VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Nguyễn Thị Lan
BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Hà Nội, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Nguyễn Thị Lan
BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC MINH
Hà Nội, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được
công bố trong bất cứ công trình nào.
TÁC GIẢ
Nguyễn Thị Lan
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................. Error! Bookmark not defined.
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐỂ
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ.........................................................................................6
1.1. Khái quát chung về bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự ........................ 6
1.2. Khái quát lý luận về pháp luật bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự Error! Bookmark not defined.5
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐỂ
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH……………………………………………………………….......22
2.1. Thực trạng pháp luật về bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sựError! Bookmark not defined.
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự ở
Thành phố Hồ Chí Minh........................................................................................ 36
Chương 3: QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢTHỰC HIỆN PHÁP LUẬT BÁN
ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ……………………..………51
3.1. Quan điểm, phương hướng hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật bán
đấu giá tài sản để thi hành án dân sự. .................................................................... 51
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản để thi hành án dân
sự………………………………………………………………………………...54
3.3. Giải pháp thực hiện pháp luật bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự ....... 57
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
THADS : Thi hành án dân sự
BLDS : Bộ luật dân sự
CHV : Chấp hành viên
TA : Tòa án
VKS : Viện kiểm sát
THA : Thi hành án
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Kết quả thi hành án dân sự từ năm 2015 đến năm
2019...........................................................................................................................44
Bảng 2.2. Kết quả bán đấu giá tài sản thi hành án từ năm 2015 đến 2019 ...............46
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bán đấu giá tài sản là một trong những hình thức mua bán tài sản phổ biến
trong nền kinh tế thị trường và là một trong những hình thức bán tài sản công khai,
minh bạch, hiệu quả và rất thông dụng ở các nước phát triển. Bán đấu giá tài sản
trong thi hành án dân sự là một hình thức xử lý tài sản sau khi đã bị cưỡng chế kê
biên để đảmbảo thi hành án. Mục đích đặt ra khi cơ quan thi hành án thực hiện biện
pháp cưỡng chế kê biên, bán đấu giá tài sản của người phải thi hành án để đảm bảo
hiệu lực thực thi của bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế, khôi phục lại quyền
và lợi ích hợp pháp cho người được thi hành án. Bên cạnh đó, bán đấu giá tài sản
nhằm bảo đảm việc bán tài sản của người phải thi hành án được công khai, minh
bạch. Thông qua biện pháp bán đấu giá tài sản phải thi hành án thì quyền lợi của
chính đáng người phải thi hành án, người đươc thi hành án cũng được đảm bảo,
nhất là người có tài sản nhằm thu được số tiền lớn nhất từ tài sản được bán đấu giá.
Ở Việt Nam, trước đây việc đấu giá tài sản thường rất ít được sử dụng và mục đích
chủ yếu là bán đấu giá các loại tài sản để thu hồi tiền cho nhà nước.
Ở Việt Nam, bán đấu giá tài sản lần đầu tiên được quy định trong Pháp lệnh
thi hành án dân sự ngày 28/8/1989; sau đóđược quy định bởi Nghị định số
86/1996/NĐ-CP ngày 19/12/1996 về việc ban hành quy chế bán đấu giá tài sản,
Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản,
Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); Luật Đấu giá tài
sản năm 2016 và Nghị định 62/2017/NĐ-CP ngày 16/5/2017 của Chính phủ. Việc
hoàn thiện pháp luật về đấu giá tài sản đã tạo cơ sở cho hoạt động bán đấu giá tài
sản ngày càng đi vào nề nếp, chuyên nghiệp hơn và giảm thiểu tiêu cực phát sinh,
nhất là đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.
Sau nhiều năm triển khai và thực hiện Luật đấu giá tài sản thì hoạt động bán
đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự ở Việt Nam đã đạt được một số kết quả
đáng ghi nhận, nhìn chung đã đạt được những mục đích đã đề ra. Tuy nhiên, bên
1
cạnh những thành tựu, kết quả đã đạt được trong thời gian qua, hoạt động bán đấu
giá tài sản trong thi hành án dân sự vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định. Chất
lượng nhiều phiên đấu giá nhìn chung còn chưa có hiệu quả; còn tồn tại tình trạng
“quân xanh, quân đỏ”, thông đồng, dìm giá, cản trở việc mua hồ sơ đấu giá, không
thông báo công khai việc bán đấu giá tài sản; chưa có tiêu chí để lựa chọn tổ chức
bán đấu giá, cơ chế kiểm soát việc bán đấu giá; còn nhiều vụ việc đã kê biên, định
giá lại và đấu giá nhiều lần nhưng không bán được tài sản mặc dù giá trị của nó lớn
hơn nhiều so với giá khởi điểm. Có nhiều trường hợp tài sản đã bán đấu giá thành,
người mua trúng đấu giá đã nộp đủ tiền nhưng chưa bàn giao được tài sản cho
người mua trúng đấu giá hoặc việc bàn giao tài sản bị kéo dài nên đã gây bức xúc
trong dư luận xã hội, quyền lợi của các bên trong quan hệ bán đấu giá tài sản thi
hành án chưa được đảm bảo dẫn đến việc uy tín của các tổ chức đấu giá tài sản ít
nhiều cũng bị ảnh hưởng theo ….Từ đó dẫn đến tình trạng khách hàng có tâm lý
ngại mua tài sản bán đấu giá trong thi hành án dân sự.
Một trong những nguyên nhân của hạn chế đó là do hành lang pháp lý cho
hoạt động này vẫn chưa thực sự hoàn thiện, còn bộc lộ nhiều điểm bất cập như một
số quy định về trình tự, thủ tục bán đấu giá còn thiếu cụ thể, không rõ ràng dẫn đến
nhiều cách hiểu khác nhau, chế tài đối với đội ngũ đấu giá viên vi phạm nguyên tắc
nghề nghiệp còn chưa hợp lý; quy định về bán đấu giá tài sản chưa có sự tách bạch
rõ ràng giữa hoạt động bán đấu giá với các hoạt động thi hành án khác dẫn tới tình
trạng các tổ chức bán đấu giá tài sản can thiệp sâu vào hoạt động thi hành án dân sự
, thao túng, vi phạm pháp luật trong hoạt động bán đấu giá tài sản để thi hành án;
một số tổ chức bán đấu giá hoạt động không chuyên nghiệp... v.v
Từ thực trạng và nguyên nhân nêu trên đòi hỏi phải có những phương hướng,
giải pháp để khắc phục hạn chế của pháp luậtvà nâng cao hiệu quả đấu giá tài sản để
thi hành án dân sự. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống các
vấn đề về bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự là rất cần thiết. Từ yêu cầu
đó, học viên đã chọn “Bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự theo theo pháp
luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu luận
2
văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, trước yêu cầu hội nhập kinh tế và cải cách tư
pháp đã, cải cách hành chính đã có nhiều đề tài khoa học nghiên cứu vấn đề bán
đấu giá tài sản ở Việt Nam nói chung và bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự
nói riêng đã được công bố. Cụ thể về luận văn, luận án có đề tài luận văn thạc sĩ luật
học “Quản lý nhà nước về hoạt động bán đấu giá tài sản từ thực tiễn thành phố Hồ
Chí Minh” của tác giả Phạm Văn Sỹ bảo vệ tại Học viện Hành chính quốc gia năm
2006; đề tài luận án tiến sĩ luật học “Pháp luật về đấu giá tài sản trong thương mại
ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Mạnh Cường bảo vệ tại Học viện Khoa học xã hội
năm 2012; đề tài luận án thạc sĩ luật học “Bán đấu giá tài sản trong thi hành án các
bản án giải quyết tranh chấp về hoạt động tín dụng ngân hàng trên địa bàn tỉnh
Hưng Yên” của tác giả Trịnh Thanh Tùng bảo vệ tại Học viện Khoa học xã hội năm
2017; đề tài luận án thạc sĩ luật học “Bán đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất ở
trong thi hành án dân sự từ thực tiễn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng” của tác
giả Trần Thị Mỹ Hằng bảo vệ tại Học viện Khoa học xã hội năm 2019.
Về các bài tạp chí khoa học có bài “Một số vướng mắc về bán đấu giá tài sản
để thi hành án” của Đinh Duy Bằng đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số
chuyên đề tháng 02/2012; bài “Một số bất cập trong việc định giá, định giá lại tài
sản kê biên” của tác giả Vũ Hòa đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên
đề tháng 12/2012; bài “Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự vẫn còn là
điểm nghẽn” của tác giả Nguyễn Quang Thái và Đào Thị Thúy Lan đăng trên Tạp
chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề 4/2016 ; bài “Trình tự, thủ tục đấu giá tài
sản theo Luật đấu giá tài sản" của tác giả Nguyễn Đại Dân đăng trên Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật số chuyên đề 2017; bài “ Giải pháp nâng cao hiệu quả bán đấu
giá tài sản trong thi hành án” tác giả Lê Thị Kim Dung và Văn Thị Tâm Hồng
đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề 2017...
Các luận văn, luận án và các công trình nêu trên đã giải quyết được một số
nội dung liên quan đến bán đấu giá tài sản thi hành án trong công tác thi hành án
3
dân sự. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và
toàn diện các vấn đề thực tiễn về bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự theo Luật
Đấu giá tài sản năm 2016.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu nhằm làm rõ thực trạng pháp luật Việt Nam
hiện hành và thực tiễn thực hiện pháp luật về bán đấu giá tài sản trong thi hành án
dân sự,từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao
hiệu quả thực hiện chế định này.
Từ mục đích như đã nêu trên, luận văn sẽ tập trung giải quyết những nhiệm
vụ sau:
Phân tích cơ sở lý luận của bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.
Phân tích và đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về bán
đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.
Nghiên cứu thực tiễn thi hành pháp luật Việt Nam về bán đấu giá tài sản
trong thi hành án dân sự trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Phát hiện những vướng mắc, bất cập của các quy định pháp luật Việt Nam
hiện hành về bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự và khó khăn, vướng mắc
trong thực tiễn thực hiện; từ đó tìm ra các giải pháp nâng cao hiệu quả của bán đấu
giá tài sản trong thi hành án dân sự .
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về bán đấu giá tài sản
trong thi hành án dân sự, các quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản trong thi
hành án dân sự và thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về bán đấu giá tài
sản trong thi hành án dân sự trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong một số năm
gần đây.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Trong nghiên cứu, trình
4
bày luận văn học viên đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học knhư
phương pháp phân tích, diễn giải, tổng hợp, so sánh để giải quyết những nhiệm vụ
đặt ra đối với việc nghiên cứu đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn nghiên cứu cơ bản, có tính hệ thống về bán đấu giá tài sản để thi
hành án dân sự. Luận văn còn là tài liệu tham khảo cho giảng viên, sinh viên và
những người làm công tác thực tiễn liên quan đến lĩnh vực thi hành án dân sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời nói đầu, Phần kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được cơ cấu gồm ba chương, như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bán đấu giá tài sản để thi hành án dân
sự.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự
và thực tiễn thực hiện tại Thành phố Hồ Chí Minh .
Chương 3: Quan điểm, phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và
5
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐỂ THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái quát chung về bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự
Bán đấu giá tài sản là phương thức trao đổi tài sản đã có từ rất lâu trên thế
giới. Theo những người Hy Lạp cổ đại thì hình thức bán đấu giá đã xuất hiện tại
Babylon từ khoảng năm 500 năm trước công nguyên, theo đó thì “những người phụ
nữ xinh đẹp được đưa đến những cuộc đấu giá cao cấp, còn những phụ nữ xấu phải
kèm theo của hồi môn và mang tới những cuộc đấu giá để đợi được chấp nhận. Bất
cứ người con gái nào bị gả bán ngoài cuộc đấu giá đều là bất hợp pháp” [39, tr.1].
Trong đế chế La Mã, phương thức bán đấu giá tiếp tục được sử dụng để bán tất cả
chiến lợi phẩm của chiến tranh mà chủ yếu là nô lệ và tài sản con nợ bị tịch thu [39,
tr.1].
Ngày nay, phương thức bán đấu giá tài sản được sử dụng như là một phương
thức mua bán thông thường và phổ biến trên thế giới. Cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của công nghệ thông tin, bán đấu giá tài sản hiện nay được mở rộng hơn rất
nhiều, đã phát triển lên một bước mới. Việc bán đấu giá tài sản được tổ chức bằng
các hình thức công khai, theo phương thức đặt giá xuống hoặc đấu giá lên.
Theo hình thức công khai thì tài sản được chào bán với một mức giá được
xác định, người bán sẽ tiếp tục nâng mức giá lên cao cho đến khi không còn người
nào đưa ra mức giá cao hơn. Người đã trả mức giá cao nhất cuối cùng chính là
người thắng cuộc trong buổi đấu giá. Đây là một hình thức phổ biến được áp dụng
nhiều nhất để giao dịch sản phẩm, hàng hóa, cổ vật, các bộ sưu tập tem, xe cổ, tiền
cổ, tác phẩm nghệ thuật …
Tại Hà Lan, theo phương thức đặt giá xuống thì người bán có thể đưa ra một
mức giá rất cao cho sản pẩm, hàng hóa muốn bán. Mức giá này thường là mức giá
6
“trên trời” và không ai có thể mua nổi. Mức giá được hạ dần trong khoảng thời gian
nhất định (thường theo thời gian của một chiếc đồng hồ). Nếu những người tham
gia trả giá chấp nhận ở mức giá nào đó thì cần ấn nút chấp nhận ngay, nếu không sẽ
mất cơ hội. Phương thức này ở Hà Lan thường được áp dụng tại các chợ hoa và đặc
biệt với sản phẩm là hoa tulip.
Tại Anh thì bán đấu giá có đặc trưng riêng. Người bán đấu giá điều khiển
cuộc bán đấu giá sao cho người trả giá thắng được mức giá hiện tại. Giá chào mới
phải cao hơn giá chào cũ một khoảng được ấn định trước. Cuộc bán đấu giá xem
như kết thúc nếu như không còn người nào đưa ra mức giá cao hơn. Người trả giá sẽ
thắng và trả số tiền theo mức giá đã chào [20, tr.120]. Kiểu bán đấu giá này còn
được gọi là bán đấu giá mức thứ hai.
Cùng với sự phát triển của xã hội, bán đấu giá đã phát triển thành một
phương thức mua bán tài sản phổ biến, thông thường và không thể thiếu trong kinh
doanh, thương mại của thế giới. Khái niệm về bán đấu giá được giải thích ở nhiều
góc độ khác nhau.
Tại Việt Nam khái niệm bán đấu giá tài sản cũng được xem xét, đưa ra trong
nhiều tài liệu khác nhau. Theo Đại Từ điển Bách khoa Việt Nam“Đấu giá là hình
thức bán những tài sản hoặc tài sản thường thuộc loại đắt tiền, hàng quý hiếm.
Người bán đặt mức giá chuẩn, những người mua trả giá từ thấp đến cao, tài sản
được bán cho người mua trả cao nhất” [15, tr.136]. Theo Từ điển Luật học thì “Bán
đấu giá tài sản là hình thức bán công khai một tài sản, một khối tài sản; theo đó có
nhiều người muốn mua tham gia trả giá, người trả giá cao nhất nhưng không thấp
hơn giá khởi điểm là người mua được tài sản” [36, tr.31].
Theo quy định tại Điều 451 Bộ luật dân sự 2015 :
“ Tài sản có thể được đem bán đấu giá theo ý chí của chủ sở hữu hoặc theo
quy định của pháp luật. Tài sản thuộc sở hữu chung đem bán đấu giá phải có sự
đồng ý của tất cả các chủ sở hữu chung, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc
7
pháp luật có quy định khác.
Việc bán đấu giá tài sản phải đảm bảo nguyên tắc khách quan, công khai,
minh bạch, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia và được thực
hiện theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản”.
Vậy bán đấu giá tài sản là gì?
Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai để cho nhiều người có
thể được tham gia trả giá mua một tài sản. Những người tham gia mua tài sản bán
đấu giá phải nộp một khoản lệ phí theo quy định của pháp luật. Khoản tiền này
nhằm ràng buộc người đã đăng kí phải tham gia bán đấu giá hoặc không mua tài sản
thì số tiền này không được lấy lại. Nếu họ có tham gia đấu giá nhưng không mua
được thì được nhận lại số tiền lệ phí mà mình đã đóng.
Khi tham gia đấu giá tài sản, người nào trả giá cao nhất nhưng không thấp
hơn giá khởi điểm thì người đó được mua tài sản. Nếu trong cuộc bán đấu giá mà
không ai trả giá cao hơn giá khởi điểm thì cuộc bán đấu giá xem như không thành
và sẽ được tổ chức lại.
Trong hoạt động thi hành án dân sự, khi người được thi hành án và người
phải thi hành án không thỏa thuận được về giá trị của tài sản hoặc không thỏa thuận
được về việc nhận tài sản đã kê biên để cấn trừ nghĩa vụ thi hành án thì chấp hành
viên căn cứ vào quy định của pháp luật để tiến hành định giá tài sản để đưa tài sản
ra bán đấu giá thi hành án. Chấp hành viên căn cứ vào kết quả định giá tài sản để ký
hợp đồng dịch vụ đấu giá với tổ chức đấu giá tài sản hoặc tự mình sẽ đứng ra tổ
chức bán đấu giá tài sản nhằm bảo đảm việc thi hành án.
Quá trình bán đấu giá tài sản để thi hành án được bắt đầu kể từ khi chấp hành
viên tiến hành kê biên tài sản, định giá tài sản và sẽ kết thúc khi tài sản đã đem bán
đấu giá thành và được bàn giao xong cho người trúng đấu giá trong phiên đấu giá.
Về bản chất việc bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự là một phương
thức được tổ chức công khai tại một nơi nhất định, theo trình tự, thủ tục mà pháp
luật về bán đấu giá tài sản đã quy định. Trong quan hệ mua bán tài sản thì chỉ có
một người bán nhưng lại có rất nhiều người mua. Tất cả những người mua đều
8
muốn mua được tài sản nên sẽ cạnh tranh với nhau, điều đó sẽ làm giá trị của tài sản
được tăng lên và đẩy giá tài sản lên đến mức cao nhất có thể, người có tài sản bán
đấu giá có thể thu về được số tiền cao nhất từ việc bán tài sản.
Như vậy, bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự là hình thức mua bán
đặc biệt, công khai đối với tài sản bị kê biên để thi hành án, theo nguyên tắc và
trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, người mua trả giá dựa trên khởi điểm do cơ
quan thi hành án xác định, người nào trả giá cao nhất sẽ được quyền mua tài sản
đấu giá.
1.1.2. Đặc điểm bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự.
1.1.2.1. Về ý chí của người có tài sản bán đấu giá trong thi hành án dân sự
Trong bán đấu giá thông thường thì người có tài sản chủ động mang tài sản,
hàng hóa của mình tham gia đấu giá với mong muốn bán hàng hóa, tài sản với giá
cao nhất,do đó họ tham gia với vai trò tích cực, chủ động để việc bán đấu giá thành
công. Tuy nhiên, việc bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự với tư cách là một biện
pháp nối tiếp trong quá trình cưỡng chế kê biên xử lý đối với tài sản của người phải
thi hành án nhằm bảo đảm việc thi hành án nên người có tài sản bán đấu giá thường
hay tìm mội cách để chống đối hay cản trở không tự nguyện mang tài sản của mình
đến bán đấu giá mà bị cưỡng chế kê biên xử lý bởi cơ quan thi hành án dân sự.
Khi tham gia bán đấu giá, người được thi hành án thì mong muốn tài sản
được nhanh chóng bán đấu giá thành công để mình sớm nhận được tiền theo nội
dung của bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, người
phải thi hành án thì ngược lại, họ có cảm giác mình bị ép buộc, bị cưỡng chế nên
thường có tâm lý chống đối như chây ỳ, cố tình gây khó khăn, cản trở quá trình bán
đấu giá tài sản thi hành án.
1.1.2.2. Có sự tham gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quan hệ bán đấu
giá tài sản
Trong bán đấu giá thông thường thì người có tài sản có thể tự mình tổ chức
bán đấu giá nhưng cũng có thể bán thông qua tổ chức dịch vụ bán đấu giá. Tuy
nhiên trong việc bán đấu giá tài sản để thi hành án thì ngoài bên có tài sản bán đấu
9
giá và tổ chức làm dịch vụ đấu giá tài sản thì còn có tham gia của Cơ quan thi hành
án dân sự, Chấp hành viên. Sự tham gia của Cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành
viên thể hiện ở việc quyết định lựa chọn tổ chức bán đấu giá tài sản, ở việc ký hợp
đồng dịch vụ đấu giá...
1.1.2.3. Phương thức, hình thức bán đấu giá
Trong bán đấu giá thông thường, việc bán đấu giá có thể thực hiện bằng
nhiều phương thức khác nhau như trả giá công khai lên, trả giá công khai xuống
v.v.. miễn là hai bên (bên có tài sản mang bán đấu giá và bên thực hiện dịch vụ bán
đấu giá) thỏa thuận với nhau về hình thức thực hiện và thỏa thuận đó tuân thủ theo
đúng quy định pháp luật. Tại Việt Nam, việc bán đấu giá tài sản được thực hiện
theo hình thức đấu giá trực tiếp bằng lời nói, đấu giá bằng bỏ phiếu trực tiếp hoặc
gián tiếp, đấu giá trực tuyến. Tuy nhiên, trong quá trình thực tiễn thực hiện thì việc
bán đấu giá tài sản thi hành án chỉ thực hiện duy nhất bằng hình thức đấu giá công
khai, trực tiếp bằng lời nói theo phương thức trả giá lên để đảm bảo tính công khái,
minh bạch, khách quan và tránh những rủi ro khi tổ chức bán đấu giá tài sản.
1.1.2.4. Về tài sản bán đấu giá trong thi hành án dân sự
Trong bán đấu giá tài sản thông thường thì tài sản đem ra bán đấu giá có thể
là bất kỳ tài sản nào mà người có tài sản muốn bán. Người bán hàng chỉ đưa ra mức
giá cơ bản (mức giá khởi điểm) để người mua tham khảo giá, còn giá bán thực tế do
những người tham dự cuộc đấu giá xác định trên cơ sở tự cạnh tranh giá với nhau.
Lợi ích mà người bán muốn thu được là giá trị lợi nhuận từ tài sản, hàng hóa mà
mình đưa ra bán.
Xuất phát từ việc đảm bảo nghĩa vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật nên tài sản được đưa ra bán đấu giá để thi hành án có tính
chất đặc thù là thường có giá trị tương đương hoặc lớn hơn với nghĩa vụ phải thi
hành án chứ không phải là bất kỳ tài sản nào mà người phải thi hành án đang có.
Tài sản có thể là bất động sản, động sản, quyền sở hữu trí tuệ và các tài sản khác
nhưng có thể định giá được theo cách thông thường chứ không phải là tài sản khó
xác định giá trị thực như đồ đạc kỷ niệm hoặc các loại đồ sưu tập....
10
1.1.2.5. Sự phối hợp giữa các bên trong quá trình bán đấu giá tài sản trong thi hành
án dân sự
Khác với bán đấu giá thông thường, việc bán đấu giá chỉ có sự tham gia của
người có tài sản mang bán đấu giá, người mua được tài sản bán đấu giá và cá nhân,
tổ chức thực hiện việc bán đấu giá. Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự là
quá trình phức tạp với sự tham gia của nhiều bên, bao gồm: người phải thi hành án (
thường là người sở hữu tài sản bị mang bán đấu giá); người được thi hành án;người
có quyền lợi liên quan đến việc bán đấu giá; Cơ quan thi hành án dân sự (Chấp
hành viên); tổ chức bán đấu giá tài sản, Viện kiểm sát nhân dân và những người
đăng ký tham gia đấu giá tài sản.
Việc bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự là quá trình phức tạp và có
thể gặp vướng mắc ngay từ quá trình định giá tài sản nếu như được thi hành án và
bên phải thi hành án không thỏa thuận được về giá trị tài sản, về tổ chức thẩm định
giá, tổ chức bán đấu giá khi đó Chấp hành viên phải quyết định lựa chọn tổ chức
thẩm định giá, tổ chức bán đấu giá. Trong quá trình tổ chức việc bán đấu giá tài sản
để thi hành án cũng có thể phát sinh các tranh chấp giữa những người phải thi hành
án với cá nhân tổ chức khác, giữa những người tham gia đấu giá, người có tài sản
bán đấu giá với tổ chức cung cấp dịch vụ đấu giá và khi kết thúc việc đấu giá vẫn
có thể xảy ra tranh chấp hủy kết quả đấu giá hoặc các tranh chấp liên quan đếm việc
bàn giao tài sản bán đấu giá.
Do có nhiều bên tham gia trong quá trình tổ chức bán đấu giá tài sản thi hành
án, việc bán đấu giá tài sản thi hành án thường phức tạp nên pháp luật quy định rất
chặt chẽ về trình tự, thủ tục bán đấu giá và quá trình tổ chức bán đấu giá đòi hỏi
phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên tham gia. Quá trình bán đấu giá tài sản để
thi hành án dân sự đòi hỏi những cá nhân, tổ chức có thẩm quyền liên quan thực
hiện trách nhiệm một cách công tâm, khách quan, tuân thủ đầy đủ các quy định của
pháp luật, đồng thời phải có sự phối hợp kịp thời, chặt chẽ với người sở hữu tài sản
bị bán đấu giá, người được thi hành án và người mua được tài sản bán đấu giá để
nhanh chóng giải quyết những vướng mắc phát sinh trong quá trình tổ chức đấu giá
11
tài sản.
1.1.3. Ý nghĩa của bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự.
1.1.3.1. Bán đấu giá tài sản là một biện pháp cưỡng chế nhằm bảo đảm thi hành án
dân sự
Trong hoạt động thi hành án dân sự, việc xử lý tài sản để thi hành án được
thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó bán đấu giá tài sản trong thi
hành án dân sự là một hình thức xử lý tài sản thường được áp dụng nhằm bảo đảm
cho việc thi hành nghĩa vụ trả tiền trong thi hành án dân sự. Thông thường, bán đấu
giá tài sản là một công đoạn trong quá trình thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự
, được áp dụng sau khi đã tiến hành thủ tục kê biên, định giá tài sản.
Việc cưỡng chế thi hành án dân sự chỉ thực sự có ý nghĩa khi tài sản cưỡng
chế kê biên được bán đấu giá thành công, Cơ quan thi hành án dân sự thu được
khoản tiền để đảm bảo việc thi hành các nghĩa vụ theo bản án, quyết định của Tòa
án đã có hiệu lực. Pháp luật thi hành án dân sự quy định việc bán tài sản đã kê biên
để thi hành án chỉ được thực hiện duy nhất qua hình thức bán đấu giá, đối với tài
sản tài sản tươi sống, mau hỏng hoặc có giá trị rất nhỏ dưới 2.000.000 đồng thì
được bán không thông qua thủ tục bán đấu giá. Nếu Chấp hành viên không tuân thủ
và cố ý làm trái với quy định về phương thức bán tài sản đã kê biên để thi hành án
thì tùy theo tính chất, động cơ, mục đích, mức độ của hành vi vi phạm sẽ bị xử lý
theo quy định của pháp luật.
1.1.3.2. Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự là một biện pháp bảo đảm
quyền lợi của các bên trong quan hệ thi hành án dân sự
Bán đấu giá trong thi hành án dân sự trước hết là một hình thức dịch vụ
thông thường giữa Chấp hành viên và Tổ chức đấu giá tài sản thông qua hợp đồng
dịch vụ đấu giá tài sản được ký giữa chấp hành viên với Tổ chức đấu giá tài sản, Tổ
chức đấu giá thu được khoản phí từ dịch vụ đấu giá do họ cung cấp.
Với tính công khai, minh bạch và đại chúng nên cuộc đấu giá tất yếu sẽ có
nhiều người tham gia, tài sản sẽ bán được dễ dàng hơn và giá trị tài sản thu được là
cao nhất. Do vậy, đảm bảo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực được thi
12
hành, quyền lợi của người được thi hành án được bảo đảm.
1.1.3.3. Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự góp phần hoàn thiện thủ tục thi
hành án dân sự
Trước đây việc bán tài sản trong thi hành án dân sự do Chấp hành viên của
cơ quan thi hành án dân sự tiến hành theo cách thức bán tài sản thông thường. Như
vậy, sẽ rất dễ dẫn đến tình trạng Chấp hành viên lạm quyền, cố ý làm sai, không
bảo đảm quyền lợi cho người được thi hành án, người phải thi hành án nếu như
Chấp hành viên không vô tư, khách quan khi thi hành công vụ.
Mặt khác, với việc Chấp hành viên tự kê biên tài sản, tự mình tổ chức bán tài
sản đã kê biên sẽ dẫn đến việc tập trung quyền lực rất lớn ở Chấp hành viên khi thi
hành công vụ. Điều đó còn dẫn đến sự lộng quyền, dễ dàng tha hóa, biến chất khi
thi hành công vụ nếu Chấp hành viên đó không có lập trường tư tưởng vững vàng,
không có đạo đức công vụ tốt. Chấp hành viên có thể lợi dụng việc bán tài sản đã
kê biên để đưa “ tay trong " hoặc người nhà, người quen vào mua bán tài sản, thông
đồng, dìm giá gây thiệt hại cho chính người chủ sở hữu tài sản ( người phải thi hành
án) và ngay cả người được thi hành án cũng bị ảnh hưởng quyền lợi của mình.
1.1.4. Nguyên tắc pháp luật bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự.
Nhằm bảo đảm cho hoạt động đấu giá tài sản diễn ra trong khuôn khổ pháp
luật, bảo đảm sự thống nhất quản lý của nhà nước, bảo đảm quyền nghĩa vụ các bên
- Nguyên tắc công khai, liên tục:
tham gia, pháp luật về bán đấu giá tài sản quy định một số nguyên tắc cụ thể sau:
Nguyên tắc này đòi hỏi hoạt động bán đấu giá tài sản phải công khai tất cả
các thông tin liên quan đến tài sản bán đấu giá, công khai ngay từ giai đoạn ra thông
báo bán đấu giá về các thông tin liên quan đến tài sản như: người có tài sản bán đấu
giá, chủ sở hữu tài sản, tổ chức bán đấu giá tài sản; công khai về thời gian, địa điểm
bán đấu giá, giá khởi điểm; công khai về tình trạng tài sản, chất lượng tài sản, số
lượng, các đặc tính kỹ thuật. Tại cuộc bán đấu giá tài sản, người điều hành phiên
đấu giá phải công khai tất cả các thông tin liên quan như: giới thiệu từng tài sản bán
13
đấu giá, giới thiệu những người tham giá đấu giá hợp lệ, nhắc lại giá khởi điểm, trả
lời các câu hỏi của những người tham gia đấu giá và đề nghị những người tham gia
- Nguyên tắc khách quan, trung thực, công bằng:
đấu giá trả giá. . .
Nguyên tắc này yêu cầu tất cả thông tin liên quan đến cuộc bán đấu giá đều
phải khách quan, trung thực, chính xác, không được sai lệch. Tất cả các thông tin về
người có tài sản bán đấu giá, người tổ chức bán đấu giá, tài sản bán đấu giá, chất
lượng tài sản, nguồn gốc xuất sứ tài sản. . . đều phải chính xác, các bên phải trung
thực không được gian dối, không được đăng thông tin sai lệch về việc bán đấu giá.
Trong bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự, nguyên tắc khách quan được
thể hiện thông qua việc xác định giá trị khởi điểm để đưa tài sản ra bán đấu giá phải
phù hợp với giá trị thị trường thực tế của tài sản. Nếu việc xác định giá trị tài sản
không đúng với thực tế sẽ gây thiệt hại cho một trong các bên có liên quan đến việc
bán đấu giá và có thể sẽ phát sinh những tranh chấp làm ảnh hưởng đến quá trình tổ
chức bán đấu giá tài sản để thi hành án .
Nguyên tắc trung thực đòi hỏi tất cả các chủ thể tham gia quan hệ đấu giá tài
sản đều phải tuân theo, không thể xảy ra tình trạng dối trá, không trung thực với
khách hàng, không để xảy ra tình trạng người có tài sản bán đấu giá, người tham gia
đấu giá và người tổ chức đấu giá tài sản móc ngoặc, thông đồng với nhau. Nguyên
tắc trung thực nhằm bảo vệ quyền lợi cho các bên tham gia bán đấu giá, đảm bảo
cho khách hàng có sự yên tâm về tài sản mà mình lựa chọn [37, tr.278,279].
Nguyên tắc công bằng giữa các bên được thể hiện qua việc bất cứ tổ chức, cá
nhân nào cũng đều có quyền đăng ký tham gia đấu giá (trừ trường hợp không đủ
điều kiện như người không được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, trường
hợp không được tham gia đấu giá, …theo quy định). Khi đăng ký tham gia đấu giá
thì phải nộp phí mua hồ sơ đấu giá và khoản tiền đặt trước để được tham gia đấu
giá. Tất cả những người tham gia đấu giá đều có quyền tiếp cận đối với tài sản đấu
giá như nhau. Tại phiên bán đấu giá, những người tham gia phiên đấu giá tài sản
đều có quyền tự do trả giá, người điều hành phiên đấu giá tài sản buộc phải công
14
khai các mức giá đã trả và họ tên người mua trả giá cao nhất trong mỗi bước giá.
Người đã trả giá cao nhất và cuối cùng thì sẽ là người thắng cuộc trong phiên đấu
giá tài sản .
- Nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia:
Trong quan hệ bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự, do có rất nhiều bên có
quyền, lợi ích liên quan nên việc bảo đảm quyền và lợi ích của các bên luôn được
dung hòa. Người mua được tài sản bán đấu giá sau khi thanh toán tiền đủ tiền thì
được nhận tài sản và được thực hiện đầy đủ có quyền của mình theo hợp đồng dịch
vụ đấu giá tài sản, hợp đồng mua bán tài sản đấu giá. Người mua trúng đấu giá
được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản đã mua trúng đấu
giá trong mọi trường hợp dù người chủ sở hữu tài sản có chây ỳ, không chịu bàn
giao tài sản và giấy tờ sở hữu tài sản. Cơ quan thi hành án dân sự thực hiện chi trả
tiền cho người được thi hành án theo bản án, quyết định của Tòa án, khấu trừ chi
phí tổ chức cưỡng chế thi hành án sau khi nhận được tiền tổ chức bán đấu giá
- Mọi cuộc bán đấu giá đều phải do đấu giá viên điều hành theo đúng trình
chuyển và bàn giao số tiền còn lại cho người phải thi hành án nếu còn thừa.
tự, thủ tục bán đấu giá:
Theo nguyên tắc này thì tất cả các phiên bán đấu giá tài sản đều phải do đấu
giá viên có đủ điều kiện, năng lực bán đấu giá tài sản điều hành theo đúng trình tự,
thủ tục quy định trong Luật đấu giá tài sản thì phiên đấu giá mới có giá trị và được
pháp luật công nhận. Nếu đấu giá viên không đủ điều kiện nhưng vẫn điều hành
phiên đấu giá thì đương nhiên phiên bán đấu giá đó sẽ bị hủy, quyền và nghĩa vụ
của các bên không được thiết lập, bên nào có lỗi thì sẽ phải bồi thường thiệt hại cho
người trúng đấu giá mà không mua được tài sản.
1.2. Khái quát lý luận về pháp luật bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự.
1.2.1. Khái niệm pháp luật bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự.
Theo Từ điển Luật học thì: “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang
tính bắt buộc chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội, phục vụ và bảo vệ quyền lợi của các tầng lớp dân cư trong xã hội”
15
[36, tr.15].
Theo khoản 2 Điều 5 Luật Đấu giá tài sản năm 2016 thì: “Đấu giá tài sản là
hình thức bán tài sản có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc,
trình tự và thủ tục được quy định tại Luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 49
của Luật này’’ [27, tr.2].
Như vậy, dựa trên các khái niệm về pháp luật, khái niệm về bán đấu giá tài
sản và khái niệm bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự, có thể đưa ra khái
niệm pháp luật về bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự như sau: Pháp luật về
bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự là hệ thống các quy phạm pháp luật điều
chỉnh lĩnh vực bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự, quy định về nguyên tắc,
trình tự, thủ tục được Nhà nước thừa nhận hoặc ban hành, quy định hình thức mua
bán đặc biệt, công khai đối với tài sản bị kê biên để thi hành án nhằm bảo đảm việc
thi hành án dân sự có hiệu quả, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của cá
nhân, tổ chức.
Tính khách quan của sự ra đời pháp luật về bán đấu giá tài sản trong thi
hành án dân sự trong hệ thống pháp luật
Thứ nhất, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong bán đấu
giá tài sản thi hành án dân sự.
Thứ hai, bắt nguồn từ yêu cầu thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng
về hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách tư pháp.
Thứ ba, pháp luật về bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự tạo cơ sở
pháp lý cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động này.
Trong lịch sử thi hành án dân sự, việc chấp hành viên thực hiện việc cưỡng
chế kê biên đối với tài sản diễn ra khá phổ biến và có thể coi đây là biện pháp
nghiệp vụ chủ yếu. Hiệu quả của việc thi hành án chỉ đạt được khi tài sản bị cưỡng
chế kê biên bán được thành công. Tuy nhiên, từ thực tiễn hoạt động bán tài sản
trong thi hành án dân sự cho thấy, nếu để chấp hành viên tự bán tài sản đã cưỡng
chế kê biên như thủ tục bán tài sản thông thường thì sẽ dẫn đến một số hậu quả tiêu
16
cực sau:
Thứ nhất, khó bán được những tài sản có giá trị lớn. Do cơ quan thi hành án
dân sự chỉ hoạt động giới hạn trong lãnh thổ hành chính nhất định nên việc thông
báo bán tài sản thi hành án dân sự khó có thể công khai rộng rãi để nhiều người
được biết, nhất là những người ở những tỉnh, thành phố khác. Đối với những tài sản
có giá trị lớn, không phải người dân nào ở địa phương đó cũng có đủ điều kiện để
mua, do đó sẽ có những tài sản không thể bán được.
Thứ hai, không đảm bảo quyền, lợi ích cho các bên liên quan trong quan hệ
mua bán tài sản thi hành án. Do chấp hành viên thường chỉ quan tâm đến việc bán
được tài sản mà không quan tâm đến giá của tài sản bán được. Vì vậy, có trường
hợp tài sản được bán không đúng với giá trị thực của nó và cũng không có cơ sở đối
chiếu, kiểm chứng.
Thứ ba, Chấp hành viên là người vừa cưỡng chế kê biên, vừa là người bán tài
sản, dễ dẫn đến sự lạm quyền khi thi hành công vụ. Chấp hành viên thích kê biên tài
sản nào thì kê biên, thích bán như thế nào thì tùy. Không kể đến việc chấp hành
viên thông đồng với tổ chức bán đấu giá, với người mua tài sản để bán với giá rẻ
nhất để vụ lợi hoặc tìm cách để không bán được tài sản nếu cấu kết với người phải
thi hành án. Cho dù như thế nào, thì quyền lợi của những người tham gia trong quan
hệ thi hành án và mua bán tài sản thi hành án dân sự cũng không được bảo đảm; đạo
đức công vụ của chấp hành viên cũng dễ bị ảnh hưởng.
Luật Đấu giá tài sản năm 2016 ra đời với tính chất công khai, đại chúng,
khách quan của mình, bán đấu giá hoàn toàn khắc phục được những nhược điểm
của bán tài sản theo cách thông thường trong thi hành án dân sự. Thông qua biện
pháp bán đấu giá sẽ bảo đảm tài sản của người thi hành án được bán với giá cao
nhất, tránh được tình trạng dìm giá, trục lợi. Cùng với đó, bản án được thi hành
nghiêm chỉnh, đúng pháp luật góp phần bảo vệ trật tự, kỷ cương của xã hội.
1.2.2. Nội dung của pháp luật về bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự
Nội dung của pháp luật về bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự bao
gồm các quy phạm pháp luật về: Chủ thể bán đấu giá, đối tượng bán đấu giá, tài sản
17
bán đấu giá trong thi hành án dân sự, trình tự và thủ tục bán đấu giá tài sản trong thi
hành án dân sự, phương thức, hình thức bán đấu giá và quản lý nhà nước về bán đấu
giá tài sản trong thi hành án dân sự. Trong đó:
Thứ nhất, về chủ thể bán đấu giá: trong nguyên lý chung của bán đấu giá tài
sản thì người bán đấu giá tài sản là Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản hoặc
Doanh nghiệp có chức năng bán đấu giá tài sản, người yêu cầu bán đấu giá có thể
là chủ sở hữu của tài sản bán đấu giá, bên nhận bảo đảm tài sản đấu giá, cơ quan thi
hành án. Người tham gia đấu giá là người được quyền tham gia trả giá khi cuộc bán
đấu giá tài sản được tiến hành, bao gồm những người đã đăng ký đấu giá, nộp lệ
phí tham gia đấu giá và có tên trong danh sách đấu giá, người mua tài sản đấu giá
là người trả giá cao nhất trong số những người tham gia đấu giá với điều kiện giá
mua tài sản mà họ đã trả bằng hoặc cao hơn giá khởi điểm. Tuy nhiên, trong việc
bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự thì người yêu cầu bán đấu giá là cơ quan thi
hành án chứ không phải là chủ sở hữu của tài sản bán đấu giá (khỉ họ không tự
nguyện).
Thứ hai, đối tượng bán đấu giá là tài sản trong thi hành án dân sự: Luật
đấu giá tài sản chỉ quy định tài sản thi hành án là một trong các nhóm đối tượng
được bán đấu giá tài sản chứ không liệt kê cụ thể các tài sản nào được bán đấu
giá, tài sản nào không được bán đấu giá và hạn chế bán đấu giá. Luật Thi hành
án dân sự hiện hành cũng không quy định cụ thể loại tài sản nào dùng để bán
đấu giá thi hành án. Tuy nhiên theo quy định thì có thể hiểu đối tượng đấu giá
tài sản thi hành án chính là tài sản đã bị cưỡng chế kê biên tài sản để thi hành án.
Tài sản đó có thể là bất động sản động sản hoặc quyền sở hữu trí tuệ có giá trị ít
nhất từ 10.000.000 đồng trở lên.
Thứ ba, về tài sản bán đấu giá trong thi hành án dân sự. Đối với việc bán
đấu giá thông thường thì tài sản được đem ra bán đấu giá có thể là bất kỳ tài sản nào
mà người bán muốn đưa ra bán. Người bán tài sản chỉ đưa ra mức giá khởi điểm để
những người mua tham khảo giá, còn giá bán thực tế do những người tham dự cuộc
đấu giá xác định trên cơ sở tự cạnh tranh giá với nhau. Còn trong bán đấu giá tài sản
18
trong thi hành án dân sự thì xuất phát từ việc để đảm bảo thi hành nghĩa vụ theo bản
án, quyết định của Tòa án. Tài sản đưa ra bán đấu giá để thi hành án thường có giá
trị tương đương hoặc lớn hơn với nghĩa vụ phải thi hành theo bản án, quyết định của
Tòa án chứ không phải là bất kỳ tài sản nào mà người phải thi hành án có.
Thứ tư, về trình tự và thủ tục bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự,
bao gồm: Ký Hợp đồng dịch vụ đấu giá, niêm yết, thông báo công khai và trưng bày
tài sản bán đấu giá; mua hồ sơ và đăng ký tham gia bán đấu giá; trình tự, thủ tục của
phiên đấu giá; rút lại giá đã trả; hủy kết quả bán đấu giá, ký hợp đồng mua bán tài
sản bán đấu giá; bảo vệ quyền lợi ích của người mua tài sản bán đấu giá, người
nhận tài sản để thi hành án; trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự và các cơ
quan có thẩm quyền trong việc đăng ký chuyển quyền sở hữu, sử dụng cho người
mua tài sản bán đấu giá, người nhận tài sản để trừ vào tiền được thi hành, xử lý tài
sản không có người tham gia đấu giá, bán đấu giá không thành.
Thứ năm, việc bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự thực hiện theo
trình tự thủ tục thi hành án dân sự và mang tính cưỡng bức. Theo đó, sau khi hết
thời hạn tự nguyện thi hành án theo luật định nhưng người phải thi hành án không
tự nguyện thi hành án mặc dù có tài sản thì Cơ quan thi hành án dân sự sẽ tiến hành
kê biên tài sản để bán đấu giá thi hành án mà không phụ thuộc vào ý chí của người
phải thi hành án là muốn hay không muốn bán. Trong trường hợp này, về phía
người được thi hành án mong muốn nhanh chóng bán được tài sản để thi hành bản
án, quyết định của Tòa án và mong nhanh chóng nhận được tiền. Còn về phía người
phải thi hành án thì do mang tâm lý bị ép buộc, cưỡng chế, nên thường có tâm lý
chây ì, cố tình cản trở gây khó khăn cho quá trình bán đấu giá tài sản thi hành án.
Do đó pháp luật bán đấu giá tài sản quy định trình tự, thủ tục bán đấu giá khá chặt
chẽ và cần sự phải có phối hợp chặt chẽ giữa các bên tham gia trong quá trình bán
đấu giá. Quá trình bán đấu giá tài sản để thi hành án đòi hỏi những tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền liên quan thực hiện trách nhiệm phải khách quan, công tâm, tuân thủ
đầy đủ các quy định của pháp luật về bán đấu giá, đồng thời phải có sự phối hợp
chặt chẽ, kịp thời giữa người sở hữu tài sản bị bán đấu giá, người mua được tài sản
19
bán đấu giá, Cơ quan thi hành án dân sự và Tổ chức bán đấu giá để nhanh chóng
giải quyết những vướng mắc phát sinh nhằm đảm bảo quyền lợi của các bên .
Thứ sáu, về phương thức, hình thức bán đấu giá. Trong bán đấu giá thông
thường, miễn là hai bên thỏa thuận với nhau về hình thức thực hiện (đấu giá trực
tiếp bằng lời nói tại cuộc đấu giá, đấu giá bằng bỏ phiếu trực tiếp tại cuộc đấu giá,
đấu giá bằng bỏ phiếu gián tiếp, đấu giá trực tuyến) và thỏa thuận đó tuân thủ theo
đúng quy định pháp luật thì việc bán đấu giá có thể thực hiện bằng các phương thức
khác nhau như trả giá lên, đặt giá xuống. Còn bán đấu giá tài sản trong thi hành án
dân sự nhằm tránh những mâu thuẫn có thể phát sinh giữa các bên trong quá trình tổ
chức đấu giá, pháp luật về bán đấu giá tài sản đã quy định chặt chẽ về thủ tục,
phương thức, hình thức bán đấu giá, qua đó việc bán đấu giá tài sản được thực hiện
theo hình thức đấu giá trực tiếp bằng lời nói, đấu giá bằng bỏ phiếu. Tuy nhiên,
trong thực tiễn thi hành án thì việc bán đấu giá tài sản để thi hành án chỉ được thực
hiện bằng hình thức công khai, trực tiếp bằng lời nói theo phương thức trả giá lên để
đảm bảo tính khách quan.
Kết luận Chương 1
Đấu giá tài sản là một hoạt động dịch vụ trong nền kinh tế thị trường hiện
nay. Đấu giá tài sản có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển thông qua việc đa
dạng hóa các hình thức trao đổi, mua bán lưu thông hàng hóa. Nhà nước có nhiệm
vụ quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó có hoạt động bán đấu
giá, theo đó Nhà nước quản lý bán đấu giá bằng cách ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật để điều chỉnh các hoạt động bán đấu giá, tổ chức thực hiện pháp
luật bán đấu giá và kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật đối với cá nhận, tổ
chức có hành vi vi phạm pháp luật bán đấu giá, góp phần làm cho thị trường mua
bán hàng hóa thông qua dịch vụ bán đấu giá được công khai, minh bạch, đảm bảo
quyền và lợi ích của các bên.
Bán đấu giá tài sản là một công đoạn trong quá trình thực hiện việc cưỡng
chế thi hành án dân sự nhằm đảm bảo cho việc thi hành nghĩa vụ trả tiền theo bản
án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khác với bán đấu giá tài sản
20
thông thường, bán đấu giá tài sản trong thi hành án thì người sở hữu tài sản thường
không tự nguyện đưa tài sản ra bán đấu giá nên đòi hỏi việc quy định về trình tự,
thủ tục phải hết sức chặt chẽ, các bên phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong
quá trình tổ chức việc bán đấu giá tài sản. Với ý nghĩa là một biện pháp cưỡng chế
nhằm bảo đảm thi hành án dân sự, đảm bảo quyền lợi ích của các bên, bán đấu giá
tài sản cũng góp phần hoàn thiện các thủ tục về thi hành án dân sự trong việc tổ
chức bán đấu giá tài sản để thi hành án.
Chương 1 tác giả đã nêu và phân tích các vấn đề lý luận về bán đấu giá tài
sản, sự hình thành phát triển một số hình thức đấu giá trên thế giới, nghiên cứu tổng
thể về trình tự, thủ tục về bán đấu giá tài sản, làm rõ các cơ sở pháp lý về quản lý
bán đấu giá tài sản. Kết quả nghiên cứu ở chương 1 sẽ làm cơ sở lý luận cho việc
thực hiện chương 2 về thực trạng thực hiện pháp luật về bán đấu giá để thi hành án
21
dân sự tại thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐỂ THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH
2.1. Thực trạng pháp luật về bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự.
Hiện nay bán đấu giá tài sản đã cụ thể hơn trong Luật đấu giá tài sản năm
2016. Dưới đây luận văn phân tích, đánh giá những mặt được, hạn chế của pháp luật
bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự theo nội dung của chế định này.
2.1.1. Chủ thể bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự
Trong bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự thì người yêu cầu bán đấu giá
không phải là chủ sở hữu của tài sản bán đấu giá mà là cơ quan thi hành án, người
bán đấu giá tài sản là có thể là doanh nghiệp có chức năng bán đấu giá tài sản hoặc
Trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản. Đây chính là yếu tố chi phối, tác động nhiều đến
quá trình bán đấu giá và việc thực hiện các trình tự thủ tục bán đấu giá.
- Người có tài sản bán đấu giá và người sở hữu tài sản bán đấu giá
Người có tài sản bán đấu giá trong thi hành án dân sự khác với người có tài
sản bán đấu giá thông thường. Người có tài sản bán đấu giá trong thi hành án dân sự
không phải là chủ sở hữu tài sản mà là chấp hành viên được giao nhiệm vụ thi hành
các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật . Do vậy, Chấp hành
viên có đầy đủ quyền và nghĩa vụ giống như chủ sở hữu tài sản trong đấu giá tài sản
thông thường.
Người sở hữu tài sản thường là người phải thi hành bản án, quyết định của
Tòa án. Tuy nhiên, trong một số trường hợp họ chỉ là người có tài sản chung với
người phải thi hành án mà tài sản đó đang bị cưỡng chế kê biên, định giá, bán đấu
giá dùng để thi hành án dân sự. Do có quyền lợi trực tiếp và liên quan nên họ được
quyền biết tất cả những thông tin về quá trình tổ chức bán đấu giá tài sản. Nếu có
vấn đề phát sinh trong cuộc đấu giá ảnh hưởng đến quyền lợi của họ thì họ có quyền
22
khởi kiện để yêu cầu Tòa án hủy kết quả bán đấu giá tài sản. Trước khi mở cuộc bán
đấu giá tài sản 01 ngày làm việc, người phải thi hành án có quyền nhận lại tài sản
họ nếu nộp đủ các khoản tiền phải thi hành án và thanh toán các chi phí thực tế, hợp
lý đã phát sinh từ việc cưỡng chế thi hành án, tổ chức bán đấu giá tài sản. Họ có
quyền nhận lại số tiền thừa từ việc bán đấu giá tài sản sau khi đã thanh toán các chi
phí theo quy định của pháp luật.
- Tổ chức bán đấu giá tài sản và đấu giá viên
Luật đấu giá tài sản quy định khá rõ ràng về điều kiện đăng ký kinh doanh
của doanh nghiệp đấu giá tài sản. Để hoạt động trong lĩnh vực đấu giá tài sản doanh
nghiệp phải được thành lập, đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp, tổ chức và hoạt
động dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân, Công ty hợp doanh và “Doanh nghiệp
đấu giá tư nhân có chủ doanh nghiệp là đấu giá viên, đồng thời là Giám đốc doanh
nghiệp; Công ty đấu giá hợp danh có ít nhất một thành viên hợp danh là đấu giá
viên, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc của công ty đấu giá hợp danh là đấu giá viên”
Điều 22 [27, tr.11]. Việc quy định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
đấu giá tài sản phải là đấu giá viên nhằm tạo sự bình đẳng giữa Trung tâm dịch vụ
đấu giá tài sản và doanh nghiệp đấu giá tài sản, đồng thời nâng cao trách nhiệm của
doanh nghiệp trong hoạt động đấu giá tài sản.
Đấu giá viên là người được cấp chứng chỉ hành nghề đấu giá, là chủ thể tham
gia quan hệ đấu giá tài sản thi hành án dân sự thì đấu giá viên phải làm việc trong tổ
chức hành nghề đấu giá chuyên nghiệp. Muốn trở thành đấu giá viên phải tốt nghiệp
khoá đào tạo đấu giá trong thời hạn là 06 tháng và được cơ sở đào tạo nghề đấu giá
cấp chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề đấu giá. Người có giấy chứng nhận tốt
nghiệp đào tạo nghề đấu giá hoặc được miễn đào tạo nghề đấu giá phải tập sự hành
nghề đấu giá tại tổ chức đấu giá trong thời hạn 06 tháng và được tham dự kiểm tra
kết quả tập sự hành nghề đấu giá. Nếu đạt yêu cầu kết quả kiểm tra kết quả tập sự
đấu giá thì nộp hồ sơ đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề đấu giá đến Bộ tư pháp và
nộp phí để được cấp chứng chỉ hanh nghề đấu giá.
Ngoài ra, người được cấp chứng chỉ hành nghề đấu giá bị thu hồi chứng chỉ
23
hành nghề đấu giá khi: Thuộc trường hợp không được cấp chứng chỉ hành nghề đấu
giá; Bị tuyên bố mất tích hoặc tuyên bố là đã chết; Khi đã được cấp chứng chỉ hành
nghề đấu giá nhưng người đó không hành nghề đấu giá tài sản tại các tổ chức bán
đấu giá tài sản trong thời hạn 02 năm trừ trường hợp có lý do chính đáng hoặc bị xử
phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
do vi phạm về lợi dụng danh nghĩa đấu giá viên để trục lợi, thông đồng, móc nối với
người có tài sản đấu giá, người tham gia đấu giá, tổ chức thẩm định giá, tổ chức
giám định tài sản đấu giá, cá nhân, tổ chức khác để làm sai lệch thông tin tài sản đấu
giá, dìm giá, làm sai lệch hồ sơ đấu giá hoặc kết quả đấu giá tài sản [27, tr.8].
- Người tham gia đấu giá tài sản
Tổ chức đấu giá tài sản bán hồ sơ tham gia đấu giá, tiếp nhận hồ sơ tham gia
đấu giá trong giờ hành chính, liên tục kể từ ngày niêm yết việc đấu giá tài sản cho
đến trước ngày mở cuộc đấu giá 02 ngày.
Tổ chức, cá nhân đăng ký tham gia đấu giá thông qua việc mua, nộp hồ sơ
tham gia đấu giá hợp lệ và nộp tiền đặt trước cho tổ chức đấu giá tài sản theo quy
định của Luật đấu giá tài sản.
- Người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong bán đấu giá tài sản trong thi
hành án dân sự
Trong thi hành án dân sự, người được thi hành án cũng có quyền lợi liên
quan đến việc đấu giá tài sản. Người được thi hành án được quyền nhận tiền đấu giá
tài sản thành tương đương với khoản tiền mà họ được nhận theo bản án, quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực. Nếu giá trị tài sản thi hành án bán được thấp hơn khoản
tiền mà họ được nhận theo bản án, quyết định của Tòa án thì họ được nhận toàn bộ
số tiền sau khi trừ đi chi phí đấu giá, chi phí thi hành án.
2.1.2.Đối tượng bán đấu giá là tài sản trong thi hành án dân sự
Luật THADS không quy định cụ thể loại tài sản nào dùng để bán đấu giá thi
hành án. Tuy nhiên, căn cứ quy định của BLDS và Luật THADS có thể hiểu rằng:
Đối tượng đấu giá tài sản thi hành án chính là tài sản đã bị cưỡng chế kê biên, định
24
giá để thi hành án. Tài sản đó có thể là vật hữu và trị giá được bằng tiền, có thể trở
thành tài sản trao đổi trên thị trường. Đó có thể là động hoặc bất động sản hoặc
quyền sở hữu trí tuệ có giá trị ít nhất từ 2.000.000 đồng trở lên.
Sau khi có đơn yêu cầu của người được thi hành án về việc thi hành bản án,
quyết định của Tòa án, căn cứ vào nội dung bản án, quyết định; tính chất, mức độ,
nghĩa vụ thi hành án; điều kiện của người phải thi hành án; đề nghị của đương sự và
tình hình thực tế của địa phương, chấp hành viên sẽ phải lựa chọn biện pháp cưỡng
chế và loại tài sản phù hợp để áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án. Việc áp
dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án phải tương ứng với nghĩa vụ của
người phải thi hành án và các chi phí thi hành án theo quy định của pháp luật, trừ
trường hợp tài sản duy nhất của người phải thi hành án lớn hơn nhiều lần so với
nghĩa vụ thi hành án mà tài sản đó không thể phân chia được hoặc việc phân chia
làm giảm đáng kể giá trị của tài sản; tài sản bảo đảm đã được bản án, quyết định
tuyên xử lý để thi hành án hoặc trường hợp người phải thi hành án tự nguyện đề
nghị kê biên tài sản cụ thể trong số nhiều tài sản mà không gây trở ngại cho việc thi
hành án và tài sản đó đủ để thi hành án, các chi phí liên quan.
Ngoài ra, trường hợp tài sản đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp
khẩn cấp tạm thời, biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án
mà phát sinh các giao dịch liên quan đến tài sản đó thì tài sản đó bị kê biên, xử lý để
thi hành án. Chấp hành viên có văn bản yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đối với
tài sản đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến
giao dịch đối với tài sản đó.
Trường hợp có giao dịch về tài sản mà người phải thi hành án không sử dụng
toàn bộ khoản tiền thu được từ giao dịch đó để thi hành án và không còn tài sản
khác hoặc có tài sản khác nhưng không đủ để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án thì xử
lý như sau:
a) Trường hợp có giao dịch về tài sản nhưng chưa hoàn thành việc chuyển
quyền sở hữu, sử dụng thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản theo quy
định. Khi kê biên tài sản, nếu có tranh chấp thì Chấp hành viên thực hiện theo quy
25
định tại khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự, trường hợp cần tuyên bố giao
dịch vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao
dịch thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự.
Trường hợp có giao dịch về tài sản kể từ thời điểm bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật nhưng đã hoàn thành việc chuyển quyền sở hữu, sử dụng thì
Chấp hành viên không kê biên tài sản mà thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều
75 Luật Thi hành án dân sự và có văn bản thông báo cho các cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan để phối hợp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử
dụng, thay đổi hiện trạng tài sản. Việc xử lý tài sản được thực hiện theo quyết định
của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền.
b) Trường hợp có các giao dịch khác liên quan đến tài sản mà không chuyển
giao quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất cho người khác thì Chấp hành viên
tiến hành kê biên, xử lý tài sản để thi hành án. Quyền và lợi ích hợp pháp của người
tham gia giao dịch được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự và các quy
định của pháp luật có liên quan.
2.1.3.Trình tự, thủ tục đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự
Quyền lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản trước hết thuộc về người phải thi
hành án và người được thi hành án được quy định tại khoản 2 Điều 101 Luật Thi
hành án dân sự: “Đương sự có quyền thỏa thuận về tổ chức bán đấu giá tài sản
trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày định giá” [26, tr.99]. Trong trường hợp
đương sự không thỏa thuận được tổ chức đấu giá thì chấp hành viên có quyền lựa
chọn tổ chức đấu giá tài sản để ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản. Thời hạn ký
hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản l à 1 0 ngày, kể từ ngày định giá (khoản 2 Điều 101
Luật Thi hành án dân sự ). Trước khi ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản, tổ chức
đấu giá cần yêu cầu ngươi có tài sản đấu giá cung cấp các văn bản chứng minh
quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc quyền được bán tài sản theo quy định của pháp
luật. Do đó để chuẩn bị cho việc ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản thì chấp hành
viên phải xác định và cung cấp các giấy tờ, tài liệu về tài sản phù hợp để đảm bảo
tính pháp lý của tài sản đưa ra đấu giá, hạn chế tình trạng tranh chấp, khiếu nại,
26
khiếu kiện và nếu có tranh chấp xảy ra thì quyền, lợi ích hợp pháp của người có tài
sản, người tham gia đấu giá, ngưòi mua được tài sản đấu giá ngay tình được pháp
luật công nhận và bảo vệ, đồng thời phải trực tiếp làm việc với tổ chức đấu giá tài
sản để thỏa thuận các điều khoản cần thiết trong hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản.
- Hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản: phải được lập thành văn bản gồm một số
nội dung chính quy định tại Luật Đấu giá tài sản năm 2016 như: tài sản đấu giá; giá
khởi điểm của tài sản đấu giá; tiền đặc trước; bước giá; hình thức đấu giá, phương
thức đấu giá; thời hạn, địa điềm tổ chức đấu giá; thù lao dịch vụ đấu giá, chi phí đấu
giá tài sản; quyền, nghĩa vụ các bên; đơn phương chấm dứt hợp đồng, hủy hợp
đồng; trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, phương thức giải quyết tranh chấp; các
thỏa thuận khác; hiệu lực của hợp đồng.
- Về thời hạn đấu giá tài sản thi hành án: Theo khoản 2 Điều 101 Luật Thi
hành án dân sự thì thời hạn đấu giá tài sản được thực hiện như sau: Việc đấu giá đối
với động sản phải được thực hiện trong thời hạn l à 3 0 ngày kể từ ngày ký hợp
đồng, đối với bất động sản phải được thực hiện trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày
ký hợp đồng [26, tr.99]. Vì vậy, điều khoản về thời hạn bán tài sản đấu giá trong
hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản giữa chấp hành viên với tổ chức đấu giá chuyên
nghiệp phải phù hợp với quy định của khoản 2 Điều 101 Luật Thi hành án dân sự
hiện hành.
- Niêm yết, thông báo công khai và trưng bày tài sản đấu giá: Việc đấu giá tài
sản phải được thông báo và niêm yết công khai. Niêm yết thông báo đấu giá tài sản
được xem là nội dung quan trọng trong công tác đấu giá tài sản. Nó thể hiện việc
tuân thủ quy định pháp luật của các tổ chức đấu giá, đảm bảo cho thông tin về đấu
giá được công khai rộng rãi, tạo điều kiện cho người có nhu cầu mua tài sản đấu giá
dễ dàng tiếp cận và tham gia đấu giá tài sản, giúp cho cuộc đấu giá đạt hiệu quả cao
nhất.
- Đăng ký tham gia đấu giá: Theo quy định tại khoản 1 Điều Luật Đấu giá
tài sản thì cá nhân, tổ chức đăng ký tham gia đấu giá thông qua việc mua, nộp hồ sơ
tham gia đấu giá hợp lệ và tiền đặt trước cho tổ chức đấu giá tài sản theo quy định
27
của Luật Đấu giá tài sản và quy định khác của pháp luật có liên quan. Trong trường
hợp pháp luật có quy định về điều kiện khi tham gia đấu giá thì người tham gia đấu
giá phải đáp ứng điều kiện đó. Nhằm ngăn ngừa tình trạng một số tổ chức đấu giá
gây khó khăn cho người tham gia đấu giá trong việc mua hồ sơ và hạn chế người
tham gia đấu giá đăng ký tham gia đấu giá, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho
người tham gia đấu giá, đảm bảo việc đăng ký tham gia đấu giá được minh bạch,
công bằng, khoản 2 Điều 38 Luật Đấu giá tài sản đã quy định buộc tổ chức đấu giá
tài sản phải “bán hồ sơ tham gia đấu giá, tiếp nhận hồ sơ tham gia đấu giá trong giờ
hành chính, liên tục kể từ ngày niêm yết việc đấu giá tài sản cho đến trước ngày mở
cuộc đấu giá 02 ngày”. Mặt khác, Luật Đấu giá tài sản (khoản 3 Điều 38) cấm
người có tài sản đấu giá, tổ chức đấu giá tài sản đặt thêm yêu cầu, điều kiện khác
đối với người tham gia đấu giá ngoài những điều kiện đăng ký tham gia đấu giá
được quy định tại Luật đấu giá tài sản và pháp luật có liên quan.
Về tiền đặt trước: Nhằm hạn chế tình trạng thông đồng, câu kết giữa những
người tham gia đấu giá tài sản, hạn chế tình trạng các đối tượng không thực sự có nhu
cầu mua nhưng vẫn tham gia đấu giá nhằm mục đích trục lợi, gây khó khăn cho cuộc
đấu giá, Luật Đấu giá tài sản đã tăng khoản tiền đặt trước so với Nghị định số
17/2010/NĐ-CP. Theo đó, khoản tiền đặt trước tối thiểu là 5% và tối đa là 20% giá
khởi điểm của tài sản đấu giá. Luật Đấu giá tài sản cũng quy định tổ chức đấu giá
không được thu tiền mặt đối với khoản tiền đặt trước, trừ trường hợp khoản tiền đặt
trước có giá trị dưới năm triệu đồng thì người tham gia đấu giá có thể nộp trực tiếp
cho tổ chức đấu giá tài sản. Theo đó, người đăng ký mua tài sản nộp tiền đặt trước
được gửi vào một tài khoản thanh toán riêng của tổ chức đấu giá tài sản mở tại ngân
hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, các bên có thể
thỏa thuận thay thế tiền đặt trước bằng bảo lãnh ngân hàng.
Việc thu tiền đặt trước của người tham gia đấu giá chỉ được thực hiện trong
thời hạn 03 ngày làm việc trước ngày mở cuộc đấu giá, trừ trường hợp tổ chức đấu
giá tài sản và người tham gia đấu giá có thỏa thuận khác nhưng phải trước ngày mở
cuộc đấu giá. Luật cũng cấm các tổ chức đấu giá tài sản sử dụng tiền đặt trước của
28
người tham gia đấu giá vào bất kỳ mục đích nào khác.
- Trình tự, thủ tục phiên đấu giá: Sau khi có người tham gia đấu giá tối thiểu
đủ đảm bảo sự cạnh tranh về giá thì phiên đấu giá được tiến hành. Mở đầu cuộc bán
đấu giá tài sản, đấu giá viên điều hành cuộc đấu giá giới thiệu bản thân, người giúp
việc; đọc quy chế bán đấu giá; thông báo nội quy của cuộc đấu giá tài sản; công bố
danh sách những người đăng ký tham gia đấu giá tài sản và điểm danh để xác định
những người tham gia đấu giá tài sản; giới thiệu tài sản đấu giá; nhắc lại giá khởi
điểm; thông báo bước giá và khoảng thời gian tối đa giữa các lần trả giá (nếu có);
trả lời các câu hỏi của người tham gia đấu giá.
Đấu giá viên yêu cầu những người tham gia đấu giá tài sản tiến hành trả
giá. Nếu sau ba lần đấu giá viên nhắc lại giá cao nhất đã trả mà không có người
tham gia đấu giá nào trả giá cao hơn giá đã trả thì đấu giá viên công bố người mua
được tài sản đấu giá. Sau khi đấu giá viên công bố, người mua được tài sản đấu giá
được coi là đã chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán tài sản đấu giá.Trong trường
hợp giá trả cao nhất được công bố thấp hơn so với giá khởi điểm thì cuộc đấu giá tài
sản coi như không thành. Diễn biến của cuộc đấu giá phải được ghi lại vào biên bản
đấu giá. Biên bản đấu giá phải có chữ ký của đấu giá viên điều hành cuộc đấu giá,
người ghi biên bản, người trúng đấu giá, đại diện người tham gia đấu giá. Biên bản
đấu giá được đóng dấu của tổ chức đấu giá tài sản; trong trường hợp cuộc đấu giá
do Hội đồng đấu giá tài sản thực hiện thì được đóng dấu của Hội đồng đấu giá tài
sản.
Để đảm bảo quyền lợi của người mua trúng đấu giá, Luật Đấu giá tài sản
cũng đã có quy định cụ thể về thời hạn tổ chức đấu giá tài sản hoàn thiện thủ tục ghi
kết quả đấu giá tài sản vào Sổ Đăng ký đấu giá tài sản là 01 ngày làm việc kể từ
ngày cuộc đấu giá kết thúc. Thời hạn để chuyển kết quả và danh sách người mua
trúng đấu giá cho người có tài sản đấu giá là 03 ngày làm việc kể từ ngày cuộc đấu
giá kết thúc.
- Rút lại giá đã trả: Tại cuộc đấu giá tài sản theo hình thức đấu giá trực tiếp
bằng lời nói, nếu người đã trả giá cao nhất rút lại giá đã trả trước khi đấu giá viên
29
công bố người trúng đấu giá thì cuộc đấu giá vẫn tiếp tục và bắt đầu từ giá của
người trả giá liền kề trước đó. Người rút lại giá đã trả hoặc rút lại giá đã chấp nhận
bị truất quyền tham gia cuộc đấu giá. Khoản tiền đặt trước của người rút lại giá đã
trả thuộc về người có tài sản đấu giá .
- Hủy kết quả bán đấu giá: Luật đấu giá tài sản quy định rõ các trường hợp
mà kết quả bán đấu giá bị hủy, là: Theo thỏa thuận giữa người có tài sản đấu giá, tổ
chức đấu giá tài sản và người trúng đấu giá về việc hủy kết quả đấu giá tài sản hoặc
giữa người có tài sản đấu giá và người trúng đấu giá về việc hủy giao kết hợp đồng
mua bán tài sản đấu giá, hủy bỏ hợp đồng mua bán tài sản đấu giá, trừ trường hợp
gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của cá nhân, tổ chức; Hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản, hợp đồng mua bán tài sản
đấu giá bị Tòa án tuyên bố vô hiệu theo quy định của pháp luật về dân sự; Hợp
đồng dịch vụ đấu giá tài sản bị hủy bỏ theo quy định tại khoản 6 Điều 33 của Luật
đấu giá tài sản; Người có tài sản đấu giá, người tham gia đấu giá, người trúng đấu
giá, tổ chức đấu giá tài sản, đấu giá viên có hành vi thông đồng, móc nối, dìm giá
trong quá trình tham gia đấu giá dẫn đến làm sai lệch thông tin tài sản đấu giá hoặc
hồ sơ tham gia đấu giá hoặc kết quả đấu giá tài sảnTheo quyết định của người có
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp đấu giá tài sản nhà nước
khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 6 Điều 33 của Luật đấu giá tài sản.
Luật Đấu giá tài sản quy định việc bồi thường thiệt hại trong trường hợp kết
quả đấu giá tài sản bị hủy do hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản, hợp đồng mua bán
tài sản đấu giá bị tuyên vô hiệu, bị đơn phương chấm dứt thực hiện, bị hủy bỏ thì
các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu
không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền. Bên có lỗi gây thiệt hại
phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
- Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá: Luật Đấu giá tài sản đã xác định người
trúng đấu giá được coi như chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán tài sản đấu giá kể
từ thời điểm đấu giá viên công bố người trúng đấu giá tài sản. Kể từ thời điểm này,
quyền và nghĩa vụ của các bên được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân
30
sự và quy định khác của pháp luật có liên quan. Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá
được ký kết giữa người trúng đấu giá với người có tài sản đấu giá hoặc giữa người
trúng đấu giá, người có tài sản đấu giá và tổ chức đấu giá tài sản nếu các bên có
thỏa thuận, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Khi thực hiện việc ký kết
Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá phải tuân thủ các quy định của pháp luật về dân
sự.
- Bảo vệ quyền của người mua tài sản đấu giá, người nhận tài sản để thi
hành án: Theo quy định của pháp luật về đấu giá tài sản hiện hành, thì thời hạn,
phương thức, địa điểm giao tài sản đấu giá cho người mua được tài sản đấu giá do
chấp hành viên và tổ chức đấu giá thỏa thuận trong điều khoản của hợp đồng; người
có tài sản đấu giá trong thời hạn nhất định phải giao tài sản đấu giá cho người mua
được tài sản đấu giá. Kể từ ngày người mua được tài sản trúng đấu giá nộp đủ tiền
thì trong thời hạn không quá 30 ngày, đối với trường hợp có khó khăn, phức tạp thì
thời hạn không quá 60 ngày cơ quan thi hành án dân sự phải tổ chức việc giao tài
sản cho người mua trúng đấu giá, trừ trường hợp có sự kiện bất khả kháng. Tổ chức
đấu giá là người chứng kiến việc giao, nhận tài sản bán đấu giá.
- Xử lý tài sản không có người tham gia đấu giá, đấu giá không thành: Để
tiếp tục đưa tài sản thi hành án dân sự ra đấu giá, Chấp hành viên cần hoàn tất thủ
tục giảm giá và ký tiếp phụ lục Hợp đồng bán đấu giá tài sản.
2.1.4. Khái quát những hạn chế của pháp luật hiện hành về bán đấu giá tài sản để
thi hành án dân sự
Về thể chế, từ thực tiễn công tác THADS và đấu giá tài sản để thi hành án
thời gian qua ở thành phố Hồ Chí Minh cho thấy các quy định pháp luật là cơ sở
cho đấu giá tài sản để THADS còn có những vướng mắc, bất cập ảnh hưởng đến
hiệu quả đấu giá tài sản. Cụ thể như:
Thứ nhất, theo quy định tại Điều 101 Luật thi hành án ân sự thì trong thời
hạn 10 ngày, kể từ ngày định giá Chấp hành viên phải ký hợp đồng dịch vụ đấu giá
tài sản được tiến hành và việc bán đấu giá đối với động sản phải được thực hiện
trong thời hạn là 30 ngày, đối với bất động sản là 45 ngày, kể từ ngày ký hợp đồng.
31
Tuy nhiên trên thực tế có nhiều trường hợp cơ quan thi hành án phải tạm dừng thực
hiện hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản khi có kháng nghị của người có thẩm quyền
xem xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm hoặc tạm dừng
để người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại về thi hành án. Đây là vướng mắc mà
hiện nay vẫn chưa có quy định cụ thể đối với việc xử lý hậu quả của việc dừng thực
hiện hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản (việc tạm dừng phải xử lý như thế nào?; có
bảo lưu kết quả đăng ký tham gia đấu giá hay không? Tổ chức đấu giá tài sản sẽ vi
phạm thời hạn bán đấu giá tài sản nếu bảo lưu kết quả đăng ký tham gia đấu giá cho
những người đăng ký tham gia đấu giá tài sản, nhưng nếu thanh lý hợp đồng dịch
vụ đấu giá tài sản đã ký kết để chờ hết thời hạn hoãn, tạm dừng thì ai sẽ là người
phải chịu các chi phí cho việc tổ chức bán đấu giá và thiệt hại cho các khách hàng
đã đăng ký tham gia đấu giá?).
Thứ hai, theo quy định của pháp luật về đấu giá tài sản thì đối với các tài sản
thông thường, tổ chức đấu giá tài sản được quyền bán đấu giá khi đã hết thời hạn
thông báo niêm yết đối với động sản là 07 ngày, đối với bất động sản là 30 ngày.
Nhưng đối với tài sản kê biên để thi hành án thì Luật thi hành án dân sự quy định
việc bán đấu giá đối với tài sản là động sản phải được thực hiện trong thời hạn là 30
ngày, đối với tài sản là bất động sản thì thời hạn là 45 ngày, kể từ ngày ký hợp đồng
dịch vụ đấu giá tài sản. Vì vậy, trong thực tế dẫn đến việc xử lý tài sản qua thủ tục
bán đấu giá sẽ kéo dài, gây tốn kém thời gian và chi phí cho cả cơ quan thi hành án
dân sự, tổ chức đấu giá và các bên đương sự, nhất là trong trường hợp tài sản đưa ra
đấu giá nhưng không có khách hàng đang ký tham gia thì phải thông báo cho các
bên đương sự để thỏa thuận về giá, mức giảm giá và ký lại hợp đồng dịch vụ đấu
giá để có cơ sở tiếp tục tổ chức đấu giá tài sản .
Thứ ba, pháp luật hiện hành chưa có quy định một cách thống nhất đối với
việc giao tài sản cho người mua trúng đấu giá. Theo quy định khoản 1 Điều 49 Luật
Luật Thi hành án dân sự thì Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự ra thông báo về
việc tạm đình chỉ thi hành án khi nhận được quyết định tạm đình chỉ thi hành án
của người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc
32
thẩm, tái thẩm. Tuy nhiên, Điều 103 Luật Thi hành án dân sự tại khoản 2 lại quy
định trường hợp người mua được tài sản bán đấu giá khi đã nộp đủ tiền mua tài sản
bán đấu giá nhưng bản án, quyết định bị kháng nghị, sửa đổi hoặc bị hủy thì cơ
quan Thi hành án dân sự vẫn phải tiếp tục việc bàn giao tài sản bán đấu giá, kể cả
trường hợp phải thực hiện cưỡng chế thi hành án để giao tài sản cho người mua
được tài sản bán đấu giá. Chính việc quy định chưa thống nhất như vậy nên thực tế
trong nhiều trường hợp cơ quan Thi hành án dân sự do dự trong việc giao hay
không giao tài sản đã đấu giá thành.
Đây là vụ tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa nguyên đơn là Ngân hàng
TMCP-A với bị đơn là bà M, được Tòa án nhân dân quận X, TP. Hồ Chí Minh giải
quyết bằng Quyết định công nhận thỏa thuận giữa các bên đương sự số 51/QĐST-
DS ngày 05/3/2009.
Sau khi nhận đơn yêu cầu thi hành án, Chi cục thi hành án dân sự có thẩm
quyền đã ra Quyết định thi hành án số 154/QĐ-THA ngày 10/7/2009 cho thi hành
khoản: “Buộc bà M có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng TMCP-A số sợ nợ là
10.013.556.288 đồng tính đến thời điểm ngày 24/02/2009.
Ghi nhận sự tự nguyện của bà M nếu đến hạn thanh toán mà bà M không
thanh toán số tiền nói trên thì Ngân hàng TMCP-A được quyền yêu cầu cơ quan thi
hành án phát mãi tài sản thế chấp là Quyền sử dụng đất có diện tích …và tài sản gắn
liền với đất có diện tích… tọa lạc tại thửa… ”
Quá trình tổ chức thi hành án, bà M không tự nguyện thi hành, căn cứ theo
quy định pháp luật về thi hành án dân sự, Chi cục Thi hành án dân sự quận Y đã
cưỡng chế kê biên tài sản thế chấp để đảm bảo cho Ngân hàng. Sau khi kê biên, xử
lý tài sản theo quy định pháp luật và người mua được tài sản đã nộp đủ tiền mua
trúng đấu giá.
Sau đó, Chi cục THADS quận Y nhận được quyết định kháng nghị số
31/2011-KN-DS/GĐT ngày 05/10/2011 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh về
việc kháng nghị giám đốc thẩm và tạm đình chỉ thi hành Quyết định số 0451/QĐST
33
ngày 05/3/2009 của Tòa án nhân dân quận X.
Tiếp đến, Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh có Quyết định Giám đốc thẩm
số 55/201/DS-GĐT ngày 13/12/2011, hủy toàn bộ Quyết định số 51/QĐST-DS
ngày 05/3/2009 của Tòa án nhân dân quận X để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm từ
đầu do có vi phạm nghiêm trọng về mặt tố tụng. Trong thời gian này, tài sản thế
chấp Ngân hàng đã kê biên, xử lý và người mua được tài sản cũng đã nộp đủ tiền
nhưng chưa nhận được tài sản.
Sau khi bản án bị hủy, Chi Cục Thi hành án dân sự đã ra quyết định đình chỉ
thi hành, chờ kết quả xét xử của Tòa án nhân dân có thẩm quyền để tiếp tục thi hành
án và chuyển trả 70% số tiền bán đấu giá tài sản cho Ngân hàng TMCP-A (30% số
tiền bán đấu giá do Trung tâm bán đấu giá tài sản tạm giữ). Người mua trúng đấu
giá tài sản đã nhiều lần có đơn khiếu nại yêu cầu Chi cục Thi hành án giao tài sản
nhưng vụ việc vẫn còn bỏ ngỏ do vẫn chưa có bản án sơ thẩm xét xử lại của Tòa án
nhân dân quận X.
Mặc dù, Quyết định số 51/QĐST-DS ngày 05/3/2009 của Tòa án nhân dân
quận X đã bị hủy nhưng Điều 103 Luật thi hành án dân sự hiện hành có quy định ưu
tiên bảo vệ quyền lợi cho người mua trúng đấu giá tài sản thi hành án:
“Trường hợp người mua được tài sản bán đấu giá đã nộp đủ tiền mua tài sản
bán đấu giá nhưng bản án, quyết định bị kháng nghị, sửa đổi hoặc bị hủy thì cơ
quan thi hành án dân sự tiếp tục giao tài sản, kể cả thực hiện việc cưỡng chế thi
hành án để giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá, trừ trường hợp kết
quả bán đấu giá bị hủy theo quy định của pháp luật hoặc đương sự có thỏa thuận
khác”. Quy định như vậy để bảo vệ quyền lợi cho người mua trúng đấu giá tài sản.
Do Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh đã ra bản án giám đốc thẩm, hủy
Quyết định số 51/QĐST-DS ngày 05/3/2009 của Tòa án nhân dân quận X để xét xử
lại từ đầu, nhưng trong khi chờ bản án sơ thẩm xét xử lại của Tòa án có thẩm quyền
thì vấn đề đặt ra là có tiến hành giao tài sản cho người mua trúng đấu giá theo như
khoản 2 Điều 103 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định
34
không? Xoay quanh vấn đề này còn nhiều quan điểm không thống nhất như sau:
Ý kiến thứ nhất cho rằng, tài sản thế chấp đã kê biên, xử lý xong, người mua
được tài sản bán đấu giá đã nộp đủ tiền, nên căn cứ Điều 103 Luật Thi hành án dân
sự sửa đối, bổ sung năm 2014 thì Chi Cục thi hành án phải ra quyết định thu hồi
quyết định đình chỉ thi hành án để ra quyết định giao tài sản cho người mua trúng
đấu giá, trường hợp người có tài sản bán đấu giá không tự nguyện giao thì tiến hành
cưỡng chế theo quy định.
Ý kiến thứ hai cho rằng, Quyết định số 51/QĐST-DS ngày 05/3/2009 của
Tòa án nhân dân quận X là cơ sở pháp lý để thi hành án nhưng đã bị hủy và Chi
Cục thi hành án dân sự đã ra Quyết định đình chỉ số 08/QĐ-CCTHA ngày
09/02/2012. Vì vậy không có căn cứ để thu hồi quyết định đình chỉ thi hành án cũng
như ra quyết định giao tài sản, không có cơ sở để tổ chức thi hành việc giao tài sản
cho người mua được tài sản bán đấu giá, cần phải chờ bản án của Tòa án nhân dân
quận X để có cơ sở xem xét tiếp tục thi hành (trừ những trường hợp có quy định
khác của pháp luật).
Tác giả đồng tình với quan điểm này vì các lý do sau:
Thứ nhất: Trường hợp này cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định đình
chỉ thi hành án do có quyết định giám đốc thẩm tuyên hủy bản án, quyết định sơ
thẩm vào năm 2012 căn cứ theo điểm d khoản 1 Điều 50 Luật thi hành án dân sự
năm 2008 (Điều 50 và Điều 103 chưa được sửa đổi, bổ sung). Khi đó, phải áp dụng
Luật thi hành án dân sự năm 2008 để thi hành.
Căn cứ Điều 52 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 về kết thúc thi hành án,
một trong những trường hợp kết thúc thi hành án là khi có quyết định đình chỉ thi
hành án. Như vậy, mọi hoạt động tố tụng thi hành án phải bị dừng lại để chờ bản án,
quyết định mới có hiệu lực để có cơ sở xử lý tiếp. Đến năm 2014 thì Luật thi hành
án dân sự được sửa đổi, bổ sung theo hướng bảo vệ quyền lợi cho người mua trúng
đấu giá tài sản. Trong khi đó khoản 1 Điều 2 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ
sung 2014 quy định đối với các việc thi hành án đã được thi hành xong trước thời
điểm Luật có hiệu lực mà sau khi Luật này có hiệu lực đương sự còn khiếu nại thì
35
áp dụng quy định của Luật thi hành án dân sự năm 2008 để giải quyết. Do đó,
không thể căn cứ khoản 2 Điều 103 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung 2014
để cho thi hành phần giao tài sản cho người mua trúng đấu giá.
Thứ hai: Trong vụ việc này cơ quan thi hành án đã ra quyết định đình chỉ thi
hành án nên trường hợp muốn thực hiện giao tài sản cho người mua trúng đấu giá,
cơ quan thi hành án phải ra quyết định giao tài sản như vậy về mặt trình tự pháp lý
sẽ có sự mâu thuẫn chồng chéo giữa 02 quyết định. Giả sử cơ quan thi hành án thu
hồi quyết định đình chỉ để ban hành quyết định giao tài sản theo Điều 103 Luật thi
hành án dân sự sửa đổi, bổ sung 2014 cũng không thể thực hiện được vì Điều 37
Luật thi hành án dân sự về thu hồi, hủy quyết định về thi hành án không quy định
căn cứ nào để thu hồi hay hủy quyết định đình chỉ thi hành án nêu trên.
Thứ ba: Mặc dù đây không phải là lỗi của cơ quan thi hành án nhưng trường
hợp cần thiết để tránh gây thiệt hại cho các bên và giải quyết được khiếu nại, Chấp
hành viên có thể hướng dẫn người mua trúng đấu giá khởi kiện ra Tòa án có thẩm
quyền yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá để nhận lại tiền kèm theo tiền lãi gửi Ngân
hàng.
Tình huống nêu trên xảy ra trên thực tế hiện nay vẫn còn nhiều và vẫn là vấn
đề gây lúng túng cho những người thực thi và áp dụng pháp luật. Do đó thiết nghĩ
các cơ quan trung ương cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn thống nhất việc xử lý
đối với tài sản là nhà đất đã bán đấu giá thành nhưng chưa giao được cho người
mua trúng đấu giá do bản án, quyết định của Tòa án bị hủy theo trình tự giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm.
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự
ở Thành phố Hồ Chí Minh
2.2.1.Tình hình, kết quả thực hiện pháp luật về bán đấu giá tài sản để thi hành án
dân sự ở Thành phố Hồ Chí Minh
Công tác THADS trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đóng một vai trò đặc
biệt quan trọng đối với công tác THADS trên phạm vi cả nước. Trong những năm
qua, các cơ quan THADS trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh (gồm Cục THADS
36
và 24 Chi cục THADS Quận Huyện) đã nhận thức đúng tầm quan trọng của công
tác THADS, coi trọng công tác vận động, thuyết phục đương sự nghiêm chỉnh chấp
hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, đặc biệt là chú trọng làm tốt công
phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan để nâng cao hiệu quả cưỡng chế kê
biên, xử lý tài sản để thi hành án...Vì vậy, công tác THADS trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh đã có nhiều chuyển biến, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội
và đảm bảo trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn thành phố. Kết quả THADS thể hiện
cụ thể ở Bảng 2.1 dưới đây:
Bảng 2.1. Kết quả THADS từ năm 2015 đến 2019
THỐNG KÊ KẾT QUẢ THI HÀNH THỐNG KÊ KẾT QUẢ THI ÁN DÂN SỰ THEO GIÁ TRỊ HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO VIỆC (1.000.000 đồng)
Số việc NĂM Tổng số Số việc đã Tổng số Số tiền có Tổng số đã có điều việc phải giải quyết tiền phải điều kiện giải giải quyết kiện thi thi hành xong thu quyết hành
2015 90.271 66.681 55.009 48.365.633 15.651.347 6.670.816
2016 97.640 79.681 60.840 60.154.156 30.818.090 10.123.058
2017 106.769 84.722 60.244 74.520.484 39.265.691 18.598.642
2018 111.137 109.499 66.170 69.131.842 58.925.932 10.641.693
2019 112.707 84.423 63.936 106.042.767 68.146.257 23.916.964
Nguồn: Cục THADS Thành phố Hồ Chí Minh
Theo số liệu thống kê nêu trên đã cho thấy tại Thành phố Hồ Chí Minh thì số
lượng việc, giá trị phải thi hành án là rất lớn. Đăc biệt là trong những năm gần đây
tại thành phố Hồ Chí Minh đã xảy ra nhiều vụ án tham nhũng, kinh tế lớn với số
tiền phải thu cho nhà nước, tổ chức và công dân rất lớn, đặt ra cho các cơ quan
THADS Thành phố những nhiệm vụ rất nặng nề.
Từ năm 2015 đến 2019, theo số liệu báo cáo tổng hợp tại Cục THADS
Thành phố thì trung bình mỗi năm các cơ quan THADS Thành phố thụ lý trên
37
103.705 việc với số tiền 71.662 tỷ đồng. Qua số liệu tổng kết hàng năm có thể nhận
thấy việc, tiền thi hành án ngày càng tăng. Bình quân mỗi năm giải quyết xong
67.240 việc, với số tiền thu được là 13.990 tỷ đồng.
Để có được những kết quả nêu trên, các chấp hành viên của các cơ quan
THADS đã đặc biệt coi trọng công tác động viên, thuyết phục đương sự tự nguyện,
thỏa thuận trong thi hành án nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án, giảm thiểu những
trường hợp phải áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên xử lý tài sản để thi hành án.
Tuy nhiên, đối với những trường hợp người phải thi hành án có tài sản nhưng
không tự nguyện thi hành án thì chấp hành viên kiên quyết áp dụng biện pháp
cưỡng chế kê biên tài sản theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật để đưa ra đấu giá,
nhất là những vụ việc liên quan đến đấu giá tài sản kê biên có giá trị lớn (nhà
xưởng, dây chuyền sản xuất, nhà ở, quyền sử dụng đất ...) trong các việc thi hành
án liên quan đến tín dụng, ngân hàng, án kinh tế, tham nhũng. Kết quả đấu giá tài
sản kê biên do trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong những năm gần đây được
thể hiện ở Bảng 2.2 dưới đây:
Bảng 2.2: Kết quả đấu giá tài sản để THADS
Sô việc đấu Sô việc đấu giá bị Số việc bán Số việc Số việc đấu giá giá thành hủy (do thỏa đấu giá tài Năm đấu giá phải định giá lại, chưa giao thuận, xét xử của sản thành hạ giá để đấu giá được tài sản tòa án...)
2015 292 160 20 0 112
2016 354 126 17 0 211
2017 316 143 81 2 90
2018 262 458 122 73 1
2019 471 102 67 1 302
Nguồn: Cục THADS Thành phố Hồ Chí Minh
Theo số liệu thống kê về kết quả đấu giá tài sản để thi hành án như trên
38
cho thấy rằng do số việc các cơ quan THADS của thành phố Hồ Chí Minh phải
thi hành hàng năm đều tăng nên số việc phải kê biên tài sản để đấu giá cũng tăng.
Hoạt động đấu giá tài sản để thi hành án đã dần đi vào nề nếp, cơ bản đảm bảo
đúng trình tự, thủ tục theo luật định đã góp phần rút ngắn thời gian tổ chức thi
hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự và các tổ chức, cá nhân có liên quan, góp phần hạn chế những
khiếu nại, tố cáo phát sinh liên quan đến việc kê biên, đấu giá tài sản để thi hành
án và góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả THADS.
2.2.2. Hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong bán đấu giá tài sản để thi hành án dân
sự và nguyên nhân
Bên cạnh những ưu điểm, kết quả đã đạt được thì hoạt động bán đấu giá
tài sản trong THA dân sự thời gian qua cũng còn một số tồn tại, hạn chế như:
mặc dù lượng việc đã kê biên, định giá và đưa ra bán đấu giá là rất lớn nhưng
kết quả việc bán đấu giá thành và lượng giá trị thu được từ việc bán đấu giá tài
sản cũng là rất thấp. Bên cạnh đó, chất lượng nhiều phiên đấu giá nhìn chung
còn chưa cao, còn tồn tại tình trạng “quân xanh, quân đỏ”, thông đồng, dìm giá,
giá trị tài sản bán vượt mức giá khởi điểm chưa cao, chưa có tiêu chí lựa chọn tổ
chức bán đấu giá, cơ chế kiểm soát việc bán đấu giá... Đặc biệt, việc bàn giao tài
sản cho người mua được tài sản bán đấu giá còn gặp rất nhiều khó khăn, dẫn đến
tình trạng người mua được tài sản ngay tình nhất là tài sản THA chịu nhiều rủi
ro.
Thực tế cho thấy, hoạt động bán đấu giá trong thời gian qua chưa đáp ứng
được kỳ vọng và mong muốn trong xử lý tài sản THA, đây cũng chính là nguyên
nhân cơ bản dẫn đến hiệu quả THA đạt thấp. Tình trạng này kéo dài sẽ dẫn đến việc
người dân “tẩy chay” đấu giá tài sản THA. Việc bán đấu giá tài sản THA đạt hiệu
quả thấp xuất phát từ các nguyên nhân:
Thứ nhất, do trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và ý thức của chấp hành viên
cơ quan thi hành án dân sự.
Quá trình tổ chức THA là chuỗi các trình tự, thủ tục THA có liên kết với
39
nhau từ ra quyết định THA, xác minh điều kiện, kê biên tài sản THA, thẩm định giá
tài sản THA, bán đấu giá tài sản THA, giao tài sản THA và thanh toán tiền bán tài
sản THA... Nếu trong quá trình tổ chức THA, chấp hành viên thực hiện không đúng
hoặc có sai sót, vi phạm về thủ tục THA sẽ làm ảnh hưởng đến việc bán đấu giá tài
sản nói riêng và kết quả THA nói chung. Qua rà soát, thống kê cho thấy nguyên
nhân dẫn đễn hoạt động bán đấu giá tài sản THA đạt hiệu quả thấp đó là:
- Chấp hành viên có sai sót ngay từ quá trình xác minh điều kiện THA hoặc
sai sót trong quá trình tổ chức kê biên tài sản THA
Việc bán đấu giá tài sản THA phụ thuộc rất nhiều vào quá trình tổ chức THA
của chấp hành viên, đặc biệt là việc kê biên tài sản. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều
trường hợp, chấp hành viên đã không thực hiện việc xác minh tài sản một cách đầy
đủ, không kiểm tra hiện trạng tài sản trước khi kê biên hoặc lập biên bản kê biên
một cách chung chung dẫn đến một số trường hợp tài sản đã bán đấu giá thành
nhưng không thể giao được tài sản cho người mua trúng đấu giá và dẫn đến nguy cơ
phải hủy kết quả bán đấu giá. Một số trường hợp cụ thể minh chứng cho vấn đề này
như sau:
+ Không thực hiện xác minh hoặc kết quả xác minh không đúng thực tế: Để
tổ chức thi hành Bản án số 135/DSPT ngày 06/7/2010 của Tòa án nhân dân tôi cao
tại thành phô M, cơ quan THA dân sự đã ra quyết định kê biên số 108/QĐ-THA
ngày 03/11/2010 nội dung “kê biên toàn bộ quyền sử dụng đất 2.713,6 m2 và tài sản
gắn liền với đất tọa lạc tại xã B huyện H”. Tài sản được bán đấu giá thành vào ngày
20/7/2016. Tuy nhiên, trong lúc chuẩn bị cưỡng chế giao tài sản cho ngươi mua
trúng đấu giá thì phát hiện ra trong 2.713,6 m2 có 800 m2 đất là được Nhà nước cho
người phải THA thuê trả tiền hàng năm. Từ đó, dẫn đến có tranh chấp và việc giao
tài sản cho người mua trúng đấu giá vẫn chưa thực hiện được.
+ Tài sản đã kê biên, bán đấu giá không đúng vối hiện trạng tài sản: Để tổ
chức THA, cơ quan THA đã kê biên và bán đấu giá thành tài sản là 01 khách sạn
gồm có 06 tầng. Tuy nhiên, khi tổ chức giao tài sản cho người mua trúng đấu giá thì
phát hiện khách sạn đó có 07 tầng. Nguyên nhân của việc phát sinh này không phải
40
do người phải THA xây dựng thêm mà do cơ quan THA dân sự khi kê biên đã dựa
vào bản vẽ của trung tâm đo vẽ tài sản (đơn vị đã được cơ quan THA thuê đến kiểm
tra và thực hiện việc đo, vẽ toàn bộ hiện trạng tài sản) để thực hiện việc kê biên,
thẩm định giá và bán đấu giá tài sản. Từ sự chênh lệch này dẫn đến việc tài sản đã
bán đấu giá thành nhưng ngưòi phải THA khiếu nại, tố cáo, cơ quan THA khó khăn
trong việc giao tài sản cho người mua trúng đấu giá.
- Chấp hành viên ký hợp đồng thẩm định giá với tổ chức thẩm định giá
không đủ điều kiện, không có chức năng thẩm định giá.
Đây là vi phạm rất nghiêm trọng dẫn đến kết quả thi hành án sẽ không được
công nhận. Theo quy định tại Điều 98 Luật THADS và Luật giá năm 2012 thì vừa
lựa chọn, ký kết hợp đồng thẩm định giá với tổ chức thẩm định giá phải bảo đảm tổ
chức đó phải đủ điều kiện theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, quá trình thực hiện
các CHV không kiểm tra tra kỹ dẫn đến thực hiện hợp đồng thẩm định giá với tổ
chức thẩm định giá không đủ điều kiện về thẩm định giá, như trưởng hợp vụ bà
Nguyễn Minh Trang xảy ra tại Chi cục THADS quận Tân phú do Công ty thẩm
đeịnh giá Quốc tế thẩm định hay toàn bộ hoạt động thẩm định giá tại Kiên Giang do
Công ty TNHHXD Nhựt Vương và Tần Vương không đủ điều kiện hoạt động thẩm
định giá thực hiện ( gồm 203 vụ việc với số tiền lên đến hơn 803 tỷ đồng) dẫn đến
kết quả thẩm định giá không được công nhận.
- Kết quả thẩm định giá không phù hợp với giá thị trường
Để có thể đưa tài sản ra bán đấu giá thì cần phải có giá khởi điểm, trong
trường hợp bán tài sản THA thì giá khởi điểm của tài sản có thể do các đương sự
thỏa thuận hoặc do kết quả thẩm định giá của tổ chức thẩm định giá hoặc do kết quả
xác định giá của chấp hành viên. Việc đưa ra giá khởi điểm phù hợp với giá của thị
trường là yếu tố quan trọng để hoạt động bán đấu giá tài sản đạt hiệu quả cao.
Trên thực tế, để xác định giá khỏi điểm đối với tài sản THA, trong phần lớn
trường hợp, cơ quan THA phải ký hợp đồng với các tổ chức thẩm định giá để yêu
cầu họ xác định giá của tài sản THA. Tuy nhiên, hiện nay chưa có tiêu chí cụ thể để
đánh giá chất lượng của các tổ chức thẩm định giá nên khi lựa chọn các tổ chức
41
thẩm định giá để ký hợp đồng chủ yếu dựa trên cảm tính của chấp hành viên. Do đó,
vẫn tồn tại hiện tượng các tổ chức thẩm định giá đã đưa ra kết quả thẩm định giá
không chính xác với giá thị trường như quá cao hoặc quá thấp (ví dụ, cùng một tài
sản THA là con tàu nhưng trong một khoảng thời gian 06 tháng, giá thẩm định lần
thứ nhất là hơn 4,7 tỷ đồng, lần thứ hai thẩm định hơn 18 tỷ đồng, lần thứ ba thẩm
định còn hơn 4,7 tỷ đồng). Trường hợp tổ chức thẩm định giá đưa ra giá quá thấp có
thể hấp dẫn người có nhu cầu mua, tuy nhiên nó cũng làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến quyền lợi hợp pháp của các đương sự, dẫn đến khiếu nại, bức xúc kéo dài.
Trường hợp tổ chức thẩm định giá đưa ra giá quá cao dẫn đến có nhiều trường hợp
phải giảm giá tài sản đến 10 lần, thậm chí có những tài sản phải giảm giá đến hơn
20 lần nhưng vẫn không bán được. Đầy chính là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tài
sản bán đấu giá không thành rất lớn và tạo ra chi phí đấu giá tài sản cao, ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích của các bên liên quan.
Bên cạnh đó, Luật Thi hành án dân sự quy định việc lựa chọn tổ chức thẩm
định giá chỉ được thực hiện sau quá trình tổ chức kê biên tài sản THA. Do đó, đến
thời điểm thẩm định giá, tổ chức thẩm định giá tiến hành xem xét hiện trạng tài sản
để làm cơ sở cho việc thẩm định giá. Qua kiểm đếm, rà soát, đối chiếu tài sản hiện
có và tài sản theo biên bản kê biên của chấp hành viên có sự không thông nhất (tăng
hoặc giảm đáng kể, làm thay đổi về giá trị của tài sản). Vì vậy, việc thẩm định giá
tài sản đã gặp trở ngại hoặc kết quả thẩm định giá không thực sự chính xác.
- Thiếu sự kiểm soát trong quá trình đấu giá tài sản
Theo quy định của Luật Thi hành án dân sự thì tài sản kê biên được bán theo
các hình thức đấu giá và bán không qua thủ tục đấu giá. Để bán thông qua thủ tục
đấu giá, cơ quan THA dân sự thực hiện việc ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức đấu
giá do các đương sự thỏa thuận lựa chọn, trường hợp các đương sự không thỏa
thuận được thì cơ quan THA dân sự lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản để ký hợp
đồng.
Trên thực tế, khi ký hợp đồng với các tổ chức đấu giá tài sản (kể cả trường
hợp do các đương sự lựa chọn hoặc cơ quan THA lựa chọn), một số cơ quan THA
42
dân sự thường để các tổ chức đấu giá tài sản soạn sẵn mẫu của hợp đồng nên mỗi tổ
chức đấu giá lại đưa ra mẫu hợp đồng tương đối khác nhau. Việc để các tổ chức đấu
giá soạn sẵn mẫu hợp đồng dẫn đến có những điều, khoản không phù hợp với các
quy định của pháp luật về THA dân sự. Ví dụ: Tại Điều 5 của Hợp đồng bán đấu
giá tài sản số 214/HĐ ngày 24/9/2015 của cơ quan THA dân sự với tổ chức bán đấu
giá tài sản có dung là trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ tiền, bên
B (tổ chức bán đấu giá tài sản) sẽ thanh toán tiền cho bên A (Cục Thi hành án dân
sự). Như vậy, nội dung của hợp đồng đã vi phạm Điều 27 của Nghị định số
62/2015/NĐ-CP ngày 15/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự .
Bên cạnh đó, các cơ quan THA dân sự gần như phó mặc toàn bộ quá trình
bán đấu giá tài sản cho các tổ chức bán đấu giá tài sản và thiếu sự kiểm soát dẫn đến
nhiều tổ chức đấu giá tài sản lợi dụng để thao túng hoạt động bán đấu giá tài sản
như: Thông đồng, dìm giá; hạn chế người tham gia đấu giá tài sản (bằng cách hạn
chế bán hồ sơ hoặc đặt thêm các điều kiện để được tham gia đấu giá tài sản); không
thực hiện việc thông báo hoặc niêm yết theo đúng quy định; tính toán chi phí bán
đấu giá không chính xác... làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc bán đấu giá tài sản
THA.
Ngoài ra, việc thiếu kiểm tra, giám sát đối với các tổ chức đấu giá dẫn đến
trong thời gian qua một số tổ chức bán đấu giá đã có hành vi sử dụng hoặc chiếm
đoạt tiền đặt trước hoặc tiền mua tài sản dẫn đến mất niềm tin của người dân và gây
ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của cơ quan THA dân sự. Một số tổ chức
đấu giá chậm chuyển tiền hoặc chỉ chuyển một phần tiền bán đấu giá tài sản cho các
cơ quan THA (ví dụ, các tổ chức bán đấu giá chỉ chuyển cho cơ quan THA dân sự
70% đến 80% số tiền người mua trúng đấu giá nộp, số còn lại chỉ được chuyển sau
khi cơ quan THA dân sự giao được tài sản cho người mua trúng đấu giá), cá biệt
một số tổ chức bán đấu giá còn lợi dụng quy định trên để chiếm đoạt tiền bán tài sản
THA.
- Không kiên quyết trong việc tổ chức giao tài sản cho người mua trúng đấu
43
giá
Một số chấp hành viên, cơ quan THA dân sự còn chưa kiên quyết trong tổ
chức giao tài sản cho người mua trúng đấu giá. Nhiều trường hợp khi người phải
THA (hoặc chủ sở hữu tài sản) khiếu nại, chống đối thì cơ quan THA dân sự ngại
va chạm nên không kiên quyết trong việc giao tài sản cho người mua trúng đấu giá.
Việc chậm giao tài sản cho ngưòi mua trúng đấu giá làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của người mua trúng đấu giá và có thể dẫn đến khả
năng các nhà đầu tư quay lưng lại với tài sản THA. Ví dụ: Để thi hành Quyết định
công nhận sự thỏa thuận cửa các đương sự số 69/2011/QĐST.KDTM ngày
22/6/2011, cơ quan THA dân sự đã bán đấu giá thành tài sản là quyền sử dụng
2.287 m2 đất và các tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất với giá là 5.453.000 đồng
từ ngày 02/8/2013. Người mua trúng đấu giá (chính là người được THA) đã nộp đủ
số tiền trên. Nhưng đến ngày 30/6/2017, cơ quan THA dân sự vẫn chưa tổ chức
giao tài sản cho người mua trúng đấu giá với lý do là người phải THA khiếu nại về
việc tính lãi suất chậm THA của ngưòi được THA.
Thứ hai, còn có sự chưa thống nhất giữa các cơ quan có liên quan trong việc
áp dụng pháp luật.
Theo trình tự, thủ tục về bán đấu giá tài sản thì nếu sau ba lần đấu giá viên
nhắc lại giá cao nhất đã trả mà không có người nào trả giá cao hơn thì đấu giá viên
công bố người đã trả giá cao nhất là người mua trúng đấu giá tài sản. Sau khi đấu
giá viên công bố, người mua trúng đấu giá tài sản được coi là đã chấp nhận giao kết
hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá. Trong trường hợp bán đấu giá thành thì đấu
giá viên điều hành cuộc bán đấu giá tài sản lập hợp đồng mua bán tài sản bán đấu
giá. Tuy nhiên, pháp luật về đấu giá chưa phân định rõ ràng thời điểm nào thì được
quyền hủy kết quả bán đấu giá và thời điểm nào thì hủy hợp đồng mua bán tài sản.
Mặt khác, Điều 102 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm
2014) quy định về hủy kết quả bán đấu giá tài sản như sau: “1. Việc hủy kết quả bán
đấu giá tài sản được thực hiện theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản;
trường hợp kết quả bán đấu giá tài sản bị hủy thì việc xử lý tài sản để THA được
44
thực hiện theo quy định của Luật này. 2. Người mua được tài sản bán đấu giá, chấp
hành viên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về kết quả bán
đấu giá tài sản, nếu có căn cứ chứng minh có vi phạm trong quá trình bán đấu giá
tài sản”.
Việc không quy định rõ ràng thời điểm nào thì hủy kết quả bán đấu giá và
khi nào phải thực hiện hủy hợp đồng mua bán tài sản, dẫn đến nhiều trường hợp các
cơ quan nhà nước can thiệp vào quan hệ dân sự. Cụ trong một số trường hợp, người
mua trúng đấu giá đã ký hợp đồng mua bán tài sản với tổ chức bán đấu giá, cơ quan
THA dân sự đã tổ chức giao tài sản cho người mua trúng đấu giá nhưng cơ quan
thanh tra vẫn căn cứ điểm b khoản 7, điểm c khoản 8 Điều 19, khoản 3 Điều 20
Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia
đình, THA dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã và Nghị định số 67/2015/NĐ-
CP ngày 14/8/2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định sô
110/2013/NĐ-CP để hủy kết quả bán đấu giá tài sản. Một số Tòa án vẫn thực hiện
việc thụ lý đơn yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá của người phải THA, sau khi thụ lý
thì nhiều lần hoãn phiên tòa, phải 01 năm sau mới xét xử sơ thẩm và sau đó cũng
gần 01 năm nữa nhưng chưa xét xử phúc thẩm dẫn đến trường hợp người mua trúng
đấu giá bỏ ra hơn 30 tỷ đồng nhưng hơn 02 năm vẫn chưa nhận được tài sản dã mua
đấu giá.
Bên cạnh đó, khi cơ quan THA dân sự tổ chức giao tài sản cho người mua
trúng đấu giá, một số cơ quan hữu quan đưa ra các lý do như gia đình người phải
THA có nhiều thế hệ chung sống hoặc nguồn gốc hình, thành tài sản bán đấu giá
không phải chỉ của mình người phải THA hoặc bản án, quyết định của Tòa án
không nhận được sự đồng thuận của người dân hoặc việc tổ chức THA còn “lấn
cấn”, người mua trúng đấu giá chưa bảo đảm điều kiện năng lực tài chinh để thực
hiện dự án đầu tư... dẫn đến việc trì hoãn giao tài sản cho người mua trúng đấu giá.
Thứ ba, do người phải thi hành án (hoặc chủ sở hữu tài sẩn thi hành án)
45
chống đối, cản trở việc kê biên, bán đấu giá tài sản.
Hầu hết các vụ việc THA có tài sản là bất động sản bị kê biên, bán đấu giá
đều gặp sự chống đối quyết liệt của người phải THA hoặc chủ sở hữu tài sản, việc
chống đối không chỉ xảy ra tại thời điểm cơ quan THA dân sự tổ chức cưỡng chế
mà xuyên suốt trong quá trình cơ quan THA tổ chức thi hành vụ việc. Bên cạnh
những vụ việc người phải THA không hợp tác với cơ quan THA trong quá trình tổ
chức THA (như nhận thông báo về THA, kê khai tài sản của mình...), khi cơ quan
THA tiến hành kê biên bán đấu giá thành tài sản thì khiếu nại hoặc khởi kiện ra Tòa
án để cản trở việc giao tài sản cho người mua trúng đấu giá. Một số việc đương sự
chống đối thiếu căn cứ nhưng việc xử lý, áp dụng chế tài chưa thực sự kịp thời
mang tính răn đe đã làm ảnh hưỏng đến việc THA.
Thứ tư, do tâm lý người dân e ngại khi mua tài sản bán đấu giá để thi hành án
Hiệu quả của hoạt động bán đấu giá tài sản THA thấp xuất phát từ một
nguyên nhân khác, đó là người dân e ngại khi mua tài sản bán đấu giá để THA.
Trước hết người đăng ký mua tài sản thường có tâm lý e ngại mua tài sản đấu giá để
thi hành án và thường cho rằng ngôi nhà đó, công trình đó không đem lại điều may
mắn cho gia chủ. Vì vậy, trừ trường hợp tài sản đấu giá có giá trị rẻ hơn so với giá
thị trường thì mới có người quan tâm mua tài sản để kinh doanh. Bên cạnh đó trong
thời gian qua trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng đã có nhiều bài viết,
thông tin phản ánh tình trạng mua nhà trúng đấu giá nhưng không được nhận nhà
hoặc thời gian từ khi mua trúng đấu giá cho đến khi nhận được nhà kéo dài gây thiệt
hại về vật chất và tinh thần cho người mua tài sản. Từ đó, phát sinh tâm lý e ngại
khi đăng ký mua tài sản là bất động sản của ngươi phải THA mặc dù trên thực tế
người dân vẫn có nhu cầu đối với loại tài sản này.
Thứ năm, quy định về việc cho người phải thi hành án nhận lại tài sản trước
khi mở cuộc bán đấu giá 01 ngày làm việc, nếu nộp đủ tiền thi hành án và thanh
toán các chi phí thực tế hợp lý đã phát sinh từ việc cưỡng chế thi hành án, tổ chức
bán đấu giá (Điều 101 Luật THADS) đã gây nhiều khó khăn, tốn kém chi phí và
thời gian cho các tổ chức đấu giá tài sản. Bởi vì ngay sau khi ký hợp đồng dịch vụ
46
đấu giá tài sản với cơ quan THADS, tổ chức đấu giá tài sản đã phải tiến hành các
thủ tục ban hành quy chế đấu giá, niêm yết, thông báo công khai trên các phương
tiện thông tin đại chúng và giới thiệu cho khách hàng tham khảo hồ sơ. Khi có
khách hàng mua hồ sơ đăng ký tham gia đấu giá, tổ chức đấu giá tài sản đã phải
hoàn tất mọi thủ tục hồ sơ, phát hành giấy mời cho các cơ quan liên quan và thông
báo cho khách hàng dự cuộc đấu giá. Vì vậy, khi nhận được thông báo về việc dừng
việc đấu giá của cơ quan THADS do người phải thi hành án đã nộp tiền nhận lại tài
sản, tổ chức đấu giá tài sản phải tiến hành các thủ tục thông báo ngay cho khách
hành và các cơ quan liên quan biết để không phải mất thời gian đến dự phiên đấu
giá. Điều này vừa làm mất thời gian và vửa làm mất khoản chí phí liên quan đến
niêm yết, thông báo, photo hồ sơ...của tổ chức đấu giá, thậm chí tổ chức đấu giá có
thể phải đối mặt với bức xúc, khiếu nại của khách hàng, làm giảm uy tín, mất niềm
tin của khách hàng đối với tổ chức đấu giá.
Thứ sáu, theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự thì tài sản đưa ra
đấu giá để thi hành án là tài sản đã bị kê biên, định giá để đảm bảo thi hành án và
sau khi kê biên tài sản sẽ được giao cho người phải thi hành án, người thân thích
của người phải thi hành án hoặc người đang sử dụng có trách nhiệm bảo quản tài
sản. Tuy nhiên, trên thực tế đây lại là một nguyên nhân dẫn đến khó khăn, phức tạp
cho quá trình tổ chức bán đấu giá tài sản để thi hành án. Bởi vì, nếu người được
giao bảo quản tài sản không hợp tác, cố tình gây khó khăn, cản trở, không tạo điều
kiện cho người có nhu cầu mua tài sản xem tài sản, thông tin không đúng sự thật về
tài sản thì việc tổ chức đấu giá sẽ gặp khó khăn. Người có nhu cầu mua tài sản sẽ
ngại mua thì không tiếp cận để xem được tài sản và họ thấy trước được khả năng
chống đối của người bảo quản tài sản nếu tài sản bán đấu giá thành.
Những tồn tại, khó khăn, vướng mắc cơ bản nêu trên là do một số nguyên
nhân chủ yếu sau đây:
- Các quy định pháp luật về quá trình tổ chức bán đấu giá tài sản để thi hành
án vẫn còn có sự chồng chéo, không đồng bộ với các quy định pháp luật có liên
quan; việc tổ chức đấu giá tài sản để thi hành án phụ thuộc nhiều vào kết quả thực
47
hiện các trình tự, thủ tục về thi hành án nói chung, kê biên, định giá tài sản để thi
hành án nói riêng. Pháp luật chưa xác định rõ vị trí, vai trò của hoạt động bán đấu
giá trong quá trình tổ chức thi hành án nên dẫn tới tình trạng các tổ chức đấu giá tài
sản can thiệp quá sâu vào hoạt động THADS.
- Việc thẩm định giá tài sản kê biên để đưa ra đấu giá còn nhiều bất cập.
Đơn cử như để đưa tài sản ra đấu giá, Chấp hành viên phải ký hợp đồng với tổ chức
thẩm định giá để xác định giá khởi điểm phù hợp với giá thị trường, nhưng hiện
nay chưa có tiêu chí cụ thể để đánh giá chất lượng của tổ chức thẩm định giá mà
chủ yếu do sự lựa chọn nên thực tế có nhiều trường hợp thẩm định giá đưa ra giá trị
cao hơn nhiều so với giá trị thực tế của tài sản nên không ít vụ việc phải giảm giá
hơn 10 lần nhưng vẫn không bán được tài sản (đây là một trong những nguyên
nhân dẫn đến nhiều vụ việc bán đấu giá không thành, tốn kém chi phí cho đấu giá
tài sản).
- Ý thức chấp hành pháp luật về thi hành án và đấu giá tài sản của người
phải thi hành án và một số tổ chức, cá nhâ còn hạn chế. Thực tế cho thấy rằng tài
sản đưa ra bán đấu giá chủ yếu là nhà ở, quyền sử dụng đất thường có giá trị lớn,
gắn với đời sống của con người nên người phải thi hành án hoặc người thân thích
của họ thường cản trở việc thi hành án, chống đối; cố tình gây khó khăn cho việc kê
biên, định giá, bán đấu giá hoặc có đơn khiếu nại, tố cáo sai sự thật nhằm kéo dài
việc thi hành án trong khi chưa có cơ chế hữu hiệu để xử lý hành vi cản trở, chống
đối việc thi hành án (mặc dù pháp luật xử phạt hành chính trong lĩnh vực thi hành
án có quy định, Bộ luật hình sự cũng quy định những hành vi cụ thể về việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với các trường hợp người phải thi hành án không chấp
hành án, tẩu tán tài sản thi hành án…. nhưng trên thực tế rất khó xử lý về hình sự
hoặc nếu có xử phạt thì việc thu hồi tiền phạt không khả thi.).
- Hiện nay hiện tượng tiêu cực trong công tác bán đấu giá tài sản diễn ra khá
phổ biến, sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức bán đấu giá cũng là một
vấn đề cần đáng quan tâm, tình trạng “quân xanh, quân đỏ”, tình trạng CHV câu kết
với tổ chức đấu giá do mình chọn để ký HĐ DV đấu giá nhằm sắp xếp để người
48
của mình mua được tài sản thông qua tổ chức đấu giá đó như: đăng thông tin tài
sản bán đấu giá trên các báo ít người đọc: Thể thao, An ninh quốc phòng, báo tài
chính..., không cho khách hàng mua hồ sơ như đóng cửa bỏ đi hoặc bán hồ sơ
nhưng tìm mọi cách để người mua hồ sơ không nộp được tiền đặc cọc theo đúng
thời hạn để loại ra khỏi cuộc đấu giá như viện lý do kế toán, thủ quỹ không có ở
trụ sở không thu tiền được, cho só tài khoản sai để người mua hồ sơ không thể
chuyển tiền được.
Kết luận Chương 2
Các quy định của pháp luật hiện hành về bán đấu giá tài sản trong thi hành
án dân sự đã tương đối đầy đủ, cụ thể như các vấn đề về chủ thể bán đấu giá;
nguyên tắc; đối tượng; trình tự thủ tục bán đấu giá; quản lý nhà nước về bán đấu giá
tài sản. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trong công tác đấu giá tài sản,
các quy định của pháp luật về đấu giá tài sản khi đưa vào thực tiễn áp dụng vẫn còn
nhiều hạn chế, bất cập cần phải được tổng kết, đánh giá để hoàn thiện. Cũng từ đó,
luận văn đã nghiên cứu việc thực hiện pháp luật về tổ chức bán đấu giá tài sản trong
thi hành án dân sự từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh, qua đó đánh giá về
những thành tựu dạt được đồng thời chỉ ra các mặt còn tồn tại hạn chế như: Chấp
hành viên còn nhiều vi phạm về các quy định của pháp luật trong quá xử lý tài sản
thi hành án; tài sản đã tổ chức bán đấu giá thành nhưng việc bàn giao tài sản bị kéo
dài hoặc không bàn giao được tài sản cho người mua trúng đấu giá; khách hàng cò
tâm lý e ngại khi mua tài sản bán đấu giá để thi hành án; việc dừng tổ chức bán đấu
giá do người phải thi hành án chuộc lại tài sản và các nguyên nhân khác do pháp
luật quy định; cơ chế kiểm sát hoạt động bán đấu giá tài sản để thi hành án còn chưa
rõ ràng, cụ thể. Đây được coi là những căn cứ từ thực tiễn bán đấu giá để góp phần
xác định các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản trong thi
hành án dân sự tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung.
Với việc nghiên cứu, phận tích thực trang thực hiện pháp luật về bán đấu giá
và quản lý bán đấu giá tại thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn đã đánh giá được thực
trang thực hiện pháp luật về bán đấu giá tài sản và quản lý bán đấu giá tại thành phố
49
Hồ Chí Minh. Đồng thời, nêu rõ những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của nhữmn
tồ tại hạn chế đó. Thông qua kết quả đạt được tại chương 2 sẽ làm cơ sở lý luận cho
việc đưa ra các phương hướng, giải pháp và những kiến nghị tại chương 3 của Luận
50
văn này.
Chương 3
QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢTHỰC HIỆN PHÁP LUẬT BÁN ĐẤU GIÁ TÀI
SẢN ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
3.1. Quan điểm, phương hướng hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật
bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự
3.1.1 Quan điểm, phương hướng hoàn thiện pháp luật
Đấu giá tài sản được xem là giai đoạn cuối cùng và quan trọng trong quá
trình xử lý tài sản của người phải thi hành án để bảo đảm bản án, quyết định của
Toà án đã có hiệu lực pháp luật được thực thi. Trên thực tiễn có nhiều vụ việc cơ
quan thi hành án dân sự đã kê biên, thẩm định giá và tổ chức bán đấu giá tài sản
thành công nhưng kết quả giao tài sản đã bán đấu giá cho người mua trúng đấu giá
chưa được cao, từ đó dẫn đến số tiền thi hành án thu được từ việc đấu giá tài sản
vẫn còn thấp, kết quả thi hành án dạt hiệu quả chưa cao. Để nâng cao chất lượng
hoạt động đấu giá, Quốc hội đã ban hành Luật Đấu giá tài sản năm 2016 có hiệu
lực từ ngày 01/7/2017.
Sau hơn 02 năm triển khai thi hành, Luật Đấu giá tài sản đã khẳng định được
đây là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật về đấu giá tài sản,
tăng cường chủ trương xã hội hóa hoạt động đấu giá tài sản, là cơ sở pháp lý cho
việc phát triển dịch vụ đấu giá tài sản như một dịch vụ chuyên nghiệp hướng tới
nền kinh tế thị trường, tạo cơ chế đấu giá tài sản tự nguyện phù hợp với nhu cầu
của các cá nhân, tổ chức trong xã hội, tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của nguời có tài sản đấu giá và người mua được tài sản đấu giá, góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động bán đấu giá tài sản, hoạt động thi hành án.
Tuy nhiên, trên thực tế pháp luật về bán đấu giá trong thi hành án dân sự khi
áp dụng vào thực tiễn vẫn còn có nhiều bất cập, vướng mắc cần phải khắc phục để
pháp luật về đấu giá tài sản ngày càng hoàn thiện hơn, đáp ứng được những yêu cầu
51
đòi hỏi trong thời kỳ hội, cụ thể ở một nội dung sau:
Thứ nhất, pháp luật phải tiếp tục thể chế hóa chủ trương của Đảng về cải
cách tư pháp. Theo về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị thì hoạt động đấu giá phải được đảm
bảo được tính đồng bộ với các ngành luật liên quan và phải phù hợp với nền kinh tế
thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật. Đó là việc
nhanh chóng ban hành các văn bản pháp luật để hướng dẫn Luật đấu giá tài sản như
nghị định, thông tư và các văn này phải phù hợp, không có sự mâu thuẫn hoặc
chồng chéo đối với Luật đấu giá tài sản và Luật thi hành án dân sự.
Thứ ba, bảo đảm phù hợp với thực tiễn về việc bán đấu giá quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất để thi hành án dân sự, phải khắc phục triệt để những
khó khăn, vướng mắc phát sinh từ thực tiễn thi hành án.
Thứ tư, bảo đảm tính phù hợp, tương thích với thông lệ quốc tế trong quá
trình thực hiện việc bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự.
Thứ năm, đấu giá tài sản để thi hành án dân sự phải đáp ứng yêu cầu về xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền đặt ra là phải phân định rõ chức
năng, nhiệm vụ của từng cơ quan nhà nước để thực hiện tốt quyền lập pháp, quyền
hành pháp và quyền tư pháp, trong đó có việc quy định cưỡng chế thi hành án và
đấu giá tài sản để thi hành án phải trên cơ sở pháp luật và phù hợp với thực tế công
tác thi hành án dân sự.
Mục đích chính của hoạt động thi hành án dân sự là nhằm bảo đảm các bản
án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành trên thực tế,
bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan,
tổ chức tham gia vào quá trình thi hành án. Việc chậm thi hành án hoặc thi hành
không đúng quy định pháp luật dẫn đến việc thi hành bản án, quyết định được
không đúng nội dung, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cơ
quan, tổ chức, cá nhân. Đấu giá tài sản để thi hành án dân sự là một khâu, một giai
52
đoạn của quá trình tổ chức thi hành án, bởi vậy việc nâng cao hiệu quả đấu giá tài
sản để thi hành án nhằm từng bước khắc phục, hạn chế tình trạng xâm phạm đến lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Vì vậy,
các quy định của pháp luật về đấu giá tài sản để thi hành án đòi hỏi phải thật cụ thể,
đảm bảo được thực thi trên thực tiễn và phải được nghiêm chỉnh thi hành theo đúng
tinh thần của Nhà nước pháp quyền là pháp luật phải là tối thượng.
Thứ sáu, đấu giá tài sản để thi hành án dân sự phải bảo đảm quyền con
người, quyền công dân
Trong quá trình thi hành án dân sự, nhất là khi phải kê biên, đấu giá tài sản
của người phải thi hành án thì việc kê biên, định giá tài sản để đưa ra bán đấu giá
phải đảm bảo đúng quy định pháp luật. Việc đảm bảo kê biên, định giá, bán đấu giá
đúng quy định pháp luật sẽ đảm bảo quyền con người, quyền của công dân mà trực
tiếp là các quyền về sở hữu, quyền sử dụng, quyền chuộc lại tài sản của người phải
thi hành án; quyền thỏa thuận giữa người được thi hành án và người phải thi hành
án; quyền yêu cầu Tòa án xem xét hủy kết quả đấu giá của các bên; quyền khiếu
nại, tố cáo của cá nhân, tổ chức nếu có căn cứ cho rằng việc đấu giá có vi phạm
pháp luật, có sự thông đồng, dìm giá giữa đấu giá viên và những người tham gia đấu
giá; người mua tài sản đấu giá ngay tình được pháp luật bảo vệ. Như vậy, để đảm
bảo hiệu quả của việc đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự thì phải bảo đảm tốt
các quyền con người, quyền của công dân, nhất là đối với những người trực tiếp
liên quan đến quá trình thi hành án, quá trình bán đấu giá tài sản để thi hành án, qua
đó góp phần hạn chế các khiếu nại, tố cáo phát sinh trong quá trình thi hành án .
3.1.2. Quan điểm, phương hướng thực hiện pháp luật
Thứ nhất, phải tăng cường hơn nữa quan hệ, phối hợp giữa các cơ quan có
Trong quá trình giải quyết việc thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự phải
tiến hành nhiều thủ tục như: Tống đạt, xác minh, áp dụng các biện pháp đảm bảo, biện
pháp cưỡng chế thi hành án, kê biên, định giá, bán đấu giá tài sản v.v...và bán đấu giá
tài sản trong thi hành án dân sự là hoạt động liên quan trực tiếp đến quyền về tài sản
của các bên đương sự. Vì vậy, cơ quan thi hành án dân sự không thể “đơn thân độc mã”
53
liên quan đến hoạt động bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.
thực hiện được tất cả những công việc trên mà đòi hỏi cần phải có sự phối hợp của các
cơ quan, tổ chức có liên quan. Việc phối hợp tốt với các cơ quan, tổ chức, ban ngành
có liên quan trong quá trình tổ chức thi hành án là một trong những yếu tố quan
trọng quyết định hiệu quả của công tác thi hành án dân sự. Nơi nào có được sự quan
tâm của cấp uỷ, Ủy ban nhân dân thì nơi đó việc thi hành án dân sự được thuận lợi
đạt được thành tích tốt. Đặc biệt là, để đảm bảo sự phối hợp trong thi hành án dân
sự và đấu giá tài sản, cần phải phát huy vai trò của Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự
các cấp. Việc tăng cường vai trò của Ban chỉ đạo thi hành án dân sự các cấp sẽ đảm
bảo sự chỉ đạo phối hợp kịp thời, hiệu quả giữa các cơ quan, tổ chức liên quan nhằm
đẩy nhanh tiến độ giải quyết việc thi hành án cũng như đấu giá tài sản để thi hành
Thứ hai, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật. Trong khi hoạt động
án.
bán đấu giá tài sản để thi hành án chấp hành viên, tổ chức bán đấu giá tài sản, đấu
giá viên vẫn còn để xảy ra nhiều lỗi thiếu sót. Tuy nhiên, mức xử phạt vi phạm hành
chính đối với những vi phạm trong hoạt động đấu giá còn rất “khiêm tốn”, tính răn
đe chưa cao. Do vậy, pháp luật cần có quy định cụ thể về việc xử lý nghiêm đối với
chấp hành viên, đấu giá viên và tổ chức bán đấu giá tài sản có lỗi trong việc kê biên,
định giá, bán đấu giá tài sản để thi hành án. Nếu có xảy ra thiệt hại thì Chấp hành
viên, đấu giá viên và tổ chức đấu giá phải thực hiện việc bồi thường theo quy định
của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước theo quy định của Bộ luật Dân sự,
Thứ ba, về mặt thủ tục, yêu cầu phải thực hiện việc niêm yết công khai thủ
Bộ luật Tố tụng dân sự.
tục thi hành án, thông báo bán đấu giá tài sản tại các cơ quan thi hánh án cho người
dân dễ tìm hiểu, nắm bắt thông tin để họ có thái độ hợp tác với cơ quan thi hành án
trong quá trình thi hành, cũng như trong đấu giá tài sản .
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự
Hoàn thiện quy định pháp luật về bán đấu giá tài sản là giải pháp đóng vai
trò quan trọng trong việc thi hành pháp luật về bán đấu giá tài sản của cả nước nói
54
chung và ở Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Lý do: nếu pháp luật về bán đấu giá
tài sản không được hoàn thiện, các quy định về điều kiện, cách thức, trình tự, thủ
tục không đầy đủ thì sẽ khó khăn cho các chủ thể trong quá trình bán đấu giá tài sản
trên thực tế. Điều này dẫn đến sự tuỳ tiện trong quá trình bán đấu giá tài sản, từ đó
làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước và các chủ thể tham gia quan hệ bán đấu giá
tài sản. Để việc bán đấu giá tài sản thi hành án có hiệu quả cao thì điều kiện tiên
quyết, quan trọng là phải dựa trên một hệ thống pháp luật có chất lượng cao, những
bất cập, hạn chế, khiếm khuyết của pháp luật phải bị loại bỏ. Vì vậy, việc rà soát,
tập hợp, hệ thống hoá các văn bản pháp luật đóng vai trò rất quan trọng. Có thể nói
đây là bước đầu tiên trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật nói
chung, pháp luật về bán đấu giá tài sản thi hành án nói riêng.
Với mục đích đóng góp thêm kênh thông tin cho việc góp ý hoàn thiện Luật
Đấu giá tài sản, theo tác giả luận văn cần tập trung vào một số giải pháp sau:
Một là, quy định về một khoản tiền phạt đối với việc vi phạm thời hạn thanh
toán tiền đối với người mua được tài sản.
Để tránh những vi phạm trong việc nộp tiền trúng đấu giá sau khi đấu giá
thành đối với người mua trúng đấu giá tài sản thì ngoài việc quy định khoản tiền đặt
trước thuộc về người có tài sản đấu giá thì nên có quy định về một khoản tiền phạt
đối với hành vi vi phạm về thời hạn nộp tiền mua tài sản trúng đấu giá đối với
người mua trúng đấu giá. Quy định này sẽ làm cho người mua trúng đấu giá có sự
cân nhắc kỹ lưỡng trước khi tham gia đấu giá tài sản. Theo quy thì thời hạn người
mua tài sản nộp tiền là không quá 30 ngày kể từ ngày đấu giá thành. Mặc dù pháp
luật đã quy định rõ như vậy nhưng lại không quy định số tiền phải nộp là bao nhiêu,
nộp một phần tiền hay nộp tất cả số tiền còn lại. Do vậy, nên cần sửa lại là nộp tiền
toàn bộ số tiền còn lại ( sau khi trừ tiền đặc trước) theo hợp đồng mua bán tài sản
trong thời hạn không quá 30 ngày kể từ ngày đấu giá thành cho rõ ràng cụ thể, chi
tiết hơn.
Hai là, sửa đổi quy định niêm yết, thông báo công khai bán đấu giá tài sản
Theo quy định của Luật đấu giá tài sản “ Đối với tài sản là bất động sản thì tổ
55
chức đấu giá tài sản phải niêm yết việc đấu giá tài sản tại trụ sở của tổ chức mình,
nơi tổ chức cuộc đấu giá và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có bất động sản đấu giá ít
nhất là 15 ngày trước ngày mở cuộc đấu giá ”.
Quy định này là chưa phù hợp với thực tiễn và chưa đảm bảo tính khả thi.
Trên thực tế, đối với việc niêm yết các loại tài sản bán đấu giá là bất động sản như
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất thì tổ chức đấu giá tài sản khó có thể
niêm yết tại nơi có bất động sản bán đấu giá. Cụ thể, đối với việc niêm yết thông
báo bán đấu giá quyền sử dụng đất là các lô đất trống thì tổ chức đấu giá không biết
phải niêm yết thông báo bán đấu giá ở đâu và niêm yết như thế nào; đối với tài sản
thi hành án là nhà, đất mà người phải thi hành án đang quản lý, sử dụng thì người
phải thi hành án thường không có thiện chí hợp tác mà thậm chí còn có các hành vi
cản trở, chống đối trong khi theo quy định pháp luật thì tổ chức đấu giá tài sản
không có phương tiện hỗ trợ cho việc niêm yết tại nơi có bất động sản. Như vậy,
quy định thủ tục niêm yết này chỉ mang tính hình thức mà không có tính thực tiễn.
Mặt khác mục đích, bản chất của việc niêm yết tài sản đấu giá là nhằm công khai
thong tin bán đấu giá để nhiều người được biết về tài sản đang rao bán đấu giá. Trên
thực tế đa số người dân biết được các thông tin đấu giá tài sản thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng, vì vậy nên bỏ quy định việc niêm yết tại nơi có bất
động sản cho phù hợp với thực tế.
Ba là, các giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự và
pháp luật về đấu giá tài sản
Việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về THADS và pháp luật về đấu giá tài sản
Thứ nhất, để khắc phục việc chậm giao tài sản đấu giá thành cho người mua
cần tập trung vào những nội dung cơ bản sau:
được tài sản do khi kê biên tài sản được giao cho người phải thi hành án hoặc người
thân thích của người phải thi hành án quản lý, sử dụng, trong thời gian tới cần quy
định tài sản đưa ra đấu giá phải là tài sản đang do cơ quan THADS hoặc cơ quan có
chức năng bảo quản tài sản quản lý. Việc quy định như vậy sẽ khắc phục được tình
trạng người muốn tham gia đấu giá nhưng do tâm lý sợ rủi ro khi không nhận được
56
tài sản sau khi đấu giá thành nên không đăng ký tham gia đấu giá, đồng thời tránh
thiệt được hại cho người có tài sản bán đấu giá do có ít người đăng ký tham gia đấu
Thứ hai, để khắc phục tình trạng thông đồng, dìm giá qua các lần giảm giá
giá thì sẽ dẫn đến tình trạng bị ép giá, phải giảm giá nhiều lần.
tài sản để đấu giá, cần có quy định về việc Chấp hành viên chỉ được ký hợp đồng
dịch vụ đấu giá tài sản với một tổ chức đấu giá tài sản không quá 3 lần để đấu giá
tài sản kê biên (tức là sau 2 lần giảm giá). Bởi vì, trên địa bàn tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều tổ chức đấu giá
được thành lập và việc quy định như vậy sẽ đòi hỏi tổ chức đấu giá tài sản phải
công khai, minh bạch hơn trong đấu giá tài sản, tích cực hơn trong việc tổ chức đấu
giá để mong sớm bán được tài sản cho người thực sự có nhu cầu mua tài sản để thu
được phí đấu giá, tránh kéo dài việc thi hành án và thiệt hại cho người phải thi hành
án khi tài sản đấu giá phải giảm giá nhiều lần mới có người mua.
3.3. Giải pháp thực hiện pháp luật bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự
3.3.1. Giải pháp chung
Qua thực tiễn thực hiện pháp luật bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự
cho thấy hiệu quả của hoạt động thực hiện pháp luật bán đấu giá tài sản hiện nay
phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố, trong đó chủ yếu là trình độ kiến thức, hiểu biết
pháp luật của các chủ thể pháp luật; công tác phổ biến,giáo dục, tuyên truyền pháp
luật bán đấu giá tài sản; vai trò, trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong hoạt
động thực hiện pháp luật bán đấu giá tài sản. Vì vậy để nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự, cần thực hiện một số giải
pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã đặt ra: "Tiếp tục
tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác thi hành án dân sự, nâng cao hiệu quả
công tác thi hành án, giải quyết căn bản tình trạng án tồn đọng". Thể chế hóa
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đã liên tục hoàn thiện pháp
luật về thi hành án dân sự nói chung và các quy định của pháp luật về bán đấu giá
57
tài sản thi hành án dân sự nói riêng. Đồng thời, Nghị quyết 49-NQ/TW có nêu:
“Cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, bảo đảm sự ổn
định chính trị, bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công,
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp” [2, tr.23]. Chính vì vậy cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự, cần tập
trung đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng đối với Nhà nước, cụ thể hóa thành
Hiến pháp, pháp luật.
Thứ hai, tăng cường việc tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật
về bán đấu giá tài sản và thi hành án dân sự
Cần đa dạng hóa về hình thức và phong phú về nội dung trong công tác tuyên
truyền, giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật về bán đấu giá tài sản, pháp luật
về THA dãn sự nói riêng. Thông qua các hoạt động tổ chức THA, tổ chức các cuộc
thi, các bài nghiên cứụ, trao đổi, các cơ quan tư pháp cung cấp tài liệu để nâng cao
nhận thức pháp luật cho nhân dân, giúp họ nắm được và chấp hành nghiêm chỉnh
các quy định pháp luật nói chung và pháp luật đấu giá tài sản nói riêng, để người
dần hiểu và yên tâm khi mua tài sản thông qua đấu giá, đồng thời giúp giám sát
hoạt động bán đấu giá tài sản.
Thứ ba, phải kiện toàn tổ chức bán đấu giá tài sản thi hành án và đội ngũ
đấu giá viên thực hiện tốt nhiệm vụ bán đấu giá bảo đảm hoạt động bán đấu giá tài
sản được xã hội hóa một cách sâu sắc.
Thứ tư, nhận thức đúng về vị trí vai trò, tầm quan trọng của công tác bán
đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.
Lãnh đạo các cơ quan, đơn vị liên quan cần nhận thức đúng về vị trí vai trò,
tầm quan trọng của công tác bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự là một
trong những khâu công tác quan trọng. Thường xuyên thông báo rút kinh nghiệm
các dạng vi phạm của các cơ quan liên quan công tác bán đấu giá tài sản trong thi
hành án dân sự; học tập các phương pháp, cách làm hay của các địa phương, đơn vị
58
để cùng rút kinh nghiệm. Phải có chế tài xử lý nghiêm đối với chấp hành viên, đấu
giá viên làm công tác bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự khi cố tình sai
phạm dẫn đến để xảy ra các vụ việc gây hậu quả nghiêm trọng.Tăng cường tập huấn
nghiệp vụ chuyên sâu cho các cán bộ trong các cơ quan làm công tác liên quan bán
đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.
Thứ năm, phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan thi hành án dân sự và tổ chức bán
đấu giá.
Các cơ quan thi hành án dân sự và các tổ chức bán đấu giá tài sản cần phải có
quy chế phối hợp chặt chẽ với nhau hơn nữa tạo thành một mối thống nhất để cùng
nhau chia sẻ những khó khăn, vướng mắc từ đó có hướng giải quyết hợp tình, hợp
lý, đảm bảo được quyền và lợi ích của các bên nhằm ngày càng mang lại hiệu quả
cao hơn trong công tác bán đấu giá tài sản để thi hành án.
Thứ sáu, tăng cường hơn nữa công tác giám sát đối với những hồ sơ liên
quan đến đấu giá tài sản ngay từ những giai đoạn ban đầu của quá trình kê biên,
định giá, đấu giá tài sản nhằm hạn chế những thiếu sót trong quá trình tổ chức đấu
giá tài sản.
.Thứ bảy, cần có sự kiểm tra giám sát chặt chẽ đối với người đăng ký tham
gia đấu giá tài sản.
Chấp hành viên phải yêu cầu tổ chức đấu giá tài sản thực hiện nghiêm túc
việc kiểm tra điều kiện đăng ký tham gia đấu giá của những khách hàng, nếu phát
hiện những trường hợp không được đăng ký tham gia đấu giá tài sản theo quy định
của pháp luật về đấu giá thì phải loại ngay hồ sơ.
Thứ tám, nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ chấp hành viên, đấu giá
viên và công chức, nhân viên của các cơ quan thi hành án dân sự và tổ chức đấu
giá tài sản.
Thực tế công tác THADS cho thấy rằng trong điều kiện phát triển và hội
nhập kinh tế hiện nay bên cạnh những kết quả đạt được thì cũng làm phát sinh
nhiều vi phạm pháp luật, tranh chấp phải được giải quyết bởi các cơ quan có thẩm
quyền. Vì vậy, hiệu quả công tác THADS nói chung, đấu giá tài sản để thi hành án
59
nói riêng phụ thuộc nhiều vào trình độ, năng lực của Chấp hành viên, đấu giá viên
trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ về thi hành án và đấu giá tài sản. Do đó, để đảm
bảo hiệu quả THADS nói chung, đấu giá tài sản để thi hành án nói riêng đòi hỏi
phải không ngừng nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ công chức, chấp hành
viên, đấu giá viên trong các cơ quan THADS và các tổ chức đấu giá tài sản để trang
bị kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm cho công chức, chấp hành viên và đấu giá viên
phù hợp với yêu cầu của công tác THADS và đấu giá tài sản trong tình hình mới .
3.3.2 Giải pháp đối với Thành phố Hồ Chí Minh
Thứ nhất, nâng cao trách nhiệm, năng lực của chấp hành viên trong quá trình
tổ chức thi hành án
Để việc bán đấu giá tài sản THA được hiệu quả, cần thiết nâng cao ý thức
trách nhiệm của chấp hành viên. Quá trình tổ chức THA cần tuân thủ đầy đủ các
quy định pháp luật, hạn chế tối đa việc khiếu nại về trình tự, thủ tục THA dân sự.
Do đó, đòi hỏi chấp hành viên cần thường xuyên cập nhật các văn bản quy phạm
pháp luật liên quan đến quá trình tổ chức THA nói chung và bán đấu giá tài sản
THA, bán đấu giá nói riêng. Quá trình tổ chức THA cần bám sát quy định của pháp
luật để thực hiện đúng pháp luật. Mặt khác, cần luôn lưu ý một số vấn đề trong quá
trình xử lý một số tài sản, ví dụ như đổi với các tài sản bất động sản gắn liền với
quyền sử dụng đất thuê trả tiền hàng năm hoặc các tài sản khi chuyển dịch phải nộp
thuế... thì cơ quan THA dân sự phải làm việc với các cơ quan hữu quan và phải
thông báo công khai các nội dung đó để người có nhu cầu đăng ký mua tài sản đấu
giá biết.
Khi phát sinh khiếu nại, tố cáo cần kịp thời giải quyết dứt điểm khiếu nại, tô'
cáo, tránh trình trạng tài sản được bán đấu giá thành mối phát sinh các khiếu nại về
thủ tục THA trưổc đó làm ảnh hưỏng nghiêm trọng đến hoạt động bán đấu giá tài
sản. Kiên quyết xử lý nghiêm các CHV có hành vi vi phạm trong tổ chức thi hành
án nói chung và hoạt động bán đấugiá nói riêng.
Thứ hai, để hạn chế việc vi phạm về chủ thể đấu giá tài sản trong Luật đấu giá
tài sản đã có quy định rõ ràng cụ thể về điều kiện để tham gia đấu giá tài sản, về
60
việc nộp tiền đặt trước khi tham gia đấu giá tài sản. Tuy nhiên trong quá trình tổ
chức bán đấu giá vẫn còn hiện tượng “quân xanh, quân đỏ”. Điều này sẽ làm ảnh
hưởng đến tính khách quan, trung thực, công khai của việc tổ chức bán đấu giá tài
sản. Nên trong thời đại kỹ thuật số, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông
tin ngày nay chúng ta cần áp dụng hình thức đấu giá trực tuyến nhiều hơn và có
những giải pháp kỹ thuật để cho việc tổ chức đấu giá trực tuyến ngày càng trở nên
phổ biến hơn.
Bên cạnh đó Tổng Cục thi hành án dân sự đã ban hành quy trình tổ chức thi
hành án trong đó quy định rõ: Chấp hành viên trước khi ký hợp đồng thẩm định
giá, bán đấu giá phải có tờ trình Thủ trưởng để báo cáo rõ lý do và cơ sở của việc
lựa chọn tổ chức thẩm định, Tổ chức đấu giá. Bên cạnh đó Cục THADS TP.HCM
cũng đã có quy trình lựa chọn tổ chức thẩm định giá, tổ chức đấu giá, quy trình tổ
chức thẩm định giá, quy trình tổ chức đấu giá quy định chi tiết cách thức, tiêu chí
thực hiện việc lựa chọn nhằm hạn chế tình trạng tiêu cực trong công tác thẩm định
giá, bán đấu giá. Trong đó có những việc đáng chú ý như: chỉ cho phép đăng báo
bán đấu giá trên các báo có nhiều người đọc như Pháp luật TP.HCM, Tuổi trẻ, Sài
Gòn Giải phóng, Thanh Niên...Chấp hành viên có nghĩa vụ giám sát việc đăng
báo, niêm yết và lưu ngay các giấy tờ chứng minh việc đăng báo, niêm yết. Chấp
hành viên phải thực hiện việc đăng thông báo bán đấu giá tài sản lên trang web
thông tin điện tử của Cục Thi hành án ( mục thông báo bán tài sản) và hiện nay Bộ
tư pháp cũng đã có trang web bán đấu giá riêng để các tổ chức phải đăng công
khai việc bán đấu giá tài sản trên trang web này.
Trường hợp các Tổ chức đấu giá cố tình đóng cửa không bán hồ sơ hoặc tìm
cách gây khó khăn trong việc tham gia đấu giá tài sản thi hành án thì người muốn
tham gia đấu giá có thể phản ảnh trực tiếp lên Thanh tra Sở tư pháp, mời thừa phát
lại lập vi bằng làm cơ sở để phản ảnh lên Sở tư pháp và Cơ quan thi hành án, điện
thoại trực tiếp cho Chấp hành viên thụ lý và Thủ trưởng Cơ quan thi hành án hoặc
phảnh ánh trực tiếp ra Tổng cục thi hành án.
Thứ ba, cần có biện pháp mạnh mẽ, chặt chẽ hơn trong việc niêm yết, thông
61
báo công khai về việc bán đấu giá tài sản.
Các Chấp hành viên phải làm hết trách nhiệm của mình đối với tài sản mình
đã kê biên, định giá và đưa ra bán đấu giá để thi hành án. Trong quá trình tổ chức
đấu giá tài sản phải thực hiện tốt việc niêm yết, thông báo công khai và phải theo
dõi, kiểm tra xem việc tổ chức đấu giá có thực hiện đúng quy định pháp luật về đấu
giá tài sản không. Nếu phát hiện có sai phạm về việc công khai bán đấu giá tài sản
thì Chấp hành viên có quyền đề nghị dừng việc đấu giá tài sản ngay hoặc đề nghị
cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật. Việc hạn chế những
vi phạm trong quá trình niêm yết, thông báo công khai là rất quan trọng trong quá
trình đấu giá tài sản. Vì trong một số trường hợp khi đã đấu giá thành, các bên đã
thực hiện xong nghĩa vụ đối với việc mua tài sản đấu giá, tuy nhiên do trong quá
trình thanh kiểm tra các hồ sơ phát hiện ra việc vi phạm về niêm yết, thông báo
công khai nên kết quả đấu giá tài sản sẽ bị hủy và việc hủy kết quả đấu giá tài sản
sẽ kéo theo rất nhiều vấn đề gây ảnh hưởng tới quyền lợi ích pháp của các bên, gây
ảnh hưởng đến hoạt động đấu giá, công tác thi hành án dân sự, gây bức xúc trong
dư luận, xã hội.
Thứ tư, để khắc phục tình trạng vi phạm về thời hạn giao tài sản đấu giá cho
người mua trúng đấu giá, đòi hỏi Chấp hành viên phải có sự cương quyết, sự phối
kết hợp tốt cùng với chính quyền địa phương, các cơ quan ban ngành và đặc biệt
phải thường xuyên báo cáo Ban chỉ đạo thi hành án ở địa phương đối với những vụ
việc khó khăn phức tạp để từ đó có những biện pháp tháo gỡ nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người mua tài sản.
Kết luận Chương 3
Sau hơn 2 năm thi hành Luật đấu giá tài sản, các tổ chức bán đấu giá tài sản
và đội ngũ đấu giá viên đã có sự phát triển về số lượng, chất lượng, quy mô, tính
chuyên nghiệp, cơ bản đáp ứng nhu cầu bán đấu giá của các địa phương. Kết quả
hoạt động bán đấu giá trong thời gian vừa qua đã từng bước khẳng định hiệu quả
của xã hội hóa, chuyên nghiệp hóa hoạt động bán đấu giá tài sản, đóng góp tích cực
62
cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, công tác bán đấu giá tài sản trong THADS thời gian
qua cũng bộc lộ khác nhiều bất cập. Pháp luật THADS quy định việc bán đấu giá
quyền sở hữu trí tuệ nhưng thủ tục cụ thể chưa có quy định. Vấn đề thông báo bán
đấu giá tài sản thi hành án chưa quy định hợp lý, rõ ràng. Vấn đề xử lý tài sản bán
đấu giá không thành quy định chưa thống nhất giữa Luật THADS và Luật đấu gía
tài sản. Quá trình phối hợp giữa các cơ quan liên quan nhằm đảm bảo quyền lợi hợp
pháp của người trúng đấu giá là tài sản THADS cũng còn nhiều điểm bất hợp lý.
Chấp hành viên là người có thẩm quyền bán đấu giá tài sản thi hành án nhưng chưa
được đào tạo chuyên nghiệp về bán đấu giá nên dễ dẫn đến sai sót khi thực hiện
nghiệp vụ bán đấu giá. Còn tồn tại nhiều sai phạm trong thực hiện nghiệp vụ cưỡng
chế kê biên của Chấp hành viên và bán đấu giá của Chấp hành viên. Nguyên nhân
của những hạn chế, bất cập trên xuất phát từ việc thể chế pháp lý về bán đấu giá tài
sản THADS chưa hoàn thiện; chất lượng đội ngũ đấu giá viên còn hạn chế; công
tác bồi dưỡng nghiệp vụ cho các đấu giá viên chưa được thực hiện thường xuyên và
đặc biệt vấn đề đạo đức của Chấp hành viên, đấu giá viên còn bị bỏ ngỏ. Việc phải
tổng kết, đánh giá hiệu quả của Luật đấu giá tài sản là cần thiết, trên cơ sở đánh giá
sẽ kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện thực tế hiện hành, d9a3m
63
bảo đưa Luật đấu giá đi vào thực tiễn của xã hội.
KẾT LUẬN
Bán đấu giá tài sản là một trong những hình thức mua bán đặc biệt, đã có từ
lâu trên thế giới. Ở Việt Nam, bán đấu giá tài sản mới chỉ được pháp luật quy định
từ 30 năm nay. Từ những quy định ban đầu trong Pháp lệnh THADS năm 1989,
Nghị định 17/2010/Đ-CP đến nay với những quy định trong BLDS năm 2015, Luật
THADS 2008 ( bổ sung, sửa đổi năm 2014), Luật đấu giá tài sản 2016 và các văn
bản pháp luật hướng dẫn thi hành đã tạo nên một chế định về bán đấu giá tài sản thi
hành án tương đối hoàn chỉnh và trở thành cơ sở pháp lý cho các hoạt động đấu giá
tài sản THADS trong nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta. Pháp luật về bán đấu giá tài sản thi hành án đã góp phần tạo lập môi trường công
khai, minh bạch, cạnh tranh bình đẳng, chống gian lận và góp phần bảo vệ lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong quan hệ mua bán tài sản đấu giá. Tuy nhiên,
trong thời gian qua, bán đấu giá tài sản trong THADS cũng còn bộc lộ những hạn
chế nhất định mà nguyên nhân là do hệ thống pháp luật còn chưa thực sự đồng bộ,
thống nhất cùng với việc thực hiện của những người tham gia vào quá trình này còn
nhiều khiếm khuyết khiến cho hoạt động này chưa phát triển và mang lại hiệu quả
như mong muốn.
Để nâng cao hiệu quả bán đấu giá tài sản trong THADS, qua nghiên cứu
cho thấy một mặt cần phải hoàn thiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực này,
mặt khác phải tăng cường các biện pháp tổ chức thực hiện pháp luật về lĩnh vực
này. Về hoàn thiện pháp luật, cần bổ sung các quy định về bán đấu giá quyền sở
hữu trí tuệ cũng như bán đấu giá một số loại tài sản có tính chất đặc thù như loại tài
sản hình thành trong tương lai; các tài sản là di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; các
quyền tài sản; hoa lợi, lợi tức gắn liền với tài sản hoặc các vật đồng bộ, vật chính,
vật phụ. ; sửa đổi các quy định về phương thức đấu giá (theo hướng bổ sung một số
phương thức đấu giá mới như thông lệ quốc tế); sửa đổi quy định nơi niêm yết bất
động sản bán đấu giá; hướng dẫn bán đấu giá tài sản thi hành án không thành và xử
lý bán đấu giá tài sản thi hành án không thành; hoàn thiện thủ tục chuyển quyền sở
64
hữu tài sản mua được thông qua đấu giá trong phần trình tự thủ tục bán đấu giá tài
sản thi hành án; hoàn thiện quy định pháp luật về việc phối hợp giữa các cơ quan
liên quan trong quá trình bán đấu giá tài sản trong THADS cũng như chuyển quyền
sở hữu tài sản bán đấu giá. về thực hiện pháp luật, cần tăng cường năng lực của đội
ngũ bán đấu giá tài sản thi hành án cả về chất lượng và số lượng thông qua đào tạo,
bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng đấu giá; xây dựng quy tắc nghề nghiệp đấu giá; tăng
cường phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật để đảm bảo những người
thực hiện hoạt động này thật sự công tâm, khách quan khi thực hiện nhiệm vụ; nâng
cao trách nhiệm của các chủ thể tham gia trong quan hệ bán đấu giá tài sản trong
THADS và tăng cường tuyên truyền, phố biến pháp luật để người dân hiểu rõ hơn
về hoạt động bán đấu giá tài sản trong THADS, đặc biệt thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng, điện tử công nghệ để người dân tiếp cận công khai, rộng rãi với
65
tài sản bán đấu giá trong THADS.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 48-NQ/TW về chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm
2020, ban hành ngày 24/5/2005, Hà Nội.
2. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020, ban hành ngày 02/6/2005, Hà Nội.
3. Bộ Tư pháp (2014) Báo cáo số 180/BC-BTP sơ kết 4 năm thi hành Nghị định
số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản,
ban hành ngày 18/7/2014, Hà Nội.
4. Bộ Tư pháp (2009) Pháp luật về bán đấu giá tài sản, tài liệu Hội thảo –
thành phố Hồ Chí Minh, ban hành ngày 12/6/2009, Hồ Chí Minh.
5. Chính phủ (2015) Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật THADS,ban hành ngày 18/7/2015, Hà
Nội.
6. Chính phủ (2017) Báo cáo công tác thi hành án năm 2017, ban hành ngày
30/9/2017, Hà Nội.
7. Lê Hùng Cường (2017) “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi
hành án dân sự hiện nay”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (số chuyên đề), tr.
51-57.
8. David W. Pearce (1999) Từ điển kinh tế học hiện đại, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Nguyễn Xuân Đồng (2011) “ Những vướng mắc trong công tác bán đấu giá
quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất”,
Tap chí Dân chủ và pháp luật, số 10, tr.7-12.
11. Nguyễn Hồng Hải (2012) Một số ý kiến về đấu giá tài sản theo quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành và một số đề xuất, Tài liệu hội nghị Vụ Bổ trợ
tư pháp - Bộ Tư pháp, Hà Nội.
12. Nguyễn Quang Hòa (2012) “Bán đấu giá tài sản - Một số nét về thực
trạng”,Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 12, tr. 20-25.
13. Bùi Thị Thu Hiền (2015) “Nâng cao hiệu quả bán đấu giá tài sản trong
THADS”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 7, tr.48- 52.
14. Phạm Thị Liên Hương (2015) “Hoạt động bán đấu giá tài sản những bất cập
và giải pháp”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 10, tr. 26 - 27.
15. Hội đồng quốc gia (1995) Đại Từ điển bách khoa Việt Nam, NXB Trung
tâm biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam, Hà Nội.
16. Khoa Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(2004) Tài liệu học tập và nghiên cứu môn học lý luận chung về nhà nước và
pháp luật, tập 1, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
17. Đặng Thị Bích Liễu (2010) “Vấn đề: người có tài sản bán đấu giá và người
bán đấu giá tài sản trong pháp luật về đấu giá ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 2, tr.5-8.
18. Đặng Trần Hoàng Linh (2012) “Nhận diện những bất cập từ thực tiễn hoạt
động bán đấu giá tài sản”,Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 12, tr. 18-25.
19. Nguyễn Thị Mai (2009) “Những bất cập trong hoạt động đấu giá tài sản”,
Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 11, tr. 11-17.
20. Thanh Minh, Mai Hoa và Huyền Trang (2012), Kinh nghiệm bán đấu giá tài
sản theo pháp luật một số quốc gia trên thế giới, Dân chủ và pháp luật, (12).
21. Nguyễn Thị Minh (2012) “Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật
bán đấu giá ở Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 12, tr. 5-8.
22. Nhà Pháp luật Việt – Pháp (1998) Bộ luật dân sự của nước cộng hòa Pháp,
ban hành ngày 14/11/1998, Hà Nội.
23. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005) Bộ luật dân sự,
ban hành ngày 14/6/2005, Hà Nội.
24. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015) Bộ luật dân
sự,ban hành ngày 24/11/2015, Hà Nội.
25. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008) Luật thi hành
án dân sự, ban hành ngày 14/11/2008, Hà Nội.
26. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014) Luật Thi hành
án dân sự, ban hành ngày 25/11/2014, Hà Nội.
27. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2016) Luật Đấu giá
tài sản, ban hành ngày 17/11/2016, Hà Nội.
28. Nguyễn Hồng Sinh (2011) “Những khó khăn vướng mắc trong công tác
kiểm soát việc bán đấu giá tài sản thi hành án”, Tạp chí Kiểm sát, số 23, tr.5-
9.
29. Nguyễn Hồng Sinh (2012) “Những vướng mắc trong công tác kiểm sát hoạt
động bán đấu giá tài sản thi hành án”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 12,
tr.9-14.
30. Đặng Thị Tâm (2014) Bán đấu giá tài sản - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
31. Võ Đình Toàn (2012) “Một số vấn đề lý luận về bán đấu giá và pháp luật
bán đấu giá”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề 2012, tr.25-30.
32. Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản (2000) Luật Nhật Bản, Nhà Xuất bản
Thanh niên, Hà Nội.
33. Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(1989) Pháp lệnh thi hành án dân sự, ngày ban hành 28/9/1989, Hà Nội .
34. Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(1993) Pháp lệnh thi hành án dân sự, ngày ban hành 17/4/1993, Hà Nội .
35. Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(2004) Pháp lệnh thi hành án dân sự ngày ban hành 14/01/2004, Hà Nội .
36. Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp (2006) Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp,
Hà Nội.
37. Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp (2011) Hoàn thiện pháp luật về bán
đấu giá tài sản nhằm thúc đẩy thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
38. Vụ Bổ trợ tư pháp - Bộ Tư pháp (2004) Luật Bán đấu giá tài sản của Trung
Quốc, ngày ban hành 20/7/2004, Hà Nội .
39. Wikipedia (2019) “Auction”, Từ điển Bách khoa toàn thư mở,
< http://en.wikipedia.org/wiki/Auction>, (ngày 28/12/2019).