
thế cho các CHV, tiếng nói của cơ quan THA cũng như các CHV chưa được các cơ
122
quan, tổ chức ở địa phương coi trọng. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn
đến sự bất cập về mô hình tổ chức của các cơ quan THADS là hiện nay vẫn không
có sự nhận thức thống nhất về tính chất của hoạt động THA. Rất nhiều công trình
khoa học, nhiều cơ quan có thẩm quyền soạn thảo, ban hành những văn bản quy
phạm pháp luật về THADS vẫn còn đang tranh luận xem hoạt động THA, nhất là
THADS mang tính chất hành chính hay là tư pháp, tố tụng tư pháp hay là hành
chính - tư pháp... Vì vậy, dẫn đến hậu quả là đến nay địa vị pháp lý của các cơ quan
THADS nói chung và địa vị pháp lý của CHV nói riêng chưa được pháp luật quy
định rõ, tính độc lập trong khi tổ chức THA của CHV không được bảo đảm. Nhiều
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng không được thi hành, do một số
cơ quan, chính quyền các cấp vì lợi ích cục bộ địa phương đã cản trở hoặc có sự can
thiệp từ phía các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền, gây ra tình trạng trì trệ trong
THA, thậm chí còn có sự can thiệp từ chính Ban chỉ đạo THA, người có nhiệm vụ
phối hợp, chỉ đạo các lực lượng cưỡng chế THA. Chẳng hạn như trên các trang báo
điện tử đã đăng tải rất nhiều bài viết phản ánh về tình trạng can thiệp của các cá
nhân, cơ quan có thẩm quyền vào hoạt động tổ chức THA.
Trong bài viết “Án đã tuyên, bí thư huyện can thiệp” của tác giả Duy Nhân
đã phản ánh như sau:
Ngày 29/5/2013, Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu tuyên bà Oanh có nghĩa vụ
trả lại di sản thừa kế là ngôi nhà gắn liền với mảnh đất rộng 168,1 m2 tại ấp Nội Ô,
thị trấn Phước Long cho ông Minh. Do ngôi nhà có một căn chính và 2 căn phụ,
giáp 2 mặt tiền nên ông Minh tự nguyện chia cho bà Oanh nguyên căn nhà phụ thứ
2 và một phần căn nhà phụ thứ nhất để ở và nuôi con.
Kể từ khi bản án có hiệu lực thi hành, cơ quan THA huyện Phước Long cho bà
Oanh thời hạn 6 tháng để di dời, đồng thời ông Minh và những người con cũng đồng ý
hỗ trợ toàn bộ chi phí di dời, sửa chữa nhà cho bà Oanh. Thế nhưng, hơn 1 năm trôi qua,
bà Oanh vẫn không THA, trong khi ông Minh và các con phải thuê nhà ở tạm.
Ngày 22/7/2014, ông Tăng Quốc Hùng, Cục trưởng Cục THADS tỉnh Bạc
Liêu, có công văn đề nghị Chi cục THADS huyện Phước Long động viên, thuyết
phục bà Oanh tự nguyện THA, chậm nhất là đến ngày 15/8/2014. Công văn này
cũng nêu rõ nếu bà Oanh không chấp hành thì phải cưỡng chế THA. Tuy nhiên, quá
thời hạn trên, bà Oanh vẫn không hợp tác và Chi cục THADS huyện Phước Long
123
vẫn không có động thái gì.
Đến ngày 3/9/2014, ông Trần Hoàng Duyên, Bí thư Huyện ủy Phước Long,
có thông báo chỉ đạo gia hạn THA đối với bà Oanh để chờ giám đốc thẩm. Điều
đáng nói là trước khi có văn bản chỉ đạo của ông Duyên, ngày 15/8/2014, Tòa án
nhân dân Tối cao đã có thông báo giải quyết đơn kháng nghị của bà Oanh với nội
dung không có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án
phúc thẩm nêu trên.
Theo tác giả, bản án tranh chấp chia thừa kế đã có hiệu lực thi hành nhưng vì
văn bản chỉ đạo “chờ giám đốc thẩm” của bí thư huyện ủy khiến việc THA cứ cù
nhầy, người được THA phải sống cảnh vô gia cư [60].
Trên đây chỉ là một trong vô vàn các cách thức can thiệp khác nhau của các
cơ quan, cá nhân có thẩm quyền vào hoạt động THA.
Ngoài ra, trong quá trình THA nói chung và quá trình xác minh điều kiện
THADS nói riêng, người phải THA và những người có quyền, nghĩa vụ liên quan
thường tỏ ra thờ ơ, thậm chí còn có những biểu hiện chống đối quyết liệt nhưng
CHV chỉ có thể xử lý hành vi này thông qua quyền lực của cơ quan công an hoặc
của chính quyền địa phương. Chẳng hạn như NCS đã phân tích ở mục 3.1. của luận
án về xác minh điều kiện THADS đối với trường hợp CHV muốn thực hiện việc
xác minh điều kiện THA để giao nhà và các tài sản gắn liền nhưng người phải THA
không cho CHV vào nhà để xác minh hiện trạng tài sản, trong khi đó, quy định pháp
luật về việc cho phép CHV huy động lực lượng công an phối hợp để yêu cầu người
phải THA cho CHV vào nhà xác minh lại thiếu rõ ràng khiến CHV gặp khó khăn rất
lớn trong công tác này. Hoặc là trường hợp người phải THA cất giấu tiền, giấy tờ có
giá, tài sản ở trong két sắt, trong tủ nhưng CHV không được quyền yêu cầu mở tủ,
mở két sắt để xác minh tài sản nên cũng gây khó khăn cho quá trình xác định tài sản
của người phải THA.
Thứ chín, cơ chế quản lý tài sản của người phải THA vẫn còn manh mún,
thiếu minh bạch
Một trong những đối tượng chủ yếu của hoạt động thi hành án dân sự là các
tài sản có đăng ký sở hữu, sử dụng hoặc các tài khoản của người phải THA. Tuy
nhiên, như NCS đã phân tích ở mục 3.1.2 của luận án, các sổ đăng ký quyền sở hữu,
sử dụng được quản lý hết sức manh mún. Chẳng hạn như sổ đăng ký đất đai của cá
nhân thì cấp quản lý là ở cấp huyện; đối với xe ô tô, máy kéo, rơ moóc, sơ mi rơ moóc;
124
xe mô tô có dung tích xi lanh từ 175cm3 trở lên hoặc xe có quyết định tịch thu của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền và các loại xe có kết cấu tương tự xe nêu trên của cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài, kể cả xe quân đội làm kinh tế có trụ
sở hoặc cư trú tại địa phương thì cơ quan quản lý là Phòng cảnh sát giao thông thuộc
công an cấp tỉnh; đối với tàu biển thì cơ quan quản lý là Cục Hàng hải Việt Nam hoặc
các Chi cục hàng hải, Cảng vụ hàng hải. Bên cạnh đó, đối với tài khoản của người phải
THA cũng thuộc quyền quản lý của Ngân hàng nơi có tài khoản của người phải THA
mà không có dữ liệu chung về tài khoản. Thực tế, người phải THA có thể sở hữu, sử
dụng tài sản ở địa phương ngoài địa bàn cư trú và có thể mở tài khoản ở bất kỳ Ngân
hàng nào, thậm chí ở ngoài lãnh thổ Việt Nam. Trong khi đó, CHV chỉ có nghĩa vụ và
trách nhiệm xác minh điều kiện THADS tại địa bàn cấp huyện nơi người phải thi hành
án cư trú. Đây là một kẽ hở để người phải THA tận dụng nhằm che dấu điều kiện
125
THADS của mình.
Tiểu kết chƣơng 3
Chương 3 của luận án đã khái quát hoá thực trạng pháp luật Việt Nam về xác
minh điều kiện THADS. Trên cơ sở nền tảng lý luận được xây dựng ở Chương 2,
Chương 3 đã mô tả và bình luận các quy định của pháp luật Việt Nam về chủ thể
xác minh, nội dung xác minh và trình tự, thủ tục xác minh điều kiện THADS, đồng
thời làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng pháp luật hiện hành về xác minh điều kiện
THADS bằng việc phân tích một số vụ việc được giải quyết trong thực tiễn. Từ các
phân tích đó cho thấy những bất cập, hạn chế của các quy định về xác minh điều
kiện THADS. Cụ thể, chủ thể xác minh điều kiện THADS còn chưa phù hợp với
nền tảng lý luận đã được xây dựng. Với tư cách là chủ thể được trao quyền lực nhà
nước trong hoạt động xác minh điều kiện THA, các chủ thể xác minh điều kiện
THADS theo pháp luật THADS hiện hành chưa thực sự được trao quyền lực đó.
Điều này là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những khó khăn, vướng mắc trong hoạt
động xác minh điều kiện THADS.
Bên cạnh đó, đối tượng của hoạt động xác minh điều kiện THADS là các tài
sản, thu nhập nên vấn đề quản lý tài sản, thu nhập sẽ có tác động lớn đến hiệu quả
của công tác xác minh điều kiện THADS. Trong khi đó, pháp luật về đăng ký tài
sản, quản lý tài khoản của các tổ chức, cá nhân… vẫn còn manh mún và chưa hoàn
thiện khiến cho hoạt động xác minh điều kiện THADS chưa hiệu quả. Ngoài ra,
pháp luật về xác minh điều kiện THADS còn vướng mắc, bất cập trong các quy
định như: trách nhiệm kê khai thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án
của người phải THA; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nắm giữ thông
tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; uỷ thác xác minh điều kiện
THADS; uỷ quyền xác minh điều kiện THADS; thời hạn tiến hành xác minh điều
kiện THADS; bảo đảm việc xác minh hiện trạng tài sản của CHV; tính độc lập của
CHV trong việc xác minh điều kiện THADS.
Dựa trên những đánh giá, nhận định về các bất cập chủ yếu của pháp luật về
xác minh điều kiện THADS ở Việt Nam, Chương 3 cũng đã phân tích một số
nguyên nhân của những bất cập, trong đó, không chỉ có những nguyên nhân khách
quan mà còn bao gồm cả những nguyên nhân chủ quan như kỹ thuật lập pháp, trình
độ của đội ngũ CHV, tổ chức thực hiện pháp luật… dẫn đến những hạn chế của
126
pháp luật điều chỉnh hoạt động xác minh điều kiện THADS.
Chƣơng 4
ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ XÁC MINH ĐIỀU KIỆN
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
4.1. Định hƣớng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp
luật về xác minh điều kiện thi hành án dân sự
4.1.1. Hoàn thiện pháp luật xác minh điều kiện thi hành án phải xuất phát từ
yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước pháp quyền là một trong những thành tựu của loài người trong
việc tổ chức và vận hành xã hội. Những ý tưởng về Nhà nước pháp quyền đã có từ
lâu trong lịch sử nhân loại và được các nhà khoa học chính trị, luật học, xã hội học,
sử học nghiên cứu từ nhiều phương diện khác nhau. Nhà nước pháp quyền được các
nhà luật học của nhiều nước định nghĩa bằng những ngôn ngữ và diễn đạt khác
nhau, song về bản chất có thể tóm lại như sau: “Nhà nước pháp quyền là Nhà nước
thực thi quyền lực của mình dựa trên nền tảng pháp luật được ban hành theo thủ tục
hiến định nhằm bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý”. Như
vậy, nếu phân tích đầy đủ khái niệm này từ góc độ pháp luật, có thể thấy rằng, một
Nhà nước pháp quyền phải là Nhà nước chịu sự kiểm soát, sự chế ngự của pháp luật
trong mọi hoạt động của mình. Chính vì vậy, công chức nhà nước chỉ được làm
những gì mà pháp luật cho phép được coi như một trong những nguyên tắc chi phối
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước pháp quyền. Khía cạnh khác của Nhà
nước pháp quyền, hầu như đối lập với yêu cầu kiểm soát và kiềm chế đối với bộ
máy nhà nước là yêu cầu về các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý. Ở
khía cạnh này, Nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ phải bảo đảm bằng pháp luật các
quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý. Những công chức và cơ quan thực
thi pháp luật không được có những hành vi hoặc quyết định hạn chế hay tước quyền
tự do, dân chủ và tiếp cận công lý của người dân mà không dựa trên những cơ sở
chắc chắn của pháp luật. Công dân được quyền làm bất cứ điều gì mà pháp luật
không cấm được coi là nguyên tắc tổ chức và điều chỉnh các quan hệ xã hội trong
Nhà nước pháp quyền.
Ngay từ khi mới thành lập, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trước
đây, Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay đã có rất nhiều đặc điểm của
127
một Nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, mãi đến những năm thực hiện công cuộc đổi
mới, Nhà nước pháp quyền XHCN mới trở thành một khái niệm chính trị - pháp lý
chính thức trong xã hội ta và để từ đó được hiện thực hoá trong sự nghiệp đổi mới
và trở thành một trong những nền tảng của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
ngày nay. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra nhiệm vụ của toàn Đảng,
toàn dân ta là “xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Đồng thời, lần đầu tiên trong Hiến pháp
2013 tại khoản 1 Điều 2 đã ghi rõ: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” [72, Điều
2]. Đây chính là sự tiếp tục phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp
quyền trong điều kiện mới. Thực tiễn của công cuộc đổi mới những năm qua ngày
càng khẳng định yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của
Đảng là một tất yếu khách quan, mang tính quy luật của quá trình đi lên chủ nghĩa
xã hội trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở rộng
giao lưu quốc tế và hội nhập quốc tế của nước ta. Tuy nhiên, do được xây dựng trên
nền tảng của một hệ thống chính trị - pháp lý đặc thù của thời kỳ chuyển đổi từ kinh
tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường, nên nhiều cấu trúc, định chế, đặc
biệt là hệ thống pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cần được tiếp
tục hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Pháp luật về xác minh điều kiện THA trong nhà nước pháp quyền phải
được xây dựng với chất lượng cao, thể hiện đúng đắn ý chí của nhân dân, phù hợp
với thực tế khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nguyên tắc chủ quyền nhân dân
không những cần được thể hiện rõ trong các văn bản pháp luật quy định về xác
minh điều kiện THADS mà còn phải được cụ thể hoá bằng các cơ chế pháp lý hữu
hiệu để đảm bảo trên thực tế sự tham gia rộng rãi của các tổ chức xã hội, các đoàn
thể quần chúng và các công dân trong hoạt động THA, đảm bảo thực hiện dân chủ
và công bằng xã hội, góp phần giữ gìn kỷ cương pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân khi bị xâm hại. Pháp luật THADS nói
chung và pháp luật về xác minh điều kiện THA nói riêng phải trở thành công cụ
sắc bén trong việc bảo đảm các quyền và tự do cơ bản của con người và của công
dân, là những giá trị xã hội cao nhất trong Nhà nước pháp quyền. Như vậy, xuất
phát từ yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, việc hoàn thiện
128
pháp luật về xác minh điều kiện THA phải đảm bảo các yêu cầu sau:
Một là, pháp luật về xác minh điều kiện THA phải mang tính ổn định.
Một trong những hạn chế của hệ thống pháp luật hiện hành nói chung, pháp
luật về THADS và xác minh điều kiện THA nói riêng đó là pháp luật thường xuyên
thay đổi. Thực tế này là hệ quả tất yếu của việc chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch
hoá tập trung sang kinh tế thị trường. Trong quá trình thể chế hoá các yêu cầu của
sự phát triển kinh tế, xã hội, có không ít các quan điểm e ngại với những vấn đề
mới, chỉ chấp nhận những vấn đề đã chín muồi, có sự đồng thuận cao, do đó khó tạo
ra những đột phá và từ đó, có sự ổn định cần thiết. Thực tế này có nguyên nhân ở sự
thiếu vắng những tầm nhìn và quan điểm chiến lược cho sự phát triển các lĩnh vực
kinh tế - xã hội cụ thể và từ đó, của cả hệ thống pháp luật. Pháp luật về THADS thời
gian qua thường xuyên có sự thay đổi, cụ thể: từ Pháp lệnh THADS 1993, đến Pháp
lệnh THADS năm 2004, Luật THADS năm 2008 và Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật THADS năm 2014. Pháp luật thường xuyên bị thay đổi, dẫn đến
những khó khăn đáng kể trong việc thực hiện và tác động xấu đến sự ổn định của
các quan hệ xã hội, nhất là đối với các quan hệ kinh tế. Chính vì vậy, việc hoàn
thiện pháp luật về xác minh điều kiện THA nói riêng và pháp luật về THADS nói
chung phải đảm bảo yêu cầu các quy định phải mang tính ổn định.
Hai là, pháp luật về xác minh điều kiện THA phải đảm bảo tính nhất quán,
tính hệ thống.
Tính hệ thống của pháp luật nước ta còn nhiều hạn chế. Các văn bản luật, các
văn bản dưới luật khác nhau chưa thực sự tạo thành một chỉnh thể với những
nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt mang tính chuyên ngành hoặc liên ngành. Theo
thống kê của Bộ Tư pháp, “qua kiểm tra 1.506 văn bản pháp luật đã ban hành của
cấp bộ và địa phương trong năm 2007, phát hiện 320 văn bản có dấu hiệu trái pháp
luật. Năm 2008, kiểm tra 1.968 văn bản thì phát hiện 490 văn bản có dấu hiệu trái
pháp luật (trong đó có 93 văn bản cấp bộ và 397 văn bản của địa phương). Như vậy,
khoảng từ 20-25% số văn bản được kiểm tra có dấu hiệu vi phạm” [61].
Chính vì vậy, hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện THA nói riêng và
pháp luật về THADS nói chung phải đảm bảo tính nhất quán, tính hệ thống. Trước
tiên, pháp luật về xác minh điều kiện THA phải bảo đảm sự nhất quán. Điều này thể
hiện ở chỗ các văn bản pháp luật trong cùng một lĩnh vực, hoặc trong nhiều lĩnh vực
khác nhau, đều thống nhất trong việc xác lập mô hình hành vi. Tránh tình trạng văn
129
bản luật thì cho phép nhưng xuống đến văn bản hướng dẫn thi hành luật lại không
cho phép, đồng thời, văn bản luật và văn bản có giá trị pháp lý thấp hơn luật đều
phải phù hợp với Hiến pháp. Mặt khác, hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện
THA cần đặt trong mối tương quan với toàn bộ hệ thống pháp luật. Điều này là hết
sức cần thiết, bởi lẽ dù pháp luật Việt Nam được chia ra thành các ngành luật nhưng
trên thực tế, xã hội là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, nên giữa các quy phạm pháp
luật luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau, dù thuộc về các ngành luật khác
nhau. Tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật còn được xem xét trong mối
quan hệ giữa luật chung và luật chuyên ngành, luật nội dung và luật hình thức…
Bởi vậy, việc xem xét về tính thống nhất của hệ thống pháp luật đòi hỏi phải có một
cái nhìn bao quát, toàn diện ở nhiều góc độ, nhiều cấp độ khác nhau. Tính thống
nhất của hệ thống pháp luật đòi hỏi phải loại bỏ mâu thuẫn, trùng lặp hay chồng
chéo ngay trong bản thân hệ thống, trong mỗi ngành luật, mỗi chế định pháp luật và
giữa các quy phạm pháp luật với nhau, xác định ranh giới giữa các ngành luật và
định ra một hệ thống quy phạm pháp luật đồng bộ. Nếu một hệ thống pháp luật
không thống nhất, giữa các bộ phận của nó chứa đựng mâu thuẫn, chồng chéo, thì
hệ thống ấy không thể tạo ra sự điều chỉnh pháp luật một cách toàn diện, đồng bộ và
hiệu quả. Do đó, hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện THA phải được đặt
trong tổng thể hệ thống pháp luật, đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ giữa pháp luật tố
tụng và pháp luật nội dung; giữa pháp luật THA với các lĩnh vực pháp luật có liên
quan... giữa chúng phải có sự phối hợp, bổ sung cho nhau trong điều chỉnh các quan
hệ xã hội mà không có sự chồng chéo, mâu thuẫn, thậm chí làm vô hiệu lẫn nhau.
Ba là, pháp luật về xác minh điều kiện THA phải đảm bảo tính minh bạch.
Tính minh bạch của hệ thống pháp luật Việt Nam còn hạn chế, nhất là nhìn
nhận từ tính minh xác, tính minh định. Công báo của Trung ương và các tỉnh đã
đăng tải khá đầy đủ, kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật. Các phương tiện
thông tin đại chúng, cả hệ thống chính trị và xã hội đã có nhiều cố gắng tuyên
truyền, phổ biến rộng rãi pháp luật. Như vậy, xét ở khía cạnh khả năng tiếp cận thì
tính minh bạch của hệ thống pháp luật được bảo đảm tốt hơn. Tuy nhiên, xét ở tính
minh xác, tính minh định thì hệ thống pháp luật vẫn còn thiếu tính minh bạch.
Chính hạn chế này khiến các chủ thể thực sự lúng túng khi thực hiện hay áp dụng
pháp luật. Quy trình xây dựng pháp luật vẫn chưa tạo được cho công chúng những
tiếp cận và tham gia cần thiết. Các ý kiến của chuyên gia, của các nhà khoa học nói
130
riêng và của công chúng nói chung chưa thực sự được cân nhắc và tiếp thu. Mặt
khác, tính tích cực công dân tham gia xây dựng pháp luật nhìn chung chưa cao. Tuy
nhiên, theo phân tích ở trên, đối với hệ thống pháp luật của nhà nước pháp quyền
XHCN thì không thể thiếu được tính minh bạch. Chính vì vậy, việc hoàn thiện pháp
luật về xác minh điều kiện THA cũng phải đảm bảo tính minh bạch. Theo đó, pháp
luật về xác minh điều kiện THA nói riêng và pháp luật về THADS nói chung khi
xây dựng, hoàn thiện phải minh bạch từ giai đoạn lập chương trình xây dựng, đến
giai đoạn soạn thảo, giai đoạn thẩm tra, thẩm định dự thảo và giai đoạn công bố.
Pháp luật về xác minh điều kiện THA được xây dựng phải đảm bảo tính rõ ràng,
rành mạch, dễ hiểu, đồng thời phải công khai cho mọi người cùng biết và nắm bắt
được các quyền và nghĩa vụ của mình để tuân thủ nghiêm túc và thực hiện theo quy
định của pháp luật.
Bốn là, pháp luật về xác minh điều kiện THA phải đảm bảo sự công bằng xã
hội, bình đẳng xã hội.
Hệ thống pháp luật phải đảm bảo sự công bằng xã hội, bình đẳng xã hội là
một trong những tiêu chí trong hệ thống pháp luật của nhà nước pháp quyền XHCN.
Chính vì vậy, để đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN thì hệ
thống pháp luật của nước ta cần được tiếp tục hoàn thiện, trong đó có pháp luật về
THADS nói chung và pháp luật về xác minh điều kiện THA nói riêng. Theo đó, các
quy định pháp luật về xác minh điều kiện THA không chỉ bảo đảm cá nhân, tổ chức
cùng tồn tại trong sự hoà hợp và tự do mà cả trong sự bình đẳng, công bằng xã hội,
không sự phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, giới tính, thành phần xã hội, địa vị xã hội...
4.1.2. Hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện THA phải xuất phát từ
thực tiễn THA dân sự
Xác minh điều kiện THA là một thủ tục mà CHV phải thực hiện trong quá
trình tổ chức THADS. Do vậy, việc đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
về xác minh điều kiện THA cần dựa trên những đặc điểm của hoạt động THADS ở
Việt Nam. Như vậy, mới đảm bảo cho việc điều chỉnh pháp luật về xác minh điều
kiện THA “không nằm ngoài” các quan hệ mà nó điều chỉnh.
THADS là một trong những hoạt động quan trọng của nhà nước nhằm đưa
các bản án, quyết định đã có hiệu lực ra thi hành trên thực tế. Điều 106 Hiến pháp
2013 quy định: “Bản án, quyết định của TAND có hiệu lực pháp luật phải được cơ
quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm
131
chỉnh chấp hành”. Hoạt động THADS có vai trò, vị trí rất quan trọng trong việc bảo
đảm tính thực thi của pháp luật, bởi lẽ phán quyết của Toà án nhân danh nhà nước
sẽ chỉ là những phán quyết trên giấy nếu không được tổ chức thi hành hoặc thi hành
không đầy đủ trên thực tế. Hoạt động THA có hiệu quả, một mặt vừa đảm bảo có
hiệu quả quyền tư pháp của nhà nước, thể hiện sự tôn trọng của xã hội, của công
dân đối với phán quyết nhân danh nhà nước của Toà án; mặt khác nó là công cụ hữu
hiệu để khôi phục lại các quyền và lợi ích hợp pháp của xã hội và công dân khi bị
xâm hại.
Một trong những hạn chế của hệ thống pháp luật nước ta đó là trên nhiều lĩnh
vực quan hệ xã hội, xây dựng pháp luật chưa gắn với quản lý thi hành pháp luật, do
đó, khó tránh khỏi hậu quả pháp luật xa rời thực tiễn, không những không phản ánh
đầy đủ thực tại, mà còn khó có khả năng dự báo, đi trước sự phát triển của quan hệ
xã hội. Hệ thống pháp luật phải phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế xã hội,
nó không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển đó. Một hệ thống pháp
luật xa rời cuộc sống sẽ vô tình làm người dân mất đi lòng tin vào khả năng xây
dựng pháp luật của cơ quan có thẩm quyền.
Từ thực tế trên, đòi hỏi các chính sách, giải pháp hoàn thiện pháp luật về xác
minh điều kiện THA phải đảm bảo tính khả thi. Tính khả thi của hệ thống pháp luật
nói chung và pháp luật về xác minh điều kiện THA nói riêng phải phản ánh, phù
hợp với tình hình THADS trên thực tế. Như vậy, pháp luật về xác minh điều kiện
THA mới có tính khả thi và đi vào cuộc sống. Tính khả thi trong việc hoàn thiện
pháp luật về xác minh điều kiện THA thể hiện qua yêu cầu: Pháp luật về xác minh
điều kiện THA phải bảo đảm khung khổ pháp lý cho các chủ thể tiến hành xác minh
điều kiện THA vừa phù hợp với thực tiễn, vừa định liệu trước các vấn đề có thể
phát sinh trong quá trình thực hiện xác minh điều kiện THA tại Việt Nam.
4.1.3. Hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án phải đáp ứng
các yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
Hợp tác quốc tế là nhu cầu, là xu thế tất yếu trong sự tồn tại và phát triển của
tất cả các quốc gia trong thời đại ngày nay. Nhận thức được tầm quan trọng của hội
nhập kinh tế quốc tế, nên liên tiếp trong các kỳ đại hội Đảng, từ Đại hội Đảng lần
thứ VI đến nay, Đảng ta vẫn khẳng định vấn đề hợp tác quốc tế về kinh tế. Trong
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 trình bày tại Đại hội
Đảng lần thứ VII (năm 1991), Đảng ta đã nhận định: “Quá trình quốc tế hoá kinh tế
132
thế giới, quan hệ giao lưu kinh tế và khoa học kỹ thuật, xu thế hòa bình và hợp tác ở
khu vực và trên thế giới ngày càng phát triển. Với đường lối đổi mới và cởi mở,
nước ta có thể tận dụng được những khả năng to lớn về vốn, thị trường, công nghệ
và kinh nghiệm quản lý của bên ngoài để bổ sung và phát huy sức mạnh trong
nước” [34]. Trên cơ sở đó, Đảng ta đã đề ra đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa
dạng hoá, đa phương hoá theo tinh thần “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” nhằm
tham gia tích cực vào đời sống kinh tế quốc tế. Đại hội Đảng lần thứ VIII tiếp tục
xác định nhiệm vụ “mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc
tế và khu vực, củng cố và nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế” [35],
khẳng định chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở, đa phương hoá và đa dạng
hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, tranh thủ vốn, công nghệ và thị thị trường quốc tế,
hợp tác nhiều mặt, song phương, đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và
khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Đại hội lần thứ IX
của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ trương “chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả
hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân
tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường” [36].
Đặc biệt, Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị đã đưa ra
những đánh giá về tình hình thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế và nhấn
mạnh nội dung hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay,
trong đó xác định rõ mục tiêu: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng
thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công
nghiệp hoá theo định hướng XHCN, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Trước mắt là thực hiện thắng lợi nhiệm vụ nêu ra trong
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội năm 2001-2010 và Kế hoạch 5 năm 2001-2005”
[4]. Đây là nghị quyết rất quan trọng, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế ở nước ta. Tiếp đó, Đại hội X nhấn mạnh chủ trương “chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác” [37].
Ngày 05/02/2007, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị
quyết số 08-NQ/TW “Về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát
triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế
133
giới” [2]. Đại hội XI đã đề ra đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ phát
triển mới, trong đó có chủ trương rất quan trọng là “chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế” [38]. Từ “hội nhập kinh tế quốc tế” của các kỳ đại hội trước, chuyển sang
“hội nhập quốc tế” một cách toàn diện là một phát triển quan trọng về tư duy đối
ngoại của Đảng ta. Ngày 10/4/2013, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-
NQ/TW về hội nhập quốc tế [5]. Đây là văn kiện quan trọng, có ý nghĩa chiến lược,
làm rõ và thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân về hội nhập quốc tế trong
tình hình mới. Nghị quyết đã xác định rõ hội nhập quốc tế sẽ được triển khai sâu
rộng trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt, hội nhập kinh tế phải gắn với yêu cầu đổi mới mô
hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế.
Qua đó cho thấy, hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương nhất quán và là
nội dung trọng tâm trong chính sách đối ngoại và hợp tác kinh tế quốc tế của Đảng
ta trong quá trình đổi mới đất nước. Thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế
của Đảng, đất nước ta đã từng bước, chủ động hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền
kinh tế khu vực và thế giới. Những kết quả đạt được trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng
cao vị thế, vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, quá
trình hội nhập cũng đặt nền kinh tế nước ta trước những thách thức lớn, đòi hỏi
chúng ta phải phấn đấu vượt qua mới có thể tận dụng tốt cơ hội phát triển. Quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế nước ta đã tham gia và là thành viên của nhiều tổ chức kinh
tế quốc tế, các điều ước quốc tế cũng như các thoả thuận quốc tế. Với tư cách là
thành viên của các tổ chức kinh tế quốc tế, các điều ước quốc tế, thoả thuận quốc tế,
chúng ta có nghĩa vụ phải tuân thủ đầy đủ các cam kết quốc tế của mình, trong đó
có nghĩa vụ sửa đổi pháp luật cho tương thích. Vì thế việc rà soát hệ thống pháp luật
để loại bỏ những quy định mâu thuẫn, gây cản trở cho việc thực hiện các cam kết
quốc tế, cũng như việc sửa đổi luật pháp cho tương thích với các cam kết, nhất là
đối với các cam kết của chúng ta khi gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới, điều ước
quốc tế đa phương là việc làm cần thiết nhằm tăng cường vị thế và nâng cao uy tín
của Việt Nam trên trường quốc tế. Hệ thống pháp luật cần được hoàn chỉnh thích
hợp với các định chế của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Hiệp định thương
mại Việt Nam - Hoa Kỳ và nhiều định chế quốc tế khác đặt ra nhiều yêu cầu liên
quan đến THA, ví dụ như đòi hỏi Việt Nam phải bảo đảm một cơ chế hiệu quả trên
134
lãnh thổ của mình để công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài, thủ tục thi
hành phải công bằng, hợp lý và nhanh chóng; yêu cầu việc THA phải được thực
hiện một cách công bằng, hiệu quả và có tính thực thi. Đồng thời, việc mở rộng
quan hệ quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện
chính sách thu hút đầu tư nước ngoài sẽ làm gia tăng các quan hệ dân sự, kinh tế,
lao động có yếu tố nước ngoài. Tình hình trên đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện pháp
luật THADS nói chung và pháp luật về xác minh điều kiện THA nói riêng nhằm
đáp ứng yêu cầu hội nhập của nước ta trong tình hình mới.
4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp
luật về xác minh điều kiện thi hành án dân sự
4.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án dân
sự ở Việt Nam
4.2.1.1. Về chủ thể xác minh điều kiện thi hành án
Chủ thể tiến hành xác minh nên bao gồm cả người được THA và cán bộ chịu
trách nhiệm THA, trong đó, cần đề cao việc xác minh của người được THA. Điều
này phù hợp với tính chất của việc thi hành các bản án, quyết định về dân sự.
THADS suy cho cùng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích “tư” của người được THA.
Người được THA là người có động lực cao nhất trong việc xác minh điều kiện
THADS. Ở Việt Nam, pháp luật THADS hiện hành quy định chủ thể có nhiệm vụ
xác minh là CHV, điều này mặc dù có những ưu điểm nhất định, khắc phục những
bất cập của Luật THADS năm 2008, nhưng CHV không thể có động lực xác minh
bằng người được THA, nên việc xác minh có hiệu quả hay không trên thực tế lại
phụ thuộc vào sự mẫn cán, nhiệt tình của mỗi CHV trong mỗi vụ việc cụ thể. Hơn
nữa, quy định CHV có nhiệm vụ xác minh đặt ra gánh nặng công việc quá tải đối
với CHV, dẫn đến hiệu quả có thể không cao. Bên cạnh đó, như đã được NCS phân
tích ở chương Thực trạng, nghĩa vụ xác minh của CHV chỉ giới hạn trong phạm vi
“lãnh thổ” nơi cơ quan THA đặt trụ sở, trong khi tài sản thuộc sở hữu của người
phải THA lại có thể vượt ra ngoài phạm vi lãnh thổ đó. Thậm chí, kể cả trong phạm
vi lãnh thổ, ví dụ như với tài khoản ngân hàng, CHV không thể thực hiện việc xác
minh tài khoản ngân hàng bằng việc xác minh tất cả các hệ thống ngân hàng tại địa
bàn để xác định tài khoản của người phải THA. Sự thiếu kiểm soát như vậy rất dễ
dẫn đến sự tẩu tán, bỏ sót tài sản của người phải THA.
Do đó, để phù hợp với bản chất của THADS, phù hợp với thông lệ quốc tế,
135
giảm nhẹ gánh nặng cho CHV, đồng thời hiện thực hoá chủ trương “xã hội hoá”
công tác THA, nên xem xét khôi phục quy định về sự chủ động trong xác minh điều
kiện THADS của người được THA. Tuy nhiên, để không phạm phải các sai lầm đã
gặp phải trước đây khi giao nhiệm vụ xác minh cho người được THA, pháp luật cần
xây dựng cơ chế hỗ trợ và đảm bảo cho người được THA tiến hành xác minh hoặc
yêu cầu các chủ thể có thẩm quyền khác xác minh như tăng cường trách nhiệm của
người phải THA trong việc kê khai tài sản; bổ sung trách nhiệm pháp lý cụ thể của
các cơ quan, tổ chức nắm giữ thông tin về tài sản của người phải THA trong việc
cung cấp thông tin cho người được THA; nâng cao năng lực của TPL trong việc xác
minh điều kiện THA.
Vì các lý do nêu trên, NCS đề xuất sửa đổi, bổ sung một số điều luật của
Luật THADS như sau:
- Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 44 Luật THADS như sau:
“Trường hợp chủ động ra quyết định THA, CHV phải tiến hành xác minh điều kiện
THA của người phải THA. Trường hợp THA theo đơn yêu cầu, nếu người được
THA không thể tự xác minh được điều kiện THA của người phải THA thì có thể yêu
cầu CHV tiến hành xác minh. Việc yêu cầu này phải được lập thành văn bản. Trong
thời hạn 30 ngày, kể từ ngày chủ động ra quyết định THA hoặc kể từ ngày nhận
được yêu cầu xác minh của người được THA, CHV phải tiến hành việc xác minh;
trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải xác
minh ngay”.
- Thứ hai, sửa đổi, bổ sung điểm đ khoản 1 Điều 7 Luật THADS như sau:
“Tự mình hoặc uỷ quyền cho người khác xác minh, cung cấp thông tin về điều kiện
THA của người phải THA; yêu cầu CHV xác minh điều kiện THA”
- Thứ ba, bãi bỏ điểm e khoản 1 Điều 7 Luật THADS: Xác minh điều kiện
THADS thường phải thực hiện thông qua người thứ ba, là chủ thể nắm giữ thông tin
nên để tạo động lực cho sự hình thành và phát triển của hệ thống dữ liệu cung cấp
thông tin, cần phải có chi phí để duy trì và phát triển hệ thống đó. Đồng thời, xuất phát
từ quan điểm phục vụ lợi ích cho người được THA thì việc người được THA bỏ chi phí
để thu về các lợi ích mà mình mong muốn cũng là chính đáng. Do vậy, cần quy định về
nghĩa vụ chi trả chi phí xác minh của người được THA nếu yêu cầu CHV xác minh, để
từ đó, CHV sẽ tiến hành chi trả cho các chủ thể cung cấp thông tin.
- Thứ tư, sửa đổi, bổ sung điểm c khoản 2 Điều 7 Luật THADS như sau:
136
“Chịu phí, chi phí THA, chi phí xác minh theo quy định của luật này”.
4.2.1.2. Về thời hạn xác minh điều kiện thi hành án
Cần xem xét lại quy định về thời hạn xác minh ở các khía cạnh sau:
- Thứ nhất, về thời điểm bắt đầu thời hạn. Theo quy định thì thời điểm bắt
đầu tính thời hạn xác minh của CHV là thời điểm hết thời gian tự nguyện THA.
Mặc dù, cách tính thời điểm này hợp lý ở chỗ tiết kiệm được thời gian, công sức của
CHV nếu người phải THA tự nguyện THA. Tuy nhiên, thực tế của công tác xác
minh trong trường hợp cần áp dụng biện pháp bảo đảm THA là phong tỏa tài khoản
hoặc tạm dừng việc đăng ký chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản của người phải
THA thì quy định này là một trở ngại đối với CHV nếu muốn xác minh trước khi áp
dụng biện pháp này. Bởi lẽ, theo quy định hiện hành về việc áp dụng biện pháp bảo
đảm, CHV có thể áp dụng biện pháp bảo đảm ngay sau khi có quyết định THA và
không cần phải chờ hết thời gian tự nguyện THA. Và để có thể áp dụng biện pháp
bảo đảm là phong tỏa tài khoản hoặc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu,
sử dụng tài sản, CHV cần phải xác minh để xác định số tiền trong tài khoản, xác
định quyền sở hữu, sử dụng tài sản của người phải THA. Vì vậy, tác giả cho rằng
thời điểm bắt đầu tính thời hạn nên từ khi có quyết định THA sẽ hợp lý hơn cả.
Điều này sẽ không làm hạn chế quyền hạn của CHV khi xác minh điều kiện THA
và cũng tránh được tình trạng người phải THA cố tình tẩu tán tài sản để trốn tránh
nghĩa vụ THA. Cách tính thời hạn như vậy cũng phù hợp với thực tiễn hoạt động
THA mà các CHV đang thực hiện. Cụ thể, khi CHV xuống “địa bàn” để giao quyết
định THA cho đương sự, CHV thường kết hợp làm việc với người phải THA, đồng
thời tiến hành xác minh điều kiện THA của người phải THA.
- Thứ hai, cần điều chỉnh lại thời hạn theo hướng kéo dài thời hạn xác minh
của CHV. Đây không phải là quy định có tính chất “dung túng” cho CHV, mà là
pháp luật phải tính toán một khoảng thời gian vật chất đủ để CHV tác nghiệp. Theo
chúng tôi, khoảng thời gian này nên là 01 tháng tính từ ngày ra quyết định THA chứ
không phải trong thời gian 10 ngày kể từ ngày hết thời gian tự nguyện THA như
hiện nay.
- Thứ ba, cần quy định rõ nghĩa vụ xác minh của CHV đối với việc THA do
cơ quan THA chủ động ra quyết định THA và việc THA theo đơn yêu cầu. Theo đó,
đối với việc THA do cơ quan THA chủ động ra quyết định THA thì CHV vẫn phải
tiến hành xác minh theo định kỳ 06 tháng một lần đối với người phải THA chưa có
137
điều kiện THA; 01 năm một lần đối với trường hợp người phải THA chưa có điều
kiện THA là người đang chấp hành hình phạt tù mà thời gian chấp hành hình phạt tù
còn lại từ 02 năm trở lên hoặc không xác định được địa chỉ, nơi cư trú mới của
người phải THA. Còn đối với việc THA theo đơn yêu cầu thì việc chủ động xác
minh nên giao cho người được THA. Cụ thể, NCS đề xuất sửa đổi, bổ sung khoản 2
Điều 44 Luật THADS như sau: “Trường hợp chủ động ra quyết định THA, người
phải THA chưa có điều kiện THA thì ít nhất 06 tháng một lần, CHV phải xác minh
điều kiện THA; trường hợp người phải THA chưa có điều kiện THA là người đang
chấp hành hình phạt tù mà thời gian chấp hành hình phạt tù còn lại từ 02 năm trở
lên hoặc không xác định được địa chỉ, nơi cư trú mới của người phải THA thì thời
hạn xác minh ít nhất 01 năm một lần. Trường hợp ra quyết định THA theo yêu cầu
thì sau khi xác minh mà người phải THA chưa có điều kiện THA, cơ quan THA phải
thông báo bằng văn bản cho người được THA về kết quả xác minh. Việc xác minh
lại được tiến hành khi có thông tin mới về điều kiện THA của người phải THA hoặc
có yêu cầu của người được THA”.
4.2.1.3. Về vấn đề ủy quyền xác minh
Hiện nay, vấn đề ủy quyền xác minh được xem như là một quy định có tính
hợp lý của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật THADS. Do hiện nay, nhiệm
vụ xác minh thuộc về CHV, chi phí xác minh do Ngân sách Nhà nước chi trả. Trong
khi đó, với sự phát triển hết sức mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, tài sản của
người phải THA không phải chỉ ở một địa phương cố định mà có thể ở rất nhiều nơi
khác nhau. Như đã phân tích, lượng án hiện nay đối với CHV đang trong tình trạng
quá tải nên việc phải xác minh tài sản ở các địa phương khác vừa tốn kém chi phí,
vừa không đảm bảo về mặt thời gian vật chất cho CHV hoàn thành nhiệm vụ. Vì
vậy, việc quy định về ủy quyền xác minh là cần thiết. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở
quy định về ủy quyền xác minh như hiện nay sẽ gặp phải tình trạng các cơ quan
THA được ủy quyền xác minh sẽ làm một cách “chiếu lệ”, “qua loa” cho xong. Sự
“qua loa”, “chiếu lệ” này xuất phát từ 03 nguyên nhân chính sau đây:
Nguyên nhân thứ nhất, bản thân cơ quan THA nơi được ủy quyền xác minh
cũng đang trong tình trạng quá tải đối với công việc của chính mình nên không còn
thời gian, công sức để “ôm đồm” công việc của người khác.
Nguyên nhân thứ hai, khi xác định người phải THA có tài sản hoặc có điều
kiện THA khác tại nơi được ủy quyền xác minh thì cơ quan nhận ủy quyền xác
138
minh sẽ đối mặt với khả năng phải nhận ủy thác thi hành chính vụ việc mà mình
vừa tiến hành xác minh. Điều này sẽ dồn gánh nặng về tỉ lệ án phải thi hành lên
chính mình nên cơ quan THA sẽ “né tránh” trước bằng cách xác minh “chiếu lệ”
cho xong nhiệm vụ.
Nguyên nhân thứ ba và cũng là nguyên nhân quan trọng nhất, đó chính là,
các hình thức chế tài nếu vi phạm quy định về ủy quyền xác minh chưa được quy
định khiến các cơ quan THA nơi nhận ủy quyền xác minh có suy nghĩ: chẳng việc
gì phải “ôm rơm nặng bụng”.
Vì các lý do trên, NCS cho rằng, để quy định về ủy quyền xác minh phát huy
được ý nghĩa vốn có của nó, pháp luật về THADS cần bổ sung quy định về chế tài
đối với cơ quan THADS nhận ủy quyền xác minh trong trường hợp chậm xác minh,
không tiến hành xác minh hoặc cung cấp kết quả xác minh không đúng với thực tế.
Xét về bản chất, một chủ thể sẽ chủ động thực hiện nhiệm vụ của mình khi và chỉ
khi có một biện pháp chế tài cụ thể nếu không thực hiện nhiệm vụ đó. Vì vậy, pháp
luật THADS phải quy định rõ Thủ trưởng cơ quan THADS nơi nhận uỷ quyền xác
minh bị xử lý kỷ luật, trường hợp gây ra thiệt hại thì phải bồi thường để ràng buộc
trách nhiệm của chủ thể này khi tiếp nhận uỷ quyền xác minh. Cụ thể, khoản 6 Điều
1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP cần được sửa đổi như sau:
“2. Trường hợp cần xác minh làm rõ thông tin về tài sản, nơi cư trú, nơi làm
việc, trụ sở của người phải THA hoặc các thông tin khác liên quan đến việc THA thì
Thủ trưởng cơ quan THADS có thể ủy quyền xác minh cho cơ quan THADS nơi có
thông tin.
Việc ủy quyền xác minh của cơ quan THADS phải bằng văn bản, nêu rõ nội
dung ủy quyền và nội dung cần thiết khác. Thủ trưởng cơ quan THADS nơi nhận ủy
quyền phải trả lời bằng văn bản về kết quả xác minh cho cơ quan THADS đã ủy
quyền trong thời hạn sau đây:
a) Đối với việc xác minh tài sản là bất động sản, động sản phải đăng ký
quyền sở hữu, sử dụng, thời hạn trả lời kết quả xác minh không quá 30 ngày, kể từ
ngày nhận được ủy quyền. Trường hợp khó khăn, phức tạp thì thời hạn gửi kết quả
xác minh có thể kéo dài nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được ủy quyền.
b) Đối với việc xác minh các loại tài sản và thông tin khác, thời hạn trả lời
kết quả xác minh không quá 15 ngày, kể từ ngày nhận được ủy quyền.
Trường hợp Thủ trưởng cơ quan THADS nơi nhận ủy quyền không tiến hành
139
xác minh, chậm tiến hành xác minh hoặc kết quả xác minh không đúng với thực tế
thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, trường hợp gây ra thiệt hại thì phải bồi
thường.”
4.2.1.4. Vấn đề ủy thác tư pháp về xác minh điều kiện THA
Xác minh điều kiện THA là một vấn đề hết sức đặc thù, đối với việc xác
minh này, người có thẩm quyền xác minh phải khẳng định được một cách rõ ràng
người phải THA có điều kiện về tài sản, thu nhập không (đối với các vụ việc thi
hành nghĩa vụ về trả tiền) hoặc là người phải THA có khả năng thi hành không (đối
với các vụ việc thi hành nghĩa vụ buộc thực hiện công việc hoặc không được thực
hiện công việc như nhận người lao động trở lại làm việc, buộc giao vật, giao giấy
tờ…). Vì vậy, việc tương trợ tư pháp về xác minh với nước ngoài cũng cần được
quy định cụ thể thì mới có thể tiến hành một cách thuận lợi. Khác với công việc
tống đạt văn bản, giấy tờ, cơ quan có thẩm quyền trả lời yêu cầu ủy thác tư pháp đối
với việc tống đạt văn bản giấy tờ chỉ cần xác định được địa chỉ nơi cư trú hoặc nơi
làm việc của người cần tống đạt, thực hiện việc tống đạt theo quy định và lưu lại
chứng cứ chứng minh đã tống đạt thành công. Việc xác minh tài sản sẽ gặp phải
những trở ngại khác như quy định về quản lý tài sản hay là xử lý tài sản đó. Chẳng
hạn, sau khi xác định người phải THA có tài sản ở nước ngoài thì cơ chế xử lý đối
với tài sản đó được thực hiện như thế nào? Quốc gia nào có thẩm quyền xử lý tài
sản đó? Quốc gia đang nắm giữ tài sản, thu nhập của người phải THA hay quốc gia
đang thi hành vụ việc? Tất cả các vấn đề trên nếu muốn xử lý thì phải được quy
định rõ ràng. Đây là lý do giải thích tại sao từ trước đến nay, liên quan đến vấn đề
THA có yếu tố nước ngoài, có chăng, cơ quan THADS chỉ dừng lại ở yêu cầu tương
trợ tư pháp trong việc xác định địa chỉ, tống đạt văn bản, giấy tờ, mà chưa bao giờ
đặt ra vấn đề xác minh điều kiện THA. Tuy nhiên, đối với trường hợp thi hành án
theo yêu cầu, nếu có căn cứ cho rằng người phải thi hành án cư trú và có tài sản ở
nước ngoài, cơ quan THADS có thể hướng dẫn cho người được THA thực hiện thủ
tục đề nghị công nhận và cho thi hành bản án, quyết định ở quốc gia nơi người phải
thi hành án cư trú và có tài sản đó. Còn đối với trường hợp chủ động thi hành án,
đặc biệt đối với những vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng, người
được THA là nhà nước, cơ quan nhà nước hoặc doanh nghiệp mà Nhà nước nắm
giữ 100% vốn điều lệ thì việc yêu cầu các chủ thể này đề nghị công nhận và cho thi
hành bản án, quyết định là không hợp lý. So sánh với các hiệp định tương trợ tư
140
pháp mà Việt Nam ký kết với một số quốc gia, có thể thấy, quốc gia bên ký kết có
thể chuyển giao tiền, tài sản do phạm tội mà có cho quốc gia yêu cầu trong quy định
tương trợ tư pháp về vấn đề hình sự. Quy định này hoàn toàn có thể áp dụng đối với
trường hợp thi hành án đối với bản án hình sự mà người phải THA cũng chuyển do
tiền do phạm tội mà có ra nước ngoài.
Vì vậy, NCS cho rằng, trong thời gian tới, các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cần xem xét để quy định một nội dung riêng về THADS trong văn bản pháp
luật về tương trợ tư pháp, đồng thời khi ký các hiệp định về tương trợ tư pháp với
các quốc gia trên thế giới cũng cần minh định rõ vấn đề THADS để tạo thuận lợi
cho công tác xác minh điều kiện THA của người phải THA ở nước ngoài nói riêng
và công tác thi hành bản án, quyết định nói chung của các cơ quan THADS.
4.2.1.5. Vấn đề tăng trách nhiệm của người phải thi hành án trong việc kê
khai tài sản
Theo quy định tại Điều 44 Luật THADS thì người phải THA phải có trách
nhiệm kê khai tài sản của mình khi CHV tiến hành xác minh điều kiện THA. Tuy
nhiên, như tác giả đã phân tích ở Chương 3 Thực trạng quy định pháp luật Việt
Nam hiện nay về xác minh điều kiện THADS thì quy định này không được thực
hiện trên thực tế với lý do chưa có chế tài đủ mạnh để xử phạt hành vi vi phạm vì
không kê khai hoặc kê khai không đúng thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện
THA của người phải THA.
Theo kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới thì trách nhiệm kê khai thông
tin tài sản của người phải THA được rất nhiều quốc gia quy định trong pháp luật. Nếu
vi phạm trách nhiệm kê khai thông tin tài sản như không kê khai hoặc kê khai không
đúng sự thật thì người phải THA có thể sẽ phải gánh chịu các hình phạt và đỉnh điểm là
hình phạt tước đi quyền tự do trong khoảng thời gian tối đa là 2 năm.
NCS cho rằng, để quy định kê khai thông tin có thể áp dụng một cách hiệu
quả trên thực tế, pháp luật cần sửa đổi quy định về mức xử phạt vi phạm hành chính đối
với hành vi không kê khai hoặc phát hiện việc kê khai không trung thực của người phải
thi hành theo hướng tăng mức xử phạt. Đồng thời, nếu người phải THA đã bị xử phạt vi
phạm hành chính nhưng vẫn cố tình vi phạm thì cần phải quy định về trách nhiệm hình
sự đối với hành vi này. Cụ thể, NCS đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan
đến trách nhiệm kê khai thông tin của người phải THA như sau:
- Thứ nhất, bãi bỏ quy định tại điểm c khoản 2 Điều 64 Nghị định số
141
82/2020/NĐ-CP vì việc đưa hành vi không kê khai hoặc kê khai không trung thực
vào nhóm hành vi tại khoản 2 như không cung cấp thông tin, giao giấy tờ liên quan
đến tài sản bị xử lý; không thông báo cho cơ quan THADS khi có sự thay đổi về địa
chỉ, nơi cư trú… sẽ không làm nổi bật được tính chất quan trọng của hành vi này
đối với hoạt động tổ chức THADS.
- Thứ hai, bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 64 Nghị định số 82/2020/NĐ-
CP như sau: “Không kê khai hoặc kê khai không đầy đủ, không chính xác tài sản,
thu nhập, điều kiện THA khi người có thẩm quyền THA yêu cầu”. Việc đưa hành vi
này vào nhóm quy định tại khoản 5 với khung hình phạt từ 10.000.000 đồng đến
20.000.000 đồng là phù hợp để nâng cao tính răn đe đối với hành vi không kê khai
của người phải THA.
- Thứ ba, bổ sung quy định trong Bộ luật hình sự về hành vi không kê khai
hoặc kê khai không đầy đủ, không chính xác của người phải THA như sau: “Người
nào có điều kiện THA, đã được người có thẩm quyền THA yêu cầu mà cố tình
không kê khai hoặc kê khai không đầy đủ, không chính xác tài sản, thu nhập, điều
kiện THA mặc dù đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm,
thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 1 năm”.
4.2.1.6. Bổ sung quy định cụ thể về việc huy động lực lượng bảo vệ của CHV
trong giai đoạn xác minh
Trong một số trường hợp, xác minh hiện trạng tài sản là một nội dung quan
trọng để có thể tổ chức THA như trường hợp kê biên, xử lý tài sản là đất đai, nhà ở;
trường hợp thi hành nghĩa vụ trả vật, giấy tờ, chuyển quyền sử dụng đất. Tuy nhiên,
như đã phân tích ở chương thực trạng, nhiều trường hợp CHV không thể tiến hành xác
minh để tiến hành cưỡng chế THA do sự chống đối của người phải THA dẫn đến việc
THA bị đình trệ trong khi quy định pháp luật không rõ ràng về việc huy động lực lượng
bảo vệ. Do đó, pháp luật cần có quy định cho phép CHV được huy động lực lượng bảo
vệ ngay từ khi tiến hành xác minh điều kiện THA và các quy định về chi phí THA
trong trường hợp huy động lực lượng bảo vệ xác minh điều kiện THA.
4.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về xác minh điều kiện
THA dân sự ở Việt Nam
4.2.2.1. Hoàn thiện pháp luật về mô hình tổ chức bộ máy THA dân sự
Xác minh là một công đoạn của quá trình tổ chức THA. CHV chỉ có thể xác
minh hiệu quả khi CHV hoạt động trong một môi trường mà ở đó CHV có đủ thời
142
gian, phương tiện, công cụ và các điều kiện khác để hoạt động tác nghiệp. Trong bối
cảnh tình trạng tồn đọng án kéo dài do tình trạng quá tải vì thiếu nhân lực, kinh phí,
phương tiện hoạt động ở các cơ quan THA công như hiện nay thì đã đến lúc các cơ
quan quản lý nhà nước về THADS cần tính đến việc xây dựng một mô hình tổ chức bộ
máy THADS phù hợp với đặc điểm tình hình của công tác THADS trong thời gian tới.
Như NCS đã phân tích ở mục 3.2 của luận án, tình trạng quá tải là có thật,
trong khi đó, việc nghiên cứu để tăng biên chế cho cơ quan THADS là một vấn đề
không đơn giản, bởi lẽ như số liệu thống kê đã được thống kê chúng ta thấy rằng số
lượng vụ việc THA hàng năm đều tăng, nhưng số lượng tăng không đều, có năm
nhiều, có năm ít, và với các cơ quan THA địa phương cũng tương tự như vậy, có
địa phương năm nay số lượng án ít, nhưng năm khác số lượng án lại nhiều. Trước
sự bất ổn định về số lượng án như vậy, có nhiều địa phương đã áp dụng hình thức
biệt phái cán bộ từ Chi cục THADS này đến Chi cục THADS khác trên cùng một
tỉnh, thậm chí còn có hình thức biệt phái CHV từ tỉnh này sang tỉnh khác để tăng
cường CHV, cán bộ THA cho các cơ quan THA có lượng án tăng đột biến. Tuy
nhiên, đây chỉ là giải pháp mang tính chất tình thế của các cơ quan THA và chưa
đưa đến hiệu quả thực tế với lý do hoạt động THADS là hoạt động có tính chất đặc
thù, một vụ việc THA được giải quyết với nhiều công đoạn khác nhau và kéo dài
trong một thời gian không thống nhất, trong khi cán bộ được biệt phái chỉ công tác
tại nơi được biệt phái trong một khoảng thời gian nhất định, thường là 06 tháng đến
01 năm. Có rất nhiều cán bộ được biệt phái trong khoảng thời gian là 06 tháng, chưa
kịp giải quyết xong một hoặc một số vụ việc THA thì lại phải bàn giao lại cho cán bộ
khác do đã hết thời gian biệt phái. Ngoài ra, công tác THA còn đặc thù ở chỗ để giải
quyết việc THA, CHV, cán bộ THA cần phải có mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức
hữu quan ở địa phương. Nhiều cán bộ biệt phái vừa mới kịp làm quen với các cá nhân,
cơ quan, tổ chức hữu quan tại địa phương nơi được biệt phái thì đã hết thời gian biệt
phái. Vì lẽ đó, giải pháp này, thậm chí, có lúc, có nơi còn gây nên những khó khăn,
vướng mắc cho chính cơ quan THA nơi nhận cán bộ biệt phái do phải giải quyết hậu
quả của những vụ việc THA mà cán bộ được biệt phái đang thi hành dang dở.
Với mô hình tổ chức cơ quan THA như hiện nay thì Ngân sách Nhà nước
phải gánh trên vai một chi phí “khổng lồ” cho hệ thống các cơ quan THA thì việc
xem xét để tăng biên chế cho cơ quan THA sẽ càng chất thêm gánh nặng cho Ngân
sách nhà nước. Vì vậy, chỉ khi việc tăng biên chế là tất yếu, không thể có giải pháp
143
thay thế thì mới nghĩ đến giải pháp này.
Nghiên cứu mô hình tổ chức bộ máy THA của một số nước trên thế giới,
NCS thấy rằng, hiện vẫn có sự tồn tại của mô hình THA hỗn hợp, tức là cùng song
song tồn tại cả hệ thống THA nhà nước và THA tư nhân, quốc gia tiêu biểu cho mô
hình này là Bulgaria.
Ở Việt Nam, với sự ra đời của Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày
14/11/2008 của Quốc hội về vấn đề xã hội hóa công tác THADS và Nghị quyết số
107/2015/QH13 ngày 26/11/2015 về thực hiện chế định TPL thì hiện nay Việt Nam
đang hướng tới áp dụng hình thức tổ chức THA bán công. Theo đó, Việt Nam vẫn
giữ hệ thống cơ quan THA trực thuộc cơ quan hành chính, đồng thời triển khai thực
hiện chủ trương xã hội hoá một số loại hình dịch vụ THADS như tống đạt văn bản,
giấy tờ, xác minh tài sản điều kiện THADS, trực tiếp tổ chức THADS… và được
thu phí dịch vụ đối với người được THA.
Tuy nhiên, để mô hình này thực sự phát huy hiệu quả, cần phải hoàn thiện về
mặt thể chế đối với định chế TPL, trong đó, cần đảm bảo các yêu cầu sau: (i) Văn
bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của TPL phải là văn bản có giá trị
pháp lý cao, cụ thể là đạo luật của Quốc hội; (ii) Phải đảm bảo quyền lực thực sự
của TPL khi thực thi các nhiệm vụ, quyền hạn của mình như được quyền yêu cầu
các cơ quan có thẩm quyền phối hợp khi thực hiện hoạt động tống đạt văn bản, giấy
tờ; xác minh điều kiện THADS, trực tiếp tổ chức THADS, nếu các cơ quan này
không thực hiện yêu cầu thì được quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý trách
nhiệm hành chính, dân sự, hình sự theo quy định.
Với tính chất là một định chế vừa mới hết thời gian thí điểm, khó có thể đòi
hỏi một hệ thống pháp luật hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của TPL. Bên cạnh đó,
khi xã hội chưa đặt niềm tin vào việc trao quyền sử dụng biện pháp cưỡng chế thi hành
án cho một chủ thể có tính chất tư nhân thì trước mắt, có thể tăng cường quyền lực cho
TPL trong xác minh điều kiện THADS. Theo đó, các văn bản pháp luật về tổ chức và
hoạt động của TPL cần quy định rõ về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
nếu không thực hiện yêu cầu của TPL trong đề nghị cung cấp thông tin.
4.2.2.2. Nâng cao địa vị pháp lý cho Chấp hành viên
(i) Để nâng cao địa vị pháp lý cho CHV, việc làm đầu tiên mà cơ quan có
thẩm quyền quản lý lĩnh vực THA phải làm chính là xây dựng khung pháp lý nâng
cao quyền hạn của CHV.
Như NCS đã phân tích ở mục 3.2 của luận án, một trong những vướng mắc,
144
bất cập của pháp luật xác minh điều kiện THADS là tính độc lập của chấp hành viên
trong việc tổ chức thi hành án nói chung và xác minh điều kiện thi hành án nói riêng
còn chưa được bảo đảm.
Tham khảo kinh nghiệm xác minh tài sản của một số nước trên thế giới, NCS
thấy rằng, ở một số nước, pháp luật cho phép CHV được quyền khám xét, truy tìm
tài sản bằng rất nhiều cách thức khác nhau giúp cho việc xác định một cách chính
xác các tài sản thuộc sở hữu, sử dụng của người phải THA.
Trong báo cáo của Đoàn công tác tại Liên bang Nga về kết quả dự Hội nghị
quốc tế lần thứ 5 về THADS gửi Bộ trưởng Bộ Tư pháp ngày 30/9/2014 đã tổng kết
về quy định xác minh điều kiện THA ở một số nước trên thế giới như sau:
Về quyền/trách nhiệm xác minh, Luật THA của các nước đều có quy định về
nguyên tắc xác minh tài sản của người phải THA. Ví dụ: Đại diện Azechbaizan cho
biết CHV có quyền thông qua quyết định của Toà án để khám xét bất cứ chỗ nào
được coi là của người phải THA, có quyền thu giữ tài sản của họ mà không cần
quyết định của toà án. Nếu thanh toán không đủ, thì mọi tài sản của họ đều có thể bị
kê biên. Việc sửa đổi luật là theo hướng tốt hơn cho người được THA.
Đại diện Bungaria cho biết pháp luật Bungaria quy định các cơ quan nhà
nước và cá nhân có trách nhiệm cung cấp thông tin cho THA. Thông tin về điều
kiện THA có thể là từ hệ thống đăng ký tài sản, đăng ký doanh nghiệp và pháp
nhân, đăng ký thuế, kê khai thống kê dân số, đăng ký quyền tác giả, cấp lý lịch tư
pháp, hệ thống bảo hiểm an sinh xã hội... Với hình ảnh lục soát tìm tiền che dấu
dưới đệm giường ngủ, đại diện của Bungaria cho rằng mục tiêu của THA là phải
tìm kiếm được tài sản của người phải THA. Ở Bungaria cũng đã có hệ thống Trung
tâm theo dõi thông tin về người phải THA.
Bàn về ranh giới giữa quyền cá nhân và việc truy tìm tài sản của người phải
THA, với hình ảnh con chuột đội mũ bảo hiểm với cái bẫy chuột có miếng mồi là
pho mát, đại diện Cộng hòa Bungaria cho biết TPL không được sử dụng thông tin
có được từ việc truy tìm người phải THA và tài sản của họ vào việc khác. Báo cáo
của Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp Liên bang Nga cũng cho thấy pháp luật sửa
đổi chỉ rõ việc truy tìm tài sản trong nhà (vào nhà) nhất thiết cần lệnh của Tòa án,
chỉ rõ lúc nào thì TPL hoặc người khác được thực hiện việc khám xét để truy tìm tài
sản của người phải THA và phải phân biệt rõ ranh giới giữa quyền của Thừa phát
lại trong việc truy tìm tài sản của người phải THA và quy định của Hiến pháp về
145
quyền riêng tư, quyền cá nhân.
Theo điều 3 khoản 48 Luật THADS của Cộng hòa Izrael cần phải truy tìm tài
sản của người phải THA theo cách phù hợp với tình hình thực tế. Sau khi nhận được
yêu cầu thì người thụ lý cần kiểm tra xem các dữ liệu về người phải THA đã có
trong hệ thống hay chưa. Nếu như không có thì cần truy tìm, ví dụ như truy tìm số
điện thoại và địa chỉ; nếu như người phải THA không có tài sản thì việc kết thúc các
thủ tục THA là có lợi cho các bên. Trong phần lớn các trường hợp bình thường, thì
việc truy tìm người phải THA là không khó, ví dụ thông qua địa chỉ đã đăng ký
hoặc theo cung cấp của người được THA. Nếu người được THA chưa rõ về điều
kiện THA hoặc chưa được THA đầy đủ thì tiến hành thủ tục truy tìm. Các nước đều
khẳng định vai trò, trách nhiệm của cảnh sát theo Luật cảnh sát trong việc hỗ trợ
THA [11].
Vì vậy, để bảo đảm cho CHV thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình một
cách hiệu quả thì pháp luật cần phải nâng cao vị thế của CHV bằng cách tạo cho
CHV một sự độc lập nhất định khi tổ chức THADS. Sự độc lập này sẽ được thể
hiện trong chính các quy định pháp luật cho phép CHV có quyền yêu cầu các cơ
quan, tổ chức, cá nhân phải thực hiện các công việc thuộc phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của họ; nếu không thực hiện yêu cầu của CHV, các chủ thể này sẽ phải chịu các
trách nhiệm pháp lý được quy định rõ ràng trong luật.
(ii) Khi đã có được khung pháp lý cần thiết thì cần phải tăng cường nội lực
cho chính CHV
Trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ CHV quyết định
chất lượng công tác THA nói chung, công tác xác minh điều kiện THA nói riêng.
Đây chính là nội lực của CHV. Pháp luật THADS dù có hoàn thiện, hoàn mỹ đến
đâu thì sẽ không phát huy tác dụng nếu trình độ, phẩm chất của CHV không đáp
ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Việc đào tạo, bồi dưỡng đúng hướng sẽ giúp nâng cao
năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ. Vì vậy, cần chú trọng quan tâm
đến công tác đào tạo, bồi dưỡng CHV. Cần tăng cường giáo dục phẩm chất, đạo đức
nghề nghiệp, nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ CHV, cán bộ, công chức
các cơ quan THA. Nâng cao chất lượng, đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo
cán bộ cho các cơ quan THADS, đặc biệt là những cán bộ là nguồn bổ nhiệm CHV,
để đảm bảo cho đội ngũ cán bộ THA có kỹ năng nghề nghiệp, kiến thức thực tiễn,
phẩm chất, đạo đức trong sạch và dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế
146
XHCN. Theo hướng đó, phải chú trọng các việc sau đây:
- Xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên về
chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác THA, đào tạo nghề, tiêu
chuẩn hoá đội ngũ CHV, trong đó xác định rõ cả về tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp
vụ và tiêu chuẩn về tác phong, đạo đức, lối sống. Trên cơ sở đó để đặt ra kế hoạch,
chương trình, nội dung đào tạo phù hợp.
- Có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CHV, cán bộ THA nhằm đảm
bảo cho họ có đủ các tiêu chuẩn về đạo đức, trình độ chuyên môn, đặc biệt là trình
độ về kỹ năng nghề nghiệp. Đổi mới về tổ chức, đánh giá cán bộ, bố trí cán bộ theo
hướng năng lực cán bộ được đánh giá chủ yếu trên kết quả công việc và việc bố trí
cán bộ phải phù hợp với năng lực cán bộ.
- Có cơ chế thu hút, tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ đức tài vào
làm việc tại cơ quan THA, mở rộng nguồn để bổ nhiệm chức danh CHV, không bó
hẹp trong phạm vi cán bộ cơ quan THA như hiện nay mà còn có thể là các luật gia,
luật sư.
Ngoài ra, việc đào tạo, bồi dưỡng CHV còn phải quán triệt những quan điểm
sau đây:
Một là, đào tạo nguồn cán bộ một cách toàn diện, đồng thời nâng cao dần
chất lượng đội ngũ CHV;
Hai là, tăng cường đào tạo lại cho đội ngũ CHV đã được bổ nhiệm;
Ba là, tăng cường chất lượng đào tạo, kết hợp lý luận với thực tiễn có tính
chất chuyên sâu của CHV;
Bốn là, đào tạo nguồn đội ngũ CHV để thay dần dần những người có trình độ
chuyên môn yếu hoặc “do lịch sử để lại”;
Năm là, từng bước đào tạo chuyên sâu cho đội ngũ CHV.
Như NCS đã trình bày ở Chương 3 - Thực trạng quy định pháp luật Việt
Nam hiện nay về xác minh điều kiện THADS, để xác minh tài sản của doanh nghiệp
một cách hiệu quả, ngoài việc CHV phải nắm vững quy định pháp luật về xác minh
điều kiện THA; nắm vững trình tự, thủ tục xác minh, có mối quan hệ tốt với các cơ
quan, tổ chức có liên quan, CHV còn phải nắm được các quy định khác như Luật
doanh nghiệp, chế độ pháp lý về vốn và tài sản của doanh nghiệp… Để làm tốt công
tác này, không có con đường nào nhanh và hiệu quả hơn con đường đào tạo.
(iii) Để tương xứng với sự thay đổi về địa vị pháp lý của CHV, cũng cần phải
147
xem xét tăng cường chế độ trách nhiệm, nâng cao ý thức tổ chức, kỷ luật của CHV.
Đẩy mạnh công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát của các cơ quan chuyên
môn, cơ quan quản lý THA, theo quy định của pháp luật, kịp thời khắc phục những
thiếu sót và sai phạm trong công tác THADS, chấn chỉnh và xử lý nghiêm các sai
phạm về nghiệp vụ, về công tác quản lý, các tiêu cực làm ảnh hưởng đến uy tín của
ngành. Kết hợp kiểm tra THA với kiểm tra về công tác tổ chức cán bộ. Xây dựng cơ
chế kiểm tra, giám sát, mở rộng sự giám sát của quần chúng để hạn chế đến mức
thấp nhất những sai phạm trong hoạt động THA nói chung và trong hoạt động xác
minh điều kiện THA nói riêng.
(iv) Tập trung công tác hướng dẫn nghiệp vụ chuyên môn
Trước mắt, cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý, chỉ đạo của
Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, nhất là trong việc chỉ đạo, hướng dẫn chuyên môn
nghiệp vụ về THADS. Như đã phân tích ở Chương 3 Thực trạng quy định pháp luật
Việt Nam hiện nay về xác minh điều kiện THADS, một trong những nguyên nhân
dẫn đến những sai phạm, thiếu hiệu quả trong việc xác minh điều kiện THA là do
quy định pháp luật thiếu rõ ràng, trong khi công tác sửa đổi, xây dựng văn bản luật cần
một lượng thời gian nhất định. Vì vậy, trong thời gian chưa thay đổi được quy định
pháp luật việc tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn nghiệp vụ chuyên
môn là hết sức cần thiết để đảm bảo việc xác minh điều kiện THA hiệu quả hơn.
4.2.2.3. Chú trọng xây dựng các quy định nhằm nâng cao trách nhiệm của
các cơ quan, tổ chức trong công tác phối hợp THA
Như đã phân tích ở chương 2 Những vấn đề lý luận về xác minh điều kiện
THADS, sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức có liên quan có tác động lớn đến
hiệu quả của xác minh điều kiện THA. Vì vậy, để tránh tình trạng đùn đẩy, trốn
tránh trách nhiệm trong việc phối hợp, nhằm giúp cho hoạt động THADS đạt được
hiệu quả, đề nghị bổ sung quy định trong Luật THADS và Bộ luật hình sự trách
nhiệm và chế tài (hành chính và hình sự trong đó quy định tội danh và mức hình
phạt) đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài
sản, tài khoản của người phải THA mà không cung cấp thông tin khi có yêu cầu và
cũng không có văn bản trả lời và nêu rõ lý do từ chối cung cấp thông tin.
Luật THADS đã có những điều riêng quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của
các cơ quan hữu quan trong hoạt động THADS như quy định nhiệm vụ, quyền hạn
của Ủy ban nhân dân, Kho bạc nhà nước, các tổ chức tín dụng, Bảo hiểm xã hội, cơ
148
quan đăng ký tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm... (từ Điều 173 đến Điều 180 Luật
THADS). Tuy nhiên, những quy định này mới chỉ quy định mang tính nguyên tắc,
chung chung, chưa cụ thể dẫn đến việc khó áp dụng và thực hiện trên thực tế. Ngoài
ra, hình thức chế tài mà Luật THADS quy định chỉ dừng lại ở xử phạt vi phạm hành
chính và mức xử phạt chỉ ở mức rất thấp (từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng
đối với hành vi không thực hiện yêu cầu của CHV về việc cung cấp thông tin mà
không có lý do chính đáng), không có tính răn đe đối với cá nhân, tổ chức có hành
vi vi phạm. Vì vậy, để nâng cao trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan hữu quan
trong việc cung cấp thông tin mà mình đang nắm giữ cho các chủ thể tiến hành xác
minh điều kiện THA, đồng thời tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan có
liên quan trong hoạt động THADS thì cần ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật hướng dẫn thi hành các điều, khoản quy định về sự phối hợp giữa cơ quan
THADS với cơ quan, tổ chức có liên quan của Luật THADS. Bên cạnh đó, cũng cần
phải tính đến phương án đưa chế tài hình sự để xử phạt về hành vi không cung cấp
thông tin cho người thực hiện việc xác minh điều kiện THA. Hiện nay, Bộ luật hình
sự năm 2015 đã sửa đổi quy định về tội “Cản trở việc THA” trong Bộ luật hình sự
năm 1999. Tại Điều 381 Bộ luật hình sự quy định về trường hợp lợi dụng chức vụ,
quyền hạn cố ý cản trở việc THA mà dẫn đến người bị kết án, người phải THA bỏ
trốn hoặc dẫn đến hết thời hiệu THA, hoặc dẫn đến người có nghĩa vụ THA tẩu tán
tài sản và không thi hành được nghĩa vụ THA với số tiền từ 50.000.000 đồng đến
dưới 200.000.000 đồng… thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt
tù từ 06 tháng đến 03 năm [77, Điều 381].
Với quy định này chúng ta có thể hiểu nếu người đang nắm giữ thông tin về
tài sản của người phải THA mà cố tình không cung cấp, dẫn đến người phải THA
tẩu tán tài sản và không thi hành được nghĩa vụ THA với số tiền từ 50.000.000 đồng
đến dưới 200.000.000 đồng thì sẽ bị xem xét để khởi tố hình sự về tội cản trở việc
THA. Tuy nhiên, quy định này vẫn gây khó khăn cho CHV trong việc đề nghị cơ
quan có thẩm quyền truy tố về tội cản trở việc THA vì CHV phải có chứng cứ
chứng minh mối liên quan giữa hành vi không cung cấp thông tin của người nắm
giữ thông tin với hành vi tẩu tán tài sản của người phải THA. Trong khi đó, việc thu
thập chứng cứ chứng minh là điều quá khó đối với CHV. Hơn nữa, thực tiễn hoạt
động THADS cho thấy, rất nhiều trường hợp, cơ quan THA đã tập hợp đủ các hồ
sơ, giấy tờ để đề nghị Viện kiểm sát truy tố về tội không chấp hành án của người
149
phải THA nhưng Viện kiểm sát vẫn không truy tố với lý do “hành vi của đương sự
chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự”, vậy khi nào thì bị coi là đã đến mức
bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong khi Bộ luật hình sự chỉ quy định “Người nào
cố ý không chấp hành bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mặc
dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết, thì bị phạt cải tạo không giam giữ
đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”? Vì vậy, trong thời gian trước
mắt, cần phải tăng cường hơn nữa trách nhiệm của Viện kiểm sát trong nhiệm vụ
truy tố về các loại tội trong hoạt động THADS, trong đó có tội cản trở việc THA.
Để thực hiện được điều này, bản thân Luật THADS cũng cần bổ sung quy định về
trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức nắm giữ thông tin về tài sản của người
phải THA theo hướng: nếu cố tình không cung cấp thông tin thì có thể bị xử phạt vi
phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong thời gian lâu dài, cần
đề nghị bổ sung vào Bộ luật hình sự quy định về tội cố tình không cung cấp thông
tin giống như tội “Từ chối khai báo, từ chối kết luận giám định, định giá tài sản
hoặc từ chối cung cấp tài liệu” được quy định tại Bộ luật hình sự [77, Điều 383].
Đối với loại tội này, cơ quan THA chỉ cần cung cấp chứng cứ về việc từ chối cung
cấp tài liệu, từ chối cung cấp thông tin của người phạm tội là đã đủ để đề nghị truy
cứu trách nhiệm hình sự mà không cần chứng minh hậu quả và mối quan hệ giữa
hành vi và hậu quả.
4.2.2.4. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống cung cấp thông tin về tài sản và
quản lý nguồn thu nhập, tài sản của người phải thi hành án
Hiện nay, ở Việt Nam rất nhiều cơ quan có thẩm quyền quản lý thông tin về
tài sản của người phải THA. Mỗi cơ quan lại có cách thức lưu giữ thông tin khác nhau
vì vậy sẽ gây khó khăn cho CHV trong quá trình khai thác thông tin. Vì vậy, cần quy
định đồng bộ việc kê khai, đăng ký tài sản, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về
đăng ký tài sản để sử dụng cho việc tra cứu, cung cấp thông tin về tài sản.
Cần quy định cơ chế cung cấp thông tin, khai thác thông tin nhằm vừa bảo vệ
được bí mật thông tin về tài sản của người phải THA lại vừa thực hiện được việc
cung cấp, tra cứu thông tin về tài sản của các đương sự để tổ chức thực hiện việc
THA theo quy định của pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
lợi ích của Nhà nước và của toàn xã hội.
Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống cung cấp thông tin về tài sản của
người phải THA là việc làm sẽ giúp khắc phục tất cả những khó khăn, vướng mắc
150
hiện nay liên quan đến xác minh điều kiện THA của người phải THA. Lý do CHV
chưa làm tốt công tác xác minh là vì CHV phụ thuộc rất lớn vào các cơ quan có
thẩm quyền trong việc cung cấp thông tin. Nếu chúng ta xây dựng được hệ thống cơ
sở dữ liệu quốc gia về đăng ký tài sản thì tất cả các tài sản thuộc diện phải đăng ký
quyền sở hữu, sử dụng sẽ được quản lý trong một dữ liệu thống nhất. Theo đó,
những người có nhu cầu tra cứu và cung cấp thông tin về tài sản sẽ phải trả một
mức phí nhất định để được cung cấp thông tin.
Trong bài viết “Sử dụng công nghệ thông tin trong việc xác định điều kiện
kinh tế của người phải thi hành” của các tác giả Janeck Pun, Xơ lep Laane, Jaan
Lyynik - Ủy viên Hội đồng Hiệp hội TPL và Quản tài viên, Cộng hòa Estonia. Bài
viết được dịch từ nguyên bản tiếng Nga trong cuốn sách “Thực trạng kê biên tài sản
của người phải THA và hướng giải quyết: cách tiếp cận của các quốc gia nhằm nâng
cao hiệu quả của hoạt động THA”, tuyển tập từ Hội thảo khoa học và thực tiễn quốc
tế lần thứ tư, 18-20 tháng 3, 2013, Akaterinbơc, Nga. Bài viết giới thiệu về kinh
nghiệm của quốc gia Estonhia trong việc sử dụng công nghệ thông tin để xác minh
tài sản của người phải THA. Các TPL có thể thông qua hệ thống XT (là tầng trao
đổi dữ liệu giữa hệ thống công nghệ thông tin của Chính phủ) gửi các yêu cầu cung
cấp thông tin tại các cơ sở dữ liệu cần thiết và nhận câu trả lời trong vòng vài giây.
Khi xác định tình trạng kinh tế của người phải THA, TPL thường sử dụng các cơ sở
dữ liệu sau đây: Các cơ sở dữ liệu công (Dữ liệu công dân: nơi thường trú và các
mối quan hệ giao dịch của người phải THA; dữ liệu thương mại: sự tham gia của
người phải THA tại các doanh nghiệp; dữ liệu bất động sản: các bất động sản thuộc
sở hữu của người phải THA; dữ liệu phương tiện giao thông: các ô tô (kể cả các tàu
thuyền nhỏ) thuộc sở hữu của người phải THA; dữ liệu vũ khí thông thường và vũ
khí công vụ: những vũ khí thuộc quyền của người phải THA; dữ liệu về người nộp
thuế: người sử dụng lao động và thu nhập của người phải THA và của doanh
nghiệp. Dữ liệu quốc gia về người lao động hiện đang được xây dựng. Ngoài ra,
TPL còn sử dụng các cơ sở dữ liệu tư nhân: Các tổ chức tín dụng: số tiền của người
phải THA trên các tài khoản hiện có; các công ty bảo hiểm: các khoản lợi tức bảo
hiểm được trả cho người phải THA. Hầu hết các cơ sở dữ liệu đều kết nối với XT.
Tình hình kinh tế của người phải THA là một trong những vấn đề quan trọng của
xác minh điều kiện THADS. Người phải THA thường là đưa ra những thông tin sai
151
lệch về tình hình kinh tế thực tế của họ, tẩu tán tài sản, trốn tránh việc THA... Việc
sử dụng hệ thống đăng ký tài sản trên toàn quốc cũng được rất nhiều quốc gia trên
thế giới áp dụng như Bungaria, Izrael, Nga, Phần Lan… [11], [57]
Thực tế, cách thức của người phải THA cũng như các biện pháp để xác định
chủ sở hữu thực sự và việc sử dụng các quyền tài sản càng ngày càng trở nên phức
tạp, do đó, với những kinh nghiệm các quốc gia nói trên là bài học để Việt Nam có
thể xem xét trong tiến trình cải cách hệ thống cung cấp thông tin về tài sản của
người phải THA.
Ngoài ra, thực tiễn của hoạt động THADS đối với bản án về tham nhũng
cũng cho thấy, việc xác minh điều kiện THA, ngoài các tài sản đã được kê biên, tuyên
xử lý trong bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan THADS khó có thể xác minh được
thêm tài sản hoặc nguồn thu nhập khác, vì tội phạm tham nhũng thường tìm mọi cách
để tẩu tán, che giấu, hợp lý hóa tài sản, trong khi đó, cơ quan THADS chỉ có thể căn cứ
vào tình trạng pháp lý hiện hành của tài sản để xử lý mà không có thẩm quyền điều tra,
chứng minh nguồn gốc tài sản do phạm tội mà có, hơn nữa, cơ chế quản lý tài sản ở
nước ta hiện nay còn thiếu minh bạch, các giao dịch kinh tế, dân sự hiện nay vẫn chủ
yếu được thực hiện bằng hình thức thanh toán tiền mặt, do đó khó kiểm soát được thu
nhập, tài sản của tổ chức, cá nhân và cũng gây khó khăn cho việc áp dụng các biện
pháp phong tỏa, kê biên tài sản của cơ quan có thẩm quyền [86].
Vì vậy, theo tác giả cần có quy định thống nhất, đồng bộ về cơ chế kiểm tra,
giám sát, quản lý nguồn thu nhập, tài sản của người phải THA thông qua việc đăng
ký, kê khai tài sản nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác minh điều kiện THA
và hạn chế được tình trạng tẩu tán tài sản của người phải THA.
Đối với người phải THA là doanh nghiệp, cần có một cơ chế để quản lý một
cách hữu hiệu tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó, để
hạn chế tình trạng cố tình tẩu tán tài sản bằng cách báo cáo tình hình hoạt động thua
152
lỗ của doanh nghiệp.
Tiểu kết chƣơng 4
Việc đề ra các yêu cầu và giải pháp hoàn thiện pháp luật về xác minh điều
kiện THADS là đòi hỏi khách quan và cần thiết khi khung pháp lý điều chỉnh về xác
minh điều kiện THADS ở Việt Nam vẫn chưa đồng bộ, các quy định về xác minh
điều kiện THA vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Hoàn thiện pháp luật về xác minh điều
kiện THADS phải xuất phát từ yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam, từ thực tiễn THADS, phải đảm bảo tính khả thi, hiệu quả, đáp ứng đòi hỏi
thực tiễn, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện THADS bao
gồm các giải pháp hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện THADS và các giải
pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về xác minh điều kiện THADS. Nhóm
các giải pháp hoàn thiện pháp luật bao gồm những giải pháp cụ thể như: chủ thể xác
minh; thời hạn xác minh điều kiện THA; ủy quyền xác minh; ủy thác tư pháp về xác
minh; trách nhiệm của người phải THA trong việc kê khai tài sản; quy định về việc
huy động lực lượng trong xác minh. Nhóm các giải pháp nâng cao hiệu quả thức thi
bao gồm: bổ sung, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến mô
hình, tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý THA, cơ quan THADS, cơ chế
THA và sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức liên quan trong quá trình THA; quy
định về nâng cao địa vị pháp lý của CHV; nâng cao trình độ, nghiệp vụ của CHV,
đội ngũ cán bộ, công chức các cơ quan THA trước những yêu cầu, nhiệm vụ được
153
giao; tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát, chỉ đạo, phối hợp, hoạt động THA.
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN ở Việt Nam thì nghiên cứu và tìm ra một cơ chế xác minh điều kiện THADS
hiệu quả là vấn đề cấp thiết đặt ra để đẩy nhanh tiến trình THADS, nâng cao hiệu
quả công tác THADS. Xác minh điều kiện THADS là một giai đoạn, một thủ tục
trong quá trình THADS nhưng xác minh lại có ý nghĩa quyết định đối với kết quả
của hoạt động THADS, nếu người phải THA có nghĩa vụ nhưng người phải THA
không có tài sản, không có điều kiện THA do tẩu tán tài sản hoặc trốn tránh nghĩa
vụ thì việc THA sẽ không thể tiếp tục thực thi. Như khẳng định của Hội đồng châu
Âu khi đưa ra khuyến nghị để thực hiện tốt hơn việc tổ chức THA: “Để pháp luật
được duy trì và để người dân có niềm tin vào hệ thống toà án, cần có các quy trình
THA hiệu quả. Tuy nhiên, việc THA chỉ có thể đạt được khi người phải THA có
điều kiện hoặc khả năng thoả mãn bản án” [99]. Xuất phát từ việc nhận thức về vai
trò quan trọng của pháp luật đối với hoạt động xác minh điều kiện THADS ở Việt
Nam, tác giả đã lựa chọn đề tài “Xác minh điều kiện THA dân sự theo pháp luật
THA dân sự Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của luận án.
Luận án đã thu thập, hệ thống hoá, tổng hợp và phân tích tình hình nghiên
cứu ở trong nước và nước ngoài theo từng nhóm vấn đề nghiên cứu của đề tài. Qua
đó cho thấy, các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài chưa thực sự xây
dựng được một nền tảng lý luận bao quát, chuyên sâu cũng như chưa đánh giá toàn
diện thực tiễn pháp luật Việt Nam về xác minh điều kiện THADS. Số lượng các
công trình nghiên cứu ở trong nước còn khá hạn chế và chưa toàn diện, hệ thống.
Đồng thời, xác minh điều kiện THADS là một đề tài không còn mới trên thế giới
nhưng chưa có bất kỳ một công trình ở nước ngoài nghiên cứu pháp luật Việt Nam
về lĩnh vực này. Trên cơ sở nhận định và đánh giá này, luận án đặt ra những vấn đề
cần được kế thừa và cần được tiếp tục nghiên cứu liên quan đến lý luận chung về
xác minh điều kiện THADS, thực trạng pháp luật Việt Nam về xác minh điều kiện
THADS và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện THADS.
Luận án tiếp cận hoạt động xác minh điều kiện THADS là một giai đoạn của
hoạt động THADS nên tập trung nghiên cứu các vấn đề lý thuyết nền tảng về hoạt
động này. Trong đó, luận án khẳng định, chủ thể xác minh điều kiện THADS gắn
liền với chủ thể của hoạt động THADS và bị chi phối bởi mô hình tổ chức THADS.
154
Bên cạnh đó, giá trị pháp lý của các bản án, quyết định có hiệu lực thi hành cũng
đưa đến cho các chủ thể xác minh những “quyền lực” khác với các chủ thể khác
và/hoặc ở các hoạt động xác minh khác.
Ngoài ra, do đối tượng của hoạt động xác minh điều kiện THADS là thông
tin về tài sản, thu nhập của người phải THA nên việc thu thập thông tin gắn liền với
nghĩa vụ của người phải THA, với các quyền cơ bản của người phải THA là quyền
sở hữu, đồng thời cũng liên quan đến quyền được hưởng các quyền lợi được ghi
nhận trong bản án, quyết định của người được THA. Đặc điểm này quyết định các
nội dung cần phải xác minh và phạm vi xác minh của chủ thể có thẩm quyền. Đồng
thời, việc thu thập thông tin phụ thuộc vào thái độ của người phải THA và các chủ
thể quản lý thông tin về tài sản, điều kiện THA của người phải THA nên phương
thức xác minh cũng được xây dựng với những điểm khác biệt đặt trong mối liên hệ
với cách thức quản lý thông tin và nghĩa vụ tôn trọng bản án, quyết định có hiệu lực
thi hành của các chủ thể có liên quan. Hơn nữa, pháp luật THADS có bản chất là
pháp luật về thủ tục nên với tư cách là một công đoạn của quá trình THA, xác minh
điều kiện THA cũng cần các quy định mang tính chất thủ tục để định hướng hoạt
động cho các chủ thể có thẩm quyền.
Từ việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về xác minh điều kiện THADS,
luận án đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật Việt Nam về
xác minh điều kiện THA. Luận án khẳng định pháp luật Việt Nam về xác minh điều
kiện THADS còn chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được yêu cầu đảm bảo hiệu lực, hiệu
quả của hoạt động THADS. Cụ thể còn tồn tại những vướng mắc, bất cập về chủ thể
xác minh, nội dung xác minh, thủ tục xác minh, thời điểm xác minh. Trên cơ sở
phân tích những vướng mắc, bất cập, luận án đã chỉ ra nguyên nhân của những tồn
tại, hạn chế không chỉ bắt nguồn từ những nguyên nhân khách quan mà đa số từ
những nguyên nhân chủ quan về nhận thức lập pháp, kỹ thuật lập pháp, năng lực,
trình độ của những người thực thi pháp luật…
Qua việc nghiên cứu nền tảng lý luận và thực trạng pháp luật về xác minh
điều kiện THADS, luận án một lần nữa khẳng định hoàn thiện pháp luật THADS
nói chung và pháp luật về xác minh điều kiện THADS nói riêng là một vấn đề quan
trọng trong việc bảo đảm thực thi các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của
Tòa án, Trọng tài thương mại và Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, góp phần đảm
bảo các quyền con người, quyền công dân. Luận án đặt ra yêu cầu đối với việc hoàn
155
thiện pháp luật về xác minh điều kiện THADS là phải xuất phát từ yêu cầu của việc
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, yêu cầu của thực tiễn hoạt động
THA và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Trên cơ sở đó, luận án đưa ra các giải
pháp chung và các giải pháp cụ thể để bổ sung cho những “lỗ hổng” của pháp luật
và xây dựng cơ chế xác minh điều kiện THADS hiệu quả, góp phần vào việc nâng
156
cao hiệu quả của hoạt động THADS.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Bích Thảo, Nguyễn Thị Hương Giang (2018), “Hoàn thiện cơ chế
xác minh điều kiện thi hành án dân sự ở Việt Nam từ kinh nghiệm quốc tế”, Tạp chí
Khoa học, Luật học, Tập 34, số 1, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.63-71;
2. Nguyễn Thị Hương Giang, Bùi Nguyễn Phương Lê (2020), “Phương thức
xác minh điều kiện thi hành dân sự ở một số nước trên thế giới và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Nghề luật, số 6, tr.70-76;
3. Nguyễn Thị Hương Giang (2020), “Thời điểm xác minh điều kiện thi hành
án dân sự từ kinh nghiệm một số nước trên thế giới”, Tạp chí Nghề luật, số 7, tr.71-73;
4. Nguyễn Thị Hương Giang (2020), “Chủ thể xác minh điều kiện thi hành
157
án”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số tháng 8 năm 2020, tr.44-49.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
[1] Trần Ngọc Bàn (2013), “Những trường hợp khó thi hành thường gặp trong
thi hành án dân sự”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 6/2013
[2] Ban Chấp hành Trung ương (2007), Nghị quyết số 08-NQ/TW về một số chủ
trương chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt
Nam là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới, ban hành ngày
05/02/2007, Hà Nội
[3] Phạm Văn Bằng (2011), “Những vướng mắc khi tiếp nhận thụ lý và xác
minh trong thi hành án dân sự”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề
tháng 3 – 2011, tr4
[4] Bộ Chính trị (2001), Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế,
ban hành ngày 27/11/2001, Hà Nội
[5] Bộ Chính trị (2013), Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế, ban hành
ngày 10/4/2013, Hà Nội
[6] Bộ Công an (2014), Thông tư số 15/2014/TT-BCA quy định về đăng ký xe,
ban hành ngày 04/4/2014, Hà Nội
[7] Bộ Tài chính (2016), Thông tư 200/2016/TT-BTC quy định về việc lập, quản
lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm hoạt động của cơ quan thi hành
án dân sự, kinh phí cưỡng chế thi hành án dân sự, ban hành ngày
09/11/2016, Hà Nội
[8] Bộ Tư pháp (2000), "Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức
hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam trong giai đoạn mới", Đề tài khoa
học cấp nhà nước độc lập (Mã số đề tài 2000-58-198)
[9] Bộ Tư pháp (2005), “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các
thủ tục tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả
và hiệu lực xét xử của Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân,
do dân, vì dân”, Đề tài KX.04.06 (thuộc Chương trình khoa học xã hội cấp
nhà nước 2001-2005)
[10] Bộ Tư pháp (2005), Báo cáo của Đoàn khảo sát liên ngành do Thứ trưởng
Bộ Tư pháp Lê Thị Thu Ba làm trưởng đoàn về kết quả khảo sát, tìm hiểu
Luật thi hành án tại Hoa Kỳ từ ngày 27/9/2005 đến ngày 6/10/2005
158
[11] Bộ Tư pháp (2014), Báo cáo của Đoàn công tác tại Liên bang Nga về kết
quả dự Hội nghị quốc tế lần thứ 5 về thi hành án dân sự từ ngày 9/9 đến
11/9/2014
[12] Bộ Tư pháp (2016), Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự, hành
chính năm 2016 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp công tác năm 2017
[13] Bộ Tư pháp (2017), Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự, hành
chính năm 2017 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp công tác năm 2018
[14] Bộ Tư pháp (2018), Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự, hành
chính năm 2018 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp công tác năm 2019
[15] Bộ Tư pháp (2019), Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự, hành
chính năm 2019 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp công tác năm 2020
[16] Bộ Tư pháp, Bộ Công an (2012), Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT-BTP-
BCA về việc quy định cụ thể phối hợp bảo vệ cưỡng chế trong cơ quan thi
hành án dân sự, ban hành ngày 30/3/2012, Hà Nội
[17] Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Lao động thương binh xã hội, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam (2014), Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-BTP-BTC-
BLĐTBXH-NHNNVN hướng dẫn việc cung cấp thông tin về tài khoản, thu
nhập của người phải thi hành án và thực hiện phong toả, khấu trừ để thi
hành án dân sự, ban hành ngày 14/01/2014, Hà Nội
[18] Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2014), Thông tư liên tịch số
03/2014/TTLT-BTP-NHNNVN hướng dẫn việc xác minh điều kiện thi hành
án của Thừa phát lại tại các tổ chức tín dụng, ban hành ngày 17/01/2014,
Hà Nội
[19] Claude Brenner (2006), “Lựa chọn mô hình tổ chức thi hành án phù hợp với
điều kiện của mỗi quốc gia”, Tạp chí nghiên cứu Lập pháp, số 79, tháng
7/2006
Hồ Quân Chính (2010), “Một số vấn đề về kê biên phần vốn góp theo Điều
[20]
92 Luật thi hành án dân sự năm 2008”,
v%cc%81n-d%cc%80-v%cc%80-k-bin-ph%cc%80n-v%cc%81n-
go%cc%81p-theo-di%cc%80u-92-lu%cc%a3t-thi-ha%cc%80nh-a/> (ngày
17/5/2020)
[21] Hồ Quân Chính (2011), “Những vấn đề thực tiễn về xác minh, cung cấp
159
thông tin và hướng hoàn thiện”,
ess=/noidung/tintuc/Lists/NghienCuuTraoDoi&ListId=0a02d343-b1d2-
42bd-93de-65d2db3e5e48&SiteId=c14f4b03-975c-4234-893b-
d5c829a196a7&ItemID=642&SiteRootID=a149ca04-0675-4959-b693-
037f129a9de6> (ngày 17/5/2020)
[22] Chính phủ (2009), Nghị định số 58/2009/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án
dân sự, ban hành ngày 13/7/2009, Hà Nội
[23] Chính phủ (2009), Nghị định số 61/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động
của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh, ban hành
ngày 24/7/2009, Hà Nội
[24] Chính phủ (2012), Nghị định số 11/2012/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số
điều của nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của
Chính phủ về giao dịch bảo đảm, ban hành ngày 22/02/2012, Hà Nội
[25] Chính phủ (2020), Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và
gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, ban hành
ngày 15/7/2020, Hà Nội
[26] Chính phủ (2015), Báo cáo số 557/BC-CP về hoạt động tương trợ tư pháp
năm 2015, ban hành ngày 21/10/2015, Hà Nội
[27] Chính phủ (2015), Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự, ban hành ngày
18/7/2015, Hà Nội
[28] Chính phủ (2016), Nghị định số 171/2016/NĐ-CP về đăng ký, xoá đăng ký,
mua bán, đóng mới tàu biển, ban hành ngày 27/12/ 2016, Hà Nội
[29] Chính phủ (2020), Nghị định số 08/2020/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động
của Thừa phát lại, ban hành ngày 08/01/2020, Hà Nội
[30] Chính phủ (2020), Nghị định số 33/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi
hành án dân sự, ban hành ngày 17/3/2020, Hà Nội
[31] Doãn Công (2016), “Bình Định: Cán bộ thi hành án bị tố “hiến kế” để bị
160
đơn tẩu tán tài sản”,
hanh-an-bi-to-hien-ke-de-bi-don-tau-tan-tai-san-20160608083218809.html>,
(16/5/2020)
[32] Cục Quản lý thi hành án dân sự (1997), Báo cáo kết quả toạ đàm về Luật Thi
hành án dân sự của Thuỵ Điển từ ngày 28- 29/10/1997
[33] Cục Quản lý thi hành án dân sự (1998), Báo cáo của Đoàn nghiên cứu, khảo
sát do Phó Cục trưởng Cục Quản lý THADS làm trưởng đoàn về kinh
nghiệm thi hành án dân sự tại Cộng hoà liên bang Đức từ ngày 15/4 đến
ngày 25/4/1998
[34] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện đại hội VII
[35] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện đại hội VIII
[36] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội IX
[37] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội X
[38] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội XI
[39] Thanh Dương, “Quyền kiểm sát THADS theo luật định và những sai phạm
trong việc xác minh điều kiện THA”,
&id=989%3Aquyn-kim-sat-thads-theo-lut-nh-va-nhng-sai-phm-trong-vic-
xac-minh-iu-kien-tha&catid=104%3Akim-sat-vien-
vit&Itemid=172&lang=vi>, (ngày 15/5/2020)
[40] Trần Viết Hải (2019), Thủ tục phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với
các cơ quan, tổ chức khác trong xác minh điều kiện thi hành án dân sự từ
thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sỹ luật học,
Học viện Khoa học xã hội
[41] Thu Hằng (2016), “Thi hành án liên quan đến tín dụng, ngân hàng: Cần có
các giải pháp cụ thể”,
View_Detail.aspx?ItemID=11> (16/5/2020)
[42] Lê Võ Hồng Hạnh (2012), “Xác minh điều kiện thi hành án và thực tiễn áp
dụng”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 5 (242) – 2012, tr48-49
[43] Chu Thị Hoa (2014), “Mô hình tổ chức thi hành án dân sự công ở một số
nước trên thế giới”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 10 (271), năm 2014,
trang 62.
161
[44] Trần Thị Phương Hoa (2016), “Một số sai sót thường gặp trong thi hành án
dân sự qua việc tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo”, Tạp chí Dân
chủ và pháp luật, Số chuyên đề về khiếu nại và tố cáo trong thi hành án dân
sự năm 2016
[45] Học viện Tư pháp (2009), Sổ tay chấp hành viên, Nhà xuất bản Thống kê,
Hà Nội, tr.119-146.
[46] Học viện Tư pháp (2012), Giáo trình Kỹ năng thi hành án dân sự (phần
nghiệp vụ), Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội
[47] Học viện Tư pháp (2016), Giáo trình Nghiệp vụ thi hành án dân sự (phần kỹ
năng), Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội
[48] Học viện Tư pháp (2016), Tập bài giảng Kỹ năng hành nghề thừa phát lại,
Chủ biên TS Nguyễn Xuân Thu, Thạc sỹ Cao Thị Kim Trinh, Hà Nội, tr.18
[49] Lê Xuân Hồng (2009), “Thủ tục thực hiện công việc của thừa phát lại”, Tạp
chí Dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề Thi hành án dân sự và vấn đề xã hội
hóa năm 2009
[50] Đinh Thị Thanh Hương (2013), Xác minh điều kiện thi hành án dân sự,
Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội
[51] Thanh Hương (2014), “Một số ý kiến về xác minh điều kiện thi hành án”,
Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 2 (263), năm 2014, tr53
[52] Hữu Nguyễn (2016), “Chi cục Thi hành án huyện Tiên Lữ lờ phán quyết
phúc thẩm của Toà án tỉnh Hưng Yên”,
hanh-an-huyen-tien-lu-lo-phan-quyet-phuc-tham-cua-toa-an-tinh-hung-yen-
d38734.html=>, (ngày 15/5/2020).
Jica (1998), Luật Nhật Bản, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội [53]
[54] Nguyễn Thị Khanh (2010), “Những vướng mắc từ thực tiễn thi hành Luật
Thi hành án dân sự”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 3/2010
[55] Nguyễn Lân (1998), Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 2061.
[56] Bùi Nguyễn Phương Lê (2015), “Xác minh điều kiện thi hành án theo Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự”, Tạp chí Dân chủ
và pháp luật – Số chuyên đề về Thi hành án dân sự tháng 2/2015
[57] Liên bang Nga (2013), Hội thảo khoa học và thực tiễn thi hành án quốc tế
lần thứ tư, 18-20 tháng 3/2013, Akaterinbơc, Nga
162
[58] Nguyễn Văn Lộc (2013), “Thực tiễn thi hành án dân sự đối với cá nhân, tổ
chức là người nước ngoài ở Bình Dương”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số
10 (259) – 2013, tr54-55
[59] Võ Hoài Nam (2013), “Một số vấn đề xác minh điều kiện thi hành án tại các
tổ chức tín dụng”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tháng 2 năm 2013
[60] Duy Nhân (2014), “Án đã tuyên, bí thư huyện can thiệp”,
20141214205137223.html> (15/5/2020)
[61] Lê Thị Nga (2011), “Yêu cầu về tính thống nhất của hệ thống pháp luật”,
4190
&p_cateid=1751909&item_id=8611408&article_details=1>, (ngày
15/5/2020)
[62] Nguyễn Văn Nghĩa (2018), “Trách nhiệm cung cấp thông tin tài sản thi hành
án dân sự trong pháp luật châu Âu và cộng hoà liên bang Đức”, Tạp chí
nghiên cứu lập pháp, số 01 (353), tháng 01/2018, tr59-64
[63] Thảo Nguyên (2016), “Chủ tịch nước: Thi hành án phải tăng hiệu quả thu
hồi tài sản tham nhũng”,
nhung/trong-nuoc/chu-tich-nuoc-thi-hanh-an-phai-tang-hieu-qua-thu-hoi-tai-
san-tham nhung_t114c1080n106268> (16/5/2020)
[64] Nhà pháp luật Việt - Pháp (1997), Tài liệu tham khảo về thừa phát lại và thi
hành án (dịch từ "L'Hussier de la Justice "do Hội đồng thừa phát lại Pháp
ấn hành tháng 2/1994)
[65] Nhà pháp luật Việt - Pháp (2006), Các mô hình tổ chức THA trên thế giới,
Kỷ yếu hội thảo ngày 17-18/4/2006
[66] Vũ Thuần Nho (2013),“Bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án nhân
dân có hiệu lực pháp luật được chấp hành trên thực tế”, Tạp chí Dân chủ và
pháp luật, số 3 năm 2013
[67] Nguyễn Tiến Pháp (2012), “Nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự và xác
minh điều kiện thi hành án của Thừa phát lại”, Tạp chí Dân chủ và pháp
luật, số 11/2012
[68] Nguyễn Thị Phíp (2009), Hoàn thiện pháp luật về Chấp hành viên trong thi
hành án dân sự tại Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị
163
Quốc gia Hồ Chí Minh
[69] Nguyễn Duy Phương (2014), “Kiến nghị hoàn thiện Luật Thi hành án dân
sự”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 7/2014
[70] Quốc hội (2008), Luật Thi hành án dân sự, Hà Nội
[71] Quốc hội (2010), Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hà Nội
[72] Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà
Nội
[73] Quốc hội (2013), Luật Đất đai, Hà Nội
[74] Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội
[75] Quốc hội (2014), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Thi hành án dân sự,
Hà Nội
[76] Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự, Hà Nội
[77] Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự, Hà Nội
[78] Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội
[79] Đặng Đình Quyền (2011), “Tiêu chí đánh giá hiệu quả áp dụng pháp luật
trong thi hành án dân sự”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 9/2011
[80] Trần Đại Sỹ (2009), “Quy định về xác minh điều kiện thi hành án còn nhiều
bất cập”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề về Thi hành án dân sự
số 03/2009
[81] Lại Văn Thắng (2012), “Cần hướng dẫn và quy định khả thi hơn về xác
minh điều kiện thi hành án”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, tháng 4/2012
[82] K.Thế (2016), “Tổng cục Thi hành án dân sự: Vì sao khó thu hồi tài sản các
vụ tham nhũng?”,
dan-su-vi-sao-kho-thu-hoi-tai-san-cac-vu-tham-nhung-284594.html>
(15/5/2020)
[83] Vũ Đình Thung (2016), “Có khởi tố vụ tẩu tán tài sản để “né' thi hành án?”,
post169905.html> (15/5/2020)
[84] Nguyễn Thanh Thuỷ (2009), Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở
Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh
[85] Hoàng Thị Thu Trang (2015), “Hoàn thiện quy định pháp luật về xác minh
điều kiện thi hành án dân sự”,
164
_detail.aspx?itemid=13> (ngày 17/5/2020)
[86] Nguyễn Văn Tuấn (2016), Gỡ vướng trong thi hành án các vụ án tham
nhũng,
tham-nhung/c/19841076.epi>, (ngày 15/5/2020)
[87] Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp TP.Hồ Chí
Minh (1995), Những cơ sở lý luận và thực tiễn về định chế Thừa phát lại, Đề
tài 95-98-114/ĐT (Đề tài cấp Bộ), Hà Nội
[88] Phan Đức Vũ (2013), “Một số bất cập sau ba năm thực hiện Luật Thi hành
án dân sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số tháng 1/2013
[89] Vụ Pháp luật Dân sự - Kinh tế (2000), Báo cáo về kết quả toạ đàm pháp luật
thi hành án dân sự Nhật Bản từ ngày 2-3 và 6-7 tháng 10/2000 tại Bộ Tư
pháp
[90] Ý Công (2011), “Khó khăn trong xác minh điều kiện thi hành án”, Tạp chí
Dân chủ và pháp luật, tháng 9/2011
[91] Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội, tr. 1848.
[92] Phạm Công Ý (2013), “Về một quyết định huỷ kết quả thi hành án”, Tạp chí
dân chủ và pháp luật, số 6 (255), năm 2013, tr53-58
Tiếng Anh
[93] British Columbia Law Institute (2005), Report on the Uniform Civil
Enforcement of Money Judgment Acts
[94] Honorable James J.Brown (2017), “Judgment Enforcement”, Aspen
Publishers, 3rd Edition, 2017 Supplement, section 3 “Discovery to find the
debtor’s assets”
[95] California legislative information (2020), California Civil Procedure Code,
cp>, (ngày 15/10/2020)
[96] Chamber and patners (2019), “Enforcement of judgments”,
https://practiceguides.chambers.com/practice-guides/enforcement-of-
judgments-2019/france, Last Updated August 07, 2019
[97] M.Chardon (2010), “Enforcement in France: an overview of legislation and
165
practice”, “Enforcement and Enforceability – Tradition and Reform”,
Editors C.H. van Rhee & A. Uzelac, ISBN 978-94-000-0073-
5D/2010/7849/66 NUR 822, page 153
[98] Committee of Ministers of the Council of Europe (2003), Recommendation
Rec (2003) 17 of the Committee of Ministers to member states on
enforcement (adopted by the Committee of Ministers on 09 September 2003
at the 851st meeting of the Ministers’ Deputies)
[99] European Commission for the efficiency of justice, CEPEJ (2004),
“Enforcement of court decisions in europe”, page 60.
[100] European Commission for the efficiency of jutice, CEPEJ (2004),
Guidelines fof a better implementation of the existing Council of Europe’s
recommendation on enforcement
[101] European Judicial Network, “Procedures for enforcing a judgment”,
52-de-en.do?member=1> (ngày 10/5/2020)
[102] European Judicial Network (2020), Procedure for enforcing a judgment:
justice.europa.eu/content_procedures_for_enforcing_a_judgment-52-ew-en.do?member=1>,
England and Wales,
(ngày 15/5/2020)
[103] Federal Bailiffs’ Servive (2019), “State and private enforcement systems:
comparative analysis and the best practices”, collection of Materials of the
9th International Scientific and Practical Conference, 10-13 October 2018,
Sochi, Krasnodar Region
[104] Heike Gramckow (2012), “Court Auctions: Effective Processes and
Agents”, Enforcement
, (ngày
8/4/2020)
[105] Henderson, Keith, Angana Shah, Sandra Elena & Violaine Autheman
(2004), Regional Best Practices: Enforcement of Court Judgmentss. Lessons
Learned from Latin America, IFES Rule of Law White Paper Series,
International Foundation for Electoral Systems, Washington, DC.
[106] Burkhard Hess (2004), Study No. JAI/A3/2002/02 on making more efficient
the enforcement of judicial decisions within the European
166
Union:Transparency of a Debtor’s Assets Attachment of Bank Accounts -
Provisional Enforcement and Protective Measures, Version of 2/18/2004,
[107] Burkhard Hess (2010), “Different enforcement structure”, “Enforcement
and Enforceability – Tradition and Reform”, Editor C.H. van Rhee & A.
Uzelac ISBN 978-94-000-0073-5D/2010/7849/66 NUR 822, page 51
[108] Qing – Yun Jiang (2006), Court Delay and law enforcement in China,
Gabler Edition Wissenchaft, 2006, page 208
[109] Ministry of the Attorney General (2020), “After Judgment – Guide to
Getting Results”, January 2020,
After_Judgement_Guide_to_Getting_Results_EN.html> (ngày 15/5/2020)
[110] Taiwan (2018), Compulsory enforcement Act
[111] William T. Tanner, “How to collect your judgment”,
, (ngày
26/4/2020).
[112] United States Courts (2019), Federal Rules of Civil Procedure,
procedure>, (ngày 15/10/2020)
Tiếng Pháp
[113] Parlement francais (2019), Code des procédures civiles d'exécution
Trang web
[114] http://vietrustlaw.com.vn/home/index.php?option=com_content&task
167
=view&id=711&Itemid=4