HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

BÙI ĐỨC TIẾN

THùC HIÖN PH¸P LUËT

VÒ C¦ìNG CHÕ THI HµNH ¸N D¢N Sù ë VIÖT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật

HÀ NỘI - 2018

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

BÙI ĐỨC TIẾN

THùC HIÖN PH¸P LUËT

VÒ C¦ìNG CHÕ THI HµNH ¸N D¢N Sù ë VIÖT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật

Mã số: 62 38 01 01

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. HOÀNG THẾ LIÊN

HÀ NỘI - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các số liệu, trích dẫn trong luận án bảo đảm độ tin cậy,

chính xác, trung thực và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả luận án

Bùi Đức Tiến

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU Trang 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

7 7 10

1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam 1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra tiếp tục

nghiên cứu 25

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ

30

CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thực hiện pháp luật về cưỡng

chế thi hành án dân sự 30

2.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật và hình thức thực hiện pháp luật

về thi hành án dân sự 46

2.3. Các điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành

án dân sự 55

Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM

64 64

3.1. Thực trạng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự 3.2. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án

dân sự 86

110 Chương 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM

4.1. Quan điểm đảm bảo thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án

dân sự ở Việt Nam 110

4.2. Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án

dân sự ở Việt Nam 115

130

KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

134 135

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 3.1: Cơ cấu ngạch, bậc cán bộ, công chức các cơ quan thi

hành án dân sự 88

Bảng 3.2: Kết quả về hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự 91

Bảng 3.3: Kết quả thi hành án dân sự về tiền 92

Bảng 3.4: Thống kê các việc thi hành án dân sự phải tổ chức

93 cưỡng chế

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thi hành án là hoạt động đưa các bản án, quyết định có hiệu lực pháp

luật của Tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ra thi hành; đảm bảo tính

nghiêm minh của pháp luật; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước,

tổ chức, cá nhân và xã hội; góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng

cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước.

Đối với công tác thi hành án nói chung, công tác thi hành án dân sự nói

riêng, từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, Đảng ta đã đưa ra nhiều

chủ trương, định hướng quan trọng tạo cơ sở cho việc hoàn thiện pháp luật;

đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự; tăng cường

pháp chế trong hoạt động thi hành án dân sự, trong đó dấu mốc lập pháp quan

trọng là Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2009)

và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014

(có hiệu lực từ ngày 01/7/2015).

Trên cơ sở Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành,

hệ thống thi hành án dân sự đã không ngừng được hoàn thiện, góp phần nâng

cao hiệu quả thi hành án dân sự. Tuy nhiên, thực tiễn công tác thi hành án dân

sự thời gian qua cho thấy rằng bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác

thi hành án dân sự cũng còn những tồn tại, hạn chế nhất định, trong đó vấn đề

bức xúc hiện nay là tình trạng án tồn đọng, chưa tổ chức thi hành được. Tính

đến ngày 30/9/2017, tổng số việc các cơ quan thi hành án dân sự trong toàn

quốc phải thi hành là 869.430 việc, đã thi hành xong là 549.415 việc, còn

320.015 việc (chiếm 20,75% tổng số việc phải thi hành) chưa thi hành được)

[72]. Đáng chú ý là để đảm bảo hiệu quả thi hành án, có nhiều vụ việc, cơ

quan thi hành án dân sự phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế do đương sự

2

không tự nguyện thi hành, cản trở, chống đối việc thi hành án (chỉ riêng trong

năm 2017, các cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định cưỡng chế có huy

động lực lượng là 5.549 trường hợp) [72] . Như vậy, về nguyên tắc, quá trình

thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự để thi hành bản án, quyết định có

hiệu lực pháp luật thì thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự chỉ

đặt ra khi đương sự không tự nguyện thi hành án. Tuy nhiên, từ thực tiễn công

tác thi hành án dân sự cho thấy rằng thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi

hành án dân sự cũng còn những vướng mắc, bất cập cả về lý luận và thực tiễn

cần phải có sự nghiên cứu có hệ thống và toàn diện hơn. Ví dụ như: về mặt lý

luận, chưa làm rõ mối quan hệ giữa tự nguyện và cưỡng chế trong thi hành án

dân sự khi mà về nguyên tắc thì cưỡng chế chỉ đặt ra khi đương sự không tự

nguyện thi hành án nhưng sự tự nguyện của đương sự vẫn được khuyến khích

sau khi cơ quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp cưỡng chế; hoặc như

mối quan hệ giữa việc áp dụng các biện pháp bảo đảm và các biện pháp

cưỡng chế trong thi hành án dân sự. Về mặt thực tiễn, trình tự, thủ tục cưỡng

chế thi hành án dân sự còn chồng chéo, kéo dài; trong nhiều việc thi hành án,

các chủ thể chưa thực hiện đúng quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án

dân sự (người phải thi hành án cản trở, chống đối việc cưỡng chế thi hành án;

chấp hành viên chưa tuân thủ đúng các trình tự, thủ tục cưỡng chế; cá nhân, tổ

chức liên quan can thiệp trái pháp luật vào quá trình cưỡng chế…); các điều

kiện đảm bảo thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự (kinh phí,

phương tiện làm việc, công cụ hỗ trợ…) chưa phù hợp với đặc thù của hoạt

động thi hành án dân sự và yêu cầu đảm bảo hiệu lực, hiệu quả cưỡng chế thi

hành án dân sự…Thực trạng nêu trên đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, làm rõ

một số vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự

và luận giải một số phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện

pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, từ đó, tác giả chọn đề tài: "Thực

3

hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam" có ý nghĩa

cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn trước yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu

quả công tác thi hành án dân sự hiện nay.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật

về cưỡng chế thi hành án dân sự; thực trạng thực hiện pháp luật về cưỡng

chế thi hành án dân sự, (trong đó tập trung là đánh giá những ưu điểm, hạn

chế, bất cập và nguyên nhân), luận án đề xuất các quan điểm và giải pháp

đảm bảo hiệu quả đảm bảo thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án

dân sự ở Việt Nam trước những yêu cầu mới của công tác thi hành án dân

sự ở Việt Nam.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được các mục đích đặt ra trên đây, luận án thực hiện các nhiệm

vụ chủ yếu sau đây:

- Nghiên cứu, đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến

thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự.

- Phân tích khái niệm, bản chất, đặc điểm của cưỡng chế thi hành án

dân sự và thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự; nội dung, vai

trò của thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự và những yếu tố

ảnh hưởng đến hoạt động này.

- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi

hành án dân sự ở Việt Nam từ khi Luật Thi hành án dân sự năm 2008 có hiệu

lực đến nay.

- Đề xuất các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi

hành án dân sự ở Việt Nam trước những yêu cầu mới của công tác thi hành án

dân sự.

4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng thực hiện

pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự và chính sách, pháp luật liên quan

đến thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận án tập trung nghiên cứu thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành

án dân sự dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật; nghiên cứu

hoạt động thi hành án dân sự, cưỡng chế thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền

của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên và mối quan hệ với cơ quan,

tổ chức có liên quan trên phạm vi toàn quốc (không bao gồm thực hiện pháp

luật về cưỡng chế thi hành án dân sự của Thừa phát lại). Thời gian nghiên cứu

được giới hạn từ năm 2008 đến nay (thời điểm Quốc hội ban hành Luật Thi

hành án dân sự năm 2008).

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Để đạt được các mục đích nghiên cứu ở trên, luận án dựa trên cơ sở lý

luận và cơ sở thực tiễn sau đây:

- Về phương pháp luận, luận án sử dụng phương pháp luận của chủ

nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; về đổi mới tổ chức và hoạt động

của bộ máy nhà nước, nhất là nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật; các quan

điểm, đường lối của Đảng thể hiện trong các Nghị quyết, đặc biệt là các Nghị

quyết Đại hội VII, VIII, IX, X, XI, XII và Nghị quyết có đề cập đến vấn đề

xây dựng nhà nước pháp quyền của các Hội nghị Ban chấp hành Trung ương

các khóa và các nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp.

Về cơ sở thực tiễn: Luận án bám sát thực tiễn cải cách bộ máy nhà nước

và cải cách tư pháp, nhất là qua hơn ba mươi năm thực hiện công cuộc đổi

mới ở nước ta thời gian qua.

5

Trên cơ sở phương pháp luận nói trên, luận án sẽ sử dụng các phương

pháp cụ thể tại các chương như sau:

- Phương pháp lịch sử, phân tích, quy nạp được sử dụng chủ yếu tại

chương 2, nêu lên các cơ sở lý thuyết của vấn đề đặt ra, từ đó khái quát hóa

thành những luận điểm, quan điểm làm nền tảng lý thuyết xuyên suốt nội

dung của luận án (ví dụ như: để nghiên cứu, làm rõ những đặc trưng của thực

hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự so với thực hiện pháp luật nói

chung cũng như thực hiện pháp luật về cưỡng chế hình sự, cưỡng chế hành

chính; nghiên cứu quá trình hoàn thiện pháp luật là cơ sở cho thực hiện pháp

luật về cưỡng chế thi hành án dân sự...).

- Phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê được áp dụng

nhằm làm rõ những nội dung của chương 3. Đây là chương đánh giá thực

trạng thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự với những ví dụ, số

liệu cụ thể qua đó rút ra những ưu điểm, tồn tại, hạn chế tạo cơ sở cho việc đề

xuất các giải pháp ở chương 4. Ngoài ra, phương pháp phân tích cũng được áp

dụng nhằm làm sáng tỏ những nhận định, quan điểm đã được đưa ra về những

vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài luận án.

- Phương pháp phân tích, chứng minh được sử dụng chủ yếu tại chương

4 để làm rõ những quan điểm, giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả thực hiện

pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự phù hợp với yêu cầu cải cách tư

pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

5. Dự kiến những đóng góp mới của luận án

So với các công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến thi hành án

dân sự và cưỡng chế thi hành án dân sự đã được công bố, Luận án này có dự

kiến có những đóng góp mới như sau:

Thứ nhất, luận án phân tích, làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, vai trò

của cưỡng chế thi hành án dân sự và thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi

hành án dân sự.

6

Thứ hai, bằng việc phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về

cưỡng chế thi hành án dân sự, đặc biệt là áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi

hành án dân sự từ khi có Luật Thi hành án dân sự năm 2008, luận án làm sáng

tỏ tính quyết định của áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự đối

với các yêu cầu thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định có hiệu lực

pháp luật.

Thứ ba, bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau, luận án kiến nghị, đề xuất

hoàn thiện các quy định của pháp luật thi hành án dân sự nói chung, pháp luật

về cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng và luận giải các giải pháp đảm bảo

thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự trong điều kiện xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

- Về lý luận, kết quả của luận án góp phần vào hoàn thiện lý luận về

thực hiện pháp luật nói chung, thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự nói

riêng; chỉ rõ thực trạng và đề xuất giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về

cưỡng chế thi hành án dân sự trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

- Về thực tiễn, luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc

nghiên cứu, giảng dạy, học tập trong các cơ sở đào tạo luật và các cơ sở đào

tạo chức danh tư pháp.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

luận án gồm 4 chương, 10 tiết.

7

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

Thực thi các bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án và cơ quan, tổ

chức có thẩm quyền để đảm bảo công lý, công bằng trong xã hội luôn là một

trong những vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, những nhà

lập pháp và thực thi pháp luật. Vì vậy, trong luận án, khi nghiên cứu thực hiện

pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, tác giả sẽ nghiên cứu vấn đề này

đã được đề cập, nghiên cứu như thế nào ở các bình diện quốc tế và trong

nước, những vấn đề gì cần tiếp tục đặt ra giải quyết trong điều kiện thực tế

của Việt Nam. Đây chính là cơ sở cho việc đưa ra những kết quả nghiên cứu

mới về vấn đề này.

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI

Nghiên cứu pháp luật thi hành án của nhiều nước cho thấy mô hình tổ

chức hệ thống cơ quan thi hành án có chức năng tổ chức thi hành án nói

chung, cưỡng chế thi hành án nói riêng có sự khác biệt và tùy thuộc vào điều

kiện kinh tế - xã hội, đặc điểm truyền thống pháp lý của mỗi nước. Có nước tổ

chức theo mô hình thi hành án công, có nước theo mô hình tổ chức thi hành

án bán công (cơ quan thi hành án có thể thuộc Tòa án hoặc cơ quan hành

chính nhà nước) và cũng có nước theo mô hình thi hành án tư nhân (ví dụ như

Thừa phát lại). Vì vậy, việc tổ chức thi hành án nói chung, cưỡng chế thi hành

án nói riêng cũng tuân thủ trình tự, thủ tục pháp luật khác nhau. Có thể đề cập

một số công trình nghiên cứu liên quan đến thực hiện pháp luật về cưỡng chế

thi hành án dân sự ở một số nước trên thế giới như sau:

- Kỷ yếu hội thảo: "Các mô hình tổ chức thi hành án trên thế giới" của

Nhà pháp luật Việt - Pháp [42]. Đây là tài liệu tập hợp các tham luận của một

số giáo sư, nhà khoa học, chuyên gia của một số nước nghiên cứu về những

8

vấn đề lý luận và thực tiễn thi hành án dân sự của một số nước trên thế giới.

Cụ thể như trong kỷ yếu, các tác giả cho rằng thi hành án không phải là một

lĩnh vực độc lập nên không thể được tổ chức theo một mô hình thống nhất;

việc tổ chức mô hình thi hành án phụ thuộc vào các quy định của luật tố tụng

liên quan của mỗi nước (Giáo sư Claude Brenner, Đại học Panthéon-Assas

Cộng hoà Pháp). Việc thi hành án dân sự ở Pháp được giao cho Thừa phát lại;

Thừa phát lại được bảo đảm tính độc lập trong khi hành nghề, nếu có vi phạm

thì người phải thi hành có quyền khởi kiện trước Thẩm phán đặc trách về thi

hành án đối với những biện pháp mà người phải thi hành án bị áp dụng. Trong

quá trình thi hành án, Thừa phát lại có quyền áp dụng các biện pháp có tính

cưỡng chế như kê biên khoản tiền do người thứ ba nắm giữ, kê biên tiền

lương, kê biên động sản, kê biên tài sản vô hình ở Pháp (Nicolas Monacho

Duchene, Phó Chánh án Tòa án phúc thẩm Rennes Pháp). Ở Trung Quốc,

nếu người phạm tội bị áp dụng biện pháp phạt tiền thì việc thi hành án do

các Tòa án thực hiện; việc nộp phạt có thể thực hiện một lần đối với toàn

bộ số tiền phạt hoặc nộp thành nhiều lần theo thời hạn được quy định trong

bản án; nếu hết thời gian quy định mà người bị phạt tiền vẫn chưa nộp hết

khoản tiền phạt thì bị cưỡng chế nộp tiền; người phải thi hành án có thể bị

tịch thu một phần hay toàn bộ tài sản của cá nhân, trừ các đồ dùng cần thiết

cho cuộc sống của người phải thi hành án và các thành viên gia đình sống

phụ thuộc vào người đó.

- "Enforcing U.S. Judgments in Canada: A Practical Guide" (Thi hành

các phán quyết của Hoa Kỳ ở Canađa: Hướng dẫn thực tế) của M.D. Parrish

[1]. Bài viết khái quát việc thi hành phán quyết của tòa án nước ngoài ở

Canađa, theo đó trước năm 1990 các phán quyết của tòa án nước ngoài không

được thi hành ở Canađa nếu bị đơn người Canađa không hiện diện tại Tòa án

nước ngoài tại thời điểm sự kiện pháp lý xảy ra hoặc không có mặt tại phiên

9

tòa. Tuy nhiên, sau năm 1990, pháp luật quy định phán quyết của Tòa án

nước ngoài có thể được thi hành ở Canađa, theo đó nếu người được thi

hành án ở nước ngoài muốn thi hành phán quyết ở Canađa thì họ phải tìm

hiểu, xác định người phải thi hành án có hiện diện và có tài sản ở Canada

hay không?; người có thẩm quyền phán quyết về tài sản và tài sản của

người đó ở đâu? Nếu không trả lời được các vấn đề trên thì bản án của tòa

án nước ngoài khó có thể được thi hành ở Canađa. Bởi vậy, việc cưỡng chế

tài sản để thi hành án cũng phải phụ thuộc vào việc người phải thi hành án

có tài sản ở Canađa hay không.

- "Cưỡng chế phạt tiền và cưỡng chế trả nhà" của tác giả

N.M.Duchene [44]. Tác giả tham luận thông tin cho biết: ở Pháp, để có cơ sở

thi hành án và cưỡng chế thì người được thi hành án, Thừa phát lại phải tìm

hiểu thông tin về người phải thi hành án; nếu không có được thông tin cần

thiết về người phải thi hành án thì Thừa phát lại có thể yêu cầu cơ quan công

tố cung cấp thông tin. Để đảm bảo thi hành án, Thừa phát lại có thể thực hiện

các biện pháp kê biên động sản, kê biên khoản tiền do người thứ ba nắm giữ,

kê biên tiền lương, kê biên tài sản vô hình ở Pháp. Đối với cưỡng chế trả nhà

thì phải có phán quyết của Thẩm phán; đồng thời trước khi có phán quyết của

Tòa án thì người được thi hành án phải đến gặp đại diện chính quyền địa

phương thông báo để chính quyền bố trí chỗ ở cho người phải di dời.

Từ việc tham khảo một số công trình nghiên cứu về thi hành án dân sự

và cưỡng chế thi hành án dân sự của một số nước trên thế giới, Luận án đưa ra

một số nhận xét sau đây:

Một là, mặc dù có sự khác biệt về pháp luật và mô hình tổ chức thi

hành án dân sự (công, bán công, tư nhân), nhưng pháp luật các nước đều có

quy định những vấn đề chung về cưỡng chế thi hành án dân sự như: việc áp

dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được nhân danh quyền lực nhà

10

nước khi người phải thi hành án không tự nguyện; cơ quan có thẩm quyền

cưỡng chế thi hành án dân sự có thể là Tòa án đã xét xử; Thừa phát lại, Cơ

quan thi hành pháp luật, Cảnh sát trưởng. Biện pháp cưỡng chế thường áp

dụng là cưỡng chế trả tiền, cưỡng chế giao tài sản, cưỡng chế trục xuất ra khỏi

nhà, cưỡng chế bán đấu giá tài sản, cưỡng chế quản lý, khai thác tài sản,

cưỡng chế thu tiền công, tiền lương...

Hai là, các công trình nghiên cứu đã đề cập và phân tích cơ sở lý luận

của việc thi hành án là xuất phát từ việc bảo đảm thực thi các bản án, quyết

định có hiệu lực của Tòa án có thẩm quyền, trong đó cơ sở quan trọng là đảm

bảo quyền và lợi ích của các bên trong quá trình thi hành án. Hoạt động thi

hành án dân sự có đặc thù là mang tính cưỡng chế và được đảm bảo bằng

quyền lực Nhà nước, do đó hoạt động thi hành án dân sự luôn làm phát sinh,

hạn chế hoặc chấm dứt một số quyền cơ bản của công dân (quyền sở hữu,

quyền sử dụng tài sản).

Ba là, mặc dù các nước có hệ thống pháp luật và quy định về cưỡng

chế thi hành án dân sự khác nhau nhưng tổng quan các tài liệu này cho phép

tác giả có cơ sở khái quát về cưỡng chế thi hành án dân sự một cách đa chiều,

có tính so sánh và đối chiếu, từ đó giúp tác giả có cơ sở để nghiên cứu so sánh

với thực trạng thực hiện pháp luật cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam

và luận giải đưa ra một số giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về

cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam trong thời gian tới.

1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM

Dưới góc độ thực thi công lý, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi

hành án dân sự ở nước ta được xem xét và đề cập ở nhiều góc độ như: các

biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự; các điều kiện thực hiện pháp luật về

cưỡng chế thi hành án dân sự; trách nhiệm của các chủ thể thực hiện pháp luật

về cưỡng chế thi hành án dân sự… Trong quá trình nghiên cứu tài liệu phục

11

vụ cho đề tài này, tác giả tập hợp, phân loại và đánh giá các tài liệu thành các

nhóm cơ bản sau đây:

Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật về cưỡng

chế thi hành án dân sự, gồm có:

- "Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức hoạt động

thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới" của Nguyễn Đình Lộc [38]. Kết

quả nghiên cứu đề tài đã khái quát thực trạng mô hình tổ chức và hoạt động

thi hành án; kiến nghị đổi mới công tác thi hành án, trong đó có hoàn thiện

pháp luật về mô hình tổ chức thi hành án tạo cơ sở cho việc tổ chức thi hành

án nói chung và cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng.

- "Kỹ năng thi hành án dân sự" của Học viện Tư pháp [30]. Cuốn sách

tập trung phân tích, tổng hợp những quy định cơ bản và kỹ năng, nghiệp vụ

trong thi hành án dân sự rút ra từ thực tiễn thi hành án dân sự như: kỹ năng

kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự; kỹ năng tiếp

công dân; kỹ năng xác minh điều kiện thi hành án... Tuy nhiên, cuốn sách với

ý nghĩa như cuốn cẩm nang cho chấp hành viên và công chức thi hành án dân

sự nên chỉ đề cập mang tính khái quát về các biện pháp cưỡng chế dưới góc

độ thể chế, các quy định về các biện pháp được chấp hành viên áp dụng trong

quá trình tổ chức thi hành án mà chưa đề cập đầy đủ các hình thức thực hiện

pháp luật cưỡng chế thi hành án dân sự được thực hiện bởi các chủ thể khác

nhau (như: tuân thủ pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, sử dụng pháp

luật về cưỡng chế thi hành án dân sự...). Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của

cuốn sách cũng có giá trị tham khảo quan trọng cho việc tiếp cận cưỡng chế

thi hành án dân sự cả ở góc độ thể chế và thực tiễn.

- "Sổ tay chấp hành viên" của tác giả Lê Thu Hà [24]. Cuốn sách khái

quát quy định pháp luật về thi hành án dân sự trên cơ sở Luật Thi hành án dân

sự 2008, theo đó phân tích các quy định pháp luật về thi hành án dân sự và

12

các kỹ năng cần thiết cho chấp hành viên trong quá trình thực hiện các trình

tự, thủ tục thi hành án dân sự. Cụ thể như: việc nhận bản án, quyết định; thụ

lý yêu cầu thi hành án; kỹ năng xác minh điều kiện thi hành án; đôn đốc,

hướng dẫn đương sự tự nguyện hay thỏa thuận thi hành án; việc giải quyết

khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự...Mặc dù việc cưỡng chế thi hành án

dân sự được đề cập trong cuốn sách nhưng chỉ dừng ở phạm vi là những lưu ý

khi lựa chọn, áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự cụ thể mà

chưa đề cập đến cưỡng chế thi hành án dân sự như là một chế định, một biện

pháp cơ bản trong thi hành án dân sự nhưng cũng có giá trị tham khảo cho

việc đánh giá thực trạng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự của các cơ

quan thi hành án dân sự hiện nay.

- "Xử lý tình huống trong thi hành án dân sự và các văn bản pháp luật

về thi hành án dân sự" của tác giả Nguyễn Thanh Thuỷ, Lê Thị Kim Dung

[64]. Cuốn sách phân tích, tổng hợp các tình huống phát sinh trong thực tiễn

thi hành án dân sự đòi hỏi có sự nhận thức thống nhất trong cách hiểu và áp

dụng các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự, trong đó

chủ yếu là quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. Cụ thể như

vấn đề ra quyết định thi hành án, thi hành biện pháp khẩn cấp tạm thời; áp

dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế trong thi hành án dân sự... qua

đó giúp cho chấp hành viên nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự.

Kết quả nghiên cứu của các tác giả có liên quan chặt chẽ và là nguồn tham

khảo quan trọng để nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả

thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự của các cơ quan thi hành

án dân sự hiện nay.

- "Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự Việt

Nam" của tác giả Lê Thu Hà [25]. Nội dung cơ bản của cuốn sách là phân

tích, hệ thống hóa khái quát quá trình hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự

13

ở nước ta từ năm 1945 đến năm 2011, trên cơ sở đó đánh giá thực trạng

những vướng mắc, bất cập của pháp luật thi hành án dân sự theo Luật Thi

hành án dân sự năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành, các tác giả

phân tích, kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật về một số vấn đề cụ

thể, trong đó có cưỡng chế thi hành án dân sự. Vì vậy, cuốn sách là tài liệu

tham khảo cho việc tiếp tục nghiên cứu các cơ chế, biện pháp thực hiện pháp

luật thi hành án dân sự nói chung, pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự

nói riêng.

- "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" của

tác giả Nguyễn Thanh Thủy [65]. Luận án đã phân tích, làm rõ một số vấn đề

lý luận về hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự như khái niệm, bản chất,

đặc điểm thi hành án dân sự; nội dung, tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện

pháp luật thi hành án dân sự. Đặc biệt là trên cơ sở khái quát quá trình hoàn

thiện và thực trạng pháp luật thi hành án dân sự ở nước ta, tác giả đã đưa ra

một số kiến nghị về hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự, trong đó có

pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. Những kiến nghị hoàn thiện pháp

luật về cưỡng chế thi hành án dân sự có giá trị tham khảo quan trọng để tạo cơ

sở cho việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án

dân sự ở nước ta hiện nay.

- "Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thi hành án dân sự ở

Việt Nam hiện nay" của tác giả Nguyễn Quang Thái [60]. Luận án đã phân

tích yêu cầu, phương hướng, giải pháp đảm bảo tính pháp chế trong hoạt động

thi hành án dân sự, đó là: nâng cao chất lượng hệ thống pháp luật về thi hành

án dân sự; xây dựng mô hình tổ chức cơ quan thi hành án dân sự theo ngành

dọc, giảm đầu mối; từng bước thực hiện xã hội hóa hoạt động thi hành án dân

sự Mặc dù phạm vi nghiên cứu của luận án mới chỉ đề cập tới tăng cường

pháp chế trong hoạt động thi hành án dân sự nói chung song những kiến nghị

14

của tác giả về hoàn thiện pháp luật, mô hình tổ chức các cơ quan thi hành án

dân sự đã tạo tiền đề cho việc hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án

dân sự.

- "Hiệu quả áp dụng pháp luật trong thi hành án dân sự ở Việt Nam"

của tác giả Đặng Đình Quyền [56]. Luận án đã phân tích cơ sở lý luận về hiệu

quả áp dụng pháp luật trong thi hành án dân sự ở Việt Nam, trong đó nêu bật

các tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng pháp luật

trong công tác thi hành án dân sự. Trên cơ sở đánh giá hiệu quả áp dụng pháp

luật thi hành án dân sự, tác giả luận án đã phân tích một số giải pháp nâng cao

hiệu quả áp dụng pháp luật thi hành án dân sự, trong đó có những kiến nghị

về hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự có nghĩa quan trọng cho việc

hoàn thiện cơ sở pháp lý để đảm bảo cưỡng chế thi hành án dân sự.

- "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu cải cách

tư pháp" của tác giả Trần Phương Hồng [31]. Tác giả luận văn đã phân tích

một số vấn đề lý luận về hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự như: khái

niệm, vai trò, đặc điểm pháp luật thi hành án dân sự để từ đó đánh giá thực

trạng hệ thống pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách

tư pháp. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra các giải pháp tổng thể hoàn thiện pháp

luật thi hành án dân sự, theo đó những đề xuất hoàn thiện pháp luật không chỉ

dừng ở việc xây dựng, ban hành, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp

luật về thi hành án dân sự, mà còn bao hàm cả việc bổ sung, sửa đổi các văn

bản quy phạm pháp luật có liên quan và các cơ chế phối hợp trong công tác thi

hành án dân sự. Kết quả luận văn có giá trị tham khảo cho việc nghiên cứu,

hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, tạo cơ sở cho việc nâng

cao hiệu quả thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự.

- "Đánh giá các quy định pháp luật về thi hành án dân sự hiện hành

trong mối quan hệ với hệ thống pháp luật" của tác giả Lê Thị Hoàng Thanh

15

[59]. Bài viết của tác giả đã phân tích những vướng mắc, bất cập của mô hình

tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam, qua đó kiến nghị các

giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự và các văn bản quy phạm

pháp luật có liên quan như: hoàn thiện các quy định pháp luật về quản lý nhà

nước về thi hành án hành chính; hoàn thiện Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004,

Bộ luật Dân sự năm 2005, đặc biệt là các quy định nhằm nâng cao tính minh

bạch trong việc quản lý tài sản, thu nhập của cá nhân nhằm đảm bảo hiệu quả

thi hành án dân sự, nhất là đối với việc áp dụng các biện pháp bảo đảm và

cưỡng chế thi hành án dân sự.

- "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự

hiện nay" của tác giả Lê Hùng Cường [13]. Bài viết tập trung phân tích những

vướng mắc, bất cập phát sinh từ thực tiễn trong quá trình thi hành Luật Thi

hành án dân sự năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành, cụ thể như:

vướng mắc, bất cập về xác minh điều kiện thi hành án; thực hiện thông báo

thi hành án; miễn, giảm trong thi hành án dân sự… Từ đó, tác giả đề xuất

một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự,

đó là: cần phải quy định rõ về người được thi hành án tự xác minh điều

kiện thi hành án của người phải thi hành án; cần sửa đổi quy định người

phải thi hành án "đã thi hành được ít nhất bằng 1/20 khoản phải thi hành,

nhưng giá trị không được thấp hơn mức án phí không có giá ngạch" là điều

kiện bắt buộc để xét miễn, giảm; hoàn thiện hệ thống các văn bản hướng

dẫn thi hành Luật Thi hành án dân sự theo hướng đồng bộ, thống nhất, tạo

điều kiện thuận lợi để các chấp hành viên tổ chức thi hành án đạt hiệu quả

cao và cụ thể hóa các quy định của Luật Thi hành án dân sự về sự phối hợp

giữa các cơ quan hữu quan và chính quyền địa phương trong công tác thi

hành án dân sự. Những phân tích và kiến nghị của tác giả có giá trị tham

khảo cho việc nghiên cứu, kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả thực

16

hiện pháp luật thi hành án dân sự và thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi

hành án dân sự.

- "Tìm hiểu về tổ chức thi hành án của nước Cộng hòa Pháp" của tác

giả Điền Đức Thành [61]. Trong vài viết này, tác giả thông tin về thẩm quyền

của Thừa phát lại đối với việc thi hành án dân sự, trong đó có thẩm quyền

cưỡng chế tài sản để thi hành án. Theo đó, Thừa phát lại được can thiệp bất kỳ

thời gian nào theo yêu cầu của người có quyền lợi bị xâm hại được pháp luật

công nhận và bảo vệ; trong quá trình thi hành án, Thừa phát lại có thể đề nghị

Thẩm phán đặc trách thi hành những án lệnh cần thiết hoặc trực tiếp yêu cầu

sự can thiệp của thẩm phán phụ trách thi hành án trong trường hợp khó khăn

khi tổ chức thi hành án. Ngoài ra, Thừa phát lại cũng là người duy nhất có

quyền yêu cầu sự trợ giúp của các lực lượng công quyền khi cần để kê biên tài

sản để xử lý theo pháp luật. Trường hợp người thuê nhà không trả được tiền

thuê, thì Thừa phát lại sẽ áp dụng biện pháp thu hồi tiền thuê và trục xuất

người thuê ra khỏi nơi thuê, hoặc trong lĩnh vực thương mại thì thực hiện các

biện pháp cưỡng chế thu hồi giấy tờ có giá như chi phiếu hoặc thương phiếu

chưa thanh toán.

- "Mô hình tổ chức thi hành án dân sự công ở một số nước trên thế

giới" của Chu Thị Hoa [29]. Trong bài viết này, tác giả tổng hợp và thông tin

về mô hình tổ chức thi hành án dân sự công ở một số nước, trong đó cơ quan,

tổ chức có thẩm quyền thi hành án được quyền thực hiện các biện pháp thi

hành án và cưỡng chế thi hành án để thi hành nghiêm chỉnh bản án, quyết

định của Tòa án. Cụ thể như:

+ Ở Indonesia, pháp luật quy định việc thi hành các quyết định của

Tòa án thuộc trách nhiệm của Tòa án trong các vụ án dân sự. Theo quy định

của pháp luật Indonesia thì sau khi có bản án bên thắng kiện (người được thi

hành án) có quyền đến Tòa án quận để đề nghị Tòa án ra lệnh thi hành án.

17

Trên cơ sở lệnh thi hành án của Tòa án, Thư ký Tòa án hoặc chấp hành viên

sẽ tổ chức thi hành lệnh thi hành án đó và khi cần thiết thì có quyền tổ chức

cưỡng chế với sự hỗ trợ của cảnh sát để đảm bảo thi hành đúng bản án/quyết

định của Tòa án.

+ Ở Singapore, việc tổ chức thi hành bản án, quyết định về dân sự ở

Singapore do Tòa án đảm nhiệm. Ở Tòa án tối cao và Tòa cấp dưới có bộ

phận thi hành án, theo đó nhân viên thi hành án vừa có nhiệm vụ thi hành án,

vừa có nhiệm vụ tống đạt giấy tờ, thực hiện các lệnh bắt giữ. Nhân viên thi

hành án của Tòa án nào thì thi hành bản án của Tòa án đó. Về thủ tục thi hành

án dân sự, pháp luật quy định: khi có bản án, người được thi hành đến gặp

người phải thi hành để xem xét khả năng thi hành của họ và yêu cầu họ phải

thi hành. Nếu người phải thi hành án không thi hành, người được thi hành án

muốn được thi hành phải có đơn yêu cầu thi hành án (theo mẫu in sẵn) gửi

Toà án; người được thi hành án hoặc luật sư đại diện phải trực tiếp chỉ cho

nhân viên thi hành án những tài sản mà người phải thi hành án phải trả cho

người được thi hành án, hoặc trong trường hợp thi hành các bản án về trả tiền

thì chỉ cho nhân viên thi hành án tài sản của người phải thi hành án để nhân

viên thi hành án kiểm kê, dán niêm phong hoặc chuyển giao tài sản cho người

khác giữ.

+ Ở Liên bang Nga, pháp luật quy định việc thi hành án dân sự và

cưỡng chế thi hành án dân sự do Cục thi hành án Liên bang và các cơ quan

thi hành án địa phương chịu trách nhiệm thi hành. Cục thi hành án Liên

bang được giao nhiệm vụ bảo đảm trật tự tại Tòa án, thi hành văn bản thi

hành án, áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật và

quyết định thi hành án; tổ chức việc kê biên và bán tài sản kê biên; truy tìm

con nợ và tài sản của họ; tham gia bảo vệ lợi ích của Liên bang Nga với tư

cách chủ nợ trong các vụ việc và vụ kiện phá sản; hướng dẫn và giám sát

18

hoạt động của các cơ quan thi hành án địa phương thuộc Cục thi hành án

Liên bang; lập và duy trì ngân hàng dữ liệu về công tác thi hành án và các

nhiệm vụ tương tự khác…

+ Ở Hoa Kỳ, hoạt động thi hành án được tách biệt giữa cấp Liên bang

và cấp bang. Ở cấp Liên bang, Cơ quan chịu trách nhiệm thi hành pháp luật là

Cơ quan thi hành pháp luật Liên bang (US Marshal Service), trong các nhiệm

vụ của cơ quan này có nhiệm vụ bắt giữ, đấu giá tài sản (bao gồm cả tài sản

liên quan tới tội phạm hình sự, tài sản liên quan tới thi hành án dân sự). Ở cấp

bang, đối với hoạt động thi hành pháp luật, chức danh quan trọng nhất là

Cảnh sát trưởng (sheriff). Tại hầu hết các bang ở Hoa Kỳ, Cảnh sát trưởng

chính là nhân viên thi hành pháp luật cao nhất (trong đó có nhiệm vụ thi hành

án); giúp việc cho Cảnh sát trưởng có đội ngũ nhân viên hoạt động chuyên

môn, được gọi là các nhân viên Văn phòng Cảnh sát trưởng (sheriff’s officer)

hoặc nhân viên thi hành pháp luật (sheriff’s deputy).

Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến thực hiện pháp luật

về cưỡng chế thi hành án dân sự, gồm có:

- "Giáo trình Luật thi hành án dân sự Việt Nam" của Trường Đại học

Luật Hà Nội [74]. Đây là cuốn giáo trình có tính chuyên ngành về thi hành án

dân sự, được sử dụng để giảng dạy tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Nội dung

giáo trình đề cập đến những kiến thức cơ bản về pháp luật thi hành án dân sự

trên cơ sở pháp luật hiện hành, phân tích cụ thể mô hình tổ chức và hoạt động

thi hành án dân sự; các trình tự, thủ tục thi hành án dân sự, trong đó có nội

dung liên quan trực tiếp đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện

pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. Giáo trình đã đưa ra khái niệm:

"Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp thi hành án dân sự

dùng quyền lực của Nhà nước buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ

thi hành án dân sự của họ, do chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người

19

phải thi hành có điều kiện thi hành mà không tự nguyện thi hành án", đồng

thời đưa ra các đặc điểm cơ bản của biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự;

đối tượng của biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là tài sản hoặc hành vi

của người phải thi hành án; người phải thi hành án phải chịu chi phí cưỡng

chế thi hành án dân sự; nguyên tắc, vai trò, ý nghĩa của các biện pháp cưỡng

chế thi hành án dân sự. Tuy nhiên, giáo trình mới tiếp cận phân tích cưỡng

chế thi hành án dân sự dưới góc độ là các biện pháp được áp dụng theo quy

định của pháp luật mà chưa phân tích, đề cập đến cưỡng chế thi hành án dân

sự với nghĩa là hoạt động thực tế nhằm tổ chức thực hiện các "quyết định

cưỡng chế" do chủ thể có thẩm quyền ban hành. Tuy vậy, những nội dung của

giáo trình có giá trị tham khảo quan trọng trong việc đánh giá thực hiện pháp

luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay.

- "Sổ tay nghiệp vụ thi hành án dân sự" của tác giả Nguyễn Văn

Luyện, Nguyễn Thanh Thủy [39]. Cuốn sách này phân tích, tổng hợp các quy

định pháp luật và kỹ năng thực tiễn giúp cho chấp hành viên, công chức thi

hành án dân sự có thể áp dụng, nâng cao hiệu quả thực hiện các nhiệm vụ thi

hành án dân sự được giao, trong đó có các vấn đề lý luận và thực tiễn về

cưỡng chế thi hành án dân sự. Theo tài liệu này, các tác giả quan niệm:

"Cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp do cơ quan thi hành án áp dụng

nhằm buộc đương sự (người phải thi hành án) thực hiện nghĩa vụ về tài sản

hoặc hành vi để thi hành bản án, quyết định theo quy định của pháp luật".

Trên cơ sở quan niệm trên, các tác giả cũng đưa ra các điều kiện áp dụng biện

pháp cưỡng chế thi hành án dân sự như: người phải thi hành án có điều kiện

thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành án; việc cưỡng chế phải căn cứ

vào bản án, quyết định; quyết định thi hành án, quyết định cưỡng chế thi hành

án dân sự, trừ trường hợp bản án, quyết định đã tuyên kê biên, phong tỏa tài

sản, tài khoản và trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp

20

tạm thời của Tòa án….Mặc dù tác giả phân tích, đề cập đến một số vấn đề về

kỹ năng nghiệp vụ cưỡng chế thi hành án dân sự nhưng chủ yếu chỉ tập trung

vào việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự của chấp hành viên

(một trong 04 hình thức thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự)

và chưa đề cập đến các hình thức khác của thực hiện pháp luật về cưỡng chế

thi hành án dân sự, nhưng những kỹ năng nghiệp vụ được phân tích trong tài

liệu có giá trị tham khảo quan trọng cho việc nghiên cứu đề tài luận án.

- "Giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" của tác giả

Hoàng Thế Anh [1]. Luận án đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận về giám sát

thi hành án dân sự, theo đó đã làm rõ giám sát thi hành án dân sự với góc độ

là một cơ chế, biện pháp để đảm bảo thực thi quyền lực nhà nước đối với hoạt

động thi hành án dân sự nhằm tổ chức thi hành có hiệu quả các bản án, quyết

định dân sự có hiệu lực thi hành. Trên cơ sở đánh giá hiệu quả giám sát thi

hành án dân sự hiện nay, tác giả luận án đã đưa ra các giải pháp cụ thể để cải

cách, nâng cao hiệu quả giám sát thi hành án dân sự như: hoàn thiện mô hình

tổ chức bộ máy, thể chế giám sát…Vì vậy, kết quả nghiên cứu là cơ sở cho

việc xác định cơ chế giám sát thi hành án dân sự trong việc thực hiện các trình

tự, thủ tục thi hành án dân sự, trong đó có việc giám sát việc thực hiện các

quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự.

- "Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Bà Rịa- Vũng

Tàu" của tác giả Lại Anh Thắng [62]. Tác giả luận văn phân tích một số vấn

đề lý luận về thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự như khái niệm, vai trò,

đặc điểm của thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự. Trên cơ sở đánh giá

thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án dân sự trên địa bàn cụ thể là tỉnh Bà

Rịa - Vũng Tàu, tác giả luận văn đã đưa ra các giải pháp như: hoàn thiện pháp

luật về thi hành án dân sự; hoàn thiện các chế độ chính sách đãi ngộ cho cán

bộ, công chức thi hành án dân sự; tăng cường các biện pháp xử lý các vụ việc

21

thi hành án dân sự tồn đọng; đẩy mạnh việc kiểm tra, phối hợp thanh tra công

tác thi hành án dân sự nhằm tăng cường kỷ cương và nâng cao chất lượng

hiệu quả công tác thi hành án dân sự và xã hội hóa về thi hành án dân sự;

nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban chỉ đạo thi hành án dân sự các cấp ở

tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu…Tuy luận văn chỉ đề cập đến thực hiện pháp luật về

thi hành án dân sự nói chung nhưng có giá trị tham khảo quan trọng cho việc

nghiên cứu thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự trong điều

kiện hiện nay.

- "Bàn về quan hệ phối hợp giữa cơ quan thi hành án với các cơ quan

hữu quan trong thi hành án dân sự" của tác giả Lê Thị Lệ Duyên [16]. Trong

bài viết, tác giả cho rằng sự phối hợp có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng trong

thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự nói chung, cưỡng chế thi hành án

dân sự nói riêng. Bởi thực tế thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ

quan thi hành án dân sự, chấp hành viên gặp phải nhiều thách thức khi giữa

người được thi hành án và người phải thi hành án luôn có sự đối lập quyền và

lợi ích, do đó, mặc dù pháp luật quy định cơ quan thi hành án dân sự và chấp

hành viên có nhiều quyền nhưng cơ bản là các quyền đề nghị, kiến nghị nên

để đảm bảo hiệu quả công tác thi hành án dân sự thì cơ quan thi hành án dân

sự cần có sự phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan. Trên cơ sở phân

tích trách nhiệm của cơ quan, tổ chức có liên quan trong thi hành án dân sự,

tác giả đưa ra một số yêu cầu đối với chấp hành viên, công chức thi hành án

dân sự nhằm nâng cao hiệu quả của quan hệ phối hợp trong thi hành án dân sự

như: yêu cầu về kiến thức chuyên môn; nghệ thuật giao tiếp và tác phong làm

việc…. Mặc dù những phân tích, kiến nghị của tác giả về mối quan hệ phối

hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan hữu quan chỉ đề cập ở

bình diện chung nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu đề tài

luận án, bởi vì thực tiễn cho thấy rằng quá trình thực hiện pháp luật về cưỡng

22

chế thi hành án dân sự là vấn đề mà cơ quan thi hành án dân sự gặp nhiều

thách thức, khó khăn nhất nên hiệu quả công tác này không thể thiếu sự phối

hợp hiệu quả của các cơ quan, tổ chức có liên quan.

- "Thực tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để thi hành

án dân sự và một số khuyến nghị" của tác giả Trần Công Thịnh [63]. Tác giả

bài viết cho rằng hiệu quả của việc cưỡng chế kê biên tài sản là cơ sở, tiền đề

cho sự thành công và hiệu quả của một vụ thi hành án về tài sản khi đương sự

không tự nguyện thi hành. Qua nghiên cứu vấn đề này, tác giả chỉ ra những

vướng mắc gây cản trở cho việc cưỡng chế như: một bộ phận chấp hành viên,

công chức làm công tác thi hành án dân sự có trình độ chuyên môn chưa đáp

ứng được yêu cầu của nhiệm vụ trong tình hình mới; nhiều trường hợp chấp

hành viên chưa thực sự tích cực, quyết liệt đối với những vụ việc phức tạp,

khó khăn; ngại khó, ngại va chạm; cơ chế quản lý, hoạt động thi hành án dân

sự còn chồng chéo; sự phối hợp giữa các cơ quan tổ chức trong việc cưỡng

chế còn chưa tốt; nhiều quy định của pháp luật về kê biên tài sản còn chưa

chặt chẽ, rõ ràng. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện

pháp luật thi hành án dân sự nói chung, hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế kê

biên tài sản nói riêng.

- "Những vướng mắc trong phối hợp thực hiện quy định về cưỡng chế

trả giấy tờ" của tác giả Lê Thị Lệ Duyên [15]. Tác giả bài viết cho rằng việc

thực hiện quy định về cưỡng chế trả giấy tờ chỉ được thực hiện khi không còn

giải pháp nào khác, vì thực tế việc cưỡng chế buộc thực hiện hành vi theo quy

định trên không mang lại hiệu quả đương sự không những không thực hiện

quyết định cưỡng chế buộc thực hiện hành vi mà còn không nộp phạt vi phạm

hành chính. Thậm chí, quy định về đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự nêu

trên thể hiện sự nghiêm khắc, nhưng thực tế không khả thi, vì hành lang pháp

lý để truy cứu hình sự đối với hành vi này chưa được hướng dẫn và chưa có

23

sự thống nhất giữa cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án. Vì vậy, đến nay

mặc dù pháp luật về thi hành án có quy định chế tài này nhưng cũng chưa có

trường hợp nào bị xử lý khi không thực hiện quyết định cưỡng chế buộc thực

hiện hành vi của chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự. Những phân tích,

kiến nghị của tác giả mặc dù chỉ đề cập đến biện pháp cưỡng chế cụ thể là

"cưỡng chế giao, trả giấy tờ" nhưng có giá trị tham khảo cho việc hoàn thiện

pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân

sự nói chung.

- "Một số vướng mắc trong việc kê biên, bán đấu giá quyền sử dụng

đất nông nghiệp ở Đồng Tháp" của tác giả Bùi Văn Tấn [58]. Tác giả bài viết

phân tích những khó khăn trong việc kê biên, bán đấu giá quyền sử dụng đất

nông nghiệp của người phải thi hành án ở Đồng Tháp thông qua một số vụ

việc cụ thể. Theo tác giả thì việc bán đấu giá khó khăn là do người có nhu cầu

mua đất để sản xuất, kinh doanh có tâm lý ngại mua tài sản do cơ quan thi

hành án dân sự bán đấu giá vì họ sợ mất lòng với chủ sở hữu cũ và ngại vấn

đề sẽ bị chủ cũ bao chiếm tài sản bị cưỡng chế nên ít có người tham gia đăng

ký mua tài sản; năng xuất, sản lượng sản phẩm nông nghiệp ở nông thôn hiện

nay có giá trị thấp, dẫn đến thị trường chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng

giảm theo. Bởi vậy, để đảm bảo hiệu quả thi hành án thì khi người được thi

hành án đề nghị kê biên, bán đấu giá quyền sử dụng đất thì phải tạm ứng chi

phí cho việc đo đạc, kê biên, thẩm định giá và chi phí thông báo bán đấu giá;

trường hợp cần thiết, chấp hành viên có thể kê biên, bán đấu giá diện tích đất

phù hợp với tập quán canh tác và các quy định khác ở địa phương nhằm tạo

thuận lợi cho người có nhu cầu mua quyền sử dụng đất nông nghiệp bị cưỡng

chế kê biên, bán đấu giá.

- "Bất cập trong quy định về việc lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án

dân sự" của tác giả Hồ Quân Chính [4]. Bài viết đề cập đến việc thực hiện

24

quy định về lập kế hoạch cưỡng chế theo Điều 72 Luật Thi hành án dân sự,

tuy nhiên hiện nay vẫn có cách hiểu khác nhau về các trường hợp phải lập kế

hoạch cưỡng chế và trường hợp phải thực hiện cưỡng chế ngay. Tác giả cho

rằng yêu cầu phải lập kế hoạch trong trường hợp cưỡng chế đơn giản chỉ

mang tính thủ tục là không cần thiết và trường hợp phải cưỡng chế ngay thì

vẫn chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm phối hợp cụ thể của từng cơ

quan hữu quan, nhất là trường hợp cưỡng chế theo quyết định áp dụng biện

pháp khẩn cấp tạm thời. Vì vậy, tác giả cho rằng cần có những quy định

hướng dẫn cụ thể để thi hành Điều 72 Luật Thi hành án dân sự trong việc

lập kế hoạch cưỡng chế để thống nhất cách hiểu, áp dụng giữa các cơ quan

trong việc lập kế hoạch và phối hợp thực hiện kế hoạch cưỡng chế thi hành

án dân sự. Tuy bài viết chỉ đặt vấn đề bất cập trong thủ tục lập kế hoạch

cưỡng chế thi hành án dân sự nhưng có giá trị tham khảo quan trọng trong

việc đưa ra các kiến nghị nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về cưỡng

chế thi hành án dân sự.

- "Thực tiễn áp dụng biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành án

dân sự tại thành phố Huế" của tác giả Nguyễn Thị Thúy Hằng [27]. Bài viết

phân tích thực tiễn áp dụng biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành án dân

sự tại một địa bàn cụ thể là thành phố Huế, theo đó tác giả cho rằng các chấp

hành viên rất hạn chế áp dụng các biện pháp này bởi vì một số nguyên nhân

là: tình trạng chây ỳ, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành

án (bỏ đi khỏi nơi cư trú, không trở về địa phương sau khi chấp hành xong

hình phạt tù…); thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành liên quan;

chưa có cách hiểu thống nhất về việc áp dụng phong tỏa tài khoản (phong tỏa

đầu ra của tiền trong tài khoản hay cả đầu vào và đầu ra của tiền?); tính khả

thi của việc thực hiện việc áp dụng cưỡng chế trong thời hạn theo quy định tại

khoản 3 Điều 67 Luật Thi hành án dân sự; hoặc như khi áp dụng biện pháp

25

tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự, thì chấp hành viên phải ra quyết định

tạm giữ tài sản hay chỉ cần lập biên bản tạm giữ (nếu ra quyết định tạm giữ

có đúng với luật định hay không, trường hợp không ra quyết định thì cơ sở

nào xác định biên bản tạm giữ có giá trị về mặt pháp lý?)….Từ những phân

tích như vậy, tác giả bài viết nêu một số kiến nghị như: mở rộng quyền của

chấp hành viên khi đã hết thời hạn áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án

theo luật định mà chấp hành viên chưa đủ căn cứ để tiến hành các bước tiếp

theo; khi áp dụng các biện pháp bảo đảm, pháp luật không nên giới hạn

thời hạn phải ra quyết định cưỡng chế như hiện nay; biện pháp bảo đảm

phong tỏa tài khoản chỉ nên quy định phong tỏa chiều ra của tiền trong tài

khoản. Nói chung, những phân tích, kiến nghị của tác giả bài viết chủ yếu

chỉ dừng ở biện pháp bảo đảm và cưỡng chế đối với tài khoản của người

phải thi hành án mà chưa đề cập tới các biện pháp cưỡng chế thi hành án

dân sự khác, tuy vậy cũng có giá trị tham khảo nhất định cho việc hoàn

thiện quy định pháp luật đối với từng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự

cụ thể.

1.3. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT

RA TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

Qua nghiên cứu một số công trình nghiên cứu trên thế giới và ở Việt

Nam nêu trên, Nghiên cứu sinh rút ra một số nhận xét sau đây:

1.3.1. Về những kết quả nghiên cứu đã đạt được

- Thứ nhất, thực hiện pháp luật thi hành án dân sự nói chung, thực

hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng có vai trò quan trọng

trong việc đảm bảo thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định có hiệu lực

pháp luật và bảo vệ các quyền cơ bản của con người, quyền công dân. Các

công trình nghiên cứu liên quan đến thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi

hành án dân sự đã công bố sẽ là nền tảng để tác giả tiếp cận sâu hơn, toàn

26

diện hơn về thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam

hiện nay.

- Thứ hai, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự dưới

góc độ khoa học pháp lý có thể tiếp cận theo từng biện pháp cưỡng chế (khấu

trừ tiền trong tài khoản; trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; kê biên,

xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba

giữ….) hoặc đối tượng cưỡng chế (động sản, bất động sản, thực hiện hoặc

không được thực hiện công việc nhất định) hoặc kết hợp cả hai cách tiếp cận.

Vì vậy, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam trong

thời gian tới cần được tiếp cận theo xu hướng kết hợp này.

- Thứ ba, vẫn còn "khoảng trống" trong nghiên cứu với đối tượng đặc

biệt là cưỡng chế thi hành án dân sự, cụ thể là: chưa có nghiên cứu đầy đủ,

toàn diện, chuyên sâu, có hệ thống cả về lý luận, pháp luật thực định và thực

tiễn thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự để bảo đảm thực thi

nghiêm chỉnh các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Các công trình

nêu trên chủ yếu tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ

chức và hoạt động của hệ thống thi hành án dân sự nói chung (ví dụ như: mô

hình tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự; hoàn thiện pháp luật về thi hành

án dân sự; trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân

sự…). Việc nghiên cứu thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự

mới chỉ dừng ở góc độ thể chế (các nguyên tắc, biện pháp, điều kiện áp dụng

cưỡng chế thi hành án dân sự theo quy định pháp luật; những khó khăn,

vướng mắc trong thực tiễn áp dụng), nhất là chỉ đề cập đến việc áp dụng các

quy định pháp luật cưỡng chế thi hành án dân sự mà chưa đề cập sâu vào các

hình thức thực hiện pháp luật khác như tuân thủ pháp luật, sử dụng pháp luật,

thi hành pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự cũng như áp dụng pháp

luật về cưỡng chế thi hành án dân sự theo từng biện pháp cưỡng chế cụ thể để

27

từ đó nhận diện những đặc thù của từng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân

sự. Đồng thời, các kiến nghị, khuyến nghị nêu ra chủ yếu về đổi mới tổ chức,

hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự nói chung mà chưa tập trung sâu vào

việc đánh giá thực trạng và kiến nghị các giải pháp thực hiện các quy định

pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự với nghĩa là các biện pháp bảo đảm

hiệu lực, hiệu quả thi hành án dân sự.

Từ đó, liên quan đến thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân

sự, Nghiên cứu sinh thấy cần phải làm rõ một số vấn đề như: mối quan hệ

giữa cưỡng chế thi hành án dân sự với việc bảo đảm quyền con người nói

chung, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan trong thi hành án dân sự nói riêng; vai trò, ý nghĩa của các

hình thức thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự…Những

nghiên cứu này xuất phát từ mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, cái phổ

biến và cái đặc thù (cưỡng chế nói chung, cưỡng chế hành chính, cưỡng chế

thi hành án dân sự nói riêng). Do đó, khi chưa làm rõ những vấn đề lý luận

này thì tất yếu không thể có những đánh giá khoa học, có sức thuyết phục về

thực trạng vấn đề thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự trong

thực tiễn và đề ra biện pháp, cơ chế hữu hiệu nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu

quả cưỡng chế thi hành án dân sự.

1.3.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án

Từ tổng quan tình hình nghiên cứu như nêu trên và xuất phát từ thực tế

là một số công trình nghiên cứu được công bố vào những thời điểm trước đây

nên trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp, cải cách

hành chính hiện nay, công tác thi hành án dân sự đứng trước nhiều yêu cầu mới,

vì vậy, Luận án tiếp tục nghiên cứu tập trung vào một số vấn đề sau đây:

Một là, nghiên cứu, làm sâu sắc hơn khái niệm, bản chất, đặc điểm,

vai trò của cưỡng chế thi hành án dân sự; thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi

28

hành án dân sự và các hình thức thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án

dân sự.

Hai là, phân tích, đánh giá các yếu tố ảnh hưởng cũng như các điều

kiện đảm bảo thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự.

Ba là, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành

án dân sự hiện nay để từ đó xác định những yêu cầu cơ bản để nghiên cứu, đề

xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự và

bảo đảm thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam đáp

ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách tư

pháp, cải cách hành chính ở nước ta trong thời gian tới.

1.3.3. Các câu hỏi đặt ra khi nghiên cứu

Với mục đích tiếp cận thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án

dân sự nhằm đảm bảo thi hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định có hiệu lực

pháp luật; làm sâu sắc thêm thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân

sự cả về phương diện lý luận và thực tiễn, tác giả thấy rằng cần phải làm rõ

mối quan hệ giữa thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự với

hiệu lực, hiệu quả thi hành án dân sự. Để giải quyết được vấn đề này, cần đặt

ra giả thuyết nghiên cứu như sau: Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành

án dân sự ở Việt Nam chưa thực sự hiệu lực, hiệu quả do pháp luật chưa

được hoàn thiện, đồng bộ; chưa có được mô hình tổ chức thi hành án dân sự

phù hợp hoặc đã có nhưng hoạt động kém hiệu quả trên thực tế.

Từ giả thuyết nghiên cứu nêu trên, tác giả thấy rằng luận án cần

nghiên cứu và giải đáp có hệ thống các câu hỏi, cụ thể là: Khái niệm cưỡng

chế thi hành án dân sự; thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự?

Đặc điểm, vai trò của thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự?

Lịch sử pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự? Thực trạng thực hiện

pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam?; Các quan điểm, định

29

hướng đảm bảo thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự trong

giai đoạn hiện nay, tầm nhìn 2030? Các giải pháp đảm bảo thực hiện pháp

luật về cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm thực thi nghiêm chỉnh các bản án,

quyết định có hiệu lực pháp luật ở Việt Nam?

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Trong Chương này, Luận án đã khái quát các kết quả của các công

trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến thực hiện pháp luật về

cưỡng chế thi hành án dân sự. Nội dung của chương nhấn mạnh việc đảm bảo

thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật là yêu cầu

chung trong thi hành pháp luật của các nước. Để đảm bảo thực thi nghiêm

chỉnh các bản án, quyết định có hiệu lực thi hành, pháp luật của các nước đều

quy định cụ thể về việc cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng

chế nhân danh quyền lực Nhà nước khi người phải thi hành án, tổ chức, cá

nhân liên quan không tự nguyện thi hành án; quyền và nghĩa vụ của các chủ

thể liên quan khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án và trình tự, thủ tục

tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm đảm bảo quyền con người, quyền

công dân.

Chương này cũng chỉ ra kết quả cơ bản của các công trình nghiên cứu

đã công bố, nhất là những công trình đã công bố ở Việt Nam và nhận thức

những kết quả này làm cơ sở cho việc tiếp tục phát triển theo hướng nghiên

cứu của Luận án; đồng thời cũng chỉ ra những vấn đề tiếp tục cần nghiên cứu

trong Luận án; giả thuyết nghiên cứu, những câu hỏi đặt ra và trở thành những

nội dung sẽ được trình bày trong các phần tiếp theo của Luận án.

30

Chương 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

2.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự

2.1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự

Trong đời sống xã hội, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính

bắt buộc chung do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội và

được Nhà nước bảo đảm thực hiện, vì vậy pháp luật là cơ sở cho hành vi xử

sự của các chủ thể và đòi hỏi các chủ thể phải thực hiện các hành vi hợp pháp

- hành vi phù hợp với pháp luật, có ích cho xã hội. Tuy nhiên, do nhiều

nguyên nhân khác nhau, trong xã hội vẫn có những chủ thể vi phạm pháp luật,

xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ (lợi ích của Nhà nước,

xã hội, tổ chức và cá nhân) hoặc giữa các chủ thể có thể phát sinh các tranh

chấp. Khi hành vi vi phạm pháp luật đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình

sự và khi các tranh chấp phát sinh mà các bên không tự giải quyết được thì

việc xét xử, giải quyết tranh chấp được giải quyết bởi các cơ quan, tổ chức có

thẩm quyền (Theo quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam, hoạt động xét

xử, giải quyết tranh chấp thuộc thẩm quyền của Tòa án, Trọng tài thương mại,

Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh) và kết quả của việc xét xử, giải quyết

tranh chấp được thể hiện là các bản án, quyết định, trong đó xác định cụ thể

trách nhiệm pháp lý, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể (hình phạt, nghĩa vụ

bồi thường thiệt hại ...).

Về nguyên tắc, các bản án, quyết định chỉ thể hiện kết quả về mặt pháp

lý, nếu không được thực thi trên thực tế thì không đạt được mục đích cuối

31

cùng của hoạt động xét xử, giải quyết tranh chấp. Do đó, để đảm bảo quyền

và nghĩa vụ của các chủ thể trên thực tế thì các bản án, quyết định phải được

thi hành nghiêm chỉnh theo trình tự, thủ tục pháp luật về thi hành án. Hoạt

động thi hành án có thể được nghiên cứu, tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau

nhưng theo nghĩa chung nhất có thể quan niệm: thi hành án là hoạt động của

cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện các thủ tục, trình tự được pháp

luật quy định nhằm đảm bảo đầy đủ, kịp thời quyền và nghĩa vụ của cá nhân,

tổ chức theo bản án, quyết định có hiệu lực thi hành.

Về bản chất, thi hành án là quá trình thực tế hóa các quyền và nghĩa vụ

theo bản án, quyết định có hiệu lực thi hành, tuy nhiên, tùy theo tính chất của

bản án, quyết định, thì việc tổ chức thi hành án được thực hiện theo các trình

tự, thủ tục có tính đặc thù nhất định. Theo quy định pháp luật hiện hành của

Việt Nam, các bản án, quyết định có hiệu lực thi hành được thi hành theo

trình tự, thủ tục thi hành án hình sự, thi hành án dân sự và thi hành án hành

chính, trong đó cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên có thẩm quyền tổ

chức thi hành phần "dân sự" trong các bản án, quyết định theo trình tự, thủ tục

thi hành án dân sự. Đó là: bản án, quyết định dân sự; hình phạt tiền, tịch thu

tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí

và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản

án, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định của Tòa án giải quyết phá

sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh

tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành và phán quyết, quyết định

của Trọng tài thương mại (Điều 1, Luật Thi hành án dân sự).

Với phạm vi thi hành phần dân sự như trên nên thi hành án dân sự có

những nguyên tắc đặc thù nhất định so với thi hành án hình sự, thi hành án

hành chính. Ví dụ như: nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt và sự thỏa

thuận của đương sự; khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án; nguyên

32

tắc nhân đạo trong thi hành án dân sự; việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế

chỉ khi đương sự không tự nguyện thi hành án; bảo đảm sự phối hợp giữa các

cơ quan với việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể, cá nhân...Những

nguyên tắc này cũng là cơ sở cho việc quy định trình tự, thủ tục tổ chức thi

hành án phù hợp với tính chất, đặc điểm của hoạt động thi hành án dân sự. Vì

vậy, từ những khái quát, phân tích nêu trên, có thể khái niệm: thi hành án dân

sự là hoạt động đảm bảo thực hiện đầy đủ, kịp thời bản án, quyết định về dân

sự có hiệu lực thi hành theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định.

2.1.1.2. Khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự

Khái niệm thi hành án dân sự nêu trên cho thấy về nguyên tắc khi bản

án, quyết định dân sự có hiệu lực pháp luật thì các cơ quan, tổ chức, cá nhân

phải tôn trọng, nghiêm chỉnh chấp hành, nếu không chấp hành thì sẽ bị áp

dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự tương ứng.

Cũng như cưỡng chế nói chung, cưỡng chế thi hành án dân sự cũng

xuất phát từ yêu cầu, nguyên tắc chung là dùng quyền lực nhà nước để buộc

cá nhân hay tổ chức phải thực hiện một nghĩa vụ, trách nhiệm theo quyết định

đã có hiệu lực pháp luật của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm

đảm bảo tính phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật, giáo dục

người vi phạm; lập lại tình trạng như trước khi có hành vi vi phạm hay buộc

chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật phải bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu

quả gây ra và các biện pháp khác pháp luật quy định.

Về nguyên tắc, cưỡng chế thi hành án dân sự chỉ đặt ra khi đương sự

không tự nguyện tuân thủ các nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định có

hiệu lực pháp luật, vì vậy, cưỡng chế thi hành án dân sự có thể được tiếp cận

ở những góc độ khác nhau. Có quan điểm cho rằng cưỡng chế thi hành án dân

sự là biện pháp được pháp luật quy định, thể hiện quyền lực của Nhà nước, do

cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng, nhằm buộc người phải thi hành án

33

thi hành đúng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án [74,

tr.26]. Có quan điểm cho rằng cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp do

cơ quan thi hành án áp dụng nhằm buộc người phải thi hành án thực hiện

nghĩa vụ về tài sản hoặc hành vi để thi hành bản án, quyết định theo quy định

của pháp luật…

Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng điểm chung nhất đều cho

rằng mục đích của cưỡng chế thi hành án dân sự là nhằm buộc người phải thi

hành án thi hành đúng nghĩa vụ theo bản án, quyết định của Tòa án nếu họ có

điều kiện thi hành mà không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ. Vì vậy, để đảm

bảo ý nghĩa, hiệu quả của cưỡng chế thi hành án dân sự thì pháp luật cần quy

định cụ thể về cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế; các biện pháp cưỡng chế

được áp dụng; trình tự, thủ tục cưỡng chế....Từ những phân tích như trên, có

thể khái niệm: Cưỡng chế thi hành án dân sự là việc chủ thể có thẩm quyền

thực hiện biện pháp cưỡng chế theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định để

bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định về dân sự có hiệu lực

thi hành.

Khái niệm về cưỡng chế thi hành án dân sự thể hiện mục đích của

cưỡng chế thi hành án dân sự là đảm bảo thi hành quyền và nghĩa vụ của các

đương sự và người có quyền, lợi ích liên quan trong các bản án, quyết định

dân sự có hiệu lực thi hành. Bởi vậy, có thể nhận diện bản chất của cưỡng chế

thi hành án dân sự là việc cơ quan thi hành án dân sự sử dụng quyền lực nhà

nước khi người phải thi hành án không tự nguyện thi hành nhằm chấm dứt

quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản của người phải thi hành án (ví dụ: khấu

trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành án); hạn chế quyền sở hữu,

quyền sử dụng tài sản của người phải thi hành án (ví dụ: khi kê biên quyền sử

dụng đất của người phải thi hành án thì người phải thi hành án bị hạn chế

quyền chuyển quyền sử dụng đất cho người khác); buộc người phải thi hành

34

án thực hiện hành vi hợp pháp hay chấm dứt hành vi trái pháp luật (ví dụ: khi

áp dụng biện pháp cưỡng chế buộc người sử dụng lao động phải nhận người

lao động trở lại làm việc). Từ đó, có thể nhận diện bản chất của cưỡng chế thi

hành án dân sự là hoạt động của chủ thể có thẩm quyền sử dụng quyền lực

nhà nước làm chấm dứt, hạn chế quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử

dụng tài sản của người phải thi hành án (kể cả tài sản của người phải thi hành

án đang do người thứ ba giữ) hoặc buộc người phải thi hành án thực hiện

hành vi hợp pháp hay chấm dứt hành vi trái pháp luật trên cơ sở bản án, quyết

định dân sự có hiệu lực thi hành.

Với bản chất của cưỡng chế thi hành án dân sự như vậy cho thấy sự

khác biệt với các biện pháp có tính cưỡng chế khác như: biện pháp bảo đảm

thi hành án (phạm vi áp dụng biện pháp bảo đảm hẹp hơn so với phạm vi biện

pháp cưỡng chế thi hành án dân sự với bản chất là biện pháp có tính cưỡng chế

mang tính chất tạm thời như: phong tỏa tài khoản; tạm giữ tài sản; tạm dừng

đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản); biện pháp cưỡng chế hành

chính (đây là biện pháp nằm ngoài trình tự xét xử của toà án, chủ yếu do cơ quan

quản lý hành chính nhà nước áp dụng nhằm ngăn ngừa, xử lý vi phạm hành

chính) và biện pháp cưỡng chế hình sự (với bản chất là hạn chế quyền tự do thân

thể, thậm chí tước đoạt tính mạng của người bị áp dụng hình phạt).

2.1.1.3. Khái niệm pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự

Để quản lý nhà nước và đảm bảo trật tự an toàn xã hội, Nhà nước sử

dụng nhiều công cụ, biện pháp khác nhau (pháp luật, đạo đức, tập quán...)

trong đó pháp luật được coi là công cụ quan trọng nhất - đó là hệ thống quy

phạm có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối

với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính

nhất định, do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định và được Nhà

nước bảo đảm thực hiện.

35

Trong thi hành án dân sự, pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự tạo

cơ sở cho việc bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định dân sự

khi đương sự, cá nhân, tổ chức liên quan không tự nguyện thi hành án. Vì

vậy, yêu cầu đặt ra là các quy phạm pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân

sự phải được ban hành phù hợp và khả thi để điều chỉnh các quan hệ xã hội

phát sinh khi phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Cụ thể là

các nhóm quan hệ xã hội cơ bản sau đây:

Thứ nhất, nhóm quan hệ mang tính chất nội dung

Nhóm này phản ánh những quan hệ về nội dung chấp hành các bản án,

quyết định dân sự có hiệu lực thi hành và quyết định cưỡng chế của chủ thể

có thẩm quyền. Ví dụ: mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự ra

quyết định cưỡng chế với người phải thi hành án, người được thi hành án

và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; mối quan hệ giữa Viện kiểm sát

nhân dân với cơ quan thi hành án dân sự trong việc kiểm sát việc thực hiện

các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự... Mục đích của

việc điều chỉnh các nhóm quan hệ này nhằm xác nhận giá trị pháp lý của

việc áp dụng biện pháp cưỡng chế; quyền và nghĩa vụ của đương sự và cơ

quan, tổ chức, cá nhân liên quan theo quy định pháp luật trong cưỡng chế

thi hành án dân sự. Ví dụ như: người phải thi hành án thực hiện quyền

khiếu nại nếu cho rằng việc cơ quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp

cưỡng chế là trái quy định pháp luật... Ngoài ra, những quan hệ về nội dung

còn làm phát sinh các mối quan hệ khác trong quá trình thực hiện việc

cưỡng chế thi hành án dân sự (ví dụ: cơ quan thi hành án dân sự có quyền

xử phạt vi phạm hành chính đối với người phải thi hành án nếu họ không

chấp hành quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự, thậm chí cơ quan thi

hành án dân sự còn đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý trách nhiệm hình sự

đối với người phải thi hành án.

36

Thứ hai, nhóm quan hệ mang tính tổ chức-quản lý đối với hoạt động

cưỡng chế thi hành án dân sự.

Các mối quan hệ này liên quan đến việc hình thành cơ cấu tổ chức;

quy định thẩm quyền và quy chế hoạt động của chủ thể có thẩm quyền

cưỡng chế thi hành án dân sự. Những mối quan hệ này được thể hiện cụ thể

qua các mối quan hệ giữa chấp hành viên với cơ quan, tổ chức có thẩm

quyền trong quản lý, chỉ đạo thi hành án dân sự. Ví dụ như: mối quan hệ

giữa Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự với chấp hành viên trong giải

quyết khiếu nại của người phải thi hành án đối với quyết định cưỡng chế

của chấp hành viên; mối quan hệ giữa Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự với

cơ quan thi hành án dân sự trong chỉ đạo, phối hợp tổ chức thực hiện cưỡng

chế thi hành án dân sự... Thực tiễn thi hành án dân sự cho thấy rằng việc

giải quyết các mối quan hệ này thường phức tạp và cũng có những tồn tại,

hạn chế nhất định, ví dụ như: Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự có được chỉ

đạo hoãn cưỡng chế thi hành án dân sự hay không?; khi cơ quan thi hành

án dân sự tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự nếu không có đại diện Viện

kiểm sát nhân dân cùng cấp tham gia hay cơ quan Công an không tham gia

bảo vệ cưỡng chế thì chấp hành viên có được thực hiện cưỡng chế hay

không…). Do đó, việc quy định rõ thẩm quyền, mối quan hệ phối hợp giữa

các chủ thể liên quan trong quá trình tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự

sẽ góp phần đảm bảo tính pháp chế và nâng cao hiệu quả cưỡng chế thi

hành án dân sự.

Thứ ba, nhóm quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện các trình tự,

thủ tục về cưỡng chế thi hành án dân sự.

Cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm tổ chức thi hành bản án, quyết định

dân sự có hiệu lực thi hành, đồng thời cũng là cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của đương sự, tổ chức, cá nhân liên quan, do đó, hoạt động cưỡng

37

chế thi hành án dân sự phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật theo những

nguyên tắc, trình tự, thủ tục nhất định. Việc thực hiện các nguyên tắc, trình tự,

thủ tục cưỡng chế thi hành án dân sự làm xuất hiện hàng loạt các mối quan hệ

giữa các chủ thể liên quan. Đó là những quan hệ phát sinh từ việc thực hiện

các thủ tục về kê biên, bán đấu giá tài sản; thực hiện việc hoãn, tạm đình chỉ

cưỡng chế khi có yêu cầu của người có thẩm quyền kháng nghị; Viện kiểm sát

nhân dân kiến nghị, kháng nghị đối với việc thực hiện trình tự, thủ tục tổ chức

thực hiện quyết định cưỡng chế của chấp hành viên...

Như vậy, để điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội cơ bản nêu trên trong

cưỡng chế thi hành án dân sự, Nhà nước phải ban hành các quy định pháp luật

- các quy phạm pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự và tổng hợp các

quy phạm pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự tạo thành pháp luật về

cưỡng chế thi hành án dân sự. Vì vậy, có thể khái niệm: Pháp luật về cưỡng

chế thi hành án dân sự là hệ thống các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà

nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh

trong hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự bao gồm quy định về nhiệm vụ,

quyền hạn của chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế; trình tự,

thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế và quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân

liên quan đến cưỡng chế thi hành án dân sự.

Từ việc phân tích các khái niệm nêu trên, có thể thấy rằng pháp luật về

cưỡng chế thi hành án dân sự là cơ sở cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực

hiện và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, các quy

định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự có được thực hiện hiệu quả

trong thực tế hay không còn phụ thuộc vào nhận thức, hành vi hợp pháp của

các chủ thể, thậm chí phải có sự tác động của cơ quan có thẩm quyền để buộc

chủ thể phải thực hiện các nghĩa vụ pháp luật quy định. Hay nói cách khác là

các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự có trở thành hiện thực

38

trong xã hội hay không còn phụ thuộc vào hoạt động thực hiện pháp luật về

cưỡng chế thi hành án dân sự của các chủ thể liên quan.

Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, cũng như thực

hiện pháp luật nói chung, trước hết cũng là hoạt động có mục đích nhằm làm

cho các quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự được thực

hiện trong thực tế cuộc sống và trở thành những hoạt động thực tế, hợp pháp

của các chủ thể pháp luật có liên quan. Tiếp đến, thực hiện pháp luật về cưỡng

chế thi hành án dân sự còn xuất phát từ bản chất của cưỡng chế thi hành án

dân sự, đó là quá trình thực hiện pháp luật chỉ khi người phải thi hành án có

điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành. Điều này cũng có

nghĩa là người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án là điều kiện tiên

quyết để cơ quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án

dân sự. Ngoài ra, quá trình thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân

sự cũng phải tuân thủ những nguyên tắc, yêu cầu có tính đặc thù trong quá

trình thi hành án dân sự. Vì vậy, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án

dân sự có thể được coi là một cơ chế hữu hiệu để đảm bảo thi hành nghiêm

chỉnh các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật trong đời sống xã hội và

bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và các cơ quan, tổ chức, cá

nhân liên quan trong quá trình thi hành án.

Từ những phân tích ở trên, có thể khái niệm: Thực hiện pháp luật về

cưỡng chế thi hành án dân sự là hoạt động có mục đích làm cho các quy định

pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự đi vào cuộc sống và trở thành

những hành vi thực tế của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan

trong thi hành án dân sự nhằm đảm bảo thi hành nghiêm chỉnh bản án, quyết

định có hiệu lực pháp luật.

2.1.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật cưỡng chế thi hành án dân sự

Cưỡng chế thi hành án dân sự là giải pháp cuối cùng được áp dụng khi

đương sự, cá nhân, tổ chức liên quan không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của

39

mình theo bản án, quyết định có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, với mục đích

thi hành các nghĩa vụ dân sự nên thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án

dân sự cũng có những đặc điểm có bản là:

Thứ nhất, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự đảm bảo

tính độc lập và chủ động của chấp hành viên.

Trong hoạt động thi hành án dân sự, chấp hành viên là chủ thể được

Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định dân sự có hiệu lực

pháp luật, do đó khi thi hành nhiệm vụ, về nguyên tắc chấp hành viên chỉ tuân

theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ, đặc

biệt là khi phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự thì chấp hành

viên phải chịu nhiều áp lực trong thực thi nhiệm vụ. Vì vậy, để đảm bảo cho

chấp hành viên thực hiện đúng các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành

án dân sự thì các cơ quan, tổ chức và cá nhân phải có trách nhiệm phối hợp

theo đúng phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình; mọi hành vi cản

trở, can thiệp trái pháp luật đối với hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự,

chấp hành viên đều phải bị xử lý theo quy định của pháp luật.

Tính chủ động, độc lập của chấp hành viên được pháp luật quy định cụ

thể tại Điều 20 Luật Thi hành án dân sự, theo đó bao gồm các thẩm quyền

như: kịp thời tổ chức thi hành vụ việc được phân công; ra các quyết định về

thi hành án theo thẩm quyền; thi hành đúng nội dung bản án, quyết định; áp

dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự...

Đặc biệt là tính độc lập của chấp hành viên được đề cao trong quá trình cưỡng

chế thi hành án dân sự khi pháp luật cho phép được lựa chọn biện pháp cưỡng

chế thi hành án dân sự phù hợp (ví dụ như: Trừ vào thu nhập của người phải

thi hành án; kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản

đang do người thứ ba giữ...). Trong quá trình thực hiện pháp luật về cưỡng

chế thi hành án dân sự, tính độc lập của chấp hành viên được thể hiện rõ nhất

40

dưới hình thức áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự thông qua

việc chấp hành viên lựa chọn biện pháp cưỡng chế cần áp dụng để tổ chức thi

hành. Tuy nhiên, để đảm bảo cho chấp hành viên được độc lập và chủ động

trong việc áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự thì các chủ thể

khác (đương sự, cá nhân, tổ chức liên quan) cũng phải thực hiện đúng các

quyền và nghĩa vụ của mình theo pháp luật quy định. Ví dụ như: người phải

thi hành án không được cản trở, chống đối việc cưỡng chế thi hành án; cơ

quan, tổ chức liên quan có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án dân

sự theo đúng quy định pháp luật; Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm kiểm

sát việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự cũng như quá trình

tổ chức thực hiện biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự....

Thứ hai, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự đảm bảo

tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự, bảo vệ lợi ích của Nhà nước

và xã hội.

Đây là một đặc điểm đặc thù của thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi

hành án dân sự, bởi lẽ về nguyên tắc, thi hành án dân sự chủ yếu là thi hành

các quyết định của Tòa án mang tính chất tài sản - đặc trưng của quan hệ dân

sự, vì vậy, quyền tự định đoạt và thỏa thuận của đương sự luôn được tôn trọng

trong suốt quá trình thi hành án, kể cả khi đã áp dụng biện pháp cưỡng chế thi

hành án dân sự. Mặc dù biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự chỉ áp dụng

khi người phải thi hành án không tự nguyện thi hành, nhưng sau khi cơ quan

thi hành án dân sự áp dụng biện pháp cưỡng chế, người phải thi hành án vẫn

có quyền thỏa thuận với người phải thi hành án về việc hoãn tổ chức cưỡng

chế để tự nguyện thi hành án; người được thi hành án vẫn có quyền rút yêu

cầu thi hành án để cơ quan thi hành án dân sự đình chỉ việc thi hành án;

thậm chí ngay trước khi mở cuộc đấu giá tài sản đã bị kê biên, người phải

thi hành án vẫn có quyền nhận lại tài sản của mình sau khi nộp đủ tiền thi

41

hành án cùng các chi phí liên quan...Chính vì sự tôn trọng quyền tự định

đoạt của đương sự nên trong một số trường hợp cụ thể, chủ thể có thẩm

quyền có thể lựa chọn biện pháp thích hợp để việc thi hành án được nhanh

chóng, đạt hiệu quả trên cơ sở thỏa thuận của các đương sự và trong những

trường hợp như vậy việc thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân

sự không nhất thiết phải theo đúng như nội dung bản án, quyết định đã có

hiệu lực pháp luật.

Thứ ba, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự phải trên

cơ sở các trình tự, thủ tục được pháp luật quy định.

Trong thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên là

chủ thể có thẩm quyền được Nhà nước giao trực tiếp thi hành các bản án,

quyết định dân sự có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, để đảm bảo hiệu quả

cưỡng chế thi hành án dân sự thì vấn đề quan trọng nhất là chủ thể có thẩm

quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự phải tuân thủ những

nguyên tắc, điều kiện, trình tự pháp luật quy định nhằm bảo đảm lợi ích của

Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Ví dụ như: chấp hành

viên phải tuân thủ trình tự, thủ tục về kê biên tài sản, giao bảo quản tài sản

sau kê biên, thẩm định giá tài sản kê biên để đưa ra đấu giá, giao tài sản

cho người trúng đấu giá... Ngoài chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp

cưỡng chế thi hành án dân sự, pháp luật cũng quy định các chủ thể khác

cũng phải tuân thủ các trình tự, thủ tục nhất định để đảm bảo thực hiện

pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự theo đúng quyền và nghĩa vụ

pháp luật quy định. Ví dụ như: đương sự thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo

đối với quyết định, hành vi của chấp hành viên theo đúng trình tự, thủ tục

về khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự; Viện kiểm sát nhân dân thực

hiện quyền kiến nghị, kháng nghị theo đúng trình tự, thủ tục về kiến nghị,

kháng nghị; Quốc hội, Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với

42

các chủ thể trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong quá

trình cưỡng chế thi hành án dân sự...

2.1.3. Vai trò của thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự

Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm làm cho các

quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự đi vào cuộc sống và trở

thành những hành vi thực tế của đương sự, các cá nhân, cơ quan và tổ chức

liên quan trong thi hành án dân sự, vì vậy, từ thực tiễn cưỡng chế thi hành án

dân sự có thể khái quát một số vai trò cơ bản của thực hiện pháp luật về

cưỡng chế thi hành án dân sự như sau:

Một là, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm bảo

đảm thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.

Pháp luật là tổng hợp các quy tắc xử sự thể hiện ý chí của Nhà nước có

tính bắt buộc chung do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và được Nhà nước

đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế. Tuy nhiên, trên thực tế các quy

tắc xử sự đó không phải bao giờ cũng được các chủ thể thực hiện nghiêm

chỉnh và tự nguyện, do đó nếu có chủ thể không tuân thủ pháp luật, không tự

nguyện tuân thủ pháp luật thì Nhà nước phải có những biện pháp cưỡng chế

để bảo đảm thực hiện. Về nguyên tắc, để đảm bảo thi hành bản án, quyết định

có hiệu lực pháp luật thì đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân phải nghiêm

chỉnh thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình, nhất các nghĩa vụ của

người phải thi hành án. Tuy nhiên, nếu các đương sự không tự nguyện thi

hành án thì cơ quan thi hành án dân sự buộc phải áp dụng biện pháp cưỡng

chế cần thiết để đảm bảo các chủ thể có liên quan phải thực hiện đúng các

quyền và nghĩa vụ của mình (ví dụ như: cơ quan Công an, Viện kiểm sát nhân

dân, Ủy ban nhân dân cấp xã phải thực hiện đúng trách nhiệm phối hợp trong

thi hành án dân sự; đương sự thực hiện đúng quyền khiếu nại, tố cáo pháp luật

quy định...). Vì vậy, có thể nói rằng thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành

43

án dân sự có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ pháp luật, bảo đảm cho các

bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật được thi nghiêm chỉnh trong đời sống

xã hội.

Hai là, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, đương sự và tổ chức, cá nhân

liên quan.

Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự là một quá trình

hoạt động có mục đích, bảo đảm cho các bản án, quyết định có hiệu lực pháp

luật được tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,

các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, công dân. Thông qua các quy

định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quá trình thi hành án

dân sự, pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự tạo ra hành lang pháp lý

bảo đảm cho cơ quan thi hành án dân sự, chủ thể có thẩm quyền thực hiện

đúng chức năng, nhiệm vụ của mình; các tổ chức, cá nhân có liên quan thực

hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ và đảm bảo cho các quyết định cưỡng chế

được thực thi trên thực tế.

Thực tiễn cho thấy rằng bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật thể hiện

sự phán quyết về quyền, nghĩa vụ của các đương sự có liên quan và việc thực

hiện các quyền, nghĩa vụ đó chính là sự bảo đảm lợi ích chung của Nhà nước, xã

hội, cơ quan, tổ chức, cá nhân. Vì vậy, việc thực thi các bản án, quyết định

không chỉ bảo đảm quyền, lợi ích của các đương sự, người có quyền, lợi ích liên

quan trong bản án, quyết định đó mà còn ảnh hưởng đến việc đảm bảo trật tự an

toàn xã hội; quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân khác có

liên quan. Từ đó, để đảm bảo lợi ích chung của xã hội thì Nhà nước phải có biện

pháp phù hợp để người phải thi hành án thực hiện đúng nghĩa vụ của mình theo

bản án, quyết định nếu có điều kiện thi hành án, trong đó cưỡng chế thi hành án

dân sự biện pháp được áp dụng cuối cùng nhưng cũng là biện pháp hữu hiệu

44

nhất để đảm bảo thi hành án, đảm bảo quyền bình đẳng của các chủ thể trong xã

hội. Vì vậy, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự được coi là cơ

chế bảo đảm quyền, lợi ích của các đương sự, tổ chức, cá nhân khác và lợi ích

của Nhà nước nói chung và trong thi hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp

luật theo thủ tục thi hành án dân sự nói riêng.

Ba là, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự góp phần

nâng cao ý thức pháp luật về thi hành án dân sự của đương sự, cá nhân, tổ

chức liên quan và góp phần tăng cường pháp chế.

Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, bởi vậy thực hiện pháp luật

nói chung và thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng là

quá trình hoạt động có mục đích làm cho các quy phạm pháp luật về cưỡng

chế thi hành án dân sự được thực thi trên thực tế, do đó các cơ quan nhà nước

nói chung, cơ quan thi hành án dân sự nói riêng, các tổ chức và công dân phải

có trách nhiệm trong việc thực hiện tốt các quy định của pháp luật về cưỡng

chế thi hành án dân sự. Thực tế cho thấy rằng khi người phải thi hành án

không tự nguyện thi hành mà cơ quan thi hành án dân sự buộc phải áp dụng

biện pháp cưỡng chế thì việc tổ chức cưỡng chế thường gặp nhiều khó khăn,

nhất là khi phải áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản thì thường

gặp phải sự chống đối quyết liệt của người phải thi hành án và gia đình, gây

ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương, do đó nếu có sự phối hợp tốt

của cơ quan, tổ chức liên quan trong việc thực hiện đúng các quy định về

cưỡng chế thi hành án dân sự thì sẽ đảm bảo hiệu quả cưỡng chế và qua đó

nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của đương sự và cộng đồng, đồng thời

đảm bảo tính pháp chế trong việc thực thi các bản án, quyết định có hiệu lực

pháp luật.

Thực tiễn cho thấy rằng cưỡng chế thi hành án dân sự được coi là biện

pháp mạnh nhân danh Nhà nước để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp

45

luật, có tác dụng răn đe, phòng ngừa những hành vi vi phạm pháp luật

trong quá trình thi hành án và cũng là kênh phổ biến, tuyên truyền, giáo

dục nâng cao ý thức pháp luật cho các chủ thể trong xã hội trong việc nhận

thức đúng các quy định pháp luật, nhận thức đúng trách nhiệm tôn trọng và

thi hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; nhận thức đúng hành vi

vi phạm, thiếu sót của mình để từ đó kịp thời sửa chữa, khắc phục và tuân

thủ nghiêm các quy định pháp luật; củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt

động xét xử của Tòa án, đảm bảo uy tín của Tòa án và cơ quan thi hành án

dân sự.

Bốn là, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự góp phần

nâng cao hiệu quả của công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án dân sự

Bản án, quyết định là sản phẩm của quá trình điều tra, truy tố và xét

xử của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền qua những trình tự, thủ tục tố tụng

cụ thể, vì vậy, khi bản án, quyết định được các đương sự tự nguyện thi

hành thể hiện tính đúng đắn, hiệu quả của công tác điều tra, truy tố, xét xử

và thi hành án dân sự. Tuy nhiên, trong trường hợp phải cưỡng chế thi hành

án dân sự thì có thể có sự chưa đồng tình của người phải thi hành án về

tính đúng đắn của bản án, quyết định và như vậy dẫn đến có sự hoài nghi

đối với công tác điều tra, truy tố và xét xử và thi hành án dân sự. Từ đó,

quá trình thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự cũng là quá

trình kiểm nghiệm lại tính đúng đắn của hoạt động điều tra, truy tố, xét xử

để khắc phục những hạn chế, tồn tại, vi phạm (nếu có) để nâng cao hiệu

quả công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án dân sự. Ví dụ như: khi

áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân

sự phát hiện những thiếu sót, vi phạm trong bản án; sự khác nhau giữa nội

dung quyết định của bản án với thực tế tài sản của đương sự thì cơ quan thi

hành án dân sự có quyền đề nghị Tòa án đã xét xử đính chính, sửa chữa sai

46

sót, giải thích bản án hoặc đề nghị người có thẩm quyền xem xét lại bản án

theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm. Đồng thời, khi người phải thi hành

án dân sự không tự nguyện thi hành án thì việc phải áp dụng biện pháp

cưỡng chế thi hành án dân sự cũng thể hiện tính nghiêm minh của pháp

luật, góp phần nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi

hành án dân sự, nhất là việc áp dụng biện pháp cưỡng chế là cơ sở để thu

hồi tài sản, đấu giá tài sản để thu tiền thi hành án.

2.2. NỘI DUNG ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT VÀ HÌNH THỨC THỰC HIỆN

PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

2.2.1. Nội dung điều chỉnh pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự

Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự là hoạt động có

mục đích nhằm đảm bảo thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật

khi đương sự, cá nhân, tổ chức không tự nguyện thi hành án. Các nội dung

quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự thể chế hóa đường lối

quan điểm của Đảng, chủ trương chính sách của Nhà nước, nhu cầu khách

quan của xã hội, vì vậy thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự

phải tạo được cơ chế hữu hiệu để đương sự, cá nhân, tổ chức liên quan tôn

trọng và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự.

Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự dựa trên các quy định

pháp luật điều chỉnh về cưỡng chế thi hành án dân sự, bao gồm các nội dung

cơ bản sau đây:

Thứ nhất, pháp luật điều chỉnh về tổ chức thi hành án dân sự.

Tổ chức thi hành án dân sự có vị trí, chức năng rất quan trọng trong

việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định dân sự có hiệu lực pháp luật.

Pháp luật quy định cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền tổ chức thi hành

án, trong đó chấp hành viên có thẩm quyền cưỡng chế thi hành án dân sự, vì

vậy, việc pháp luật điều chỉnh về tổ chức thi hành án dân sự có vai trò quan

47

trọng trong việc xác định rõ chủ thể có thẩm quyền trong cưỡng chế thi hành

án dân sự; trách nhiệm của các chủ thể trong chỉ đạo, kiểm tra, phối hợp trong

cưỡng chế thi hành án dân sự.

Nội dung điều chỉnh pháp luật về tổ chức thi hành án dân sự được thể

hiện trong Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành đó là

thực hiện các quy định về tổ chức, quản lý thống nhất các cơ quan thi hành án

dân sự từ Trung ương đến địa phương (trừ hệ thống tổ chức thi hành án trong

quân đội). Trên cơ sở pháp luật hiện hành, các cơ quan quản lý thi hành án

dân sự và cơ quan thi hành án dân sự hiện nay được tổ chức thành hệ thống từ

Trung ương tới địa phương được giao trách nhiệm quản lý, tổ chức thi hành

các bản án, quyết định dân sự có hiệu lực pháp luật, trong đó có nhiệm vụ tổ

chức cưỡng chế thi hành án dân sự. Cụ thể là:

- Ở Trung ương: Tổng cục thi hành án dân sự là cơ quan quản lý thi

hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng tham mưu, giúp

Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự trong phạm vi cả

nước; thực hiện quản lý chuyên ngành về thi hành án dân sự theo quy định

của pháp luật. Tổng cục thi hành án dân sự có cơ cấu cán bộ, công chức sau:

Tổng cục trưởng, các Phó Tổng cục trưởng, Vụ trưởng và tương đương, Phó

Vụ trưởng và tương đương, các thẩm tra viên và công chức khác.

- Ở cấp tỉnh: Cục thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương (Cục thi hành án dân sự cấp tỉnh) là cơ quan thi hành án dân sự trực

thuộc Tổng cục thi hành án dân sự, thực hiện chức năng thi hành án dân sự,

có nhiệm vụ giúp Tổng Cục trưởng Tổng cục thi hành án dân sự quản lý một

số mặt công tác tổ chức, cán bộ của cơ quan thi hành án dân sự địa phương và

thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật. Cục thi

hành án dân sự cấp tỉnh có cơ cấu tổ chức, cán bộ sau: Cục thi hành án dân sự

tỉnh có Cục trưởng; các Phó Cục trưởng; chấp hành viên (sơ cấp, trung cấp,

48

cao cấp); Thẩm tra viên, Thẩm tra viên chính, Thẩm tra viên cao cấp; Thư ký

thi hành án và công chức khác.

- Ở cấp huyện: Chi cục thi hành án dân sự huyện, quận, thị xã, thành

phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Chi cục thi hành án dân sự cấp huyện) là

cơ quan thi hành án dân sự huyện trực thuộc Cục thi hành án dân sự tỉnh, thực

hiện chức năng thi hành án dân sự và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác

theo quy định của pháp luật. Chi cục thi hành án dân sự huyện có Chi Cục

trưởng; các Phó Chi cục trưởng; chấp hành viên (sơ cấp, trung cấp); Thẩm tra

viên, Thẩm tra viên chính; thư ký thi hành án và công chức khác.

Các qui định về hệ thống tổ chức hệ thống thi hành án dân sự được quy

định tại Luật Thi hành án dân sự, Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày

18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số

điều của Luật Thi hành án dân sự, Quyết định số 61/2014/QĐ-TTg ngày

30/10/2014 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục thi hành án dân sự trực thuộc Bộ

Tư pháp.... Do đó, việc thực hiện tốt các quy định về hệ thống tổ chức thi

hành án dân sự sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao địa vị pháp lý,

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ

quan thi hành án dân sự trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ về

thi hành án dân sự nói chung và thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án

dân sự nói riêng.

Thứ hai, pháp luật điều chỉnh về quản lý Nhà nước trong cưỡng chế thi

hành án dân sự.

Quản lý nhà nước trong cưỡng chế thi hành án dân sự là quá trình hoạt

động của các chủ thể (Chính phủ, Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân các cấp)

trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân

sự, theo đó để đảm bảo hiệu quả thực hiện pháp luật về cưỡng chế thì các cơ

49

quan có thẩm quyền phải có trách nhiệm quản lý nhà nước đối với thi hành án

dân sự nói chung và cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng. Điều này thể

hiện qua các nội dung hoạt động cụ thể như: ban hành văn bản quy phạm

pháp luật; xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, kế hoạch về thi hành án

dân sự; phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành án dân sự; quản lý hệ thống

tổ chức, biên chế và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự; quyết định

thành lập, giải thể các cơ quan thi hành án dân sự; đào tạo, bổ nhiệm, miễn

nhiệm chấp hành viên, Thẩm tra viên; hướng dẫn chỉ đạo, bồi dưỡng nghiệp

vụ cho chấp hành viên, Thẩm tra viên và công chức khác làm công tác thi

hành án dân sự; kiểm tra, thanh tra xử l ý vi phạm trong công tác thi hành án

dân sự; giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự; quyết định kế hoạch

phân bổ kinh phí, đảm bảo cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động của cơ quan

thi hành án dân sự; hợp tác quốc tế về thi hành án dân sự; tổng kết công tác

thi hành án dân sự.

Như vậy, thực hiện đúng các quy định pháp luật điều chỉnh về quản lý

nhà nước trong thi hành án dân sự nói chung, trong cưỡng chế thi hành án dân

sự nói riêng là cơ sở quan trọng đảm bảo hiệu lực, hiệu quả thực hiện pháp

luật về cưỡng chế thi hành án dân sự.

Thứ ba, pháp luật điều chỉnh về hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự.

Đó là các nội dung điều chỉnh quá trình hoạt động của các chủ thể trong

quá trình cưỡng chế thi hành án dân sự, theo đó xác định cụ thể nhiệm vụ,

quyền hạn, trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan; trình tự,

thủ tục cưỡng chế thi hành án dân sự. Những nội dung điều chỉnh này tạo cơ

sở quan trọng cho việc đánh giá tính đúng đắn cũng như hiệu quả thực hiện

pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. Ví dụ như: thông qua hoạt động

cưỡng chế thi hành án dân sự có thể đánh giá hiệu quả, trách nhiệm thực hiện

nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên trong

50

cưỡng chế thi hành án dân sự; trách nhiệm phối hợp của các cơ quan, tổ chức

liên quan trong cưỡng chế thi hành án dân sự (như: Bộ Công an, Tòa án nhân

dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kho bạc nhà nước, Ngân hàng và

tổ chức tín dụng, Bảo hiểm xã hội, Cơ quan đăng ký tài sản, đăng ký giao

dịch bảo đảm trong thi hành án dân sự và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức

đã ra bản án, quyết định); kết quả thực hiện quyền và nghĩa vụ của người

phải thi hành án, người được thi hành án; trình tự, thủ tục cưỡng chế thi

hành án dân sự.... Như vậy, tùy theo phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của

mình, các cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan có trách nhiệm tuân thủ,

thực hiện đúng các trình tự, thủ tục pháp luật trong cưỡng chế thi hành án

dân sự; mọi hành vi cản trở, can thiệp trái pháp luật vào hoạt động cưỡng

chế thi hành án dân sự của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên đều

bị xử lý theo quy định pháp luật.

2.2.2. Hình thức thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự

Dưới góc độ lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, hình thức thực

hiện pháp luật là cách thức mà các chủ thể tiến hành các hoạt động có mục

đích làm cho các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống. Các quy phạm

pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự liên quan đến việc chấm dứt, hạn

chế quyền tài sản và việc thực hiện các hành vi hợp pháp (hành động và

không hành động) của các đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

theo các bản án, quyết định có hiệu lực thi hành, bởi vậy, hình thực thực hiện

pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự cũng đa dạng, phong phú.

Căn cứ vào tính chất của các quy phạm pháp luật và chủ thể thực hiện

pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, có thể xác định thực hiện pháp luật

về cưỡng chế thi hành án dân sự cũng bao gồm các hình thức như các hình

thức thực hiện pháp luật nói chung nhằm chuyển tải các quy phạm pháp luật

về cưỡng chế thi hành án dân sự trong đời sống xã hội. Cụ thể là:

51

2.2.2.1. Tuân thủ pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự

Tuân thủ pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự là một hình thức

thực hiện pháp luật, theo đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến

hành những hoạt động mà pháp luật cấm. Trong cưỡng chế thi hành án dân

sự, yêu cầu về tuân thủ pháp luật được coi là vấn đề có ý nghĩa quyết định

đối với hiệu quả thi hành án dân sự, đòi hỏi các chủ thể liên quan phải thực

hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo trình tự, thủ tục pháp luật

quy định, đặc biệt là chấp hành viên không được áp dụng các biện pháp

cưỡng chế một cách tùy tiện mà phải tuân thủ những quy định, nguyên tắc

nhất định. Cụ thể như:

- Chỉ được áp dụng các biện pháp cưỡng chế được pháp luật quy định,

bao gồm: khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của

người phải thi hành án; trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; kê biên,

xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba

giữ; khai thác tài sản của người phải thi hành án; buộc chuyển giao vật,

chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ; buộc người phải thi hành án thực hiện

hoặc không được thực hiện công việc nhất định (Điều 71, Luật Thi hành án

dân sự).

- Chỉ được áp dụng biện pháp cưỡng chế sau khi đã hết thời hạn tự

nguyện thi hành án trừ trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có

hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Ngoài

ra, chấp hành viên không được tổ chức cưỡng chế thi hành án có huy động lực

lượng trong thời gian 15 ngày trước và sau tết Nguyên đán; các ngày truyền

thống đối với các đối tượng chính sách, nếu họ là người phải thi hành án.

- Việc tổ chức cưỡng chế phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải

thi hành án và các chi phí cần thiết khác. Chấp hành viên phải ước tính giá trị

tài sản để làm cơ sở cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự.

52

- Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế phải căn cứ vào bản án, quyết

định và từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Nguyên tắc này đòi hỏi rất cao về

mặt chuyên môn nghiệp vụ của chấp hành viên, bản lĩnh nghề nghiệp và

đạo đức chấp hành viên, vì để tổ chức cưỡng chế thì phải tính đến yêu cầu

đảm bảo tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa bản xảy ra

việc cưỡng chế...

Ngoài ra, ngay trong quá trình tổ chức cưỡng chế, chấp hành viên còn

phải tuân thủ những trình tự, thủ tục nhất định như: ra quyết định cưỡng chế

kê biên tài sản; lập kế hoạch cưỡng chế; tống đạt, thông báo quyết định cưỡng

chế; lập biên bản kê biên thực tế tài sản cưỡng chế; giao bảo quản tài sản;

không được áp dụng biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập quá 30% tổng số

tiền mà người phải thi hành án nhận được nhận hàng tháng, trừ trường hợp

đương sự có thỏa thuận khác...

2.2.2.2. Thi hành pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự

Thi hành (chấp hành) pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự là một

hình thức thực hiện pháp luật, theo đó các chủ thể thực hiện nghĩa vụ, trách

nhiệm pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Việc thi hành nghĩa vụ,

trách nhiệm bằng hành động tích cực của mỗi chủ thể tùy thuộc vào chức

năng, nhiệm vụ cũng như trách nhiệm liên quan đến việc thi hành án dân sự.

Ví dụ như khi áp dụng kê biên tài sản là quyền sử dụng đất thì trước khi kê

biên tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc

đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật thì chấp hành viên

phải yêu cầu cơ quan đăng ký cung cấp thông tin về tài sản, giao dịch đã đăng

ký. Sau khi kê biên, chấp hành viên thông báo bằng văn bản cho cơ quan đăng

ký về việc kê biên tài sản đó để xử lý theo quy định.

Thi hành pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự được thể hiện ở chỗ

các chủ thể thi hành pháp luật thi hành án dân sự thực hiện nghĩa vụ pháp lý

53

của mình bằng hành động tích cực, đó là sự chủ động tổ chức thi hành án của

chấp hành viên; người được thi hành án, người phải thi hành án, người có

quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc cưỡng chế thi hành án dân sự phải nghiêm

chỉnh thi hành, các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã

hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ

trang và cá nhân tôn trọng. Ở đây tính chấp hành pháp luật là yêu cầu nổi bật

trong hoạt động thi hành án dân sự nói chung, cưỡng chế thi hành án dân sự

nói riêng, đặc biệt là chủ thể có thẩm quyền là người chịu trách nhiệm chính

trong quá trình tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự phải căn cứ vào các quy

định của pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự; phối hợp với các cơ quan

liên quan để tổ chức việc cưỡng chế thi hành án dân sự...

2.2.2.3. Sử dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự

Sử dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự là một hình thức

thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, trong đó các chủ thể

thực hiện các quyền về thi hành án dân sự để bảo vệ các quyền và lợi ích

hợp của mình. Hình thức này khác với hình thức tuân thủ pháp luật và thi

hành pháp luật ở chỗ chủ thể có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền

được pháp luật cho phép theo ý chí của mình, chứ không bị ép buộc phải

thực hiện. Cưỡng chế thi hành án dân sự liên quan đến việc bảo vệ các

quyền về sở hữu tài sản, quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản vì vậy việc sử

dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự có vai trò quan trọng trong

việc bảo đảm cho việc cưỡng chế thi hành án dân sự khách quan, đúng

pháp luật. Ví dụ: trong quá trình cưỡng chế thi hành án dân sự, đương sự,

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền khiếu nại đối với quyết

định cưỡng chế của chấp hành viên nếu có căn cứ cho rằng quyết định,

hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình

nhưng việc có thực hiện quyền này hay không thì tùy thuộc vào ý chí của

54

chính các đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (tính tùy

nghi trong thực hiện pháp luật).

2.2.2.4. Áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự

Áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự là một hình thức

thực hiện pháp luật chủ yếu trong thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành

án dân sự, trong đó chấp hành viên nhân danh quyền lực nhà nước để ra quyết

định cưỡng chế thi hành án dân sự và tổ chức thực hiện quyết định cưỡng chế

trong thực tế, qua đó làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt những quan hệ

pháp luật trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Ngoài ra, việc áp dụng pháp luật

về cưỡng chế thi hành án dân sự cũng được tiến hành khi người phải thi hành

án có biểu hiện tẩu tán tài sản, cố tình chây ỳ, không tự nguyện hay chống đối

việc thi hành án.

Trong thi hành án dân sự, áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án

dân sự được tiến hành khi các bên không tự giải quyết được các quyền và

nghĩa vụ liên quan, không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình theo bản

án, quyết định có hiệu lực thi hành. Áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành

án dân sự là hoạt động thực hiện pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền, nó

vừa là một hình thức thực hiện pháp luật, vừa là cách thức Nhà nước tổ chức

cho các đương sự thực hiện pháp luật nên hoạt động này luôn thể hiện quyền

lực Nhà nước, có nghĩa là hoạt động này chỉ do cơ quan Nhà nước hay người

có thẩm quyền tiến hành. Hoạt động này chủ yếu được tiến hành theo ý chí

đơn phương của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên mà không phụ

thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp dụng biện pháp cưỡng chế. Điểm khác biệt

và đặc thù của áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự là chủ thể

có thẩm quyền có quyền lựa chọn các quy phạm pháp luật, ra các văn bản áp

dụng pháp luật một cách kịp thời, chính xác để tổ chức cưỡng chế thi hành án

dân sự có hiệu quả. Bởi vậy, áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân

55

sự có thể coi là một trong những bảo đảm quan trọng để đảm bảo thi hành các

bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật trong thực tế đời sống xã hội.

Như vậy, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự được thể

hiện qua bốn hình thức cơ bản là: tuân theo pháp luật, thi hành pháp luật, sử

dụng pháp luật và áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. Sự

khác biệt của hình thức áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự so

với các hình thức tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật

là ở chỗ nếu như tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật

về cưỡng chế thi hành án dân sự là những hình thức mà mọi chủ thể thực hiện

pháp luật đều có thể thực hiện thì áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án

dân sự là hình thức thể hiện quyền lực nhà nước thông qua việc thực hiện

chức năng, nhiệm vụ của chủ thể có thẩm quyền cưỡng chế thi hành án dân sự

là chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự.

2.3. CÁC ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG

CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự là việc cơ quan thi

hành án dân sự, tổ chức, cá nhân tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử

dụng pháp luật và áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự để đảm

bảo cho các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật được thi hành nghiêm

chỉnh trong thực tế. Từ thực tiễn thi hành án dân sự cho thấy thực hiện pháp

luật về cưỡng chế thi hành án dân sự cần có một số điều kiện đảm bảo cơ bản

sau đây:

2.3.1. Điều kiện kinh tế - xã hội

Điều kiện kinh tế - xã hội luôn là yếu tố có ảnh hưởng và đảm bảo cho

hoạt động thi hành án dân sự nói chung, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi

hành án dân sự nói riêng, nhất là đối với đương sự trong quá trình thi hành án.

Thực tế cho thấy rằng điều kiện kinh tế khó khăn sẽ ảnh hưởng nhất định đến

56

khả năng thi hành nghĩa vụ của người phải thi hành án cũng như thực hiện các

thỏa thuận thi hành án của đương sự trong quá trình thi hành án. Đặc biệt là,

khi đương sự không có điều kiện thi hành án thì việc thuyết phục đương sự tự

nguyện thi hành án dân sự cũng gặp nhiều trở ngại; người phải thi hành án

thường có tâm lý trì hoãn, phản kháng, cản trở việc thi hành án, nhất là khi tài

sản bị cưỡng chế là nhà ở, quyền sử dụng đất là tài sản duy nhất của người

phải thi hành án, thậm chí còn phải chịu các chi phí cưỡng chế thi hành án

dân sự. Bên cạnh đó, điều kiện kinh tế - xã hội còn là điều kiện đảm bảo cho

việc xử lý tài sản cưỡng chế thi hành án dân sự, vì thực tế có rất nhiều tài sản

qua nhiều lần đấu giá để thi hành án nhưng không có người mua, thậm chí do

tâm lý xã hội nhiều người ngại mua tài sản thi hành án vì sợ gặp rắc rối, mất

thời gian do phải chờ giao tài sản, chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng

tài sản.... Từ đó, việc quy định pháp luật và thực hiện pháp luật về cưỡng chế

thi hành án dân sự phải thường xuyên được rà soát, đánh giá để hoàn thiện,

đổi mới tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời

kỳ nhất định.

2.3.2. Hệ thống quy phạm pháp luật

Thi hành án dân sự là việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định có

hiệu lực pháp luật để bảo đảm trực tiếp quyền và lợi ích hợp pháp của các bên

đương sự và cá nhân, tổ chức liên quan. Vì vậy, pháp luật là cơ sở quan trọng

để cơ quan thi hành án dân sự và tổ chức, cá nhân liên quan tổ chức thi hành

án nhưng cũng là yếu tố ảnh hưởng, chi phối mang tính quyết định đối với

hiệu quả thi hành án dân sự nói chung, hiệu quả cưỡng chế thi hành án dân sự

nói riêng. Hệ thống quy phạm pháp luật là cơ sở cho chấp hành viên, cơ quan

thi hành án dân sự, tổ chức, cá nhân liên quan trong quá trình cưỡng chế thi

hành án dân sự được quy định trong Luật Thi hành án dân sự, Nghị định số

62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng

57

dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự và các văn bản quy

phạm pháp luật có liên quan (Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật

Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Đất đai, Luật Nhà ở....). Vì vậy, để hoạt

động cưỡng chế thi hành án dân sự có hiệu lực, hiệu quả thì các quy định

pháp luật phải thống nhất, đồng bộ, minh bạch và khả thi. Điều này đòi hỏi

các cơ quan có thẩm quyền phải không ngừng hoàn thiện các quy định

pháp luật, kịp thời bãi bỏ các quy định không khả thi và bổ sung các quy

định mới phù hợp với tình hình, yêu cầu công tác thi hành án (Ví dụ như

trong thời gian tới cần sửa đổi, bổ sung quy định hiện hành về đăng ký tài

sản, đăng ký giao dịch bảo đảm, xử lý vi phạm hành chính, xử lý hình sự

trong thi hành án dân sự thực sự có tính khả thi và đảm bảo tính nghiêm

minh của hoạt động thi hành án).

2.3.3. Tổ chức và hoạt động của hệ thống thi hành án dân sự

Chức năng của cơ quan thi hành án dân sự là tổ chức thi hành các bản

án, quyết định có hiệu lực thi hành nhằm bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý, vì

vậy về nguyên tắc cơ quan thi hành án dân sự phải độc lập, không bị lệ thuộc

vào bất cứ cá nhân, tổ chức nào. Bản án, quyết định có hiệu lực thi hành đã

thể hiện rõ phán quyết liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan,

do đó quá trình thi hành án dân sự nói chung, cưỡng chế thi hành án dân sự

nói riêng phải chịu sự giám sát, kiểm sát, kiểm tra, thanh tra của cơ quan có

thẩm quyền và xã hội. Hiệu quả cưỡng chế thi hành án dân sự chỉ đạt được

khi cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên và tổ chức, cá nhân liên quan

thực hiện đúng các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự và các

quy định pháp luật có liên quan, do đó đòi hỏi chấp hành viên, công chức thi

hành án dân sự phải nâng cao trách nhiệm, trung thực, chính trực, chủ động

thi hành án đúng pháp luật, tự kiềm chế lạm dụng địa vị pháp lý của mình,

không bị lệ thuộc vào sự can thiệp, tác động trái pháp luật từ các cơ quan, tổ

58

chức, cá nhân khác để quá trình thi hành án dân sự được khách quan, đúng

pháp luật. Điều này đòi hỏi hệ thống thi hành án dân sự phải được tổ chức và

hoạt động theo mô hình, cơ chế phù hợp, đảm bảo cho việc kiểm tra, thanh

tra, giám sát, kiểm sát có hiệu quả quá trình thi hành án dân sự và cưỡng chế

thi hành án dân sự.

2.3.4. Năng lực tổ chức thi hành án của Chấp hành viên

Pháp luật quy định chấp hành viên là người có thẩm quyền tổ chức thi

hành án với nhiệm vụ, quyền hạn là: Kịp thời tổ chức thi hành vụ việc được

phân công; ra các quyết định về thi hành án theo thẩm quyền; Thi hành đúng

nội dung bản án, quyết định; áp dụng đúng các quy định của pháp luật về

trình tự, thủ tục thi hành án, bảo đảm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích

hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; thực hiện

nghiêm chỉnh chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp chấp hành viên...Với chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn như vậy, chấp hành viên có vai trò trung tâm

trong việc đảm bảo tính khả thi, hiệu quả thi hành các bản án, quyết định

có hiệu lực pháp luật. Điều này cũng có nghĩa là hiệu quả thi hành án dân

sự, hiệu quả cưỡng chế thi hành án dân sự phụ thuộc chủ yếu vào năng lực

tổ chức thi hành án của chấp hành viên (kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm,

phẩm chất chính trị, đạo đức, khả năng áp dụng đúng pháp luật trong thực thi

nhiệm vụ...).

Trong cưỡng chế thi hành án dân sự, năng lực của chấp hành viên thể

hiện qua vai trò của người đảm bảo sự tuân thủ các trình tự, thủ tục thi hành

án dân sự, đặc biệt là ở kinh nghiệm chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp để

lựa chọn và áp dụng đúng các quy định pháp luật để đảm bảo hiệu quả cưỡng

chế thi hành án dân sự. Do đó, để đảm bảo năng lực tổ chức thi hành án, đòi

hỏi chấp hành viên phải là người được đào tạo, bồi dưỡng bài bản, thường

xuyên cả về mặt lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn để kịp thời cập nhật thông

59

tin, tri thức, kinh nghiệm để có thể áp dụng vào việc thực hiện chức năng,

nhiệm vụ thi hành án được giao. Ngoài ra, năng lực tổ chức thi hành án của

chấp hành viên còn được đảm bảo thông qua việc lựa chọn được những chấp

hành viên có đủ các yếu tố về ý thức chính trị, đạo đức như: tuân thủ Hiến

pháp và pháp luật, tuyệt đối trung thành với lý tưởng của Đảng, có bản lĩnh, ý

chí, đạo đức nghề nghiệp, tinh thần kiên quyết bảo vệ công lý, bảo vệ pháp

chế xã hội chủ nghĩa để có thể vững vàng trước sức ép, ảnh hưởng, tác động

từ những tiêu cực của xã hội và sự chỉ đạo, can thiệp trái pháp luật của người

có chức vụ, quyền hạn, những người thân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ

thi hành án dân sự.

Thực tế thời gian qua cho thấy rằng số việc các cơ quan thi hành án dân

sự phải tổ chức thi hành ngày càng tăng, nhất là có nhiều việc thi hành án có

giá trị lớn, phức tạp cần phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án

dân sự, do đó để đảm bảo hiệu quả cưỡng chế thi hành án dân sự thì đội ngũ

chấp hành viên cần được đào tạo, tập huấn thường xuyên để nâng cao trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ, bản lĩnh, trách nhiệm và phải được bố trí, phân công

tổ chức thi hành án phù hợp với từng ngạch chấp hành viên (sơ cấp, trung cấp

và cao cấp). Ngoài ra, để đảm bảo năng lực tổ chức thi hành án của chấp hành

viên thì việc lựa chọn, bổ nhiệm chấp hành viên cần đảm bảo đúng các điều

kiện theo quy định để quá trình tổ chức thi hành án thực sự là quá trình thực

thi công lý, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên, góp phần thúc đẩy

sự phát triển kinh tế - xã hội.

2.3.5. Ý thức chấp hành pháp luật của đương sự và cơ quan, tổ

chức, cá nhân liên quan

Yêu cầu chấp hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định có hiệu lực

pháp luật là nguyên tắc có tính hiến định, do đó, hiệu quả thi hành án cũng

như thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự phụ thuộc nhiều

60

vào ý thức chấp hành pháp luật của các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá

nhân liên quan. Thực tiễn cho thấy rằng các bản án, quyết định được đưa ra

thi hành là kết quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong một

thời gian nhất định, theo đó các đương sự liên quan đã phải tốn nhiều thời

gian, chi phí cho quá trình tố tụng, do đó đến giai đoạn thi hành án nếu các

đương sự nhận thức đầy đủ được trách nhiệm, nghĩa vụ thi hành án và tự

nguyện, tích cực phối hợp thi hành thì sẽ tạo thuận lợi, đảm bảo hiệu quả

thi hành án.

Trong quá trình thi hành án dân sự, đặc biệt là việc cưỡng chế thi hành

án dân sự trong những vụ án lớn ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền tài sản

của người phải thi hành án nên tâm lý, thái độ của đương sự đối với việc thi

hành án thường có tính đối ngược nhau. Người được thi hành án mong muốn

nhanh chóng thu hồi được nợ, trong khi người phải thi hành án mặc dù có

điều kiện thi hành án nhưng thường có tâm lý trì hoãn, cản trở, tìm mọi cách

kéo dài quá trình thi hành án. Do đó, để nâng cao hiệu quả cưỡng chế thi hành

án dân sự thì chấp hành viên không chỉ phải làm tốt công tác xác minh, thực

hiện đúng các trình tự, thủ tục pháp luật quy định mà còn chú ý làm tốt công

tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật để đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân

liên quan nhận thức đúng đắn quyền, nghĩa vụ về thi hành án theo quy định

pháp luật, từ đó tích cực phối hợp, giảm thiểu sự cản trở, can thiệp trái pháp

luật vào quá trình thi hành án cũng như khiếu nại, tố cáo trong quá trình tổ

chức cưỡng chế thi hành án dân sự (Thực tế có những trường hợp cơ quan,

tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trì hoãn, không phối hợp cưỡng chế thi

hành án dân sự, thậm chí có văn bản yêu cầu hoãn, tạm dừng ngay trước

thời điểm tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự không đúng quy định của

pháp luật), đặc biệt là hạn chế việc phải tổ chức cưỡng chế thi hành án dân

sự hoặc nếu phải cưỡng chế thì giảm thiểu khả năng phải huy động lực

61

lượng tham gia cưỡng chế và những khiếu nại, tố cáo không đúng sự thật

nhằm kéo dài việc thi hành án.

2.3.6. Các điều kiện đảm bảo cho hoạt động của Chấp hành viên,

Cơ quan thi hành án dân sự

Quá trình tổ chức thi hành án, cưỡng chế thi hành án dân sự là quá trình

chấp hành viên phải đối mặt với nhiều khó khăn, áp lực như: yêu cầu tuân thủ

pháp luật, sự cản trở, chống đối của người phải thi hành án; sự tác động, chi phối

của các cơ quan, tổ chức liên quan...Do đó, để chấp hành viên thực sự độc lập,

tuân thủ pháp luật trong quá trình thi hành án cũng như đảm bảo hiệu quả thi

hành án thì các điều kiện đảm bảo cho hoạt động của chấp hành viên có ý nghĩa

quan trọng. Đó là các điều kiện vật chất, phương tiện, trang thiết bị phục vụ công

tác thi hành án dân sự và chế độ đãi ngộ đối với chấp hành viên, công chức thi

hành án dân sự như trụ sở, kho tang vật, phương tiện cưỡng chế, công cụ hỗ trợ

cưỡng chế thi hành án dân sự…Thực tế hiện nay cho thấy rằng các cơ quan thi

hành án dân sự đã được trang bị một số công cụ, trang thiết bị hỗ trợ thi hành án

nhưng chưa thực sự đáp ứng yêu cầu, chưa tương xứng với thẩm quyền của chấp

hành viên (hiện nay chấp hành viên không có quyền khởi tố hành vi không chấp

hành án; không có quyền khám người, khám chỗ ở để tìm đồ vật, tài sản có giá

trị mà đương sự đang cầm giữ, cất giấu...), vì vậy nếu không có sự hỗ trợ của các

cơ quan, tổ chức khác thì chấp hành viên không thể thực hiện pháp luật về cưỡng

chế thi hành án dân sự có hiệu quả. Vì vậy, trong thời gian tới để đảm bảo hiệu

quả thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự thì cần có những đảm

bảo hơn nữa về điều kiện vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ công tác

thi hành án dân sự với những đặc thù nhất định.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Chương này đã tập trung phân tích cơ sở lý luận của thực hiện pháp luật

về cưỡng chế thi hành án dân sự, theo đó thi hành án là hoạt động đảm bảo

62

thực hiện đầy đủ, kịp thời quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức theo bản

án, quyết định có hiệu lực thi hành. thi hành án dân sự là hoạt động đảm bảo

thực hiện đầy đủ, kịp thời bản án, quyết định về dân sự có hiệu lực thi hành

theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Cưỡng chế thi hành án dân sự là việc

chủ thể có thẩm quyền thực hiện biện pháp cưỡng chế theo trình tự, thủ tục

pháp luật quy định để bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định

về dân sự có hiệu lực thi hành.

Bản chất cưỡng chế thi hành án dân sự là hoạt động của chủ thể có

thẩm quyền sử dụng quyền lực nhà nước làm chấm dứt, hạn chế: quyền sở

hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng tài sản của người phải thi hành án (kể

cả tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ) hoặc buộc

người phải thi hành án thực hiện hành vi hợp pháp hay chấm dứt hành vi trái

pháp luật trên cơ sở bản án, quyết định dân sự có hiệu lực thi hành.

Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự là hệ thống các quy phạm

pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các

quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự bao

gồm quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể có thẩm quyền áp dụng

biện pháp cưỡng chế; trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế và quyền,

nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân liên quan đến cưỡng chế thi hành án dân sự.

Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự là quá trình hoạt động

có mục đích làm cho các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự

đi vào cuộc sống và trở thành những hành vi thực tế của đương sự, cơ quan,

tổ chức, cá nhân liên quan trong thi hành án dân sự nhằm đảm bảo thi hành

nghiêm chỉnh bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.

Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự có đặc điểm là:

đảm bảo tính độc lập và đề cao tính chủ động của cơ quan thi hành án dân sự

và chấp hành viên; đảm bảo tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự,

63

bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội; phải trên cơ sở các trình tự, thủ tục

được pháp luật quy định. Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân

sự được thể hiện qua 4 hình thức cơ bản là: tuân thủ pháp luật về cưỡng chế

thi hành án dân sự; thi hành pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự; sử

dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự; áp dụng pháp luật về cưỡng

chế thi hành án dân sự.

Nội dung thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự gồm:

thực hiện quy định của pháp luật về tổ chức thi hành án dân sự; thực hiện nội

dung quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, cưỡng chế thi hành án dân sự và

thực hiện các quy định của pháp luật đối với hoạt động cưỡng chế thi hành án

dân sự. Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự có một số vai trò

là: bảo đảm thực thi pháp luật; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà

nước, đương sự và tổ chức, cá nhân liên quan; góp phần nâng cao ý thức pháp

luật về thi hành án dân sự của đương sự và cá nhân, tổ chức và tăng cường

pháp chế; góp phần nâng cao hiệu quả của công tác điều tra, truy tố, xét xử và

thi hành án dân sự.

Hiệu quả thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự cần có

một số điều kiện đảm bảo là: điều kiện kinh tế - xã hội; tổ chức và hoạt động

của hệ thống thi hành án dân sự; năng lực tổ chức thi hành án của chấp hành

viên; ý thức chấp hành pháp luật của đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân

liên quan và các điều kiện đảm bảo cho hoạt động của chấp hành viên, Cơ

quan thi hành án dân sự.

64

Chương 3

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ

CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM

3.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

Cưỡng chế thi hành án dân sự là cơ sở đảm bảo thi hành nghiêm chỉnh

các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, vì vậy, hiệu lực, hiệu quả cưỡng

chế thi hành án dân sự luôn được bảo đảm bằng việc hoàn thiện các quy định

pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự trong quá trình hoàn thiện pháp

luật thi hành án dân sự. Nghiên cứu lịch sử pháp luật thi hành án dân sự ở

nước ta từ năm 1945 đến nay, có thể thấy rằng các quy định pháp luật về

cưỡng chế thi hành án dân sự ngày càng hoàn thiện, cụ thể như: Sắc lệnh số

13 ngày 20/11/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng

hòa về tổ chức các tòa án và các ngạch Thẩm phán; Pháp lệnh thi hành án dân

sự năm 1989; Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993; Pháp lệnh thi hành án

dân sự năm 2004; Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và Luật Thi hành án dân

sự sửa đổi, bổ sung năm 2014. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu, Luận án

tập trung phân tích thực trạng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự theo

Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) và các văn

bản hướng dẫn thi hành với những nội dung cơ bản như sau:

3.1.1. Về thẩm quyền cưỡng chế thi hành án dân sự

Theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam hiện nay thì

chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền tiến hành cưỡng

chế thi hành án dân sự. Tuy nhiên, để đảm bảo thẩm quyền cưỡng chế của

chấp hành viên, pháp luật đã quy định về cơ cấu tổ chức của hệ thống thi hành

án dân sự; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự nơi chấp hành

viên làm việc và của chấp hành viên; về những việc chấp hành viên không

65

được làm; về việc tuyển chọn chấp hành viên; cơ sở pháp lý để chấp hành

viên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình và các điều kiện đảm bảo cho

chấp hành viên áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Ví dụ

như theo quy định của Điều 20, Chấp hành viên có quyền "Quyết định áp

dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án; lập kế

hoạch cưỡng chế thi hành án; thu giữ tài sản thi hành án". Để đảm bảo tính

chuyên nghiệp của chấp hành viên trong thi hành án dân sự, pháp luật có sự

phân định thẩm quyền cưỡng chế của chấp hành viên các ngạch chấp hành

viên (chấp hành viên sơ cấp, chấp hành viên trung cấp và chấp hành viên cao

cấp), theo đó:

- Chấp hành viên sơ cấp là công chức chuyên môn nghiệp vụ thi hành án

dân sự, có trách nhiệm trực tiếp tổ chức thi hành án đối với những vụ việc đơn

giản, lượng tiền, tài sản phải thi hành án có giá trị nhỏ thuộc thẩm quyền thi

hành của Cục thi hành án dân sự, Chi cục thi hành án dân sự và Phòng thi

hành án cấp quân khu.

- Chấp hành viên trung cấp là công chức chuyên môn nghiệp vụ thi hành

án dân sự, trực tiếp tổ chức thi hành các vụ việc thi hành án dân sự phức tạp,

số tiền, tài sản phải thi hành lớn; việc thi hành án liên quan đến nhiều địa

phương thuộc thẩm quyền thi hành của Cục thi hành án dân sự, Chi cục thi

hành án dân sự và Phòng thi hành án cấp quân khu.

- Chấp hành viên cao cấp là công chức chuyên môn nghiệp vụ thi hành

án dân sự trực tiếp thi hành những vụ việc thi hành án dân sự đặc biệt phức

tạp, có liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều địa phương hoặc có yếu

tố nước ngoài thuộc thẩm quyền của Cục thi hành án dân sự và Phòng thi

hành án cấp quân khu.

Việc quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của chấp hành viên như vậy là

cơ sở cho các cơ quan quản lý thi hành án dân sự và cơ quan thi hành án dân

66

sự tuyển chọn, bố trí hợp lý chấp hành viên để đảm bảo hiệu quả thi hành án

dân sự nói chung, hiệu quả thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân

sự nói riêng.

3.1.2. Trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành án dân sự

Thi hành án dân sự nói chung, cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng

liên quan trực tiếp đến các quyền cơ bản của cá nhân, tổ chức, đặc biệt là các

quyền về tài sản, vì vậy pháp luật quy định cụ thể về các biện pháp cưỡng

chế; căn cứ, điều kiện, nguyên tắc cưỡng chế và trình tự, thủ tục áp dụng các

biện pháp cưỡng chế để tạo cơ sở cho chấp hành viên lựa chọn áp dụng cũng

như các nhân, tổ chức liên quan thực hiện, giám sát thực hiện cưỡng chế thi

hành án dân sự từ xã hội. Cụ thể là:

3.1.2.1. Các biện pháp cưỡng chế

Theo quy định của Điều 71 Luật Thi hành án dân sự thì có 06 biện pháp

cưỡng chế thi hành án dân sự. Cụ thể là:

Thứ nhất, khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá

của người phải thi hành án.

- Khấu trừ tiền trong tài khoản:

Pháp luật quy định biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản

được bảo đảm thực hiện bằng việc chấp hành viên ra quyết định khấu trừ tiền

trong tài khoản của người phải thi hành án. Số tiền khấu trừ không được vượt

quá nghĩa vụ thi hành án và chi phí cưỡng chế. Quyết định khấu trừ tiền trong

tài khoản phải ghi rõ ngày, tháng, năm ban hành quyết định; căn cứ ban hành

quyết định; tên tài khoản, số tài khoản của người phải thi hành án; tên, địa chỉ

Kho bạc Nhà nước, tổ chức tín dụng nơi mở tài khoản; số tiền phải khấu

trừ; tên tài khoản, số tài khoản của cơ quan thi hành án dân sự nhận khoản

tiền bị khấu trừ; thời hạn thực hiện việc khấu trừ. Trường hợp đối tượng bị

cưỡng chế có mở tài khoản tiền gửi tại nhiều Kho bạc Nhà nước, tổ chức

67

tín dụng khác nhau thì chấp hành viên căn cứ số dư tài khoản để quyết định

áp dụng biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản đối với một

hoặc nhiều tài khoản để đảm bảo thu đủ tiền phải thi hành án và chi phí

cưỡng chế thi hành án, nếu có. Ngay sau khi nhận được quyết định về khấu

trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành án, cơ quan, tổ chức đang

quản lý tài khoản phải khấu trừ tiền để chuyển vào tài khoản của cơ quan

thi hành án dân sự hoặc chuyển cho người được thi hành án theo quyết định

khấu trừ. Kho bạc Nhà nước, tổ chức tín dụng có trách nhiệm thực hiện

ngay quyết định khấu trừ tiền trong tài khoản; nếu không thực hiện ngay

mà đương sự tẩu tán tiền trong tài khoản dẫn đến việc không thể thi hành

được cho người được thi hành án thì phải bồi thường thiệt hại theo quy

định của pháp luật.

- Thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án

Pháp luật quy định biện pháp thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của

người phải thi hành án được thực hiện thông qua việc thu hồi và xử lý tiền,

giấy tờ có giá của người phải thi hành án.

Thu hồi, xử lý tiền của người phải thi hành án được áp dụng khi xác

định người phải thi hành án có thu nhập từ hoạt động kinh doanh. Để thu tiền

từ hoạt động kinh doanh, chấp hành viên có thể thực hiện định kỳ hàng ngày,

tuần, tháng, quý hoặc năm tùy theo tính chất ngành, nghề kinh doanh của

người phải thi hành án và phải trên cơ sở xác định mức tiền thu từ hoạt động

kinh doanh của người phải thi hành án thông qua sổ sách, giấy tờ và tình hình

kinh doanh thực tế của người phải thi hành án. Tuy nhiên, pháp luật cũng quy

định khi thu tiền từ hoạt động kinh doanh, chấp hành viên phải để lại số tiền

tối thiểu cho hoạt động kinh doanh và sinh hoạt của người phải thi hành án và

gia đình theo quy định pháp luật của từng ngành nghề kinh doanh và mức

sống thực tế ở từng địa phương.

68

Thu hồi, xử lý giấy tờ có giá của người phải thi hành án được áp dụng

khi xác định được người phải thi hành án hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân đang

giữ giấy tờ có giá của người phải thi hành án. Để thu hồi, xử lý giấy tờ có giá

của người phải thi hành án thì chấp hành viên phải ra quyết định thu giữ giấy

tờ đó để thi hành án. Người phải thi hành án hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân

giữ giấy tờ có giá của người phải thi hành án phải chuyển giao giấy tờ đó cho

cơ quan thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật. Trường hợp người

phải thi hành án hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân giữ giấy tờ có giá không giao

giấy tờ cho cơ quan thi hành án dân sự thì chấp hành viên yêu cầu cơ quan, tổ

chức có thẩm quyền chuyển giao giá trị của giấy tờ đó để thi hành án.

Thứ hai, trừ vào thu nhập của người phải thi hành án

Thu nhập của người phải thi hành án gồm tiền lương, tiền công, tiền

lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao động và thu nhập hợp pháp khác. Việc

trừ vào thu nhập của người phải thi hành án được thực hiện trong trường

hợp: Theo thỏa thuận của đương sự; bản án, quyết định ấn định trừ vào thu

nhập của người phải thi hành án; thi hành án cấp dưỡng, thi hành án theo

định kỳ, khoản tiền phải thi hành án không lớn hoặc tài sản khác của người

phải thi hành án không đủ để thi hành án. Mức cao nhất được trừ vào tiền

lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao động là 30% tổng

số tiền được nhận hàng tháng, trừ trường hợp đương sự có thỏa thuận khác;

đối với thu nhập khác thì mức khấu trừ căn cứ vào thu nhập thực tế của

người phải thi hành án nhưng phải đảm bảo điều kiện sinh hoạt tối thiểu

của người đó và người được nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật. Cơ

quan, tổ chức, người sử dụng lao động, Bảo hiểm xã hội nơi người phải thi

hành án nhận tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp và các thu

nhập hợp pháp khác có trách nhiệm thực hiện việc khấu trừ thu nhập của

người phải thi hành án.

69

Thứ ba, kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản

đang do người thứ ba giữ.

Quy định pháp luật về biện pháp cưỡng chế này thể hiện ở các nội dung

như: các loại tài sản không được kê biên; trình tự, thủ tục kê biên; thứ tự kê

biên (Chỉ kê biên, xử lý đối với tài sản chung là quyền sử dụng đất, nhà ở và

tài sản khác gắn liền với đất khi các tài sản khác không đủ để thi hành án hoặc

khi có đề nghị của đương sự; chỉ kê biên quyền sử dụng đất của người phải thi

hành án thuộc trường hợp được chuyển quyền sử dụng theo quy định của

pháp luật về đất đai, người phải thi hành án chưa được cấp giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất mà thuộc trường hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai hoặc thuộc diện quy hoạch

phải thu hồi đất nhưng chưa có quyết định thu hồi đất thì vẫn được kê biên,

xử lý quyền sử dụng đất đó); kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án

đang cầm cố, thế chấp; kê biên đồ vật đang bị khóa hoặc đóng gói; kê biên

nhà ở là nơi ở duy nhất của người phải thi hành án và gia đình; việc định giá,

bán đấu giá tài sản kê biên…

Thứ tư, khai thác tài sản của người phải thi hành án

Cưỡng chế khai thác tài sản của người phải thi hành án được áp dụng

trong hai trường hợp là: Tài sản của người phải thi hành án có giá trị quá

lớn so với nghĩa vụ phải thi hành và tài sản đó có thể khai thác để thi hành

án; người được thi hành án đồng ý cưỡng chế khai thác tài sản để thi hành

án nếu việc khai thác tài sản không ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp

của người thứ ba. Về cách thức tiến hành, chấp hành viên ra quyết định

cưỡng chế khai thác tài sản. Quyết định ghi rõ hình thức khai thác; số tiền,

thời hạn, thời điểm, địa điểm, phương thức nộp tiền cho cơ quan thi hành

án dân sự để thi hành án. Quyết định cưỡng chế khai thác tài sản phải được

gửi ngay cho cơ quan có thẩm quyền quản lý, đăng ký đối với tài sản đó và

70

Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản. Việc thực hiện giao dịch, chuyển

giao quyền sở hữu tài sản đối với tài sản đang khai thác phải được sự đồng

ý của chấp hành viên…

Thứ năm, buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ.

- Cưỡng chế buộc chuyển giao vật được thực hiện để thi hành nghĩa vụ

trả vật được áp dụng khi người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ trả

vật theo bản án, quyết định hoặc giao vật cho người mua được tài sản là vật

đã kê biên, bán để thi hành án hoặc nhận vật để trừ vào số tiền được thi hành

án. Chỉ áp dụng biện pháp cưỡng chế giao vật sau khi đã hết thời hạn tự

nguyện thi hành án, trừ trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có

hành vi tẩu tán, huỷ hoại vật hoặc có hành vi khác trốn tránh việc thi hành án.

Việc cưỡng chế trả vật đối với vật đặc định được thực hiện theo phương thức

chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành án, người đang quản lý, sử dụng

trả vật cho người được thi hành án; nếu người đó không thi hành thì chấp

hành viên thu hồi vật để trả cho người được thi hành án; trường hợp vật phải

trả giảm giá trị mà người được thi hành án không đồng ý nhận thì chấp hành

viên hướng dẫn đương sự thỏa thuận việc thi hành án. Trường hợp đương sự

không thỏa thuận được thì chấp hành viên cưỡng chế trả vật cho người được

thi hành án; đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết về thiệt

hại do vật phải trả bị giảm giá trị….

- Cưỡng chế buộc chuyển giao quyền tài sản (được thực hiện chủ yếu

đối với quyền sử dụng đất), theo đó biện pháp này nhằm để thi hành nghĩa vụ

buộc phải chuyển giao quyền tài sản cho người được thi hành án hoặc cho

người mua trúng đấu giá tài sản. Biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ

chuyển giao chuyển giao quyền tài sản được áp dụng khi có đủ các điều kiện

sau: Người phải thi hành án có nghĩa vụ chuyển giao tài sản theo bản án,

quyết định hoặc theo quy định của pháp luật; đã hết thời hạn chấp hành viên

71

ấn định cho người phải thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc người phải thi

hành án có hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án.

- Cưỡng chế buộc chuyển giao giấy tờ được áp dụng cơ bản giống như

trong trường hợp cưỡng chế trả vật. Tuy nhiên, cũng có trường hợp qua xác

minh thì giấy tờ đó không còn hoặc người phải thi hành án cố tình không

giao. Vì vậy, khi áp dụng biện pháp cưỡng chế trả giấy tờ, chấp hành viên xác

minh điều kiện thi hành án xem giấy tờ đó do ai giữ, nếu xác định người thứ

ba đang giữ giấy tờ phải trả thì chấp hành viên yêu cầu người đó giao giấy tờ

đang giữ, nếu người thứ ba không tự nguyện giao thì chấp hành viên cưỡng

chế buộc người đó giao giấy tờ để thi hành án. Tuy nhiên, pháp luật cũng quy

định trường hợp giấy tờ không thể thu hồi được nhưng cơ quan có thẩm

quyền có thể cấp lại được thì chấp hành viên yêu cầu cơ quan, tổ chức có

thẩm quyền thông báo thời gian mà người giữ giấy tờ đó giao lại, nếu trong

thời hạn thông báo mà người giữ giấy tờ đó không giao thì ra quyết định huỷ

giấy tờ đó và cấp giấy tờ mới cho người được thi hành án…

Thứ sáu, buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực

hiện công việc nhất định.

Đối với cưỡng chế buộc thực hiện công việc nhất định, pháp luật quy

định công việc phải thực hiện phải được thể hiện trong bản án, quyết định,

theo đó nếu người phải thi hành án không thực hiện thì chấp hành viên quyết

định phạt tiền và ấn định thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định

phạt tiền để người đó thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Hết thời hạn đã ấn định

mà người phải thi hành án không thực hiện nghĩa vụ thi hành án thì trong

trường hợp công việc đó có thể giao cho người khác thực hiện thay, chấp

hành viên giao cho người có điều kiện thực hiện, chi phí thực hiện do người

phải thi hành án chịu; trường hợp công việc đó phải do chính người phải thi

hành án thực hiện thì chấp hành viên đề nghị cơ quan có thẩm quyền truy cứu

72

trách nhiệm hình sự về tội không chấp hành án (ví dụ như: cưỡng chế nhận

người lao động trở lại làm việc; cưỡng chế giao con dấu của doanh nghiệp

cho người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp...).

Đối với cưỡng chế buộc không được thực hiện công việc nhất định, pháp

luật quy định khi người phải thi hành án không tự nguyện chấm dứt việc thực

hiện công việc mà theo bản án, quyết định họ không được thực hiện thì chấp

hành viên ra quyết định phạt tiền đối với người đó, trong trường hợp cần thiết

có thể yêu cầu họ khôi phục hiện trạng ban đầu. Trường hợp người đó vẫn

không chấm dứt công việc không được làm, không khôi phục lại hiện trạng

ban đầu, chấp hành viên đề nghị cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm

hình sự về tội không chấp hành án.

3.1.2.2. Căn cứ, điều kiện, nguyên tắc cưỡng chế thi hành án dân sự

- Căn cứ cưỡng chế thi hành án dân sự:

Theo quy định pháp luật hiện hành, căn cứ cưỡng chế thi hành án dân sự

gồm có:

+ Bản án, quyết định có hiệu lực thi hành: Đây là căn cứ làm phát sinh

quyền và nghĩa vụ dân sự của các chủ thể liên quan được cơ quan có thẩm

quyền xét xử, giải quyết tranh chấp (Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội

đồng xử lý vụ việc cạnh tranh). Bởi vì, thực tế trong đời sống xã hội, các

chủ thể có thể tham gia nhiều quan hệ pháp luật, các giao dịch hay có hành

vi vi phạm pháp luật làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự nhưng chỉ khi

các mối quan hệ, tranh chấp phát sinh được giải quyết, xét xử thông qua cơ

quan có thẩm quyền nêu trên thì mới có căn cứ làm phát sinh các quan hệ

pháp luật trong hoạt động thi hành án dân sự nói chung, cưỡng chế thi hành

án dân sự nói riêng.

+ Quyết định thi hành án: Sau khi bản án, quyết định có hiệu lực thi

hành thì Tòa án, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Trọng tài thương mại đã

73

ra bản án, quyết định cấp cho đương sự (có ghi "Để thi hành") và chuyển giao

cho cơ quan thi hành án dân sự (Điều 27 và Điều 28, Luật Thi hành án dân

sự) Trên cơ sở bản án, quyết định có hiệu lực thi hành, để khởi động cho quá

trình thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền

phải ra "Quyết định thi hành án" (chủ động hoặc theo đơn yêu cầu). Hay nói

cách khác, Quyết định thi hành án là cơ sở để tiến hành các trình tự, thủ tục

thi hành án dân sự, nếu không ban hành "Quyết định thi hành án" thì không

thể tiến hành thực hiện các trình tự, thủ tục thi hành án nói chung và trình tự,

thủ tục cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng.

+ Quyết định cưỡng chế: Trên cơ sở quyết định thi hành án, chấp hành

viên thực hiện các trình tự, thủ tục pháp luật quy định (xác minh điều kiện thi

hành án; thuyết phục, động viên đương sự tự nguyện thi hành..). Về nguyên

tắc, Nhà nước khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án; người phải thi

hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng

chế thi hành án theo quy định pháp luật (Điều 4, Luật Thi hành án dân sự), do

đó khi phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự thì cơ quan thi

hành án dân sự phải ban hành quyết định cưỡng chế thi hành án - thể hiện ý

chí của cơ quan thi hành án dân sự về việc buộc người phải thi hành án và các

chủ thể liên quan phải chấp hành.

- Điều kiện cưỡng chế thi hành án dân sự:

Cưỡng chế thi hành án dân sự là giải pháp cuối cùng sau khi chấp hành

viên xác minh người phải thi hành án có điều kiện thi hành và đã thuyết phục,

đôn đốc người phải thi hành án tự nguyện thi hành nhưng không có kết quả. Như

vậy, để áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự thì cần có các điều kiện

cơ bản như: người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc phải

thực hiện hành vi theo bản án, quyết định có hiệu lực thi hành; người phải thi

hành án có điều kiện thi hành án; người phải thi hành án không tự nguyện thi

74

hành. Ngoài các điều kiện nêu trên, để đảm bảo hiệu quả cưỡng chế thi hành án

dân sự trên thực tế thì chủ thể có thẩm quyền cưỡng chế còn xác minh các điều

kiện khác như: nhân thân của người phải thi hành án; khả năng cản trở, chống

đối của người phải thi hành án, gia đình người phải thi hành án và những người

liên quan; sự ủng hộ của dư luận xã hội, chính quyền địa phương; điều kiện giao

thông, địa hình nơi tổ chức cưỡng chế; sự ảnh hưởng của việc tổ chức cưỡng chế

đối với tình hình an ninh, trật tự tại địa phương…để phối hợp với các cơ quan, tổ

chức liên quan tổ chức việc cưỡng chế thi hành án dân sự.

- Nguyên tắc cưỡng chế thi hành án dân sự:

Quá trình thi hành án dân sự liên quan trực tiếp đến các quyền cơ bản

của công dân (quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, quyền có việc làm, quyền

nhân thân …) nên để đáp ứng yêu cầu thi hành nghiêm minh bản án, quyết

định có hiệu lực thi hành, sự bình đẳng của các đương sự cũng như nguyên

tắc nhân đạo, phù hợp với văn hóa, phong tục, tập quán của từng địa phương

thì ngoài các căn cứ, điều kiện nêu trên, việc cưỡng chế thi hành án dân sự

còn phải tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản như: Chủ thể có thẩm quyền chỉ

được áp dụng biện pháp cưỡng chế pháp luật quy định; không được áp dụng

biện pháp cưỡng chế trong thời gian và trường hợp pháp luật cấm; việc cưỡng

chế thi hành án dân sự phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành

án và các chi phí cần thiết khác.

Riêng đối với biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người

phải thi hành án, thực tế đây là biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được

áp dụng chủ yếu trong thi hành án dân sự và liên quan trực tiếp đến các quyền

tài sản của cá nhân, tổ chức nên ngoài các nguyên tắc nêu trên, việc áp dụng

biện pháp kê biên, xử lý tài sản phải trên cơ sở xác định thứ tự tài sản kê biên

để đảm bảo thi hành án. Trên cơ sở pháp luật hiện hành, có thể xác định thứ

tự tài sản bị kê biên như sau:

75

+ Tài sản đương sự tự nguyện đề nghị kê biên trong số nhiều tài sản mà

không gây trở ngại cho việc thi hành án và tài sản đó đủ để thi hành án, các

chi phí liên quan.

+ Tài sản bị bản án, quyết định tuyên kê biên để đảm bảo thi hành án.

+ Tài sản riêng của người phải thi hành án.

+ Tài sản thuộc sở hữu chung của người phải thi hành án với người

khác. Riêng đối với tài sản là quyền sử dụng đất, nhà ở và tài sản khác gắn

liền với đất, chấp hành viên chỉ được kê biên khi các tài sản khác không đủ để

thi hành án hoặc khi có đề nghị của đương sự.

+ Tài sản đang cầm cố, thế chấp nếu người phải thi hành án không

còn tài sản nào khác hoặc có tài sản nhưng không đủ để thi hành án, nếu

giá trị của tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế

thi hành án.

+ Nhà ở là nơi ở duy nhất của người phải thi hành án và gia đình nếu

người phải thi hành án không có các tài sản khác hoặc có nhưng không đủ để

thi hành án, trừ trường hợp người phải thi hành án đồng ý kê biên nhà ở để thi

hành án.

+ Tài sản của doanh nghiệp, cơ quan thi hành án dân sự chỉ kê biên tài

sản khác của doanh nghiệp phải thi hành án, nếu sau khi đã khấu trừ tài

khoản, xử lý vàng, bạc, đá quý, kim khí quý khác, giấy tờ có giá của doanh

nghiệp đang do doanh nghiệp quản lý hoặc đang do người thứ ba giữ mà vẫn

không đủ để thi hành án, trừ trường hợp bản án, quyết định có quyết định

khác hoặc đương sự có thỏa thuận khác.

3.1.2.3. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án

dân sự

Để đảm bảo hiệu quả cưỡng chế thi hành án dân sự, pháp luật quy định

các trình tự, thủ tục chung để tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự, cụ thể là:

76

- Ra quyết định cưỡng chế và thông báo về việc cưỡng chế:

Để tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự, chấp hành viên ra quyết định

cưỡng chế. Quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự phải thể hiện biện pháp

cưỡng chế được lựa chọn áp dụng; chủ thể bị cưỡng chế; tài sản bị cưỡng chế.

Căn cứ vào các biện pháp cưỡng chế được pháp luật quy định, chấp

hành viên có thể ra nhiều loại quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự tùy

theo từng trường hợp cụ thể cần cưỡng chế. Đó có thể là: Quyết định khấu trừ

tiền trong tài khoản để thi hành án, quyết định thu tiền của người phải thi

hành án đang do người thứ ba giữ, quyết định thu giữ giấy tờ có giá của người

phải thi hành án, quyết định trừ vào thu nhập, quyết định thu tiền từ hoạt động

kinh doanh của người phải thi hành án, quyết định thu tiền của người phải thi

hành án, quyết định cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản, quyết định cưỡng chế kê

biên quyền sở hữu trí tuệ, quyết định cưỡng chế trả vật, quyết định cưỡng chế

giao nhà, trả nhà, quyết định cưỡng chế trả giấy tờ, quyết định cưỡng chế

buộc giao người chưa thành niên cho người được nuôi dưỡng, quyết định

cưỡng chế khai thác tài sản, quyết định cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng

đất, quyết định cưỡng chế buộc thực hiện công việc, quyết định cưỡng chế

không được thực hiện công việc, quyết định cưỡng chế nhận người lao động

trở lại làm việc.

Sau khi ra quyết định cưỡng chế, chấp hành viên phải thông báo cho

người phải thi hành án, người được thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa

vụ liên quan để họ thực hiện quyền lợi, nghĩa vụ của mình. Việc thông báo

phải thực hiện trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra văn bản, trừ

trường hợp cần ngăn chặn đương sự tẩu tán, huỷ hoại tài sản, trốn tránh việc

thi hành án. Đồng thời, quyết định cưỡng chế phải được gửi cho Viện kiểm

sát nhân dân cùng cấp và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tổ chức cưỡng chế hoặc

cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc thực hiện quyết định cưỡng chế (tùy

77

từng trường hợp, việc thông báo có thể được thực hiện theo các hình thức

như: Thông báo trực tiếp hoặc qua cơ quan, tổ chức, cá nhân khác theo quy

định của pháp luật; niêm yết công khai; thông báo trên các phương tiện thông

tin đại chúng).

- Xác minh điều kiện cưỡng chế thi hành án dân sự:

Xác minh điều kiện cưỡng chế có ý nghĩa rất quan trọng để bảo đảm cho

việc thực hiện cưỡng chế thành công. Xác minh điều kiện cưỡng chế có thể

được tiến hành tại nơi sinh sống, thường trú, nơi làm việc của người phải thi

hành án; xác minh về nhận thức hiểu biết pháp luật, khả năng chống đối, cản

trở thi hành án của người phải thi hành án và gia đình họ (có thách thức,

chuẩn bị lực lượng chống đối, phương tiện chống đối hay không…); xác minh

nơi cơ quan, tổ chức bị cưỡng chế có trụ sở và thành lập; người đại diện theo

pháp luật của cơ quan, tổ chức đó; xác minh về quan điểm của chính quyền

địa phương và thái độ của dư luận đối với việc cưỡng chế, sự đồng tình với

bản án, quyết định; đặc điểm dân cư, giao thông tại nơi cưỡng chế ….để từ đó

có phương án cưỡng chế phù hợp, bảo đảm cho việc cưỡng chế thành công.

- Lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án dân sự: Theo Luật thi hành án dân

sự hiện hành thì kể từ ngày 01/7/2015 (ngày Luật Thi hành án dân sự năm

2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 có hiệu lực) chấp hành viên lập kế hoạch

cưỡng chế thi hành án dân sự trong trường hợp cần huy động lực lượng chứ

không phải trong bất kỳ trường hợp nào như trước đó và bổ sung kế hoạch

cưỡng chế thi hành án dân sự phải có tên người bị áp dụng biện pháp

cưỡng chế. Bởi vậy, căn cứ kết quả xác minh điều kiện cưỡng chế như nêu

trên, chấp hành viên đánh giá tình hình, dự liệu những diễn biến có thể xảy

ra và quyết định việc tổ chức cưỡng chế cần huy động lực lượng hay

không. Trường hợp cưỡng chế cần huy động lực lượng, chấp hành viên

phải lập Kế hoạch cưỡng chế, trong đó thể hiện các nội dung chính như:

78

thời gian, địa điểm cưỡng chế; phương án tiến hành cưỡng chế; yêu cầu về

lực lượng tham gia bảo vệ cưỡng chế và dự trù chi phí cưỡng chế. Kế

hoạch cưỡng chế sau đó phải được gửi cho Viện kiểm sát nhân dân, cơ

quan Công an cùng cấp, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tổ chức cưỡng chế và

cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc cưỡng chế. Cơ quan, tổ

chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm thực hiện theo kế hoạch, yêu cầu

của chấp hành viên. Trên cơ sở kế hoạch cưỡng chế của cơ quan thi hành

án dân sự, cơ quan Công an có trách nhiệm xây dựng kế hoạch và lập

phương án bảo vệ cưỡng chế (bố trí lực lượng, phương tiện cần thiết để giữ

gìn trật tự, bảo vệ hiện trường, kịp thời ngăn chặn, xử lý hành vi tẩu tán tài

sản, cản trở, chống đối việc thi hành án, tạm giữ người chống đối, khởi tố

vụ án hình sự khi có dấu hiệu phạm tội).

- Tổ chức thực hiện quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự:

Trước khi tổ chức việc cưỡng chế thi hành án dân sự, chấp hành viên

phải chuẩn bị các điều kiện phục vụ cho việc cưỡng chế (các loại biên bản; hồ

sơ thi hành án...). Đồng thời, đối với tài sản là bất động sản thì trước khi kê

biên ít nhất là 03 ngày làm việc, chấp hành viên phải thông báo cho đại diện

chính quyền cấp xã hoặc đại diện tổ dân phố nơi tổ chức cưỡng chế, đương

sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm, tài sản kê

biên, trừ trường hợp cần ngăn chặn đương sự tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn

tránh việc thi hành án. Trường hợp đương sự vắng mặt thì có thể ủy quyền

cho người khác thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình. Trường hợp đã được

thông báo hợp lệ mà đương sự hoặc người được ủy quyền vắng mặt thì chấp

hành viên vẫn tiến hành việc kê biên, nhưng phải mời người làm chứng và

ghi rõ vào nội dung biên bản kê biên. Trường hợp không mời được người làm

chứng thì chấp hành viên vẫn tiến hành việc kê biên nhưng phải ghi rõ vào

nội dung biên bản kê biên.

79

Khi tiến hành cưỡng chế, chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành

án tự nguyện thi hành quyết định cưỡng chế. Nếu người phải thi hành án tự

nguyện thi hành hoặc thỏa thuận được với người được thi hành án về việc

thi hành án thì chấp hành viên lập biên bản về sự tự nguyện hoặc thỏa

thuận đó. Nếu người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì chấp

hành viên công bố quyết định cưỡng chế, giới thiệu thành phần tham gia kê

biên và yêu cầu các lực lượng tham gia kê biên làm nhiệm vụ theo kế

hoạch đã được phân công.

Việc cưỡng chế phải được thể hiện trong biên bản cưỡng chế, ghi đầy đủ

nội dung theo đúng mẫu quy định như: giờ, ngày, tháng, năm; họ, tên chấp

hành viên đương sự hoặc người được ủy quyền, người lập biên bản, người

làm chứng và người có liên quan đến tài sản cưỡng chế; diễn biến của việc

cưỡng chế; yêu cầu của đương sự và ý kiến của người làm chứng.

- Giao bảo quản tài sản đã cưỡng chế:

Thực tế cho thấy việc cưỡng chế được thực hiện thông qua biện pháp kê

biên tài sản của người phải thi hành án nên, khi thực hiện việc cưỡng chế kê

biên tài sản, chấp hành viên còn phải thực hiện thủ tục giao bảo quản tài sản

đã cưỡng chế. Pháp luật quy định sau khi cưỡng chế kê biên tài sản và chờ

quyết định về việc xử lý tài sản sau kê biên, chấp hành viên phải giao bảo

quản tài sản kê biên bằng một trong các hình thức như: Giao cho người phải

thi hành án, người thân thích của người phải thi hành án hoặc người đang sử

dụng, bảo quản; giao cho cá nhân, tổ chức có điều kiện bảo quản; bảo quản tại

kho của cơ quan thi hành án dân sự; tài sản là kim khí quý, đá quý, tiền hoặc

giấy tờ có giá được bảo quản tại Kho bạc nhà nước. Việc giao bảo quản tài

sản phải được lập biên bản ghi rõ loại tài sản, tình trạng tài sản, giờ, ngày,

tháng, năm giao; họ, tên chấp hành viên, đương sự, người được giao bảo

quản, người làm chứng, nếu có; quyền, nghĩa vụ của người được giao bảo

80

quản tài sản và có chữ ký của các bên. Trường hợp có người từ chối ký thì

phải ghi vào biên bản và nêu rõ lý do.

- Giải quyết tranh chấp phát sinh trong quá trình cưỡng chế thi hành án

dân sự:

Về nguyên tắc, trước khi kê biên, chấp hành viên phải xác minh tài sản

dự kiến kê biên có thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án

hay không. Tuy nhiên, trong thực tế có những trường hợp khi kê biên mới

phát sinh tranh chấp với người khác thì chấp hành viên thông báo cho đương

sự, người có tranh chấp về quyền của họ được khởi kiện tại Tòa án hoặc đề

nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết (trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày

được thông báo hợp lệ), nếu hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông

báo hợp lệ mà đương sự, người có tranh chấp không khởi kiện tại Tòa án

hoặc không đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì chấp hành viên

xử lý tài sản để thi hành án. Trường hợp có căn cứ xác định giao dịch liên

quan đến tài sản thi hành án nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án thì chấp

hành viên thông báo cho người được thi hành án để yêu cầu Tòa án tuyên

bố giao dịch đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ

liên quan đến giao dịch đó. Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được thông

báo mà người được thi hành án không yêu cầu thì chấp hành viên yêu cầu

Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền

hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch đó.

- Giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi cưỡng chế thi hành án

dân sự:

Theo quy định pháp luật, đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên

quan có quyền khiếu nại đối với quyết định, hành vi cưỡng chế thi hành án

dân sự của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên nếu có căn

cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích

hợp pháp của mình.

81

Thời hiệu khiếu nại đối với quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan

thi hành án dân sự, chấp hành viên về áp dụng biện pháp cưỡng chế là 30

ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành vi đó. Trường

hợp do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà người khiếu

nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hạn thì thời gian

có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hạn

khiếu nại. Lần khiếu nại tiếp theo, thời hiệu là 15 ngày, kể từ ngày nhận

được quyết định giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền. Thời hạn

giải quyết khiếu nại lần đầu là 30 ngày, lần hai là 45, kể từ ngày thụ lý đơn

khiếu nại đối với quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp cưỡng chế.

Trường hợp cần thiết, đối với những vụ việc có tính chất phức tạp thì thời

hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày, kể từ

ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại. Trường hợp ở vùng sâu, vùng xa,

đường sá xa xôi, đi lại khó khăn, vụ việc có tính chất phức tạp thì thời hạn

giải quyết khiếu nại có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày, kể từ ngày

hết thời hạn giải quyết khiếu nại.

Ngoài những trình tự, thủ tục trong cưỡng chế thi hành án dân sự nêu

trên, pháp luật còn quy định trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành án dân sự đối

với một số tài sản có tính đặc thù. Cụ thể như:

- Kê biên tài sản là quyền sở hữu trí tuệ: Việc kê biên quyền sở hữu trí

tuệ của người phải thi hành án là một trong những nội dung mới được quy

định tại Điều 84 Luật Thi hành án dân sự. Quyền sở hữu trí tuệ là loại tài sản

"vô hình" con người không thể cầm, nắm được và theo Luật Sở hữu trí tuệ,

quyền sở hữu trí tuệ được chia làm hai lĩnh vực chính: đó là quyền tác giả và

quyền sở hữu công nghiệp. Vì vậy, khi thực hiện kê biên quyền sở hữu trí tuệ

của người phải thi hành án, chấp hành viên phải nắm được các đặc thù về

quyền sở hữu trí tuệ. Trong trường hợp người phải thi hành án là chủ sở hữu

82

quyền sở hữu trí tuệ chuyển quyền sở hữu trí tuệ cho cơ quan, tổ chức, cá

nhân khác sử dụng thì quyền sở hữu trí tuệ vẫn bị kê biên để thi hành án (trừ

trường hợp việc chuyển giao cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác sử dụng

trong thời gian nhất định nhằm đảm bảo mục tiêu quốc phòng, an ninh, dân

sinh và lợi ích của nhà nước, xã hội theo). Khi kê biên quyền sở hữu trí tuệ

của người phải thi hành án, chấp hành viên phải ra quyết định kê biên. Trường

hợp người phải thi hành án là chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ chuyển quyền

sử dụng quyền sở hữu trí tuệ cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác thì quyền sở

hữu trí tuệ vẫn bị kê biên. Khi kê biên, tùy từng đối tượng của quyền sở hữu

trí tuệ, chấp hành viên thu giữ các giấy tờ có liên quan đến quyền sở hữu trí

tuệ của người phải thi hành án. Trên cơ sở kết quả kê biên, chấp hành viên

quyết định giao cho cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng, khai thác quyền sở

hữu trí tuệ; cơ quan, tổ chức, cá nhân được giao sử dụng, khai thác quyền

sở hữu trí tuệ phải nộp số tiền thu được sau khi trừ các chi phí cần thiết cho

cơ quan thi hành án dân sự để thi hành án. Trường hợp cần thiết, chấp hành

viên yêu cầu tổ chức chuyên môn, nghề nghiệp về sở hữu trí tuệ thu và

quản lý thu nhập, lợi nhuận từ việc sử dụng, khai thác quyền sở hữu trí tuệ

của người phải thi hành án. Trường hợp người phải thi hành án đã chuyển

giao quyền sở hữu trí tuệ cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác mà chưa được

thanh toán hoặc mới được thanh toán một phần tiền thì chấp hành viên ra

quyết định buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao nộp khoản tiền

chưa thanh toán để thi hành án.

- Kê biên tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản phải đăng ký quyền sở

hữu hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm: Để kê biên trong trường hợp này,

pháp luật quy định trước khi kê biên tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản

phải đăng ký quyền sở hữu hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định

của pháp luật, chấp hành viên yêu cầu cơ quan đăng ký cung cấp thông tin

83

về tài sản, giao dịch đã đăng ký. Sau khi kê biên, chấp hành viên thông báo

bằng văn bản cho cơ quan đăng ký về việc kê biên tài sản đó để xử lý theo

quy định pháp luật.

- Kê biên, xử lý tài sản đang cầm cố, thế chấp: Trong trường hợp này,

việc kê biên chỉ được thực hiện khi người phải thi hành án không còn tài

sản nào khác hoặc có tài sản nhưng không đủ để thi hành án. Khi kê biên

tài sản đang cầm cố, thế chấp, chấp hành viên phải thông báo ngay cho

người nhận cầm cố, nhận thế chấp; khi xử lý tài sản kê biên, người nhận

cầm cố, nhận thế chấp được ưu tiên thanh toán theo quy định tại Điều 47

Luật Thi hành án dân sự.

- Kê biên tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ:

Trong trường hợp này, pháp luật quy định khi chấp hành viên xác định người

thứ ba đang giữ tài sản của người phải thi hành án, kể cả trường hợp tài sản

được xác định bằng bản án, quyết định khác thì chấp hành viên ra quyết định

kê biên tài sản đó để thi hành án; trường hợp người thứ ba không tự nguyện

giao tài sản thì chấp hành viên cưỡng chế buộc họ phải giao tài sản để thi

hành án. Trường hợp tài sản kê biên đang cho thuê thì người thuê được tiếp

tục thuê theo hợp đồng đã giao kết.

- Kê biên vốn góp: Trong trường hợp xác định người phải thi hành án có

góp vốn với cá nhân, cơ quan, tổ chức thì chấp hành viên yêu cầu cá nhân, cơ

quan, tổ chức nơi người phải thi hành án có vốn góp cung cấp thông tin về

phần vốn góp của người phải thi hành án để kê biên phần vốn góp đó. Trường

hợp cần thiết, chấp hành viên yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xác định phần

vốn góp của người phải thi hành án; trưng cầu tổ chức, cá nhân có chuyên

môn xác định phần giá trị vốn góp của người phải thi hành án để cưỡng chế

thi hành án. Đương sự có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần vốn góp của

người phải thi hành án.

84

- Kê biên đồ vật bị khóa, đóng gói: Thực tế có những trường hợp khi

thực hiện việc kê biên tài sản, đương sự chống đối, không có mặt khi cưỡng

chế, chấp hành viên phải xử lý, thực hiện việc kê biên đối với đồ vật bị khóa,

đóng gói. Trong trường hợp này, chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành

án, người đang sử dụng, quản lý đồ vật mở khóa, mở gói; nếu họ không mở

hoặc cố tình vắng mặt thì chấp hành viên tự mình hoặc có thể thuê cá nhân, tổ

chức khác mở khóa, phá khóa hoặc mở gói, trong trường hợp này phải có

người làm chứng. Người phải thi hành án phải chịu thiệt hại do việc mở khóa,

phá khóa, mở gói. Trường hợp cần thiết, sau khi mở khóa, phá khóa, mở gói,

chấp hành viên niêm phong đồ vật và giao bảo quản theo quy định. Việc mở

khóa, phá khóa, mở gói hoặc niêm phong phải lập biên bản, có chữ ký của

những người tham gia và người làm chứng.

- Kê biên tài sản gắn liền với đất: Trong thực tế có nhiều trường hợp tài

sản của người phải thi hành án (nhà ở, công trình kiến trúc) gắn liền với quyền

sử dụng đất của người khác thì khi kê biên tài sản là công trình xây dựng gắn

liền với đất phải kê biên cả quyền sử dụng đất, trừ trường hợp quyền sử dụng đất

không được kê biên theo quy định của pháp luật hoặc việc tách rời tài sản kê

biên và đất không làm giảm đáng kể giá trị tài sản đó. Trong trường hợp tài sản

là công trình xây dựng đồ sộ, có giá trị sử dụng mà thuộc loại không thể kê biên

quyền sử dụng đất thì chấp hành viên có thể chuyển sang áp dụng biện pháp

cưỡng chế khác như biện pháp khai thác tài sản để thi hành án.

- Kê biên tài sản là nhà ở: Theo quy định tại Điều 95 Luật Thi hành án

dân sự thì việc kê biên nhà ở là nơi ở duy nhất của người phải thi hành án và

gia đình chỉ được thực hiện sau khi xác định người đó không có các tài sản

khác hoặc có nhưng không đủ để thi hành án, trừ trường hợp người phải thi

hành án đồng ý kê biên nhà ở để thi hành án. Tuy nhiên, trong trường hợp

người phải thi hành án có nhiều nhà ở khác nhau thì chấp hành viên được lựa

chọn kê biên một trong những nhà ở có giá trị tương ứng với nghĩa vụ thi

85

hành án và các chi phí cần thiết. Đây là điểm mới có tính đột phá của Luật Thi

hành án dân sự trong việc kê biên nhà ở của người phải thi hành án.

Khi kê biên nhà ở, chấp hành viên phải kê biên cả quyền sử dụng đất

gắn liền với nhà ở. Trường hợp nhà ở gắn liền với đất thuộc quyền sử dụng

của người khác thì chấp hành viên chỉ kê biên nhà ở và quyền sử dụng đất để

thi hành án nếu người có quyền sử dụng đất đồng ý. Trường hợp người có

quyền sử dụng đất không đồng ý thì chỉ kê biên nhà ở của người phải thi hành

án, nếu việc tách rời nhà ở và đất không làm giảm đáng kể giá trị căn nhà.

Đối với trường hợp phải kê biên nhà ở và cả quyền sử dụng đất gắn liền

với nhà ở. Trường hợp nhà ở gắn liền với đất thuộc quyền sử dụng của người

khác thì chấp hành viên chỉ kê biên nhà ở và quyền sử dụng đất để thi hành án

nếu người có quyền sử dụng đất đồng ý. Trường hợp người có quyền sử dụng

đất không đồng ý thì chỉ kê biên nhà ở của người phải thi hành án, nếu việc tách

rời nhà ở và đất không làm giảm đáng kể giá trị căn nhà. Trường hợp khi kê biên

nhà ở của người phải thi hành án đang cho thuê, cho ở nhờ thì chấp hành viên

phải thông báo ngay cho người đang thuê, đang ở nhờ biết. Trường hợp tài sản

kê biên là nhà ở, cửa hàng đang cho thuê được bán đấu giá mà thời hạn thuê

hoặc thời hạn lưu cư vẫn còn thì người thuê có quyền tiếp tục được thuê hoặc

lưu cư theo quy định của Bộ luật Dân sự. Trường hợp khi kê biên nhà ở bị khóa,

chấp hành viên thực hiện việc kê biên như trường hợp kê biên vật bị khóa.

- Kê biên tài sản là phương tiện giao thông: Phương tiện giao thông là

những tài sản dùng để đi lại, vận chuyển hành khách, tài sản bằng đường bộ,

đường thủy hoặc đường không, như xe máy, xe ô tô, xe đạp điện, tàu thủy, xà

lan, máy bay…đối với tài sản của người phải thi hành án là tàu bay, tàu biển

thì chấp hành viên vẫn có thể được phép kê biên để thi hành án nhưng không

được thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án dân sự mà phải thực hiện

theo quy định pháp luật về bắt giữ tàu bay, tàu biển. Cụ thể là: Khi kê biên

86

phương tiện giao thông của người phải thi hành án, chấp hành viên yêu cầu

người phải thi hành án, người đang quản lý, sử dụng phương tiện đó phải giao

giấy đăng ký phương tiện đó, nếu có. Đối với phương tiện giao thông đang

được khai thác sử dụng thì sau khi kê biên chấp hành viên có thể thu giữ hoặc

giao cho người phải thi hành án, người đang quản lý, sử dụng tiếp tục khai

thác sử dụng, bảo quản nhưng không được chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp.

Trường hợp giao cho người phải thi hành án, người đang quản lý, sử dụng

tiếp tục khai thác sử dụng phương tiện giao thông thì chấp hành viên cấp cho

người đó biên bản thu giữ giấy đăng ký để phương tiện được phép tham gia

giao thông. Để đảm bảo việc kê biên, chấp hành viên có quyền yêu cầu cơ

quan có thẩm quyền cấm chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp, cho thuê hoặc

hạn chế giao thông đối với phương tiện bị kê biên.

- Kê biên tài sản là hoa lợi: Để đảm bảo việc thi hành án, pháp luật quy

định hoa lợi là một loại tài sản để kê biên. Đó là sản vật tự nhiên mà tài sản

mang lại như cây ra trái, gia súc sinh con... Vì vậy, trường hợp người phải thi

hành án có tài sản mang lại hoa lợi thì chấp hành viên có quyền kê biên hoa lợi

đó để bảo đảm thi hành án theo nguyên tắc hoa lợi bị kê biên có giá trị tương

ứng với nghĩa vụ phải thi hành án và các chi phí cần thiết cho việc cưỡng chế thi

hành án. Đối với hoa lợi là lương thực, thực phẩm thì khi kê biên, chấp hành

viên phải để lại một phần để người phải thi hành án và gia đình họ sinh sống.

3.2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ

THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

3.2.1. Những kết quả đạt được

3.2.1.1. Về thực hiện pháp luật về đảm bảo thẩm quyền cưỡng chế thi

hành án dân sự

Để đảm bảo thẩm quyền cưỡng chế thi hành án dân sự, trong những năm

qua, trên cơ sở quy định pháp luật, hệ thống thi hành án dân sự đã có những

87

bước phát triển về tổ chức đảm bảo hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thi

hành án dân sự nói chung, tổ chức thi hành án nói riêng. Cụ thể là:

- Về cơ cấu tổ chức:

Thực hiện Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành,

đặc biệt là Quyết định số 61/QĐ-TTg ngày 30/10/2014 của Thủ tướng Chính

phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng

cục thi hành án dân sự, thì hệ thống thi hành án dân sự được tổ chức thành hệ

thống dọc từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm nguyên tắc tập trung

thống nhất, có cơ cấu tổ chức như sau:

+ Cơ quan trực thuộc Tổng cục thi hành án dân sự ở Trung ương, bao

gồm 08 đơn vị: Vụ Quản lý, chỉ đạo nghiệp vụ thi hành bản án, quyết định

dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân gia đình, trọng tài thương mại (Vụ

nghiệp vụ 1); Vụ Quản lý, chỉ đạo nghiệp vụ thi hành bản án, quyết định

phá sản; phần dân sự, tiền, tài sản, vật chứng trong bản án, quyết định

hình sự và quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản

(Vụ Nghiệp vụ 2); Vụ Quản lý Thi hành án hành chính (Vụ Nghiệp vụ 3);

Vụ Giải quyết khiếu nại, tố cáo; Vụ Tổ chức cán bộ; Vụ Kế hoạch- Tài

chính; Văn phòng và Trung tâm Thống kê, Quản lý dữ liệu và Ứng dụng

công nghệ thông tin.

+ Cơ quan thi hành án dân sự ở địa phương, bao gồm 63 Cục thi hành án

dân sự trực thuộc Tổng cục thi hành án dân sự và 710 Chi cục thi hành án dân

sự trực thuộc Cục thi hành án dân sự.

Tại các Cục thi hành án dân sự, cơ cấu tổ chức bao gồm: Văn phòng;

Phòng Tổ chức cán bộ; Phòng Tài chính - Kế toán; Phòng Kiểm tra giải quyết

khiếu nại, tố cáo; Phòng Nghiệp vụ và tổ chức Thi hành án (riêng Cục thi

hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội có thể có thêm 01 Phòng

nghiệp vụ).

88

- Về đội ngũ chấp hành viên, công chức:

Trong thời gian qua, công tác tổ chức cán bộ của hệ thống tổ chức thi

hành án dân sự đã được quan tâm kiện toàn. Tính đến 30/9/2017, tổng số

cán bộ, công chức trong hệ thống thi hành án dân sự đã thực hiện được đã

thực hiện 9.347/9.657 biên chế. Hiện toàn quốc có 3.867 chấp hành viên;

736 Thẩm tra viên (04 Thẩm tra viên cao cấp (ngoài ra còn 01 trường hợp

đang chờ Bộ Nội vụ bổ nhiệm), 63 Thẩm tra viên) và 1.929 Thư ký thi

hành án [12].

Về đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, tại Tổng cục thi hành án dân sự có

Q.Tổng Cục trưởng, 03 Phó Tổng Cục trưởng và 27 Lãnh đạo cấp Vụ (08 Vụ

trưởng và tương đương, 19 Phó Vụ trưởng và tương đương); tại cấp tỉnh có

62/63 Cục trưởng, 01 Quyền Cục trưởng (Lai Châu); 136 Phó Cục trưởng. Tại

cấp huyện có 641/710 Chi cục trưởng, 25 Quyền Chi cục trưởng, 44 Phó Chi

cục trưởng phụ trách và 1.021 Phó Chi cục trưởng [12].

Cơ cấu ngạch, bậc của đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống thi

hành án dân sự được thể hiện cụ thể như sau:

Bảng 3.1: Cơ cấu ngạch, bậc cán bộ, công chức các cơ quan thi hành án

dân sự

Đơn vị tính: người

Số lượng cán bộ, công chức

Chấp hành viên

Thẩm tra viên

Thư ký

Công

chức

Cao

Thẩm

Trung

Cao

Trung

Sơ cấp

Chính

Thư ký

khác

cấp

tra viên

cấp

cấp

cấp

3.867

1.929

2815

736

3.015 04 669 310 1.619 19 833 63

9.347

Nguồn: [12].

89

- Về bảo đảm cơ sở vật chất, kinh phí, trang thiết bị, phương tiện làm việc.

Trong những năm quan, công tác quản lý tài chính ngân sách tiếp tục

được quan tâm chỉ đạo và tổ chức thực hiện bảo đảm đúng quy định và ngày

càng đạt hiệu quả. Chế độ thu, chi, lập chứng từ, cập nhật sổ sách được thực

hiện thường xuyên, chính xác, đáp ứng đầy đủ, kịp thời việc báo cáo quyết

toán. Công tác kiểm tra về quản lý ngân sách và đầu tư xây dựng cơ bản tiếp

tục được chú trọng thực hiện, qua đó đã kịp thời chấn chỉnh, rút kinh nghiệm

đối với những tồn tại trong lĩnh vực này. Tính đến năm 2017, tổng số vốn đầu

tư xây dựng cấp cho khối các cơ quan thi hành án dân sự địa phương là 102 tỷ

781 triệu đồng, giảm 233 tỷ 219 triệu đồng so với năm 2016. Trong đó, 92 tỷ

826 triệu đồng cấp cho 44 dự án xây dựng trụ sở làm việc và 9 tỷ 955 triệu

đồng cấp cho 11 dự án xây dựng kho vật chứng. Tuy nhiên, do nguồn vốn đầu

tư Chính phủ giao giảm mạnh nên năm 2017 Bộ Tư pháp không được mở mới

dự án mà chỉ tập trung vốn cho các dự án đã hoàn thành và cho các dự án thi

công dở dang. Đến nay, đã giải ngân 64 tỷ 648 triệu/102 tỷ 781 triệu đồng, đạt

62,9% kế hoạch vốn được giao. Dự kiến 15 dự án sẽ hoàn thành, bàn giao và

đưa vào sử dụng trong năm 2017 [11]. Như vậy, đến nay, có 63 Cục và 675

Chi cục được đầu tư xây dựng trụ sở làm việc; 60 Cục và 201 Chi cục được

đầu tư xây dựng kho vật chứng. Trên cơ sở Kế hoạch đầu tư trang thiết bị,

phương tiện làm việc cho các cơ quan thi hành án dân sự giai đoạn 2016 -

2020, Bộ Tư pháp đã cấp 120 tỷ để tiến hành triển khai mua sắm theo kế

hoạch đối với các trang thiết bị, phương tiện làm việc như xe ô tô, máy tính,

máy in, máy photocoppy [11].

- Về hoàn thiện thể chế:

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác thi hành án dân sự cũng

như việc đảm bảo hiệu lực, hiệu quả thi hành án thông qua việc cưỡng chế thi

hành án dân sự, trong những năm qua các cơ quan có thẩm quyền đã không

90

ngừng hoàn thiện thể chế thi hành án dân sự, tạo cơ sở cho việc tháo gỡ

những vướng mắc, bất cập trong công tác thi hành án dân sự. Trên cơ sở Luật

Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp đã tham mưu, ban hành nhiều ban hành các

Nghị định, Thông tư, Thông tư liên tịch, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ...

nhằm tạo hành lang pháp lý cũng như tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo,

phối hợp trong công tác thi hành án dân sự. Đồng thời, Hệ thống thi hành án

dân sự cũng tích cực tham gia vào công tác xây dựng các văn bản pháp luật

liên quan như: Luật Đấu giá tài sản, Luật Hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín

dụng và xử lý nợ xấu, Nghị định quy định các biện pháp thi hành Bộ luật dân

sự về giao dịch bảo đảm... , đặc biệt là việc ban hành các quy chế phối hợp

với các cơ quan, tổ chức liên quan trong thời gian qua đã tạo nhiều thuận lợi

cho hoạt động của chấp hành viên (ví dụ như: Quy chế phối hợp với Ngân

hàng Nhà nước; Quy chế phối hợp với Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Quy chế

phối hợp giữa Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm

sát nhân dânTC...). Ngoài ra, Bộ Tư pháp, Tổng cục thi hành án dân sự và các

cấp, ngành, địa phương đã dành sự quan tâm nhiều hơn đến việc thực hiện

pháp luật về thi hành án dân sự và pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự,

nhất là công tác kiểm tra, chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ; công tác tiếp dân,

giải quyết khiếu nại, tố cáo; công tác phối hợp trong thi hành án dân sự. Cụ

thể như: để tạo điều kiện thuận lợi trong việc áp dụng thống nhất pháp luật,

khắc phục những sai sót thường gặp trong quá trình tác nghiệp của chấp hành

viên, Tổng cục thi hành án dân sự đã ban hành Quy trình tổ chức thi hành án

trong Hệ thống thi hành án dân sự (Quyết định số 273/QĐ-TCTHADS ngày

22/2/2017); ban hành Công văn 1103/TCTHADS-NV1 ngày 30/3/2017

hướng dẫn một số vấn đề về nghiệp vụ thi hành án dân sự liên quan đến 13

nhóm vấn đề phát sinh nhiều khó khăn, vướng mắc; rà soát, tổng hợp các vụ

việc bán đấu giá thành nhưng chưa giao được tài sản cho người trúng đấu giá

91

và ban hành Kế hoạch chỉ đạo giải quyết; kịp thời giải quyết các khiếu nại, tố

cáo phát sinh trong thi hành án dân sự.

3.2.1.2. Về thực hiện quy định pháp luật về trình tự, thủ tục cưỡng thi

hành án dân sự

Trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành án dân sự có thể coi là nội dung

quan trọng nhất của pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. Vì vậy, luận

án đánh giá thực hiện quy định pháp luật về trình tự, thủ tục cưỡng thi hành

án dân sự từ góc độ các hình thức thực hiện pháp luật. Kết quả thực hiện các

quy định về trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành án dân sự thể hiện chủ yếu

qua kết quả thi hành án dân sự.

Đánh giá công tác thi hành án dân sự trong những năm qua có thể thấy

rằng việc thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự đã có vai trò

quan trọng, tạo được những chuyển biến tích cực trong công tác thi hành án

dân sự. Điều này thể hiện ở 02 chỉ tiêu, nhiệm vụ cơ bản là kết quả thi hành

án dân sự về việc và về tiền qua một số năm tại bảng 3.2 sau đây:

Bảng 3.2: Kết quả thi hành án dân sự về việc

Đơn vị tính: việc

2013 2014 2015 2016 2017

732.179 778.063 790.338 821.216 882.630

569.693 599.569 598.447 675.429 693.264

492.975 530.518 533.191 530.428 549.415

86,53 88,48 89,10 78,53 79,25

Chỉ tiêu Số phải thi hành Số có điều kiện Thi hành xong/số có điều kiện Tỷ lệ thi hành xong/số có điều kiện (%)

Nguồn: [68; 69; 70; 71; 72].

92

Bảng 3.3: Kết quả thi hành án dân sự về tiền

Đơn vị tính: 1000.000 đồng

Chỉ tiêu 2013 2014 2015 2016 2017

Số phải thi 70.562.600 94.909.963 125.869.995 133.618.729 163.658.232 hành

Số có điều 39.584.914 50.634.399 56.270.513 86.253.902 92.000.198 kiện

Thi hành

xong/số có 28.965.500 38.809.057 42.776.263 29.097.865 35.242.612

điều kiện

Nguồn: [68; 69; 70; 71; 72].

Theo số liệu thống kê nêu trên cho thấy số việc thi hành án mà các cơ

quan thi hành án dân sự trên toàn quốc phải thi hành rất lớn và hàng năm đều

tăng. So với số lượng chấp hành viên hiện có thì khối lượng việc trung bình

mỗi chấp hành viên phải thi hành trong 01 năm là rất lớn. Chỉ tính riêng năm

2017, trung bình mỗi chấp hành viên phải thi hành 228 việc (=882.630/3.867

chấp hành viên). Để thi hành xong số lượng việc nêu trên, trung bình mỗi

tháng chấp hành viên phải thi hành xong 19 việc. Thực tế này cho thấy rằng

trong công tác thi hành án dân sự, chấp hành viên phải chịu áp lực công việc

rất lớn, đặc biệt là ở những địa phương có lượng việc lớn như thành phố Hà

Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Tiền Giang, Bình Dương, ... Số liệu

thống kê nêu trên cũng cho thấy hàng năm số việc mà chấp hành viên các cơ

quan thi hành án dân sự phải thi hành đều tăng (trung bình khoảng 40.000

việc/năm), tuy nhiên, giá trị phải thi hành có sự tăng đột biến (năm 2013 tăng

so với 2012 là 27.349.731.112.000 đồng; năm 2015 tăng so với 2014 là

30.960.032.040.000 đồng; chỉ riêng 06 tháng đầu năm 2016, giá trị phải thi

hành chiếm khoảng 89% so với năm 2015) [68].

93

Về việc tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự, thực tế cho thấy rằng

mặc dù chấp hành viên đã có nhiều cố gắng trong việc thuyết phục người phải

thi hành án tự nguyện thi hành nhưng cũng còn nhiều trường hợp phải áp

dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Số liệu các cuộc cưỡng chế thi

hành án dân sự qua một số năm gần đây như sau:

Bảng 3.4: Thống kê các việc thi hành án dân sự phải tổ chức cưỡng chế

Đơn vị tính: việc

Năm 2013 2014 2015 2016 2017

Số việc phải 7.386 8.297 8.723 11.830 12.011 cưỡng chế

Số việc

cưỡng chế có 5.549 5.301 5.362 5.492 5.549 huy động lực

lượng

Nguồn: [68; 69; 70; 71; 72].

Số liệu thống kê tại bảng 3.4 trên đây cho thấy rằng số vụ việc thi hành

án phải cưỡng chế có sự gia tăng cùng với số lượng việc phải thi hành hàng

năm, đặc biệt là số lượng việc phải cưỡng chế thi hành án dân sự vẫn còn ở

mức cao, ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả thi hành án dân sự, nhất là tốn thời

gian, chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự cho Nhà nước và cơ quan, tổ chức,

cá nhân.

Đánh giá chung có thể thấy rằng kết quả thi hành án nêu trên có sự đóng

góp rất lớn của việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, bởi

thực tế những việc cưỡng chế thi hành án dân sự thường liên quan đến việc xử

lý tài sản có giá trị lớn, nhất là tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất, cổ phiếu,

nhà xưởng, tàu biển, dây chuyển sản xuất của các doanh nghiệp... Điều này có

ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm hiệu quả thi hành án dân sự. Bên cạnh

94

đó, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự cũng góp phần nâng

cao ý thức pháp luật trong xã hội, giảm thiểu các vụ việc khiếu nại, tố cáo bức

xúc kéo dài; nâng cao ý trách nhiệm của đội ngũ chấp hành viên, công chức

thi hành án dân sự cũng như trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá

nhân liên quan trong thi hành án dân sự.

3.2.2. Một số tồn tại, hạn chế và khó khăn, vướng mắc

Bên cạnh các kết quả đạt được, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi

hành án dân sự cũng còn có những tồn tại, hạn chế và khó khăn, vướng mắc

cả về thể chế và thực tiễn.

3.2.2.1. Về thực hiện pháp luật về đảm bảo thẩm quyền cưỡng chế thi

hành án dân sự

Bên cạnh những kết quả đat được, việc thực hiện các quy định pháp luật

về đảm bảo thẩm quyền cưỡng chế thi hành án dân sự của Chấp hành viên còn

một số tồn tại, hạn chế như: điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí

đảm bảo cho hoạt động thi hành án dân sự nói chung, hoạt động cưỡng chế thi

hành án dân sự còn nhiều khó khăn như: tình trạng thiếu kho vật chứng, trụ sở

làm việc, kinh phí phục vụ cho việc cưỡng chế. Đặc biệt là, thể chế về cưỡng

chế thi hành án dân sự còn chưa thống nhất, đồng bộ và trình tự, thủ tục về

cưỡng chế còn kéo dài, cụ thể như:

Một là, một số quy định về cưỡng chế thi hành án dân sự chưa thống

nhất, đồng bộ:

- Theo quy định tại Điều 70 Luật Thi hành án dân sự thì căn cứ để cưỡng

chế thi hành án dân sự thì phải có quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự

nhưng có ý kiến cho rằng việc quy định như vậy là chưa khoa học vì khi đã ra

quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự thì tức là đã cưỡng chế thi hành án

dân sự, quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự không phải là căn cứ để

cưỡng chế thi hành án dân sự. Mặt khác, trong trường hợp bản án, quyết định

95

đã tuyên kê biên, phong tỏa tài sản, tài khoản và trường hợp thi hành quyết

định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án thì chưa phải là cưỡng

chế thi hành án dân sự, do đó dẫn đến mẫu thuẫn bởi lẽ những quyết định này

là phán quyết của Tòa án hoặc quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm

thời của Tòa án được áp dụng theo thủ tục tố tụng tại Tòa án nhằm đảm bảo

cho việc xét xử và thi hành án chứ chưa quyết định cụ thể cách thức chuyển

tiền, tài sản, tài khoản đó thành tiền thi hành án. Hơn nữa, Điều 126 Luật thi

hành án dân sự quy định "chấp hành viên xử lý theo quy định tại các điều 98,

99, 100 và 101 của Luật này đối với tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê

biên để bảo đảm thi hành án trong trường hợp người phải thi hành án không

tự nguyện thi hành án" tức là khi bản án, quyết định của Tòa án tuyên kê biên

tài sản để đảm bảo thi hành án thì chấp hành viên định giá, định giá lại tài sản

và bán tài sản để thi hành án mà không cưỡng chế thi hành án dân sự đối với

tài sản đó của người phải thi hành án, dẫn đến chồng chéo với quy định tại

Điều 70 Luật thi hành án dân sự. Trong trường hợp Trọng tài thương mại ra

quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của Luật

Trọng tài thương mại thì lại chưa có quy định có cưỡng chế thi hành án dân sự

hay không.

- Khoản 2, Điều 110 Luật Thi hành án dân sự quy định: "Người phải thi

hành án chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà thuộc trường

hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật

về đất đai hoặc thuộc diện quy hoạch phải thu hồi đất, nhưng chưa có quyết

định thu hồi đất thì vẫn được kê biên, xử lý quyền sử dụng đất đó", tuy nhiên,

theo quy định của Điều 188, Luật Đất đai năm 2013 thì chỉ cho phép chuyển

nhượng trong 2 trường hợp khi chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất là: (i) theo quy định tại khoản 3 Điều 186 Luật Đất đai (Trường hợp

tất cả người nhận thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác

96

gắn liền với đất đều là người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở

nước ngoài không thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử

dụng đất ở tại Việt Nam (đối tượng được mua là: Người Việt Nam định cư ở

nước ngoài thuộc các đối tượng có quyền sở hữu nhà ở theo quy định của

pháp luật về nhà ở thì có quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở

tại Việt Nam) thì người nhận thừa kế không được cấp Giấy chứng nhận quyền

sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất nhưng được

chuyển nhượng hoặc được tặng cho quyền sử dụng đất thừa kế) và khoản 1

Điều 168 Luật Đất đai (Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển

nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất

khi có Giấy chứng nhận. Đối với trường hợp chuyển đổi quyền sử dụng đất

nông nghiệp thì người sử dụng đất được thực hiện quyền sau khi có quyết

định giao đất, cho thuê đất; trường hợp nhận thừa kế quyền sử dụng đất thì

người sử dụng đất được thực hiện quyền khi có Giấy chứng nhận hoặc đủ

điều kiện để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và

tài sản khác gắn liền với đất. Trường hợp người sử dụng đất được chậm thực

hiện nghĩa vụ tài chính hoặc được ghi nợ nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện

xong nghĩa vụ tài chính trước khi thực hiện các quyền). Như vậy, giữa Điều

110 Luật Thi hành án dân sự và Điều 188 Luật Đất đai có sự mâu thuẫn nên

chấp hành viên gặp khó khăn trong việc kê biên, bán đấu giá quyền sử dụng

đất để thi hành án.

- Trước khi kê biên, chấp hành viên xác định tài sản của người phải thi

hành án đang thế chấp là quyền sử dụng đất có đăng ký giao dịch đảm bảo;

giao dịch thế chấp này có trước khi có bản án, quyết định của Tòa án. Nếu

hợp đồng thế chấp chưa đến hạn thì pháp luật chưa có quy định cụ thể về

việc chấp hành viên có được quyền kê biên không ? trình tự, thủ tục kê

biên; việc xử lý tài sản kê biên có đảm bảo cho hợp đồng thế chấp này

97

không?; hoặc như nếu hợp đồng thế chấp đã đến hạn thì chấp hành viên có

được quyền kê biên không? nếu tổ chức tín dụng, ngân hàng không khởi kiện

thì có kê biên không?

- Pháp luật chưa có quy định thống nhất về việc giao tài sản, nhất là

trong trường hợp giao quyền sử dụng đất cho người mua trúng đấu giá, bởi vì

theo khoản 1 Điều 49 Luật Thi hành án dân sự thì việc thi hành án phải tạm

đình chỉ thi hành án khi nhận được quyết định tạm đình chỉ thi hành án của

người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc

thẩm; nhưng khoản 2, Điều 103 Luật Thi hành án dân sự quy định tiếp tục

giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá kể cả trong trường hợp

bản án, quyết định của Tòa án bị kháng nghị, sửa đổi hoặc hủy bỏ.

- Hiện nay, pháp luật chưa có quy định trích tiền thuê nhà khi xử lý tài

sản là nhà ở duy nhất gắn với quyền sử dụng đất của người đã bảo lãnh cho

người phải thi hành án thế chấp vay tài sản được Tòa án tuyên trong bản án,

quyết định nên chưa bảo đảm được quyền có nơi ở của công dân theo quy

định tại Điều 22 Hiến pháp năm 2013. Do đó trong trường hợp này cần khoản

5, Điều 115 Luật Thi hành án dân sự theo nguyên tắc áp dụng pháp luật tương

tự để trích tiền thuê nhà ở đối với người thứ ba dùng tài sản để bảo lãnh thế

chấp thực hiện nghĩa vụ cho người phải thi hành án.

- Theo quy định tại khoản 2 Điều 95 Luật Thi hành án dân sự thì khi kê

biên nhà ở phải kê biên cả quyền sử dụng đất gắn liền với nhà ở. Trường hợp

nhà ở gắn liền với đất thuộc quyền sử dụng đất của người khác thì chấp hành

viên chỉ kê biên nhà ở và quyền sử dụng đất để thi hành án nếu người có

quyền sử dụng đất đồng ý. Trường hợp người có quyền sử dụng đất không

đồng ý thì chỉ kê biên nhà ở của người phải thi hành án, nếu việc tách rời nhà

ở và đất không làm giảm đáng kể giá trị căn nhà. Tuy nhiên, trường hợp

người có quyền sử dụng đất không đồng ý kê biên và việc tách rời nhà ở với

98

đất không giảm đáng kể giá trị căn nhà thì chấp hành viên cũng không thể kê

biên, xử lý nhà ở của người phải thi hành án, do đó điều này dã gây khó khăn

cho việc xử lý tài sản để thi hành án.

- Theo quy định của Điều 112 Luật Thi hành án dân sự thì khi kê biên

quyền sử dụng đất nếu diện tích đất đã kê biên đang do người phải thi hành án

quản lý, khai thác, sử dụng thì chấp hành viên tạm giao diện tích đất đã kê

biên cho người đó; trường hợp diện tích đất đã kê biên đang do tổ chức hoặc

cá nhân khác quản lý, khai thác, sử dụng thì tạm giao cho tổ chức, cá nhân đó.

Đồng thời, theo Điều 58 Luật Thi hành án dân sự thì nếu không giao cho

người phải thi hành án thì giao cho người thân thích của người phải thi hành

án quản lý, khai thác, sử dụng. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy rằng nếu giao

diện tích đất đã kê biên cho người phải thi hành án, hoặc người thân thích của

người phải thi hành án thì cơ quan có thẩm quyền rất khó thực hiện các thủ

tục xử lý tài sản do không có sự hợp tác trong việc định giá quyền sử dụng

đất, giao quyền sử dụng đất cho người mua trúng đấu giá, hoặc người muốn

mua tài sản cũng không dám mua …khi người phải thi hành án hoặc người

đang quản lý, sử dụng tài sản có thái độ tiêu cực, không tự nguyện giao tài

sản, thậm chí gây thiệt hại cho người mua được tài sản hoặc tài sản phải giảm

giá nhiều lần theo quy định pháp luật.

- Trường hợp quyền sử dụng đất của người phải thi hành án mà trên đất

có công trình là nhà ở, vật kiến trúc của người khác thì việc cưỡng chế cũng

gặp khó khăn và tính khả thi không cao nếu tài sản trên đất không thể di dời

được tài sản trên đất là công trình cố định thì không thể di dời tài sản để kê

biên, xử lý quyền sử dụng đất. Trong trường hợp này mặc dù pháp luật quy

định về sự thỏa thuận, yêu cầu người có tài sản trên đất tự nguyện di dời; tự

dỡ bỏ, hoặc nếu phải xử lý thì được hoàn trả tiền bán tài sản, nhận lại tài sản

nếu tài sản bị tháo dỡ... nhưng để xử lý được thì rất khó khăn, mất nhiều thời

99

gian, chi phí (thực tiễn thi hành án dân sự thì rất ít có trường hợp người có

quyền sở hữu nhà ở trên đất của người khác tự nguyện tháo dỡ nhà ở để tạo

điều kiện cho việc kê biên quyền sử dụng đất để thi hành án.

- Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự chưa điều chỉnh nhiều vấn

đề phát sinh trong thực tiễn. Cụ thể như:

+ Chưa có quy định về việc xử lý tài sản của người phải thi hành án gắn

liền với quyền sử dụng đất của người khác để đảm bảo thi hành án nếu tài sản

đó không thể tách rời đất. Đối với việc xử lý nhà ở của người phải thi hành án

được xây dựng trên đất của người khác thì trong nhiều trường hợp người phải

thi hành án chỉ có tài sản duy nhất là ngôi nhà đã được cấp giấy chứng nhận

quyền sở hữu nhưng nằm trên đất mượn, cơ quan thi hành án dân sự đã tiến

hành kê biên ngôi nhà để đảm bảo thi hành án nhưng hầu như không thể xử lý

tiếp được. Trong khi đó, Luật Nhà ở không cấm chủ sở hữu nhà đã có giấy

chứng nhận quyền sở hữu tham gia các giao dịch. Khi các giao dịch này được

thực hiện, phát sinh tranh chấp, sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có

thẩm quyền, đến giai đoạn thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự thường gặp

phải khó khăn không xử lý được tài sản. Việc xử lý quyền sử dụng đất nhưng

trên đất có nhà thuộc sở hữu của người khác rất khó khăn, mất nhiều thời

gian, chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự tốn kém.

+ Về xác minh điều kiện cưỡng chế thi hành án dân sự, theo quy định thì

để tiến hành cưỡng chế thì chấp hành viên phải xác minh các thông tin liên

quan đến việc cưỡng chế được đảm bảo, đồng thời cung cấp thông tin cho cơ

quan Công an biết để tiến hành xác minh, xây dựng kế hoạch và lập phương

án bảo vệ cưỡng chế theo quy định tại Quy chế phối hợp liên ngành số

03/2012/TTLT-BTP-BCA ngày 30/3/2012. Tuy nhiên, pháp luật lại chưa quy

định cụ thể về xác minh điều kiện cưỡng chế thi hành án dân sự gồm những

nội dung gì; trình tự, thủ tục xác minh điều kiện cưỡng chế thi hành án dân sự

100

như thế nào, vì thế trong thực tiễn thi hành án dân sự thường vận dụng quy

định chung về xác minh điều kiện thi hành án để xác minh điều kiện cưỡng

chế thi hành án dân sự.

+ Về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong cưỡng chế thi hành án dân sự.

Thực tế cho thấy rằng có nhiều trường hợp cưỡng chế thi hành án dân sự,

người phải thi hành án nại ra những lý do khác nhau để yêu cầu, khiếu nại,

thậm chí tố cáo sai sự thật, nhằm cố tình trì hoãn việc thi hành án. Tuy nhiên,

quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với các trường hợp này gặp rất nhiều

khó khăn, do người phải thi hành án hoặc người bị cưỡng chế làm đơn tới

nhiều cấp, ngành nhưng không trực tiếp đến cơ quan có thẩm quyền giải

quyết để đối thoại, làm việc, vì vậy dẫn đến việc khiếu nại kéo dài… nhưng

pháp luật chưa quy định nếu không tham gia đối thoại nếu được mời hợp lệ

thì không giải quyết khiếu nại, tố cáo.

- Một số quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự mâu thuẫn,

chồng chéo với các quy định khác của pháp luật. Ví dụ như:

+ Đối với quyền sử dụng đất theo quy định của Bộ luật dân sự 2015

thì việc chuyển quyền sử dụng đất được thực hiện thông qua hợp đồng và phải

được lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực theo quy định của pháp

luật, tuy nhiên theo quy định của Luật Đất đai 2013 và các văn bản hướng dẫn

thì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở giữa cá nhân với cá nhân có

hiệu lực kể từ thời điểm vào sổ địa chính. Từ đó gây khó khăn cho việc cưỡng

chế thi hành án dân sự vì trên thực tế có một số trường hợp trước khi có bản

án thì người phải thi hành án đã lập hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thừa

kế.... quyền sử dụng đất có công chứng, chứng thực nhưng chưa hoàn thành

thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất. Như vậy, trong trường hợp này chưa có cơ

sở pháp lý vững chắc để áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản là

quyền sử dụng đất.

101

+ Trong trường hợp người phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất là

nhà ở xây dựng trên đất của người khác hoặc trên đất lấn chiếm hoặc tài sản là

nhà ở được làm theo diện nhà ở cho các đối tượng được hưởng ưu đãi; nhà

tình nghĩa…

Hai là, một số biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự quy định khó

thực hiện.

- Quy định về cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản chưa đảm bảo

tính khả thi do chỉ cưỡng chế khấu trừ số tiền cụ thể của người phải thi

hành án, vì thế dẫn đến tình trạng khi chấp hành viên ra quyết định khấu

trừ tiền trong tài khoản và được tống đạt hợp lệ thì người phải thi hành án

đã rút hết tiền trong tài khoản. Mặt khác, pháp luật không quy định rõ tiền

có trong tài khoản của người phải thi hành án là tiền để thực hiện cho một

nghĩa vụ bảo đảm khác thì có được áp dụng biện pháp cưỡng chế khấu trừ

tiền trong tài khoản hay không.

- Cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án chưa phù hợp,

vì mức được trừ vào tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất

sức lao động là 30% tổng số tiền được nhận hàng tháng, như vậy đối với

những người có thu nhập thấp thì việc thi hành án bị kéo dài, còn trong trường

hợp họ phải thi hành án với số tiền lớn mặc dù có thu nhập cao lẽ ra chỉ khấu

trừ một lần với mức thu nhập từ tiền lương hoặc tiền công trên 30% cũng đủ

để thi hành án dân sự nhưng vẫn phải cưỡng chế nhiều lần.

Ba là, trong một số trường hợp pháp luật chưa có quy định cụ thể về

cách thức, trình tự, thủ tục cưỡng chế. Ví dụ như cưỡng chế thi hành nghĩa vụ

phải ghi sổ đăng ký cổ đông và thay đổi đăng ký kinh doanh để ghi nhận

quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân đối với cổ phần của doanh nghiệp; cưỡng

chế thi hành án trong trường hợp bản án, quyết định tuyên hủy nghị quyết của

Đại hội đồng cổ đông. Ví dụ một số trường hợp như sau:

102

Ví dụ 1: Bản án số 20/2012/KDTM-ST ngày 16/5/2012 của Tòa án nhân

dân thành phố Hải Phòng và Bản án số 01/2012/KDTM-PT ngày 04/01/2013

của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao quyết định: Công nhận ông

Hoàng Giang, địa chỉ số 38/9 Võ Thị Sáu, Ngô Quyền, Hải Phòng là chủ sở

hữu 8.719 cổ phần, ông Nguyễn Văn Cải, địa chỉ số 1, lô 1/97 Bạch Đằng,

Hồng Bàng, Hải Phòng là chủ sở hữu 8.719 cổ phần tại Công ty cổ phần dịch

vụ dầu khí Hải Phòng (OSCHP). Buộc Công ty cổ phần dịch vụ dầu khí Hải

Phòng, địa chỉ số 40 Trần Quang Khải, Hồng Bàng, Hải Phòng có trách

nhiệm ghi Sổ đăng ký đăng ký cổ đông và thay đổi đăng ký kinh doanh để ghi

nhận quyền sở hữu hợp pháp của ông Hoàng Giang và ông Nguyễn Văn Cải

đối với số cổ phần trên. Tuy nhiên, quá trình thi hành án cho thấy đây là vụ

việc thi hành án có tính đặc thù, việc buộc Công ty cổ phần dịch vụ dầu khí

Hải Phòng ghi Sổ đăng ký cổ đông và thay đổi đăng ký kinh doanh gặp nhiều

khó khăn do đại diện theo pháp luật của Công ty không hợp tác, các trình tự,

thủ tục thi hành án chưa cụ thể, nhất là phải tiến hành cưỡng chế như thế nào

nếu đương sự cố tình trây ỳ không thực hiện nghĩa vụ theo bản án [68].

Ví dụ 2: Bản án số 02/2014/KDTM-ST ngày 20/2/2014 của Tòa án nhân

dân thành phố Hải Phòng và Bản án số 79/2014/KDTM-PT ngày 16/5/2014

của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xét xử vụ việc "tranh

chấp giữa các thành viên Công ty với Công ty" tại Công ty cổ phần công nghệ

phẩm Hải Phòng, theo đó tuyên: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các

nguyên đơn về hủy bỏ Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày

28/5/2014 của Công ty cổ phần công nghệ phẩm Hải Phòng. Tuy nhiên, trong

Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông bất thường có nội dung: "Thông qua

việc bãi nhiệm chức vụ Giám đốc- người đại diện theo pháp luật của Công ty

đối với bà Nguyễn Thị Tuyết Len theo Quyết định số 79/2011/QĐ-HĐQT

ngày 21/11/2011 của Hội đồng quản trị Công ty; Thông qua việc phê chuẩn

103

Quyết định số 80/2011/QĐ-HĐQT ngày 21/11/2011 của Hội đồng quản trị về

việc bổ nhiệm bà Đặng Thị Hồng Hải là Giám đốc - người đại diện theo pháp

luật của Công ty". Quá trình thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự gặp khó

khăn do pháp luật chưa có quy định cụ thể về việc khi Tòa án quyết định

"Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện…" thì theo yêu cầu thi hành án của

đương sự, Cơ quan thi hành án dân sự có ra quyết định thi hành án hay

không? Nếu ra quyết định thi hành án thì sẽ giải quyết như thế nào về việc

miễn nhiệm bà Len, bổ nhiệm bà Hải; việc bà Len giữ con dấu, Giấy chứng

nhận đăng ký kinh doanh của Công ty có hợp pháp không khi Nghị quyết của

Đại hội đồng cổ đông bất thường đã thông qua việc miễn nhiệm bà Len; vấn

đề cưỡng chế như thế nào khi người phải thi hành án không hợp tác, trì hoãn

việc thi hành án [68]…

3.2.2.2. Về thực hiện các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục cưỡng

chế thi hành án dân sự

Hiệu quả thi hành án dân sự nói chung, hiệu quả thực hiện pháp luật

cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng phụ thuộc chủ yếu vào việc thực hiện

các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành án dân sự. Xét

theo các hình thức thực hiện pháp luật cưỡng chế thi hành án dân sự (tuân thủ

pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật), có thể

thấy rằng:

Thứ nhất, các đương sự, cá nhân, tổ chức liên quan, đặc biệt là người

phải thi hành án còn chưa tuân thủ đúng quy định pháp luật, không tự nguyện

thi hành án dẫn đến việc cơ quan thi hành án dân sự phải áp dụng biện pháp

cưỡng chế thi hành án dân sự, nhất là còn nhiều việc thi hành án phải huy

động lực lượng gây tốn kém thời gian, chi phí cho cơ quan thi hành án dân sự.

Thực tế cho thấy rằng, mặc dù mục đích của thi hành án dân sự là thuyết

phục, đôn đốc đương sự tự nguyện thi hành, việc cưỡng chế thi hành án dân

104

sự chỉ là giải pháp cuối cùng không mong muốn, nhưng nếu phải tổ chức

cưỡng chế nhiều vụ việc thì không chỉ tốn kém kinh phí, thời gian cho cơ

quan thi hành án dân sự, cơ quan, tổ chức liên quan và các đương sự, điều này

cũng có nghĩa là pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở chừng mực nào đó

còn có những bất cập. Theo thống kê tại bảng 3.4 nêu trên, trong năm 2017, các

cơ quan thi hành án dân sự trong cả nước phải tổ chức 5.549 cuộc cưỡng chế có

huy động lực lượng liên ngành, nếu tính trung bình chi phí cưỡng chế cho mỗi

cuộc là 10 triệu đồng thì tổng chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự là: 55.490.

000.000 đồng, đó là chưa kể có nhiều cuộc cưỡng chế không thành công (năm

2016 có khoảng 1.500 việc cưỡng chế không thành công) [72].

Thứ hai, còn nhiều trường hợp đương sự không tuân thủ pháp luật, sử

dụng pháp luật không đúng, có hành vi chống đối, khiếu nại, tố cáo để trì

hoãn, kéo dài việc thi hành án. Ví dụ như: trong năm 2017, Hệ thống thi hành

án dân sự đã tiếp nhận 3.476 việc thuộc thẩm quyền. Kết quả: Giải quyết

xong 3.334 việc/3.476 việc (3.043 việc khiếu nại và 291 việc tố cáo), đạt tỷ lệ

95,91% (năm 2016 là 96,44%); số việc đang tiếp tục giải quyết là 142 việc

(112 việc khiếu nại và 30 việc tố cáo). Qua kết quả giải quyết cho thấy có hơn

95% các đơn thư khiếu nại, tố cáo không đúng nhằm trì hoãn, kéo dài việc thi

hành án [72].

Đối với các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài, Bộ Tư pháp đã

ban hành Quy định về tiêu chí xác định khiếu nại, tố cáo về THADS phức tạp,

kéo dài và trách nhiệm tổ chức thực hiện, trong đó nêu cao trách nhiệm của

Thủ trưởng cơ quan THADS trong việc rà soát, lập danh sách, xây dựng kế

hoạch và tập trung chỉ đạo giải quyết. Đến ngày 30/9/2017, toàn hệ thống còn

87 vụ việc loại này [72].

Thứ ba, hiệu quả xử lý tài sản sau cưỡng chế còn hạn chế. Thực tế cho

thấy rằng trong những năm gần đây do tình hình sản xuất, kinh doanh của

105

doanh nghiệp có khó khăn, nhất là thị trường bất động sản chưa khởi sắc trở

lại, nên rất nhiều tài sản kê biên, bán đấu giá, trong đó chủ yếu là quyền sử

dụng đất không bán được, dù đã giảm giá, bán đấu giá nhiều lần vẫn không có

người mua làm cho việc thi hành án bị kéo dài. Cụ thể như:

Năm 2014, có 13.555 việc đã kê biên tài sản, thẩm định giá nhưng bán

đấu giá không thành (chiếm 8,03% số việc có điều kiện, đang giải quyết),

tương ứng với số tiền là 20.227 tỷ 440 triệu 16 nghìn đồng (chiếm gần 57%

số tiền có điều kiện, đang giải quyết) [69].

Năm 2015, có tổng số 15.063 việc đã kê biên, thẩm định giá nhưng bán

đấu giá không thành (chiếm 2,7% về việc số việc có điều kiện, đang giải

quyết), tương ứng với số tiền là 17.272 tỷ 159 triệu 674 nghìn đồng (chiếm

24% về tiền có điều kiện, đang giải quyết) [70].

Năm 2016, có tổng số 11.084 việc đã kê biên, thẩm định giá nhưng bán

đấu giá không thành (chiếm 1,33% về việc có điều kiện, đang giải quyết),

tương ứng với số tiền là 31.866 tỷ 175 triệu 380 nghìn đồng (chiếm 22,05%

về tiền có điều kiện, đang giải quyết) [71].

Năm 2017, tổng số vụ việc đã kê biên, định giá lại và đấu giá nhưng

không thành là 7.535 việc, tương ứng với số tiền là 10.898 tỷ 734 triệu 293

nghìn đồng, chiếm 1,09% số việc và 11,8% số tiền có điều kiện thi hành của

toàn quốc (trong đó số việc bán đấu giá từ 3 lần trở lên là 5.225 việc, tương

ứng với số tiền là 11.572 tỷ 942 triệu 820 nghìn đồng); so với năm 2016, giảm

2.426 việc tương ứng với số tiền là 3.662 tỷ 646 triệu 447 nghìn đồng [72].

Thứ tư, trong việc áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự,

một số chấp hành viên đã không thực hiện đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy

định dẫn đến việc tố cáo của đương sự, thậm chí dẫn đến những việc thi hành

án phải bồi thường, bảo đảm tài sản và Chấp hành viên, công chức thi hành

dân sự bị xử lý kỷ luật, truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo báo cáo của Tổng

106

cục Thi hành án dân sự, chỉ riêng năm 2017, toàn quốc có 32 vụ việc bồi

thường đang được xem xét giải quyết (năm trước chuyển sang là 19 vụ việc,

thụ lý mới 13 vụ việc). Kết quả: 06 vụ việc đã được cấp kinh phí bồi thường

với tổng số tiền là 1 tỷ 283 triệu 980 nghìn 296 đồng. Các vụ việc còn lại

đang được Tòa án, cơ quan THADS xem xét, thương lượng, giải quyết theo

quy định. Cũng trong năm 2017, toàn quốc có 10 vụ việc (năm 2016 chuyển

sang là 02 vụ việc, phát sinh mới 08 vụ việc). Kết quả: 03 vụ việc (01 vụ từ

kỳ trước chuyển sang, 02 vụ mới phát sinh) đã được cấp kinh phí bảo đảm tài

chính với số tiền 3 tỷ 755 triệu 053 nghìn 039 đồng; còn lại 07 vụ đang xem

xét giải quyết. Đặc biệt là, có 29 trường hợp Chấp hành viên, công chức bị xử

lý kỷ luật, truy cứu trách nhiệm hình sự do vi phạm về chuyên môn nghiệp vụ

thi hành án [72].

Thứ năm, để đảm bảo hiệu quả thực hiện pháp luật cưỡng chế thi hành

án dân sự thì phải có những cơ chế đảm bảo xử lý vi phạm trong cưỡng chế,

nhất là đối với hành vi chống đối, cản trở việc cưỡng chế thi hành án dân sự.

Tuy nhiên, mặc dù pháp luật có quy định biện pháp xử phạt hành chính và

truy cứu trách nhiệm hình sự đối với trường hợp người phải thi hành án và

những cá nhân, tổ chức trì hoãn, không chấp hành án, tẩu tán tài sản thi hành

án (Điều 379, Điều 380 và Điều 381 Bộ luật Hình sự năm 2015), nhưng thực

tế số lượng các vụ việc không chấp hành án trên toàn quốc rất nhiều nhưng

việc xử lý về hình sự rất ít hoặc nếu có xử phạt hành chính thì việc thu hồi

tiền phạt không khả thi…

Những tồn tại, khó khăn, vướng mắc nêu trên chủ yếu là do một số

nguyên nhân cơ bản là:

Về khách quan:

- Các quy định pháp luật về thi hành án dân sự còn có sự chồng chéo,

không đồng bộ với các quy định pháp luật có liên quan; quy trình, thủ tục thi

107

hành án còn chưa thực sự được tinh gọn, một số trường hợp đương sự lợi

dụng để khiếu nại, tố cáo hoặc yêu cầu Tòa án xem xét thủ tục giám đốc

thẩm, tái thẩm, kéo dài thời gian thi hành án, nhất là đối với những việc xử lý

tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất phải qua quá nhiều trình tự, thủ tục nên

vụ việc thường kéo dài.

- Số việc và tiền thụ lý ngày càng nhiều và tiếp tục tăng cao so với năm

trước; các vụ án liên quan đến các khoản nợ của tổ chức tín dụng tiếp tục tăng

và chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số tiền phải thi hành của toàn hệ thống (khoảng

60,74%) [72], trong khi đó, việc cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản bảo đảm mà

chủ yếu là bất động sản gặp rất nhiều khó khăn do thị trường bất động sản

chưa có chuyển biến rõ rệt, người dân có tâm lý ngại khi mua tài sản liên quan

đến thi hành án vì sợ những rắc rối gặp phải khi phải chờ đợi giao tài sản

trúng đấu giá hoặc tranh chấp phát sinh sau này.

- Biên chế của cơ quan THADS còn chưa tương xứng với khối lượng

công việc, nhất là trong bối cảnh khối lượng việc và tiền phải thi hành án

ngày càng tăng; chưa có chế độ, chính sách đãi ngộ hợp lý đối với Chấp hành

viên, công chức thi hành án dân sự, nhất là cơ chế bảo vệ đối với Chấp hành

viên còn chưa được quy định, tính rủi ro nghề nghiệp ngày càng cao, một số

trường hợp đương sự chống đối quyết liệt, lợi dụng khiếu nại, tố cáo để xúc

phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của Chấp hành viên.

- Trong cưỡng chế thi hành án dân sự đòi hỏi sự phối hợp của nhiều cơ

quan, tổ chức, cá nhân liên quan nhưng hiệu quả phối hợp còn nhiều hạn chế,

do nhiều cơ quan, tổ chức ngại va chạm, không làm hết trách nhiệm của mình.

- Ý thức chấp hành pháp luật của người phải thi hành án còn hạn chế

(nhất là đối với cưỡng chế quyền sử dụng đất - tài sản có giá trị lớn, gắn với

đời sống của con người nên người phải thi hành án hoặc người thân thích của

họ thường chống đối, cản trở việc thi hành án; gây khó khăn cho việc định

108

giá, bán đấu giá hoặc có đơn khiếu nại, tố cáo để kéo dài việc thi hành án)

trong khi chưa có cơ chế hữu hiệu để xử lý hành vi cản trở, chống đối việc thi

hành án...

Về chủ quan:

- Năng lực, trình độ, ý thức trách nhiệm của một bộ phận Chấp hành

viên, công chức, kể cả cán bộ lãnh đạo quản lý còn chưa theo kịp yêu cầu

nhiệm vụ; việc chấp hành kỷ cương, kỷ luật trong toàn Hệ thống đã có nhiều

tiến bộ nhưng một số nơi còn chưa nghiêm.

- Tại một số cơ quan thi hành án dân sự, công tác quản lý, điều hành

của người đứng đầu chưa thực sự quyết liệt, thiếu sâu sát; công tác kiểm tra,

tự kiểm tra chưa được quan tâm đúng mức, chất lượng, hiệu quả còn hạn chế.

- Cơ quan thi hành án dân sự ở một số nơi chưa chủ động, tích cực đề

xuất tham mưu cho cấp ủy và chính quyền địa phương và Ban Chỉ đạo Thi

hành án dân sự trong chỉ đạo, lãnh đạo công tác thi hành án dân sự, hất là

trong chỉ đạo giải quyết các vụ án lớn, phức tạp, kéo dài.

- Công tác cải cách hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin trong

hoạt động quản lý, chỉ đạo điều hành và trong chuyên môn nghiệp vụ còn

chậm, chưa theo kịp yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Trên cơ sở khái quát pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự từ năm

1945 đến nay cho thấy rằng các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án

dân sự đã không ngừng được hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý hữu hiệu cho việc

nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Đặc biệt là các quy định pháp

luật hiện hành đã quy định tương đối cụ thể về các biện pháp cưỡng chế thi

hành án dân sự; thẩm quyền cưỡng chế thi hành án dân sự; trình tự, thủ tục

cưỡng chế thi hành án dân sự.

109

Trên sở các quy định pháp luật, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi

hành án dân sự trong những năm qua đã đạt được những kết quả nhất định:

Hệ thống thi hành án dân sự được hình thành và hoạt động ngày càng hiệu

quả; đội ngũ chấp hành viên, công chức thi hành án dân sự được tăng cường;

kết quả thi hành án có sự chuyển biến qua các năm. Việc tổ chức cưỡng chế

thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu tuân thủ pháp luật, giảm thiểu việc huy

động lực lượng khi tham gia cưỡng chế.. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả

đạt được, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự cũng còn

những tồn tại, hạn chế nhất định. Cụ thể là: nhiều quy định chung về cưỡng chế

thi hành án dân sự chưa khoa học, mâu thuẫn chồng chéo, khó thực hiện; một

số vấn đề chưa được pháp luật quy định; một số biện pháp cưỡng chế thi hành

án dân sự quy định khó thực hiện; vẫn còn nhiều vụ việc cưỡng chế thi hành án

dân sự chưa thành công; làm phát sinh khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài.

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế và khó khăn, vướng mắc nêu

trên chủ yếu là do: Các quy định pháp luật về thi hành án dân sự còn có sự

chồng chéo, không đồng bộ với các quy định pháp luật có liên quan, nhất là

việc xử lý tài sản đối với quyền sử dụng đất phải qua quá nhiều trình tự, thủ

tục nên vụ việc thường kéo dài; trong cưỡng chế thi hành án dân sự đòi hỏi sự

phối hợp của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan nhưng hiệu quả phối

hợp còn nhiều hạn chế, do nhiều cơ quan, tổ chức ngại va chạm, không làm

hết trách nhiệm của mình; Ý thức chấp hành pháp luật về thi hành án của

người phải thi hành án còn hạn chế (nhất là đối với cưỡng chế quyền sử dụng

đất - tài sản có giá trị lớn, gắn với đời sống của con người nên người phải thi

hành án hoặc người thân thích của họ thường chống đối, cản trở việc thi hành

án; gây khó khăn cho việc định giá, bán đấu giá hoặc có đơn khiếu nại, tố cáo

để kéo dài việc thi hành án) trong khi chưa có cơ chế hữu hiệu để xử lý hành

vi cản trở, chống đối việc thi hành án...

110

Chương 4

QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ

CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM

4.1. QUAN ĐIỂM ĐẢM BẢO THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ

THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM

Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự thời gian qua đã

góp phần quan trọng trong việc bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh các bản án,

quyết định có hiệu lực pháp luật; góp phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.

Tuy nhiên, yêu cầu bảo đảm nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện pháp luật

về cưỡng chế thi hành án dân sự là đòi hỏi tất yếu trong điều kiện xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì vậy, thực hiện pháp luật

về cưỡng chế thi hành án dân sự cần bám sát các quan điểm cơ bản sau đây:

4.1.1. Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự phải đáp

ứng yêu cầu về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa

Yêu cầu quan trọng của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam

xã hội chủ nghĩa mà Đảng đã đặt ra là xây dựng Nhà nước ta là "Nhà nước

pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân". Theo Hiến pháp năm

2013 thì quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm

soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành

pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Yêu cầu xây dựng

Nhà nước pháp quyền đặt ra là phải phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của

từng cơ quan nhà nước để thực hiện tốt quyền lập pháp, quyền hành pháp và

quyền tư pháp, trong đó có việc quy định cưỡng chế thi hành án dân sự phù

hợp với thực tế hoạt động thi hành án dân sự.

Một trong những nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của

bộ máy Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nguyên tắc pháp

111

chế xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc này đòi hỏi mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân

phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật hiện hành. Do đó, có thể thấy

những vấn đề liên quan đến việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế

không phải là những quy định có tính chung chung mà được cụ thể hoá vào

từng lĩnh vực pháp luật, trong đó có lĩnh vực hoạt động thi hành án dân sự và

quy định về cưỡng chế thi hành án dân sự.

Mục đích chính của hoạt động thi hành án dân sự là nhằm bảo đảm để

các bản án, quyết định của Toà án và các quyết định khác được thi hành trên

thực tế, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ

quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào việc thi hành án. Việc chậm thi hành án,

thi hành không đúng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự dẫn đến việc

thi hành không đúng nội dung của bản án, quyết định được thi hành là xâm

phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân công dân, cơ quan, tổ chức

và Nhà nước. Việc nâng cao hiệu quả cưỡng thi hành án dân sự nhằm hạn chế

và từng bước khắc phục tình trạng lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp

pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức bị xâm phạm cũng là một yêu cầu khách

quan. Vì vậy, quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự phải cụ thể,

dễ thực hiện và việc cưỡng chế thi hành án dân sự phải được nghiêm chỉnh

thực hiện theo quy định của pháp luật.

4.1.2. Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự phải

bảo đảm quyền con người, quyền công dân

Bảo đảm quyền con người, quyền công dân là vấn đề quan trọng trong

hoạt động của bộ máy nhà nước đã được ghi nhận tại Chương II, Hiến pháp

pháp năm 2013.

Quyền con người, quyền công dân được bảo đảm trong pháp luật thi

hành án dân sự "trong quá trình thi hành án, quyền, lợi ích hợp pháp của

đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được tôn trọng và được

112

pháp luật bảo vệ" (Điều 5 Luật Thi hành án dân sự) cũng như quá trình tổ

chức thực hiện việc thi hành án dân sự.

Trong cưỡng chế thi hành án dân sự, quyền con người, quyền cơ bản

của công dân được bảo đảm nếu thực hiện đúng quy định chỉ được cưỡng chế

thi hành án dân sự khi hết thời hạn tự nguyện thi hành án, trừ trường hợp nếu

có căn cứ cho rằng cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán,

huỷ hoại tài sản hoặc có hành vi khác trốn tránh việc thi hành án. Người được

thi hành án có quyền đề nghị cơ quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp

cưỡng chế thi hành án dân sự; được thông báo về thi hành án; thỏa thuận

với người phải thi hành án, người có quyền, nghĩa vụ liên quan về thời

gian, địa điểm, phương thức, nội dung thi hành án; tự mình hoặc ủy quyền

cho người khác xác minh, cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của

người phải thi hành án; không phải chịu chi phí xác minh điều kiện thi

hành án do chấp hành viên thực hiện; yêu cầu thay đổi chấp hành viên

trong trường hợp có căn cứ cho rằng chấp hành viên không vô tư khi làm

nhiệm vụ; ủy quyền cho người khác thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình;

chuyển giao quyền được thi hành án cho người khác; khiếu nại, tố cáo về

thi hành án và các quyền khác về thi hành án theo quy định của pháp luật.

Người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành án; được xét miễn,

giảm nghĩa vụ thi hành án, một phần hoặc toàn bộ chi phí cưỡng chế,

nhưng phải thi hành đầy đủ, kịp thời bản án, quyết định; kê khai trung thực

điều kiện thi hành án và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung kê

khai đó; thực hiện các quyết định, yêu cầu của chấp hành viên trong thi

hành án dân sự và các nghĩa vụ khác về thi hành án theo quy định của pháp

luật. Người có quyền, nghĩa vụ liên quan được thông báo, tham gia vào

việc thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự mà họ có liên quan và các

quyền khác về thi hành án theo quy định của pháp luật.

113

Hiệu quả cưỡng chế thi hành án dân sự được nâng cao thì bảo đảm tốt

hơn quyền con người, quyền cơ bản của công dân, nhất là những người trực

tiếp tham gia vào quá trình thi hành án; hạn chế khiếu nại, tố cáo trong thi

hành án dân sự.

4.1.3. Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự cần

nhận thức là trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan

Hoạt động thi hành án dân sự dựa trên cơ sở các bản án, quyết định có

hiệu lực pháp luật, vì vậy, yêu cầu có tính hiến định về thi hành án đã được

quy định tại Điều 106 Hiến pháp năm 2013. Do vậy, việc thực hiện pháp

luật để thi hành án nói chung, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án

dân sự cũng đòi hỏi là trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, cá

nhân liên quan.

Thực tế cho thấy rằng mục đích của thi hành án dân sự nói chung,

cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng không chỉ thể hiện ở kết quả thi hành

các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (thu hồi tiền, tài sản cho người

được thi hành án; buộc người phải thi hành án thực hiện công việc nhất

định...) mà còn thể hiện qua kết quả tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật,

tạo niềm tin của công dân đối với cơ quan thi hành án dân sự; giảm thiểu chi

phí, thời gian cho cơ quan thi hành án dân sự. Vì vậy, để đạt được đầy đủ các

mục đích nêu trên, ngoài vai trò trung tâm của chấp hành viên cơ quan thi

hành án dân sự thì trong thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự

đòi hỏi các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan phải thực hiện đúng nghĩa vụ,

trách nhiệm, quyền hạn của mình để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả thi hành án,

trong đó quan trọng nhất là trách nhiệm phối hợp trong thực hiện pháp luật về

cưỡng chế thi hành án dân sự. Điều này được minh chứng trong thực tiễn thi

hành án dân sự thông qua sự phối hợp trong vận động, thuyết phục thi hành

án nhằm giảm thiểu các việc cưỡng chế có huy động lực lượng và giảm thiểu

114

chi phí, thiệt hại cho cơ quan thi hành án dân sự và đương sự, cá nhân, tổ

chức liên quan; phối hợp trong cưỡng chế thi hành án dân sự; phối hợp trong

xử phạt hành chính, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các hành vi vi phạm pháp

luật về cưỡng chế thi hành án dân sự…

4.1.4. Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự phải đáp

ứng yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay

Vấn đề cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ

quan tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp,

trong đó có các cơ quan thi hành án dân sự được coi là một trong những nội

dung quan trọng trong cải cách thể chế tổ chức bộ máy và phương thức hoạt

động của Nhà nước, trong đó có cải cách tư pháp, cải cách hành chính trong

thi hành án dân sự. Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung

ương Đảng khóa IX tiếp tục khẳng định phải đẩy mạnh đổi mới tổ chức và

hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó Nghị quyết nêu rõ: "Tiếp tục

thực hiện tốt công tác thi hành án, nhất là thi hành án dân sự, khắc phục cơ

bản tình trạng án tồn đọng kéo dài".

Công tác thi hành án dân sự là một nội dung công việc của Nhà nước

nên hoạt động thi hành án dân sự có mối quan hệ mật thiết đối với toàn bộ

hoạt động của Nhà nước, nhất là hoạt động tư pháp nhằm đảm bảo thực thi

công lý và các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Do đó, bảo

đảm thi hành dứt điểm bản án, quyết định, trong đó có vấn đề thực hiện pháp

luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, thì cũng đòi hỏi phải đáp ứng những

yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp nhằm đảm bảo giảm thiểu các

chi phí tuân thủ các thủ tục thi hành án dân sự cũng như sự công khai, minh

bạch trong quá trình thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự,

nhất là khi cơ quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành

án dân sự để đảm bảo thi hành án.

115

4.2. GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ

THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM

4.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự

Hiệu quả thi hành án dân sự nói chung và hiệu quả cưỡng chế thi hành

án dân sự nói riêng phụ thuộc rất lớn vào cơ sở pháp luật. Thực tế cho thấy

rằng pháp luật về thi hành án dân sự, trong đó có pháp luật về cưỡng chế thi

hành án dân sự ở nước ta mặc dù đã được hoàn thiện trong thời gian qua

nhưng cũng còn nhiều vướng mắc, bất cập. Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật

về cưỡng chế thi hành án dân sự là cần thiết, theo đó cần tập trung vào những

nội dung cơ bản sau:

- Hoàn thiện căn cứ cưỡng chế thi hành án dân sự, cụ thể là: sửa đổi

Điều 73 Luật Thi hành án dân sự theo hướng thay đổi "căn cứ cưỡng chế thi

hành án" bằng quy định "căn cứ để tổ chức cưỡng chế thi hành án", theo đó

quy định căn cứ để tổ chức cưỡng chế thi hành án bao gồm: bản án, quyết

định; quyết định thi hành án và quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự thay

cho quy định hiện nay căn cứ để cưỡng chế thi hành án bao gồm bản án, quyết

định; quyết định thi hành án và quyết định cưỡng chế thi hành án, trừ trường

hợp bản án, quyết định đã tuyên kê biên, phong toả tài sản, tài khoản và

trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà

án tại Điều 70 Luật Thi hành án dân sự.

- Bổ sung quy định về chỉ định tài sản cưỡng chế thi hành án dân sự,

theo đó cho phép người được thi hành án chỉ định tài sản cưỡng chế thi hành

án dân sự nếu người được thi hành án cho rằng tài sản đó là của người phải thi

hành án, trong trường hợp này chấp hành viên không được từ chối cưỡng chế

tài sản mà người được thi hành án chỉ định cưỡng chế. Tuy nhiên, loại tài sản

được chỉ định cưỡng chế chỉ là động sản để đảm bảo tính kịp thời trong việc

bảo toàn tài sản đảm bảo thi hành án dân sự; đối với tài sản là bất động sản và

116

động sản phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì không áp dụng quy

định chỉ định tài sản cưỡng chế thi hành án dân sự bởi vì những tài sản này

đã có cơ chế đăng ký quyền sở hữu, sử dụng nên việc chuyển dịch phải

thông qua thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Để bảo đảm quy định chỉ

định cưỡng chế tài sản thi hành án dân sự được thực hiện hiệu quả và bảo

đảm quyền lợi của người có tài sản bị chỉ định cưỡng chế thi hành án dân

sự nhầm, cũng như đề cao trách nhiệm của người chỉ định cưỡng chế tài

sản thi hành án dân sự thì quy định người chỉ định cưỡng chế tài sản thi

hành án dân sự phải chịu trách nhiệm về việc chỉ định tài sản, nếu chỉ định

sai thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại, nếu các đương sự không thỏa

thuận được về giải quyết bồi thường thiệt hại thì yêu cầu Tòa án giải quyết

theo thủ tục tố tụng dân sự.

- Quy định cụ thể về cưỡng chế kê biên, xử lý tàu bay, tàu biển để thi

hành án bởi vì khoản 4 Điều 96 Luật Thi hành án dân sự quy định việc kê

biên đối với tàu bay, tàu biển để thi hành án được thực hiện theo quy định của

pháp luật về bắt giữ tàu bay, tàu biển, thế nhưng Pháp lệnh bắt giữ tàu bay và

Pháp lệnh bắt giữ tàu biển quy định Thẩm phán Tòa án quyết định bắt giữ tàu

bay, tàu biển để thi hành án mà chưa quy định cụ thể Chấp hành viên căn cứ

quyết định bắt giữ tàu bay, tàu biển của Tòa án để tiến hành định giá, bán đấu

giá hay phải ra quyết định cưỡng chế kê biên tàu bay, tàu biển để thi hành án.

- Bổ sung quy định thủ tục kê biên, bán đấu giá tài sản của cơ quan nhà

nước, doanh nghiệp nhà nước để thi hành án dân sự. Cụ thể hoá thủ tục cưỡng

chế thi hành án dân sự đặc thù cho từng loại hình doanh nghiệp, cơ quan nhà

nước phải thi hành án.

- Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 94 Luật Thi hành án dân sự theo

hướng: Việc kê biên nhà ở là nơi ở duy nhất của người phải thi hành án và gia

đình chỉ được thực hiện sau khi xác minh, xác định người đó không có các tài

117

sản khác hoặc có nhưng không đủ để thi hành án, trừ trường hợp tài sản mà

bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm thi hành án hoặc người phải thi

hành án đồng ý kê biên nhà ở để thi hành án [51]; sửa đổi khoản 1 Điều 95

Luật Thi hành án dân sự theo hướng:

Việc kê biên nhà ở là nơi ở duy nhất của người phải thi hành án và

gia đình họ chỉ được thực hiện sau khi xác minh, xác định người đó

không có tài sản khác hoặc có nhưng không đủ để thi hành án, trừ

trường hợp nhà ở được bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm

thi hành án hoặc người phải thi hành án đồng ý kê biên nhà ở để thi

hành án [51].

- Sửa đổi, bổ sung quy định về việc kê biên, xử lý tài sản của người

phải thi hành án xây dựng trên đất của người khác và trường hợp trên đất của

người phải thi hành án có tài sản của người khác theo hướng tạo điều kiện cho

người có đất gắn với tài sản của người phải thi hành án hoặc người có tài sản

gắn với đất của người phải thi hành án được quyền ưu tiên thỏa thuận mua lại

đất hoặc tài sản của người phải thi hành án theo giá khởi điểm nếu không ảnh

hưởng đến quyền và lợi ích của người thứ ba. Nếu các bên không tự thỏa

thuận mua lại, cơ quan thi hành án dân sự hướng dẫn khởi kiện ra Tòa án để

phân chia tài sản trong thời hạn 30 ngày. Nếu đương sự không khởi kiện hoặc

không được Tòa án thụ lý giải quyết thì cơ quan thi hành án dân sự tiến hành

xử lý tài sản theo quy định của pháp luật.

- Quy định cụ thể về kê biên, xử lý tài sản là quyền sử dụng đất nông

nghiệp, đất giao cho hộ gia đình trực tiếp sản xuất nông nghiệp, làm muối,

nuôi trồng thuỷ sản, trồng lúa nước và để lại cho người phải thi hành án là

người trực tiếp lao động, chỉ có nguồn thu nhập từ sản xuất nông nghiệp, làm

muối, nuôi trồng thuỷ sản, trồng lúa nước diện tích đất nhất định sản xuất để

có lương thực sinh sống trong thời gian 06 tháng đến một năm.

118

- Bổ sung quy định người trúng đấu giá tài sản gắn liền với quyền sử

dụng đất thuê của Nhà nước được tiếp tục thuê đất trong thời hạn thuê đất còn

lại mà người phải thi hành án đã ký hợp đồng thuê đất trước khi kê biên, xử lý

tài sản gắn liền với đất thuê để đảm bảo hiệu quả của biện pháp kê biên, xử lý

tài sản.

- Bổ sung quy định về cưỡng chế thi hành án dân sự đối với một số loại

tài sản phù hợp với Bộ luật dân sự năm 2015, nhất là những tài sản đặc biệt

chưa được quy định trong pháp luật về thi hành án dân sự như: quyền tài sản,

tài sản hình thành trong tương lai.

- Bổ sung quy định về trình tự, thủ tục kê biên, bán đấu giá tài sản của

cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước để thi hành án dân sự. Cụ thể hoá

thủ tục cưỡng chế thi hành án dân sự đặc thù cho từng loại hình doanh nghiệp,

cơ quan nhà nước phải thi hành án.

- Đối với cưỡng chế khấu trừ thu nhập: cần nghiên cứu mở rộng phạm

vi áp dụng biện pháp cưỡng chế này đối với người phải thi hành án trong tất

cả các trường hợp có cơ sở xác định thu nhập của người phải thi hành án,

đồng thời để giảm lượng án tồn đọng thì cần quy định tăng mức khấu trừ thu

nhập ở mức tối thiểu là 50% tổng số thu nhập hàng tháng.

- Đối với cưỡng chế trả nhà: Quy định cưỡng chế trả nhà là một biện

pháp cưỡng chế độc lập trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế thi hành

án dân sự bởi lẽ hiện nay quy định về cưỡng chế trả nhà chưa tách riêng

nên kỹ thuật lập pháp chưa khoa học, khó hiểu để áp dụng trong thực tế.

Biện pháp cưỡng chế trả nhà cần phải quy định đặc thù và cụ thể để đảm

bảo thực hiện dễ dàng, thuận lợi sẽ bảo đảm hiệu quả của việc thi hành án

trả nhà, theo đó cần quy định thành một mục riêng về cưỡng chế trả nhà

trong chương các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự của Luật Thi

hành án dân sự.

119

- Đối với cưỡng chế buộc thực hiện hoặc không được thực hiện công

việc nhất định, cần quy định rõ ràng về trình tự, thủ tục thực hiện biện pháp

cưỡng chế buộc thực hiện công việc nhất định và biện pháp cưỡng chế không

được thực hiện công việc nhất định nhằm đảm bảo thuận lợi cho việc hiểu và

áp dụng các biện pháp cưỡng chế này….

4.2.2. Quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân

hữu quan trong cưỡng chế thi hành án dân sự

- Quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong

việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời để đảm bảo

việc thi hành án. Thực tế cho thấy rằng, cưỡng chế thi hành án dân sự bảo

đảm các bản án, quyết định được thi hành nhưng trong quá trình khởi tố, điều

tra, xét xử, việc các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng kịp thời, đầy đủ các

biện pháp ngăn chặn góp phần cho việc thi hành án dân sự và thực hiện cưỡng

chế thi hành án dân sự hiệu quả hơn rất nhiều. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa

các cơ quan tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án những năm qua còn nhiều

hạn chế, thiếu đồng bộ. Điều này có thể minh chứng qua nhiều việc thi hành

án thời gian qua, do các cơ quan tố tụng chưa coi trọng và áp dụng có hiệu

quả các biện pháp như kê biên tài sản của bị can, bị cáo, bị đơn dân sự, nhất là

trong việc giải quyết các vụ án kinh tế, dân sự nên khi bản án, quyết định của

Toà án được đưa ra thi hành, người phải thi hành án đã kịp thời tẩu tán các tài

sản có giá trị để lẩn tránh việc thi hành các nghĩa vụ. Điều này không những

ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của Nhà nước và các cơ quan, tổ chức,

cá nhân được thi hành án mà còn là nguyên nhân làm gia tăng các số lượng vụ

việc thi hành án dân sự chưa có điều kiện thi hành, án tồn đọng. Vì vậy, trong

việc quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng như điều

tra, kiểm sát, trọng tài, hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh phải áp dụng biện

pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời để đảm bảo việc thi hành án với

120

những căn cứ, điều kiện trong từng từng trường hợp cụ thể sẽ đảm bảo nâng

cao hiệu quả thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự trong thời

gian tới.

- Quy định cụ thể hơn về trách nhiệm, quyền hạn của Tòa án trong

cưỡng chế thi hành án dân sự, theo đó xác định nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa

án trong thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự

đã có, như phối hợp trong việc giải quyết yêu cầu, kiến nghị của cơ quan thi

hành án dân sự về việc xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục

giám đốc thẩm, tái thẩm trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày nhận được kiến

nghị; thụ lý và kịp thời giải quyết yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự,

đương sự về việc xác định quyền sở hữu, phân chia tài sản hoặc giải quyết

tranh chấp về quyền sở hữu, sử dụng tài sản; hủy giấy tờ, giao dịch phát sinh

trong quá trình thi hành án thuộc thẩm quyền của Tòa án; khi xét xử lại vụ án

mà bản án, quyết định đã bị hủy một phần hoặc toàn bộ theo quyết định giám

đốc thẩm, tái thẩm, Tòa án phải giải quyết vấn đề tài sản, nghĩa vụ đã được thi

hành theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng bị hủy. Đặc biệt là,

tăng cường vai trò và trách nhiệm của Tòa án trong thi hành án dân sự theo

hướng quy định rõ cơ chế để bảo đảm bản án, quyết định được ban hành ra

phải có tính khả thi, Tòa án kịp thời áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời

phục vụ cho việc thi hành án; quy định rõ hơn trách nhiệm của Tòa án trong

việc khắc phục hậu quả các bản án, quyết định đã được thi hành xong nhưng

quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm làm thay đổi các nội dung đã quyết định

trước đó, quy định trách nhiệm của Toà án trong việc theo dõi, kiểm soát,

thống kê các bản án, quyết định đã được Tòa án ra quyết định thi hành án và

kết quả thi hành án.

- Quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong cưỡng chế thi hành

án dân sự ra quyết định kê biên tài sản là bất động sản, động sản phải đăng ký

121

quyền sở hữu, bởi bì đây là những tài sản có giá trị lớn và liên quan đến nhiều

cơ quan, nhất là trong việc đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, đăng ký

giao dịch bảo đảm; mặt khác quyền sở hữu, sử dụng tài sản là một quyền cơ

bản của công dân được Hiến pháp ghi nhận, do đó việc quyết định kê biên tài

sản để xử lý đảm bảo thi hành án cần được giao cho Tòa án quyết định. Vì

thế, trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày có kết quả xác minh, cơ quan

thi hành án dân sự phải gửi văn bản và các tài liệu có liên quan đề nghị Tòa án

đã ra quyết định kê biên đối với tài sản là bất động sản, động sản phải đăng ký

quyền sở hữu của người phải thi hành án, trừ trường hợp bản án, quyết định

đã tuyên kê biên tài sản; trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận

được văn bản yêu cầu và tài liệu của cơ quan thi hành án dân sự, Chánh án

Tòa án đã ra quyết định đưa bản án, quyết định ra thi hành phân công một

Thẩm phán xem xét yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự; trong thời hạn 05

ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải quyết định việc

kê biên hoặc yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự bổ sung tài liệu. Văn bản yêu

cầu bổ sung tài liệu phải nêu rõ loại tài liệu cần bổ sung; trong thời hạn 05

ngày làm việc kể từ ngày nhận được tài liệu bổ sung của cơ quan thi hành án

dân sự, Thẩm phán phải ra quyết định kê biên hoặc có văn bản trả lời cơ quan

thi hành án dân sự; việc khiếu nại quyết định kê biên của Thẩm phán được

giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Để đảm bảo thực hiện

quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong cưỡng chế kê biên tài sản để

thi hành án dân sự thì quy định về chức danh Thẩm phán thi hành án và bố trí

tại Tòa án cùng cấp với cơ quan thi hành án dân sự.

- Tăng cường nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong

cưỡng chế thi hành án dân sự. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo

pháp luật của Tòa án, cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên, đương sự

và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong cưỡng chế thi hành án dân

122

sự theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm về hoạt động kiểm sát của

mình. Tất cả các thủ tục cưỡng chế thi hành án dân sự phải được kiểm sát chặt

chẽ, bổ sung quy định cụ thể về kiểm sát việc bán đấu giá tài sản của các tổ

chức có chức năng bán đấu giá tài sản vì bán đấu giá tài sản thi hành án dân

sự là giai đoạn của quá trình thi hành án dân sự, hiện nay vấn đề này chưa

được quy định rõ nên có ý kiến cho rằng cơ quan thi hành án dân sự ký hợp

đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự thì đó là hợp đồng dân sự

nên Viện kiểm sát nhân dân không kiểm sát việc bán đấu giá tài sản thi hành

án dân sự do tổ chức bán đấu giá thực hiện.

- Quy định phù hợp hơn về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa

phương trong cưỡng chế thi hành án dân sự, theo đó tăng cường trách nhiệm

của Hội đồng nhân dân trong cưỡng chế thi hành án dân sự vì hiện nay chưa

có quy định cụ thể nào về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân trong

cưỡng chế thi hành án dân sự;

- Quy định rõ hơn trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của các cơ quan,

tổ chức khác, cá nhân hữu quan trong cưỡng chế thi hành án dân sự để việc

tham gia của các chủ thể này vào quá trình cưỡng chế thi hành án dân sự rõ

ràng, thuận lợi hơn. Bổ sung quy định về việc chi trả thù lao cho người phát

hiện, cung cấp thông tin về tài sản, điều kiện của người phải thi hành án nhằm

thu hút nhiều hơn sự tích cực của cá nhân, tổ chức không phải là đương sự

tham gia vào quá trình thi hành án dân sự; đồng thời góp phần hạn chế hành

vi chây ỳ, tẩu tán tài sản trốn tránh thực hiện nghĩa vụ thi hành án, kịp thời và

thực hiện hiệu quả cưỡng chế thi hành án dân sự.

4.2.3. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thi

hành án dân sự

Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, pháp luật về thi

hành án dân sự nói riêng có ý nghĩa quan trọng để đảm bảo hiệu quả cưỡng

123

chế thi hành án dân sự. Ý nghĩa của công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục

pháp luật được thể hiện qua kỹ năng vận động, thuyết phục của chấp hành

viên để qua đó không chỉ đương sự hiểu, nhận thức đúng về trách nhiệm,

nghĩa vụ thi hành án và tự nguyện thi hành án, giảm thiểu sự chống đối mà

còn tạo sự ủng hộ của dư luận xã hội đối với công tác thi hành án dân sự.

Chính vì vậy, trong từng tác nghiệp, trình tự, thủ tục cưỡng chế, đòi hỏi chấp

hành viên phải chủ động, linh hoạt trong việc lựa chọn, giải thích các quy

định pháp luật được áp dụng để không chỉ người phải thi hành án hiểu, nhận

thức đúng mà trong nhiều trường hợp ngay chính người được thi hành án

cũng nhận thức rõ trách nhiệm phối hợp để giải quyết phù hợp những vướng

mắc, khó khăn trong quá trình thi hành án (ví dụ như: tạo điều kiện cho người

phải thi hành án có chỗ ở khi phải cưỡng chế, xử lý tài sản là nhà ở, quyền sử

dụng đất..). Tuy nhiên, để làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục

pháp luật về thi hành án dân sự, đòi hỏi chấp hành viên phải nghiên cứu, đánh

giá cụ thể từng trường hợp phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân

sự để từ đó có sự lựa chọn, phối hợp đúng đúng với các cơ quan, tổ chức cá

nhân liên quan.

4.2.4. Tăng cường hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo thi hành án

dân sự

Cưỡng chế thi hành án dân sự nói chung, cưỡng chế thi hành án dân sự

đối với quyền sử dụng đất nói riêng thường liên quan đến các việc thi hành án

có giá trị lớn, phức tạp, do đó hiệu quả cưỡng chế phụ thuộc nhiều vào sự

phối hợp, ủng hộ của các cơ quan, tổ chức liên quan tại địa phương, trong đó

Ban chỉ đạo thi hành án dân sự các cấp là đầu mối chỉ đạo, phối hợp các

ngành, các địa phương trong việc tổ chức thi hành án; chỉ đạo, định hướng xử

lý các vụ án khó khăn, phức tạp, qua đó nâng cao hiệu quả công tác thi hành

án. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự, các

124

cấp uỷ Đảng thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra hoạt động của các Ban

chỉ đạo thi hành án dân sự; kịp thời tháo gỡ hoặc đề xuất với Trung ương

những vướng mắc về cơ chế chính sách mà bản thân Ủy ban nhân dân các

cấp và Ban chỉ đạo thi hành án dân sự không giải quyết được. Ban chỉ đạo

thi hành án dân sự các cấp cần tăng cường chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra các

cơ quan thi hành án dân sự trong việc thực hiện các quy định của pháp luật

về thi hành án; tham mưu cho cấp uỷ Đảng và Chủ tịch Ủy ban nhân dân

cùng cấp và cấp trên tăng cường việc chỉ đạo, phối hợp các cơ quan hữu

quan xử lý những khó khăn, vướng mắc trong công tác thi hành án dân sự

nói chung, đối với các vụ việc tín dụng ngân hàng nói riêng. Đặc biệt là

thành viên Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự các cấp cần nâng cao trách

nhiệm của mình đối với hoạt động của Ban chỉ đạo, tránh tình trạng hoạt

động hình thức, hoạt động theo kiểu định kỳ trong các dịp sơ kết, tổng kết

thi hành án dân sự tại địa phương. Về phía các cơ quan thi hành án dân sự

cần làm tốt công tác tham mưu cho Ban chỉ đạo thi hành án dân sự các biện

pháp, kế hoạch thi hành các vụ việc thi hành án tín dụng ngân hàng tồn

đọng, phức tạp và có giá trị lớn.

4.2.5. Nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong

thi hành án dân sự

Trong thi hành án dân sự, các khiếu nại, tố cáo thường phát sinh khi cơ

quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, nhất là

khi phải cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất thì đương sự có tâm lý cản

trở, chống đối quyết liệt hơn thông qua việc khiếu nại, tố cáo, do đó nâng cao

hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với thi hành án dân sự nói chung, đối

với các việc phải cưỡng chế đối với quyền sử dụng đất nói riêng có ý nghĩa

đặc biệt quan trọng đối với việc bảo đảm thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi

hành án dân sự đối với quyền sử dụng đất nhằm ngăn ngừa và giảm thiểu các

125

trường hợp lợi dụng các quy định pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo để

trốn tránh thi hành án, kéo dài thời gian thi hành án. Để nâng cao hiệu quả

công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo hạn chế mức thấp nhất bất cập, tồn tại

cần triển khai thực hiện tốt một số giải pháp như: tăng cường vai trò lãnh

đạo của cấp ủy Đảng, quản lý điều hành của chính quyền, đặc biệt là đề cao

trách nhiệm của Tổng cục thi hành án dân sự và các Cục thi hành án dân sự

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc bố trí cán bộ có đủ năng

lực, trình độ, năng lực và phẩm chất đảm nhiệm chức năng tiếp dân và

tham mưu giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo liên quan đến các vụ

việc tín dụng ngân hàng.

4.2.6. Tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan quản lý thi hành án

dân sự, cơ quan thi hành án dân sự với cơ quan, tổ chức liên quan

Công tác thi hành án dân sự là hoạt động mang tính thực tiễn, gắn bó

chặt chẽ với cơ sở, liên quan trực tiếp đến tài sản của đương sự, có ảnh hưởng

rất lớn đến đời sống và các quyền cơ bản của con người, đặc biệt là hiệu quả

phối hợp của hệ thống thi hành án dân sự với các cơ quan, tổ chức liên quan,

do đó việc tăng cường sự phối hợp trong thi hành án dân sự nói chung, trong

cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tầm

quan trọng của công tác phối hợp trong thi hành án dân sự thời gian qua đã

được thể hiện qua các quy chế phối hợp liên ngành giữa Bộ Tư pháp, Tổng

cục thi hành án dân sự và các ngành, cơ quan, tổ chức liên quan (như Tòa án

nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan Công an, cơ quan tài chính, cơ

quan bảo hiểm, kho bạc, ngân hàng...). Vì vậy, để nâng cao hiệu quả thi hành

án dân sự nói chung, hiệu quả cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng, các cơ

quan thi hành án dân sự cần bám sát các quy chế, tích cực phối hợp và tranh

thủ sự ủng hộ của các cơ quan, tổ chức liên quan để thực hiện tốt các nhiệm

vụ thi hành án.

126

4.2.7. Tăng cường kiểm sát, giám sát, thanh tra, kiểm tra đối với

hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự

Công tác kiểm sát, giám sát, thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động

cưỡng chế thi hành án dân sự có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thực

hiện đúng pháp luật thi hành án dân sự, đặc biệt là đối với chấp hành viên và

cơ quan thi hành án dân sự. Thực tế thời gian qua các cơ quan có thẩm quyền

đã thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình về kiểm sát, giám sát,

thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động thi hành án dân sự nói chung, cưỡng chế

thi hành án dân sự nói riêng, vì vậy đã kịp thời phát hiện những vi phạm,

thiếu sót trong quá trình cưỡng chế thi hành án dân sự của các cơ quan thi

hành án dân sự và kiến nghị khắc phục, xử lý kịp thời. Tuy nhiên, thời gian

qua vẫn còn những vi phạm của chấp hành viên trong cưỡng chế thi hành án

dân sự dẫn đến việc bồi thường nhà nước trong thi hành án dân sự. Ví dụ như:

năm 2017, toàn quốc có 32 vụ việc bồi thường đang được xem xét giải quyết

(năm trước chuyển sang là 19 vụ việc, thụ lý mới 13 vụ việc); kết quả có 06

vụ việc đã được cấp kinh phí bồi thường với tổng số tiền là 1 tỷ 283 triệu 980

nghìn 296 đồng và dự báo còn nhiều việc đương sự đang thực hiện các thủ tục

lập hồ sơ, khởi kiện ra Tòa án để đòi bồi thương nhà nước. Chính vì vậy, việc

tăng cường kiểm sát, giám sát, thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động cưỡng

chế thi hành án dân sự trong thời gian tới có ý nghĩa quan trọng trong việc

phòng ngừa vi phạm dẫn đến thiệt hại cho đương sự cũng như dẫn đến những

việc bồi thường trong thi hành án dân sự. Từ đó, các cơ quan có thẩm quyền

cần tiếp tục tăng cường công tác kiểm sát, giám sát, thanh tra, kiểm tra nhằm

phát hiện, ngăn chặn và uốn nắn kịp thời những vi phạm pháp luật của chấp

hành viên, công chức thi hành án trong cưỡng chế thi hành án dân sự, đặc biệt

là chú trọng kiểm tra, kiểm sát theo chuyên đề, theo đơn thư khiếu nại, tố cáo

của công dân; kiểm tra, kiểm sát theo kiến nghị của cử tri, nhất là kiểm tra,

127

kiểm sát đối với những việc thi hành án liên quan đến các tổ chức tín dụng,

ngân hàng có giá trị lớn và những vụ đại án mà tài sản liên quan đến nhiều địa

phương trong cả nước…Đặc biệt là, cơ quan quản lý thi hành án dân sự cần

phải thường xuyên kiểm tra đối với các cơ quan thi hành án dân sự nhằm đảm

bảo thực hiện đúng các trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm

hạn chế thấp nhất tình trạng để xảy ra sai sót, vi phạm và kịp thời chấn chỉnh,

khắc phục kịp thời những vi phạm có thể dẫn đến việc phải thực hiện trách

nhiệm bồi thường nhà nước.

4.2.8. Nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ Chấp hành viên,

công chức cơ quan thi hành án dân sự và đảm bảo các chế độ, chính sách

đãi ngộ tương xứng

Trong điều kiện hiện nay, sự phát triển kinh tế đã đưa lại nhiều thay

đổi, nâng cao điều kiện sống cho nhân dân, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều

vấn đề xã hội cần giải quyết, trong đó có sự gia tăng các tranh chấp, vì vậy có

thể nói rằng hiệu quả thi hành án dân sự nói chung, cưỡng chế thi hành án dân

sự nói riêng phụ thuộc vào năng lực của chủ thể trực tiếp thực hiện các nhiệm

vụ về thi hành án. Do đó, để đảm bảo hiệu quả thi hành án cũng như hiệu quả

cưỡng chế thi hành án dân sự, đòi hỏi phải không ngừng nâng cao năng lực thi

hành án của đội ngũ chấp hành viên, công chức các cơ quan thi hành án dân

sự, trong đó trung tâm là đội ngũ chấp hành viên. Từ đó đòi hỏi trong thời

gian tới, công tác xây dựng đội ngũ chấp hành viên, cán bộ, công chức các cơ

quan thi hành án dân sự phải theo hướng chuẩn hoá cụ thể đối với từng chức

danh, ngạch bậc đảm bảo các yêu cầu, điều kiện về chính trị, đạo đức, chuyên

môn, nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội để từ đó có kế hoạch bồi

dưỡng, đào tạo chuyên môn chuyên sâu và có các chế độ đãi ngộ phù hợp với

tính chất công việc, khả năng hoàn thành nhiệm vụ của mỗi chấp hành viên,

công chức các cơ quan thi hành án dân sự.

128

Để nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ chấp hành viên, cán bộ,

công chức trong hệ thống thi hành án dân sự, Tổng cục thi hành án dân sự cần

thường xuyên rà soát, đánh giá chất lượng đội ngũ chấp hành viên, cán bộ,

công chức, đặc biệt là đội ngũ chấp hành viên, Thẩm tra viên để từ đó có sự

đào tạo, bồi dưỡng đảm bảo về chuyên môn nghiệp vụ; đồng thời quan tâm

hơn nữa đến chế độ chính sách đãi ngộ tương xứng đối với đội ngũ công chức

làm công tác thi hành án dân sự…

4.2.9. Bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện tiến hành

cưỡng chế thi hành án dân sự

Kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ quan thi hành án

dân sự hiện nay còn rất hạn chế nên trong điều kiện làm việc khó khăn thì

chấp hành viên rất dễ bị dao động về lập trường tư tưởng và nguy cơ ngại áp

dụng biện pháp cưỡng chế hoặc thực hiện việc cưỡng chế thi hành án dân sự

chậm trễ, sai sót là khó tránh khỏi. Do đó, để đảm bảo hiệu quả cưỡng chế thi

hành án dân sự, tăng cường sự tích cực áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành

án dân sự thì phải đáp ứng đầy đủ và kịp thời kinh phí hoạt động cho cơ quan

thi hành án dân sự, tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động, đặc biệt

là xây dựng trụ sở, hệ thống kho tang vật, tài sản của các cơ quan thi hành án

dân sự. Đây cũng là giải pháp phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp trong

lĩnh vực thi hành án đã được định hướng tại Nghị quyết 49-NQ/TW, đó là

"từng bước xây dựng trụ sở làm việc của các cơ quan tư pháp khang trang,

hiện đại, đầy đủ tiện nghi". Theo đó, tăng cường mức tạm ứng chi phí cưỡng

chế thi hành án dân sự và kịp thời bổ sung tạm ứng chi phí cưỡng chế thi hành

án dân sự đã được quyết toán khoản do Ngân sách Nhà nước chịu. Trang bị

đầy đủ công cụ hỗ trợ để cấp cho chấp hành viên sử dụng theo quy định của

pháp luật, với các loại dùi cui điện, dùi cui cao su, găng tay điện; phương tiện

xịt hơi cay, chất gây mê; các loại súng dùng để bắn đạn nhựa, đạn cao su, hơi

cay, chất gây mê và các loại đạn sử dụng cho các loại súng này để góp phần

129

bảo vệ an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản của chấp hành viên và những

người khác tham gia cưỡng chế thi hành án dân sự.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4

Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự thời gian qua đã

góp phần quan trọng trong việc bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh các bản án,

quyết định có hiệu lực pháp luật; góp phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.

Tuy nhiên, yêu cầu bảo đảm nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện pháp luật

về cưỡng chế thi hành án dân sự là đòi hỏi tất yếu trong điều kiện xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì vậy, thực hiện pháp luật

về cưỡng chế thi hành án dân sự cần bám sát các quan điểm cơ bản sau là:

thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự phải đáp ứng yêu cầu về

xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền

con người, quyền công dân; đảm bảo huy động sự tham gia, phối hợp của các

cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan; phải phù hợp và phục vụ đường lối đổi

mới, chủ trương cải cách hành chính, cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước.

Một số giải pháp quan trọng để đảm bảo thực hiện pháp luật về cưỡng

chế thi hành án dân sự ở Việt Nam trong thời gian tới là: Tiếp tục hoàn thiện

pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự; đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến

pháp luật về thi hành án dân sự; Nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ chấp

hành viên, công chức các cơ quan thi hành án dân sự và đảm bảo các chế độ,

chính sách đãi ngộ cho đội ngũ chấp hành viên trong hệ thống thi hành án dân

sự; nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; tăng cường sự phối

hợp giữa cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự với cơ

quan, tổ chức liên quan; tăng cường kiểm sát, giám sát, thanh tra, kiểm tra và

tổng kết rút kinh nghiệm đối với hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự; chú

trọng thực hiện đúng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự; bảo đảm kinh

phí, cơ sở vật chất, phương tiện tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự.

130

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu, đánh giá tình hình tổng quan; cơ sở lý luận và đánh giá

thực trạng thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, luận án rút ra

một số nhận xét sau đây:

1. Để đảm bảo thực thi nghiêm chỉnh các bản án, quyết định có hiệu lực

pháp luật, cơ quan có thẩm quyền thi hành án dân sự được áp dụng các biện

pháp cưỡng chế nhân danh quyền lực Nhà nước khi người phải thi hành án và

tổ chức, cá nhân liên quan không tự nguyện thi hành án, cản trở việc thi hành

án. Đồng thời, để đảm bảo quyền con người, quyền công dân thì việc cưỡng

chế thi hành án dân sự phải trên cơ sở pháp luật; cơ quan có thẩm quyền thi

hành án dân sự và đương sự, cá nhân, tổ chức liên quan phải nghiêm chỉnh

thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự và pháp luật về cưỡng chế thi hành

án dân sự.

2. Trong cưỡng chế thi hành án dân sự có nhiều chủ thể có thẩm quyền

tham gia; nhiều biện pháp cưỡng chế được pháp luật cho phép áp dụng; có sự

đa dạng, đặc thù về đối tượng cưỡng chế thi hành án dân sự và chủ thể bị

cưỡng chế thi hành án dân sự…vì vậy, các quy định của pháp luật cũng như

các thiết chế có thẩm quyền cưỡng chế thi hành án dân sự cần phải được thiết

kế phù hợp với sự đa dạng và đặc thù đó.

3. Thi hành án dân sự là hoạt động đảm bảo thực hiện đầy đủ, kịp thời

bản án, quyết định về dân sự có hiệu lực thi hành theo trình tự, thủ tục pháp

luật quy định. Cưỡng chế thi hành án dân sự là việc chủ thể có thẩm quyền

thực hiện biện pháp cưỡng chế theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định để bảo

đảm thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định về dân sự có hiệu lực thi

hành. Bản chất cưỡng chế thi hành án dân sự là hoạt động của chủ thể có thẩm

quyền sử dụng quyền lực nhà nước làm chấm dứt, hạn chế: quyền sở hữu,

131

quyền chiếm hữu, quyền sử dụng tài sản của người phải thi hành án (kể cả tài

sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ) hoặc buộc người

phải thi hành án thực hiện hành vi hợp pháp hay chấm dứt hành vi trái pháp

luật trên cơ sở bản án, quyết định dân sự có hiệu lực thi hành.

4. Cưỡng chế thi hành án dân sự có một số đặc điểm là thể hiện

quyền lực nhà nước và được bảo đảm bằng quyền lực nhà nước; chủ thể bị

cưỡng chế không chỉ là người phải thi hành án mà còn những người liên

quan đến nghĩa vụ của người phải thi hành án; đối tượng của biện pháp

cưỡng chế thi hành án dân sự là tài sản hoặc hành vi của người phải thi

hành án; cưỡng chế thi hành án dân sự phải trên cơ sở căn cứ, điều kiện,

nguyên tắc pháp luật quy định.

5. Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự là quá trình

hoạt động có mục đích làm cho các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành

án dân sự đi vào cuộc sống và trở thành những hành vi thực tế của đương sự,

cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan trong thi hành án dân sự nhằm đảm bảo

thi hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Thực hiện

pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự có đặc điểm là: đảm bảo tính

độc lập và đề cao tính chủ động của cơ quan thi hành án dân sự và chấp

hành viên; đảm bảo tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự, bảo vệ

lợi ích của Nhà nước và xã hội; phải trên cơ sở các trình tự, thủ tục được

pháp luật quy định. Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự

được thể hiện qua 4 hình thức cơ bản là: tuân thủ pháp luật về cưỡng chế

thi hành án dân sự; thi hành pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự; sử

dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự; áp dụng pháp luật về cưỡng

chế thi hành án dân sự.

6. Nội dung thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự gồm:

thực hiện quy định của pháp luật về tổ chức thi hành án dân sự; thực hiện nội

132

dung quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, cưỡng chế thi hành án dân sự và

thực hiện các quy định của pháp luật đối với hoạt động cưỡng chế thi hành án

dân sự. Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự có một số vai trò

là: bảo đảm thực thi pháp luật; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà

nước, đương sự và tổ chức, cá nhân liên quan; góp phần nâng cao ý thức pháp

luật về thi hành án dân sự của đương sự và cá nhân, tổ chức và tăng cường

pháp chế; góp phần nâng cao hiệu quả của công tác điều tra, truy tố, xét xử và

thi hành án dân sự. Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự chịu

ảnh hưởng của một số yếu tố sau: điều kiện kinh tế - xã hội; tổ chức và hoạt

động của hệ thống thi hành án dân sự; năng lực tổ chức thi hành án của chấp

hành viên; ý thức chấp hành pháp luật của đương sự và cơ quan, tổ chức, cá

nhân liên quan và các điều kiện đảm bảo cho hoạt động của chấp hành viên,

Cơ quan thi hành án dân sự.

7. Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự đã không ngừng được

hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý hữu hiệu cho việc nâng cao hiệu quả công tác thi

hành án dân sự. Đặc biệt là các quy định pháp luật hiện hành đã quy định

tương đối cụ thể về các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự; thẩm quyền

cưỡng chế thi hành án dân sự; trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành án dân sự.

Trên sở các quy định pháp luật, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án

dân sự trong những năm qua đã đạt được những kết quả nhất định: Hệ thống

thi hành án dân sự được hình thành và hoạt động ngày càng hiệu quả; đội ngũ

chấp hành viên, công chức thi hành án dân sự được tăng cường; kết quả thi

hành án có sự chuyển biến qua các năm. Việc tổ chức cưỡng chế thi hành án

dân sự đáp ứng yêu cầu tuân thủ pháp luật, giảm thiểu việc huy động lực

lượng khi tham gia cưỡng chế.

8. Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự cũng còn những

tồn tại, hạn chế nhất định. Cụ thể là: nhiều quy định chung về cưỡng chế thi

133

hành án dân sự chưa khoa học, mâu thuẫn chồng chéo, khó thực hiện; một số

vấn đề chưa được pháp luật quy định; một số biện pháp cưỡng chế thi hành án

dân sự quy định khó thực hiện; vẫn còn nhiều vụ việc cưỡng chế thi hành án

dân sự chưa thành công; làm phát sinh khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài.

9. Để bảo đảm thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự cần

bám sát các quan điểm cơ bản sau là: thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi

hành án dân sự phải đáp ứng yêu cầu về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt

Nam xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền con người, quyền công dân; đảm bảo

huy động sự tham gia, phối hợp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan;

phải phù hợp và phục vụ đường lối đổi mới, chủ trương cải cách hành chính,

cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước.

10. Một số giải pháp quan trọng để đảm bảo thực hiện pháp luật về

cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam trong thời gian tới là: Tiếp tục hoàn

thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự; đẩy mạnh tuyên truyền, phổ

biến pháp luật về thi hành án dân sự; Nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ

chấp hành viên, công chức các cơ quan thi hành án dân sự và đảm bảo các chế

độ, chính sách đãi ngộ cho đội ngũ chấp hành viên trong hệ thống thi hành án

dân sự; nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; tăng cường sự

phối hợp giữa cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân

sự với cơ quan, tổ chức liên quan; tăng cường kiểm sát, giám sát, thanh tra,

kiểm tra và tổng kết rút kinh nghiệm đối với hoạt động cưỡng chế thi hành

án dân sự;chú trọng thực hiện đúng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân

sự; bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện tiến hành cưỡng chế thi

hành án dân sự.

134

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Bùi Đức Tiến (2014), "Quyền về thỏa thuận trong thi hành án dân sự",

Tạp chí Tòa án nhân dân, (24), tr.43.

2. Bùi Đức Tiến (2015), "Một số điểm mới của Luật sửa đổi, bổ sung Luật

thi hành án dân sự", Tạp chí Tòa án nhân dân, (24), tr.38.

3. Bùi Đức Tiến (2015), "Một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn hoạt

động thi hành án kinh tế trên địa bàn thành phố Hải Phòng", Tạp chí

Khoa học và kinh tế, (150), tr.13-14.

4. Bùi Đức Tiến (2015), "Một số khó khăn, vướng mắc về việc xử phạt vi

phạm hành chính trong thực tiễn hoạt động thi hành án dân sự", Tạp

chí Khoa học và kinh tế, (150), tr.57-58.

5. Bùi Đức Tiến (2016), "Một số vấn đề về cưỡng chế giao người chưa

thành niên cho người được nuôi dưỡng theo bản án, quyết định đề

xuất và kiến nghị", Tạp chí Tòa án nhân dân, (18), tr.43-45.

6. Bùi Đức Tiến (2016), "Một số vấn đề về cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản

là quyền sử dụng đất", Tạp chí Tòa án nhân dân, (20), tr.26.

7. Bùi Đức Tiến (2016), "Một số vấn đề về cưỡng chế thi hành án quyền sở

hữu trí tuệ", Tạp chí Cộng sản, (118), tr.60-63.

8. Bùi Đức Tiến (2017), "Sớm hoàn thiện quy định pháp luật thi hành án

dân sự về cưỡng chế trả nhà, giao nhà", Tạp chí Cộng sản, (127),

tr.58-60.

135

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoàng Thế Anh (2015), Giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện

nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

2. Nguyễn Công Bình (2000), Một số ý kiến về thi hành án dân sự, Hội

thảo khoa học, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.

3. Bộ Tư pháp (2014), Báo cáo số 63/BC-BTP ngày 13/3/2014 tổng kết 4

năm thi hành Luật Thi hành án dân sự, Hà Nội.

4. Hồ Quân Chính (2014), "Bất cập trong quy định về việc lập kế hoạch

cưỡng chế thi hành án dân sự", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (Số

chuyên đề về thi hành án dân sự), (33).

5. Chính phủ (2008), Tờ trình số 31/TTr-CP ngày 04/04/2008 về dự án

Luật thi hành án dân sự, Hà Nội.

6. Chính phủ (2012), Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt

Nam, Bản dịch tài liệu hội thảo, Chính phủ Việt Nam - Chương

trình Phát triển Liên hiệp quốc, Hà Nội.

7. Chính phủ (2014), Tờ trình số 120/TTr-CP ngày 08/05/2014 về dự án Luật

sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự, Hà Nội.

8. Chính phủ (2014), Báo cáo số 395/BC-CP ngày 14/10/2014 công tác thi

hành án năm 2014, Hà Nội.

9. Chính phủ (2015), Báo cáo số 566/BC-CP ngày 22/10/2015 công tác thi

hành án năm 2015, Hà Nội.

10. Chính phủ (2015), Báo cáo số 538/BC-CP ngày 19/10/2015 tổng kết việc

triển khai tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo Nghị

quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội, Hà Nội.

11. Chính phủ (2016), Báo cáo số 426/BC-CP ngày 17/10/2016 công tác thi

hành án năm 2016, Hà Nội.

136

12. Chính phủ (2017), Báo cáo số 439/BC-CP ngày 14/10/2017 công tác thi

hành án năm 2017, Hà Nội.

13. Lê Hùng Cường (2017), "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác

thi hành án dân sự hiện nay", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (Số

chuyên đề về thi hành án dân sự), (15).

14. N.M.Duchene (2008), Cưỡng chế phạt tiền và cưỡng chế trả nhà, Tài

liệu hội thảo về dự thảo Luật thi hành án dân sự, Hà Nội.

15. Lê Thị Lệ Duyên (2013), "Những vướng mắc trong phối hợp thực hiện quy

định về cưỡng chế trả giấy tờ", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (02).

16. Lê Thị Lệ Duyên (2013), "Bàn về quan hệ phối hợp giữa cơ quan thi

hành án với các cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự", Tạp

chí Dân chủ và Pháp luật, (01).

17. Nguyễn Tấn Dũng (2008), Bài phát biểu tại Hội nghị triển khai công

tác năm 2009 của Ngành Tư pháp, Hà Nội, ngày 29/12/2008.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

24. Lê Thu Hà (Chủ biên) (2009), Sổ tay chấp hành viên, Nxb Thống kê,

Hà Nội.

137

25. Lê Thu Hà (2011), Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật thi hành án

dân sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Vũ Trọng Hách (2006), Hoàn thiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực

thi hành án hình sự ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

27. Nguyễn Thị Thúy Hằng (2017), "Thực tiễn áp dụng biện pháp bảo đảm

và cưỡng chế thi hành án dân sự tại thành phố Huế", Tạp chí Dân

chủ và Pháp luật, (Số chuyên đề về thi hành án dân sự), (9).

28. Lê Võ Hồng Hạnh (2013), "Chi phí cưỡng chế thi hành án trong trường

hợp bảo lãnh sẽ do ai chịu", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (7).

29. Chu Thị Hoa (2012), "Mô hình tổ chức thi hành án dân sự công ở một số

nước trên thế giới", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (Số chuyên đề

về thi hành án dân sự), (26).

30. Học viện Tư pháp (2005), Kỹ năng thi hành án dân sự, Nxb Thống kê,

Hà Nội.

31. Trần Phương Hồng (2012), Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự áp

đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học

viện Xã hội, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

32. Hoàng Thọ Khiêm (chủ biên, 2006), Đổi mới tổ chức cơ quan thi hành

án, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

33. Tuấn Lê (2010), "Một số vấn đề lưu ý chung về cưỡng chế thi hành án

dân sự", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (Số chuyên đề về thi

hành án dân sự), (20).

34. Hoàng Thế Liên (chủ nhiệm đề tài), (2006), Cơ sở lý luận và thực tiễn

hoàn thiện cơ chế bảo đảm sự giám sát của nhân dân đối với

hoạt động của cơ quan tư pháp, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Bộ Tư

pháp, Hà Nội.

35. Mai Kim Liên (2006), "Nâng cao tính độc lập trong hoạt động của các

cơ quan thi hành án", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (số chuyên

đề về Thi hành án dân sự), tr.31- 47.

138

36. Trần Huy Liệu (2003), Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan

tư pháp theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam,

Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

37. Nguyễn Công Long (2000), Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân

sự, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ Luật

học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

38. Nguyễn Đình Lộc (Chủ nhiệm) (2004), Luận cứ khoa học và thực tiễn

của việc đổi mới tổ chức hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong

giai đoạn mới, Đề tài khoa học cấp nhà nước độc lập, Hà Nội.

39. Nguyễn Văn Luyện, Nguyễn Thanh Thủy (Chủ biên) (2012), Sổ tay

Nghiệp vụ thi hành án dân sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

40. Nguyễn Văn Lực, Đào Anh Dũng (2008), "Thực trạng về án tồn đọng và

những giải pháp của thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh",

Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (Số chuyên đề về thi hành án dân

sự), (17).

41. Lê Thị Tuyết Minh (2012), "Một số giải pháp để giải quyết hiệu quả việc

thi hành án dân sự tồn đọng", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (Số

chuyên đề thi hành án dân sự), (14).

42. Nhà pháp luật Việt - Pháp (2006), Tài liệu hội thảo Quốc tế các mô hình

tổ chức thi hành án trên thế giới, Bộ Tư pháp, Hà Nội.

43. Nhà pháp luật Việt - Pháp (2008), Tài liệu hội thảo dự thảo Luật thi

hành án dân sự, Bộ Tư pháp, Hà Nội.

44. M.D.Parrish (2010), Thi hành các phán quyết của Hoa Kỳ ở Canađa:

Hướng dẫn thực tế, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

45. Nguyễn Thanh Phương (2011), Biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản

trong thi hành án dân sự, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại

học Luật, Hà Nội.

46. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Bộ luật Tố

tụng hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

139

47. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp

nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

48. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Cạnh

tranh, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

49. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Nhà ở,

Nxb Tư pháp, Hà Nội.

50. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Phá

sản, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

51. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật thi

hành án dân sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

52. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Trọng

tài thương mại, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

53. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật

Dân sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

54. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật

Hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

55. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật Tố

tụng dân sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

56. Đặng Đình Quyền (2012), Hiệu quả áp dụng pháp luật trong thi hành án

dân sự ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị -

Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

57. Sakai (2013), Bán và phân chia tài sản trong cưỡng chế thi hành, Tài

liệu hợp tác của Tổ chức JICA Nhật Bản, Nhật Bản.

58. Bùi Văn Tấn (2014), "Một số vướng mắc trong việc kê biên, bán đấu giá

quyền sử dụng đất nông nghiệp ở Đồng Tháp", Tạp chí Dân chủ và

Pháp luật, (3).

59. Lê Thị Hoàng Thanh (2012), "Đánh giá các quy định pháp luật về thi hành

án dân sự hiện hành trong mối quan hệ với hệ thống pháp luật", Tạp

chí Dân chủ và Pháp luật, (Số chuyên đề thi hành án dân sự), (10).

140

60. Nguyễn Quang Thái (2008), Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động

thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

61. Điền Đức Thành (2010), "Tìm hiểu về tổ chức thi hành án của nước

Cộng hòa Pháp", tại trang http://www.hcmcbar.org, [truy cập ngày

16/12/2017].

62. Lại Anh Thắng (2010), Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh

Bà Rịa - Vũng Tàu, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị -

Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

63. Trần Công Thịnh (2008), "Thực tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế kê

biên tài sản để thi hành án dân sự và một số khuyến nghị", Tạp chí

Khoa học, (24).

64. Nguyễn Thanh Thuỷ, Lê Thị Kim Dung (Chủ biên) (2010), Xử lý tình

huống trong thi hành án dân sự và các văn bản pháp luật về thi

hành án dân sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

65. Nguyễn Thanh Thuỷ (2008), Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở

Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

66. Phan Hữu Thư, Lê Thu Hà (Chủ biên) (2005), Giáo trình kỹ năng thi

hành án dân sự, Nxb Thống kê, Hà Nội.

67. Tòa án nhân dân tối cao (1966), Thông tư số 4-NCPL ngày 14/4 hướng dẫn

việc cưỡng chế kê biên tài sản, Kỷ yếu hội thảo cấp Bộ, Hà Nội.

68. Tổng cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp (2013), Báo cáo tổng kết công

tác năm 2013, Hà Nội.

69. Tổng cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp (2014), Báo cáo tổng kết công

tác năm 2014, Hà Nội.

70. Tổng cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp (2015), Báo cáo tổng kết công

tác năm 2015, Hà Nội.

141

71. Tổng cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp (2016), Báo cáo tổng kết công

tác năm 2016, Hà Nội.

72. Tổng cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp (2017), Báo cáo tổng kết công

tác năm 2017, Hà Nội.

73. Nguyễn Thùy Trang (2012), "Hoàn thiện các quy định pháp luật về trình tự,

thủ tục thi hành án dân sự", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (12).

74. Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật thi hành án dân sự

Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

75. Lê Anh Tuấn (2004), "Một số ý kiến về biện pháp cưỡng chế trừ vào thu

nhập của người phải thi hành án", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật -

Bộ Tư pháp, (số chuyên đề thi hành án dân sự), (18).

76. Lê Anh Tuấn (2010), "Cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải

thi hành án", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật - Bộ Tư pháp, (Số

chuyên đề thi hành án dân sự), (7).

77. Lê Anh Tuấn (2013), "Một số vấn đề về kê biên, bán đấu giá quyền sử

dụng đất để thi hành án", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (9).

78. Lê Anh Tuấn (2013), "Chấp hành viên giữ vai trò quyết định trong

cưỡng chế thi hành án dân sự", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (số

chuyên đề thi hành án dân sự), (11).

79. Lê Anh Tuấn (2014), "Bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong

công tác thi hành án dân sự", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (số

chuyên đề thi hành án dân sự), (22).

80. Lê Anh Tuấn (2015), "Những nội dung mới về cưỡng chế thi hành án

dân sự", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (số chuyên đề thi hành án

dân sự), (27).

142

81. Trịnh Văn Tuyên (2013), "Tạm dừng việc cưỡng chế thi hành án dân

sự được áp dụng trong trường hợp nào", Tạp chí Dân chủ và

Pháp luật, (01).

82. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1993), Pháp lệnh Thi hành án dân sự,

Hà Nội.

83. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh 13/2004/PL-

UBTVQH11 ngày 14/01/2004 về Thi hành án dân sự, Hà Nội.

84. Viện Khoa học pháp lý, Bộ Công an (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ

điển Bách khoa, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

85. Viện Ngôn ngữ học (2001), Từ điển tiếng Việt, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

86. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (tháng 5/2000), Xã hội hoá

hoạt động thi hành án dân sự - một số vấn đề lý luận và thực tiễn,

Thông tin Khoa học pháp lý, Hà Nội.

87. Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp (tháng 6/2002), Một số vấn đề về

tổ chức và hoạt động thi hành án hiện nay, Thông tin khoa học

pháp lý, Hà Nội.

88. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2005), Luận cứ khoa học và

thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở

Việt Nam trong giai đoạn mới, Báo cáo phúc trình đề tài cấp nhà

nước độc lập, Hà Nội.

89. Viện Nhà nước và Pháp luật Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia

Hồ Chí Minh (2011), Tài liệu học tập môn học Lý luận chung về

Nhà nước và Pháp luật, tập 1, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

90. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa

thông tin, Hà Nội.