BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VŨ XUÂN ĐỊNH
NHÂN VẬT BẤT HẠNH
TRONG TRUYỆN NGẮN LỖ TẤN
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2006
LỜI CÁM ƠN
Tôi xin được tri ân công lao truyền thụ kiến thức của tập thể quý thầy, cô khoa ngữ văn
trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ chí giành cho chúng tôi, học viên cao học khoá 14.
Tôi xin chân thành, cám ơn sự nhiệt thành giúp đỡ của ban giám hiệu trường Đại học Sư
phạm thành phố Hồ Chí Minh, phòng khoa học công nghệ -sau đại học, cùng tất cả các bạn
đồng học, đồng sự đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn tất luận văn cao học này.
Tôi xin đặc biệt tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS-TS Hồ Sĩ Hiệp – một người thầy đã tận
tụy, không ngại khó khăn, nhọc nhằn hướng dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu – học tập và
hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin trân trọng đón nhận và biết ơn sự khích lệ, động viên của khoa Trung văn va
gia đình trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học.
Một lần nữa xin chân thành cảm tạ tất cả.
Tp. HCM, tháng 6 - 2006.
Học viên
Vũ Xuân Định
3
MỤC LỤC
LỜI CÁM ƠN ................................................................................................................... 3
MỤC LỤC ......................................................................................................................... 4
MỞ DẦU ............................................................................................................................ 7
1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ......................................................................................................... 7
2.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ................................................................................................................ 8
3.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................................................ 10
4.ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN ........................................................................................... 11
5.KẾT CẤU LUẬN VĂN ....................................................................................................... 12
CHƯƠNG 1: CUỐC ĐỜI, TƯ TƯỞNG VÀ SỰ NGHIÊP SÁNG TÁC CỦA LỖ
TẤN .................................................................................................................................. 15
1.1.THỜI ĐẠI VÀ THÂN THỂ: ........................................................................................... 15
1.1.1.Thuở ấu thơ ................................................................................................................ 15
1.1.2.Tuổi trưởng thành ...................................................................................................... 19
1.2. TƯ TƯỞNG VĂN NGHỆ ............................................................................................... 22
1.2.1.Các giai đoạn phát triển tư tưởng .............................................................................. 22
1.2.2.Các giai đoan phát triển tư tưởng văn nghệ ............................................................... 23
1.2.3.Tư tưởng văn nghệ tiến bộ ......................................................................................... 28
1.3.SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC: ............................................................................................... 32
1.3.1.Khối lượng sáng tác đồ sộ ......................................................................................... 32
1.3.2.Tác phẩm vì con người .............................................................................................. 33
CHƯƠNG 2 : THÂN PHẬN CON NGƯỜI BẤT HẠNH TRONG TÁC PHẨM
CỦA LỖ TẤN.................................................................................................................. 36
2.1.NGƯỜI NÔNG DÂN BẤT HẠNH .................................................................................. 36
2.1.1.Người nông dân muốn làm nô lệ ............................................................................... 38
2.1.2.Người nông dân tạm được làm nô lệ ......................................................................... 43
4
2.1.3.Người nông dân tha hóa ............................................................................................ 45
2.2.NGƯỜI TRÍ THỨC BẤT HẠNH .................................................................................... 48
2.2.1.Người trí thức đang "chết mòn" ................................................................................ 51
2.2.2.Người trí thức tiểu tư sản ........................................................................................... 53
2.2.3.Người trí thức giác ngộ .............................................................................................. 57
2.3.NGƯỜI PHỤ NỮ BẤT HẠNH ....................................................................................... 63
2.3.1.Người phụ nữ bất hạnh do mê muội .......................................................................... 64
2.3.2.Người phụ nữ có tinh thần phản kháng ..................................................................... 66
2.3.3.Người nữ trí thức bất hạnh ........................................................................................ 70
2.4.NHÂN VẬT BẤT BÌNH THƯỜNG ................................................................................ 74
2.4.1.Nhân vật có hình dáng bất thường ............................................................................. 75
2.4.2.Nhân vật có tâm lý, tính cách và hành động bất thường ........................................... 77
CHƯƠNG 3: LÝ GIẢI NGUYÊN NHÂN ................................................................... 85
3.1.TƯ TƯỞNG NHÂN SINH CỦA TÁC GIẢ .................................................................... 85
3.1.1.Tinh thần cách mạng. ................................................................................................. 85
3.1.2.Mổ xẻ lạnh làng bệnh tật xã hội ................................................................................ 86
3.1.3.Am hiểu sâu sắc số phận bất hạnh. ............................................................................ 91
3.2.NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ ............................................................................................... 93
3.3.Ý NGHĨA THỜI ĐẠI - THỜI SỰ. .................................................................................. 97
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 104
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 108
Tiếng Việt .............................................................................................................................. 108
Tiếng Trung Quốc ................................................................................................................ 111
5
6
MỞ DẦU
1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đề tài nhân vật trong truyện ngắn Lỗ Tấn, có khá nhiều sách tham khảo của các nhà
nghiên cứu ở Việt Nam, Trung Quốc và các nước khác. Đã có rất nhiều khía cạnh về Lỗ Tấn
được bàn luận, học tập, phê bình như: Tư tưởng văn nghệ, tư tưởng chính trị, quá trình sáng
tác, cuộc đời cá nhân, phong cách văn chương ... thể hiện ở trên mọi thể loại sáng tác của ông:
truyện ngắn, tạp văn, thơ, kịch... Tuy nhiên, phân tích những nhân vật bất hạnh để đi đến khẳng
định giá trị nhân văn trong truyện ngắn của Lỗ Tấn là một đề tài mang tính chuyên biệt lâu nay
chưa có tác giả nào tìm hiểu giải quyết. Chọn nghiên cứu đề tài này trong tổng thể giá trị các
tác phẩm của Lỗ Tấn, luận văn nhằm hướng đến sự khẳng định giá trị tư tưởng, nghệ thuật của
các tác phẩm Lỗ Tấn nhất là trong truyện ngắn- một thể loại văn học nổi bật của nhà văn.
Truyện ngắn Lỗ Tấn khá phổ biến với quần chúng nhân dân Trung Hoa và trên thế giới. Ở
Việt Nam các tác phẩm có sức thu hút bởi cốt truyện, bút pháp sâu sắc và nghệ thuật xây dựng
nhân vật độc đáo...Tác phẩm của Lỗ Tấn cũng được đưa vào giảng dạy trong chương trình văn
học, các khoa Văn ở trường Đại học, Cao đẳng và trường phổ thông. Hơn nữa, những nhân vật
của Lỗ Tấn cũng là những hình tượng hết sức gần gũi, thân thiết với nhân dân Việt Nam trước
đây và hiện nay.
Riêng với người viết, việc tìm hiểu và phân tích các nhân vật bất hạnh trong truyện ngắn
Lỗ Tấn còn là luận văn tổng kết những chặng đường nghiên cứu về chuyên ngành văn học
Trung Quốc, về Lỗ Tấn của bản thân từ khoa luận đại học đến luận văn cao học. Người viết
yêu mến Lỗ Tấn trước tiên và nhiều nhất là ở phẩm chất hiếm có của một trí thức "ưu thời mẫn
thế", quan tâm và tự nhận lãnh trách nhiệm, của bản thân và vai trò của kẻ sĩ trong xã hội một
cách tự giác. Điều mà những tác gia lớn như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ (Trung .Quốc), Nguyễn
Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Bỉnh Khiêm (Việt Nam) đã từng làm. Bên cạch đó những nhân vật
trong truyện ngắn của ông càng đọc lại càng thấy hay mà qua mỗi thời kỳ, qua nhiều chiêm
nghiệm, từng trải, suy tư người viết càng thấy lấp lánh những giá trị vĩnh hằng của nó. Vì vậy,
khám phá thân phận nhân vật bất hạnh trong truyện ngắn Lỗ Tấn sẽ giúp chúng tôi sáng tỏ
7
thêm một số vấn đề về kiểu nhân vật tiêu biểu này trong sáng tác của Lỗ Tấn. Những khám phá
ấy sẽ rất bổ ích cho chúng ta trong việc giảng dạy văn học Trung Quốc cũng như văn học
phương đông, trong việc hoàn thiện nhân cách làm Người, nhất là trong giai đoạn hiện nay giai
đoạn quyền sống quyền làm người và con người bất hạnh được xã hội đang rất quan tâm.
Thực hiện luận văn này chính là một dịp để người nghiên cứu có điều kiện tìm hiểu nắm
vững, đi đến tìm hiểu sâu hơn những giá trị to lớn mà nền văn học Trung Hoa, cái nôi của nền
văn minh thế giới mang lại cho nhân loại. Kết quả nghiên cứu không chỉ đóng góp thêm một
suy nghĩ, cách đánh giá ở bình diện mới về Lỗ Tấn và tác phẩm của ông mà còn cảm nhận
thêm được sự rực rỡ của nền văn hoa và văn minh Trung Hoa nói riêng và châu Á nói chung
trong việc xây dựng nhân vật, miêu tả thân phận con người ở mọi thời đại và mọi quốc gia.
Với mong muốn soi sáng vấn đề cốt tủy của luận văn, chúng tôi cố gắng phân tích từng
tính cách, hành động của nhân vật để làm rõ thân phận bất hạnh của họ. Qua việc tìm hiểu nhân
vật bất hạnh trong truyện ngắn của Lỗ Tấn chúng ta hiểu thêm ý thức công dân và tinh thần
nhân đạo, nhân văn cao cả của ông.
2.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Ở Việt Nam, Lỗ Tấn là nhà văn hiện đại Trung Quốc được giới thiệu và nghiên cứu sớm
nhất. Ngay từ 1931 Vũ Ngọc Phan có dịch truyện ngắn "Khổng Ất Kỷ" ra tiếng Việt. Sau đó,
một số bài giới thiệu về văn học hiện đại, có nhắc qua về Lỗ Tấn như các tác giả Trực Tâm,
Nguyễn Tiến Lãng, Phan Khôi... nhưng ý kiến còn rất sơ lược. Phải đến Đặng Thai Mai thì việc
giới thiệu về Lỗ Tấn và văn hoa, văn học hiện đại Trung Quốc mới có hệ thống và sâu sắc. Từ
năm 1942, Đặng Thai Mai bắt đầu dịch và giới thiệu Lỗ Tấn rất nhiều và cho ra đời tập sách
"Lỗ Tấn, thân thế, văn nghiệp" - (NXB Thời đại -1944). Tập sách này có khoảng 50 trang viết
về thân thế, nhân cách và địa vị Lỗ Tấn trong nền văn học hiện đại Trung Quốc, phần còn lại là
tuyển dịch tác phẩm Lô Tấn.
Nếu Đặng Thai Mai có công khởi đầu thì Trương Chính là người khai phá và mở rộng
việc giới thiệu Lỗ Tấn. Ngoài việc dịch truyện ngắn, tạp văn Lỗ Tấn một cách tương đối hệ
thống và hoàn chỉnh ông còn viết cuốn Lỗ Tấn (NXBVăn hoa, 1977) nói về cuộc đời Lỗ Tấn,
trong đó có những chi tiết cần thiết trong việc phân tích nhân vật; một loạt bài báo liên quan
8
đến nhân vật như về A.Q, về vai trò của Lỗ Tấn trong văn học Ngũ Tứ. Tiếp theo Trương
Chính, nhiều tác giả đã có những nghiên cứu về Lỗ Tấn rất đáng chú ý đó là: những ý kiến về
cách xây dựng nhân vật, về các kiểu nhân vật cua Lỗ Tấn. Trong các giáo trình về văn học
Trung Quốc các nhà nghiên cứu cũng dành một khối lượng đáng kể cho Lỗ Tấn và nhân vật
của ông. Cụ thể như "Giáo ưình văn học Trung Quốc" của Lương Duy Thứ( 80 trang từ trang
317-397), "Lịch sử văn học Trung Quốc" của Trần Xuân Đề: (27 ừang từ trang 251-277), "Văn
học Trung Quốc hiện đại" của Nguyễn Hiến Lê: (23 trang từ trang 137-160). Ngoài ra, chúng
tôi cũng tham khảo một số bài báo về nhân vật Lỗ Tấn: "Ý nghĩa điển hình của nhân vật A.Q"
(Nguyễn Năm, Tạp chí Văn học số 10-1961), "Thế giới nhân vật dị dạng trong truyện
ngắn Lỗ Tấn" (Lê Nguyên Cẩn, Tạp chí văn học số 10-2001), "Số phận con người trong văn
chương Lỗ Tấn", (Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn), "Đôi điều so sánh giữa A.Q
và Chí Phèo" (Phạm Tú Châu trong cuốn Đi giữa đỗi dòng, NXB Khoa học xã hội 1999), một
số luận văn cao học, luận án tiến sĩ liên quan đến nhân vật của Lỗ Tấn: về hình tượng người
nông dân, hình tượng người tri thức, người phụ nữ hoặc so sánh giữa Lỗ Tấn và Nam Cao, giữa
Lỗ Tấn và Sê khấp. Đó cũng là một nguồn tư liệu tham khảo đáng quý. Qua đó, chúng tôi cũng
đã có sự chắt lọc, tìm tòi để làm rõ hơn số phận các nhân vật bất hạnh trong truyện ngắn Lỗ
Tấn. Đó cũng chính là mục đích nghiên cứu của đề tài này tức la tìm đến tận cùng số phận con
người thông qua các nhân vật, đó cũng là một hướng tiếp cận mang tính chuyên sâu cần được
định hướng rõ nét hơn trong việc nghiên cứu văn học nhất là nghiên cứu về nhân vật, con
người - trọng tâm của tác phẩm văn học.
Trong quá trình thu thập, tìm hiểu, đọc nhiều tài liệu tham khảo có liên quan tới đề tài
chúng tôi cũng nhận thấy các bài viết của tập thể tác giả phòng nghiên cứu văn học thuộc Viện
khoa học xã hội Trung quốc, phần nghiên cứu của các giáo sư Việt Nam như Đặng Thai Mai,
Trương Chính, Bùi Văn Ba, Lương Duy Thứ, Trần Xuân Đề ... đã gợi mở cho chúng tôi rất
nhiều trong việc việc tìm hiểu các nhân vật trong truyện ngắn Lỗ Tấn.
Nhìn chung, việc nghiên cứu về nhân vật bất hạnh trong truyện ngắn Lỗ Tấn tại Việt nam
đã có nhiều công trình nhưng còn lẻ tẻ và chưa có hệ thống. Tuy nhiên, do vấn đề này là vấn đề
mới, chưa được nhiều tác giả nêu lên thành một công trình nghiên cứu riêng. Vì vậy, với tất cả
sự cố gắng của mình, cùng những ý tưởng đã được các vị học giả đi trước khám phá chúng tôi
9
cố gắng tìm tòi, nhằm đưa ra những minh chứng mới, phục vụ cho chủ đề chính của đề tài:
Nhân vật bất hạnh trong truyện ngắn Lỗ Tấn. Như tên gọi đề tài này chỉ giới hạn đến sự bất
hạnh, nghĩa là một mảng nhân vật trong vô số nhân vật mà nhà văn đã tạo ra.
3.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để đạt mục đích và đối tượng nghiên cứu tìm hiểu nhân vật bất hạnh trong truyện ngắn
Lỗ Tấn, luận văn chúng tôi sẽ thực hiện các phương pháp nghiên cứu sau đây:
■Phương pháp xử lý tư liệu:
Đối với tác phẩm truyện ngắn Lỗ Tấn: Với thái độ tôn trọng công sức của người dịch,
chúng tôi sử dụng bản dịch (tất nhiên có ghi xuất xứ rõ ràng). Những tác phẩm nào có nhiều
bản dịch, chúng tôi chọn bản dịch tốt nhất. Chúng tôi chủ yếu sử dụng bản dịch của Trương
Chính. Những bản dịch của Phan Khôi, Giản Chi, Nguyễn Hữu Văn người viết chỉ dùng để
tham khảo.
Đối với các tư liệu nghiên cứu-phê bình về Lỗ Tấn: chúng tôi cố gắng sử dụng tư liệu gốc
sưu tầm được bằng tiếng Hoa. Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng thêm các tư liệu do những nhà
nghiên cứu Việt Nam viết hoặc dịch.
■Phương pháp nghiên cứu chung:
Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để xem xét hệ thống nhân vật
trong truyện ngắn của Lỗ Tấn. Từ đó tìm ra đặc điểm điển hình và đặc trưng của nhân vật. Đặc
điểm này gắn bó chặt chẽ với hoàn cảnh lịch sử-kinh tế-xã hội nhất định, đồng thời cũng có
liên quan chặt chẽ với sự phát triển tư tưởng, chính trị, đạo đức của nhà văn. Nó cũng chịu ảnh
hưởng của các nhân vật trong văn học Trung Quốc truyền thống, liên quan đến những trào lưu
thế giới mà nhà văn có tiếp xúc và tiếp tục phát triển trong điều kiện xã hội và lịch sử Trung
Quốc.
Tim hiểu về hệ thống nhân vật bất hạnh của Lỗ Tấn, chúng tôi cố gắng xem xét tất cả các
điều kiện ấy với một thái độ khách quan, trung thực nhằm làm nổi bật tính chất "bất hạnh" của
nó trong mọi hoàn cảnh và sự việc cụ thể khác nhau.
■ Các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
10
Phương pháp hệ thống-phân tích: Chúng tôi thống kê những truyện ngắn để hình thành
một hệ thống những loại nhân vật trong truyện ngắn Lỗ Tấn và phân tích một cách thấu đáo
từng tính cách của mỗi con người ở những hoàn cảnh khác nhau.
Phương pháp nghiên cứu-so sánh: Trong khi tìm hiểu hệ thống nhân vật của Lỗ Tấn, luận
văn luôn đặt hệ thống này trong tình hình chung của văn học Trung Quốc, so sánh với những
tác gia Trung Quốc và thế giới cùng thời kỳ cùng thể loại để thấy được những cách tân, đóng
góp của Lỗ Tấn về mặt xây dựng nhân vật trong tiến trình hiện đại hoa văn học Trung Quốc
theo đặc điểm của nền văn học dân chủ mới từ sau phong trào "Ngũ Tứ" 1919.
về đối tượng nghiên cứu cụ thể là tác phẩm Lỗ Tấn, chủ yếu là các truyện ngắn của ông,
ngoài ra chúng tôi còn tham khảo thêm các tạp văn, thơ, kịch, nhật ký, nghiên cứu.Những tác
phẩm nào đã dịch ra tiếng Việt thì người viết sử dụng bản dịch (chủ yếu là của Trương Chính),
còn những văn bản nào chưa được dịch sang tiếng Việt thì tham khảo qua bản tiếng Hoa. Điều
đó đòi hỏi người viết một sự cố gắng lớn trong khi khả năng Hoa văn và Ngữ văn còn hạn chế.
4.ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Luận văn là một công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên của người viết tìm hiểu về vấn
đề này. Người viết đã chú ý khảo sát một cách cặn kẽ, nghiêm túc về nhân vật bất hạnh trong
truyện ngắn Lỗ Tấn. Từ việc tìm hiểu lịch sử vấn đề, phân loại, phân tích và so sánh các hình
tượng nhân vật, luận văn khái quát những vấn đề lý luận cụ thể. Qua luận văn, chúng tôi hy
vọng có một số đóng góp cụ thể như sau:
- Luận văn góp phần kiểm tra lại tình hình tư liệu về nghiên cứu Lỗ Tấn một cách toàn
diện, đầy đủ và hệ thống về hình tượng nhân vật, về số phận của các nhân vật mà nhà văn miêu
tả.
- Luận văn đưa ra một hệ thống tương đối đầy đủ về nhân vật bất hạnh trong truyện ngắn
Lỗ Tấn nhăm góp phần vào việc nghiên cứu Lỗ Tấn ở Việt Nam trên bình diện khảo sát, bình
luận nhân vật.
- Luận văn xem xét hệ thống nhân vật bất hạnh trong truyện ngắn Lỗ Tấn với một cái nhìn
mới hiện đại và cởi mở. Việc đơn thuần gắn nó với những đặc điểm chính trị- xã hội hoặc gạt
bỏ tất cả chỉ xem xét bản thân tác phẩm một cách cực đoan đều không được luận văn đề cập
11
đến. Nhân vật của Lỗ Tân được luận văn xem xét trên quan điểm gắn nó với những đặc điểm
chính trị- xã hội và tư tưởng thời đại, đồng thời cũng liên hệ với phong cách, cá tính, tố chất,
cuộc đời của Lỗ Tấn- người sáng tạo nên tác phẩm- người mở đường cho chủ nghĩa nhân đạo
trong nền văn học mới.
Dưới góc độ thưởng thức và tiếp nhận, kết quả của hướng nghiên cứu với ý nghĩa nhân
sinh sẽ đóng góp ý kiến bổ sung vào việc tìm hiểu giá trị tác phẩm. Điều này mang ý nghĩa sâu
sắc trong việc thưởng thức, tiếp nhận, góp phần vào khẳng định những giá tri trong các tác
phẩm của Lỗ Tấn đối với đương thời và hậu thế.
Từ sự tìm hiểu về nhân vật bất hạnh, luận văn đi đến khẳng định: với sự vận dụng sáng
tạo và tư duy nghệ thuật độc đáo Lỗ Tấn đã chiêm nghiệm và thể hiện nhuần nhuyễn ý tưởng
về con người trong xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ ở nhiều bình diện khác nhau. Tuy nhiên vấn
đề đặt ra khá lớn nhưng khả năng người nghiên cứu dù đã có những cố gắng cũng không tránh
khỏi những sơ xuất, rất mong được sự chỉ dẫn giúp đỡ của các nhà nghiên cứu, các chuyên gia
văn học trong lĩnh vực này.
5.KẾT CẤU LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu (8 trang) và phần kết luận (3 trang), nội dung của luận văn được sắp
xếp thành ba chương như sau:
- Chương một: Cuộc đời tư tưởng và sự nghiệp sáng tác của Lỗ Tấn (23 trang)
- Chương hai: Thân phận con người bất hạnh trong tác phẩm của Lỗ Tấn (62 trang)
- Chương ba: Lý giải nguyên nhân (25 trang)
Phần chú giải trong luận văn được trình bày theo quy ước như sau [stt, tr ], với stt là số
thứ tự của tài liệu trong phần tài liệu tham khảo, còn là số trang của phần trích dẫn trong tài liệu
đó. Kết cấu của luận văn thể hiện đầy đủ và sáng rõ quan điểm nghiên cứu của người viết. Kết
cấu này là sự suy nghĩ bước đầu của một vấn đề khó, rộng lớn.
12
Chủ Tịch Hổ Chí Minh tiếp bà Hứa Quảng Bình Tác giả cuốn sách "Hồi ức về Lỗ Tấn"
Trong dịp Bà cùng đoàn đại biểu Quốc Hội Trung Quốc thăm Việt Nam 9/1962
13
14
CHƯƠNG 1: CUỐC ĐỜI, TƯ TƯỞNG VÀ SỰ NGHIÊP SÁNG TÁC
CỦA LỖ TẤN
1.1.THỜI ĐẠI VÀ THÂN THỂ:
1.1.1.Thuở ấu thơ
Như chúng ta đã biết, sách báo nghiên cứu và giới thiệu về Lỗ Tấn tương đối nhiều, đặc
biệt sách báo giới thiệu về thời đại, thân thế của ông ở Việt Nam không phải là ít. Tìm hiểu ông
qua các sách tham khảo khó có hy vọng tìm được điểm gì mới mẻ vẻ cuộc đời ông và đó cũng
không phải là mục đích chính của luận văn này. Song việc điểm qua một số nét chính về thời
đại và thân thế của tác giả là điều cần thiết giúp cho chúng ta có điều kiện hiểu rõ hơn về sự
ảnh hưởng của thời đại, gia đình đối với việc lựa chọn con đường đi, sự hình thành tư tưởng và
các sáng tác sau này của ông đồng thời góp phần lý giải "cái hồn" hình tượng nhân vật bất hạnh
trong các tác phẩm Lỗ Tấn.
Cuộc đời Lỗ Tấn trải qua hai giai đoạn lịch sử: Cận đại (1840-1919) và hiện đại (1919-
1949). Đó là 80 năm đầy biến động, đau khổ và tủi nhục của nhân dân Trung Hoa dưới chế độ
thực dân nửa phong kiến. Là giai đoạn của những cuộc chiến tranh nhân dân đẫm máu, mâu
thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc cực kỳ gai góc và phức tạp chưa từng có trong lịch sử cận
đại.
Nguyên nhân là từ sau thất bại trong cuộc chiến tranh Nha phiến (1840), Trung Quốc trở
thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Các nước phương Tây lần lượt nối gót kéo nhau đến
xâu xé Trung Quốc và đế quốc Nhật ở phương Đông cũng thừa cơ ấy kéo đến xâm lược (1894).
Chúng tiến hành các chính sách ngu dân cực kỳ thâm độc hòng biến nhân dân Trung Hoa thành
những kẻ nô lệ. Chúng cướp ruộng đất, tài nguyên, thị trường, bóc lột sức lao động của nhân
dân Trung Quốc một cách thậm tệ. Trong khi đó, triều đình Mãn Thanh và giai cấp thống trị
phong kiến lại nhu nhược, hèn kém, không chỉ cắt đất bồi thường, ký những hiệp ước bất bình
đẳng mà còn cấu kết với bọn xâm lược ra sức bóc lột, đàn áp nhân dân lao động trong nước.
Đêm dài thăm thẳm, mưa dập gió vùi, đất nước Trung Hoa chịu biết bao tai hoa, nhân dân
Trung Hoa phải chịu biết bao tai ương. Tuy vậy, trong suốt quá trình các thế lực xâm lược nước 15
ngoài biến Trung Quốc thành một đất nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến cũng chính là quá
trình nhân dân Trung Quốc phản kháng chống chủ nghĩa đế quốc và bọn tay sai của chúng một
cách oanh liệt. Lớn nhất phải kể đến là cuộc khởi nghĩa nông dân Thái bình thiên quốc (1851 -
1862) vừa chống phong kiến vừa chống ngoại bang. Tuy cuối cùng bị thất bại nhưng nó đã
giáng một đòn chí tử vào chủ nghĩa đế quốc và nền thống trị của triều đình Mãn Thanh, gióng
lên hồi chuông cảnh tỉnh đồng bào dân tộc Trung Hoa phải mạnh mẽ lên vùng lên cứu nước và
giữ nước trước sự thống trị của ngoại bang.
Sau cuộc chiến tranh Trung - Nhật (1894), một nhóm người khác lại nổi lên hô hào cải
lương xã hội. Họ tiến hành dịch sách khoa học, lịch sử, triết học phương Tây nhằm khích lệ
lòng yêu nước của những trí thức và đưa họ đến với con đường giải phóng dân tộc, độc lập tự
chủ. Năm 1898, Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu tiến hành làm cuộc chính biến Mậu Tuất
(1898). Năm ấy Lỗ Tấn 18 tuổi và tất nhiên ông cũng chịu ảnh hưởng một số tư tưởng của
phong trào vận động cải lương này. Đến năm 1919, cuộc cách mạng Tân hợi do Tôn Trung Sơn
lãnh đạo đã lật đổ vương triều phong kiến lập lên nước Trung Hoa dân quốc. (Cuộc cách mạng
này đã được Lỗ Tấn phản ánh một cách rất trung thực trong nhiều tác phẩm). Kế đến là cuộc
vận động Ngũ tứ (1919), Lỗ Tấn cũng tham gia và trở thành lãnh tụ tư tưởng của phong trào
này. Có thể nói, tất cả các sự kiện lịch sử, những biến cố của thời đại, của cách mạng trước và
sau khi Lỗ Tấn sinh ra đều có những ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển tư tưởng, đến việc
lựa chọn con đường đi và những sáng tác của văn học của ông, nhất là thể loai truyện ngắn-
một thể loai có sức dung chứa hiện thực lớn.
Lỗ Tấn tên thật là Chu Thụ Nhân, tự là Dự Tài, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881, tại thành
Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang. Tuổi thơ của ông gắn liền với không gian làng quê hai họ nội
ngoại (họ nội: Thiệu Hưng, họ ngoại: A Kiều). Những kỷ niệm đẹp thời thơ ấu tại hai làng quê
này đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong suốt cuộc đời của Lỗ Tấn. Ông sinh trưởng trong một
gia đình quan lại phong kiến đang trên đà sa sút. Trước kia, gia tộc của Lỗ Tấn từng có thời kỳ
rất thịnh vượng, ruộng đất mênh mông. Kinh doanh phát đạt. Sau khi quân Thái bình thiên
quốc tấn công vào Thiệu Hưng, dòng thác đổi mới đã cuốn phăng và nhấn chìm gia tộc phong
kiến này. Gia đình của Lỗ Tấn cũng chỉ còn lại bốn năm chục mẫu ruộng nước, duy trì cuộc
16
sống đủ ăn, đủ mặc và không có cách nào trở lại nề nếp cũ như trước - trong nhiều tác phẩm Lỗ
Tấn đã kể lại gia cảnh đó của mình.
Ông nội Lỗ Tấn là Chu Phúc Thanh, hiệu Giới Phù, đời nhà Thanh từng giữ chức Thư cát
ở Viện hàn lâm, sau đó làm tri huyện huyện Kim Khê, tỉnh Giang Tây. Cụ là một người cao
ngạo, trước thượng cấp thường tỏ thái độ hiên ngang, bất cần, thích nhận xét và bàn đến chuyện
cao xa. Cụ lại hay chỉ trích người khác nên mất lòng với nhiều người. Nhưng cụ cũng là một
người rất khoan hồng và nhân hậu, có những chủ trương mới trong việc dạy dỗ con cháu. Cụ
thường cho con trẻ đọc thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, xem tiểu thuyết thời Minh Thanh.
Nhờ thế ngay từ thưở nhỏ, Lỗ Tấn đã được tiếp xúc với những tác phẩm văn học mà "con nhà
thư hương" không hề biết đến. Tuy nhiên, trong những trang hồi ức không thấy Lỗ Tấn nói về
ông nội của mình, nhưng lại hay nhắc đến bà nội vì bà nội rất thương yêu Lỗ Tấn, hay kể
chuyện cổ tích cho ông nghe. Mỗi khi vào hè, Lỗ Tấn thường hay cùng bà nội ngồi hóng mát,
cậu nằm trên phản, bà ngồi cạnh, tay phe phẩy chiếc quạt lá, kể những câu chuyện thú vị như:
Mèo là thầy giáo của hổ,Thuỷ mạn kim sơn. Những câu chuyện này có sức lay động tâm hồn
cậu bé Lỗ Tấn. Trong suốt cuộc đời văn chương của mình, Lỗ Tấn đã giành khá nhiều thời gian
công sức cho việc dịch truyện thiếu nhi, viết những bài văn hô hào giải phóng phụ nữ, chính là
ảnh hưởng từ những câu chuyện mà ông được nghe kể từ thưổ nhỏ này. Khi hồi tưởng lại thời
thơ ấu, Lỗ Tấn hay nhắc đến cha mình, đặc biệt là tính nghiêm khắc của ồng. Ông tên Chu
Phượng Nghi, hiệu Bá Nghi là một tú tài nhiều lần tham gia thi Hương nhưng không đỗ cử
nhân, suốt đời thất bại trên con đường công danh. Có người đã bình phẩm về ông như sau:
"Tính cách cao như trời, mệnh bạc như giấy quyển". Cung cách giáo dục con cái của ông tuy
vẫn theo khuôn phép phong kiến nhưng chưa bao giờ ông đánh chửi con, tuy nhiên tính khí hơi
thất thường, hay nổi nóng lại thường uống rượu nên con cái không thích gần gũi ông. Tuy
nhiên, ông cũng là người có tư tưởng mới hay bàn chuyện quốc gia, đại sự. Ông từng nói với
mẹ Lỗ Tấn rằng: Có mấy đứa con, định sau này cho một đứa đi Tây, một đứa đi Nhật học cái
giỏi cái hay để sau này góp sức cho nước nhà. Trong lúc đa số những người có học đương thời
chỉ biết có khoa cử, ứng thí, theo đuổi công danh sự nghiệp, ông nghĩ đến con đường phát triển
khác thì thật là hiếm có. Có lẽ tư tưởng mới và những điều mong ước của cha đã có ảnh hưởng
ít nhiều đến việc lựa chọn con đường đi sau này của Lỗ Tấn. Tuy nhiên người thân có ảnh
17
hưởng sâu sắc nhất đến cuộc đời Lỗ Tấn lại là mẹ của ông. Bà tên là Lỗ Thụy, con thứ ba của
cử nhân Lỗ Hy Tăng, hiệu Tĩnh Hiến, từng giữ chức chủ sự bộ Hộ ở kinh đô. Bà là người hiền
lành, nhân hậu, giàu nghị lực "tự học lấy đến trình độ có thể xem được sách". Bà cũng là người
có chủ kiến riêng, biết tiếp nhận những tư tưởng tiến bộ: cắt tóc ngắn, đi giày trắng, không bó
chân, không mê tín dị đoan, đã làm cái gì thì làm đến nơi đến chốn, hiểu thời thế, trọng chính
nghĩa. Bà sống đến năm 1943 mới mất. Lỗ Tấn tuy xuất thân trong một gia đình thượng lưu
nhưng ông không để cho những cái xấu xa của cái "xã hội thượng lưu" ấy tiêm nhiễm vào
mình; trái lại ông luôn luôn đứng về phía những người bất hạnh ở tầng lớp dưới mà đấu tranh,
ra sức vạch trần cái "thối nát", cái "giả dối" của giai cấp mình. Tất cả điều đó là do ảnh hưởng
một phần của mẹ ông. Bút danh Lỗ Tấn lấy từ họ mẹ là vì lẽ đó. Sự ảnh hưởng của cha mẹ đối
với Lỗ Tấn là vô cùng to lớn, ý chí nghị lựcvà sự hiểu biết sâu rộng của cha mẹ là một bài học
mà Lỗ Tấn ghi nhớ suốt đời.
Lúc nhỏ Lỗ Tấn sống trong cảnh gia đình túng quẫn, sa sút. Năm 13 tuổi, ông nội bị bắt
giam, cha lại mắc bệnh nặng nên cuộc sống gia đình ngày càng khó khăn hơn. Lỗ Tấn phải
thường xuyên đến hiệu cầm đồ bán quần áo cũ, tư trang lấy tiền mua thuốc cho cha nhưng bệnh
không thuyên giảm, 3 năm sau thì cha mất... Từ năm lên 6 đến năm lên 17 tuổi, Lỗ Tấn học tại
trường tư thục Tam Vị ở quê nhà. Ông thông minh, ham học, thích đọc sách, thích nghe kể
chuyện cổ tích, xem kịch và vẽ tranh dân gian. Ông thường về quê ngoại và có điều kiện tiếp
xúc, gần gũi với con em nông dân nhờ thế mà ông hiểu biết nhiều về cảnh nông thôn và cuộc
sống bần cùng của người nông dân. Có lẽ chính vì thế mà trong nhữnng sáng tác của mình, ông
thường chọn nông thôn và cuộc sống của người dân lao động - những nhân vật bất hạnh làm đề
tài và dường như những con người này là nhân vật chính trong truyện ngắn của ông.
18
1.1.2.Tuổi trưởng thành
Năm 18 tuổi, Lỗ Tấn từ giã quê hương đến Nam Kinh thi vào trường Thủy sư học đường.
Hai năm sau thi vào Khoáng Lộ học đường. Trong những năm tháng ngắn ngủi, ngồi trên ghế
nhà trường "Tây học" này, Lỗ Tấn có dịp học hỏi những kiến thức về khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội, học được những cái mà ở những trường Hán học lạc hậu bảo thủ không bao
giờ có được. Chính đều này đã mở rộng tầm nhìn và củng cố lòng tin vào khoa học của Lỗ Tấn.
19
Ở Lỗ Tấn ảnh hưởng của khoa học tự nhiên, khoa học thực nghiệm rất lớn. Ông thường dùng
các khái niệm của khoa học tự nhiên để giải thích các hiện tượng xã hội. Ông là nhà khoa học
đi từ khoa học tự nhiên đến khoa học xã hội và nhân văn.
Năm 1902, sau khi tốt nghiệp Khoáng lộ học đường, Lỗ Tấn được cử sang du học ở Nhật.
Thời gian đầu ở đất Nhật, Lỗ Tấn vừa học tiếng Nhật vừa nghiên cứu tư tưởng của người
Trung Quốc. Ông suy nghĩ nhiều về vấn đề của đất nước, của dân tộc và cũng như nhiều thanh
niên yêu nước du học ở Nhật thời bấy giờ, Lỗ Tấn mong muốn tìm thấy được con đường cứu
nước cứu dân một cách thực tế nhất. Từ khoa học tự nhiên Lỗ Tấn nhận thức được tầm quan
trọng của khoa học xã hội.
Năm 1904, Lỗ Tấn chuyển sang học y với hy vọng khi về nước có thể cứu chữa bệnh cho
nhân dân và giúp đỡ những người nghèo khổ. Hơn nữa, nó xuất phát từ một luận điểm cho rằng
cuộc chấn hưng Nhật Bản phần lớn đều bắt đầu từ việc học tập nền y học của phương Tây.
Luận điểm này tuy không chính xác hoàn toàn nhưng việc Lỗ Tấn từ động cơ yêu nước mà cho
rằng cải cách xã hội phải gắn liền với khoa học là hợp lý. Ông muốn củng cố và thúc đẩy niềm
tin của nhân dân Trung Hoa vào sự cải cách xã hội bằng y học để lúc bình thường có thể chữa
trị cho những bệnh nhân như cha ông trước kia. Lúc chiến tranh thì có thể làm quân y, đóng
góp cho cuộc chiến tranh chống xâm lược, phục vụ cho mục tiêu cứu nước. Trong khoảng thời
gian này, ông vừa ra sức học y vừa tham gia các tổ chức cách mạng do người Trung Quốc tổ
chức tại Nhật. Nhưng không bao lâu, ông bỏ ngành y vì đã nhận thức được rằng: Chữa bệnh
cho người Trung Quốc về thể xác chưa quan trọng bằng chữa bệnh về tinh thần. Muốn cứu
nước trước hết phải cứa chữa nhân dân thoát khỏi căn bệnh mê muội. Thế là ông chuyển sang
con đường hoạt động văn nghệ, với một tâm nguyện sẽ dùng ngòi bút của mình thức tỉnh đồng
bào dân tộc. Từ đó, ông bắt tay vào việc nghiên cứu, phiên dịch, giới thiệu những tác phẩm văn
học tiến bộ của Tây Âu. Đầu năm 1929, Lỗ Tấn về nước, dạy Lý Hóa tại trường sư phạm Chiết
Giang. Sau đó ông chuyển sang làm hiệu trưởng ỏ trường sư phạm Thiệu hưng. Có thể nói từ
đây Lỗ Tấn gắn bó với ngành giáo dục. Ông mong ước rằng ngành Giáo dục sẽ có tác dụng rất
lớn trong việc chữa trị "căn bệnh tinh thần " cho con người. Theo ông việc chữa trị "thể xác"
con người không bằng việc chữa trị "căn bệnh tinh thần", giúp cho họ có ý chí mạnh mẽ hơn
trong cuộc sống.
20
Năm 1911, cách mạng Tân Hợi bùng nổ, nước Trung Hoa dân quốc ra đời. Lúc đầu, Lỗ
Tấn phấn khởi tham gia cách mạng nhưng rồi dần dà về sau ông lại bi quan, thất vọng vì ông
nhận thấy rằng: thực chất cách mạng Tân hợi "chỉ thay thang chứ không thay thuốc", nó không
đem lại thay đổi nào đáng kể cho nhân dân. Giai cấp địa chủ vẫn nắm quyền hành, bản chất xã
hội vẫn như cũ, nhân dân vẫn đói khổ lầm than. Thời điểm này, Lỗ Tấn vẫn chưa phải là một
nhà cách mạng vô sản nên ông chưa nhận thức được một xã hội như thế nào là tiến bộ, thế
nhưng ông biết rằng xã hội đó quyết không phải là một xã hội như cách mạng Tân hợi đã dựng
lên lúc bấy giờ. Nhiều truyện ngắn của Lỗ Tấn phản ánh đầy đủ nhận thức đúng đắn ấy của
ông.
Năm 1918, Lỗ Tấn cho ra đời thiên truyện ngắn đầu tay "Nhật ký người điên" đăng trên
tạp chí Tân thanh niên. Tiếp sau đó là hàng loạt truyện ngẩn khác ra đời như “Khổng Ất Kỷ”,
"Cố Hương"," A.Q chính truyện"," Lễ cầu phúc". Những truyện ngắn này đánh dấu mọt giai
đoạn sáng tác quan trọng của Lỗ Tấn. Có thể nói nó là những "phát đại bác" bắn vào xã hội
Trung Quốc trước và sau cách mạng Tân Hợi.
Năm 1919, xảy ra cuộc vận động Ngũ tứ, Lỗ Tấn đã nhiệt thành tham gia và trở thành
người lãnh đạo của phong trào này. Từ năm 1920 đến 1925, Lỗ Tấn làm giảng sư tại các trường
đại học và cao đẳng ở Bắc Kinh. Cũng trong thời gian này, Lỗ Tấn đã lãnh đạo học sinh, sinh
viên, giới trí thức xuất bản báo chí, cổ động phong trào cách mạng. Ông trở thành lãnh tụ tư
tưởng của giới thanh niên yêu nước lúc bấy giờ. Từ phong trào của quần chúng, Lỗ Tấn có
nhiều chuyển biến về nhận thức và tư tưởng.
Năm 1926, vì bị chính phủ Đoàn Kỳ Thụy bức hại nên Lỗ Tấn rời Bắc Kinh trở về Phúc
Kiến dạy văn học tại trường đại học Hạ Môn. Đầu năm 1927, Lỗ Tấn lại rời Quang Châu đến
Thượng Hải. Kể từ đó cho đến lúc từ trần, Lỗ Tấn thôi việc dạy văn chỉ viết sách báo, tham gia
các cuộc đấu tranh trên các mặt trận văn nghệ như thành lập Hội liến hiệp các nhà văn cánh tả
gọi tắt là Tả liên, tham gia tổ chức quần chúng nhân dân đấu tranh đòi tự do, dân chủ. Ong là
người có vị trí đặc biệt trong "Hội Tả liên" Ong chủ trương cải cách văn học, đổi mới văn
phong, hô hào cấp tiến trong văn học.
Ngày 19 tháng 10 năm 1936, sau một thời gian đấu tranh liên tục và làm việc quá sức, Lỗ
Tấn lâm bệnh nặng và từ trần tại Thượng Hải. Sự ra đi của ông đã để lại cho nhân dân Trung 21
Quốc và nhân dân thế giới biết bao nỗi nhớ thương và tiếc thương vô hạn. Năm này (1936)
nhân loai mất đi hai nhà văn vô sản vĩ đại: M. Gorky (Nga) và Lỗ Tấn (Trung Quốc). Hai đại
văn hào văn chương như hai vì sao đã lặn. Nền văn học vô sản từ đây mất đi hai " con chim báo
bão" của cách mạng.
Lỗ Tấn đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Với
một động cơ yêu nước, yêu dân chân thành, ông đã làm việc cật lực, đấu tranh không mệt mỏi,
gạt bỏ những chướng ngại trên con đường đấu tranh giải phóng dân tộc; cổ vũ tinh thần đấu
tranh của nhân dân, động viên họ đứng lên tự giải phóng mình, giải phóng dân tộc. Lỗ Tấn đã
dồn cả tài năng và tâm huyết vào ngòi bút sắc nhọn của mình để vạch mặt kẻ thù và đưa chúng
ra trước vành móng ngựa, đồng thời ông cũng mạnh dạn phanh phui mổ xẻ mọi thói hư tật xấu
của quảng đại quần chúng nhân dân đang mê muội và bị lợi dụng.
Lỗ Tấn là một nhà văn vĩ đại, là người thầy nhiệt tâm miệt mài theo đuổi ánh sáng chủ
nghĩa Mác - Lê Nin, là lãnh tụ kiệt xuất hiến thân cho sự nghiệp cứu nước, cứu dân. Ông xứng
đáng với danh hiệu "Linh hồn Trung Hoa" mà nhân dân Thượng Hải đã ghi lên lá cờ phủ trên
quan tài ông. Ông Mao Trạch Đông đã từng gọi Lỗ Tấn là" Chủ tướng của nền Văn nghệ dân
chủ mới" Cuộc đời cửa Lỗ Tấn có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng chính trị và tư tưởng văn nghệ
của ông. Trong cuộc đời của mình vấn đề mà Lỗ Tấn quan tâm nhất là con người, là số phận
của con người mà cụ thể ở đây là con người Trung Quốc đau thương và tủi nhục. Con người
trong tác phẩm của Lỗ Tấn không phải con người hư cấu, tưởng tượng mà nó là con người thực
trong cuộc đời tồn tại hàng ngày trong xã hội. Nỗi đau nhân loai ở mỗi con người trong tác
phẩm của Lỗ Tấn chính là nỗi đau day dứt trong con người ông, trong mỗi con người trong gia
đình ông và những con người trong quê hương thân yêu của ông. Cái "nguyên mẫu" con người
đó gắn bó với ông trong cả cuộc đời như máu thịt.
1.2. TƯ TƯỞNG VĂN NGHỆ
1.2.1.Các giai đoạn phát triển tư tưởng
Có thể nói, bất kỳ tư tưởng văn nghệ nào cũng đều có một cơ sở khoa học và triết học
nhất định. Trên cơ sở đó, chúng ta thấy một điều hiển nhiên là sự nghiệp văn họe của Lỗ Tấn
gắn liền với sự vận động, phát triển tư tưởng văn nghệ của ông đồng thời nó cũng gắn liền với
22
sự chuyển biến tư tưởng chung của ông và thực tiễn cách mạng của nước Trung Quốc tủi nhục
và đau thương trước và sau cuộc cách mạng Tân Hợi.
Để có được sự đánh giá khácìnquan, chính xác, tránh nhầm lẫn khi tìm hiểu về sự phát
triển tư tưởng văn nghệ của Lỗ Tân, trước tiên chúng ta cần phải nhìn lại quá trĩnh phát triển tư
tưởng chung của ông. Nói về con đường phát triển tư tưởng của Lỗ Tấn, Cù Thu Bạch trong lời
tựa tuyển tập tạp cảm có một nhận xét rất xác đáng như sau: "Từ tiến hóa luận đến giai cấp
luận, từ đứa con phản nghịch, kẻ tôi hai lòng của giai cấp thân sĩ trở thành người bạn rồi người
chiến sĩ chân chính của giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động. Lỗ Tấn đã kinh qua
cuộc chiến đấu một phần tư thế kỷ từ trước cách mạng Tân Hợi cho tới nay, từ trong kinh
nghiệm đau khổ và sự quan tâm sâu sắc đã đem lại truyền thống cách mạng quý báu cho mặt
trận mới". Thật vậy, Lỗ Tấn trước hết là nhà tư tưởng, nhà cách mạng từ quan điểm tiến hoa
đến quan điểm giai cấp, từ chủ nghĩa yêu nước và tư tưởng dân chủ đến chủ nghĩa cộng sản, Lỗ
Tấn đã đi theo con đường xáng lạn của ngươi tri thức cách mạng. Trọn đời, ông đã kiên quyết
chông đế quốc phản phong, đồng tình, cảm thông sâu sắc với nỗi thống khổ, bất hạnh, bị áp
bức của quảng đại quần chúng nhân dân lao động. Do đó, có thể chia sự phát triển tư tưởng của
Lỗ Tấn làm ba giai đoạn sau đây:
- Giai đoạn thứ nhất: Từ chính biến Mậu tuất đến phong trào Ngũ tứ (1898- 1919). Ở giai
đoạn này, thế giới quan Lỗ Tấn căn bản còn chịu quan điểm tiến hoa luận của Đacuyn và chủ
nghĩa cá tính siêu nhân Nietchez. Lập trường chính trị của ông là chủ nghĩa yêu nước kết hợp
với tư tưởng dân chủ cũ (tư sản cấp tiến).
- Giai đoạn thứ hai: Từ 1919 — 1927, là giai đoạn quá độ, tức là thời kỳ "nhận đường"
trong tư tưởng của Lỗ Tấn. Lập trường chính trị của ông là chủ nghĩa dân chủ mới. Thế giới
quan của ông dần dần tiến đến quan điểm giai cấp và chủ nghĩa tập thể.
- Giai đoạn thứ ba: Từ 1927 đến khi ông qua đời ( năm 1936), Lỗ Tấn đã trở thành người
cộng sản với thế giới quan Mác-xit sâu sắc.
1.2.2.Các giai đoan phát triển tư tưởng văn nghệ
Căn cứ vào thực tiễn hoạt động văn nghệ và con đường phát triển tư tưởng chung của Lỗ
Tấn chúng ta có thể chia sự hình thành và phát triển tư tưởng văn nghệ của ông ra làm ba giai
23
đoạn: Giai đoạn từ năm 1902 đến năm 1919, giai đoạn từ năm 1919 đến năm 1927 và giai đoạn
từ năm 1927 đến năm 1936.
- Giai đoạn từ năm 1902 đến năm 1919: Lỗ Tấn làm văn nghệ với mục đích cải tạo xã
hội, cải tạo tinh thần quốc dân của con người. Ông yêu cầu văn nghệ phải "rắp tâm phản kháng,
luôn luôn hành động, làm cho thói đời không ưa thích, phát ra những tiếng hùng mạnh để mứu
cầu lấy cuộc sống mới cho toàn dân nước". Trong giai đoạn này, Lỗ Tấn sáng tác chưa nhiều,
lại viết theo lối cổ văn. Tiểu thuyết của ông gồm có "Hồn spactơ" và "Hoài cựu", ngoài ra còn
có các bài thơ trữ tình cổ và đặc biệt có hai chuyên luận về văn nghệ. Tuy số lượng sáng tác ít
nhưng nó cũng đã thể hiện khá đầy đủ tư tưởng văn nghệ trong thời kỳ đầu của Lỗ Tấn. Có thể
nói đó cũng là bản tuyên ngôn hiến thân cho dự nghiệp văn học cách mạng của ông. cố nhiên,
do hạn chế của thế giới quan và thời đại nên tư tưởng văn nghệ của Lỗ Tấn thời kỳ đầu còn
nhiều hạn chế. Ví dụ như khi bàn về tác dụng của văn học, ông còn chịu nhiều ảnh hưởng từ
quan điểm duy tâm của Lương Khải Siêu: "Muốn cải lương quần chúng thì phải bắt đầu bằng
việc cách mạng trong tiểu thuyết" [ 3 5,tr.21 ]. Cuộc "cách mạng trong tiểu thuyết "như ông nói
chính là thay đổi đối tượng nhân vật miêu tả. Đối tượng nhân vật ở đây không còn là tầng lớp
trên mà là con người bình thường con người đau khổ bất hạnh.
Ông đề cao và tuyệt đối hóa tác dụng của văn chương trong việc cải tạo xã hội. Ông viết
"Khi chúng tôi du học ở Nhật, chúng tôi có hy vọng to lớn cho rằng văn nghệ có thể thay đổi
được tinh thần và cải tạo được xã hội". (Tựa "Vực ngoại tiểu thuyết tập"). Sau này khi trở
thành một nhà Mác-xít, Lỗ Tấn có nói: "Các thứ văn học đều do hoàn cảnh sản sinh. Tuy người
ta tôn sùng văn nghệ, thích nói văn nghệ có thể làm nổi phong ba, nhưng trên thực tế thì chính
trị đi trước, văn nghệ biến đổi sau. Nếu nói văn nghệ có thể thay đổi hoàn cảnh thì đúng là nói
theo kiểu duy tâm, sự việc xuất hiện khổng đúng như các nhà văn dự đoán"[35,tr.45]. Qua thực
tiễn hoạt động văn nghệ của Lỗ Tấn, chúng ta thấy tư tưởng sáng tạo của ông thiên về chủ
nghĩa lãng mạn tích cực. Điều này cũng dễ hiểu bởi lúc này ông đang ở nước ngoài, lòng yêu
nước của ông chưa được kết hợp, chưa được thử thách với thực tế đấu tranh trong nước. Ông
lại được tiếp xúc nhiều với sách vd lãng mạn phương Tây nên ít nhiều cũng chịu ảnh hưởng tư
tưởng tiến bộ đó. Sau khi trở về nước, tận mắt thấy xã hội ngày càng đen tối, giai cấp thống trị
ngày càng tàn bạo. Đặc biệt thất bại của cuộc cách mạng Tân Hợi khiến Lỗ Tấn không khỏi
24
hoài nghi và thất vọng. Hiện thực phũ phàng đã phá vỡ những ảo tưởng của Lỗ Tấn, song cũng
đã giáo dục cho ông rất nhiều. Tuy hoài nghi thất vọng nhưng ông quyết không bỏ cuộc, vẫn
kiên định đi tiếp con đường tìm kiếm lối thoát cho dân tộc, cho nhân dân. Ông không ngừng
suy xét, phân tích vấn đề con người, xã hội; không ngừng đúc kết kinh nghiệm đấu tranh thực
tế để điều chỉnh và làm phong phú thêm tư tưởng văn nghệ của mình. Nói như Cù Thu Bạch -
một nhà lý luận Mác xít nổi rtiếng, Lỗ Tấn thuộc vào "tầng lớp trí thức tiểu tư sản có liên hệ
với quần chúng nông dân là những người chịu đủ điều lừa gạt, chép ép, trói buộc dày vò trong
nong thôn Trung Quốc", cho nên ông có được cái "chủ nghĩa hiện thực buổi bình minh của các
bậc đàn anh cũng có thể gọi là tinh thần cầu thị của nong dân chất phác"[35, tr.36]. Thật vậy,
sáng tác của Lỗ Tấn đến sau cách mạng Tân Hợi vẫn còn ít nhưng nó đã thể hiện được tư tưởng
văn nghệ mới của ông- tư tưởng văn nghệ hiện thực chủ nghĩa. Có thể xem tiểu thuyết Hoài
Cựu là khởi điểm của tác giả trên con đường dùng vũ khí chủ nghĩa hiện thực xoáy sâu vào
cuộc đời đen tối. Đến năm 1918, Lỗ Tấn cho ra đời thiên truyện "Nhật ký người điên"- truyện
ngắn đầu tay viết bằng thể loại bạch thoại in trên Tân thanh niên. Tác phẩm này được xem như
một phát súng mở đầu cho cuộc tấn công vào lễ giáo phong kiến của phong trào cách mạng văn
hoa Ngũ Tứ, đồng thời đánh dấu cho sự phát triển mới trên bước đường tư tưởng của tác giả
sau năm 19 Ị9, đó là tư tưởng văn nghệ hiện thực cách mạng mà sau này là phương pháp sáng
tác chủ yếu của Lỗ Tấn và nhiều nhà văn hiện đại Trung Quốc.
- Giai đoạn 1919-1927: Tư tưởng văn nghệ của Lỗ Tấn cũng bước vào một giai đoạn phát
triển mới dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Nếu như trong giai đoạn 1902-1919 tư
tưởng văn nghệ của Lỗ Tấn tuy có nhiều tiến bộ nhưng vẫn không thể vượt ra khỏi phạm trù tư
sản, thì bây giờ ông đã nhận thức được hạn chế và bắt đầu chia tay với nó. Tư tưởng văn nghệ
giàu tính duy vật, giàu tính chiến đấu vì nhân sinh của Lỗ Tấn trong thời kỳ này không chỉ
được củng cố và phát huy ở mức độ của hiện thực chủ nghĩa thông thường mà đã vươn lên hiện
thực cách mạng có nhân tố là hiện thực xã hội chủ nghĩa như trường hợp của đại văn hào
M.Gorky. Trong bài cảm hứng 59 (Nhiệt phong) Lỗ Tấn đã ca ngợi cách mạng tháng Mười
Nga là " Bình minh của kỷ nguyên mới" của nhân loại. Ong kêu gọi nhân dân Trung Quốc hãy
"hướng về ánh sáng bình minh ấy". Tư tưởng này của Lỗ Tân rõ ràng đã chịu ảnh hưởng sâu
sắc từ cách mạng tháng Mười Nga, hơn nữa nó còn chứng tỏ rằng, lúc bấy giờ ông đã có những
25
nhận thức rất chính xác về cách mạng vô sản và chủ nghĩa Mác-Lênin. Những nhân tố tiến bộ
trong thế giới quan của Lỗ Tấn đã dần dần có tác dụng đối với thực tiễn sáng tác và việc đấu
tranh tư tưởng văn nghệ của ông. Xuất phát từ tư tưởng mới, Lỗ Tấn chủ trương nhiệm vụ chủ
yếu của văn nghệ là phải thức tỉnh những người lao động đang bị áp bức, đè nén khỏi ách xiềng
xích của chế độ thực dân phong kiến. Ông viết: "Tôi rất ghét hai từ " nhàn thư", trước kia
người ta dùng để gọi tiểu thuyết, hơn nữa tôi cho danh từ "nghệ thuật vị nghệ thuật" chẳng qua
cũng chỉ là một cái tên gọi mới thay cho từ "tiêu nhàn" mà thôi. Cho nên mỗi khi chọn đề tài
tôi thường chọn những con người bất hạnh trong xã hội bệnh tật, với mục đích là lôi hết bệnh
tật của họ ra để mọi người chú ý tìm cách chạy chữa" [35,tr. 54]. Không chỉ vậy, Lỗ Tấn còn
chủ trương nền văn học mới phải chứa đựng màu sắc lạc quan, tránh những tâm trạng u buồn,
tiêu cực. Ông nhấn mạnh: "Nhưng để đạt dược điều mong muốn đó thì phải đi nhịp bước với
những người tiên phong. Thế là tôi bỏ bớt những gì đen tối, thêm vẻ tươi vui để cho tác phẩm
được sáng sủa hơn"[35,tr.32]. Trong các sáng tác của mình Lỗ Tấn đã vạch trần, phê phán, mổ
xẻ những thói xấu của người lao động Trung Quốc không phải vì ông ghét họ, thoa mạ họ mà
là để giác ngộ họ, để "lôi hết bệnh tật" của họ ra, giúp họ nhận thức được "bệnh tật" của mình
mà tìm cách chạy chữa. Trong truyện ngắn "Thuốc", Lỗ Tấn đã chứng minh người nông dân
cũng có tinh thần cách mạng, muốn làm cách mạng nhưng hiện tại họ chưa hiểu về cách mạng
nên mới có những kẻ tham gia cách mạng kiểu như A.Q, cách mạng là "cách mẹ cái mạng
chúng nó đi"..Ni vậy, nhiệm vụ cấp bách của nhà cách mạng là phải giác ngộ quân chúng lao
động, đưa họ vào hàng ngũ cách mạng chân chính. Tóm lại, giai đoạn từ 1919-1927 là thời kỳ
quá độ tư tưởng của Lỗ Tấn. Ông chuyển từ lập trường tư sản cách mạng sang lập trường vô
sản, từ quan điểm tiến hóa sang quan điểm giai cấp. Lỗ Tấn luôn là người tiên phong trên trận
tuyến chống đế quốc, luôn suy nghĩ về những còn người "bất hạnh" dưới đáy xã hội như A.Q,
Nhuận Thổ, thím Tường Lâm, chị Tư Thiền, Vương Râu Xồm, Cu Don, cô Ái. Những nhân vật
này theo Lỗ Tấn nếu được giao dục thì họ sẽ là lực lượng nòng cốt của cách mạng vô sản.
- Giai đoạn 1927-1936: Thật ra, trước năm 1927, theo đà tiến triển trong tư tưởng cùng sự
tiếp xúc với văn học và lý luận văn nghệ Xô Viết, Lỗ Tấn đã bất đầu có tư tưởng văn nghệ
Mác-lênin. Đến giai đoạn này, cùng với việc ra sức học tập, nghiên cứu lý luận văn nghệ Mác-
Lênin thêm vào đó là những kinh nghiệm đấu tranh giai cấp và thực tế sáng tác phong phú. Lỗ
26
Tấn đã xác lập cho mình một hệ thống tư tưởng văn nghệ tiến bộ theo chủ nghĩa Mác-Lênin.
Quán triệt quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Lỗ Tấn đã chỉ rõ văn nghệ là một
vũ khí sắc bén để đấu tranh giai cấp và nhà văn phải "đấu tranh cho hiện tại để xây dựng nền
văn học vô sản" và khẳng định rằng "Văn học vô sản là một đạo quân, lấy sức mạnh đấu tranh
cho sự giải phóng của giai cấp mình và tất cả mọi giai cấp"[35,tr.27]. Lỗ Tấn cho rằng việc
xây dựng văn học trong thời đại cách mạng vô sản là phải "chiếm lĩnh toàn bộ" mặt trận văn
nghệ chứ không phải "chỉ đứng ở góc phòng" mà đàm đạo vẽ vời. Ông còn dự báo nền văn
nghệ tương lai của giai cấp vô sản không phải chỉ dùng ý thức vô sản để sáng tác, phản ánh
cuộc đấu tranh cách mạng và kiến thiết của cộng đồng mà còn phải làm cho bản thân cộng
đồng có thể tiếp thu và tự sáng tắc được... Cũng xuất phát từ quan điểm đó Lỗ Tấn đã kịch liệt
phê phán bệnh dao động tiểu tư sản và nhấn mạnh đến tác dụng quyết định của thế giới quan
trong sáng tác. Ông cho rằng chỉ có thể khắc phục ý thức phi vô sản thì mới trở thành nhà cách
mạng chân chính, mới có những sáng tác văn học cách mạng đích thực. "Tôi cho vấn đề cơ bản
ở chỗ tác giả phải là "người cách mạng". Nếu là người cách mạng, thì viết bất cứ chuyện gì,
dùng tài liệu gì cũng đều là văn học cách mạng cả. Từ suối chảy ra đều là nước, từ huyết quản
chảy ra đều là máu"[35,tr.25]:. Bên cạnh đó, Lỗ Tấn cũng đã tích cực cổ động phong trào đại
chúng văn nghệ cùng tinh thần giữ gìn bản sắc dân tộc của văn nghệ. Ông nhận thức sâu sắc
rằng bản chất của văn nghệ là phục vụ công nông, phục vụ cuộc sống. Văn học vô sản là sự
phản ánh cuộc sống nhưng phải cao hơn cuộc sống tức tác động đến cuộc sống. "Quan hệ giữa
văn học và xã hội trước hết là miêu tả xã hội một cách nhạy bén, nếu có sức mạnh thì nổ ảnh
hưởng trở lại làm xã hội thay đổi"[35,tr.29]. Thực tế sáng tác của Lỗ Tấn trong những năm
tháng dưới ánh sáng của cách mạng vô sản đã chứng minh chợ sự phát triển tư tưởng văn nghệ
của ông. Trong giai đoạn này, về hình thức sáng tác đã chuyển sang thể loại văn xuôi và tạp
văn với nội dung phong phú có tính chiến đấu hết sức mạnh mẽ. Dưới ngòi bút điêu luyện của
Lỗ Tấn, màu sắc và hương vị cổ điển được kết hợp nhuần nhuyễn với hương vị và màu sắc mới
- màu sắc vô sản. Sau một thời gian dài tìm tòi, học hỏi, tự đấu tranh hoàn thiện mình, Lỗ Tấn
đã tìm được con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc Trung Quốc và cũng đã xây dựng cho
mình tư tưởng văn nghệ mới - tư tưởng văn nghệ vô sản. Ông đã quán triệt tư tưởng văn nghệ
vô sản là vũ khí đấu tranh cho hiện tại và xây dựng cho tương lai. Chính trong những năm
tháng đấu tranh dưới ánh sáng của cách mạng tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác-Lênin, phong
27
trào cách mạng vô sản. Lỗ Tấn đã trồ thành "một chiến sĩ cách mạng kiên trung", "một nhà tư
tưởng lớn "một nhà vãn vĩ đại"
1.2.3.Tư tưởng văn nghệ tiến bộ
Tài năng của Lỗ Tấn là tài năng gắn bó với nhân dân, với dân tộc, do nhân dân tạo ra và
quay lại phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước, đúng như lời ông nói: "Thiên tài không phải là
con quái vật tự nó sinh ra, tự nó trưởng thành ở chốn đổng hoang rừng rậm mà là quần chúng
có thể làm cho thiên tài xuất hiện, đẻ ra và nuôi nâng, cho nên không có quần chúng thì không
có thiên tài được.[9,tr.27]. Đó chính là sự chuyển biến trong tư tưởng nói chung và trong tư
tưởng văn nghệ nói riêng của Lỗ Tấn, một vĩ nhân với trái tim luôn canh cánh bên lòng trách
nhiệm cải tạo tinh thần quốc dân mà cụ thể là cải tạo nhận thức và quan niệm của con người.
Lỗ Tấn là một con người đầy nghị lực với phương châm xử thế "yêu ghét phân minh":
"hoành mì lãnh đối thiên phu chỉ, Phủ thả cam vi phụ tử ngưu "[9,tr.21](Ngước mắt coi khỉnh
nghìn lực sĩ, cúi đầu làm ngựa cháu nhi đồng –Hồ Chủ tịch) đã trở thành một nhà văn nổi
tiếng, một nhà giáo được nhiều người mến mộ, một lãnh tụ tư tưởng, một thần tượng của giới
thanh niên học sinh... Nói đến phương châm xử thế của Lỗ Tấn, chúng ta lại nghĩ đến những
nhà thơ, nhà văn, nhà yêu nước vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc như: Khuất Nguyên, Tư Mã
Thiên, Lý Bạch, Đỗ Phủ cũng đều có những cách đối nhân xử thế tương tự. Tất cả họ đều có
chung một điểm đó là: tâm họ trong sạch, chí họ sáng, nết họ thẳng, giàu sang không thể thay
đổi, nghèo hèn không sa ngã, uy vũ không khuất phục được họ. Tất nhiên, mỗi người có một
kết thúc khác nhau nhưng tất thảy đều lưu danh hậu thế. Như thế đủ biết, xác định phương
châm xử thế là đều tiên quyết khi bước vào ngưỡng cửa cuộc đời. Lỗ Tấn đã sống và suốt đời
làm như thế! Nhưng có lẽ, tấm lòng của ông -tấm lòng cao cả suốt đời lo cho nước, cho dân đã
tạo nên dấu ấn sâu đậm trong lòng những người yêu mến ông từ trước đến nay không chỉ ở
Trung Quốc mà nhân loai bốn biển năm châu.
Lỗ Tấn là người yêu nước thiết tha, nguyện vọng lớn nhất đời Ông là nước nhà được độc
lập, dân tộc được tự chủ, nhân dân được hưởng hạnh phúc ấm no. Ngay từ tuổi thanh niên,
trước thực trạng xã hội đen tối, đất nước bị xâm lăng, nhân dân phải gánh chịu biết bao đau khổ
28
tai ương. Lỗ Tấn đã hạ quyết tâm "hiến dâng cho tổ quốc dòng máu nóng của mình". Ông luôn
trăn trở, lo âu cho vận mệnh của đất nước, của nhân dân và từ đó ông bắt đầu đi tìm kiếm con
đường giải phóng dân tộc và nhân dân. Khi được cử sang Nhật du học, Lỗ Tấn xin vào trường
thuốc dự định khi về nước sẽ "thôi thức quốc dân đồng bào tin tưởng vào một cuộc duy tân".
Ông cứ đinh ninh nghĩ rằng "chẳng phải cuộc duy tân của Nhật Bản bắt nguồn từ y học
phương Tây đó sao? " nhưng rồi, dần dần ông từ bỏ quan niệm ấy vì ông nhận ra rằng cần phải
"biến đổi tinh thần nhân dân" trước mà nói như chúng ta ngày nay là cần phải làm cho nhân
dân giác ngộ về ý thức. Văn nghệ có thể thực hiện được sứ mệnh đó. Lỗ Tấn đặt nhiều tin
tưởng ở sức mạnh của văn nghệ trong việc cải tạo xã hội, cải tạo nhân sinh. Cho nên khi chọn
đề tài để viết tiểu thuyết ông thường chọn "những con người bất hạnh trong xã hội bệnh tật,
với mục đích loi hết bệnh tật của họ ra để mọi người cùng nhau tìm cách chạy chữa". Mục đích
ấy của Ong cao cả biết bao! Nó xuất phát từ tấm lòng nhân ái bao dung của một con người luôn
canh cánh bên lòng trách nhiệm cải tạo tinh thần quốc dân, cải tạo Trung Quốc hồn. Mà theo
Lỗ Tấn, cải tạo tinh thần quốc dân là cải tạo dân trí, dân khí, thức tỉnh đồng bào dân tộc; là
chống lại thói bàng quan, thờ ơ trước cái chết và sự đau khổ về thể xác lẫn tinh thần của đồng
loại; là chống lại sự nhẫn nhục tự ti, cầu an, bảo thủ, trốn tránh trách nhiệm, trốn tránh đấu
tranh, chấp nhận trong một ngôi nhà bằng sắt không có cửa sổ chẳng bao lâu sẽ chết ngạt trong
đó. Với Lỗ Tấn, văn nghệ và chỉ có văn nghệ mới thức tỉnh được đồng bào, mới có thể cứu
chữa được căn bệnh trầm kha ấy của dân tộc. Thế là từ đó, ngòi bút của ông len lỏi vào các
ngóc ngách của xã hội, của đời người. Ông tìm cách mô tả, phơi bày những sự thật đau lòng
trong cuộc sống. Nhưng ngoi bút của ông không chỉ dừng lại ở việc viết về những nỗi đày đoa,
áp bức, những nỗi khổ cực triền miên của con người mà quan trọng hơn là Ong đã chỉ cho mọi
người thấy được cái nguyên nhân sâu xa của mọi sự đau khổ bất hạnh. Qua những tác phẩm
của mình, ông đã phơi bày "sự truy, lạc", "cái giả dối và cái thối nát" của "xã hội thượng lưu";
ông kịch liệt lên án những kẻ đã gây nên nỗi đau khổ triền miên cho những con người bất hạnh,
bị đoa đày và bị chà đạp lên nhân phẩm của họ. Song điều quan trọng hơn cả là ông đã tìm ra
được phương thức đặc hiệu, một lối thoát cho những người bất hạnh đó là " lôi hết bệnh tật của
họ ra để mọi người tìm cách cùng nhau chạy chữa". Và đúng như Nguyễn Tuân đã khẳng định:
Lỗ Tấn đã "đem sinh khí sự sống chân chất cho đám cỏ kia xanh tươi lại, thổi cái chất sống
tiềm tàng vào đám cỏ để nó hất hòn đá kia mà vồng lên...[9,tr.36]". Khẩu hiệu "cải tạo tinh
29
thần quốc dân" của Lỗ Tấn bao gồm hai mặt đả phá và xây dựng. Ông đả phá cái tự ti, cái bảo
thủ của phép thắng lợi tinh thần, tư tưởng an phận thủ thường, mê tín dị đoan, đạo đức phong
kiến cổ hủ. Trước kia có một số người quá khích cho rằng Lỗ Tấn đả phá nhiều hơn xây dựng,
nhưng thời ấy với hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ thì chủ trương phá nhiều hơn xây của Lỗ Tấn
có thể chấp nhận được, nếu không muốn nói đó là một sự dũng cảm mà mỗi người chúng ta cần
phải học hỏi ở Lỗ Tấn. Hay nói cách khác đó là thời kỳ mà những cái thối nát lạc hậu, lỗi thời
cần được phá bỏ một cách triệt để, nhằm xây dựng cái mới tốt đẹp hơn thì chúng ta hiểu rằng,
Lỗ Tấn đã hát cho đồng bào mình nghe những bài hát lạc điệu của chính bản thân họ, để cùng
họ phát triển và cùng nhìn về một tương lai tươi sáng hơn. Đây chính là phong cách riêng và sự
sáng tạo của Lỗ Tấn trong tư tưởng nhận thức và hành động.
30
Lỗ Tấn luôn ý thức được trách nhiệm của một con người với tư cách là một chủ thể xã
hội, nên cả cuộc đời ông là cả một quá trình đấu tranh đi tìm chân lý, tìm con đường cứu nước,
cứu dân. Ông luôn là người đi tiên phong trên mọi mặt trận chống đế quốc, phản phong kiến,
vẫn luôn trăn trở, lo âu cho những số phận con người bất hạnh đến lúc sắp chết vẫn không quên
trách nhiệm của mình, vẫn trăn trở cho vận mệnh của nhân dân, cho sự hưng vong của dân tộc.
31
Ông đã để lại cho đời sau những bài học quý giá về nhân phẩm, danh dự, trách nhiệm và lòng
tự trọng của một con người được gọi là "sống" đúng nghĩa trong xã hội đầy thử thách và biến
động. Hơn ai hết, cuộc đời của Lỗ Tấn là một tấm gương sáng vì sự hy sinh và phấn đấu quên
mình vì hạnh phúc của con người nói chung và con người Trung Quốc nói riêng.
1.3.SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC:
1.3.1.Khối lượng sáng tác đồ sộ
Trong hơn hai mươi năm hoạt động văn nghệ, Lỗ Tấn đã để lại cho nhân dân Trung Quốc
và nhân dân thế giới một gia tài văn học đồ sộ và phong phú, bao gồm nhiều thể loại khác
nhau: Đoản thiên tiểu thuyết (truyện ngắn), tạp văn, thơ, kịch, tác phẩm dịch thuật, khảo cứu,
hồi ức, thư từ, di chúc. Trong số đó, có những tác phẩm được xuất bản khi Lỗ Tấn còn sống, có
một số được xuất bản sau năm 1936, tức sau khi ông đã qua đời (19/10/1936). Năm 1938 đã
xuất bản "Lỗ Tấn toàn tập" (20 tập). Sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập
(1/10/1949), những tác phẩm văn học và tác phẩm dịch của Lỗ Tấn đã lần lượt được ra mắt
công chúng như "Lỗ Tấn toàn tập" (10 tập), "Tuyển tập dịch lỗ Tấn" (10 tập), "Nhật ký Lỗ
Tấn" (22 tập), "Thư Lỗ Tấn" và tái bản nhiều bản văn học cổ mà Lỗ Tấn đã nghiên cứu và biên
soạn công phu. Tác phẩm của Lỗ Tấn bao gồm truyện,tản văn, thơ, tạp văn được chọn lọc để
đưa vào sách giáo khoa giảng dạy từ bậc phổ thông đến trung học. Nhiều truyện ngắn như
"Chúc phúc", "AQ chính truyện", "Thuốc" lần lượt được dựng thành các tác phẩm điện ảnh giá
trị thu hút hàng chục triệu khán giả trong và ngoai nước. Bộ phim "Chúc phúc" rất được nhân
dân Việt Nam yêu thích từ những năm năm mươi, sáu mươi.
Chúng tôi thống kê lại toàn bộ các tác phẩm văn học Lỗ Tấn để lại như sau, việc thống kê
này nói lên sự nghiệp sáng tác văn học đồ sộ của nhà văn:
- Đoản thiên tiểu thuyết của Lỗ Tấn gồm có ba tập quan trọng sau đây: Gào thét: 14
truyện ngắn; Bàng hoàng: 11 truyện ngắn; Truyện cũ viết lại: 8 truyện ngắn.
- Tạp văn: Có tất cả 650 bài tạp văn, được in thành 16 tập: Phần, Nhiệt phong, Hoa cái
tập, Nhị tam tập, Nam xoang Bắc điệu tập, Nguy tự do thư, Chuẩn phong nguyệt đàm, Hoa
biên văn hoa, Nhi dĩ, Phả giới đình, Phả giới đình tạp văn. Tạp văn có thể coi là một thể loai
32
sáng tác đặc sắc của Lỗ Tấn mà ít nhà văn nào đồng thời với ồng có được. Tạp văn của Lỗ Tấn
có vị trí đặc biệt trong văn học hiện đại Trung Quốc.
- Thơ: Ngoài truyện ngắn và tạp văn, Lỗ Tấn còn sáng tác thơ. Những thi phẩm tiêu biểu
của ông gồm có: Biệt chư đệ, Canh tỵ tống táo tức sự, Tích hoa tứ luật, Khóc Phạm Ái Nông,
Mộng, Thần yêu đương v.v... ơ Việt Nam thơ Lỗ Tấn có nhiều người biết thể hiện ở bài ( Lỗ
Tấn làm thơ của Hồ Sĩ Hiệp- Tạp chí văn học, số 4, 2002).
- Hồi ức: Triệu hoa trịch tập. Đây là một thể loai có gia trị về văn học mà sinh thời Lỗ
Tấn sáng tác.
- Khảo cứu: Nhân gian chi lịch sử, Khoa học sự giáo thiên, cổ tiểu thuyết câu trần, Hội kê
quần cố sự tạp tập, Trung Quốc tiểu thuyết sử lược, Tiểu thuyết Cựu văn sao, Đường Tông
truyền ký, Hán văn học sử cương, Tạ thừa hậu Hán thư. Qua những tác phẩm này có thể coi Lỗ
Tấn như một nhà nghiên cứu, khảo cứu văn học có uy tín.
- Dịch thuật: Lỗ Tấn là một nhà dịch thuật, ông am tường nhiều ngoai ngữ. Sách dịch
tiếng Nhật: Nghiên cứu quan niệm của nhi đồng, Lòng hiếu kỳ của nhi đồng, Tượng trưng khổ
não, Ra khỏi tháp ngà, Mấy vấn đề của nền văn hoa mới hiện nay, Dưới dung tục vật... Sách
dịch tiếng Nga: Vực ngoại tiểu thuyết (hai tập), Bàn về nghệ thuật (hai tập), Chiến bại
(Phadeev), Thụ cầm (truyện ngắn Xô Viết), Những linh hồn chết (Gôgol), Truyện ngắn
Tsekhov... Ngoài ra còn có một số tác phẩm dịch nước ngoài khác như: Du lịch cung trăng, Du
lịch mặt đất, Bắc cực thám hiểm ký (Juyn Verne); Chú bé Jone (Hà Lan). Những tác phẩm dịch
này có ảnh hưởng rất lớn đến sự nghiệp sáng tác của Lỗ Tấn.
- Kịch: Lỗ Tấn còn là tác giả một số vở kịch như: Người qua đường và một số vở kịch
chưa hoàn chỉnh.
1.3.2.Tác phẩm vì con người
Tác phẩm của Lỗ Tấn không chỉ chiếm địa vị quan trọng trong lịch sử văn hóa Trung
Quốc, mà còn lưu hành ở các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Tác phẩm của ông đã
trở thành nhịp cầu trao đổi văn hóa và tăng thêm tình đoàn kết của Trung Quốc và các nước.
Do đó học tập Lỗ Tấn, nghiên cứu Lỗ Tấn, kế thừa di sản của Lỗ Tấn, lấy nó làm một trong 33
những tinh hoa để xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ quan trọng của chúng ta.
Dù là tác gia của thể loai văn học nào thì Lỗ Tấn cũng vì con người, vì số phận của con người
mà ông khổ công sáng tạo. Tác phẩm của Lỗ Tấn tràn đầy tính nhân bản, nhân văn và nhân
đạo. Con người đau thương, bất hạnh Trung Quốc và trên khắp thế giới có thể tìm thấy ở ông
một tấm lòng ưu ái, nhiệt huyết với con người. Trong đó thái độ trân trọng yêu thương và căm
giận của ông đối với con người bất hạnh thể hiện rõ nhất trong truyện ngắn mà chúng ta sẽ tìm
hiểu cụ thể trong luận văn này.
Con người tận cùng dưới đáy xã hội, con người đau thương bất hạnh và đầy khốn khó
trong truyện ngắn của Lỗ Tấn rất nhiều. Có con người có từ trong nguyên mẫu, có con người
ám ảnh cùng ông trong cuộc đời. Vì đất nước, vì nhân dân vì dân tộc nên trong sáng tác truyện
ngắn Lỗ Tấn nói đến con người. Lỗ Tấn chịu ảnh hưởng sâu sắc cách miêu tả thân phận con
người trong văn học Nga. Ong nói: " Qua nền văn học đó, tôi hiểu được một điều quan trọng là
ừên thế giới có hai hạng người. Hạng người bóc lột và hạng người bị bóc lột" (Chúc mừng sự
giao lưu văn học Trung Quốc và nước ngoài). Trong các nhà văn Nga, Lỗ Tấn đặc biệt chịu ảnh
hưởng về việc miêu tả con người bất hạnh của văn học Gô gôn trong tác phẩm "Những linh hồn
chết" và "Phòng số 6". Mặc dù hoàn cảnh xã hội khác nhau nhưng con người Nga mà nhà văn
miêu tả trong "Những linh hồn chết" và "Phòng số 6" có cái gì na ná tương đồng với những con
người trong "Nhật ký người điên". Lỗ Tấn khái quát hai hạng người trong xã hội Trung Quốc,
đó là "Con người còn man rợ, họ đã ăn thịt người" và con người "họ đã trở thành người chân
chính"
Đi tìm thái độ của Lỗ Tấn cùng con người đối với con người bất hạnh chính là để hiểu
ông - hiểu tư tưởng và tình cảm của nhà văn đối với con người. Điều này Lỗ Tấn nói rõ trong
tuyên ngôn sáng tác của mình. Ông nói: "Mỗi khi cầm bút sáng tác tôi nghĩ ngay đến những
con người bất hạnh" hay "yêu thương người bất hạnh" (ái kỳ bất hạnh) đồng thời "căm giận họ
không biết đấu tranh" (nộ kỳ bất tranh).
34
35
CHƯƠNG 2 : THÂN PHẬN CON NGƯỜI BẤT HẠNH TRONG TÁC
PHẨM CỦA LỖ TẤN
2.1.NGƯỜI NÔNG DÂN BẤT HẠNH
Có thể nói hình tượng người nông dân chiếm một vị trí khá quan trọng trong tác phẩm của
Lỗ Tấn. Một điều tưởng chừng như nghịch lý, Lỗ Tấn sinh ra trong một gia đình quan lại
phong kiến nhưng lại là người hết mực quan tâm đến số phận của người nông dân. Ông đã dành
trọn tình cảm, tâm huyết và tài năng của mình để viết về hình tượng người nông dân với tất cả
ngóc ngách trong cuộc sống bần cùng của họ. Có thể nói, đây là vấn đề hết sức nhức nhối và
cấp bách ở thời đại mà Lỗ Tấn quan tâm và thể hiện tình cảm của mình trong thể loai truyện
ngắn -một thể loai " vũ khí " của văn học.
Thật ra, Lỗ Tấn chưa bao giờ trực tiếp nói lên quan điểm hay nhận định của mình về
người nông dân, có chăng cũng chỉ là phát biểu về thực trạng xã hội và con người đương thời
mà thôi. Nhưng thông qua những hình tượng được xây dựng trong tác phẩm, chúng ta có thể
nhận thấy rõ ràng những nhận xét, đánh giá của Lỗ Tấn về người nông dân, cũng như tình cảnh
mà người nông dân phải gánh chịu dưới chế độ nửa thực dân nửa phong kiến Trung Quốc ngột
ngạt thời bấy giờ.
Dưới đôi mắt của Lỗ Tấn, hình ảnh người nông dân hiện lên thật chân thực và sâu sắc. Đó
là những con người bần cùng, lao khổ, bị xã hội phong kiến đày đoa, chà đạp nhân phẩm làm
cho họ thà hóa. Họ sống trong cảnh ngu muội, dốt nát, bế tắc không lối thoát. Cùng là những
người bị áp bức, bóc lột cả nhưng trước tai nạn chung họ chưa có được sự đồng tình, cảm thông
cần phải có đối với đồng loại. Nỗi bất hạnh rơi vào đầu ai thì người ấy phải gánh chịu. Xung
quanh người bất hạnh đó là cả đám người thờ ơ, bàng quang, lạnh lúng thậm chí làm vui thích
là đằng khác. Lỗ Tấn thực sự đau xót trước cảnh người nông dân bị chế độ thống trị nửa thuộc
địa nửa phong kiến áp bức, bóc lột một cách thậm tệ. Chế độ xã hội đó, không chỉ đày đoa
người nông dân về mặt thể xác mà cả tâm hồn, biến họ thành những kẻ mê muội, ngu dốt an
phận với nỗi thông khổ của mình mà không sao họ thấu hiểu. Nhưng không dừng lại ở đó, khi
quan sát, miêu tả người nông dân, Lỗ Tấn không chỉ quan sát nỗi đau khổ xác thịt bên ngoài
36
của người nông dân mà ông còn nắm bắt được cái mâu thuẫn có tính chất bi kịch trong tâm hồn
của họ. Theo ông, người nông dân còn có những nỗi đau khổ đáng sợ hơn, khó lòng chịu đựng
hơn, đó là nỗi đau khổ về tinh thần. Trong tác phẩm của mình, Lỗ Tấn thường nói đến trạng
thái bi kịch trong tâm hồn của những người cùng khổ và thông qua đó, Lỗ Tấn tố cáo sự nham
hiểm độc địa của giai cấp thống trị nhằm khơi dậy lòng căm phẫn sâu sắc đối với chế độ áp bức
bất công phi nhân bản.
Trong truyện ngắn của mình, Lỗ Tấn xây dựng nhiều loại hình tượng nhân vật khác nhau
trong những không gian khác nhau, riêng về hình tượng người nông dân thì luôn gắn liền với
không gian nông thôn. Không gian làng quê là không gian nhỏ hẹp, bưng bít tăm tối. Người
nông dân thường có cái nhìn thiển cận mà Lỗ Tấn gọi đó là "tầm nhìn mắt chuột". Tầm nhìn
của họ chưa bao giờ vượt quá lũy tre làng, còn cách nghĩ của họ thì vô cùng tiêu cực, nhiều khi
ngờ nghệch đến ngu ngốc và tội nghiệp. Rõ ràng, giai cấp thống trị phong kiến hẳn là không
mong muốn gì hơn ngoài sự dốt nát, mê muội an phận của người nông dân để chúng dễ bề áp
bức, bóc lột. Lỗ Tấn không khỏi đau lòng trước thực trạng đó. Do đó, tất cả những người nông
dân, từ những người muốn làm nô lệ mà không được đến những người tạm được làm nô lệ, rồi
những người nông dân tha hóa và những người nông dân bước đầu đã có tinh thần phản kháng,
họ đều là những nhân vật bất hạnh với số phận thật bi thảm. Trong những năm đầu của thế kỷ
trước, hơn ai hết Lỗ Tấn đã nhìn thấy rất rõ vấn đề nông dân và nông thôn Trung Quốc trước và
sau cuộccách mạng Tân hợi. Nông thôn thì tăm tối như cái nhà tù, còn nông dân thì ngu muội
lam lũ và dốt nát đến cùng cực. Lỗ Tấn mạnh dạn vén "tấm màn" nông thôn để phơi bày thực
trạng bất hạnh của người nông dân.
Hình tượng người nông dân trong truyện ngắn Lỗ Tấn phần nhiều là những con người rất
đỗi quen thuộc, cộ thật trong xã hội mà Lỗ Tấn đã từng "mắt thấy tai nghe ". Ông hiểu biết về
họ nhiều hơn những điều ông viết vê họ. Họ đã trơ nên quen thuộc, thân thiết với Ông, do đó
các nhân vật của Ông là những nhân vật sống, có tri giác, có tâm hồn, có cuộc sống riêng. Hình
tượng Nhuận Thổ, thím Tường Lâm, chị Tư Thiền, cô Ái ...đều như thế cả. Ông quan tâm đến
vận mệnh của những người nông dân đau khổ mà ông có dịp tiếp xúc nên ông có thể hiểu họ
như hiểu chính những người trong giai cấp của ông. Điều này chứng tỏ thêm sự quan tâm, gần
gũi, sự am hiểu của Lỗ Tấn về người nông dân cũng như cuộc sống bần cùng của họ. Người
37
nông dân bất hạnh trong truyện ngắn của Lỗ Tấn không nhiều nhưng rất tiêu biểu. Họ đủ tầng
lớp: đàn ông, đàn bà, phụ nữ, trẻ thơ, Họ đều là những người nông dân ở nông thôn, bất hạnh
về vật chất và tinh thần. Điển hình cho nỗi bất hạnh đến mức thế thảm là thím Tường Lâm
trong truyện ngắn "Lễ cầu phúc". Thím Tường Lâm có thể coi là điển hình của người phụ nữ
bất hạnh. Thím bất hạnh về cuộc sống gia đình, hạnh phúc và bản thân. Nỗi bất hạnh tột cùng
này của người phụ nữ Trung Quốc dưới thời phong kiến chỉ có thể một mình Lỗ Tấn thấu hiểu
và diễn đạt bằng lời.
2.1.1.Người nông dân muốn làm nô lệ
Cho đến bây giờ, Lỗ Tấn vẫn là một nhà văn Trung Quốc thiết tha và am hiểu sâu sắc
nhất về cuộc sống cũng như số phận khốn cùng của người nông dân Trung Quốc dưới ách áp
bức, bóc lột của chế độ nửa thực dân nửa phong kiến. Cách thể hiện của ông có chiều sâu, sức
nặng vượt hơn hẳn các nhà văn cùng thời đã từng viết về người nông dân. Điều đáng chú ý là
ông không chỉ dừng lại ở nỗi đau thể xác của người nông dân như đói khát, bị đánh đập, bị tra
khảo, mà còn đi sâu khai thác những nỗi sầu não thương tâm, những dằn vặt đớn đau trong tâm
hồn sâu kín nhát của họ. Ong thừa hiếu nôi đau khô vế mặt tinh thân mà người nông dân phải
chịu đựng nó đáng sợ, khủng khiếp hơn nhiều những nỗi đau đớn về thể xác. Tác phẩm của
ông, thường đề cập đến trạng thái bị kích thích trong tâm hồn những người cùng khổ, nó gợi
lên sự nham hiểm độc ác của giai cấp thống trị đã đày đọa, đầu độc con người làm cho họ sống
không được mà chết cũng không xong. Thím Tường Lâm, người nông dân tội nghiệp, Nhuận
Thổ đều là những con người như vậy.
Nỗi đớn đau, day dứt trong tâm hồn thím Tường Lâm trong truyện "Lễ cầu phúc" cho đến
khi chết, có thể nói là nỗi đau muốn làm nô lệ mà không được làm nô lệ. Quả vậy, điều mong
ước thấp nhất và cũng là cao nhất đối với thím Tường Lâm chỉ có một sống một cuộc sống tối
thiểu được làm một người nô lệ không hơn không kém, vậy mà điều mong ước có tính chất bi
kịch đó mãi mãi thím không đạt được. Cuộc đời thím là cả một chuỗi dài lê thê những ngày đau
khổ, bần cùng không dứt. Người ta có thể kêu rên cho nỗi đau thể xác như thím': đi ở, làm quần
quật, bị đánh, bị bắt cóc, bị hăm doa, đi ăn xin...thế nhưng Lỗ Tấn đã không để cho thím Tường
Lâm kêu rên về nỗi đau thể xác ấy mà ông đi sâu đề cập đến gánh nặng tinh thần do lễ giáo
phong kiến áp đặt lên đôi vai yếu ớt của thím. Lỗ Tấn viết: "Chế độ xã hội này đã ép họ trở
38
thành nổ lệ dưới mọi hình thức, rồi còn đổ lên đầu họ bao nhiêu là tội lỗi"[6,tr.90]. Không có
được nỗi thông cảm xót xa, không có được sự am tường cuộc sống thống khổ thì làm sao Lỗ
Tấn có thể viết được những lời như thế!
Suốt cả đời, hình như lúc nào thím Tường Lâm cũng làm nô lệ. Thím làm nô lệ cho chủ
nhà, cho gia đình chồng, chồng chết thì thím lại làm nô lệ cho mẹ chồng mua đi bán lại, mà lẽ
ra thím không đáng bị đối xử như vậy. Thím là một người phụ nữ nông dân Trung Quốc chất
phác hiền lành, chăm chỉ. Lỗ Tấn tả về thím như sau: "cung cách thím đúng đắn, tay chân vạm
vỡ, lại hiền lành ít mồm ít miệng, ra người biết chịu khó làm ăn, an phận thủ thường" [6,tr.81],
thím làm lụng giỏi giang, không đòi gì: "công việc thím không hề bê trễ, ăn xong bữa thì thôi,
đã làm thì làm kiệt lực, không suy tính thiệt hơn." [6,tr.72]. Một người như thế, lẽ ra phải được
hưởng cuộc sống hạnh phúc, phải được quyền làm người chân chính, thế nhưng "thực tế thì xưa
nay người Trung Quốc chưa hề giành được giá trị cửa "con người", nhiều nhất chẳng qua là họ
được làm "nô lệ " mà thôi. Đối với thím Tường Lâm cũng vậy, mong ước của thím chỉ là một
cuộc sống tôi đòi. Thời gian đầu ở nhà chủ, thím "lấy làm hả hê, trên môi thoáng thấy có nụ
cười và mặt mày cũng ngày càng béo trắng ra" [6,tr.76]. Vậy mà, cái ước mong nhỏ nhoi
không đáng để mong ước đó cũng không thành, thím bị bà mẹ chồng bắt về làm một món hàng
sinh lợi, đem bán cho một người miền núi để lấy tiền cưới vợ cho con trai. Lỗ Tấn rất thấu hiểu
về thím khi ông viết: "thím ta còn một chú em chồng, cũng phải hỏi vợ cho chú ấy chứ! Không
gả thím đi thì lấy tiền đâu mà cưới xin?". Mặc dù thím chống cự quyết liệt, đập đầu vào hương
án để tự tử nhưng thân cô thế cô, thím đành chuốc lấy cái sẹo nhục nhã cho cả đời. Cũng may
sao, người chồng mới cũng tốt bụng, thím lại có được một đứa con trai ngoan ngoãn; như thế
đối với thím cũng đã thỏa mãn lắm rồi. Thím "cảm thấy sung sướng không nói ra được".
Nhưng "vận đỏ" đâu có chịu dừng lâu tong cuộc đời của thím. Chồng làm việc quá sức mà ốm
chết, đứa con trai lại bị sói ăn thịt, gia đình chồng lại đuổi thím ra khỏi nhà. Biết bao tai hoa đổ
xuống đầu người phụ nữ không có đòi hỏi gì quá đáng cho quyền làm người của mình! Rồi
đây, không biết còn có tai hoa nào nữa sẽ áp xuống đầu con người bất hạnh này và tội nghiệp
này cứ đeo bám thím Tường Lâm như không chịu buông tha.
Bị đuổi ra khỏi nhà của chính mình, thím lại trở thành kẻ ở dợ nhưng lần này "địa vị" của
thím trong nhà chủ còn bị hạ thấp hơn ; người chủ không còn tin tưởng thím nữa bởi vì thím đã
39
lấy hai đời chồng. Họ còn xem thím như một kẻ "làm bại hoại phong tục", là kẻ "dơ dáy bẩn
thỉu", "xúi quẩy, ô uế". Họ không cho thím sờ tay vào bất kỳ đồ nào liên quan đến việc cúng tế
và có ý muốn đuổi thím đi. Chính vì cách đối xử đó của mọi người mà thím Tường Lâm ngày
càng trở nên ngây dại, không còn là một con người lanh lợi, bình thường như trước nữa. Gánh
nặng tinh thần, nỗi đau mất con cứ day dứt đeo đẳng mãi trong tâm hồn thím, biến thím thành
một con người hoàn toàn khác. Thật đau khổ khi nghe Lỗ Tấn viết ra điều này: "Thím ta cứ cúi
mặt xuống đất, khóe mắt ươn ướt và con mắt cũng không còn lanh lẹ như trước ... đôi con mắt
lờ đờ., mặt cứ đờ đẫn ra như mặt người chết, cả ngày không được tiếng cười". Thím rơi vào
trạng thái hoảng loạn đến rồ dại, đi đến đâu, gặp bất kỳ ai thím cũng kêu lên: "Con thật là ngu
đần quá! Thật đấy! Con cứ tưởng mùa tuyết xuống, trong núi không có gì ăn, thú dữ mới mò về
làng" [6,tr.95].
Bi kịch của thím Tường Lâm đâu chỉ dừng lại ở bi kịch của một người muốn làm nô lệ mà
không được làm nô lệ. Điều đau xót hơn mà Lỗ Tấn muốn nói đến đó, là bi kịch của một con
người bị áp bức đến đường cùng vẫn không nhận ra được mình bị áp bức, lại cứ tình nguyện
lao đầu vào tròng, tự nguyện hoa hợp với chế độ phong kiến trong từng hơi thở. Chính do sự
đầu độc của giáo lý .đạo đức phong kiến mà người phụ nữ nông dân này trở nên tê liệt, mê
muội đi; bị áp bức, bóc lột mà không biết phản kháng, không dám phản kháng và không thể
phản kháng. Thím Tường Lâm khổng những không thay đổi được địa vị tối tăm của mình trong
xã hội, không bảo đảm cho mình được sống, mà dần dần còn tự biến mình thành miếng mồi
ngon cho kẻ áp bức bóc lột. Sự thiếu nhận thức và hay nói hơn là không biết nhận thức của
thím là nguyên nhân chính gây nên bất hạnh mà thím phải gánh chịu.
Bị đàn áp về mặt tinh thần, bị khinh rẻ, chê cười không giấu giếm, thím bắt đầu tin vào
những luận điệu mê tín dị đoan, mơ hồ về một thế giới bên kia của bọn người ngu dốt bày ra.
Bọn họ cho rằng, những người có hai đời chồng như thím khi chết xuống sẽ bị Diêm vương chẻ
thân ra làm hai chia cho mỗi người chồng một nữa. Điều này chẳng khác gì bản án tử hình tinh
thần đối với thím; nó như một đòn búa tạ giáng thẳng xuống tâm hồn đã chất chứa biết bao nỗi
niềm đau thương, lo sợ của thím Tường Lâm. Nó đày đoa, hành hạ làm cho thím sống cũng
không được mà chết cũng không xong. Trong trạng thái hoảng loạn, lo sợ thím cố đi tìm câu trả
lời, cố tìm lại mạng sống của mình. Thím đã đem một năm tiền công đi ở dợ của mình cúng
40
vào miếu mua một cái ngạch cửa để thế mạng, để muôn người xéo lên, vạn người bước qua
hòng chuộc "cái tội tái giá " của mình. Nhưng rồi cái chế độ và lễ giáo phong kiến khắc nghiệt,
lạnh lùng đã dìm chết luôn cái hi vọng mong manh được làm nô lệ của thím. Người đã không
chấp nhận thím và mãi mãi không chấp nhận sự tồn tại của thím trong xã hội...Lần này, thím
suy sụp hoàn toàn cả thể xác lẫn tinh thần và không thể nào gượng dậy được nữa. Lỗ Tấn tả:
"Chẳng những đôi mắt sâu hoắm xuống, mà tinh thần ngày càng tiều tụy, đờ đẫn, ngây dại".
Ngày qua ngày "Thím đâm ra nhút nhát, sợ đêm tối, sợ bóng đêm, bất cứ gặp ai, thậm chí gặp
chú thím Tư, cũng cứ lấm la lấm lết như chuột nhắt ra khỏi hang giữa ban ngày. Hoặc có khi
thím ngồi ngây ra chẳng khác gì pho tượng gỗ. Chưa đầy nữa năm, tóc thím đã bạc ra, thím
không nhớ được cái gì cả thậm chí quên cả việc đi vo gạo... "[6,tr.92]. Và kết thúc tất yếu của
cuộc đời thím là thím bị chủ đuổi ra khỏi nhà, trở thành một kẻ ăn mày không hơn không kém.
Cái mong ước nhỏ nhoi, thấp kém của thím là được làm nô lệ nhưng rồi mãi mãi không
đạt được. Bọn địa chủ phong kiến tàn ác đã bóc lột sức lao động của người đàn bà nông dân
một cách thậm tệ và đến khi không còn bóc lột được nữa thì chúng vứt ra đường không mảy
may thương tiếc. Còn giáo lý đạo đức phong kiến độc địa thì lại hành hạ, đoa đày người đàn bà
đau khổ kia không những khi còn sống mà ngay cả khi chết. Gặp nhân vật "tôi", mụ ăn mày
Tường Lâm không xin tiền, cũng không muốn gì cả, chỉ hỏi một câu hỏi dứt khoát xem “người
chết có linh hồn hay không?”. Thì ra không chỉ đói khát, giá lạnh, tủi nhục mới là nỗi đau khổ
của thím Tường Lâm mà nỗi lo sợ trước nhưng hình phạt phải chịu đựng sau khi chết đi lại
càng khủng khiếp hơn... sống ở trên đời, thím Tường Lâm không những phải gánh chịu nỗi đau
của bản thân là chồng chết, con chết, đói khát, mà còn phải chịu sự ghẻ lạnh, thờ ơ của đồng
loại. Đại văn hào Pháp Balzac từng nói: “Con người không thể sống, sống đàng hoàng, sống
con người, sổng hạnh phức khi mà người này không giúp đỡ người kia”.Vậy mà, ở cái xã hội
phong kiến Trung Quốc đó, nỗi đau mất con của người đàn bà nông dân yếu đuối lại trở thành
một trò tiêu khiển, thành mục tiêu chê cười của mọi người. Lỗ Tấn đồng cảm mà thốt lên
những lời như sau: "Câu chuyện thương tâm của thím, người ta thưởng thức bao lâu nay, bây
giờ đã như cái bã, nhai đi nhai lại chấn lắm rồi, phải nhổ đi. Nhưng nhìn nụ cười của họ, thím
hình như cũng thấy được đó là một nụ cười vừa lạnh lùng vừa chế giễu" [10.tr. 95]. Đau xót
hơn, khi mà "sự tồn tại hay không tồn tại" của thím Tường Lâm cũng chẳng quan trọng gì,
41
chẳng gây nên mối thương cảm nào đối với cộng đồng người bàng quan đó. Vậy đó, cùng là
những người bị áp bức, bị bóc lột, nhưng người này không có sự thương cảm với nỗi đau của
người kia. Không chỉ vậy, cái chết thương tâm của thím Tường Lâm chỉ khiến cho người ta
thêm bực mình, giận dữ. Cuối tác phẩm Lỗ Tấn thốt lên: "Không nhè lúc nào mà chết lại nhè
ngay vào giữa lúc này. Rõ là đồ khốn kiếp!". Thế đấy, thím Tường Lâm đã chết đi giữa giá
tuyết lạnh lẽo, giữa tiếng pháo "cầu phúc", giữa tiếng chửi rủa của bọn nhà giàu. Sự đối lập này
hiện lên từ trang sách xót thương và đau khổ của Lỗ Tấn.
Qua nhân vật thím Tường Lâm, chúng ta có thể thấy được sự xấu xa, thối nát, bất công
của chế độ xã hội phong kiến nam quyền. Người đàn ông trong xã hội có quyền có "năm thê
bảy thiếp" cùng một lúc, còn người đàn bà chồng chết tái giá thì cho đó là phạm trọng tội.
Trong cái xã hội phong kiến đó, người phụ nữ nông dân chỉ là một thứ hoa phẩm dùng chưa
hỏng đã bị vứt ra đường, chỉ là một thứ hiện vật mà người ta mua đi bán lại mà thôi. Người đọc
chúng ta có thể cảm nhận được nỗi bi phẫn sâu sắc của tác giả về cái xã hội "ăn thịt người" đó.
Đồng thời, chúng ta cũng thấy được sự mạnh dạn của tác giả khi thẳng tay chỉ rõ những quan
niệm cổ hủ đầy mê tín dị đoan đã ăn sâu thành gốc rễ trong tâm hồn người nông dân. Guộc đời
đau khổ, bất hạnh của thím Tường Lâm là tiếng kêu thảm thiết đòi quyền sống, "quyền được
làm người" dưới ách áp bức dã man, tàn khốc của lễ giáo đạo đức phong kiến lúc bấy giờ. Các
Mác đã từng nói: "Giải phóng phụ nữ là thước đo để giải phóng giai cấp". Lỗ Tấn nhận thức
điều ấy khi ông xây dựng hình tượng thím Tường Lâm. Truyện ngắn "Lễ cầu phúc" khép lại
nhưng nhà văn để lại cho người đọc nhiều suy nghĩ. Có phải những người phụ nữ như thím
Tường Lâm là cá biệt không? Nhà văn tự hỏi và trả lời. " Nhân vật tôi" kể chuyện trong truyện
ngắn là một đặc điểm nghệ thuật, nó làm tăng thêm tính chân thực và khách quan của tác phẩm.
Cũng chính yếu tố "Người kể chuyện" (tức Lỗ Tấn) mà làm cho hình tượng thím Tường Lâm
trở nên điển hình và tác phẩm có giá trị hiện thực cao. Những ai đã từng đọc tác phẩm và khi
xem bộ phim "Lễ cầu phúc" lại thêm hiểu về cuộc đời bất hạnh của người phụ nữ này. Những
người phụ nữ như thím Tường Lâm (Lễ cầu Phúc - Lỗ Tấn), chị Dậu ( Tắt đèn - Ngô Tất Tố) là
điển hình về số phận, hoàn cảnh và nỗi bất hạnh của người phụ nữ phương Tây cuối chế độ
phong kiến.
42
2.1.2.Người nông dân tạm được làm nô lệ
Không dừng lại ở những trang viết thương tâm đầy nước mắt về những người nông dân
muốn làm nô lệ mà không được, Lỗ Tấn còn đi đến xây dựng hình tượng người nông dân được
gọi là tạm được làm với cuộc sống cũng không kém phần đau khổ và bất hạnh. Nếu như số
phận bi thương, đau khổ của thím Tường Lâm là muốn làm nô lệ mà không được thì số phận
của Nhuận Thổ trong truyện ngắn "Cố hương" có thể nói loại người tạm được làm nô lệ mà Lỗ
Tấn đã sáng tạo ra.
Dưới ngòi bút sắc nhọn của mình, Lỗ Tấn đã trình bày thực trạng người nông dân Trung
Quốc bị áp bức, đầy đoa hết sức thậm tệ cả phần hồn lẫn phần xác. Hình ảnh tê dại, cam chịu
của Nhuận Thổ là một điển hình cho sự bần cùng hóa đến tột độ và trạng thái thần kinh tê liệt
của người nông dân dưới ách thống tri của chế độ nửa thực dân nửa phong kiến Trung Quốc.
Trong kí ức của tác giả, hình ảnh Nhuận Thổ hai mươi năm vế trước hiện lên như một hiệp sĩ tí
hon giữa đồng ruộng tươi mát với tất cả những đức tính dũng cảm, chân thành, chất phác, vị tha
của người nông dân. Đó là một cậu bé khoe mạnh, hiền lành, có khuôn mặt tròn trĩnh, nước da
bánh mật, lại cần cù, thông minh, lanh lợi, tràn đầy sức sống...Vậy mà giờ đây, sau khi trải qua
một quá trình đấu tranh sinh tồn với thực tế cuộc sống đầy khắc nghiệt, Nhuận Thổ đã trở thành
một con người đần độn, nước da bánh mật ngày xưa nay đã trở nên vàng sạm, lại thêm những
vết nhăn sâu hoắm in hằn trên gò má, bàn tay của anh xưa kia hồng hào, nhanh nhẹn, mập mạp,
cứng rạn... thì giờ đây nó thô kệch, nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông, thêm vào đó là: "Những
nếp nhăn khắc sâu trên mặt, trông anh phảng phất như pho tượng đá." [6, tr.l71]. Chỉ qua vài
nét phát họa về ngoại hình tương phản giữa xưa và nay của Nhuận Thổ, người đọc có thể hình
dung được những nổi niềm đau khổ mà người nông dân phải chịu đựng. Ẩn chứa đằng sau
khuôn mặt khắc khổ ấy là một thực tế của cuộc sống: đông con, mất mùa, sưu cao thuế nặng,
quan tham, cường hào, ác bá bòn rút... đã đày đoa làm cho Nhuận Thổ trở nên mụ mẫm, tê dại
hẳn đi. Điều làm cho tác giả đau xót nhất là: anh ta đại khái chỉ biết là khổ nhưng không biết do
đâu mà khổ. Theo anh ta, khổ là do mất quy củ và anh ta muốn kéo con cháu trở về với quy củ.
Như thế là đủ thấy, ranh giới giai cấp và quan niệm sang hèn do chế độ phong kiến qui định đã
ăn sâu thành gốc rễ trong đầu người nông dân như là một thứ chuẩn mực không thể thay đổi
được. Trong bài tạp văn Chuyện phiếm cuối năm, Lỗ Tấn lấy việc con tò vò chích nọc độc vào
43
huyệt thần kinh vận động con sâu xanh làm cho nó tê liệt đi, không chết nhưng cũng không thể
chống cự được, có thể giữ làm mồi cho con...để ví với sự độc ác, nham hiểm của giai cấp thống
trị phong kiến. Giai cấp thống trị hẳn không mong muốn gì hơn là những người nô lệ, nhịn
nhục, cam chịu, an phận kiểu như Nhuận Thổ đó là: khốn khổ, tê dại, chai sạn, thỏa mãn với số
kiếp làm nô lệ của mình. Ý thức này tiềm ẩn sâu sa trong con người của Nhuận Thổ từ lâu nay.
Không chỉ vậy, nhà văn còn cảm thây xót xa hơn khi thấy chế độ đẳng cấp phong kiến
không chỉ làm biến đổi nhân hình bên ngoài mà còn làm thay đổi cả nhân tính bên trong của
Nhuận Thổ. Nếu như trước kia, giữa tác giả và Nhuận Thổ có một mối quan hệ thân thiết, gắn
bó với nhau, cùng nhau đi bắn chim chào mào, nhặt vỏ sò, đi đâm tra...thì bây giờ thay thế vào
mối quan hệ thân tình đó là sự ghẻ lạnh, xa cách. Lỗ Tấn kể lại sự "xa lánh" này của Nhuận
Thổ đối với mình bằng một câu văn chua xót:
"Nhuận Thổ đứng dừng lại, nét mặt vừa hớn hở vừa thê lương, môi mấp máy, không nói
ra tiếng. Rồi bỗng anh lấy dáng điệu cung kính, chào rất rành mạch:
-Bẩm ông!
Tôi như điếng người đi. Thôi đúng rồi! Giữa chúng tôi có một bức tường khá dày ngăn
cách. (...)
-Ai chà! Cụ thật là... Như thế còn ra thể thống gì nữa. Hồi đó, còn nhỏ dại, chưa
hiểu..."[6,tr. 162]
Thế đấy, áp bức giai cấp, áp bức dân tộc đã dựng lên bức tường dày chia cắt tình thân
giữa tác giả và Nhuận Thổ. Giờ đây, họ không còn là bạn của nhau nữa vì địa vị của mỗi người
đã đổi khác. Trong mắt Nhuận Thổ, thì tác giả đã là người thuộc tầng lớp trên, không còn là
một chú bé cùng Nhuận Thổ chơi đùa như ngày xưa nữa. Những hành động của Nhuận Thổ
như đem quà đến biếu một cách cung kính, run rẩy, sợ sệt, không dám nói nhiều chỉ biết lắc
đầu ngồi trầm ngâm, hay vùi những cái bát vào đống tro. Tất cả những hành động đó, một lần
nữa cho ta thấy Nhuận Thổ đã hoàn toàn thay đổi - thay đổi một cách khủng khiếp từ ngoại
hình đến cách suy nghĩ và ngay cả trong hành động của anh ta. Chính cái chế độ xã hội phân
biệt đẳng cấp đã đâu độc làm cho Nhuận Thổ tê dại, cam chịu về số phận làm nô lệ của mình.
Sự thay đổi của Nhuận Thổ, mà theo như tác giả là rất đáng thương và cũng rất đáng trách.
44
Về cố hương lần này, tác giả cảm thấy mất mát quá nhiều và trong lòng rất buồn, nhưng
ông vẫn nuôi một hi vọng cho thế hệ sau "sẽ có cuộc sống mới, cuộc sống mà chúng tôi chưa
từng được sống" và ông chờ đợi một ngày những người bị áp bức như Nhuận Thổ sẽ bừng tỉnh,
sẽ đứng lên phá bỏ bức tường dày ngăn cách giữa con người với con người đó. Lòng ông tràn
ngập niềm tin bởi vì theo ông"trên mặt đất vốn không có đường đi, người đi lại nhiều sẽ trở
thành đường đi". Cũng giống như truyện ngắn "Thuốc", đoạn cuối của truyện "Cố hương"
mang một giọng lạc quan về tương lai sáng sủa. Tuy ký ức về cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc của
thời thơ ấu bị hiện thực tàn nhẫn xoa bỏ, nhưng cuối cùng hiện thực tàn nhẫn ấy lại bị lý tưởng
tươi đẹp của tác giả xóa bỏ. Có thể thấy rằng, tác giả không phải đang nuối tiếc quá khứ, mà là
đang khiêu chiến với hiện thực và nồng nhiệt chờ đón tương lai đi tới ước mong sẽ có nhiều
con dường đi đến hạnh phúc. ý
Mục đích của Lỗ Tấn khi xây dựng dạng người nông dân tạm được làm nô lệ, cũng giống
như khi xây dựng các dạng người nông dân khác là muốn "chấn hưng dân khí", mà điều đầu
tiên của khẩu hiệu này là ở chỗ nó buộc người ta phải ý thức được địa vị đích thực của mình
trọng xã hội. Ý nghĩa sâu xa của truyện ngắn "Lễ cầu phúc" và "Cố hương "là ở chỗ đó. Nếu
như số phận của người nông dân mà cụ thể là thím Tường Lâm trong "Lễ cầu phúc" bi thương
tăm tối và ảm đạm thì cũng chính con người đó mà điển hình là Nhuận Thổ trong " cố hương"
đã có phần loe sáng hơn. Một người là phụ nữ (thím Tường Lâm) và một người là đàn ông (
Nhuận Thổ). Tuy hoàn cảnh khác nhau nhưng đáng quý ở họ là có một nét tương đồng - sự
chân chất, thật thà. Lỗ Tấn "thương" họ ở những tính đó nhưng ông cũng "giận" họ ở chỗ họ
cam chịu, an phận, cố hữu tiềm ẩn trong bản thân mình. Hai nhân vật, hai thân phận và hai
cuộc đời. Nếu như "Lễ cầu phúc" giàu tính hiện thực, thì "Cố hương" loé lên tính lãng mạn,
cách mạng, đánh dấu một nhận thức mới của Lỗ Tấn về con người - người nông dân Trung
Quốc bất hạnh.
2.1.3.Người nông dân tha hóa
Không quá khi nói rằng, chủ đề ám ảnh trong truyện ngắn Lỗ Tấn là tình trạng tha hoa
của con người dưới chế độ nữ a thực dân nửa phong kiến. Tha hoá thường được hiểu theo nghĩa
hẹp là xấu, mất phẩm chất như đạo đức. Hay nói một cách cụ thể hớn, tha hoa là sự biến chất
của con người, là tình trạng con người trở nên đối nghịch với bản chất tốt đẹp vốn có của họ.
45
Và cao hơn, đó còn là "Tình trạng con người không ý thức được sự tha hoa của mình nên đã
không đấu tranh để thoát ra" [6,tr.34].
Lỗ Tấn, khi xây dựng dạng người nông dân Trung Quốc tha hoa đã lý giải tình trạng này,
một mặt là do xã hội gây nên - một xã hội không những không tạo điều kiện cho sự phát triển
con người mà còn kiềm hãm, đè nén sự phát triển tự nhiên của con người. Mặt khác, Lỗ Tấn
cũng nhận thây rằng sự tha hoa của người nông dân bắt nguồn từ những mặt tiêu cực của chính
bản thân họ như sự ù lý, trì trệ, thiếu sinh khí, thiếu suy nghĩ, tâm hồn què quặt u mê, không có
sức sống hay bản chất yếu ớt dễ bị biến dạng do tác động của hoàn cảnh xã hội tạo nên.
Có lẽ, trong truyện ngắn của Lỗ Tấn, không có hình tượng nhân vật nào tiêu biểu cho
người nông dân tha hoa bằng hình tượng A.Q trong tác phẩm A.Q chính truyện được. Tất nhiên
hình tượng A. Q còn tiêu biểu cho rất nhiều khía cạnh, nhiều vấn đề xã hội mà Lỗ Tấn muốn đề
cập đến khi xây dựng nhân vật này. Nhưng trong phần này, chúng tôi chỉ đi sâu tìm hiểu ở khía
cạnh tha hoa của A.Q tiêu biểu cho sự tha hỏa của người nông dân Trung Quốc trước và sau
cách mạng Tân hợi (1911)
Như trên đã nói, Lỗ Tấn giải thích sự tha hoa của người nông dân là do tác động của hoàn
cảnh xã hội. Trong A. Q chính truyện đấy là bối cảnh nông thôn làng Mùi trước và sau khi nổ
ra cuộc cách mạng Tân Hợi. Thế lực thống tri ở làng Mùi nằm trong tay giai cấp thống trị mà
cụ cố họ Triệu, cụ cố họ Tiền là tiêu biểu. Những thế lực đó đã khống chế toàn bộ nền kinh tế
của nông dân, lấy uy quyền của bọn phản động đàn áp nông dân. Chính trong tình trạng xã hội
đó đã sản sinh ra những kẻ bần cùng rồi dần dân dẫn đến tha hóa như người nông dân nghèo
khổ bần cùng A.Q.
A. Q - một bần cố nông không một tấc đất cắm dùi, không một đồng xu dính túi, không
vợ không con, không nghề nghiệp ổn định. Hắn sống bằng cách đi làm thuê cho người ta "ai
thuê gặt lúa thì gặt lúa, ai thuê giã gạo thì giã gạo, ai thuê chống thuyền thì chang
thuyền"[6,tr.33], nhưng rốt cuộc thì ngoài mỗi manh áo rách đắp trên người ra thì y chẳng còn
gì khác. Y không có nhà cửa, ban ngày đi làm thuê, tối về ngủ nhờ ở đền Thổ cốc. Y cũng
không có quê quán, họ hàng bà con thân thích gì cả, ngay cả cái tên cũng không có nốt. Y chỉ
mới nói rằng mình họ Triệu thì đã bị cụ cố họ Triệu tát vào mồm rồi, thành thử chẳng ai biết
thực hư như thế nào cả! Theo mô tả của Lỗ Tấn thì nhân vật A.Q này "khoảng trên dưới ba 46
mươi tuổi, người ngợm tầm tầm có chất mộc mạc ngờ nghệch của người nông dân, nhưng cũng
đã nhuốm phần gian xảo của lũ người du thủ du thực.". "Tuy vậy, nhưng không phải là dân lưu
manh, cũng không giống như dân bụi đời" [6,tr.35]. Những đặc điểm tính cách của A. Q vô
cùng phức tạp nhưng lại thống nhất một cách hài hoa trong con người y. Sự việc A. Q cầu hôn
vú Ngó thể hiện chất mộc mạc, ngờ nghệch và lông bông của y, đồng thời cũng thể hiện sự đàn
áp, bức hại nặng nề của giai cấp địa chủ đè lên người A. Q. Địa chủ phong kiến không chỉ đánh
đập mà còn cắt bớt tiền công, siết đồ đạc, đến cả manh áo rách chúng cũng không bỏ qua. Thói
tật bài bạc, đánh nhau, trộm cắp của A. Q vừa gắn với cuộc sống khó khăn của y, lại vừa mang
đặc trưng của một kẻ lang thang vô nghề nghiệp thiếu văn hoa. Có thể thấy, chất mộc mạc có
phần ngờ nghệch hay sự siêng năng - ai thuê gì làm nấy của A.Q chứng tỏ bản chất của y là
một người nông dân lương thiện. Nhưng dưới sự áp bức, bóc lột của bọn địa chủ, cùng với sự
đầu độc của những thói hư tật xấu, các tệ nạn xã hội đầy rẫy trong làng Mùi đã biến A.Q thành
một kẻ khố rách áo ôm rồi dần dần tha hóa trở thành kẻ "đầu trộm đuôi cướp"... Vì đói, vì
miếng ăn, A.Q đã phải đi ăn trộm củ cải ở chùa, tệ hơn, hắn trở thành kẻ đào ngạch ăn trộm nhà
người ta và kết cục tất yếu của y là bị vu khống đã ăn trộm nhà họ Triệu và bị xử bắn. Con
đường cùng đã chờ đón A.Q, từ đây y thực sự đã trở thành kẻ tha hoa, bị đẩy rạ ngoài xã hội.
Hoàn cảnh thực tế của A.Q là cực kỳ bi đát, nhưng về mặt tinh thần, y thường ở trong
trạng thái đắc thắng. Đây chính là sự tha hóa trong tâm hồn A.Q. Sở dĩ, A.Q lúc nào cũng ở
trạng thái đắc thắng vì y có "phép thắng lợi tinh thần". Chính cái phương pháp thắng lợi ấy đã
ru ngủ A.Q trên men say của sự chiến thắng tưởng tượng. Đây cũng là tư tưởng, tâm lý chung
của người Trung Quốc lúc bấy giờ. Bị ngoại bang xâm lăng, Trung Quốc phải kí nhiều hiệp
ước thua thiệt nhưng lúc nào cũng tự coi mình là kẻ mạnh. Nhưng thực tế, hiệu lực của "phép
thắng lợi tinh thần " không được bao nhiêu, nó làm cho con người trở nên ngu muội, chết dần,
chết mòn và cho đến lúc chết thực sự cũng không biết vì sao mình chết. Đó cũng chính là nỗi
bất hạnh lớn nhất của những con người này mà Lỗ Tấn đã nhìn thấy được và ông thẳng thắn chỉ
ra để mọi người "soi" lại mình và tìm cách bổ khuyết.
Khi xây dựng nhân vật A.Q, Lỗ Tấn tỏ ra am hiểu sâu sắc bản chất, tâm hồn và tính cách
của những con người như A.Q, đó là: cạ ngợi những gì mà xã hội căm ghét, phản đối tất cả
những gì mà trước kia người ta chủ trương sùng bái và tìm kiếm chiến thắng trong sự tưởng
47
tượng để quen đi thất bại thực tế. A.Q sống trong cuộc đời thực mà như sống trong giữa giấc
mơ. Thực tế quá phũ phàng, y tìm cách trốn tránh cuộc đời trong cái "phép thắng lợi tinh thần "
đầy bệnh hoạn. Nhận định về loại nhân vật này, Lỗ Tấn có viết: "Họ không dám nhìn thẳng vào
sự thật, họ dùng cách che giấu để tạo ra một con đường thoát rất kỳ diệu, mà họ tưởng đó là
con đường đúng đắn. Con đường đó chứng tỏ tính quốc dân là yếu đuối, lười nhác, mà lại xảo
trá, càng ngày càng thoa mãn, tức là càng suy đốn, thế nhưng lại càng ngày càng vẻ vang."
[6,tr.36ì A.Q là một hình tượng rất thực ở xã hội ở nông thôn Trung Quốc. Đó là loại người
cùng đinh, khốn khổ, tứ cố vô thân, ít nhiều bị lưu manh hóa ở nông thôn của những nước nửa
thuộc địa nửa phong kiến, không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên, cá biệt. A.Q là một hiện
tượng và "sản phẩm" của nông thôn Trung Quốc đói nghèo dốt nát trước và sau cách mạng Tân
hợi
Tuy vậy, Lỗ Tấn quyết không phải là một nhà văn bi quan. Thái độ của ông khi xây dựng
những hình tượng người nông dân khuất phục, an phận, tha hoa, cam tâm chịu làm nô lệ, không
phải là để khinh bỉ, mỉa mai mà là để chê trách phế phán họ: "Lỗ Tấn luôn nói về sự đau khổ
của con ngườiyđứng hẳn về phía họ vừa bày tỏ mối thương cảm sâu sắc, vừa chẩn bệnh, vạch
ra các thói hư tật xấu của họ " [6,tr.45], không phải để dìm chết, càng không phải để khều gợi
lòng tự ti mà là để phát huy phần "Người" trong eon người của họ. Hơn nữa, người nông dân
Trung Quốc đâu chỉ có thế, mà văn học cũng đâu chỉ có vậy. Trung Quốc là một nước đất rộng,
người đông phần lớn là nông dân. Bên cạnh những con người tha hoa, bất hạnh người nông dân
Trung Quốc vẫn là một lực lượng lành mạnh của xã hội. Bao nhiêu cuộc khởi nghĩa của nông
dân Trong lịch sử đã thể hiện điều ấy. Nếu được giáo dục cùng một tư tưởng và đường lối đúng
đắn, còn có nhiều người nông dân biết vùng lên, biết đấu tranh chống lại cái khổ, sự bất công
của xã hội. Với ý nghĩa đó hình tượng AQ rất điển hình. Hình tượng nhân vật này thể hiện rõ
thái độ yêu, ghét của Lỗ Tấn đối với con người. Sự tha hoa của nhân vật AQ là sự tất yếu khi
nhận thức của đại bộ phận người nông dân Trung quốc thống khổ không tự ý thức về mình,
không đủ can đảm để tự mình vươn lên mà chỉ biết dựa vào phép "thắng lợi tinh thần".
2.2.NGƯỜI TRÍ THỨC BẤT HẠNH
Hình ảnh người trí thức xuất hiện rất nhiều trong các truyện ngắn của Lỗ Tấn. Những
nhân vật mà ông miêu tả trong truyện hầu hết là những người mà ông quen biết, thân thuộc,
48
thậm chí đôi khi người ta còn cảm thấy phảng phất hình ảnh của chính Lỗ Tấn. Có điều. từ
những người, những việc thật đến những nhân vật đều được ông gia cộng lên mức điển hình.
Ông đã "lấy ở mỗi người một nét rồi hợp lại thành một người" từ đó mà khái quát nó lên thành
hình tượng nghệ thuật sinh động về người trí thức bất hạnh cả hai mặt vật chất và tinh thần.
Lỗ Tấn rất quan tâm đến vận mệnh của mọi số phận đau khổ. Từ người nông dân cho đến
tầng lớp trí thức. Ông thường chọn "những người bất hạnh trong xã hội bệnh tật, với mục đích
lôi hết bệnh tật của họ ra, làm cho mọi người chú ý tìm cách chạy chữa". Ông cũng là người
đầu tiên thiết tha đến với lớp người bất hạnh nơi đó có người trí thức trong văn học Trung
Quốc hiện đại. Người trí thức bất hạnh đã có từ trước- từ tác phẩm văn học "chuyện làng nho"
(Nho lâm ngoại sử) của Ngô Kính Tử đời Thanh. Đến Lỗ Tấn, hình ảnh không mấy tốt đẹp và
đầy nỗi bất hạnh của họ lại được nhà văn tái hiện.
Qua các truyện ngắn về các nhân vật trí thức bết hạnh, chúng ta thấy có nhiều trí thức tân
thời đã dũng cảm đấu tranh chống lại lễ giáo phong kiến để giải phóng cá nhân, nhưng họ chỉ
biết đấu tranh một cách riêng lẻ, tự phát và đơn độc. Cuộc đấu tranh một cách lẻ loi âm thầm
của họ rốt cuộc cũng sớm đi tới thất bại. Chỉ khi nào xóa bỏ tận gốc những thế lực thống trị đen
tối trong xã hội thì con người trí thức mới có tự do, mới thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn, nhỏ bé
trong cuộc đời. Thật vậy, xã hội phong kiến bất công, thối nát và lỗi thời đã khiến cho những
người trí thức không có cơ hội thực hiện mộng tưởng và hoài bão của mình. Người trí thức
trong truyện ngắn của Lỗ Tấn cùng chung số phận của quảng đại tầng lớp đau khổ và bế tắc
trong xã hội phong kiến Trung Quốc.
Những truyện ngắn về đề tài người trí thức của Lỗ Tấn đã phê phán thực trạng xã hội và
gián tiếp dẫn dắt người đọc nhận ra chỉ có đấu tranh, phản kháng, lật đổ cả chế độ phong kiến
thì mới thực hiện được những mộng ước cao đẹp của họ. Vì vậy, viết về số phận của người trí
thức trong xã hội. bằng cách nhìn và sự chú ý đầy trách nhiệm. Lỗ Tấn đã làm được một việc to
lớn là khiến mọi người nhận ra những "bệnh tật"của mình và đến với những cảnh đời đau khổ.
Lỗ Tấn đã dùng ngòi bút của mình là vũ khí đấu tranh, mong muốn đem lại hạnh phúc cho con
người. Vì vậy, những người trí thức đang "sống mòn" và "chết mòn", những trí thức tiểu tư sản,
những trí thức giác ngộ về xã hội đau khổ của mình đều là những nhân vật bất hạnh mà cuộc
đời của họ rất đáng để chúng ta suy ngẫm và tự mình tìm ra lời giải đáp.
49
Trước và sau Lỗ Tấn, cũng có khá nhiều nhà văn đa viết về người trí thức và viết về nỗi
bất hạnh, cơ cực của họ. Lỗ Tấn cũng viết về người trí thức, nhưng cách đặt vấn đề của ông hơi
khác, đúng với tuyên ngôn nghệ thuật của ông là: " lôi hết những bệnh tật của con người ra, đề
tìm cách chạy chữa". Nhưng người trí thức trong tác phẩm của Lỗ Tấn là ai ? Đây là hình ảnh
đơn độc và bất phùng thời của người điên. Kia là hình ảnh đáng thương lẫn đáng giận và có gì
đáng tội nghiệp của Khổng Ất Kỷ. Gấp cuốn sách lại, văng vẳng bên tai của chúng ta là những
tiếng cười nhạo báng của thế giới nhân vật nghệ thuật. Ôi! Cái thế giới người vô tâm hay nhẫn
tâm, tỉnh táo hay ngơ ngẩn khi cứ cười trên nỗi đau của đồng loại mà không nhìn thấy những
bệnh tật của chính mình là gì ? Lỗ Tấn đã đưa vào tác phẩm của mình những số phận bất hạnh
và khổ sở của thân phận người trí thức trong xã hội nữa thực dân phong kiến, số phận của
những nhà cách mạng đơn độc trong một xã hội bệnh tật. Họ là những kẻ khùng điên trong con
mắt của những người mê muội. Sự đau đớn pha lẫn bế tắc của họ chẳng khác gì những người
đang mê ngủ mà bị bóng đè, cố vùng vẫy để thức giấc mà vẫn không sao tỉnh dậy được. Phải
chăng đó là sự ngu muội của loại người trí thức trong xã hội mà họ không thấy lối ra.
Không chỉ là một nhà văn, Lỗ Tấn còn là một nhà giáo, vì vậy ông rất am hiểu về những
người trí thức, nhưng đồng thời ông cũng lại rất gần gũi với người lao động. Lỗ Tấn tuy xuất
thân từ gia đình nho sĩ, quan lại nhưng ông cũng đã từng trải qua một thời kỳ quẫn bách, nên
ông rất thấm thìa cái thân phận bất hạnh của người trí thức thất thế trong một xã hội Trung
Quốc giao thời đầy mê muội và lạc hậu so với xã hội phương Tây và Nga lúc bấy giờ.
Theo ông, trí thức cũng là một động lực quan trọng trong cách mạng dân chủ. Ổng đã viết
nhiều về trí thức tiểu tư sản, ca ngợi tứ tưởng chống phong kiến nhưng đồng thời cũng phê
phán chủ nghĩa cải lương và cá nhân của họ. Rất nhiều trí thức trước đây đều là những thanh
niên từng dũng cảm chống lại chế độ phong kiến, nhưng bây giờ đây lại thỏa hiệp đầu hàng
trước thế lực ấy, họ bất mãn với thực tại đen tối đương thời, nhưng cách chống đối của họ là
đấu tranh thoát ly quần chúng. Họ sống có lý tưởng nhưng thiếu một phương hướng đúng đắn,
nhất là thiếu dũng khí và lòng quyết tâm chống lại cái hiện thực đen tối ấy. Kết quả là họ sống
vất vưởng, ảm đạm trong cuộc đời. Đó là nỗi bất hạnh lớn nhất trong cuộc đời của người trí
thức khốn cùng và bất hạnh trong xã hội phong kiến Trung Quốc ngàn đời tăm tối.
50
2.2.1.Người trí thức đang "chết mòn"
Có hai nhân vật tiêu biểu cho tầng tớp trí thức cũ đang chết mòn trong xã hội phong kiến
Trung Quốc giao thời, đó là nhân vật Khổng Ất Kỷ trong tác phẩm "Khổng Ất Kỷ" và Trần Sỹ
Thành trong tác phẩm "Luồng ánh sáng" mà Lỗ Tấn đã miêu tả. Dưới ngòi bút và thái độ kể
chuyện của Lỗ Tấn họ là những người có học vấn, có thể nói là nho sỹ, nhưng bất hạnh thay lại
sống trong thời kỳ mà chế độ phong kiến đang suy tàn và sụp đổ. Khổng Át Kỷ thi tú tài không
đỗ. Nghèo túng đã đẩy ông ta đến với cuộc sống bần cùng hèn hạ. Quán rượu mà tác giả miêu
tả trong tác phẩm chính là bức tranh thu nhỏ của xã hội nông thôn Trung Quốc đương thời. Đó
là một quán rượu đặc trứng ở Lỗ Tấn và có "một cách sắp đặt khác hẳn những nơi khác". Chỉ
cần nhìn vào cách sắp xếp chỗ ngồi của khách là cũng có thể biết được thân phận của từng
người. Trong quán những người mặc áo dài thì "ngồi uống khề khà", có thức nhắm ngon là lớp
người giàu có và nho sĩ. Ngoài quán, những người mặc áo cộc lô nhố, đứng xung quanh quây
uống rượu, là những người lao động nghèo khổ và thất nghiệp. Họ "vừa uống vừa nghỉ cho đỡ
mệt". Khổng Ất Kỷ cũng thường xuât hiện trong cái quán rượu đó. Đặc biệt hơn, ông là người
khách duy nhất mặc áo dài có vẻ tươm tất nhưng lại đứng trong đám người ở ngoài quầy có
nghĩa là trong đám người nghèo. Cái nghèo đã đánh rớt đẳng cấp xã hội vốn có của ông. Vì vậy
tuy là nho sĩ mà không bao giờ ông ta vào được trong quán ngồi uống rượu. Tác giả miêu tả
Khổng Ất Kỷ thi mãi không đỗ. "lại không biết làm gì ra ăn, do đó càng ngày càng túng quẫn
đến nỗi phải đi ăn xin" [6,tr.l55]. Chỉ bằng một câu văn mà nhà văn đã lột tả hết bước đường
cùng của tầng lớp gọi là "trí thức" nho sĩ thời đó. Còn trong truyện ngắn "luồng ánh sáng",
Trần Sỹ Thành là một thư sinh thất bại về con đường khoa cử. Ông ta tự chôn vùi mình vào
trong danh vị, mơ tưởng đến sự giàu sang khá giả mà đào cả nền nhà lên để tìm vàng. Vàng đâu
không thấy, chỉ có bộ xương quai hàm của người chết xưa nhặn ra cười mai mỉa với ông ta. Chi
tiết này Lỗ Tấn có ý phê phán chê cười quan niệm nhận thức lỗi thời của một bộ phận người
Trung Quốc đương thời.
Khổng Ất Kỷ sống hèn hạ làm trò cười cho đời. Trần Sỹ Thành vì mê muội công danh và
muốn làm giàu đã chết trong tuyệt vọng. Cả hai số phận trí thức này đều đáng thương. Họ đều
là những nạn nhân bị xã hội phong kiến bóp chết nhân cách dẫn đến bi kịch của cuộc đời.
Trong truyện ngắn của Lỗ Tấn, Khổng Ất Kỷ và Trần Sỹ Thành là những thảm cảnh bi hài kịch
51
nạn nhân của nền giáo dục phong kiến, lại sống trong xã hội đang chịu ảnh hưởng của văn hóa
phương Tây nên họ trở thành những "con người thừa" trong một thời đại đang biến đổi cũng
mang tiếng là trí thức mà ở họ không có gì cao quý đáng được tôn vinh. Một người thì đáng
thương, một người thì đáng trách.
Lỗ Tấn có tài chọn lọc những chi tiết đặc sắcvà xây dựng nhân vật thành điển hình sinh
động. Khổng Ất Kỷ tiêu biểu cho loại trí thức cũ lỗi thời, nghèo hèn. sống -vất vưởng bên lề xã
hội. Lỗ Tấn miêu tả chi tiết Khổng Ất Kỷ là người mặc áo dài trong cuộc sống duy nhất đứng
uống rượu với những người lao động nghèo, mặc áo ngắn ở ngoài quầy có thể coi là một chi
tiết rất đặc sắc, nói lên sự xuất hiện lạc lõng, trở thành "con người thừa" trong cuộc sống. Một
sự mâu thuẫn quyết định toàn bộ vận mệnh của Khổng Ất Kỷ mà không còn cách nào cứu vãn
được. Lời nói "chi, hồ, giả, dã" mà lúc nào ông ta cũng xổ ra một tràng khi gặp mọi người gọi
là sống tạm được? thì lại chẳng mấy ai hiểu. Không những thân phận của ông lạc lõng, mà lời
nói của ông ta cũng vô nghĩa và làm trò cười cho thiên hạ. Trần Sỹ Thành là trí thức lớp cũ
nhưng không nghèo và gọi là sống tạm được. Có điều chi tiết 16 lần thi trượt tú tài làm cho
nhân vật này trở thành kẻ háo danh khoa cử có một không hai. Tính chất châm biếm của Lỗ
Tấn thông qua hình tượng của Trần Sỹ Thành rất rõ. Tác giả rất ít "bình luận" về nhân vật này
càng làm cho người đọc thấy được tính chân thật và khách quan của tác giả. Câu truyện không
dừng lại ở đây. Nội dung phê phán của Lỗ Tân còn đi xa hơn nữa. Tác giả nhấn mạnh chi tiết
chỉ vì cái luồng ánh sáng hư ảo dưới trăng và câu nói thần bí mà ông ta đào cả nền nhà lên để
tìm vàng. Hình ảnh đi tìm vàng đáng nực cười của Trận Sỹ Thành làm cho người đọc liên
tưởng đến lão gia keo kiệt Griô trong tác phẩm của đại văn hào Banzắc hay lão hà tiện trong tác
phẩm của Molie.
Nếu như Khổng Ất Kỷ sống một cuộc đời thừa và chết trong sự lãng quên của người đời
thì Trần Sỹ Thành cũng là kẻ "sinh bất phùng thời" vì danh lợi mà để tiếng cười cho thiên hạ.
Bi kịch cuộc đời của cả hai nhân vật trí thức cũ đều được ngòi bút nhà văn hiện thực phê phán
phân tích khái quát thành những điển hình có ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Nhân vật trí thức nghèo như Khổng Ất Kỷ và Trần Sỹ Thành trong truyện ngắn của Lỗ
Tấn, dường như không có ý thức được cái kiếp sống đời thừa của mình. Từ sự sống đếncái chết
của ho đều rời vào trạng thái bị động. Ngoài ra, các nhân vật trí thức bất hạnh này đều đậm nét
52
sỹ diện đến mê muội, mù quáng nên kết cục số phận rất đau thương và bi đát. Ngòi bút hiện
thực pha chút hài hước của Lỗ Tấn đào đến tận cùng tâm hồn bệnh hoạn đó để phân tích, phê
phán. Tuy mức độ khác nhau nhưng Khổng Ất Kỷ và Trần Sỹ Thành đều vì danh lợi, đều là
nạn nhân của xã hội giao thời lúc bấy giờ. Hoàn cảnh tạo nên nghịch cảnh mà hai nhân trí thức
này phải gánh chịu là điều tất yếu.
Hầu hết các truyện ngắn của Lỗ Tấn đều chứa đựng một nỗi buồn tủi sâu xa. Thái độ thờ
ơ đến nhẫn tâm của người đời trước cảnh khốn khổ của họ khiến cho độc giả không khỏi cảm
nhận được nỗi chua xót cho những số phận bất hạnh trong một xã hội đầy rẫy nỗi khổ đau.
Than ôi, chỉ vì nghèo, mà những kẻ "sĩ" như họ, kẻ lẽ ra phải đứng đầu trong hạng người "sĩ,
nông, công, thương" lại đánh mất đẳng cấp của mình, trở thành những kẻ sống thừa, chết mòn,
sống cuộc đời lay lắt, thành trò cười cho thiên hạ. Ngòi bút của Lỗ Tấn muốn nói lên rằng trong
xã hội phong kiến cổ hủ và giao thời của Trung Quốc tầng lớp gọi là trí thức mà bất hạnh chua
xót thế thì còn nói gì đế dân thường tội nghiệp.
2.2.2.Người trí thức tiểu tư sản
Kiểu nhân vật trí thức bất hạnh thứ hai trong truyện ngắn Lỗ Tấn là những trí thức tiểu tư
sản. Họ là những con người an phận, thỏa hiệp với xã hội thối nát đương thời. Họ cũng có
những trăn trở, bất bình nhưng không dám chống lại cái xấu xa của xã hội. Điều đó khiến họ
trở nên buông xuôi, sống cuộc đời thừa thải, luẩn quẩn, chán chường và bất lực trước cuộc
sống. Tính chất phản kháng của loại trí thức này rất yếu.
Phương Huyền Xước trong truyện ngắn "Tết Đoan Ngọ" là mẫu nhân vật như vậy. Ông là
một loại trí thức cầu an. Vì giai cấp tứ sản thỏa hiệp với phong kiến cho nên Phương Huyền
Xước không dám đụng độ tới quan lại. Là người thầy giáo trên bục giảng, ông ta co đầu rụt cổ
bảo vệ cái triết lí sống "một chín một mười" của mình để tự biện hộ cho tính nhu nhược của
mình. Từ ngày ông ta tìm ra được câu danh ngôn bình thường “một chín một mười đó”, nó đã
đưa lại cho ông nguồn an ủi mỏng manh của bản thân. Trước đây, khi thấy các bậc lão thành uy
hiếp bọn thanh niên ông ta cũng giận, nhưng bây giờ ông ta lại nói: "Lớp trẻ này mai sau có
con có cháu thì rồi cũng lại lên mặt như thế thôi!" [6,179]. Thế là ông ta không bực dọc nữa,
cách nghĩ của ông theo kiểu "phép thắng lợi tinh thần" của A.Q. Để an phận, Phương Huyền
Xước không bao giờ dám mở miệng đòi hỏi một điều gì, kể cả khi người ta vu cho ông là bị 53
chứng thần kinh, ông cũng chẳng dám hò hè. Ông ngậm miệng để mong được sống yên thân,
nhưng sự đời vốn dĩ không đơn giản như thế. Cuộc sống cơm áo hàng ngày không để ông yên.
Chỉ nhờ sự đấu tranh đến vỡ đầu chảy máu của đồng nghiệp mà Phương Huyền Xước mới nhận
được một số tiền lương ít ỏi. "Nhưng ông ta vẫn còn lại một số nợ khá lớn chưa thanh toán
được". "Lúc bấy giờ, cả những ông quan thanh liêm cũng dần dần cho rằng thiếu tiền thì
không thể khổng đòi được"[10,tr. 80], và Phương Huyền Xước "tự nhiên" cảm thấy đồng tình
với bên giáo giới. Phương Huyền Xước không còn dám nói đến cái triết lí sống "một chín một
mười" nữa. Thực ra, trong thâm tâm, ông ta cũng bất bình với chính quyền, cũng ấm ức trước
những bất công mà xã hội đánh vào quyền lợi của bản thân mình. Chỉ vì thái độ cầu an, sĩ diện
hão mà ông sợ hãi, bỏ rơi những đồng nghiệp vì quyền lợi chung mà đấu tranh khổ sở. Có thể
nói, Phương Huyền Xước là nhân vật có tình cách điển hình cho loại trí thức mơ hồ trước cuộc
đời, có lối sống nặng về "chủ nghĩa cá nhân" ích kỷ. Tuy ông ta cũng bất bình với xã hội cũ,
thấy những chuyện trái tai gai mắt cũng bực dọc, nhưng ông ta không có dũng khí chống lại cái
xã hội xấu xa đó. Ông ta muốn sống yên thân nên đã tìm cho mình một thứ triết lí tiêu cực để tự
an ủi. Đó chính là thứ triết lý của kẻ vô tâm, không phân biệt phải trái. Đó là câu "cũng một
chín một mười như nhau cả". Nhân vật Phương Huyền Xước cũng giống những nhân vật khác
thuộc tầng lớp trí thức mới. Tuy nhiên họ đã không thể có được cuộc đời bình thường của một
con người. Cuộc sống khốn khó đã đẩy họ vào ngõ cụt và tương lai của họ cũng mờ mịt như
đêm đen. Đó cũng chính là ý nghĩa xã hội mà Lỗ Tấn đề cập tới ương hầu hết các truyện ngắn
của mình. Qua truyện ngắn Lỗ Tấn dựng lên nhiều bức tranh, nhiều loại người, nhiều mẫu
người bất hạnh khác nhau để người đọc có thể hiểu được cuộc sống và con người trong xã hội
phong kiến Trung Quốc.
Một nhân vật khác nữa là Lã Vi Phủ trong truyện ngắn "Trong quán rượu". Khác với nhân
vật Phương Huyền Xước, Lã Vi Phủ đã từng là một con người sống có lý tưởng và bản lĩnh.
Trước đây, anh đã từng cùng mọi người đứng lên chống phong kiến, kêu gào cải cách xã hội.
Khi cách mạng Tân hợi sụp đổ, những người trí thức như Lã Vi Phụ cũng như bong bóng hết
hơi và tàn lụi rất nhanh. Anh ta đã lấy hình ảnh con ruồi để nhận xét về mình "Hễ có cái gì kinh
động là bay vù đi ngay, bay quành được một vòng bé tị lại trở về đậu vào chỗ cữ và nhắc nhở
anh ta"[10,tr.l98]. Sự mệt mỏi đã hiện lên trên khuôn mặt gầy tóp, tiều tụy. Chính anh ta cũng
54
công nhận rằng: "bây giờ tôi như thế đấy: bội bác lấy lệ, à uôm xong thổi. Có lúc chính toi đã
nghĩ: các bạn cữ thấy tôi e có khỉ không nhận tôi là bạn nữa." [6,tr.l82]. Chỉ với vài nét tác giả
đã miêu tả được trạng thái tinh thần của một Lã Vi Phủ hiện tại khác xưa. Có điều anh vẫn còn
muốn sống, cho nên phải làm cái việc "gõ đầu trẻ", dạy chúng những là: "tử viết, thi vấn" Công
việc mà anh ta cảm thấy thật chẳng khác gì: "những chuyện chán ngắt, tào lao " và "chỉ cần
qua loa cho xong". Vậy là, cuộc đời của Lã Vi Phủ cũng chẳng khác gì một cuộc đời thừa, luẩn
quẩn đầy chán chường vô vị. Tuy anh ta vẫn có chút nuối tiếc đối với quá khứ: Anh ta nghĩ:
"Xưa kia chúng mình có bao nhiêu dự định, nhưng cuối cùng đành để đời mình buông xuôi
trước hiện tại" [6,tr.83]. Nỗi bất hạnh của Lã Vi Phủ là chỗ đó. Anh ta đã từng là một thanh
niên có tài năng và trí tuệ trong thời kỳ Ngũ Tứ, đã từng là người giác ngộ cách mạng đầu tiên,
vậy mà, bây giờ anh đành để những những thế lực đen tối đánh bại và biến thành một người bi
quan, thất vọng như thế. Lã Vi Phủ không thể nào đứng lên, không thể nào vực dậy trước thế
lực thù địch.
Một nhân vật trí thức bất hạnh nữa là Ngụy Liên Thù trong truyện ngắn "Con người cô
độc". Là một nhân vật có nguồn gốc xuất thân từ xã hội phong kiến, Ngụy Liên Thù đã sớm
nhận ra bản chất của giai cấp này và đã đấu tranh chống lại nó chính vì Ngụy Liên Thù là
người sớm tiếp thu những tư tưởng mới cho nên xã hội cũ đã không chịu dung nạp anh. Điều
này có thể thấy rất rõ trong đoạn đối thoại giữa nhân vật xứng "tôi" trong truyện với một người
bà con họ gần với Ngụy Liên Thù và ngay cả trong quang cảnh đám mạ bà nội anh ta. Cho nên
thật hợp lí khi Ngụy Liên Thù trở thành "Con người cô độc". Thất nghiệp, nghèo đói, cô độc đã
khiến anh cam chịu khuất phục, ra làm quan. Đó là những thứ trước đây Ngụy Liên Thù khinh
ghét, nguyền rủa. Nhưng giờ đây anh đã phải phục tùng và phải bắt tay vào hợp tác. Ngược lại
những gì mà trước đây anh tôn thờ nâng niu thì nay anh lai phải giày xéo lên và xa lánh nó.
Hận thù, cô độc. phẫn uất đã dẫn anh đến với kết cục bi thảm và chết trong thầm lặng, cô đơn.
Ngụy Liên Thù trong truyện ngắn "Người cô độc" là tri thức cùng thời với Lã Vi Phủ trong
truyện ngắn "Trong quán rượu". Giống như Lã Vi Phủ, Ngụy Liên Thù là một trí thức có ít
nhiều tín nghĩa hiểu biết. Anh ta đã từng ôm ấp nhiều mộng đẹp muốn cải cách xã hội. Bằng
cách viết báo đấu tranh không kiêng nể ai, anh ta đã bị người ta ngấm ngầm quật lại, làm cho
mất việc, không còn ai giúp được mình. Nhân vật xưng "tôi", thường qua lại với anh trong
55
truyện cũng phải bó tay. Trong thư gửi cho bạn, anh ta không giấu diêm sự thật. Anh ta nói:
"Nửa năm nay, tôi chẳng khác gì người ăn xin, mà thực tế thì cũng có thể nói được là đã ngửa
tay ăn xin rồi" [6,tr.l88]. Suốt cuộc đời cô độc và bế tắc, cuối cùng anh ta xoay lưng lại để trả
thù đời. Ngụy Liên Thù đã làm cố vấn cho sư trưởng họ Đỗ. Thực chất là đi ngược lại con
đường xưa nay anh đã đi để làm tay chân dưới trướng cho bọn quân phiệt phản động lúc bấy
giờ. Trong thư gửi cho Thân Phi (nhân vật "tôi" trong truyện), Ngụy Liên Thù có phần hể hả
khi nói rằng: "Tất cả những gì xưa kia tôi thù ghét, phản đối, bây giờ tôi làm hết. Tất cả những
gì xưa kia tôi sùng bái, chủ trương, bây giờ tôi bỏ hết". Tuy nhiên, Ngụy Liên Thù đã đau đớn
nhận ra thất bại của mình giữa lúc mà "thời vận" đang mỉm cười với anh. Lỗ Tấn viết: "Anh
nằm yên lặng giữa đông "mũ, áo, cân, đai" lỡ cỡ, cồng kềnh, mắt nhắm, miệng mím, mép nhếch
như mỉm cười, lạnh lùng nhìn cái thây ma buồn cười ấy". Rốt cuộc, con người sống không có
tương lai ấy đã chết trong cô quạnh. Có thể nói Ngụy Liên Thù cũng đại diện cho loại nhân vật
tự "kéo kén Tuy nhiên mục đích của anh ta không phải là để yên thân như Phương Huyền Xước
hay Lã Vi Phủ. Cách sống cô độc, buông thả, trả thù đời chính là một bi kịch tinh thần lớn nhất
của người trí thức. Ngòi bút hiện thực cửa Lỗ Tấn vừa đau đớn, xót xa nhưng cũng vừa nghiêm
khắc phê phán lối sống bi quan. xa rời thực tế và sai lầm của họ. Lỗ Tấn đã không ngần ngại
vạch ra những sai lầm trong cách sống và phương pháp đấu tranh của những người trí thức như
Ngụy Liên Thù và Tử Quân. Những người trí thức này tuy có lí tưởng sống, muốn làm cách
mạng nhưng họ chưa thật sự quyết tâm phục vụ lợi ích của nhân dân, lại ảo tưởng nên thường
chủ quan, lãng mạn. Trước thất bại, họ thường bi quan và dễ dàng đầu hàng. Ngoài những
nguyên nhân trên, còn một nguyên nhân nữa mà tác giả không nhắc đến nhưng ai cũng có thể
nhận ra rằng sự thất bại của họ là do họ hành động cô độc, chưa hòa mình được vào cuộc đấu
tranh cách mạng của quần chúng. Qua các nhân vật trên Lỗ Tấn chỉ ra rằng nhược điểm, khuyết
điểm rất phổ biến của tầng lớp trí thức "bậc trung" trong xã hội phong kiến thời bấy giờ. Ngòi
bút của ông biến hoa', cách kể chuyện mạch lạc, nhân vật "người kể chuyện" (tôi) là đặc điểm
xây dựng nhân vật điển hình loại này. Tuy không nhiều nhưng các nhân vật trì thức mà tác giả
miêu tả đều có cá tính, dù cá tính có lúc "đậm" có lúc "nhạt"...
56
2.2.3.Người trí thức giác ngộ
Tác phẩm "Nhật ký người điên" đã vạch trân sâu sắc và đả kích mãnh liệt vào bản chất
của xã hội phong kiến Trung Quốc, thể hiện rõ tình hình cách mạng của phong trào văn hóa
mới sau cách mạng Tân hợi. Người điên trong " Nhật ký người điên " của Lỗ Tấn là một nhân
vật tư tưởng đặc sắc. Thông qua nhân vật "người điên", Lỗ Tấn đã kết tội, lột trần bản chất "ăn
người " của nền văn hóa cũ, đồng thời diễn tả hết chân tướng pho lịch sử đẫm máu hàng nghìn
năm của xã hội phong kiến. Trung Quốc là một đất nước có lịch sử ăn thịt người đúng về cả
nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Người ta không khỏi rùng mình khi hình dung đến những cảnh đổi
con cho nhau ăn trong thời kỳ lịch sử kéo dài hơn ba ngàn năm của xã hội phong kiến Trung
quốc. "Nhật ký người điên" -như tên gọi của nó là những trang nhật ký của một người bị mắc
chứng bệnh bách hại cuồng: một chứng bệnh lúc nào cũng thấy người ta bức hại mình, ăn thịt
mình. Xung quanh anh ta, cả không gian, con người loài vật đều trở nên vô cùng đáng sợ.
Trong khóe mắt người điên chỉ có một bầu trời "tối âm u không biết ngày hay đêm", mọi người
xung quanh không khác gì "ma quái, thú dữ". Hơn thế, anh ta luôn luôn cảm thấy lời nói của
những kẻ vây quanh mình "toàn thuốc độc". Và anh ta kết luận tất cả bọn chúng đúng là quân
"ăn thịt người" không hơn không kém với: "Tâm địa như sư tử, hèn nhát như thỏ, xảo trá như
cáo chồn". Người điên đã đọc thấy cả một pho sử đẫm máu của dân tộc mình, đó là: "quyển sử
không có năm tháng, trên mỗi trang đều viết ngoạn ngoéo mấy chữ nhân nghĩa, đạo đức".
Nhưng như thế thì đã có gì đáng nói? Lỗ Tấn để cho nhân vật tự kể: "Xem kĩ cho tới nửa đêm,
mới nhìn trong khe chữ thấy cả quyển đều chép mấy chữ "ăn thịt người" [6,tr.11]. Đó chính là
xã hội Trung Quốc dưới ách thống trị của bọn phong kiến trong ba bốn ngàn năm nay. Và
Người điên đã chẳng khó khăn gì để nhận ra sự giả dối của xã hội, nơi mà bốn ngàn năm nay
khi nào cũng diễn ra cảnh "ăn thịt người". Một xã hội mà người dân nghèo luôn bị bóc lột, bị sỉ
nhục, thậm chí còn "bị ăn thịt" nữa. Người dân không những bị “tri huyện cùm kẹp”, bị "cường
hào tát tai", bị "bọn nha dịch cướp vợ" mà còn bị "bọn chủ nợ bức chết bố mẹ" và "người tá
điền bị nạn đói hoành hành", "người thì bị ăn hết tim gan". Thông qua hành động và suy nghĩ
của người điên, Lỗ Tấn đã đả kích chế độ gia tộc và lễ giáo phong kiến lỗi thời, lạc hậu đồng
thời đã kích cả bộ máy của chế độ phong kiến câu kết với chính quyền địa chủ phong kiến, xây
dựng trên sự bóc lột ruộng đất với chế độ tôn pháp gia tộc và văn hóa phong kiến. Vậy "người
57
điên" trong truyện thực chất là ai? "Người điên" thật ra không phải là điên mà anh ta chính là
người giác ngộ trước, bị kẻ chưa giác ngộ vu cho là mất trí, để dễ bề hãm hại. Xã hội Trung
Quốc thời bấy giờ theo Lỗ Tấn hình dung là "một ngôi nhà bằng sắt, không có cửa sổ. Trong
đó có nhiều người đang ngủ say và không bao lâu sẽ chết ngạt". Bằng nhân vật "Người điên
"cùng với ngòi bút thiên tài của mình Lỗ Tấn đã vẽ được toàn cảnh bức tranh điển hình của xã
hội phong kiến Trung Quốc, trong đó, chế độ gia tộc và lễ giáo phong kiến không tách rời chế
độ bóc lột ruộng đất. "Ông anh" trong truyện không chỉ là một người gia trưởng áp bức em, mà
cũng là một tên địa chủ bóc lột tá điền. Rồi thì cụ cố Cựu với cuốn sổ ghi nợ mấy mươi đời,
ông Triệu với con chó xù... cho đến bọn thống trị chính cống: quan huyện, nha lại. Rõ ràng
chúng không chỉ là người đại diện cho chế độ gia tộc, cho lễ giáo phong kiến, mà là nhân vật
chính của xã hội phong kiến áp bức, bóc lột. Người ăn thịt người, chuyện xưa và chuyện nay
được người điên nhắc đến một cách lẫn lộn, từ chuyện "Đổi con cho nhau ăn", đến chuyện kẻ
ăn thịt người ngày nay là đám dân thôn Lang Sói, là cụ Hà đến xem mạch và gần nhất lại chính
là anh ruột của mình. Tất cả những chi tiết được sắp xếp một cách lộn xộn chứa đựng những
dụng ý của tác giả. Người điên đã nghĩ "Đứa em gái mình bị ông anh ăn thịt". "Vị tất ông ta đã
không đem thịt nó trà trộn với các thức ăn rồi dấu điếm đi, đưa cho mọi người ăn. Vị tất, trong
lúc vô ý mình đã chẳng ăn vài miếng thịt của đứa em gái ta...". "Mình là kẻ có truyền thống ăn
thịt người trên bốn ngàn năm". Áp lực sợ hãi, hoảng loạn đè nặng, người điên đã kêu lên: "Các
người hãy thay đổi ngay đi, thành tâm mà thay đổi ngay đi. Các người phải biết rằng tương lai
người ta không dung thứ những kẻ ăn thịt người đâu...". "Hãy cứu lấy trẻ em !" Đó chính là
tiếng kêu đơn độc của một con người chân chính với mong muốn cứu lấy những tâm hồn trong
sáng và những giá trị đạo đức đích thực của dân tộc. Nhưng đó cũng là một tiếng kêu của một
người bất lực vì nó đơn độc giữa những thế lực phong kiến. Cũng có thể chính vì thế mà có
cảm giác là hình ảnh của người điên trong "Nhật ký người điên", ít nhiều gần với dáng dấp của
một Khuất Nguyên thời xa xưa. Cho nên, giữa một biển người mê muội, anh ta bị cho là điên.
Vậy cứu lấy trẻ em bằng cách nào đây ? "Người điên", một chiến sĩ đơn độc liệu có thể làm gì
đề cứu lấy vận mệnh của dân tộc khi anh ta đang bị cô lập ? Có thể nói thông qua hình thức
sáng tạo nhân vật "Người điên", Lỗ Tấn đã đả kích mạnh mẽ vào chế độ phong kiến độc ác. Đó
là một chế độ tàn bạo được xây dựng bằng áp bức bóc lột, tồn tại trên xương máu và nước mắt
của nhân dân lao động. Truyện ngắn Nhật ký người điên viết ra như để minh họa cho kết luận
58
đó. Trong "phát súng đầu tiên cửa nền văn học hiện đại Trung Quốc này" Lỗ Tấn đã mượn lời
người điên "Một chiến sĩ dân chủ bắt đầu thức tỉnh" tố cáo xã hội phong kiến cổ hủ Trung
Quốc. Không một chút nhân nhượng, Lỗ Tấn đã mựợn lời của nhân vật chính để nói lên cái yêu
cầu căn bản của cách mạng thời đó: "Các người hãy thực tâm mà thay đổi đi. Nên biết rằng sau
này người ta không dung thứ cho những kẻ ăn thịt người nữa đâu". Câu truyện chứa đựng một
tình cảm nhân đạo sâu sắc, thức tỉnh người đọc lúc bấy giờ nhận ra kẻ thù của nhân dân lao
động chính là chế độ phong kiến thối nát. Hình tượng "Người điên" trong tác phẩm là một sự
độc đáo và cũng là sự dự báo thiên tài của Lỗ Tấn.
Có một trí thức đáng quý nhưng có số phận bất hạnh nữa, đó là Hạ Du trong tác phẩm
"Thuốc". Là nhân vật tác giả xây dựng để ám chỉ nữ sĩ Thu Cận, một nhà cách mạng cuối đời
Thanh, bị hại sau Từ Tích Lân. Thu Cận và Từ Tích Liên đều là người Thiệu Hưng cùng quê
với Lỗ Tấn, cùng lưu hộc ở Nhật Bản với Lỗ Tấn. Lỗ Tấn đã từng học y khoa với mong muốn
lấy đó để đưa Trung Quốc vào con đường cường thịnh. Nhưng một hôm nhân xem một cuốn
phim thời sự về cuộc chiến tranh Nga -Nhật, ông thấy trên màn ảnh một người Trung Quốc làm
trinh sát cho nước Nga, bị quân Nhật chém đầu để thị uy, chung quanh toàn là người Trung
Quốc thờ ơ đứng xem đồng bào mình bị chém giết. Sự việc này đã tác động rất mạnh đến Lỗ
Tấn, khiến cho ông hiểu ra rằng. "phàm là người dẩn một nước mà ngu si, nhu nhược, dà thân
thể có khỏe mạnh đến đâu chăng nữa cũng chỉ có thể làm "kẻ thị chúng" (người bị giết để làm
gương cho kẻ khác) và "kẻ bàng quan" mà thôi". Do đó, theo ý ông, chỉ có văn nghệ là dụng cụ
sắc bén nhất để thay đổi tinh thần "quốc dân tính "của người Trung Quốc. Có thể cho rằng,
"Thuốc" là một tác phẩm thể hiện rõ nhất tiêu chí sáng tác này của Lỗ Tấn. Trong tác phẩm
"Thuốc", Lỗ Tấn không những chỉ miêu tả thế lực đen tối của phong kiến và trạng thái lạc hậu
của xã hội mà ông còn nêu lên sự mê muội của quần chúng nhân dân. Truyện ngắn "thuốc" như
tên truyện đã trực tiếp gợi lên, là câu chuyện của những người tìm thuốc, bán thuốc và "ăn"
thuốc. Con bệnh là một đứa bé bị bệnh lao. Người bán thuốc, thật kì lạ lại là một tên đao phủ.
Vị thuốc ở đây chính là máu người. Nhưng máu của ai ? Là máu của Hạ Du, một người cách
mạng vừa bị xử chém. Câu chuyện thật ghê rơn, nhưng nó phản ánh đúng thực tế của đất nước
Trung Quốc cách đây gần một thế kỉ. Đó là thời gian mà sự ngu muội chế ngự trong nếp nghĩ
lạc hậu của người dân cho rằng máu người có thể chữa khỏi bệnh lao. Trong tác phẩm "Thuốc"
59
người ta không chỉ thấy mỗi căn bệnh lao của "thằng Thuyên", mà còn thấy cả một không khí
bệnh hoạn bao trùm lên xã hội Trung Quốc. Nơi mà từ tên cai ngục, đến lão Hoa Thuyên,đều là
những kẻ thật "đáng thương". Vào mùa thu, khi mà những kẻ thống trị đem tù nhân đi chém,
thì cũng là dịp để những kẻ mê muội nhưng nhanh chân và may mắn kiếm được "thuốc" máu.
Vậy mà, dù đã được ăn chiếc bánh bao tẩm máu nướng thơm phưng phức, "thằng Thuyên" vẫn
lăn ra chết. Và rồi lại vào một buổi sáng mùa thu, trên một bãi tha ma, với những nấm mộ dày
khít, được ví như "bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ", cỏ hai bà mẹ cùng xuất hiện. Đó là
người đàn bà có người con đã bị xử chém vào mùa thu năm trước và bà Hoa Thuyên, người đã
mua máu của nhà cách mạng đó để làm thuốc cho con mình. Cũng có thể nói rằng, nếu có
thuốc chữa trị kịp thời, thì cả hai người con đang nằm dưới mồ kia sẽ không chết. Trong tác
phẩm này Lỗ Tấn đã nói lên sự mê muội của nhân dân, bên cạnh đó ông cũng bóc trần những
nhược điểm cơ bản của cuộc cách mạng Tân hợi: "Cách mạng của quốc dân cần phải có sự
thay đổi lớn ở nông thôn. Cách mạng Tân hợi không có sự thay đổi này, cho nên thất bại". Họ
làm cách mạng mà không có đường lối phương châm đúng đắn. Cái chết của những chiến sĩ
cách mạng như Hạ Du đã trở nên vô nghĩa. Chẳng phải sau khi Hạ Du bị xử chém, người dân
vẫn mua máu của nhà cách mạng để làm thuốc đó sao? Người ta thờ ơ, diễu cợt sau cái chết
của anh. Thật là chua xót. Nhà văn Mỹ Edgar Snow đã nhận xét về truyện ngắn này như sau
"Thuốc cũng giống như hàng loạt tác phẩm khác của Lỗ Tấn đã mô tả một nỗi bi ai mang màu
sắc triết lí, đố là người Trung Quốc vì dốt nát, ngu muội mà thất bại và lâm vào tình thế thất
vọng". Tuy nhiên hình ảnh vòng hoa, "hoa trắng lẫn hoa hồng xen nhau nằm khoanh trên nấm
mộ khum khum " của Hạ Du lại chính là biểu tượng của tinh thần lạc quan, tin tưởng vào cách
mạng của tác giả. Nó cũng chứng tỏ ngọn lửa đấu tranh vẫn âm ỉ lan rộng, không thể dập tắt.
Điều đó chứng tỏ là "Lỗ Tấn không hề tỏ ra bi quan trước thế lực đen tối. Tựu chung, ông vẫn
là người lạc quan trong lịch sử. Trong tác phẩm, ông đã có ý thức bỏ đi những chồ u ám, thêm
vào đấy đôi nét tươi vui, báo hiệu rằng nhân dân nhất định sẽ sống một cuộc đời mới mẻvà hợp
lí chưa từng có bao giờ". Tác phẩm cũng đồng thời ca ngợi tinh thần anh dũng bất khuất trước
cái chết của người cách mạng (ở trong tù, Hạ Du khuyên người cai ngục làm phản, bị người cai
ngục đánh lại. Nhưng Hạ Du vẫn không oán giận y, bảo người cai ngục "đáng thương, đáng
thương" vì y không giác ngộ). Ngoài việc phân tích sai lầm của những nhà cách mạng và phê
phán sự ngu muội của quần chúng, tác phẩm còn mang ý nghĩa tưởng nhớ và ca tụng đối với
60
những chiến sĩ của thời đại Tân Hợi, miêu tả cụ thể quan hệ giai cấp và bộ mặt của cuộc sống
xã hội Trung Quốc trong thời kỳ này. Trong truyện ngấn "Thuốc ",cái tiến bộ và cái lạc hậu,
con người mới và con người cũ, cách mạng và phản động đan xen vào nhau. Hình tượng Hạ Du
đẹp đẽ và cũng đầy bi kịch rất đáng thương.
Còn có một trí thức nữa bị xem là "người điên". Đó là người điên trong "Trường minh
đăng". Vào một ngày mùa xuân, không gian u ám trùm lên cả thôn Cát Quang mà không chỉ có
không gian thôi, lòng người trong thôn cũng vậy. Tất cả chỉ tại một người điên mà tác giả miêu
tả: “có khuôn mặt vuông vàng khè, vận cái áo dài xanh rách tươm, chỉ có hai con mắt to mà
dài, dưới cặp lông mày rậm, ánh lên hơi khang khác, nhìn ai là cứ nhìn chằm chặp, không
chớp, mà lại có vẻ đau xót, giận dữ, nghi ngờ, sợ hãi”. Nhưng hắn muốn gì mà "cả thôn Cát
Quang bỗng náo động hẳn lên" Chả là sau bao nhiêu nắm im ắng, bỗng dưng hôm nay hắn lại
phát điên nằng nặc đòi tắt cho được ngọn "Trường minh đăng". Cây đèn ấy là do vua Lương
Võ thắp lên, cứ thế truyền lại đời này qua đời khác mà chưa bao giờ dứt. Cái hồi loạn Trường
Mao cũng không tắt. Tác giả mỉa mai: "Vậy mà bây giờ anh ta lại đòi thổi đi. Cái cây đèn ấy,
nó là tượng trưng cho quyền lực của các cụ trong thôn, xưa nay" ai đi qua cũng muốn nhìn một
tí và tấm tắc khen. Hơn thế nếu nó tắt đi thì cả thôn Cát Quang "sẽ sụt xuồng thành biển", mà
dân trong thôn sẽ biến thành cá hết. Cho nên chẳng lạ gì khi cả thôn, từ các cụ có máu mặt
trong làng đến những đứa trẻ đều hoảng hốt và nhìn người điên như một kẻ không biết điều,
một đứa cháu bất hiếu. Lỗ Tấn viết truyện ngắn này vào năm 1925, nghĩa là sau truyện ngắn
"Nhật ký người điên" ra đời một thời gian rất dài. Nếu như năm 1918, khi viết "Nhật ký người
điên", Lỗ Tấn chỉ dừng lại ở mức nguyền rủa những kẻ ăn thịt người và khuyên chúng nên sám
hối đi, thi sau bảy năm, trong truyện ngắn này, ông đã cho người điên không chỉ thổi tắt mà còn
đốt cả ngôi đền. Ngôi đền mà trong đó chứa ngọn đèn tượng trưng cho sự lạc hậu, cổ hủ, tượng
trưng cho một xã hội "ăn thịt người". Điều đó cho thấy tư tưởng của tác giả đã thay đổi và tinh
thần cách mạng trong ông ngày càng cao. Vậy người điên là ai và tại sao lại muốn tắt đi ngọn
đèn kia? Đó là kẻ vốn xuất thân từ một gia đình phong kiến mà "Ông nội hắn ta ngày trước
cũng ra cầm triện rồi". Hơn nữa tác giả nhấn mạnh "hồi xây đền, cha ông hắn ta cũng có quyên
góp nhiều". "Vậy anh ta không phải là đứa con bất hiếu là gì?" Đúng vậy, người điên chính là
một đứa con bất hiếu, nhưng là đứa con bất hiếu của chế độ phong kiến. Nói rõ hơn, người điên
61
thực chất không phải điên, mà là người sớm giác ngộ. Suy nghĩ và hành động dứt khoát của
anh ta khiến cho những kẻ có thể bị mất quyền lợi trở nên sợ hãi. Chính vì vậy, chúng cho anh
ta là một kẻ ngỗ nghịch. Khi giết không được thì chúng tìm cách lừa bịp anh. "Chẳng phải là
trước kia hắn ta cũng đã phát điên một lần rồi à ? Y như bây giờ. Hồi đó bố hắn vẫn còn sống,
lập mưu lừa hắn, mới trị bệnh khỏi đấy chứ!". Nhưng "người điên" bây giờ không còn là người
điên ngày xưa, cũng khổng phải là "người điên" vào năm 1918 nữa. Tuy anh ta biết rằng, "Dù
có thổi cho tắt đèn đu những cái kia, những cái ông mặt xanh ba đầu, sáu tay vẫn còn. Nhưng
bây giờ tạm thời chỉ có cách là cứ thổi cho tắt đèn đi đã". Anh ta đã trở nên kiên quyết hơn,
không gì có thể lay chuyển được nữa. Sự phản ứng quyết liệt của anh được thể hiện trong câu:
“Tôi phải tự thổi lấy”. Câu chuyện kết thúc bằng thái độ dứt khoát của người điên và sự bàng
hoàng của các cụ Quách, cụ Tứ cũng như dân thôn Cát Quang. Điều đó cho thây tinh thần và
phong trào cách mạng Trung Quốc đã lên cao. Hình ảnh người điên kiên quyết đòi thổi tắt ngọn
đèn, đồng thời đã khang định rõ được quan điểm sáng tác của Lỗ Tấn. Đó cũng chính là quan
điểm giúp chúng ta phân biệt được ông với các nhà văn thời trước và cùng thời. Trong tác
phẩm của mình, Lỗ Tấn đã phủ định toàn diện và triệt để xã hội cũ, lễ giáo và chế độ phong
kiến, coi đó là một chế độ người ăn thịt người. Tác phẩm của ông mang tính chiến đấu và cách
mạng cao cũng chính vì lẽ đó. Vì vậy, hình tượng "người điên" trong truyện thực chất là loại
nhân vật trí thức có tâm huyết, ưu thời mẫn thế luôn trăn trở trước sự nguy nan của con người
lớn lao hơn là vận mệnh tương lai của đất nước, của dân tộc, luôn mong muốn đấu tranh cho
một lý tưởng nhân đạo cao đẹp, vì dân tộc.
Trên đây là những nhân vật bất hạnh tiêu biểu trong truyện ngắn đặc sắc của Lỗ Tấn. Tuy
nhiên những con người bất hạnh này là điển hình cho thân phận, cuộc đời, nỗi đau và nỗi bất
hạnh phổ biến trong xã hội Trung Quốc thời Lỗ Tấn. Mác dù cảnh ngộ khác nhau nhưng sự bất
hạnh của họ thể hiện ở hai mặt là bất hạnh về vật chất thể xác và bất hạnh về tinh thần. Theo Lỗ
Tấn, sự bất hạnh về thể chất rết đáng thương, đáng đau lòng nhưng bất hạnh về tinh thần, ý
thức và tâm linh mới là sự tổn thất, đáng thương hơn. Dưới ngòi bút của Lỗ Tấn, con người bất
hạnh không giống nhau nhưng từ người nông dân vô học đến người trí thức có học đều bất
hạnh. Theo Lỗ Tấn những người bất hạnh đó ai cũng đáng thương và ai cũng đáng giận.
62
2.3.NGƯỜI PHỤ NỮ BẤT HẠNH
Từ lâu hình ảnh người phụ nữ đã trở thành nhân vật trung tâm, một đề tài mới lạ, một
mảnh đất đầy lôi cuốn đối với các nhà văn, nhà thơ. Đặc biệt dưới mắt Lỗ Tấn, ngươi phụ nữ
Trung Quốc hiện lên với bao đớn đau, bất hạnh. Họ là những nạn nhân của xã hội phong kiến
bất công, tàn bạo thời bấy giờ. Nhân vật phụ nữ trong tác phẩm Lỗ Tấn, mỗi người một số
phận, một nỗi đau riêng nhưng đều chịu chung số phận đau khổ thiệt thòi. Họ bị trói buộc bởi
lễ giáo phong kiến dưới các tầng áp bức: chính quyền, tộc quyền, thần quyền và phụ quyền. Lỗ
Tấn đã phản ánh cuộc sống đau khổ của tầng lớp phụ nữ nông thôn cũng như thành thị. Phản
kháng những áp bức bóc lột đã đè nặng lên số phận của họ, lên tiếng đòi quyền tự do, bình
đẳng và giải phóng cho họ khỏi chế độ áp bức bóc lột.
Viết về thân phận phụ nữ, Lỗ Tấn thực sự đau xót trước nỗi khổ của họ. Ông cảm thông
sâu sắc đối với họ bằng cái nhìn, cách nhìn, sự chú ý đầy trách nhiệm. Ông thấy rõ cuộc sống
khó khăn của họ và nhận thức được những con người có thể xấu xí về hình thức nhưng họ lại
có những phẩm chất đạo đức hết sức cao quý. Ông không muốn họ phải chịu bất hạnh nên dùng
ngòi bút của mình làm vũ khí đấu tranh với mong muốn cháy bỏng đem lại hạnh phúc cho
chính bản thân họ. Để cảm nhận hơn về nỗi đau cua ngươi phụ nữ dường như ông đã hoa thân
mình vào từng nhân vật để lột tả hết những băn khoăn trăn trở của chính họ. Dưới ngòi bút sắc
xảo và lạnh lùng của mình, Lỗ Tấn đã phác họa nên một bức tranh đầy đủ nhất chi tiết nhất về
hình ảnh người phụ nữ Trung Quốc thời bấy giờ. Trong bức tranh này, không những lột tả được
những đau khố mà người phụ nữ đã và đang chịu đựng mà trong đó phải kể đến rằng đó là một
bức tranh thật có hồn thật có tình. Đó chính là sự cảm thông, thương yêu sâu sắc và sự chia sẻ
tình cảm của ông đối với chính họ. Chỉ thực sự hóa thân và gần gũi với những người phụ nữ thì
ông mới có thể cho chúng ta những trang viết sâu sắc và đậm chất dân tộc đến như vậy. Xa hơn
nữa chúng ta con có thể thấy được hình dáng chung của những người phụ nữ lúc đó có cùng
cảnh ngộ, nhưng vẫn cố vươn lên thật đáng sống. Nhưng nổi lên hết là số phận bất hạnh, đau
khổ và tủi nhục của người phụ nữ. Họ là những người vừa rất thân thuộc, gần gũi vừa rất mới
mẻ và cuốn hút đối vói mỗi người. Tất cả họ đều giống nhau ở đức tính tốt đẹp vốn có của
người phụ nữ và đều chịu chung số phận thiệt thòi,cay đắng trong xã hội phong kiến thối nát,
suy đồi. Tuy nhiên mỗi người lại mang trong lòng nỗi đau riêng vạ hoàn cảnh éo le khác nhau.
63
Các nhân vật như thím Tường Lâm, chị Tư Thiên, cô Ái, Vú Ngò được Lỗ Tấn miêu tả dưới
cái nhìn đầy cảm thông, thương xót. Họ là hình ảnh phụ nữ tiêu biểu mang những đức tính
truyền thống tốt đẹp cũng như số phận bất hạnh của người phụ nữ trong giai đoạn bấy giờ.
Trong truyện ngắn của Lỗ Tấn, sự bất hạnh rất tội nghiệp và đáng thương của họ được tác giả
miêu tả sinh động.
2.3.1.Người phụ nữ bất hạnh do mê muội
Trong truyện ngắn "Ngày mai", Lỗ Tấn đã giới thiệu đến người đọc một bức tranh vô
cùng cảm động về tình mẹ con. Nhân vật chính là chị Tư Thiên, người phụ nữ nông dân nghèo
khó, bất hạnh. Chồng chết khi đứa con chưa tròn ba tuổi, mọi khó khăn của cuộc sống đời
thường trút lên đôi vai của chị. sống ở chốn hẻo lánh tịch mịch, con người đối sử với nhau bằng
sự ghẻ lạnh thờ ơ rất dễ sợ. Suốt ngày đêm chỉ có hai mẹ con chị hủ hỉ, quanh quẩn bên nhau.
Chị tần tảo, cật lực làm việc chỉ mong nuôi thân và nuôi con. Cuộc sống ngày càng khó khăn,
bé Bảo Nhi mỗi ngày mỗi lớn, chị phải vất vả, cần mẫn hơn nhiều. Chốn chị ở là nơi còn giữ ít
nhiều nền nếp cổ: chưa sang canh hai là mọi người đã đóng cửa đi ngủ. Nhưng tiếng guồng kéo
sợi và bóng dáng chăm chú làm việc của chị vẫn đều đều hàng đêm đến quá nửa khuya mới đi
chợp mắt. Chị Tư là người phụ nữ chịu thương chịu khó, chất phác, hiền lành. Tuy goá chồng
đã một năm, chị lại có cái vẻ mặn mòi của gái một con khiến nhiều kẻ dòm ngó. Nhưng chị Tư
không hề nghĩ đến việc tìm một người thông cảm, đỡ đần, xẻ chia những vui buồn trong quãng
đời còn dài của chị. Hạnh phúc duy nhất, niềm vui lớn lao nhất của chị hiện giờ là đứa con.
Nhìn con ngoan ngoãn lớn khôn chị Tư cảm thấy sung sướng và mãn nguyện vô cùng. Chị
chấp nhận một mình nuôi con trong gian lao khổ nhọc như vậy và không có một ước muốn nào
hơn.
Con ốm, chị xin thẻ thánh, cầu nguyện, cho uống thuốc nhưng bệnh tình không thuyên
giảm. Chị lo lắng ngồi ôm con suốt đêm mà lòng rối như tơ vò. Đã bao đêm rồi chị vẫn thức và
ngồi như thế. Hình ảnh chị như ngọn đèn đầu thắp bằng máu con tim, soi sáng cả đêm tối mông
lung của thị trấn nhỏ bé, tịch mịch này. Đó là một bức tranh phản ánh nỗi đau đớn khôn tả, sự
bất hạnh cùng cực trước số phận của một người mẹ khi chứng kiến đứa con mình đang từ từ đi
vào cõi vĩnh hằng. Sắc mặt của bé chín đừ mà hơi tái, chị mong trời mau sáng để đem con đến
thầy Hà Tiểu xem mạch. Nhưng sao chị thấy thời giờ đi quá chậm, mỗi hơi thở của bé Bảo
64
tưởng chừng lâu hơn một năm. Đối với chị bây giờ, mạng sống của đứa con là tất cả. Chị gom
hết số tiền bấy lâu chắt chiu dành dụm để lo thuốc thang cho con. Nghe thầy phán căn bệnh của
con là "trung tiêu tắc" và toa thuốc "Bảo anh hoạt mệnh hoàn", chị Tư nào hiểu gì chỉ biết vội
vàng thực hiện theo lời thầy. Chị Tư là người đàn bà "đần độn", đã ngu muội cả tin vào thần
thánh. Đó lại chính là cái "đần độn" chung của cả một dân tóc, một thế hệ đau đớn và bất hạnh
thay. Chính sự mù quáng của chị đã đẩy con vào chỗ chết, một cái chết oan uổng. Trong khi chị
Tư gặp cảnh khốn đốn như vậy, những người hàng xóm của chị vẫn bình thản không một lời
khuyên bảo, hỏi thăm chứ nói chi đến giúp đỡ. Đâu rồi tình làng nghĩa xóm tối lửa tắt đèn và
hơn nữa là tình cảm giữa đồng loại với nhau? Thế mà đến lúc con chị chết, họ lại kéo đến tụm
năm, tụm ba, bàn tán và bày ra đủ thứ trò hòng moi hết tài sản của chị. Chị Tư đã phải bán đi
tất cả đồ đạc trong nhà và hai món nữ trang cuối cùng để lo ma chay cho con. Chẳng còn gì để
mất nữa, con chết nghĩa là đời chị cũng đã hết. Nỗi đau đớn, mất mát đến với chị quá lớn.Bên
thi hài con, chị vật vã khóc cạn cả nước mắt. Chị vẫn nghĩ con chị vẫn còn sống, vẫn đang ngủ
ngon lành - đó chẳng qua là giấc mộng xấu đấy thôi. Từ trong sâu thẳm tâm hồn tuyệt vời của
người mẹ vẫn âm ỉ le lói một ngọn lửa hy vọng. Dù sao sự thật vẫn là sự thật, chị đành xa con
vĩnh viễn, nhưng kỉ niệm và nỗi đau thương về con chắc đeo bám lấy chị. Ghi Tư không thể
thấu hiểu hết niềm đau quá lớn này. Chị chỉ thấy căn phòng rộng thênh, vắng lặng, đồ đạc trống
hổng trống hoảng. Cả chiếc guồng kéo sợi, ngày thường vẫn phải hoạt động đến quá nửa khuya
nhưng nay chỉ đứng im lìm dưới đất chẳng được chủ nhó ngàng tới. Lúc trước, sợi chỉ kéo,tấc
tấc thật đểu có ý nghĩa, sống động. Còn bây giờ? Mọi thứ đối với chị dường như vô nghĩa.
Chúng ta thông cảm cho hoàn cảnh, mong muốn được thấy con trong giấc ngủ của chị. Tội
nghiệp biết bao sự chân thật đến ngây ngô đó của chị.
Cũng như các truyện ngắn đã phân tích, trong tác phẩm này, Lỗ Tấn đã vạch trần sự đầu
độc của mê tín phong kiến đối với nhân dân và sự tàn nhẫn của xã hội phong kiến. Chị Tư là
một nạn nhân đáng thương, con chết không những không được sự đồng tình và an ủi, ngược lại
còn bị bọn lưu manh phong kiến nhân khi chị gặp nạn mà cướp bóc thêm. Đó là Mụ Vương
cửu, lão chủ quán rượu Hàm Hanh, lão Ngũ da chàm, lão Củng mũi đỏ. Tất cả bọn thiếu tính
người và vô lương này đều được Lỗ Tấn lôi ra và phê phán gay gắt.
65
Còn một người phụ nữ nữa, cũng vi sự me muội mà phải chịu số phận đau thương đó là
Bà Hoa Thuyên trong truyện ngắn "Thuốc". Nội dung truyện ngắn "Thuốc" chẳng khác "Ngày
mai" là bao. Bởi nó cũng nói lên sự mê muội của người phụ nữ do bọn phong kiến thống trị gây
nên. Bà Hoa Thuyên và chị Tư Thiên cũng vì cả tin nên đã đẩy con mình vào chỗ chết.
Khi xã hội phong kiến còn tồn tại nhiều hủ tục, phép tắc nặng nề thì cuộc sống người dân
còn khổ sở, điêu đứng. Gia đình bà Hoa là một trong rất nhiều gia đình là nạn nhân của xã hội
phong kiến đó. Gia đình bà Hoa chỉ có một mụn con trai, nên tất cả tình thương ông bà đều
dành cho con. Bà Hoa là người đàn bà nông thôn cục mịch chất phát. Bà chẳng biết gì ngoài
việc vun vén cho cuộc sống gia đình. Bà Hoa là một người vợ, cần mẫn, siêng năng, một tay bà
quán xuyến mọi việc trong gia đình. Thằng Thuyên, con trai của ông bà bị chứng bệnh lao.
Nghe mọi người to nhỏ xúi biểu, căn bệnh này phải ăn bánh bao tẩm máu người mới hết. Lo
cho bệnh tình của con, ông bà Hoa đã tìm mọi cách mua cho được thứ thuốc "quý" ấy. Vì dốt
nát và quá thương con, hai ông bà đã trở nên tàn nhẫn trước nỗi đau của người khác. Ong bà
Hoa không còn biết cái đáng sợ, ghê tởm của máu người. Thứ thuốc mà ông bà Hoa tưởng rằng
sẽ chữa lành bệnh cho con, thì chính nó lại là thuốc độc giết chết núm ruột của ông bà. Đúng là
tiền mất, tật mang! Bà đã vét đến đồng bạc cuối cùng mà cả đời chắt chiu đổ mồ hôi dành dụm,
để rồi rước hoa vào thân.
Qua truyện ngắn "Thuốc", Lỗ Tấn không những chỉ miêu tả thế lực đen tối của phong
kiến và trạng thái lạc hậu của quần chúng. Mà qua cái chết của con trai bà Hoa, Lỗ Tấn muốn
nêu lên sự mê muội của quần chúng nhân dân lao động nhằm tố cáo chính sách ngu dân của
bọn thống trị phong kiến, mà nạn nhận đau đớn nhất của chúng chính là những người phụ nữ
bất hạnh, tội nghiệp và đáng trách kia. Bà Hoa và chị Tư Thiên là hai số phận, hai con người,
hai người phụ nữ có số phận và tính cách thật đặc biệt và cũng thật bất hạnh đã để lại ấn tượng
sâu đậm trong lòng người đọc.
2.3.2.Người phụ nữ có tinh thần phản kháng
Sau những trang viết thấm đẫm nước mắt và tiếng kêu bi thương của những con người
hiền lành, nhu nhược, cam tâm làm nô lệ, tha hoa. Lỗ Tấn đã rút ra được một điểu rất khái quát:
"Hiền lành không phải là nét xấu. Nhưng cứ phát triển ra đối với bất cứ việc gì cưng hiền lành
cả thì quyết chẳng phải là đức tính tốt"[6,tr.l24]. Vì vậy, trong truyện ngáp Lỗ Tấn còn một 66
dạng người phụ nữ khác, vẫn là những người có một cuộc đời bất hạnh với những cảnh ngộ
ngang trái, éo le, nhưng họ không chịu cam tâm đầu hàng số phận, không chịu chui vào cái
thòng lọng của chế độ phong kiến đã giăng sấn. Họ luôn quyết tâm phản kháng lại mà điển
hình là hình tượng cô Ai -nhân vật chính trong truyện ngắn "Ly hôn".
Cô Ái là người tiêu biểu cho người phụ nữ nông dân bị áp bức nhưng đã biết vùng lên
phản kháng chông lại sự áp bức bất công, trói buộc của chế độ xã hội phụ quyền. Cô là một phụ
nữ nông dân gan dạ và hơi đanh đá. Cô cũng có chồng "cưới xin hẳn hoi", nhưng chồng cô lại
đi ngoại tình với một người đàn bà khác về đòi ly dị với cô, thế mà cả gia đình nhà chồng
chẳng những không thông cảm, xót thương người phụ nữ bị chồng phản bội mà còn quay lại
đàn áp, đè nến cô và trả về gia đình cha mẹ đẻ. Bởi tại cái gọi là lễ giáo đạo đức phong kiến,
rằng "trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng", mà cô Ái chẳng những không nhận
được sự cảm thông lại còn phải chịu biết bao lời đàm tiếu, chê cười của xóm làng. Cô Ái ý thức
rất rõ thân phận nhục nhã mà mình phải gánh chịu. Cô không cam tâm, cô phải đấu tranh chống
lại sự bất công đó. Ở cô đã nhen nhóm lên tự tưởng bình đẳng - cái quyền bình đẳng được yêu
đương. Điều cô muốn không hề quá đáng, chồng cô đòi ly dị, cô giằng co đến ba năm và quyết
làm cho ra lẽ. Cô nói: "Tôi tức lắm. Anh nghĩ xem, thằng chó ấy mê một con đàn bà góa, thế là
nó bỏ tôi. Tưởng dễ lắm đấy. Rồi thằng bố nó cũng chỉ biết về hùa với thằng con, cũng ghét tội.
Dễ thật! Còn ông lớn Thất? Lẽ nào ông ta chơi thân với ổng huyện thì khổng kể gì lẽ phải nữa
hay sao? Chắc ông ta không như cụ Úy, chỉ nói: "Thôi, về đi thôi mà!". Tôi sẽ nói cho ổng ta
biết những nỗi đau khổ tôi phải chịu bao nhiêu năm trời nay để xem ông ta nói ai phải, ai trái.”
[6,tr.l26]. Ý định của cô là lên huyện, gặp cụ lớn Thất để đòi công bằng cho mình. Gô còn
quyết liệt hơn cả bố mình - lớp người nông dân thủ cựu còn chịu ảnh hưởng trong vòng kìm toa
của bọn phong kiến.
Sự chống đối của cô Ái thể hiện ngay trong lời nói, cách xưng hô củai Cô. Cô gọi chồng
là "con hoang", gọi cha chồng không biết phân biệt phải trái là "thằng bố nó", gọi gia đình
chồng là "chúng nó" ...Khi chuẩn bị hành trang đi lên huyện, Cô cũng đã chuẩn bị một tinh thần
quyết chí theo tới cùng vì Cô tin ở công lý sẽ ủng hộ mình. Cô nói: "Cháu nhất định cho chúng
nó biết tay, dù có thể đến cửa quan, cháu cũng cứ đến, huyện xử không xong thì lên phủ "
[6,tr.l29]. Trong sự hiểu biết hạn hẹp của người nông dân thì "cửa quan", "huyện phủ" mang
67
một ấn tượng nặng nề và gieo rắc nỗi khiếp sợ, thế mà cô Ai nhắc đến với giọng nói tỉnh táo,
sắc lạnh thì thật là đáng khâm phục. Đức tính của cô Ái rất đáng biểu dương.
Cô Ái là hình tượng người phụ nữ nông dân đầu tiên dám đứng lên chống lại sự áp bức
bất công, sự đè nén vô nhân đạo, sự tôn vinh chế độ xã hội nam quyền bất bình đẳng của lễ
giáo phong kiến. Thế nhưng Cô nào biết mình đã nuôi ảo vọng quá lớn ở cái "công lý" của tầng
lớp đại diện cho pháp luật phong kiến đó. Cô không biết rằng cửa quan có thể "đổi trắng thay
đen" nếu "trong tay có sẵn đồng tiền". Trong nhận thức còn hạn chế của mình, Cô Ái chỉ biết
đến những kẻ áp bức trực tiếp cô mà thôi, cô Ai chưa hiểu được cái nguyên nhân sâu xa quyết
định đến số phận của đời mình, cô Ái chưa nhìn thấy được những kẻ "cầm cân nảy mực " -
những kẻ gọi là đại diện cho công lý xã hội cũng chính là những kẻ đã tạo ra hiện trạng cuộc
sống đời Cô. Bọn họ cũng đều cùng một duộc với nhau cũng thông đồng, cấu kết với nhau để
áp bức, đè nén những con người như Cô. Và xa hơn là cái đạo đức phong kiến mà bọn họ đang
cúc cung phục vụ, cái đạo đức không bênh vực cho quyền sống, quyền bình đẳng của con
người. Không chỉ bị hạn chế bởi nhận thức mà trong quá trình đấu tranh cô Ái cũng có sự phân
tâm không thống nhất. Nếu như lúc đầu cô quyết liệt bao nhiêu thì càng về sau Cô càng xuống
nước và cuối cùng là buông xuôi để mặc cho số phận nỗi trôi bấy nhiêu. Là một người nông
dân sản xuất nhỏ, tư tưởng thô sơ, thiển cận nên cô Ái bị choáng ngợp trước uy quyền to lớn, bị
đè nén trước áp lực nặng nề của công đường. Nhất là khi đối diện với cặp mắt trợn tròn và điệu
bộ eo ợt của cụ lớn Thất, Cô không còn giữ được sự bình tĩnh và lòng quyết tâm ban đầu. Diễn
tiến tâm lý của Cô càng lúc càng căng thẳng, ban đầu chỉ là biểu hiện e dè, sợ sệt "không dám
nhìn", sau đó là mất tự tin "càng thấy lúng túng không yên tâm". Chính cô cũng không hiểu vì
sao mà lại như thế, rồi dần dần "Cô Ái thấy mình lẻ loi quá. Bố thì khổng dám nói năng gì cả.
Anh em không dám đến... Đầu óc rối bời.đi đến đỉnh điểm: "Cô ta rùng mình một cái, vội dừng
lại, không nói được nữa, vì cô ta thấy con mắt cụ lớn Thất trợn tròn... Cô ta thấy quả tim dừng
lại rồi bỗng lại đập mạnh. Hình như hỏng cả rồi, cục thế đã thay đổi rồi. Cô ta có cảm giác
như người sẩy chân rơi xuống nước. Nhưng lại thấy quả thực là mình sai." [6,tr.l31] và rồi cuối
cùng, cái tôi mạnh mẽ, quyết liệt đấu tranh cho hạnh phúc của mình, cho lẽ công bằng của con
người cá nhân đành phải thất bại. "Cô ta rất lấy làm hối hận", rồi bất giác kính cẩn chịu thua.
Cô nói: "Cháu vẫn đến đây là nghe lời cụ dạy. "Thì ra, tư tưởng phản kháng của cô Ai tuy rất
68
mạnh mẽ, quyết liệt nhưng nỗi sợ hãi cố hữu kết đọng hàng nghìn năm trong vô thức của người
nông dân còn mạnh mẽ hơn, gặp những tình huống nhất định thì chỉ trong chốc lát làm tiêu tan
hết ý chí đấu tranh của cô ta.
Nếu như nói rằng, phần tiêu cực chiếm một vị trí chủ đạo trong hình tượng Nhuận Thổ,
A. Q, thím Tường Lâm thì hình tượng cô Ái rõ ràng đã có sự thay đổi. Cô bị đè nén xuống tận
đáy xã hội, nhưng vẫn giữ được tính cách của một con người bình thường với những khát Vọng
rất bình thường: mong muốn được lao động, được ấm no, được yêu thương, được hạnh phúc.
Khi hi vọng bị dập tắt, cô Ái vẫn kiên quyết phản kháng. Tuy rằng sự phản kháng của cô còn
mang tính tự phát, hơi mù quáng, nhưng không phải là nguyên nhân dẫn đến thất bại của cô.
Khi" cha mẹ chồng bảo đi là phải đi" thì cô Ái làm gì có tư cách mà cãi lại. Khi mà công lý
không đứng vế phía những người bị áp bức, thì cô Ái làm gì có khả năng để mà thắng kiện
được. Một cái "hắt...xì!" của cụ lớn Thất đã hoàn toàn trấn áp Cô, Ái cứng họng. Rõ ràng, chì
tiêu diệt ách áp bức của chế độ phụ quyền và tộc quyền phong kiến thì chưa đủ, có như thế thì
mới có thể thật sự giải phóng phụ nữ, giải phóng nông dân bị áp bứcmà cô Ái là một thí dụ điển
hình.
Người đọc sẽ còn nhớ mãi hình ảnh cô Ai nhảy xổ trên từng trang viết của tác gia, Cô
khát khao đòi quyền lợi và đòi lẽ phải, đòi sự công bằng cho mình. Hình tượng cô Ai toát ra
hơi thở đối kháng mạnh mẽ của người nông dân bị dồn tới bước đường cùng. Dù cuối cùng sự
chiến đấu đó vẫn bị thất bại, nhưng là một thất bại có ý nghĩa, nó mở đầu cho một lý tưởng
sống mới của con người. Sự bùng nổ vùng lên của cô Ai là sự vùng đứng dậy của một con
người mới, muốn sống một cuộc sống đúng nghĩa sống thực sự của nó chứ không phải là tồn tại
lay lắt để mặc cho người ta áp bức mãi.
Từ sự phát triển của hình tượng Nhuận Thổ, thím Tường Lâm cho đến cô Ái ở đây là một
sự phát triển về logic nhân vật và logic lịch sử. Hình tượng trước là bước khởi đầu của hình
tượng sau và nó tương ứng với những biến chuyển của thời đại. Khi một người sống vô nghĩa
lý, không mục đích, không niềm tin, không hy vọng, trốn tránh không đấu tranh thì cuộc sống
ấy chỉ là sự tồn tại chứ không phải là sống. "Con người phải có lòng tin hay phải tìm thấy lòng
tin. Nếu không cuộc đời sẽ trống rỗng"(Tsekhov). Câu nói nổi tiếng của nhà văn Nga Tsekhov
69
thể hiện rõ trong quan niệm và nhận thức của Lỗ Tấn phải chăng đó là sự gặp nhau giữa hai
tâm hồn lớn của hai đại thi hào.
Bằng chính lòng yêu mến và sự cảm thông sâu sắc với những người nông dân bị áp bức,
bằng chính tài năng của mình Lỗ Tấn đã tái hiện sinh động hình tượng người phụ nữ nông dân
cương trực biết nhận thức và biết đạp bằng mọi trở ngại để vươn tới lẽ phải. Tiếng kêu vươn
mình của cô Ái cũng là tiếng thét vùng dậy của cả một giai tầng người trong xã hội mà cơ hồ
họ đã nhận ra vị trí của mình trong xã hội và muốn đứng lên đấu tranh để thay đổi địa vị tối tăm
của mình. Lỗ Tấn đã viết "Những dân tộc giàu tính phản kháng, có lực lượng tiềm tàng, thây
kêu khổ không có ích gì, thì họ liền giác ngộ, tiếng đau thương biến thành gầm thét, một khi
văn học gầm thét xuất hiện, thì phản kháng sắp đến nơi rồi. "(Văn học thời cách mạng - Tạp
văn). Đó là nước Trung Hoa trong giai đoạn mới, giai đoạn của những người nông dân như cô
Ấi, chứ không còn của những con người như Nhuận Thổ, A. Q, thím Tường Lâm, không biết
mình khổ và cũng không dám đấu tranh. Hình tượng cô Ái là hình tượng một người phụ nữ
nông dân khoe khoắn, kiên cường đã sớm nhận thức được sự bất công, đè nén của xã hội đối
với mình và đã biết vùng lên đấu tranh chống lại sự bất công, đè nén đó. Một lần nữa, nó khẳng
định niềm tin của tác giả vào khả năng đứng lên đòi giải phóng của người nông dân. Có thể
nói: "Ly hôn" là một bước chuyển biến mới của Lỗ Tấn trong nhận thức tư tưởng.
2.3.3.Người nữ trí thức bất hạnh
Còn có những nữ trí thức trẻ, dũng cảm đấu tranh cho tình yêu và hôn nhân, đó là Tử
Quân và Quyên Sinh trong truyện ngắn "Tiếc thương những ngày đã mất". Cô nữ sinh Tử Quân
đã từng tuyên bố rất cá nhân ích kỷ như sau: "Con người tôi là của tôi, không ai có quyền can
thiệp đến tôi cả". Tử Quân và Quyên Sinh tự nguyện đến với nhau bất chấp mọi cản trở của gia
đình, xã hội. Tuy nhiên trước cuộc sống vụn vặt, đời thường tình yêu của họ nhanh chóng bị
tan vỡ. Bởi lẽ, tình yêu và hôn nhân ấy được xây dựng trên cơ sở lãng mạn, thoát li khỏi thực
tế, do đó không có cơ sở để tồn tại. Họ muốn làm chủ đời mình và tự nguyện đến với nhau. Tuy
nhiên, hôn nhân của họ không có nền tảng vững chắc, không sự nghiệp, không có chỗ đứng
trong xã hội. Hạnh phúc của họ đơn độc giữa những thế lực của xã hội và sự nghèo đói vây bủa
xung quanh. Những khó khăn từ cuộc sông đời thường phát sinh mỗi ngày một nặng nề đã
chiếm hết thời gian và không gian của hạnh phúc lứa đôi. Tinh yêu từ chỗ rạn nứt đã tan vỡ sau
70
những đợt sóng gió dữ dội giữa hai người. Tử Quân đã trở về với cái gia đình hà khắc mà nàng
đã một lần từ bỏ để chết âm thầm trong tuyệt vọng. Còn Quyên Sinh thất nghiệp, trở về hội
quán cũ. Bi kịch của cô Tử Quân là bi kịch chung của cả một thế hệ thanh niên trí thức tiểu tư
sản trong thời đại đó. Họ liều lĩnh dấn thân vào cuộc đời mà không được chuẩn bi từ trước. Sự
thất bại trong tình yêu và hạnh phúc là điều cảnh tỉnh đầu tiên cho họ.
Trong cơn biến động xã hội lúc bấy giờ, trí thức đóng vai trò quan trọng trên vũ đài chính
tri và lịch sử. Lỗ Tấn đã phân tích những đặc điểm của người trí thức Trung Quốc là ôm ấp
nhiều mộng đẹp, có lý tưởng, cầu tiến nhưng khi gặp thất bại thì dễ bị bi quan, chán nản, dao
động cuối cùng dần trở nên cô độc, phản lại lý tưởng của mình rồi chết dần chết mòn một cách
thảm hại. Tử Quân trong "Tiếc thương những ngày đã mất" là một nhân vật nữ trí thức với
những đặc trưng như trên đã nêu.
Tử Quân là một nữ sinh tắm mình trong không khí sôi nổi đổi thay của thời đại sau phong
trào Ngũ Tứ là: "Khổng giáo bị liệng qua cửa sổ". Tử Quân và Quyến Sinh cùng là những trí
thức mới, họ muốn "xây dựng một gia đình nho nhỏ, chứa chan hy vọng" - theo đúng khuôn
mẫu mà thanh niên bấy giờ cho là đúng đắn. Bất chấp những trở ngại của thế lực cũ, họ tạo lập
được một gia đình riêng, thậm chí khó khăn còn làm cho họ thêm quyết tâm và kiêu hãnh. Thuê
được một căn nhà riêng, ngày ngày Quyên Sinh đi làm, Tử Quân ở nhà nội trợ, Họ chìm trong
cái hạnh phúc nhỏ bè, tầm thường của "một túp lều tranh, hai trái tim vàng" đó. Hai người
quên mất lý tưởng ban đầu đã gắn kết họ lại với nhau, đó là những tư tưởng tiến bộ, mong
muốn cải cách xã hội tiến đến những chân trời khoa học rộng mở. Cuộc sống yên ổn, bình lặng,
tình yêu chậm chạp đã giết chết phần nổi loạn độc đáo của Tử Quân từng hấp dẫn Quyên Sinh.
Bi kịch chính là ở chỗ này. Tình yêu bắt đầu lung lay rạn nứt. Song đó mới chỉ là “cơn sóng gió
nhỏ trong tách trà”. Tình hình trở nên tồi tệ hơn khi Quyên Sinh mất việc. Tử Quân càng lo
lắng, sợ sệt. Tác giả viết: "Dưới ánh đèn heo hắt, trông mặt nàng thảm hại quá chừng.. Gần
đây nàng trở nên khiếp nhược lắm rồi."
Chứng kiến những đổi thay tiêu cực của Tử Quân, Quyên Sinh chán nản và tình yêu biến
mất. Không còn tình yêu, nàng còn sống trong mái nhà chung đó làm gì? Tử Quân về nhà, sống
trong sự lạnh nhạt thờ ơ của gia đình và cuối cùng chết dần chết mòn, kết thúc một bi kịch vừa
thảm hại vừa đau buồn trong cảnh "Tiếc thương những ngày đã mất"
71
Tử Quân là một hình tượng phụ nữ trí thức "sống thừa" trong truyện ngắn của Lỗ Tấn.
Qua đó ông thấy rõ nguyên nhân xã hội đặc biệt là nguyên nhân nội tại trong bi kịch cuộc đời
họ. Tử Quân là một thành viên trong xã hội mà ở đó con người là nạn nhân - bị tha hóa trên con
đường phát triển của chính mình, vừa là thủ phạm gây ra bi kịch cho mình và không hề ý thức
được. Cô muốn vươn lên, tách khỏi, thoát ly những định kiến xã hội để sống đúng với bản chất,
nguyện vọng của chính mình. Cô không bằng lòng với hiện thực nhưng cách chống đối của cô
là thoát ly khỏi gia đình lao vào cuộc sống gia đình khác cũng chật hẹp và giam cầm như vậy
mà thôi. Điều mà Tử Quân nhận thức được đã quá muộn và cô đã phải trả giá cho lỗi lầm của
chính mình.
Bi kịch của Tử Quân không phải chỉ ở việc đã ảo tưởng hóa cuộc sống và lý tưởng của
mình, không phải chỉ vì cô đã gục ngã trước sóng gió cuộc đời. Và tài năng của Lỗ Tấn không
phải chỉ ở chỗ nêu ra một vấn đề xã hội mà nhà văn đã tự giải đáp những ẩn số mà mọi người
lâu nay bế tắc.
Với Tử Quân, lý tưởng sống và tình yêu là một. Tình yêu tiếp sức cho cô có được những
tư tưởng mới, lòng ham hiểu biết, tiến bộ và nhiệt huyết muốn thay đổi. Tác giả nhấn mạnh:
"hồi đó sở dĩ nàng đũng cảm được, bất chấp được tất cả là yêu tôi". Tình yêu chân chính biến
đổi con người cô, giúp cô đâu tranh vượt qua những khó khăn, những định kiến của xã hội cũ.
Nhưng khi tìm được hạnh phúc rồi thì cô lại quên mất rằng: "tình yêu phải được đổi mới luôn,
lớn dần lên và sáng tạo", và cô đã phải chịu một số phận thật bất hạnh, bởi “tình yêu khi đã
thỏa mãn thì sự hấp dẫn không còn nữa”. Khi Tử Quân hoàn toàn chìm ngập trong cái mà cô
cho là đích đến của hạnh phúc, cô không nhận ra minh đã thay đổi theo hướng tiêu cực, thì
Quyên Sinh đã nhận thấy một thực tế mà lâu nay chưa hề hay biết: "hơn nửa năm nay, tôi chỉ
sống vì tình yêu, một tình yêu mù quáng mà quên hẳn những ý nghĩa quan trọng khấc của cuộc
sống. Trước hết quên rằng phải sống cái đã. Con người ta có sống thì tình yêu mới có chỗ
dựa"[35,tr.36]. Khi còn yêu nhau, tình yêu của họ là "càng nhìn về một hướng", nhưng khi lấy
nhau rồi thì Tử Quân lại tụt hậu, đi sau Quyên Sinh. Cô hiểu rằng: "trên con đường mưu sống
đó thì chỉ biết cầm lấy vạt áo người ta mà đi theo thì dù người kia là một chiến sĩ đi nữa, cũng
khó mà chiến đấu cho được. Rốt cuộc cả hai sẽ bị tiêu diệt"[35, tr.39]. Và khi người này trở
thành gánh nặng cho người kia, thì lúc đó tình yêu biến mất. Ở đây cũng thấy Lỗ Tân rất am
72
hiểu tâm lý. Nhận thức về hiện thực của Quyên Sinh nhạy bén, sâu sắc hơn, còn Tử Quân thì
nhạy cảm hơn. Đặc điểm của Tử Quân nói riêng và giới phụ nữ nói chung là không thích phiêu
lưu, không thích tìm cảm giác mới lạ; sự nhàm chán đơn điệu của cuộc sống gia đình đem lại
cho cô cảm giác yên ổn, an toàn, thì ngược lại tạo cho Quyên Sinh - nói riêng, và nam giới - nói
chung, sự tù túng, khó chịu, giám hãm, chật hẹp và họ muốn thoát ra để tìm một chân trời mới.
Rõ ràng Lỗ Tấn không chỉ đã phân tích sự đổ vỡ của cuộc sống hôn nhân lãng mạn ở chỗ
nó thoát ly hiện thực, mà ông còn nêu ra được những vấn đề quan trọng của cuộc sống hôn
nhân có tình yêu, phải dựa trên những yêu cầu gì mà nếu thiếu chúng, hôn nhân sẽ đổ vỡ. Điều
đó sẽ gây ra bi kịch cho cả một số phận, một đời người mà ở đây là đời người phụ nữ và tri
thức.
Trong bi kịch tình yêu này, Tử Quân là người gánh chịu nhiều thiệt thòi nhất. Giờ đây cô
phải đối mặt với chính mình - một bản thân thất bại trên con đường tự khẳng định cá nhân và
con đường hôn nhân. Kết cục này buộc Cô phải tự xây dựng lại tất cả, tự tìm ra ý nghĩa cho
cuộc sống tương lai. Nhưng Tử Quân còn có thể làm được gì? Khi không còn tình yêu, người ta
còn có nhiều điều khác để sống, và hy vọng sẽ gặp một tình yêu khác hoan thiện hơn. Đây cũng
là quãng thời gian người ta nhìn lại mình để định hình một hướng đi mới, để mình ngày hôm
nay khác ngày hôm qua theo nghĩa tích cực của nó. Nhưng nếu đặt mình vào hoàn cảnh của Tử
Quân, một cô gái hăm hở nhiệt tình với thời cuộc, sống trong một nước Trung Hoa chuyển
mình nhưng vẫn còn rất nhiều những định kiến cũ. Yêu và đến lúc nhận ra tình yêu của đối
phương đã biến mất mà không hiểu tại sao, trong lúc Cô không một lời trách cứ. Cô không biết
mình sẽ bắt đầu lại ra sao, huống hồ xã hội đó lại không khuyến khích Cổ vươn lên, cha mẹ
không dung, bạn bè không nhìn, ai ai cũng muốn cô quay về khuôn khổ cũ, thì lối thoát duy
nhất của Tử Quân chỉ là quay trở về nhà trong nỗi tủi nhục ế chề vì thất bại, sống một cuộc đời
vô nghĩa. Cô nói: “mang cái gánh hư không nặng trĩu đó trên vai mà bước đi trên cái gọi là
đường đời, trước cái uy nghỉ của ông bố và sự khinh bỉ của người chung quanh, hỏi gì ái ngại
hơn! Huống chỉ cuối con đường ấy chẳng qua chỉ là một nấm mồ”. [12, tr.39]. Bị ép vào một
tình thế thụ động, cái chết đối với Tử Quân là điều tất yếu và đó là cái chết bi thảm nhất trong
hệ thống miêu tả về cái chết trong truyện của Lỗ Tấn mà tác giả đã xây dựng nên.
73
Thế là ước mơ "xây dựng một gia đình nho nhỏ, chứa chan hy vọng" của tử Quân và
Quyên Sinh đã sụp đổ. Nhưng mọi chuyện không thể như xưa. Sự mất mát không chỉ ở phía Tử
Quân, Quyên Sinh từ chỗ có được hạnh phúc, tình yêu niềm tin cuộc sống đã trở thành mất tất
cả, cô đơn, không việc làm, mất tình yêu của Tử Quân - người con gái đã dâng trọn tình yêu
cho anh- và mất cả chính mình. mà cả Quyên Sinh rồi đây anh sẽ ra sao khi đã mất đi niềm tin
vào chính bản thân mình?
Qua hình tượng Tử Quân, Lỗ Tấn đã nêu ra một vấn đề mang ý nghĩa thời đại sâu sắc đó
là yêu cầu giải phóng cá tính và tự do hôn nhân không thể giải quyết đơn độc với việc tách rời
yêu cầu giải phóng xã hội. Chỉ có như vậy mới là lối thoát chân chính cho những thanh niên trí
thức tiểu tư sản nói chung và nữ trí thức nói riêng. Hình tượng Tử Quân và Quyên Sinh tuy
chưa sinh động và sâu sắc như các hình tượng thím Tường Lâm, Nhuận Thổ, A.Q nhưng nó
cũng đã phần nào làm cho hình tượng nhân vật trong tuyên ngắn của Lỗ Tấn đa dạng tăng sức
lay động và hấp dẫn người đọc.
2.4.NHÂN VẬT BẤT BÌNH THƯỜNG
Trong các truyện ngắn của Lỗ Tấn, xuất hiện khá nhiều nhân vật bất bình thường. Bất
bình thường từ hình dáng, lời nói, hành động đến suy nghĩ, Điều đó có "bất bình thường"
không? Không! Bởi vì trong một xã hội "bất bình thường " như xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ
sự xuất hiện những nhân vật này là điều bình thường rất dễ hiểu và có lễ đó là điều tự nhiên.
Đó là những con người có số phận thật bất hạnh, có thể là do sự tha hóa, nhưng cũng có thể là
do sự phát triển tư tưởng trước thời đại đang sống mà họ bị xã hội ruồng bỏ, coi như là những
kẻ "điên", những kẻ bất bình thường không đáng tồn tại.
Thật ra, tính cách nhân vật trong tác phẩm của Lỗ Tấn có sự phát triển lôgic nhưng rất đa
dạng. Nếu như trong văn học cổ Trung Quốc người ta tả nhân vật "làm gì" hơn là tả nhân vật
"làm như thế nào" thì trong truyện ngắn của Lỗ Tấn tính cá biệt, bất bình thường cũng như điển
hình của nhân vật không chỉ được biểu hiện ở yếu tố bề ngoài mà còn được khắc hoa rõ rệt từ
bản chất bên trong sự vật. Tất cả những "thủ pháp nghệ thuật" ấy đều nằm trong ý đồ sáng tạo
của nhà văn làm nổi rõ thân phận bất hạnh của nhân vật.
74
Trong bài tự thuật "Vì sao tôi viết truyện AQ chính truyện" Lỗ Tấn nói: "Trước kia tôi
vẫn nghĩ rằng: có nhiều chỗ tôi viết hơi quá. Nhưng gần đây tôi lại không nghĩ thế nữa. Hiện
nay ở Trung Quốc có nhiều việc nếu như đem mà tả chân ra thì người ngoại quét hay người
nước ngoài sau này nhìn vào cũng phải cho là nghịch dị. Thường có những lúc tôi tưởng tượng
ra một việc - việc quái gở và từ ý nghĩ rằng quái gở đến thế là cùng; thế mà thỉnh thoảng lại
thấy những việc quái gở bằng mấy việc mình đã tưởng tượng nữa. Thì ra trước lúc việc ấy phát
sinh, trí nhớ thô thiển của tôi không tiên đoán được". Những lời tự bạch của Lỗ Tấn cho thấy
chính tác giả rất có ý thức về những "việc rất quái gở", những nhân vật nghịch dị về tính cách
trong thực tại xã hội cũng như trong văn học, nhưng đó là sự nghịch dị hợp logic, sự nghịch dị
đó càng làm rõ cái "nghịch dị" của xã hội, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự bất hạnh của các
nhân vật bất bình thường này. Bởi vậy, việc sáng tạo kiểu nhân vật bất bình thường với tư cách
là "hình thức khái quát hiện thực có tính nghệ thuật" chắc chắn không nằm ngoài ý đồ tư tưởng
của nhà văn mà Lỗ Tấn muốn tạo dựng làm theo cách riêng của mình.
Văn chương của Lỗ Tấn là văn chương cứu đời, cứu người, là "nghệ thuật vị nhân sinh"
nhũ quyết không thể không có những ý đồ, tư tưởng sáng tác rõ ràng. Trong sự hiểu biết chung
về một loại những hình tượng nhân vật bất hạnh đặc thù, việc nghiên cứu những nhân vật bất
bình thường cũng đóng góp phân làm sáng tỏ hơn tài năng điêu luyện của một đại văn hào
Trung Hoa mà Lỗ tấn là tấm gương sáng đi tiên phong trên con đường sáng tạo nghệ thuật.
2.4.1.Nhân vật có hình dáng bất thường
Những nhân vật có hình dáng bất thường trong truyện ngắn Lỗ Tấn thường có số phận bất
hạnh. Chính tính cách, số phận của nhân vật đó được biểu hiện qua hình dáng của họ mà người
đọc rất dễ nhận ra và không thể nhầm lẫn vào ai.
Thật vậy, dưới ngòi bút thần của Lỗ Tấn, con mắt có thể dùng để biểu hiện tính cách nhân
vật. Đặc biệt với những nhân vật bất bình thường, con mắt còn đùng để biểu hiện tư tưởng tình
cảm phức tạp của nhân vật. Như thím Tường Lâm trong "Lễ cầu phúc", bôn lần thay đổi trong
sự miêu tả đôi mắt từ chỗ "lanh lợi" đến chỗ "lờ đờ", rồi "sâu hoắm xuống" và cuối cùng thì
"chỉ còn đôi tròng mắt lâu lâu đưa đi đưa lại mới chứng tỏ rằng thím là một con người đang
sống mà thôi"[10.tr.110]. Lỗ Tấn đã khắc hoa được số phận bi thảm của một người phụ nữ
75
nông thôn, từ nhút nhát tủi phận đến phản kháng hoài nghi và rồi chết đi ương sự quên lãng của
một xã hội đen bạc. Thật bất hạnh thay cho nhân vật, cho con người trong xã hội bất hạnh.
Trong khi miêu tả diện mạo một số nhân vật, Lỗ Tấn thể hiện từng nhân vật không những
là hình ảnh tưởng tượng, hình ảnh cảm giác mà còn cốt cách riêng, có những cử chỉ dáng điệu
lạ thường, không lặp lại. Hãy nhìn lại chân dung của Khổng Ất Kỷ - nhân vật trong truyện ngắn
cùng tên, in ở tập Gào thét Lỗ Tấn tả "Bác ta cao người, mắt xanh lè, giữa những nếp nhăn
thường có vài vết sẹo, lại cố một bộ rau lồm xồm, rối như mớ bòng bong. Ao tuy là áo dài,
nhưng vừa bẩn vừa rách, hình như mười năm nay chưa giặt" [6,tr.l59]. Ở đây có cách tả chân
dung truyền thống: với người, bộ mặt, tóc tai, quần áo nhưng cái đáng chú ý, đồng thời cũng là
cái phân biệt sự "bất bình thường" của Khổng Ất Kỷ với những nhân vật bình thường khác là
"nếp nhăn, cái sẹo và bộ râu" dấu vết của những ngày đau khổ làm thành cái tật nguyền xấu xí
in hằn lên vóc dáng và tâm hồn của con người.Thủ pháp đậm nhạt, tương phản này là một đặc
trưng độc đáo trong tác phẩm của nhà văn.
Một cách chủ tâm, với ngòi bút, Lỗ Tấn không đem đến đối lập vẻ bề ngoài nhân vật với
thế giới nội tâm của họ - Thực chất "cái bên ngoài" của nhân vật trong khi vẫn giữ toàn bộ tính
cá thể, tính không lặp lại của nó lại biểu hiện sâu sắc mọi cung bậc tình cảm, tâm lý, tính cách
thậm chí cả sắc thái xã hội, cả thời đại nhân vật đang sống như nhân vật Trần Sĩ Thành, thím
Tường Lâm. Đặc biệt là A.Q, ta thấy cái đuôi sam của anh ta thật quái dị. Cái ngoại hình của
A.Q vô cùng có nét, nó chính là bức chân dung số phận của anh ta. Cái sẹo đỏ hỏn trên đầu
xuất hiện cùng với "phép thắng lợi tinh thần" của hắn khiến cho mọi người nhận ngay ra anh ta
- một nhân vật có cuộc đời thật quái lạ và bi thương đến mức thảm hại. Khi người ta trừng phạt
cái tội tự cao tự đại của hắn, cái đuôi sam vàng hoe ngọ nguậy trước mắt người đọc và đôi môi
dầy của hắn hiện ra khi hắn bắt rận với Vương Râu xồm. Tất cả những đặc điểm ngoại hình ấy
đã trở thành bộ phận hữu cơ trong sự khắc hoa tính cách của A.Q, tượng trưng cho nhiều điểm
của y. Do vậy mỗi khi nhắc đến cái sẹo và chiếc đuổi sam vàng tự nhiên người ta liên tưởng
đến đặc điểm và hành động buồn cười của A.Q, ngược lại mỗi khi nghĩ đến tính cách A.Q.
Người ta lại liên tưởng tới các sẹo mà A.Q tối kỵ và chiếc đuôi sam vàng thường vẫn bị người
ta túm lấy nó như túm lấy cả cuộc đời của A.Q. Sự đan chéo trong liên tưởng này là ngụ ý của
tác giả khi xây dựng hình tượng nhân vật bất hạnh.
76
Trong truyện ngắn của Lỗ Tấn, để khắc họa những nét đặc trưng, dáng vẻ khác thường bề
ngoài của những nhân vật bất bình thường, ông đã đặt họ trong sự phát triển, "biến dạng" về
tính cách. Tính cách nhân vật lại có quan hệ hữu cơ, quan hệ nhân quả với môi trường sống và
hoàn cảnh xã hội. Bởi dưới chế độ phong kiến hà khắc, không ít nhân vật của Lỗ Tấn đã bị chà
đạp, bị ức chế tinh thần đến độ "hồn lìa khỏi xác", hoặc trở nên bất đắc chí, điên khùng, hoặc
trở thành xấu xí, thảm hại vừa gây sự khinh miệt vừa gây lòng thương cảm. Những đặc điểm
sinh lý của nhân vật không những làm nổi nhân vật lên mà còn nói được khía cạnh nào đó của
cuộc đời nhân vật trong xã hội có áp bức. Dù chỉ là nhân vật phụ, xuất hiện thoáng qua song ít
nhiều cũng đưa lại cho độc giả cảm giác về vẻ "nghịch dị" trong diện mạo của nhân vật. Nhuận
Thổ, từ một chú bé có "khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mặt, đầu đội mũ lông chim bé tẹo,
cổ đeo vòng bạc sáng loa", qua một quá trình đấu tranh với cuộc sống thực tại đầy khắc nghiệt
anh đã trở thành người không còn lanh lẹ với "những nếp nhăn khắc sâu trên mặt...trong anh
phảng phất giống một pho tượng đá. Có lẽ anh chỉ cảm thấy khổ nhưng không nói ra được
hết", ơ đây, tác giả cố gắng tạo một sự so sánh diện mạo nhân vật - từ khi còn nhỏ đến khi
trưởng thành. "Anh cao gấp hai trước, khôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật trước kia nay đổi
thành vàng xạm, lại có thêm những nếp nhăn sâu hoắm"[10, tr.163]. Chỉ qua vài chi tiết miêu
tả ngoại hình nhân vật như vậy người đọc có thể hình dung ra những nổi niềm đau buồn ẩn ức
đằng sau khuôn mặt ấy - đó là thực tại của bản thân nhân vật con đông, mất mùa, thuế nặng,
trộm cướp, quan lại đày đọa thân anh khiến anh trở thành mụ mẫm, đần độn hẳn đi, trở thành
một nhân vật bất bình thường trong diện mạo bất bình thường. Nhân vật cứ như vậy mà sống
động trong người đọc khi những trang sách đã khép lại.
2.4.2.Nhân vật có tâm lý, tính cách và hành động bất thường
Trong truyện ngắn Lỗ Tấn có khá nhiều nhân vật có tâm lý, tính cách, hành động khá bất
thường. Họ thường là những nhân vật có số phận rất bất hạnh và tính cách phức tạp đầy mâu
thuẫn. Nhân vật biểu hiện rõ nét nhất là A.Q trong "A.Q chính truyện". Ca ngợi những gì trước
kia căm ghét, phản đối tất cả những gì mà trước kia chủ trương sùng bái và bắt đầu tìm đến
"phép thắng lợi tinh thần" trong sự thất bại và từ trong "thất bại" quên đi nỗi đau khổ. Có thể sơ
bộ tóm tắt quá trình phát triển tính cách của A.Q là như vậy. A.Q sống trong cuộc đời mà như
sống giữa một giấc mơ. Thực tế quá phủ phàng, hắn tìm cách trốn đời bằng ảo tưởng. Là một
77
nhà văn hiện thực chân chính, Lỗ Tấn biết tuân thủ sự phát triển tính cách nội tại của nhân vật.
Khi xây dựng hình tượng A.Q ông tỏ ra hiểu sâu sắc bản chất, tâm hồn, tính cách những người
như y. Lỗ Tấn đã viết: "Họ không dám nhìn thẳng vào sự thật, họ dùng cách che giấu để tạo ra
một con đường thoát rất kỳ diệu, mà họ tưởng là một con đường đúng đắn. Con đường đó
chứng tỏ rằng tính quốc dà n là yếu đuối, lười nhác mà lại xảo trá, càng ngày càng thoa mãn,
tức là càng ngày càng suy đốn, thế nhưng lại cảm thấy ngày càng vẻ vang" [6,tr.35]. Một A.Q
đầu đầy sẹo, tóc tết đuôi sam, sống cù bơ cù bất, ăn nhờ ở đậu quẩn quanh trong cái xó làng.
Mọi người đều dùng thứ ngôn ngữ của tiếng cười ghẻ lạnh, của cái gậy, cái bạt tai để nói
chuyện với y. A.Q ở vào bậc thang xã hội mà dưới đó không còn một ai. Ấy vậy nhưng A.Q
đâu có "biết thân biết phận". Bị tước đoạt gần hết mọi quyền sống, y vẫn cứ vênh váo dương
dương tự đắc. "Phép thắng lợi tinh thần" là cứu cánh trong cuộc đời của AQ, là tính cách cá
biệt của AQ, tất cả tạo nên nét độc đáo cho hình tượng AQ. Dựa vào lòng tin đối với những ưu
thế tinh thần của một quá khứ vinh quang mà AQ đã quên đi nỗi khổ trước mắt, nhưng cái
"bệnh hoạn " phần của một ý thức hệ rõ ràng đang băng hoại tập trung vào AQ "một con người
không phải xuất thân từ giai cấp mà ý thức hệ đó vốn là của riêng nó, khiến AQ nghiễm nhiên
trở thành người đại diện cho giai đoạn lịch sử cuối cùng của xã hội phong kiến Trung Quốc"
[6,tr.63]. Cách khái quát đó của Lỗ Tấn rất sâu sắc làm cho người đọc phải suy nghĩ khi nhắc
đến nhân vật này.
Như trước đến nay nhiều người vẫn nói, nét độc đáo trong tính cách A.Q là "phép thắng
lợi tinh thần" của y. A.Q đã vận dụng phương pháp đó rất linh hoạt, thích hợp với từng tình
huống cụ thể, vừa bị người ta túm tóc đập đầu vào tường xong, A.Q liền nghĩ: "Con đánh bố...
đời nay chẳng ra gì cả " . Đến khi bọn kia biết tỏng phương sách lếu láo đó rồi, chúng bèn chặn
ngay đằng đầu, vừa đánh vừa bắt A.Q tự nhận: "Đây là người đánh súc vật chứ không phải con
đánh bố nhé. Nói đi, người đánh súc vật". Liệu A.Q có chịu hạ mình đến thế không ? Thật
chẳng ai ngờ, người có lòng "tự tôn" hiếm có như A.Q lại nhanh nhảu hạ mình thấp hơn cả súc
vật, y tự nhận mình là "sâu bọ" cho chóng xong chuyện. Lần này tưởng đâu A.Q đã lãng quên
hết lòng tự trọng của y, nhưng cái máu "kiêu hãnh" lại trỗi dậy trong y, vì ngay sau đó A,Q
nghĩ ra một điều mới mẻ "Y nhận thấy y là người giỏi chịu nhục hơn ai hết,và ngoài việc nhịn
nhục rạ thì mọi phương diện, ỵ vẫn là người "bậc nhất", Trạng nguyên cũng chỉ là người "bậc
78
nhất" mà thôi! Thứ này kể vào đâu"[6,tr.72]. Đến đây, chúng ta thấy trong cách lập luận, trong
logic, tâm lý A.Q quả có điều gì đó khác thường, kỳ dị. Chính tâm lý này đã an ủi bao nhiêu
người Trung Quốc cận đại, trong lúc đất nước của họ bị đế chế chia cắt, một tâm lý của cả một
thế hệ bất hạnh với hiện tại, bế tắc không lối thoát. Sự thật trong lịch sử thế giới cận đại, chưa
có nước nào trong một thời gian ngắn, độ nửa thế kỷ mà phải ký nhiều điều ước thua thiệt như
Trung Quốc. Giữa cái bi đát của hiện thực xã hội và quy luật phát triển tính cách nội tâm của
nhân vật có một sự trái ngược hết sức vô lý, tất cả những cái dớ dẩn đáng ghét và những cái dại
dột đáng thương của A.Q đều sinh ra từ trong sự trái ngược vô lý đó. Nếu cho rằng bất kỳ một
hình ảnh khái quát nghệ thuật nào cũng đều có ý nghĩa xã hội, thuộc về một xã hội, thuộc về
một xã hội và một thời kỳ lịch sử nhất định, thì A.Q là hình ảnh tiêu biểu cho thời kỳ lịch sử
Trung Quốc cận đại, trở thành dấu hiệu báo trước một xã hội đen tối sắp chấm hết hoặc sắp mở
đầu - giống như những mốc lịch sử vậy. Tính cách của y, xét về mặt thực tiễn là phương pháp
khắc phục sự trái ngược thực tế khách quan thua yếu và ý muốn chủ quan "hơn người" một
cách xuẩn ngốc, tai hại nhất. Ngòi bút thần tình của Lỗ Tấn không chỉ dừng lại ở cho châm
biếm, chế giễu phép thắng lợi tinh thần A.Q mà bằng cả cuộc đời nhân vật, ổng chứng minh sự
bất lực cửa những ảo tưởng. Với "phép thắng lợi tinh thần" đã có thời kỳ A.Q tự coi mình là
một anh hùng bách chiến bách thắng, nhưng ngay cả Napôlêông còn có phen nếm mùi thất bại
đắng cay nữa là A.Q. Lần Vương Râu xồm - một nhân vật trong truyện - giã cho A.Q một trận
nên thân có thể xem đó là một "vết nhơ" trong cuộc đời A.Q, bởi vì "Trong ký ức của AQ thật
chưa cổ chuyện nhục nhã như thế. số là đối với Vương Râu xổm quai nón kia, AQ cười nó thì
có, chứ có bao giờ nó dám cười AQ, nói gì tới chuyện đấm đá ! thế mà lần này nó lại dám
thượng cảng chân hạ cẳng tay, ai ngờ như thế được?. AQ đứng ngơ ngác chưa hiểu thế nào !"
[6, tr.76]. Chỉ cần mấy nét chấm phá sơ sài mà nhà văn đã "vẽ" lên hết tính cách của nhân vật
A.Q.
Hiệu lực thực tế của phép thắng lợi tinh thần đã tỏ ra suy giảm rõ rệt, trong những cuộc
cãi vã với đám dân làng và những lần xô xát vô lối, nó còn được A.Q sử dụng như một vũ khí
để cân bằng sự sống, nhưng đến khi đứng trước cái chết dưới pháp luật của kẻ thống trị, AQ
không còn đủ sức chuyển bại thành thắng được nữa. Lúc đó dù vẫn chưa dám nhìn thẳng vào
sự thật nhưng y đã công nhận và phần nào nhận ra được những bất công trong xã hội. Tuy
79
nhiên, cái bất bình thường của y lại ở chỗ y coi mọi bất công đó là lẽ tất nhiên, không tránh
khỏi. Bị dắt ra dắt vào trại giam, phải vẽ một vòng tròn thay chữ ký (A.Q dốt nát không biết
chữ) vào bản án tử hình của mình. Y nghĩ: "Người ta sinh ra ở trong trời đất thì tất cũng phải
cố lức bị dắt vào dắt ra trại giam, cỏ lúc cũng phải nắm lấy quản bút mà vẽ một cái vòng tròn.
Chỉ có vẽ không được vòng tròn thì mới thật là cái vết nhơ nhuốc trong cuộc đời mình mà thôi"
[6,tr.78]. Ngay cả khi bị dẫn ra pháp trường, y vẫn tìm được cớ để an ủi mình "Người ta sinh ra
trong trời đất, trước sau cũng có thể có một lần bị chặt đầu”. Thậm chí khi bị dẫn đi bêu phố
(trước khi ra pháp trường chịu chém đầu), y vẫn "còn hơi lấy làm lạ sao lại không đi thẳng đến
trường chém?" và y thầm nghĩ rằng "Người ta sinh ra trong trời đất, trước sau gì cũng có một
lần phải bêu phố để cho mọi người trông thấy như vậy !". Quan niệm đó tất nhiên xây dựng
trên nguyên tắc công nhặn pháp luật phong kiến là thiêng liêng, là lẽ phải tuyệt đối. Chính vì
vậy trước cái chết của A.Q, những người cùng sống với y không những không xót thương mà
còn "nhất trí công nhận rằng: A.Q không phải là người lương thiện, chứng cớ là đã bị bắn, vì
rằng: nếu là người lương thiện thì sao lại bị bắn chứ !" [6,tr.89]. Cách suy nghĩ của A.Q là
điển hình cho cách súy nghĩ của người nông dân "dốt nát".
Vậy đó, cái bất hợp lý trong cái tính cách nhân vật đã được hình thành và phát triển trên
cơ sở những ngẫu nhiên mang tính quy luật của xạ hội phong kiến đương thời. Khi người ta
vẫn tin rằng mọi quan hệ được thiết lập trong xã hội phong kiến nửa thực dân đều là hoàn hảo
và hợp lý thì họ có thể sống rất yên tâm cả những khi chính họ vô cứ bị xã hội "ăn thịt người"
ấy hãm hại. Khi người ta đã nhìn nhận mọi cái xảy ra trong xã hội, trong trời đất "tất phải như
thế'' cả, thì họ sề cảm thấy thoải mái, thanh thản trong tâm hồn không khác gì họ bị những
thắng lợi tưởng tượng đánh lừa. Nguyên nhân tuy có khác nhau nhưng dẫn đến một hậu quả
chung, đó là tâm lý an phận, tiêu cực, chịu khuất phục, chịu nhẫn nhục hoàn toàn. Có thể nói,
thành công của Lỗ Tấn trong việc xây dựng những nhân vật có tâm lý, tính cách bất bình
thường như vậy, chính là ở chỗ ông biết đặt nhân vật vào trong xung đột mâu thuẫn với xã hội.
Mâu thuẫn xung đột này vừa tạo nên cấu kết tác phẩm, vừa là môi trường bộc lộ tính cách nhân
vật. Trong truyện ngắn của ông người đọc hầu như không nhận thấy lời thuyết minh của tác
giả. Khi "tiếp xúc" với sự kiện và các nhân vật, từng nhân vật tự đối thoại với người đọc, do
vậy tâm lý nhân vật được bộc lộ ra một cách tợ nhiên. Ông từng nói: "cứ viết một mạch, nhẩn
80
vật ấy dần dần hoạt động lên, làm tròn nhiệm vụ của nó ". Lỗ Tấn không nghĩ thay, làm thay
cho nhân vật. Nhân vật của ông đã "hành động theo sáng kiến của nó " (Hêghen). Sự phát triển
của nhân vật phù hợp với sự phát triển của xã hội vì rằng nhân vật không tách rời hoàn cảnh mà
hoàn cảnh ở đây lại chi phối tính cách của nhà văn.
Chính số phận quá ư khốn khổ đã làm cho nhiều con người trở nên bất bình thường. Nhân
vật thím Tường Lâm trong trạng thái tinh thần hoảng loạn, gạn tìm câu trả lời "Có linh hồn hay
khổng?" Thím hỏi như vậy chính là tìm lại được mạng sông của mình. Sự biểu hiện bất bình
thường ấy chứng tỏ nhân vật đã bị tổn thương tinh thần rất nặng nề. vẻ mặt ngơ ngác, u uất "nỗi
sợ hãi lộ rõ trên thần sắc " của thím Tường Lâm là một lời buộc tội đầy sức thuyết phục cái xã
hội "ăn thịt ngươi" đương thời. Trong xã hội phong kiến Trung Hoa người phụ nữ lao động chỉ
là một hoa phẩm dùng chưa hỏng cũng bị vứt bỏ, một thứ hiện vật bán đi mua lại. Người đọc
cảm nhận được một nổi bi phẫn sâu sắc qua sự miêu tả những sắc thái bất thường trong từng
tính cách của mỗi nhân vật mà nhà văn đã sáng tạo ra.
Có lẽ bởi vậy, ngoài nhân vật thím Tường Lâm vừa nói trên, các nhân vật bất bình thường
của ông tuy cùng một "mơ típ" nhưng không hề đơn điệu và lẻ loi. Xét thêm trường hợp nhân
vật Khổng Ất kỷ, Trần Sĩ Thành, Ngụy Liên Thù chúng ta sẽ thấy rõ điều này. Nếu như "Người
điên" trong nhật ký người điên là một tri thức bị coi là "hóa điên" khi anh ta sớm nhận ra bộ
mặt thật của chế độ phong kiến Trung Hoa cổ hủ, thối nát thì các nhân vật như Khổng Ất kỷ,
Trần Sĩ Thành, Nguy Liên Thù lại là nạn nhân của cái chế độ "ăn thịt người" từ bốn ngàn năm
đó. Nói một cách khác "Người điên" là phương tiện nghệ thuật để tác giả thể hiện ý đồ sáng tác
của mình, là bức họa cảnh tỉnh người dân Trung Hoa đang còn mê muội "Trong cái nhà lợp
bằng sắt", còn những nhân vật bất thường nói trên lại là sản phẩm của một chế độ đã mục rỗng,
họ đã bị xã hội tha hoa tính cách nhân phẩm, trở thành những kẻ bất đắc chí, bệnh hoạn, lẻ loi
cô độc. Tuy nhiên những nhân vật bất bình thường này cũng không nằm ngoài mục đích "phơi
bày căn bệnh cửa xã hội cũ để thúch giục mọi người lưu tâm tìm phương cứu nguy". Trong tiểu
sử của Lỗ Tấn có ghi rõ ông đã hai năm học y khoa ở đại học Tiên Đài, Nhật Bản. về mặt tư
tưởng, ông chịu ảnh hưởng ít nhiều chủ nghĩa phân tâm học của Frớt. Điều này thể hiện trong
việc ông thường ầp dụng nguyên lý giải phẫu vào việc mổ xẻ tâm linh. Chúng ta đau đớn như
thế nào ông cũng mặc. Chúng ta muốn né tránh như thế nào ông cũng vẫn lạnh lùng giơ cao
81
mũi dao vô cùng sắc mạnh, với một thủ thế đã từng luyện kỹ, nhắm vết thương nằm sâu trong
linh hồn của chúng ta mà đâm phật vào chỗ xung yếu nhất. Moi móc cái chỗ bệnh kết "mưng
mủ” ra, đặt dưới ống kính hiển vi cho mọi người quan sát. Những căn bệnh đưa ra cho mọi
người quan sát đó không phải chỉ riêng người Trung Hoa mới mắc phải, chúng ta bắt gặp ở tất
cả mọi người, bất luận ở thời nào, nơi nào. Có điều là dưới ngòi bút của Lỗ Tấn, chúng ta được
biểu hiện với một sắc thái đặc biệt Trung Hoa. Các nhân vật bất thường trong truyện ngắn của
Lỗ Tấn, vì vậy rất sáng tạo sinh động và rất thực và mang một số phận thật bất hạnh của từng
con người, từng nhân vật ở mọi hoàn cảnh khác nhau.
Đây là hình ảnh nhân vật Khổng Ất Kỷ - một trí thức lớp cũ bị chế độ khoa cử phong kiến
hãm hại, suốt đời thất bại, cuối cùng lặng lẽ đi vào cái chết. Sự hiện diện của ông ta từ tướng
mạo đến tính cách đều bất bình thường so với diễn biến thực tế của xã hội đương thời. Trong
quán rượu nhỏ mà Khổng Ất Kỷ thường lui tới thì bác "là người độc nhất mặc áo dài mà lại
đứng trước quầy rượu" [6, tr.l60]. Trong một cốt truyện khác, "Luồng ánh sáng" có nhân vật
Trần Sĩ Thành - cũng trí thức lớp cũ- suốt đời ôm mộng khoa cử, nhưng lần nào đi thi cũng
hỏng. Trần Sĩ Thành rơi từ thất vọng này đến thất vọng khác và cuối cùng thì tuyệt vọng một
cách chán chường không có gì cứu vãn nổi. Tấn bi kịch của Trần Sĩ Thành là vấn đề mâu thuẫn
giữa khát vọng cá nhân và hiện thực phũ phàng sau rất nhiều thất bại trên con đường "công
danh", Trần Sĩ Thành cũng loáng thoáng nhận ra nguyên nhân thất bại nhưng ông không dám
nhìn thẳng vào sự thật mà lại tìm nguồn an ủi từ một thế lực siêu hình, huyền bí nào đó. Thất
vọng trong công việc thi cử ông chuyển sang hy vọng một ảo tưởng hoang đường: đào vàng
chôn dưới nhà, do người xưa kể lại. Không đào được vàng, chỉ toàn sọ người, khiến cho Trần
Sĩ Thành "lạnh run lên, bàn tay cũng buông ra... Ngọn đèn vẫn sáng, cái xương quai hàm vẫn
cười chế nhạo, dễ sợ quá chừng. Ông ta không dám nhìn vào nữa". Và rồi như kẻ mộng du,
ông ta lên núi thực hiện khát vọng "đổi đời" của mình bởi tiếng nói thì thầm bí ẩn "chỗ này
không có thì lên núi"... Rốt cuộc, Trần Sĩ Thành chỉ là "một cái xác nổi lềnh bềnh giữa hồ Vạn
Lưu, cách cửa Tây mười lăm dặm...”.Sự kết thúc cuộc đời của nhân vật thực quá bi thảm. Cái
chết của Trần Sĩ Thành không khác là bao so với cái chết của Nguy Liên Thù trong truyện ngắn
"Con người cô độc" song về mặt sáng tạo nghệ thuật, hai nhân vật này được khắc hoa khác xa
nhau. Hành động bất bình thường của nhân vật Trần Sĩ Thành bắt nguồn từ một tâm lý tuyệt
82
vọng dẫn đến ảo tưởng, còn nhân vật Ngụy Liên Thù là một kiểu bất bình thường biểu hiện qua
tính cách cô độc, bất đắc chí. Ngụy Liên Thù khác với Trần Sĩ Thành và Khổng Ất Kỷ, là nhân
vật trí thức thời kỳ cách mạng Tân Hợi, ở nhân vật này, người đọc bắt gặp một mâu thuẫn lớn.
Nguy Liên Thù suốt đời sống khốn khổ trong cuộc sống nghèo túng, nhìn thấy sự đen tối của
xã hội, chỉ còn gửi gắm hy vọng vô hạn vào tình yêu nồng nàn, vào mầm non của tương lai: đó
là trẻ nhỏ, nhưng bản thân anh thì cô quạnh. Do những xô đẩy của hoàn cảnh, ngày càng chìm
đắm vào sự tự cô lập, cuối cùng bán rẻ cái chí thanh cao của mình để chết dần chết mòn trong
cuộc đời bàng quan, phóng túng. Sự bế tắc trong cuộc mưu sinh thực tại đã dẫn nhân vật đến
chỗ bất đắc chí, tâm hồn u ám, nặng nề, tính cách trở nên dị biệt, khác thường. Ngay cả khi
chết những dâu vết ấy vẫn in hằn trên thân xác của nhân vật.
Vậy đó, hầu hết các nhân vật bất thường này đều có một kết cục bi thảm với cái chết, mỗi
người một cách nhưng đều đau đớn như nhau. vì nỗi bất hạnh về hoàn cảnh như nhau. Đối với
sốphận và cuộc đời đối với bất hạnh của mỗi con người Lỗ Tấn thấy được sự tiềm ẩn bên trong
mà phơi bày ra để mọi người thấu hiểu và cảm thông. Miêu tả nỗi bất hạnh phông phải Lỗ Tấn
mỉa mai hay khinh rẻ mà chính vì trái tim nhân hậu của ông. Tácgiả yêu thương và đồng cảm
với nỗi khổ của con người bất hạnh, đồng thời hơn ai hết ông "căm giận "họ là những con
người không biết đấu tranh. Dưới ngòi bút của ông những con người bất hạnh hiện lên với
nhiều bộ dạng vànhân tính khác nhau.
83
84
CHƯƠNG 3: LÝ GIẢI NGUYÊN NHÂN
Như người viết đã đề cập ở phần mở đầu, đặc điểm trong quan niệm về văn học của Lỗ
Tấn là ở chỗ ông cho rằng văn học trước tiên phải là một tác phẩm nghệ thuật, rồi trên cơ sở
đó, ông đặc biệt nhấn mạnh vai 'trò quan trọng của văn học trong việc thay đổi tính quốc dân,
như chính lời Lỗ Tấn nói "văn học vị nhân sinh" và "thay đổi nhân sinh". Đó cũng chính là tư
tưởng văn học và tinh thần nhân đạo trong các tác phẩm Lỗ Tấn mà cụ thể ở đây là truyện ngắn
- một thể loại quan trọng trong sự nghiệp văn học của ông. Miêu tả nhân vật bất hạnh trong tác
phẩm nhiều như vậy là có nguyên nhân sâu xa của nó.
3.1.TƯ TƯỞNG NHÂN SINH CỦA TÁC GIẢ
3.1.1.Tinh thần cách mạng.
Tư tưởng nhân sinh còn biểu hiện qua tư tưởng cách mạng trong các truyện ngắn của ông.
Thông thường người ta cho rằng, tập truyện "Gào thét", "Bàng hoàng" của Lỗ Tấn phản ánh
những nhu cầu cách mạng thời kỳ Ngũ tứ. Nếu phân chia thành chủ đề, thì hai tập truyện này
thể hiện ba nội dung chính sau đây: Thứ nhất đó là sự phê phán và vạch trần một cách triệt để
đối với những lễ giáo của chế độ phong kiến. Điều này thể hiện qua hai tác phẩm tiêu biểu là "
Nhật ký người điên" và "Trường minh đăng". Thứ hai, đó là những bài học tổng kết của cuộc
cách mạng Tân hợi và những vấn đề liên quan đến cải tạo quốc đan tính. Chủ đề này thể hiện
qua các tác phẩm như "Thuốc", "Phong ba", "A.Q chính truyện". Thứ ba, đó là sự thảo luận về
vận mệnh và đường lối của thành phần tri thức trong thời kỳ cải cách. Chủ đề này thể hiện qua
các tác phẩm như "Khổng Ất Kỷ", "Trong quán rượu", "Xà phòng"... Chúng ta nhận thấy, Lỗ
Tấn không liên hệ trực tiếp với cuộc vận động Ngũ tứ (1919), nhưng so với các tác phẩm cùng
thời, thì Lỗ Tấn có hàm ý sâu sắc và khác biệt. Không như những người "phát động" trước và
sau phong tào Ngũ Tứ, Lỗ Tấn khổng lạc quan đối với hiện thực cũng như tương lai. Ông
không hấp tấp mà thậm chí còn có chút trầm lặng, lạnh lùng và tỉnh táo, hơn thế nữa còn có
những suy nghĩ và quan sát một cách thấu đáo. Chính điều này đã hình thành nên tâm trạng vừa
lo lắng, vừa phẫn nộ trong các tác phẩm của ông. Lỗ Tấn là một chiến sĩ tinh thần, nhưng nếu
đọc các tác phẩm của ông không đơn giản chỉ là "chỉ đâu đánh đó", cũng không thể hiện một
cách chính diện cuộc vận động văn học mới hay giải thích hoặc phân tích cách mạng. Cái mà
85
ông quan tâm và cần biểu đạt chính là sự xáo trộn trong tinh thần và lối đi của con người trong
thời kỳ chuyển đổi văn hóa và biến động cách mạng. Cái "ưu" và "phẫn" của ông đều có liên
quan đến những căn bệnh của quốc dân tính và những độc hại của chế độ cũng như lễ giáo
phong kiến. Đồng thời cũng liên quan đến những suy nghĩ của ông về vận mệnh dân tộc. Có
người cho rằng, tác phẩm của Lỗ Tấn thường chứa nhiều hàm ý, do vậy không mấy thích hợp
với giới trẻ mà thích hợp với tầng lớp trung niên ít nhiều có kinh nghiệm cuộc sống. Điều này
khác hẳn với không khí lãnh đạm hoặc tranh luận gay gắt trên văn đàn thời kỳ Ngũ tứ.
Tinh thần cách mạng trong tác phẩm chính là sự thể hiện của tính độc lập trong tư tưởng
Lỗ Tấn. Ông là chủ nhân của tư tưởng và tinh thần của chính mình, gạt bỏ triệt để tính nô lệ
truyền thống, và điều này rất khó thực hiện được ở những người dân các quốc gia thuộc địa,
bán thuộc địa, nên càng trở nên đáng quy. Ông đã kiến lập nên nguyên tắc nhân sinh và quan
niệm giá trị cho xã hội Trung Quốc, thông qua tác phẩm đã có nhiều cống hiến cho sự nghiệp
cải cách chế độ xã hội. Đó là những giá trị cách mạng không thể phủ nhận được của ông khi
nhà văn có ý thức và sớm giác ngộ theo con đường cứu nước và vận động quần chúng.
3.1.2.Mổ xẻ lạnh làng bệnh tật xã hội
Ở đây, chúng ta thấy trong tư tưởng nhân sinh của Lỗ Tấn có nhiều cách thể hiện đặc
trưng khác với các nhà văn khác và chính điều này cũng làm nên giá tri đặc sắc trong văn
chương của Lỗ Tấn. Tư tưởng nhân sinh của Lỗ Tấn rất hiếm khi được bộc lộ trực tiếp mà
thường thể hiện qua hai phương diện. Một là công khai phê phán và nhất là công khai và phê
phán những thói hư tật xấu về mặt tâm lý của người Trung Quốc. Hai là dùng văn nghệ để kêu
gọi mọi người tạo dựng sự khoe mạnh về tâm hồn và cái nhìn đúng đắn về chân, thiện, mỹ. Từ
đó xây dựng một thế hệ dân Trung Quốc mới, có thế hệ mới này đất nước Trung Quốc mới có
thể thoát khỏi cảnh áp bức và xâm lược, dân tộc mới có hy vọng sánh vai cùng các quốc gia
trên thế giới. Nếu không có sự nhận thức và cảnh tỉnh này thì người Trung Quốc vẫn mãi chỉ là
người bất hạnh.
Tư tưởng nhân sinh của Lỗ Tấn cũng là phần tỏa sáng nhất trong tư tưởng của ông. Ông
tự mổ xẻ chính mình, mổ xẻ xã hội Trung Quốc. Ông tin rằng trong xã hội hiện đại, mỗi một
người đều phải tự lựa chọn và chịu trách nhiệm với cuộc đời mình, đó là điều mà người khác
không thể làm thay. Và khi quyết định cuộc đời của mình thì không nên lấy sự đau khổ của 86
người khác làm tiền đề. Đây là hàm ý được ông thể hiện sâu sắc kín đáo và không kém phần
tha thiết nóng bỏng trong các truyện ngắn của mình.Truyện ngắn của ông là tư tưởng tình cảm
và nhận thức đúng đắn của ông về xã hội và con người.
Tư tưởng nhân sinh thể hiện ở chỗ ông phản ánh sâu sắc tư tưởng phong kiến truyền
thống Trung Quốc đã trải qua quá trình lịch sử lâu dài, nó cùng với những quyền lực chính trị
của chủ nghĩa chuyên chế phong kiến hợp thành một thể chế tàn bạo khiến cho xã hội Trung
Quốc lúc bấy giờ đầy rẫy sự dã man, u ám, nhu nhược, ngu muội và lạc hậu. Do số phận của
bản thân mình đã phụ thuộc vào những thế lực đen tối và không nghĩ đến phản kháng, nên dù là
thành phần trí thức có học cho đến những người dân bần cùng sống dưới đáy xã hội đều diễn
những vai như nhau trong một xã hội như thế. Lỗ Tấn cảm thây rất đau đớn trước điều này.
Ong từng nói: " Từ trước đến nay, Trung Quốc chưa hề đòi tư cách được làm người, cao lắm
cũng chỉ là làm nô lệ mà thôi". Nhận định này rất đúng không sai, một khi con người đã đánh
mất sự độc lập và tự do của bản thân thì còn lại chỉ là thân phận nô lệ. Đặc biệt là phải chịu
dựng dưới ba tầng áp bức bóc lột của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa phong kiến và chủ nghĩa tư
bản, người dân Trung Quốc rất dễ sinh ra tư tưởng "sợ mạnh hiếp yếu", tự ti, thói tham lam và
tâm lý sống bám víu cho qua. Lỗ Tấn xây dựng nhân vật A.Q chính là một điển hình như thế
con người Trung Quốc thời bấy giờ. Cái gọi là "phép thắng lợi tinh thần" của A.Q có thể nói là
một ví dụ sống động về cái xấu xa của tính quốc dân. Đáng sợ hơn là phép thắng lợi tinh thần
đã "đào tạo" cho người dân Trung Quốc trở thành nô lệ, đồng thời còn khiến họ tìm được "cái
đẹp" trong đó, khiến cho họ vui thích, mê mẩn, tự an ủi và ngủ quên trong những suy nghĩ như
thế và cuối cùng là mãi mãi trở thành nô lệ. Mặt khác, đáng chú ý là khi người dân đang trong
trạng thái tinh thần mê muội, nhu nhược thì lại ẩn hiện một kiểu sống ích kỷ, lạnh lùng, kết quả
là tính mạng con người hoàn toàn bị coi thường, bị khinh rẻ, quần chúng trở thành khán giả, chỉ
biết vỗ tay tán thưởng ừên nỗi đau khổ của người khác- Nó không chỉ khiến con người ta thích
thú thưởng thức những bi kịchvà hài kịch của cuộc đời mà còn nghiễm nhiên thích thú và cổ vũ
cho cái ác và sự lạnh lùng tàn nhẫn. Đây quả là thứ phản ứng tâm lý biến thái và sai lạccủa con
người trong xã hội đầy ngang trái và bất hạnh.
Sức hấp dẫn rất lớn của các tập truyện "Gào thét", "Bàng hoàng" chính ở cái bình thường
của nó, thông qua nó để phát hiện và ngộ ra "tất cả những nỗi đau khổ bị dồn nén". Đây chính
87
là một cái lạ của nghệ thuật. Mọi người vốn dĩ quá đỗi quen thuộc với những người, những việc
bình thường, thế nhưng qua sự miêu tả của Lỗ Tấn, mọi việc trồ nên khác đi, trở nên trầm trọng
hơn và cần phải suy nghĩ lại. Ông mượn con mắt của "Người điên" phát hiện ra tính ngạo mạn
trong lịch sử của người Trung Quốc từ mấy ngàn năm nay, chỗ nào cũng đầy những chữ "ăn
thịt người". Lỗ Tấn là con người như thế, từ những đề tài hết sức bình thường nhưng lại tìm ra
được những ý nghĩa thật sâu sắc và phát hiện ra nhiều điều khiến bao nhiêu người ngạc nhiên.
Đọc tác phẩm của Lỗ Tấn chúng ta có thể sẽ có cảm giác mệt mỏi, chính vì những tư tưởng sâu
lắng của ông lúc nào cũng vây quanh người đọc, khiến cho người đọc không có được cảm giác
thoải mái như đọc những tác phẩm truyền thống khác. Đọc tác phẩm của ông chúng ta cần phải
suy nghĩ để tìm ra những cái mới mẻ, rồi từ đó mà suy nghĩ về cuộc sống. Thêm nữa, những
phát hiện của Lỗ Tấn luôn chân thật và đầy ắp bi thương cùng sự đồng cảm. Trong tác phẩm
của ông lúc nào cũng xuất hiện những mệnh đề mang tính triết lý và tính siêu việt, vấn đề này
cũng khiến người đọc thường không có cảm giác nhẹ nhàng khi đọc tác phẩm của ông và
"sống" với từng trang viết của nhà văn. Đó chính là thiên tài của Lỗ Tấn.
Chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc không chỉ biểu hiện ở lòng thương yêu, nâng niu và đề cao
những giá trị của con người. Đó là một kiểu chủ nghĩa nhân đạo phổ biến trong văn chương của
các nhà văn nhân đạo chủ nghĩa. Nhưng trong các tập truyện ngắn của mình, ông đã thể hiện
chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc lên một bước đó là gắn nó với tinh thần phê phán quốc dân một
cách sâu sắc. Không phải ai cũng hiểu được những hàm ý của Lỗ Tấn khi ông phê phán điều
này và phê phán trong hoàn cảnh như thế nào, do vậy khi tiếp xúc với những phê phán của Lỗ
Tấn họ thường không mấy hứng thú, thậm chí còn lo ngại rằng ông sẽ bôi xấu người Trung
Quốc, làm tổn thương đến lòng tự tôn và lòng tự ti dân tộc. Có người còn cho rằng, "Lỗ Tấn
phê phán tính quốc dân là bắt nguồn từ quan điểm phương Tây", dùng con mắt của người
phương Tây để nhìn tinh thân bệnh hoạn của dân tộc Trung Hoa. Như vậy, khách quan mà nói
là ông đã hợp lý hoa việc phương Tây chinh phục phương Đông. Quả thật, Lỗ Tấn đã tiêu hao
rết nhiều sức lực để phê phán tính quốc dân, thực chất đây là một công việc cần thiết để có thể
chuyển đổi nền văn hóa. Chúng ta bắt gặp trong truyện ngắn của ông đầy rẫy những thói quen
không tốt của người Trung Quốc. Từ tính nô lệ, quan niệm về sĩ diện, thái độ khách quan, đạo
mạo đến sự mê muội, tính ích kỷ hẹp hòi, bảo thủ v.v...đều được ngòi bút của Lỗ Tấn vạch trần
88
triệt để. Lỗ Tấn thường nói rằng ông "không nể nang gì, cũng không ngại bất cứ hình thức hoàn
cảnh nào khi phê phán". Đối với người Trung Quốc, sĩ diện và trung dung là một trạng thái tâm
lý xã hội rất phổ biến, đặc biệt là những bài học giáo dục từ cổ xưa như "xấu khoe tốt che". Thế
nhưng, là một nhà văn sâu sắc và tỉnh táo, là một thành phần trí thức chủ yếu lấy tư tưởng phê
phán để thức tỉnh xã hội, tính phê phán quốc dân của Lỗ Tấn đối với công cuộc cải tạo và cách
tân dân tộc quả thực là một liều thuốc đắng giã tật. Do vậy, điều quan trọng ở đây là phải hiểu
được cái tâm của Lỗ Tấn. Nếu thừa nhận rằng việc phê phán của Lỗ Tấn xuất phát từ mục đích
của chủ nghĩa Khai sáng lại chính là một điều kiện tất yếu để dân tộc Trung Hoa tiến lên con
đường hiện đại hóa. Vậy thì hà tất gì phải lo lắng về việc phê phán tính quốc dân sẽ làm cho
dân tộc mất đi lòng tự tôn. Ngược lại, sự phê phán này là một động lực và lạ tiền đề quý báu để
dân tộc Trung Hoa tự thức tỉnh và có sự thay đổi về văn hóa về cách nhìn và suy nghĩ về con
người về cuộc sống hôm qua và hôm nay.
Ngòi bút của Lỗ Tấn thực sự sắc lạnh nhưng đó lại chính là nơi ẩn chứa nhiều tình cảm và
tấm lòng vì dân tộc của ông nhất. Ông phê phán tính quốc dân thường mang tính chất của việc
nghiên cứu tâm lý xã hội, đặc biệt ông luôn để tâm đến những hiện tượng cuộc sống rất phổ
biến và đời thường. Các vấn đề như thế thái nhân tình, lòng người mê muội được ông viết
nhiều nhất. Người nhận ra rằng, tính quốc dân được thê hiện một cách cụ thể, con người trở nên
ít tự tôn, ít có sự đồng cảm với người khác, nhưng lại nhiều sự lạnh nhạt và hiếu kỳ. Đây chính
là điều khiến Lỗ Tấn cảm thấy đau khổ nhất. Người nhìn thấy những con người mê muội đứng
trước sự đau khổ của kẻ khác để vui đùa, thưởng thức trước sự khổ đau của người khác mà họ
như đang xem những vở kịch. Những dân tộc chỉ biết diễn kịch và xem kịch thật đáng bi quan.
Đây chính là vấn đề mà Lỗ Tấn luôn luôn đề cập tới trong tác phẩm của mình để phê phán quốc
dân tính. Cùng với việc vạch trần sự lạc hậu của tính quốc dân, Lỗ Tấn cũng luôn nghĩ đến vận
mệnh của dân tộc. Ông cho rằng sự bại hoại của dân tộc đầu tiên là từ sự bại hoại của tinh thần
và cái gốc của sự bại hoại đó là do tổ tiên mây trăm năm trước để lại. Do vậy, cần phải đào tận
gốc rễ, giải phóng tinh thần con người mới là ý nghĩa cốt yếu của công cuộc phục hưng và giải
phóng dân tộc. Đối với sự đồi bại, mê muội của Trung Quốc, Lỗ Tấn không hề tranh luận.
Nhưng để vạch trần căn bệnh này nhiều khi không thể khổng dụng đến những liều thuốc mạnh,
và mục đích không phải là một sự bôi xấu một cách thiếu trách nhiệm, cũng không phải là vứt
89
đi lòng tự tôn, tự tin ... mà là một sự thức tỉnh và trị liệu triệt để của một vị bác sĩ tài ba có tài
năng nhìn xa trông rộng và y đức hơn người. Đây cũng là nhu cầu cho chủ trương "lập nhân"
của Lỗ Tấn, cũng đồng thời là nhu cầu để đẩy mạnh sự thay đổi văn hóa thay đổi con người
theo sự hoàn thiện chân,thiện mỹ như M.Gorky quan niệm "con người viết hoa".
Đối với sự lạc hậu của tính quốc dân Lỗ Tấn phần lớn đứng ở góc độ phê phán chứ không
dung hòa, thậm chí còn nói những lời khiến người khác ngạc nhiên và phẫn nộ. Do vậy, nhiều
người khó cộ thể chấp nhận được. Tuy nhiên, nếu không như thế thì sẽ không thể nào thức tỉnh
được người Trung Quốc sau bao năm mê muội ngủ say. Văn của Lỗ Tấn vì vậy mà nhọn sắc,
khiến độc gia khi đọc tác phẩm của ông thường cảm thấy bị khiêu khích. Ngày nay, những
người trẻ tuổi sống trong cảnh hòa bình, có lẽ không thể hiểu được những những đặc điểm của
thời đại mà Lỗ Tấn đã sống. Vì thế, khi đọc tác phẩm của Lỗ Tấn, nhất là những bài tạp văn mà
ông viết để luận chiến với người khác, thường dễ hình thành nên một ấn tượng: Lỗ Tấn thích
nặng lời với người khác. Đây cũng là "lý do" khiến không ít người phủ định Lỗ Tấn, coi Lỗ
Tấn là người "miệt thị "nhân dân Trung Quốc.
Tính phê phán quốc dân của ông thể hiện trên nhiều phương diện, trong đó tiêu biểu nhất
là phê phán văn hóa đùa cợt và trạng thái nô dịch. Oái oăm ở đây, sự đau xót, đùa cợt trên nỗi
đau của đồng loại. Lỗ Tấn có một tác phẩm rất ngắn, đó là "Chúc phúc". Tác phẩm này được
chọn vào chương trình giảng dạy bậc trung học phổ thông ở Việt Nam. Đây không phải là một
tác phẩm phản ánh đấu tranh giai cấp mà là một tác phẩm dành để giải thích việc luôn làm tổn
hại người khác của người Trung Quốc. Tác phẩm này có một chi tiết nhỏ, đó là sau khi con trai
của thím Tường Lâm bị chó sói ăn thịt, thím đã kể lại câu chuyện này cho bà con trong làng
nghe và người trong làng kéo nhau đến nghe thím kể chuyện, ngay cả những người vì lý do nào
đó không nghe được chuyện này cũng từ nơi xa kéo đến nghe. Mọi người nghe thím Tường
Lâm kể chuyện, thực ra không phải để bày tỏ sự cảm thông đối với thím mà là để nghe một vở
kịch hay một buổi biểu diễn tâm trạng. Họ đến là để tìm niềm vui, tìm sự cảm kích và chỉ để
thoa mãn tính tò mò. Đương nhiên là trong quá trình nghe kể, họ cũng sẽ rơi nước mắt. Nhưng
khi những giọt nước mắt rơi xuống, họ mãn nguyện quay trở về nhà mình và hứng phấn nói về
câu chuyện đã nghe. Chính vì thế, thím Tường Lâm trở thành cái nguồn để mọi người đến tìm
cho mình niềm vui. Mọi người thông qua những câu chuyện bi thảm để tìm cho mình khoái
90
cảm và ngày càng trở nên mê muội trước thân phận bị vùi dập và khổ đau của đồng loại. Điều
nay thể hiện sự tàn khốc của xã hội Trung Quốc và văn hóa phong kiến Trung Quốc. Mặt thứ
hai đó là ông đã vạch ra trạng thái nô lệ của người dân Trung Quốc. Là một chiến sĩ tinh thần,
cuộc đời của Lỗ Tấn là cuộc đời của người khai sáng và dẫn đường. Ông đặt mọi vấn đề trên
hai chữ "Lập Nhân". Ông nhấn mạnh "lập quốc tất nhiên lập nhân" (muốn xây dựng quốc gia
thì trước hết phải xây dựng con người), hay như cách nói của ngày nay là "nhân quyền cao hơn
chủ quyền". Chủ quyền mà không có nhân quyền thì chỉ là một loại chủ quyền hoang tưởng, là
chủ quyền của một số ít kẻ thống trị mà thôi. Một quốc gia thực sự hùng mạnh, mỗi một người
dân đều là một cá nhân, cá thể có năng lực suy nghĩ độc lập, cổ trách nhiệm công dân của xã
hội hiện đại văn minh và dân chủ. Do vậy, chỉ có thể xây dựng con người trước, mới có thể tiến
tới xây dựng quốc gia. Lỗ Tấn cho rằng người Trung Quốc từ xưa đến nay không nhận thức
được tư cách làm người, người Trung Quốc luôn quanh quẩn trong thời đại muốn làm nô lệ
hoặc thời đại đã làm nô lệ. Hai kiểu đời sống này luôn không ngừng thay thế cho nhau. Đồng
thời, người Trung Quốc không phải bị người nước ngoài xâm lược mà là bị nô dịch bởi chính
kẻ áp bức trong nước, không phải bị tranh giành cướp bóc mà là bị quan binh sát phạt. Trách
nhiệm của Lỗ Tấn đến từ lý tính và lương tri của ông, ông muốn vạch trần bản chất của chế độ
đó và đã dùng những con chữ đầy máu và nứơc mắt để nói lên rằng: Dân tộc Trung Hoa muốn
trở thành một dân tộc tôn nghiêm, người Trung Quốc muốn trở thành những con người tôn
nghiêm thì phải tiến hành phê phán nền văn hóa dân tộc một cách toàn diện và sâu sắc, như vậy
mới có thể tìm được tính cách quốc dân và văn hóa tinh thần. Cách Lỗ Tấn nửa thế kỷ nhà văn
Bá Dương cho ra đời "Người Trung Quốc xấu xí" cũng là kế thừa tinh thần phê phán "Quốc
dân tính" của Lỗ Tấn.
3.1.3.Am hiểu sâu sắc số phận bất hạnh.
Tư tưởng nhân sinh thể hiện ở chỗ ông là nhà văn Trung Quốc thiết tha nhất và hiểu sâu
sắc nhất cuộc sống của lớp người dưới đáy xã hội. Ông thường đề cập đến trạng thái bi kịch
trong tâm hồn những người cùng khổ mà không dừng lại đơn thuần ở nỗi đau thể xác. Hình ảnh
chị Tư Thiền và thím Tường Lâm đều là chân dung những người phụ nữ nông thôn bất hạnh
nhất trong văn học hiện đại Trung Quốc: chồng chết, ở vậy nuôi con, con chết, họ cô đơn ngay
giữa đồng loại của mình mà không tìm được sự cảm thông. "Hạnh tai lạc họa", cái chết của con
91
trai chị Tư Thiền còn là một cơ hội bị kiếm chác lợi dụng. Qua bệnh tình và sự chuẩn bị tang lễ
cho bé Bảo, cộng đồng không biểu lộ một sự quan tâm nạo. Người ta liên tưởng đến chị chủ
yếu ở cái mà họ trục lợi được từ chị. Là nạn nhân thụ động của thế giới vô cảm, chị Tư Thiền
được xây dựng nhằm mục đích bộc lộ về một thế giới xung quanh hơn là bản thân mình. Thím
Tường Lâm trong "Lễ cầu phúc" gánh chịu nỗi nhọc nhằn của mình với sự thụ động vô vọng
tương tự. Cuộc đời thím Tường Lâm là một chuỗi dài những đau khổ không dứt. Hai lần kết
hôn (lần thứ hai thì ngay cả bản thân thím và đạo đức truyền thống cũng chống đối) và hai lần ở
góa. Người ta có thể kêu rên vì nỗi đau thể xác như thím: đi ở, bị đánh, bị bắt cóc, đi xin...thế
nhưng Lỗ Tấn muốn nhân mạnh đến gánh nặng tinh thần do xã hội áp đặt mà thím vác trên vai
lê suốt cả đời mình nhưng không nhận ra để quang nó xuống: "Chế độ này đã ép họ trở thành
nô lệ, dưới mọi hình thức, rồi còn đổ trên đầu họ bao nhiêu là tội lỗi." Thím như một miếng
giấy quỳ mà Lỗ Tấn dùng để kiểm tra tất cả cảm giác của những người xung quanh và nó biến
thành axít, thứ axít đắng của một xã hội không có tình người mà chúng ta không muốn nhìn
thấy. Qua tư tưởng của Lỗ Tấn đối với phụ nữ chúng ta càng thấm sâu câu nói bất hủ của Các
Mác "Giải phóng phụ nữ là thước đo giải phóng giai cấp "
Với nhân vật những người trì thức bất hạnh, ông cũng đã chỉ ra được vai trò của họ trên
vũ đài lịch sử trong sự biến động xã hội Me bấy giờ. Ong là người đã nhìn thấy ở người tri thức
của mình nhiều đặc điểm Trung Hoa tốt đẹp: ôm ấp nhiều mộng đẹp, có lý tưởng, cầu tiến bên
cạnh những tính cách đáng phê phán như khi gặp thất bại thì dễ bi quan chán nản, dao động,
sống cuộc sống cô độc, có lúc phản lại lý tưởng của mình rồi chết trong cô độc một cách tội
nghiệp và đáng thương, ở đây giá trị nhân văn của Lỗ Tấn càng bộc lộ rõ nét.
Tư tưởng nhạn sinh đã thể hiện giá trị thông qua những tình cảm mà người đọc dành cho
tác phẩm và chính bản thân Lỗ Tấn khi quần chúng nhân dân Trung Quốc phủ lên linh cữu ông
lá cờ thêu ba chữ "Hồn dân tộc". Ở bất cứ nơi nào trên thế giới còn đói nghèo, còn có áp bức
còn đấu tranh, ở mọi nơi nào còn có sự dối lừa và ru ngủ cần phải được cảnh báo, ở mọi nơi
nào số phận của con người còn bị rẻ rúng, chà đạp cần phải thức tỉnh, kêu gọi đứng dậy. Ông
đã từ đời sống xã hội mà đúc kết ra được các hoàn cảnh điển hình để từ nhân vật, hoàn cảnh
điển hình ấy nói lên sự cảnh tỉnh, sự thúc đẩy cải tạo xã hội bằng văn học.
92
"Con dao văn học" trong tay một giai phẫu gia kỳ tài Lỗ Tấn trở nên rất sắc bén khi ông
mổ xẻ "căn bệnh" mãn tính lâu đời của người Trung Quốc mang nặng "Quốc dân tính".
3.2.NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ
Được đánh giá là bậc thầy truyện ngắn thế giới, Lỗ Tấn đã thai nghén ra những tác phẩm
không chỉ chưa đựng chiều sâu tư tưởng nhân sinh mà còn tỏ rõ tài năng nghệ thuật viết truyện
vô cùng xuất sắc của mình.. Với ông, truyện ngắn mặc dù chưa phải là "toa đại lầu chứa cả tinh
thần thời đại" nhưng cũng có thể qua một con mắt mà truyền được tinh thần ây. Ở truyện ngắn
của ông, ta có thể tìm được nhiều tinh hoa nghệ thuật độc đáo của thế giới và những chọn lọc
cá nhân đầy cá tính sáng tạo, không ít trong số đó sau này đã trở thành những bài học nghệ
thuật cho những nhà văn trẻ thế hệ sau
Lỗ Tấn là người lữ khách bền bỉ đi trên con đường tim kiếm những chân trời thể hiện
nghệ thuật mới và vơi mỗi tác phàm của ông, bạn đọc đều có thể tìm thấy những điều thú vị
đặc sắc rất riêng của từng tác phẩm bên cạnh nét chung Lỗ Tấn độc đáo. Tuy nhiên, chúng ta
vẫn có thể khái quát những những đặc trứng nghệ thuật miêu tả của Lỗ Tấn dưới những
phương pháp lớn sau đây.
Bút pháp tiêu biểu đầu tiên là bút pháp điển hình hóa. Xưa nay, văn chương vẫn có hai
cách xây dựng nhân vật mẫu, một là chuyên dùng nguyên dạng người có thật, thứ nưa là góp
nhặt nhiều hạng người để tạo thành nhân vật, Lỗ Tấn chọn cách thứ hai. Nhân vật của ông là sự
tổng hợp đạc điểm, tính cách của nhiều người. Một ai đó đọc tác phẩm của ông có thể nhận
thấy minh trong ấy nhưng rốt cuộc không không phải vậy. Có thể ví tác phẩm của ông như một
viên kim cương đa diện mà khi một người soi mình vào, dù đứng ở bất cứ góc độ nào cũng có
thể thấy hình ảnh của mình và người khác trong đó. Đứng ở góc độ này, thấy mình là chính
diện, nhưng ở góc độ khác lại thây những góc khuất khác của mình, tuy chưa từng được thấy
trước đó, nhưng vẫn là sự thật. Mặc dù là sự tổng hợp đa nét, song Lỗ Tấn lại rất thành công
với những nhân vật đo ông tạo ra vì nêu bật được hình tượng điển hình và gieo ấn tượng sâu
sắc. Bằng hoàn cảnh điển hình, ông chỉ tông qua vài nét miêu tả chọn lọc,vài lời nói đọc đáo
mà phản ánh được cả thế giới tinh thần của nhân vật.
93
Cũng để phản ánh đặc trưng tính cách và bộ mặt tinh thần của nhân vật, Lỗ Tấn chú ý
khai thác những câu nói ngắn gọn, có thể gợi lên cả một trời suy nghĩ. Câu nói của miệng c3
lên tự bao giờ mà thôió đánh bố nó "...có sức nặng của một điển hình rất đọng. Hay chú ý nhấn
mạnh những cử chỉ, hành động của nhân vật. A.Q sau khi bị lừa và bị đánh trong lúc đánh bạc,
thì hắn lại tự đánh vào mặt mình cho hả dạ "tựa hồ như người đánh là mình mà người bị đánh
lại là một "mình "nào khác Thông qua những chi tiết điển hình như thế người đọc có thể thấy
ngay được cái linh hồn của A.Q. có người cho rằng Lỗ Tấn miêu tả nhân vật chỉ là "sự khái
quát trừu tượng đối với nhân vật điển hình"; "đối với điển hình A.Q, chúng ta chỉ biết là một
tay vừa gầy vừa lười, đuôi sam vàng, trên đầu có mấy cái sẹo, không biết nôi lên tự bao giờ mà
thôi. ".thật vậy, ngoại hình nhân vật của Lỗ Tấn chỉ được miêu tả qua vài nét sơ lược,nhưng lai
giàu tính đặc trưng. Ông đã từng nói: "Cũng như những bức tranh truyền thần vẽ ý, không hề
vẽ kỹ râu mày, chăng qua chi là vài nét chấm phá thôi, thế nhưng thần tình sẽ hiển hiện", (vì
sao tôi viết tiểu thuyết, tập văn,sđd).
Đối với điển hình A.Q, Lỗ Tấn chỉ tập trung miêu tả chiếc đuôi sam và đặc biệt là cái seo
của y, thế nhưng ngoại hình của A.Q vô cùng rõ nét. Lối miêu tả này, hoàn toàn cần thiết, nó đã
trở thành một bộ phận hưu cơ trong sự khắc họa tính cách điển hình của A.Q; là sự tượng trưng
cho nhược điểm của y. Cho nên mỗi khi nhắc đến cái đuôi sam vàng và cái sẹo, tự nhiên người
ta liên tưởng đến đặc điểm và hành động buồn cười của A.Q; ngược lại, mỗi khi nghĩ đến tính
cách của A.Q, người ta lại liên tưởng tới cái sẹo mà A.Q tối kỵ và chiếc đuôi sạm vàng thường
bị người ta túm lấy... Đây chính là sức nặng của lối miêu tả chấm phá trong nghệ thuật xây
dựng nhân vật điể hình của Lỗ Tấn.
Tóm lại: nhân vật trong truyện Lỗ Tấn không những có tính khái quát cao, có ý nghĩa phổ
biến rộng rãi mà đồng thổi cũng là nhân vật sống động, cụ thể, cá biết; chính sự thống nhất cao
độ giưa hai mặt này làm cho chúng trở thành những nhân vật điển hình bất hủ...
Lỗ Tấn viết văn để chiến đấu, và phục vụ đác lực cho nội đung đó là bút pháp châm biếm
đả kích. Không dao to búa lớn, cũng không dữ dội mạnh bạo mà nhẹ nhàng và điềm tĩnh, pha
lẫn một chút hài hước, Lỗ Tấn không chỉ châm biếm những nhân vật phản điện, những con
người mang ổ bênh tật đang đe dọa lây lan cho toàn xã hội, mà vơi những con người đáng
thương, những bần cùng cố nông không được làm người thì sự lạnh lùng nơi ngòi bút cũng tỏa
94
ra chất châm biếm rết nhẹ nhàng. Những con người này tuy nằm trong phạm vi châm biếm của
ông nhưng đôi khi lại nằm ngoài mục đích châm biếm, bởi điều ông quan tâm nhất là qua đó
mà cải tạo "tinh thần quốc dân". Lỗ Tấn đưa hát dao vào những căn bệnh tinh thần của cuốc
dân, tấn công chính xác vào pháo đài phong kiến, phẫu thuật gọn gàng và nhanh chóng đến bít
ngờ. Ong châm biếm chua cay và sắc mạnh những thế lực đè đầu cưỡi cô nhân dân, những cái
lố bịch, giả trá của cuộc đời. bất cứ ở đâu, lúc nào ngòi bút đả kích của ông cũng luôn kịp thời
và chân thật, nó luôn thể hiện cao độ sức mạnh to lớn của văn châm biếm. Sức mạnh đó xuất
phát từ tấm lòng thiết tha yêu dân, Tổ Quốc và nhiệt thành với cách mạng.
Ngoài ra, truyện ngắn của Lỗ Tấn còn một số thủ pháp nghệ thuật khá độc đáo: ngôn ngữ
tiết kiệm, súc tích, sử dụng văn bạch thoại "Đưa những từ vựng có sinh mệnh từ cửa miệng của
người sống lên mặt giấy ". Cách kết cấu tác phẩm trùng điệp, lặp đi, lặp lại nhiều lần nhấn
mạnh sự việc được miêu tả. Câu nói "ừ, tôi thật khờ" mà chị Tường Lâm cứ thổn thức làm cho
ta đau xé với nỗi đau mất con của chị,sự cắn nhằn của bà cụ Chín Cân về việc "Mỗi đời một tệ"
cho ta thấy tình hình xã hội của thời bấy giờ. Cách đặt tên và đặt biệt hiệu cũng khá đặc biệt,
chỉ nghe cũng mũi đỏ, Năm da chàm thì biết ngay chắc hẳn đó không phải là người tốt, còn tên
gọi Hạ Du với hàm ý chơi chữ cho ta linh cảm sự ra đi vào mùa thu của con người này.
Điểm đặc sắc không thể không nói đến trong nghệ thuật viết truyện của Lỗ Tấn là ông
thường sử dùng những biểu tượng mà bản thân nó ít có giá trị trong thực tế, nếu không muốn
nói là đôi khi rẻ rúng vô giá ữị nhưng lại chứa đựng nhiều nội dung ý nghĩa sâu xa hơn cả ngàn
lời nói. Trong tác phẩm "Lễ cầu phúc", hình ảnh cái ngạch cửa xuất hiện đi xuất hiện lại trong
tác phẩm không dưới năm lần. Nó xuất hiện bao giờ cũng ở trong trạng thái rất ngẫu nhiên và
không hề có sự rào đón của người viết, nhưng khi để ý kỹ, ta sẽ thấy mỗi lần thím Tường Lâm
đi qua một cái ngạch cửa thì cuộc đời thím lại có một bước thay đổi, không phải tươi sáng hơn,
mà tối tăm hơn, mù mịt hơn và gần đến cái chết tinh thần hơn. Truyện "Thuốc" như tên truyện
đã trực tiếp gợi lên, là câu chuyện của những ngưòi tìm thuốc, bán thuốc và "ăn" thuốc. Con
bệnh là một đứa bé bị bệnh lao, người bán thuốc thật kỳ lạ lại là một tên đao phủ vì thuốc ở đây
chính là máu người. Và đó không phải là máu người bình thường, mà là máu của người cách
mạng đã bị xử chém. Câu chuyện lấy chủ đề "Thuốc" thật ghê rợn, nhưng nó phản ánh đúng
thực chất xã hội Trung Hoa cách đây nửa thế kỷ. Đó là thời gian mà sự ngu muội chế ngự trong
95
suy nghĩ của người dân, và máu của đồng loại được người ta thản nhiên tranh giành nhau, mua
bán và sử dụng làm thuốc chữa bệnh, đau xót hơn, đó là máu của người đã hy sinh bản thân
mình cho sự sống đích thực, cho tự do của những người dân này. Thuốc không còn là một hình
ảnh ẩn dụ bình thường, mà đã chứa đựng một tư tưởng lớn lao đối với toàn xã hội.
Lỗ Tấn là nhà văn hiện đại với những bút pháp táo bạo, mối mẻ chưa từng có trước đó
trong văn học trước đó nhưng ông cũng là người kế thừa sâu sắc và vận dụng tài tình những bút
pháp trong nghệ thuật viết văn truyền thống cũng như các loại hình nghệ thuật khác. Khi xây
dựng tính cách điển hình, Lỗ Tấn rất chú ý đến biện pháp miêu tả truyền thống vốn bắt nguồn
từ hội họa xưa của Trung Quốc "vẽ rồng điểm mắt". Ông nói: "...vẽ người, tốt nhất là vẽ con
mắt, nếu vẽ cả bộ tóe cho dù thật đến mấy cũng không ích gì", (vì sao tôi viết tiểu thuyết -Tập
văn,sđd). Lỗ Tấn tiếp thu, phát triển bút pháp truyền thống đó và đã áp dụng rất thành công vào
truyện ngắn. Trong lễ cầu phúc, qua bốn lần thay đổi trong sự miêu tả đôi mắt của thím Tường
Lâm, từ chỗ "con mắt lanh lẹ "rồi "không được lanh lợi như trước", đến chỗ "đôi con mắt lờ
đờ" và cuối cùng "chỉ còn đôi tròng" thôi, tác giả đã khơi gợi lên những biến đổi dữ dội trong
tâm hồn cũng như cả cuộc đời ngày càng bi thảm của thím.
Khi sáng tác, Lỗ Tấn thường nghiền ngẫm rất kĩ để có thể thông qua vài nét chọn lọc, vài
lời nói độc đáo để phản ánh cả thế giới tinh thần của nhân vật. Mấy cái định lệ và ngoại lệ về
việc thắp đèn ở nhà cụ Triệu làng Mùi trong A.Q chính truyện, đã nói lên đầy đủ bản chất keo
kiệt cũng như mánh khóe bóc lột của bọn địa chủ nông thôn, để có thể hiểu rõ được tại sao
người nông dân phải khốn khổ dưới các tầng áp bức trong xã hội phong kiến. Hình ảnh cụ
Triệu quấn đuôi sam lên đầu, mặc áo dài, ngồi đọc Tam Quốc chí thể hiện tâm trạng lưu luyến
trật tự xã hội của những kẻ thất thế sau cách mạng...
Trong Cố Hương, chỉ qua vài nét phát họa về ngoại hình tương phản trước và sau 20 năm
của Nhuận Thổ, tác giả đã gợi được những nỗi niềm đau khổ mà người nông dân phải chịu
đựng, đó là thực tế mất mùa, đông con, đói khát, sưu cao thuế nặng... đồng thời, Lỗ Tấn đã
phản ánh được thực tế bị phá sản hoàn toàn của người nông dân Trung Quốc lúc bấy giờ.
Truyện ngắn của ông tuy mang phong cách lạnh lùng và sắc sảo trong miêu tả vơi thái độ
gần như ẩn mình đối vơi việc bộc lộ suy nghĩ chủ quan của người viết những ta không thể phủ
định sự quan trọng của nhân vật "Tôi" trong tác phẩm. "Tôi"-người kể truyện luôn khách quan 96
xem xét, đánh giá sự việc nhưng cũng âm thầm chua xót và thương cảm trước số phận của con
người, "tôi" là người chứng kiến sự việc, giúp cho việc khắc họa tính cách của nhân vật hoàn
chỉnh, cũng có khi tôi là nhân vật trong tác phẩm, thẳng thắn bộc lộ thái độ của mình.
"Tôi" mang tư tưởng và tình cảm của tác giả. "Tôi"trong Lễ cầu phúc đã phải ngập ngừmg
khi trả lời câu hỏi có chăng linh hồn của chị Tường Lâm còn "tôi" trong "Một việc nhỏ" thì trực
tiếp bộc lộ sự tôn trọng với anh phu xe, đó là tấm lòng, là con người Lỗ Tấn.
Ở đây chỉ là một sự trình bày sơ lược về nghệ thuật truyện ngắn của Lỗ Tấn nhưng thông
qua đó cũng có thể kết luận "Lỗ Tấn là một kỳ tài về truyện ngắn". Chẳng những kế thừa được
những tinh hoa truyện ngắn của dân tộc và thế giới, ông còn nâng nó lên một bước cao hơn
bằng những sáng tạo cá nhân của mình và vì vậy ông trở thành "người viết truyện ngắn có kích
thước truyện dài "như Nguyễn Tuân đã từng nhận xét.
Điểm độc đáo không thể không nói đến trong nghệ thuật miêu tả của ông đó sự sử dụng
rất hài hòa và tự nhiên giữa các phương pháp sáng tác, giữa các đặc trưng nghệ thuật trong mỗi
một tác phẩm. "Kích thước truyện dài" ấy không chỉ phản ánh sự mở rộng và đào sâu về nội
dung mà còn ở sự phong phú và tự nhiên như bản thân cuộc sống của những nét đặc trưng nghệ
thuật. Chính vì thế, đọc mỗi tác phẩm của ông, ta tiếp cận gần vơi không chỉ một mà là nhiều
những vẻ đẹp khác lạ của một tài năng viết văn hiếm có. Với mỗi người đọc, đó là sự mở ra
trước mắt cả một chân trời nghệ thuật độc đáo, còn vơi mỗi cá nhân trên con đường viết văn,
đó lại là những "giáo trình sống" quý giá mà Lỗ Tân đã luôn dày công biên soạn thông qua các
tác phẩm của mình.
3.3.Ý NGHĨA THỜI ĐẠI - THỜI SỰ.
Nếu nhìn từ tác phẩm của Lỗ Tấn, ít nhất ông cũng đề cập đến ba vấn đề cơ bản và và là
cơ sở của việc sáng tác văn học nghệ thuật, đây cũng chính là nhưng vấn đề thời sự trong thời
đại mới này chúng ta đang không ngừng tranh luận.
Trong mối quan hệ giữa văn hóa nghệ thuật cổ điển và hiện đại, trong và ngoài nước, làm
thế nào để có thể duy trì con đường dân tộc hóa,hiện đại hóa. Đây là một vấn đề lí luận mang
tính lịch sử mà suốt thời kì chiến tranh thuốc phiện đến nay vẫn không ngừng được thảo
luận.Vấn đề lí luận của Lỗ Tấn đề cập đến ba phương diện, đó là vấn đề trong và ngoài nước,
97
cổ đại và hiện đại; tiếp đó là tính độc lập và tính phụ thuộc của văn học nghệ thuật. Lỗ Tấn đưa
ra quan điểm cơ bản, đó là: "lấy kim để phục cổ, và tạo ra cái mới riêng" . Ông yêu cầu các tác
giả văn học nghệ thuật hãy bước lên con đường cải cách hiện thực, dung hòa những tinh túy từ
trong và ngoài nưđc, từ cổ đến kim và thêm vào những cái mới mẻ để tạo ra cái hoàn toàn mới
và mang nét riêng biệt. Ông phản đối phương pháp sáng tác theo chiều ngang, đó là chỉ dung
hòa những nét hay ở trong và ngoài nước, ông cũng phản đối cách sáng tác theo chiều dọc, đó
là chỉ dung hòa những nét sắc sảo từ ngày xưa và hôm nay. Ong đưa ra két luận răng: "kê thừa
những di sản của Trung Quốc và dung hòa những cái mới, đồng thời phát huy những cái hay
cái đẹp từ nước ngoai ". Vấn đề mấu chốt là chỗ tạo nên một chỉnh thể mới,một cơ cấu sáng tạo
mới,một cơ cấu sáng tạo không lạc hậu so với quốc gia khác, lại không mất đi nét độc đáo vốn
có của văn học nghệ thuật Trung Quốc. Phương pháp sáng tác mang tính "hoa nhập không hoa
tan" này không chỉ có ý nghĩa trong phạm vi sáng tác văn học nghệ thuật nói chung mà còn có
ý nghĩa tiến bộ đối với mọi mặt chính trị văn hóa của dân tộc Trung Quốc nói chung và mỗi
quốc gia nói chung. Lỗ Tấn được đánh giá là một nhà tư tưởng lớn, một nhà tư tưởng lớn chứ
không đơn thuần là một nhà văn chính bởi điều đó.
Nhớ lại những năm 80 của thế kỷ 20,trong cuộc luận giữa vấn đề của văn học nghệ thuật
và vấn đề "toàn cầu hóa", mâu thuẫn tồn tại ở chỗ nên nhìn nhận như thế nào và mối quan hệ
của văn hóa trong và ngoài nước. Cũng như văn hóa cổ xưa và ngày nay, làm sao để nhận định
được nội dung của vấn đề dân tộc hóa vá hiên đại hóa? nếu chúng ta lấy tư tưởng và ý kiến của
Lỗ Tấn để trả lời cho những vấn đề vừa nêu, chẳng phải là giải pháp hoàn hảo sao?
Những tư tưởng của Lỗ Tấn đối với việc cải tạo con người, xã hội và văn minh, trong đó
bao gồm những sáng tác mang tính phê bình xã hội của ông, cũng như những giải thích của ông
đối với tính chủ thể của con người... cho đến ngày nay vẫn mang một ý nghĩa hiện thực sau sắc.
Ví như ngày nay có nhiều người hay nói về tính chủ thể, lấy "cái tôi" làm điều cơ bản và cho
rằng nguyên tắc để phá vỡ sự trói buộc trong cách biểu đạt và hành động của họ chính là "tôi
làm theo ý tôi' (nguyên văn "ngã hành ngã tố"). Thế nhưtig, tính chủ thể mà Lỗ Tấn đặt định ra
tuy có mối quan hệ giống với "cái tôi", nhưng không bị hạn chế trong khuôn khổ của "cái 101",
trong đó tư tưởng chủ đạo là giải phóng cá thể và giải phóng nhân tính. Điều này chủ yếu nói
lên tính tự giác, tự do và tính sáng tạo của con người. Cái tôi ông muốn hướng tới xây dựng
98
không phải là cái tôi phải cố ý làm cho khác vơi mọi người, giải phóng một số ít cá nhân mà là
cái tôi tự chủ, hiểu rõ mình là ai, mình là cái gì và mình phải làm gì. Một cái tôi tiến bộ vươn
lên trên xã hội tăm tối lúc bấy giờ nhưng đồng thời cũng là cái tôi mở đường cho những cái tôi
khác trên con đường đi tìm và hòa nhập vào sự tiến bộ. Trước hết phải tự hiểu được rằng mình
là một người độc lập chứ không phải là người nô lệ; là một người Trung Quốc hiện đại chứ
không phải là người bị trói buộc bởi truyền thống và không có tinh thần cầu tiến, hơn thế nữa
còn là một người biết lợi dụng những điều tất yếu của lịch sư, văn hóa, xã hội để giành lấy tự
do và sáng tạo. Lỗ Tấn nhìn từ góc độ này và tiến hành "giải phẫu" tâm hồn cho những nhân
vật như A.Q, Khổng Ất Kỷ, Tường Lâm, Tử Quân, Ngụy Liên Thù...
Trước đây, nhưng luận thuyết của Lỗ Tấn về khoa học và văn nghệ đối với việc lấy khoa
học để thay thế cho văn nghệ, trong thời đó thì đây là một sự đính chính, còn đối với chủ nghĩa
khoa học mĩ học ngày nay thì những luận thuyết này cũng là một sự cải chính. Lỗ Tấn cho
rằng, văn học làm cho người ta trở nên tình cảm hơn, còn khọa học khiến người ta biết suy nghĩ
hơn. Điều nhà văn không nói ra nhưng ngầm ý thể hiện trong tác phẩm đó là sự dung hòa giữa
hai mặt tư tưởng tình cảm và lý trí tư duy trong một tác phẩm. Đây là điểm khá quan trọng và
có tác dụng định hướng về mặt phương pháp luận cho sự sáng tạo văn chương. Đơn giản bởi
nếu văn chương đơn thuần chỉ là văn chương thì sẽ lôi cuốn người đọc không về một mục đích
nào cả, và như thế sợi dây liên hệ và tác dụng vơi hiện thực bị phá đứt vỡ, ngược lại sự thuần
túy tư duy trong văn chương sẽ là cái vòng kim cô cô lập văn chương với độc giả, xa dần quần
chúng, và tác dụng thức tỉnh sẽ bị tiêu biến đi. Tuy nhiên, sự luận thuyết khoa học thay thế cho
văn học dưới cách nhìn của ông đôi khi có sự thái quá về phía góc độ khoa học.
Lối suy nghĩ và cách nhìn đang được ủng hộ hiện nay đó là: lấy những người có ảnh
hưởng với khoa học để thay thế cho những người có ảnh hưởng với văn học; lấy phương thức
khoa học để nắm bắt thế giới để thay thế cho việc lấy nghệ thuật để nắm bắt thế giới; lấy
phương thức luận để nhìn nhận thế giới khách quan của khoa học thay thế cho phương pháp
lịch sử mỹ học của nghiên cứu văn nghệ, hay nói một cách khác đi thì đó là phương pháp dung
khoa học để quy phạm cho văn học và dùng khoa học để diễn dịch văn học. Nhưng, luận thuyết
của Lỗ Tấn về khoa học không giống với những luận thuyết của ông về văn học và có ý nghĩa
phương pháp luận đối với lối suy nghĩ lấy khoa học để làm mai một văn học vừa nói trên.
99
Đó là những đặc điểm cơ bản trong các cuộc tranh luận về tư tưởng của Lỗ Tấn trong thời
đại mới. Bất kể xu hướng đó thế nào, các cuộc tranh luận mang mục đích gì đi nữa, thì chúng ta
cũng không thể phủ nhận một điều rằng: ý thức tự thức tỉnh của Lỗ Tấn mang ý nghĩa quan
trọng đối với Trung Quốc ngày nay. Ông đề ra và kiên trì đi theo tinh thần thức tỉnh của chủ
nghĩa hiện thực, đại diện cho sự thức tỉnh của dân tộc Trung Hoa. Ông đã khiến cho dân tộc và
những con người của dân tộc đó từ mù quáng đi đến tỉnh ngộ, nhận thức đứng đắn được chính
mình và thế giới xung quanh, đồng thời ý thức dược vị trí của mình trong cái thế giới đó. về
mặt này, hiện nay người Trung Quốc đã cảm nhận rõ nét hơn vài chục năm trước. Có thể nói,
đến khi Lỗ Tấn xuất hiện trên văn đàn, xã hội Trung Quốc mới thực sự thức tĩnh về ý thức dân
tộc. Nhưng liệu điều đó đã là đủ chưa cho xã hội hôm nay? Nếu không tỉnh táo, rất dễ đi đến
ngộ nhận là những căn bệnh mà Lỗ Tấn đã mổ xẻ đã có tính chất miễn dịch, không thể tái phát
và hoan toàn không thể có "biến chứng" mới phức tạp hơn trong thơi đại ngày nay. Sự thức tỉnh
luôn luôn phải đặt ra, đặt ra ngay trong khi mỗi cọn người, mỗi dân tộc đang cảm thấy tư thỏa
mãn với bản thân nhất. Bởi sự ru ngủ một chốc, một lát có thể trở thành sự ru ngủ trăm năm
như chính xã hội Trung Quốc đã mắc phải thời kỳ trương Lỗ Tấn.
Thực ra ý nghĩa của Lỗ Tấn là từ đâu? Tư tưởng của ông có mang tính đương đại hay
không? Ông có thể trở thành cội nguồn văn hóa của chúng ta ngày nay không? Kỳ thực, đây là
những vấn đề rất khó xác định. Tuy nhiên, Lỗ Tấn đến từ cái gốc tối tăm nhất của Trung Quốc
nhưng lại có thể thoát ra từ cái tối tăm đó để vạch ra tác hại ghê ghớm của chủ nghĩa chuyên
chế phương đông. Ông lấy bút làm súng, lấy giấy làm cờ để kêu gọi mọi người thức tỉnh. Và
ông đem xứ mệnh đó thể hiện trong sự viết văn. Ông là sự khởi đầu của văn hóa hiện đại và là
người dũng cảm phế bình xã hội hiện thực. Khi Lỗ Tấn qua đời, đã từng có người thốt lên rằng:
"Muốn hiểu được một cách toàn diện tinh thần dân tộc của Trung Quốc, không còn cách nào
khác là phải đọc "Lỗ Tấn toàn tập"". Tính đương đại không chỉ thể hiện trong một phạm vi
quốc gia-nước Trung Hoa mà còn có ý nghĩa thời sự và là tấm gương lớn để mỗi dân tộc có thể
tự soi mình vào đó để tìm những căn bệnh mà mình đang mắc phải. Chủ nghĩa A.Q liệu có phải
chỉ là căn bệnh trầm kha của mỗi người dân Trung Hoa hay không? Sức ảnh hưởng to lớn và
những giá trị vĩnh cửu vượt thời đại của nó đã là câu trả lời rõ ràng điều đó. Tính đương đại
còn thể hiện ở chiều sâu của thời gian. Lỗ Tấn đi từ quá khứ của dân tộc mình, lấy quá khứ làm
100
ngọn đèn soi sáng để ông có thể nhìn rõ và mổ xẻ chính xác những căn bệnh của dân tộc mình
đồng thời cũng định hình luôn "một phương pháp chữa bệnh" mà vẫn còn có ảnh hưởng cho
đến thời đại chúng ta ngày nay và cả mai sau.
Loai thứ hai đó chính là sự phê phán cái văn hóa đùa cợt. Oai ăm thay, đùa cợt ở đây lại là
đùa cợt trên nổi đau của đồng loai. Lỗ Tấn có một tác phẩm rất ngắn, đó là "Chúc phúc". Tác
phẩm này được chọn vào chương trình giảng dạy ở bậc trung học. Đây không phải là một tác
phẩm đấu tranh giai cấp, mà là một tác phẩm giành để giải thích việc luôn làm tổn hại người
khác của người Trung Quốc. Tác phẩm này có một chi tiết nhỏ, đó là sau khi con trai của thím
Tường Lâm bị chó sói ăn thịt, thím đã kể lại câu chuyện này cho bà con trong làng nghe, và
người trong làng kéo nhau đến nghe thím kể chuyện, ngay cả những người vì lí do nào đó
không nghe được chuyện này cũng từ nơi xa kéo đến nghe. Mọi người nghe thấy Tường Lâm
kể chuyện, thực ra không phải để bày tỏ sự cảm thông đối với thím mà là đến để nghe một vở
kịch hay một buổi biểu diễn tâm trạng. Họ đến là để tìm niềm vui, tìm sự cảm kích. Tuy nhiên
trong quá trình nghe kịch, họ cung sẽ rơi nước mắt. Nhưng khi những giọt nước mắt rơi xuống,
họ mãn nguyện quay trở về nhà mình, và hưng phấn nói về câu chuyện đã nghe. Chính vì thế,
thím Tường Lâm trở thành cái nguồn để mọi người đến tìm cho mình niềm vui. Mọi người
thông qua những câu chuyện bi thảm để tìm cho mình khoai cảm và ngày càng trở nên mê
muội trước thân phận bị vùi dập và khổ đau của đồng loai. Đôi khi, chính từ sự được thỏa mãn
lòng hiếu kỳ và hả hê trước những đau khổ tột cùng của đồng loại xung quanh mà người dân đã
quên đi thân phận bèo bọt, cũng không có gì sung sướng hơn của mình. Điều này thể hiện một
tư tưởng không trông lên mà là nhìn xuống khá phổ biến trong xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ.
Nó thể hiện sự tàn khóc của xã hội Trung Quốc và văn hóa Trung Quốc. Hiện trạng này thực sự
là một mối nguy nan vơi cả dân tộc, bởi vì khi con người ta đang nhìn xuống để thấy thỏa mãn,
là lúc họ đang đi dần xuống sự tụt hậu của cả chung dân tộc, là lúc bệnh tật ngày càng phát dần
đến chỗ "chết" mà A.Q là một điển hình tiêu biểu.
Mặt thứ ba là Lỗ Tấn đã vạch ra trạng thái nô lệ của người dân Trung Quốc. Là một người
chiến sĩ tinh thần, cuộc đời của Lỗ Tấn là cuộc đời của người khai sáng và người dẫn đường.
Ông đặt mọi vấn đề trên hai chữ "Lập nhân". "Lập nhân" là một khái niệm tương đối quan
trọng trong tư tưởng của Lỗ Tấn. Ông nhấn mạnh, "Lập quốc tất tiên lập nhân" "Muốn xây
101
dựng quốc gia thì trước hốt phải xây dựng con người", hay như cách nói của ngày nay là "Nhân
quyền cao hơn chủ quyền", chủ quyền mà không có nhân quyền thì là một loai chủ quyền
hoang tưởng, là chủ quyền của một số ít kẻ thống trị mà thôi. Một quốc gia thực sự hùng mạnh,
mỗi một người dân đều là một cá nhân, cá thể có năng lực suy nghĩ độc lập, có trách nhiệm
công dân của xã hội hiện đại văn minh và dân chủ. Do vậy, chỉ có thể xây dựng con người
trước mới có thể tiến tới xây dựng quốc gia. Lỗ Tấn cho rằng người Trung Quốc từ xưa đến
nay không nhận thức được tư cách làm người, người Trung Quốc luôn quanh quẩn trong thời
đại muốn làm nô lệ hoặc thời đại đã làm nô lệ. Hai kiểu đời sống này luôn không ngừng thay
thế cho nhau. Đồng thời, người Trung Quốc không bị người nước ngoài xâm lược mà lại bị nô
dịch bởi chính kẻ áp bức trong nước, không phải bị tranh giành cướp bốc mà là bị quan binh
xác phạt. Tệ hại hơn là giữa những con người cùng khổ vơi nhau cũng lạnh lùng thản nhiên bóc
lột nhau, chém giết nhau, cười cợt trên nỗi đau khổ của nhau. Trách nhiệm của Lỗ Tấn đến từ
lương tri của ông, ông muốn vạch trần bản chất của chế độ đó và ông dùng những con chữ đầy
máu và nước mắt để nói lên rằng: Dân tộc Trung Hoa muốn trở thành một dân tộc tôn nghiêm,
người Trung quốc muốn trở thành những con người tôn nghiêm thì phải tiến hành nền văn hóa
dân tộc một cách toàn diện và sâu sắc, như vậy mới có thể tìm lại được tính cách quân dân và
văn hóa tinh thần.
Một vấn đề đặt ra khi người đọc, người nghiên cứu và người giảng dạy tiếp cận tác phẩm
của Lỗ Tấn đó là lý giải như thế nào về vị trí của phương pháp sáng tác trữ tình trong tác phẩm
của nhà văn, và chất trữ tình ấy có đặc trưng gì nổi bật không. Phương thức trữ tình có thể được
sử dụng rộng rãi trong nhiều thể loại: trữ tình, tự sự, kịch,... song mỗi thể loại lại có mức độ sử
dụng khác nhau. Dễ thấy nhất là phương thức trữ tình được vận dụng trong thể loại tác phẩm
trữ tình.vì vậy tìm hiểu tác phẩm tự sự để thấy sự linh hoạt của nótròng vận dụng phương thức
trữ tình sẽ là một việc làm khá quan trọng trong việc lĩnh hội tác phẩm. Hơn thế nữa, tự sự vốn
được coi là địa bàn của "sự tái hiện lại một cách khách quan các hiện tượng cuộc sống" thì việc
tìm ra những "phương thức "miêu tả tình cảm chủ quancủa con người sẽ góp phần hiểu đúng
hơn về bản chất của thể loại này. Thêm vào đó, tình cảm trong tác phẩm của Lỗ Tấn rất khó
nhận biết, việc tìm ra cách thức thể hiện tình cảm lại càng không đơn giản. Chúng ta có thệ
"cảm" được những tâm tư của ông mặc dù điều này không phải dễ nhưng để chỉ ra được biểu
102
hiện của nó và lý giải xác đáng lại là một vấn đề hoàn toàn không đơn giản. Đề tài này sẽ góp
vào khu vườn nghiên cứu văn học một cái nhìn về tác phẩm của Lỗ Tấn, cụ thể là "phương
thức trữ tình" trong truyện ngắn của ông.
Thực tế cho thấy, truyện Lỗ Tấn đã được đưa vào chương trình học phổ thông từ rất lâu.
Song giáo viên và học sinh mới chỉ dừng lại ở mức độ tiếp cận những tư tưởng và một chút tình
cảm được bộc lộ trong tác phẩm của nhà văn. Học sinh mới chỉ yêu thích Lỗ Tấn qua các nhân
vật điển hình của ông và sự miêu tả dưới góc độ tìm hiểu khám phá nền văn hóa và hiện thực
Trung Hoa, sự đồng cảm vơi những số phận nhân vật bất hạnh, nghĩa là còn có sự thuần tuy về
khía cạnh nội dung. Việc nghiên cứu và giảng dạy về khiá cạnh nghệ thuật nói chung và
phương thức trữ tình nói riêng chưa được tìm hiểu nghiên cứu và đề cập trong chương trình
giảng dạy văn học. Một phân bởi đây là một khía cạnh nghiên cưu khó, phương thức truyền đạt
đến học sinh cũng gặp nhiều khó khăn, piặt khác, hình như lâu nay chúng ta bỏ quên, và chỉ ưu
ái việc đề cập đến phương thức này trong các tác phẩm trữ tình, đặc biệt trong thể loại thi ca
mà thôi. Chính vì vậy, việc tìm ra phương thức trữ tình sẽ giúp cho giáo viên và học sinh và cả
những người yêu thích Lỗ Tấn hiểu sâu hơn về nghệ thuật viết truyện của Lỗ Tấn và con người
Lỗ Tấn cùng cách bộc lộ tình cảm của ông trong tác phẩm. Thiết nghĩ đó cũng là việc làm quan
trọng nhằm giáo dục nhân cách cho học sinh -những thế hệ tương lai của đất nước.
103
KẾT LUẬN
104
Từ những phân tích trên đây qua từng vấn đề cụ thể đã trình bày ở từng chương chúng tôi
rút ra mấy kết luận sau đây nhằm mục đích làm sáng rõ đề tài luận văn đề cập.
Lỗ Tấn không bao giờ tìm kiếm sự nổi tiếng, trở thành Tsekhov của Trung Quốc hay là gì
đi nữa (có lần con trai ông gọi ông là Gorky của Trung Quốc, ông cốc nhẹ vào đầu con và nói
cha làm sao mà xứng với một người cao quý như Gorky). Ông muôn nhấc Trung Quốc ra khỏi
sự cô lập văn hóa của nó, giống như ông muôn phá vỡ bức tường của cảm xúc cô đơn của
chính ông. Có hai kẻ thù của Lỗ Tấn: sự im lặng và sự cô đơn- cũng là hai kẻ thù của xã hội
Trung Quốc. Những nhân vật bất hạnh trong truyện ngắn Lỗ Tấn, còn có mục đích nào quan
trọng hơn ngoài mục đích làm thay đổi xã hội Trung Quốc, mọi cái khác nữa cũng chỉ là thứ
yếu. Francois Mauriac đã từng gọi mỗi tác phẩm là "con đẻ của cuộc hôn nhân mâu thuẫn giữa
nhà văn và hiện thực". Con đẻ của Lỗ Tấn với hiện thực là một bộ sưu tập các nhân vật nhiều
loại khác nhau: đàn ông và đàn bà, trí thức và mù chữ, cao quý và thấp hèn,thôn cùng và đô
thL.đều chiếm lĩnh trang viết của ông với một sự khó chịu về căn bệnh được báo trước, mà là
một bệnh giống nhau. Người ta không thể xem họ như là những nhân vật bệnh hoạn của trí
tưởng tượng. Một sự ràng buộc hiếm có, hiếm hoi của tài năng cá nhân với hoàn cảnh lịch sử
đã làm cho Lỗ Tấn có thể kết hợp một cuộc hôn nhân đặc biệt với hiện thực mà từ đó những
nhân vật được sinh ra.
Lỗ Tấn, số phận của ông là đối mặt với những gì mà người khác ngoảnh mặt quay đi
không đề cập đến. Ông là người làm điều đó không nhẹ nhàng, dễ dàng gì. Lý tưởng của ông
không phải là không có những dằn vặt và hy sinh, mất mát. Ông nhìn xã hội Trung Quốc đầy
rẫy những con người bất hạnh với một hỗn hợp xót thương và căm phẫn, ông kết án quá đắng
cay về nó như vậy bởi vì ông yêu nó nhiều. Có ai thấy rằng một xã hội vào những giai đoạn
giao thời, trở trăn tìm đường phát triển (như Việt Nam bây giờ cũng vậy), rất cần đến những ý
tưởng mà nhà văn như Lỗ Tấn, vung roi quất thật mạnh vào sống lưng, lạnh lùng phanh phui
những nhược điểm của dân tộc mình với một tấm lòng đau đáu xót xa.
Thế giới nhân vật bất hạnh ấy không chỉ tạo ra cho Lỗ Tấn một phong cách văn chương
mà còn khêu gợi cảm hứng sức mạnh cho con người. Vai trò mà ông có tác dụng tích cực thể
hiện qua những đứa con nhân vật của mình là đánh thức ý thức của người Trung Quốc bằng 105
cách miêu tả linh hồn cũ kỹ của Trung Quốc, phản ánh ý thức Trung Quốc thời đại và tạo ra
một tinh thần cách mạng, khêu gợi thanh niên phát triển, là người tiên tri cho xã hội mới trong
thời đại mới Trung Quốc ngày nay. Mặc dù đã gần một thế kỷ trôi qua nhưng vấn đề "Nhân vật
bất hạnh " vẫn còn giá trị thời sự ỏ Trung Quốc hiện nay. Đó là số phận con người, vấn đề dân
sinh, dân chủ, nhân quyền mà nhà nước Trung Quốc đã và đang rất quan tâm giải quyết, vấn đề
"Tam nông" (Nông thôn, nông dân, nông nghiệp) đều có liên quan đến cuộc sống tót đẹp của
người dân Trung Quốc mà ngày nay trở thành hiện thực.
Cho dù truyện ngắn cũng như các thể loại văn chương khác của Lỗ Tấn là tâm điểm của
không ít những cuộc tranh luận, cho dù ông đã ra đi đã 70 năm, nhưng điều đó cũng không cản
trở tinh thần và tư tưởng của ông đến với nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới qua khối
lượng sáng tác vĩ đại của mình. Như Lỗ Tấn đã từng nói: "Tôi đơn độc tiến về phía trước,
không những không có ai mà cũng chẳng có cái bổng nào khác trong màn tối. Chỉ có tôi và
bóng đêm bao phủ, và tất cả thế giới đều thuộc về tôi" [37,tr.34]. Sự cất cánh tăng trưởng của
một nhà nước Trung Hoa hùng mạnh hiện nay phải chăng có phần ý tưởng mà cuộc đời sự
nghiệp văn hào Lỗ Tấn nhắn gửi. Đối với Việt Nam tư tưởng của Lỗ Tấn về con người bất
hạnh, thái độ của ông đối với con người là những bài học quí giá.
Tp.HCM tháng 6/2006
Vũ Xuân Định
106
107
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1.Bành Định An (2002), Lỗ Tấn: ý nghĩa đối với Trung Quốc thời đương đại, Nguyệt san
nghiên cứu Lỗ Tấn, Hà Nội.
2.Chu Hải Anh (2001), Bảy mươi năm Lỗ Tấn và tôi, NXB Nam Hải, Nam Hải.
3.Lưu Đức Trung, Trần Lê Bảo, Phạm Hải Anh (1999), Hợp tuyển văn học Châu Á (tập
1), NXB ĐHQGHN, Hà Nội.
4.Châu Tuyết Cầm (2002), Nghiên cứu Lỗ Tấn, NXB Văn nghệ, Bắc Nhạc.
5.Lí Trường Chi (2003), Phê bình Lỗ Tấn, NXB Bắc Kinh, Bắc Kinh.
6.Trương Chính (2000), Tuyển tập Lỗ Tấn, NXB Văn Nghệ, Tp.HCM.
7.Trương Chính (1998), Lỗ Tấn tạpvăn,NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
8.Tập thể Giáo sư, Tiến sĩ (2003), Từ điển văn học Bộ mới, NXB Thế giới, Hà Nội.
9.Trương Chính dịch (1961), Bàng hoàng, NXB Văn hóa, Hà Nội.
10.Trương Chính dịch (1961), Gào thét, NXB Văn hóa, Hà Nội.
11.Trần Xuân Đề (1996), Bài nói chuyện kỷ niệm 60 năm ngày mất Lỗ Tấn, Lỗ Tấn -
"Dân tộc hồn" Trung Hoa, Hà Nội.
12.Trần Thanh Đạm (1996), "Bài nói chuyện kỷ niệm 60 năm ngày mất Lỗ Tấn", Số phận
con người trong văn chương Lỗ Tấn, Hà Nội.
13.Trần Xuân Đề (2002), Lịch sử văn học Trung Quốc, NXB Giáo Dục, Hà Nội.
14.Trần Xuân Đề (2002), Tác phẩm văn học Phương Đông (Trung Quốc), NXB Giáo
Dục, Hà Nội.
15.Cao Hức Đông (2001), Lỗ Tấn tiến vào thế kỉ 21, NXB Văn Liên, Trung Quốc
16.Anh Đức (1991), Lỗ Tấn - Bậc thầy truyện ngắn, "Kiến thức ngày nay",Tp.HCM
108
17.Vương Đắc Hậu (2002), Tìm kiếm con đường của Lỗ Tấn, NXB Đại Học Sư Phạm
Bắc Kinh, Bắc Kinh.
18.Nguyễn Văn Hạnh-Lê Đình Kỵ (1976), Cơ sở lý luận văn học (4 tập), NXB Giáo dục,
Hà Nội.
19.Hồ Sĩ Hiệp (1998), Giúp học tốt văn học Trung Quốc trong nhà trường, NXB Đồng
Nai, Đồng Nai.
20.Hồ Sĩ Hiệp (2001), Tranh luận văn nghệ ở Trung Quốc thời kỳ mới, Tạp chí Sông
Hương-số 2, Huế.
21.Hồ Sĩ Hiệp (2001), Một số vấn đề văn học Trung Quốc thời kỳ mới, NXB. ĐHQG
Tp.HCM, Tp.HCM.
22.Hồ Sĩ Hiệp (2006), Văn học Trưng Quốc với nhà trường, NXB ĐHQG Tp.HCM,
Tp.HCM.
23.Lý Hà Lâm (1960), Lỗ Tấn, thân thế văn nghệ, NXB giáo dục HN, Hà Nội.
24.Lý Hà Lâm-Lương Duy Thứ, Nguyễn Thị Minh Hồng dịch (2002), Truyện Lỗ Tấn,
NXB Văn Nghệ, Tp.HCM.
25.Nguyễn Hiến Lê (1968), Văn học Trung Quốc hiện đại, Nhà in Nguyễn Hiến Lê,
Tp.HCM.
26.Phương Lựu (1988), Lỗ Tấn - Nhà lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
27.Phương Lựu (1977), Lỗ Tấn - nhà lí luận văn học, NXB Đại học và Trung học chuyên
nghiệp, Hà Nội.
28.Vương Phú Nhân (2000), "Tư tưởng phản phong kiến ở Trung Quốc- Mặt gương phản
chiếu của cách mạng", NXB Đại Học Sư Phạm Bắc Kinh, Bắc Kinh.
29.Vương Phú Nhân và Triệu Trác (2001), Khám phá những điều chưa biết về Lỗ Tấn và
những trào lưu xã hội cuối thế Hy NXB Văn Liên, Trung Quốc.
30.Trịnh Phàm (2002), Tôi nghe Lỗ Tấn giảng văn học, NXB Chí Công, Trung Quốc.
31.Nguyễn Khắc Phi (1986), Văn học Trung Quốc - 2 tập, NXB Giáo dục, Hà Nội.
109
32.Lâm Phi (2000), Lỗ Tấn và văn hóa Trung Quốc, NXB Học Uyển, Bắc Kinh.
33.Tiền Lý Quần (1999), Lỗ Tấn - người đến với nền văn hoa đương đại, NXB Đại học,
Bắc kinh.
34.Vương Sóc (2000), Tôi nhìn Lỗ Tấn, Tập san thu hoạch.
35.Lương Duy Thứ (1997), Lỗ Tấn- Tác phẩm và tư liệu, NXB Giáo dục, Hà Nội.
36.Lương Duy Thứ (2000), Lỗ Tấn - Phân tích tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội.
37.Lương Duy Thứ (1998), Tác phẩm và tư liệu về Lỗ Tấn, NXB giáo dục, Hà Nội.
38.Lương Duy Thứ,Nguyễn Thiện Chí, Nguyễn Tấn Đắc, Hồ Sĩ Hiệp dịch (1993), Đại
cương lịch sử văn hoá Trung Quốc, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
39.Lê Huy Tiêu, Thi pháp Lỗ Tấn, Luận án phó tiến sĩ, Hà Nội
40.Trần Lê Hoa Tranh(2005), Thi pháp nhân vật trong truyện ngắn Lỗ Tấn, Luận ánTiến
sĩ, Tp.HCM
41.Lưu Đức Trung (1971), Chuyên đề Lỗ Tấn và truyện ngắn của ông +A.Q và Chí Phèo,
Báo cáo khoa học, Hà Nội.
42.Nguyễn Tuân (1959), Truyện ngắn Lỗ Tấn và phim truyện Trung Hoa, đăng trong tập
Gửi Trung Quốc, NXB Văn học Hà Nội.
43.Lê Xuân Vũ (1958), Lỗ Tấn:Chủ tướng của cách mạng vãn hoa Trung Quốc, NXB văn
hoa, Hà Nội.
44.M.Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Đu, Hà
Nội.
110
Tiếng Trung Quốc
111