VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Thị Lan

BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH

PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội, năm 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Thị Lan

BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH

PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật kinh tế

Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC MINH

Hà Nội, năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu

trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được

công bố trong bất cứ công trình nào.

TÁC GIẢ

Nguyễn Thị Lan

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................. Error! Bookmark not defined.

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐỂ

THI HÀNH ÁN DÂN SỰ.........................................................................................6

1.1. Khái quát chung về bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự ........................ 6

1.2. Khái quát lý luận về pháp luật bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự Error! Bookmark not defined.5

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐỂ

THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI THÀNH PHỐ

HỒ CHÍ MINH……………………………………………………………….......22

2.1. Thực trạng pháp luật về bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sựError! Bookmark not defined.

2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự ở

Thành phố Hồ Chí Minh........................................................................................ 36

Chương 3: QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢTHỰC HIỆN PHÁP LUẬT BÁN

ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ……………………..………51

3.1. Quan điểm, phương hướng hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật bán

đấu giá tài sản để thi hành án dân sự. .................................................................... 51

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản để thi hành án dân

sự………………………………………………………………………………...54

3.3. Giải pháp thực hiện pháp luật bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự ....... 57

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 64

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

THADS : Thi hành án dân sự

BLDS : Bộ luật dân sự

CHV : Chấp hành viên

TA : Tòa án

VKS : Viện kiểm sát

THA : Thi hành án

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Kết quả thi hành án dân sự từ năm 2015 đến năm

2019...........................................................................................................................44

Bảng 2.2. Kết quả bán đấu giá tài sản thi hành án từ năm 2015 đến 2019 ...............46

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Bán đấu giá tài sản là một trong những hình thức mua bán tài sản phổ biến

trong nền kinh tế thị trường và là một trong những hình thức bán tài sản công khai,

minh bạch, hiệu quả và rất thông dụng ở các nước phát triển. Bán đấu giá tài sản

trong thi hành án dân sự là một hình thức xử lý tài sản sau khi đã bị cưỡng chế kê

biên để đảmbảo thi hành án. Mục đích đặt ra khi cơ quan thi hành án thực hiện biện

pháp cưỡng chế kê biên, bán đấu giá tài sản của người phải thi hành án để đảm bảo

hiệu lực thực thi của bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế, khôi phục lại quyền

và lợi ích hợp pháp cho người được thi hành án. Bên cạnh đó, bán đấu giá tài sản

nhằm bảo đảm việc bán tài sản của người phải thi hành án được công khai, minh

bạch. Thông qua biện pháp bán đấu giá tài sản phải thi hành án thì quyền lợi của

chính đáng người phải thi hành án, người đươc thi hành án cũng được đảm bảo,

nhất là người có tài sản nhằm thu được số tiền lớn nhất từ tài sản được bán đấu giá.

Ở Việt Nam, trước đây việc đấu giá tài sản thường rất ít được sử dụng và mục đích

chủ yếu là bán đấu giá các loại tài sản để thu hồi tiền cho nhà nước.

Ở Việt Nam, bán đấu giá tài sản lần đầu tiên được quy định trong Pháp lệnh

thi hành án dân sự ngày 28/8/1989; sau đóđược quy định bởi Nghị định số

86/1996/NĐ-CP ngày 19/12/1996 về việc ban hành quy chế bán đấu giá tài sản,

Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản,

Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); Luật Đấu giá tài

sản năm 2016 và Nghị định 62/2017/NĐ-CP ngày 16/5/2017 của Chính phủ. Việc

hoàn thiện pháp luật về đấu giá tài sản đã tạo cơ sở cho hoạt động bán đấu giá tài

sản ngày càng đi vào nề nếp, chuyên nghiệp hơn và giảm thiểu tiêu cực phát sinh,

nhất là đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.

Sau nhiều năm triển khai và thực hiện Luật đấu giá tài sản thì hoạt động bán

đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự ở Việt Nam đã đạt được một số kết quả

đáng ghi nhận, nhìn chung đã đạt được những mục đích đã đề ra. Tuy nhiên, bên

1

cạnh những thành tựu, kết quả đã đạt được trong thời gian qua, hoạt động bán đấu

giá tài sản trong thi hành án dân sự vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định. Chất

lượng nhiều phiên đấu giá nhìn chung còn chưa có hiệu quả; còn tồn tại tình trạng

“quân xanh, quân đỏ”, thông đồng, dìm giá, cản trở việc mua hồ sơ đấu giá, không

thông báo công khai việc bán đấu giá tài sản; chưa có tiêu chí để lựa chọn tổ chức

bán đấu giá, cơ chế kiểm soát việc bán đấu giá; còn nhiều vụ việc đã kê biên, định

giá lại và đấu giá nhiều lần nhưng không bán được tài sản mặc dù giá trị của nó lớn

hơn nhiều so với giá khởi điểm. Có nhiều trường hợp tài sản đã bán đấu giá thành,

người mua trúng đấu giá đã nộp đủ tiền nhưng chưa bàn giao được tài sản cho

người mua trúng đấu giá hoặc việc bàn giao tài sản bị kéo dài nên đã gây bức xúc

trong dư luận xã hội, quyền lợi của các bên trong quan hệ bán đấu giá tài sản thi

hành án chưa được đảm bảo dẫn đến việc uy tín của các tổ chức đấu giá tài sản ít

nhiều cũng bị ảnh hưởng theo ….Từ đó dẫn đến tình trạng khách hàng có tâm lý

ngại mua tài sản bán đấu giá trong thi hành án dân sự.

Một trong những nguyên nhân của hạn chế đó là do hành lang pháp lý cho

hoạt động này vẫn chưa thực sự hoàn thiện, còn bộc lộ nhiều điểm bất cập như một

số quy định về trình tự, thủ tục bán đấu giá còn thiếu cụ thể, không rõ ràng dẫn đến

nhiều cách hiểu khác nhau, chế tài đối với đội ngũ đấu giá viên vi phạm nguyên tắc

nghề nghiệp còn chưa hợp lý; quy định về bán đấu giá tài sản chưa có sự tách bạch

rõ ràng giữa hoạt động bán đấu giá với các hoạt động thi hành án khác dẫn tới tình

trạng các tổ chức bán đấu giá tài sản can thiệp sâu vào hoạt động thi hành án dân sự

, thao túng, vi phạm pháp luật trong hoạt động bán đấu giá tài sản để thi hành án;

một số tổ chức bán đấu giá hoạt động không chuyên nghiệp... v.v

Từ thực trạng và nguyên nhân nêu trên đòi hỏi phải có những phương hướng,

giải pháp để khắc phục hạn chế của pháp luậtvà nâng cao hiệu quả đấu giá tài sản để

thi hành án dân sự. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống các

vấn đề về bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự là rất cần thiết. Từ yêu cầu

đó, học viên đã chọn “Bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự theo theo pháp

luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu luận

2

văn tốt nghiệp cao học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trong những năm gần đây, trước yêu cầu hội nhập kinh tế và cải cách tư

pháp đã, cải cách hành chính đã có nhiều đề tài khoa học nghiên cứu vấn đề bán

đấu giá tài sản ở Việt Nam nói chung và bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự

nói riêng đã được công bố. Cụ thể về luận văn, luận án có đề tài luận văn thạc sĩ luật

học “Quản lý nhà nước về hoạt động bán đấu giá tài sản từ thực tiễn thành phố Hồ

Chí Minh” của tác giả Phạm Văn Sỹ bảo vệ tại Học viện Hành chính quốc gia năm

2006; đề tài luận án tiến sĩ luật học “Pháp luật về đấu giá tài sản trong thương mại

ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Mạnh Cường bảo vệ tại Học viện Khoa học xã hội

năm 2012; đề tài luận án thạc sĩ luật học “Bán đấu giá tài sản trong thi hành án các

bản án giải quyết tranh chấp về hoạt động tín dụng ngân hàng trên địa bàn tỉnh

Hưng Yên” của tác giả Trịnh Thanh Tùng bảo vệ tại Học viện Khoa học xã hội năm

2017; đề tài luận án thạc sĩ luật học “Bán đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất ở

trong thi hành án dân sự từ thực tiễn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng” của tác

giả Trần Thị Mỹ Hằng bảo vệ tại Học viện Khoa học xã hội năm 2019.

Về các bài tạp chí khoa học có bài “Một số vướng mắc về bán đấu giá tài sản

để thi hành án” của Đinh Duy Bằng đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số

chuyên đề tháng 02/2012; bài “Một số bất cập trong việc định giá, định giá lại tài

sản kê biên” của tác giả Vũ Hòa đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên

đề tháng 12/2012; bài “Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự vẫn còn là

điểm nghẽn” của tác giả Nguyễn Quang Thái và Đào Thị Thúy Lan đăng trên Tạp

chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề 4/2016 ; bài “Trình tự, thủ tục đấu giá tài

sản theo Luật đấu giá tài sản" của tác giả Nguyễn Đại Dân đăng trên Tạp chí Dân

chủ và Pháp luật số chuyên đề 2017; bài “ Giải pháp nâng cao hiệu quả bán đấu

giá tài sản trong thi hành án” tác giả Lê Thị Kim Dung và Văn Thị Tâm Hồng

đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề 2017...

Các luận văn, luận án và các công trình nêu trên đã giải quyết được một số

nội dung liên quan đến bán đấu giá tài sản thi hành án trong công tác thi hành án

3

dân sự. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và

toàn diện các vấn đề thực tiễn về bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự theo Luật

Đấu giá tài sản năm 2016.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích của việc nghiên cứu nhằm làm rõ thực trạng pháp luật Việt Nam

hiện hành và thực tiễn thực hiện pháp luật về bán đấu giá tài sản trong thi hành án

dân sự,từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao

hiệu quả thực hiện chế định này.

Từ mục đích như đã nêu trên, luận văn sẽ tập trung giải quyết những nhiệm

vụ sau:

Phân tích cơ sở lý luận của bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.

Phân tích và đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về bán

đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.

Nghiên cứu thực tiễn thi hành pháp luật Việt Nam về bán đấu giá tài sản

trong thi hành án dân sự trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.

Phát hiện những vướng mắc, bất cập của các quy định pháp luật Việt Nam

hiện hành về bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự và khó khăn, vướng mắc

trong thực tiễn thực hiện; từ đó tìm ra các giải pháp nâng cao hiệu quả của bán đấu

giá tài sản trong thi hành án dân sự .

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về bán đấu giá tài sản

trong thi hành án dân sự, các quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản trong thi

hành án dân sự và thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về bán đấu giá tài

sản trong thi hành án dân sự trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong một số năm

gần đây.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và

duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt

Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Trong nghiên cứu, trình

4

bày luận văn học viên đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học knhư

phương pháp phân tích, diễn giải, tổng hợp, so sánh để giải quyết những nhiệm vụ

đặt ra đối với việc nghiên cứu đề tài.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Luận văn nghiên cứu cơ bản, có tính hệ thống về bán đấu giá tài sản để thi

hành án dân sự. Luận văn còn là tài liệu tham khảo cho giảng viên, sinh viên và

những người làm công tác thực tiễn liên quan đến lĩnh vực thi hành án dân sự.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài Lời nói đầu, Phần kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

được cơ cấu gồm ba chương, như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về bán đấu giá tài sản để thi hành án dân

sự.

Chương 2: Thực trạng pháp luật về bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự

và thực tiễn thực hiện tại Thành phố Hồ Chí Minh .

Chương 3: Quan điểm, phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và

5

nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự.

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐỂ THI HÀNH

ÁN DÂN SỰ

1.1. Khái quát chung về bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự

1.1.1. Khái niệm bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự

Bán đấu giá tài sản là phương thức trao đổi tài sản đã có từ rất lâu trên thế

giới. Theo những người Hy Lạp cổ đại thì hình thức bán đấu giá đã xuất hiện tại

Babylon từ khoảng năm 500 năm trước công nguyên, theo đó thì “những người phụ

nữ xinh đẹp được đưa đến những cuộc đấu giá cao cấp, còn những phụ nữ xấu phải

kèm theo của hồi môn và mang tới những cuộc đấu giá để đợi được chấp nhận. Bất

cứ người con gái nào bị gả bán ngoài cuộc đấu giá đều là bất hợp pháp” [39, tr.1].

Trong đế chế La Mã, phương thức bán đấu giá tiếp tục được sử dụng để bán tất cả

chiến lợi phẩm của chiến tranh mà chủ yếu là nô lệ và tài sản con nợ bị tịch thu [39,

tr.1].

Ngày nay, phương thức bán đấu giá tài sản được sử dụng như là một phương

thức mua bán thông thường và phổ biến trên thế giới. Cùng với sự phát triển mạnh

mẽ của công nghệ thông tin, bán đấu giá tài sản hiện nay được mở rộng hơn rất

nhiều, đã phát triển lên một bước mới. Việc bán đấu giá tài sản được tổ chức bằng

các hình thức công khai, theo phương thức đặt giá xuống hoặc đấu giá lên.

Theo hình thức công khai thì tài sản được chào bán với một mức giá được

xác định, người bán sẽ tiếp tục nâng mức giá lên cao cho đến khi không còn người

nào đưa ra mức giá cao hơn. Người đã trả mức giá cao nhất cuối cùng chính là

người thắng cuộc trong buổi đấu giá. Đây là một hình thức phổ biến được áp dụng

nhiều nhất để giao dịch sản phẩm, hàng hóa, cổ vật, các bộ sưu tập tem, xe cổ, tiền

cổ, tác phẩm nghệ thuật …

Tại Hà Lan, theo phương thức đặt giá xuống thì người bán có thể đưa ra một

mức giá rất cao cho sản pẩm, hàng hóa muốn bán. Mức giá này thường là mức giá

6

“trên trời” và không ai có thể mua nổi. Mức giá được hạ dần trong khoảng thời gian

nhất định (thường theo thời gian của một chiếc đồng hồ). Nếu những người tham

gia trả giá chấp nhận ở mức giá nào đó thì cần ấn nút chấp nhận ngay, nếu không sẽ

mất cơ hội. Phương thức này ở Hà Lan thường được áp dụng tại các chợ hoa và đặc

biệt với sản phẩm là hoa tulip.

Tại Anh thì bán đấu giá có đặc trưng riêng. Người bán đấu giá điều khiển

cuộc bán đấu giá sao cho người trả giá thắng được mức giá hiện tại. Giá chào mới

phải cao hơn giá chào cũ một khoảng được ấn định trước. Cuộc bán đấu giá xem

như kết thúc nếu như không còn người nào đưa ra mức giá cao hơn. Người trả giá sẽ

thắng và trả số tiền theo mức giá đã chào [20, tr.120]. Kiểu bán đấu giá này còn

được gọi là bán đấu giá mức thứ hai.

Cùng với sự phát triển của xã hội, bán đấu giá đã phát triển thành một

phương thức mua bán tài sản phổ biến, thông thường và không thể thiếu trong kinh

doanh, thương mại của thế giới. Khái niệm về bán đấu giá được giải thích ở nhiều

góc độ khác nhau.

Tại Việt Nam khái niệm bán đấu giá tài sản cũng được xem xét, đưa ra trong

nhiều tài liệu khác nhau. Theo Đại Từ điển Bách khoa Việt Nam“Đấu giá là hình

thức bán những tài sản hoặc tài sản thường thuộc loại đắt tiền, hàng quý hiếm.

Người bán đặt mức giá chuẩn, những người mua trả giá từ thấp đến cao, tài sản

được bán cho người mua trả cao nhất” [15, tr.136]. Theo Từ điển Luật học thì “Bán

đấu giá tài sản là hình thức bán công khai một tài sản, một khối tài sản; theo đó có

nhiều người muốn mua tham gia trả giá, người trả giá cao nhất nhưng không thấp

hơn giá khởi điểm là người mua được tài sản” [36, tr.31].

Theo quy định tại Điều 451 Bộ luật dân sự 2015 :

“ Tài sản có thể được đem bán đấu giá theo ý chí của chủ sở hữu hoặc theo

quy định của pháp luật. Tài sản thuộc sở hữu chung đem bán đấu giá phải có sự

đồng ý của tất cả các chủ sở hữu chung, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc

7

pháp luật có quy định khác.

Việc bán đấu giá tài sản phải đảm bảo nguyên tắc khách quan, công khai,

minh bạch, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia và được thực

hiện theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản”.

Vậy bán đấu giá tài sản là gì?

Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai để cho nhiều người có

thể được tham gia trả giá mua một tài sản. Những người tham gia mua tài sản bán

đấu giá phải nộp một khoản lệ phí theo quy định của pháp luật. Khoản tiền này

nhằm ràng buộc người đã đăng kí phải tham gia bán đấu giá hoặc không mua tài sản

thì số tiền này không được lấy lại. Nếu họ có tham gia đấu giá nhưng không mua

được thì được nhận lại số tiền lệ phí mà mình đã đóng.

Khi tham gia đấu giá tài sản, người nào trả giá cao nhất nhưng không thấp

hơn giá khởi điểm thì người đó được mua tài sản. Nếu trong cuộc bán đấu giá mà

không ai trả giá cao hơn giá khởi điểm thì cuộc bán đấu giá xem như không thành

và sẽ được tổ chức lại.

Trong hoạt động thi hành án dân sự, khi người được thi hành án và người

phải thi hành án không thỏa thuận được về giá trị của tài sản hoặc không thỏa thuận

được về việc nhận tài sản đã kê biên để cấn trừ nghĩa vụ thi hành án thì chấp hành

viên căn cứ vào quy định của pháp luật để tiến hành định giá tài sản để đưa tài sản

ra bán đấu giá thi hành án. Chấp hành viên căn cứ vào kết quả định giá tài sản để ký

hợp đồng dịch vụ đấu giá với tổ chức đấu giá tài sản hoặc tự mình sẽ đứng ra tổ

chức bán đấu giá tài sản nhằm bảo đảm việc thi hành án.

Quá trình bán đấu giá tài sản để thi hành án được bắt đầu kể từ khi chấp hành

viên tiến hành kê biên tài sản, định giá tài sản và sẽ kết thúc khi tài sản đã đem bán

đấu giá thành và được bàn giao xong cho người trúng đấu giá trong phiên đấu giá.

Về bản chất việc bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự là một phương

thức được tổ chức công khai tại một nơi nhất định, theo trình tự, thủ tục mà pháp

luật về bán đấu giá tài sản đã quy định. Trong quan hệ mua bán tài sản thì chỉ có

một người bán nhưng lại có rất nhiều người mua. Tất cả những người mua đều

8

muốn mua được tài sản nên sẽ cạnh tranh với nhau, điều đó sẽ làm giá trị của tài sản

được tăng lên và đẩy giá tài sản lên đến mức cao nhất có thể, người có tài sản bán

đấu giá có thể thu về được số tiền cao nhất từ việc bán tài sản.

Như vậy, bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự là hình thức mua bán

đặc biệt, công khai đối với tài sản bị kê biên để thi hành án, theo nguyên tắc và

trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, người mua trả giá dựa trên khởi điểm do cơ

quan thi hành án xác định, người nào trả giá cao nhất sẽ được quyền mua tài sản

đấu giá.

1.1.2. Đặc điểm bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự.

1.1.2.1. Về ý chí của người có tài sản bán đấu giá trong thi hành án dân sự

Trong bán đấu giá thông thường thì người có tài sản chủ động mang tài sản,

hàng hóa của mình tham gia đấu giá với mong muốn bán hàng hóa, tài sản với giá

cao nhất,do đó họ tham gia với vai trò tích cực, chủ động để việc bán đấu giá thành

công. Tuy nhiên, việc bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự với tư cách là một biện

pháp nối tiếp trong quá trình cưỡng chế kê biên xử lý đối với tài sản của người phải

thi hành án nhằm bảo đảm việc thi hành án nên người có tài sản bán đấu giá thường

hay tìm mội cách để chống đối hay cản trở không tự nguyện mang tài sản của mình

đến bán đấu giá mà bị cưỡng chế kê biên xử lý bởi cơ quan thi hành án dân sự.

Khi tham gia bán đấu giá, người được thi hành án thì mong muốn tài sản

được nhanh chóng bán đấu giá thành công để mình sớm nhận được tiền theo nội

dung của bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, người

phải thi hành án thì ngược lại, họ có cảm giác mình bị ép buộc, bị cưỡng chế nên

thường có tâm lý chống đối như chây ỳ, cố tình gây khó khăn, cản trở quá trình bán

đấu giá tài sản thi hành án.

1.1.2.2. Có sự tham gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quan hệ bán đấu

giá tài sản

Trong bán đấu giá thông thường thì người có tài sản có thể tự mình tổ chức

bán đấu giá nhưng cũng có thể bán thông qua tổ chức dịch vụ bán đấu giá. Tuy

nhiên trong việc bán đấu giá tài sản để thi hành án thì ngoài bên có tài sản bán đấu

9

giá và tổ chức làm dịch vụ đấu giá tài sản thì còn có tham gia của Cơ quan thi hành

án dân sự, Chấp hành viên. Sự tham gia của Cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành

viên thể hiện ở việc quyết định lựa chọn tổ chức bán đấu giá tài sản, ở việc ký hợp

đồng dịch vụ đấu giá...

1.1.2.3. Phương thức, hình thức bán đấu giá

Trong bán đấu giá thông thường, việc bán đấu giá có thể thực hiện bằng

nhiều phương thức khác nhau như trả giá công khai lên, trả giá công khai xuống

v.v.. miễn là hai bên (bên có tài sản mang bán đấu giá và bên thực hiện dịch vụ bán

đấu giá) thỏa thuận với nhau về hình thức thực hiện và thỏa thuận đó tuân thủ theo

đúng quy định pháp luật. Tại Việt Nam, việc bán đấu giá tài sản được thực hiện

theo hình thức đấu giá trực tiếp bằng lời nói, đấu giá bằng bỏ phiếu trực tiếp hoặc

gián tiếp, đấu giá trực tuyến. Tuy nhiên, trong quá trình thực tiễn thực hiện thì việc

bán đấu giá tài sản thi hành án chỉ thực hiện duy nhất bằng hình thức đấu giá công

khai, trực tiếp bằng lời nói theo phương thức trả giá lên để đảm bảo tính công khái,

minh bạch, khách quan và tránh những rủi ro khi tổ chức bán đấu giá tài sản.

1.1.2.4. Về tài sản bán đấu giá trong thi hành án dân sự

Trong bán đấu giá tài sản thông thường thì tài sản đem ra bán đấu giá có thể

là bất kỳ tài sản nào mà người có tài sản muốn bán. Người bán hàng chỉ đưa ra mức

giá cơ bản (mức giá khởi điểm) để người mua tham khảo giá, còn giá bán thực tế do

những người tham dự cuộc đấu giá xác định trên cơ sở tự cạnh tranh giá với nhau.

Lợi ích mà người bán muốn thu được là giá trị lợi nhuận từ tài sản, hàng hóa mà

mình đưa ra bán.

Xuất phát từ việc đảm bảo nghĩa vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án

đã có hiệu lực pháp luật nên tài sản được đưa ra bán đấu giá để thi hành án có tính

chất đặc thù là thường có giá trị tương đương hoặc lớn hơn với nghĩa vụ phải thi

hành án chứ không phải là bất kỳ tài sản nào mà người phải thi hành án đang có.

Tài sản có thể là bất động sản, động sản, quyền sở hữu trí tuệ và các tài sản khác

nhưng có thể định giá được theo cách thông thường chứ không phải là tài sản khó

xác định giá trị thực như đồ đạc kỷ niệm hoặc các loại đồ sưu tập....

10

1.1.2.5. Sự phối hợp giữa các bên trong quá trình bán đấu giá tài sản trong thi hành

án dân sự

Khác với bán đấu giá thông thường, việc bán đấu giá chỉ có sự tham gia của

người có tài sản mang bán đấu giá, người mua được tài sản bán đấu giá và cá nhân,

tổ chức thực hiện việc bán đấu giá. Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự là

quá trình phức tạp với sự tham gia của nhiều bên, bao gồm: người phải thi hành án (

thường là người sở hữu tài sản bị mang bán đấu giá); người được thi hành án;người

có quyền lợi liên quan đến việc bán đấu giá; Cơ quan thi hành án dân sự (Chấp

hành viên); tổ chức bán đấu giá tài sản, Viện kiểm sát nhân dân và những người

đăng ký tham gia đấu giá tài sản.

Việc bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự là quá trình phức tạp và có

thể gặp vướng mắc ngay từ quá trình định giá tài sản nếu như được thi hành án và

bên phải thi hành án không thỏa thuận được về giá trị tài sản, về tổ chức thẩm định

giá, tổ chức bán đấu giá khi đó Chấp hành viên phải quyết định lựa chọn tổ chức

thẩm định giá, tổ chức bán đấu giá. Trong quá trình tổ chức việc bán đấu giá tài sản

để thi hành án cũng có thể phát sinh các tranh chấp giữa những người phải thi hành

án với cá nhân tổ chức khác, giữa những người tham gia đấu giá, người có tài sản

bán đấu giá với tổ chức cung cấp dịch vụ đấu giá và khi kết thúc việc đấu giá vẫn

có thể xảy ra tranh chấp hủy kết quả đấu giá hoặc các tranh chấp liên quan đếm việc

bàn giao tài sản bán đấu giá.

Do có nhiều bên tham gia trong quá trình tổ chức bán đấu giá tài sản thi hành

án, việc bán đấu giá tài sản thi hành án thường phức tạp nên pháp luật quy định rất

chặt chẽ về trình tự, thủ tục bán đấu giá và quá trình tổ chức bán đấu giá đòi hỏi

phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên tham gia. Quá trình bán đấu giá tài sản để

thi hành án dân sự đòi hỏi những cá nhân, tổ chức có thẩm quyền liên quan thực

hiện trách nhiệm một cách công tâm, khách quan, tuân thủ đầy đủ các quy định của

pháp luật, đồng thời phải có sự phối hợp kịp thời, chặt chẽ với người sở hữu tài sản

bị bán đấu giá, người được thi hành án và người mua được tài sản bán đấu giá để

nhanh chóng giải quyết những vướng mắc phát sinh trong quá trình tổ chức đấu giá

11

tài sản.

1.1.3. Ý nghĩa của bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự.

1.1.3.1. Bán đấu giá tài sản là một biện pháp cưỡng chế nhằm bảo đảm thi hành án

dân sự

Trong hoạt động thi hành án dân sự, việc xử lý tài sản để thi hành án được

thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó bán đấu giá tài sản trong thi

hành án dân sự là một hình thức xử lý tài sản thường được áp dụng nhằm bảo đảm

cho việc thi hành nghĩa vụ trả tiền trong thi hành án dân sự. Thông thường, bán đấu

giá tài sản là một công đoạn trong quá trình thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự

, được áp dụng sau khi đã tiến hành thủ tục kê biên, định giá tài sản.

Việc cưỡng chế thi hành án dân sự chỉ thực sự có ý nghĩa khi tài sản cưỡng

chế kê biên được bán đấu giá thành công, Cơ quan thi hành án dân sự thu được

khoản tiền để đảm bảo việc thi hành các nghĩa vụ theo bản án, quyết định của Tòa

án đã có hiệu lực. Pháp luật thi hành án dân sự quy định việc bán tài sản đã kê biên

để thi hành án chỉ được thực hiện duy nhất qua hình thức bán đấu giá, đối với tài

sản tài sản tươi sống, mau hỏng hoặc có giá trị rất nhỏ dưới 2.000.000 đồng thì

được bán không thông qua thủ tục bán đấu giá. Nếu Chấp hành viên không tuân thủ

và cố ý làm trái với quy định về phương thức bán tài sản đã kê biên để thi hành án

thì tùy theo tính chất, động cơ, mục đích, mức độ của hành vi vi phạm sẽ bị xử lý

theo quy định của pháp luật.

1.1.3.2. Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự là một biện pháp bảo đảm

quyền lợi của các bên trong quan hệ thi hành án dân sự

Bán đấu giá trong thi hành án dân sự trước hết là một hình thức dịch vụ

thông thường giữa Chấp hành viên và Tổ chức đấu giá tài sản thông qua hợp đồng

dịch vụ đấu giá tài sản được ký giữa chấp hành viên với Tổ chức đấu giá tài sản, Tổ

chức đấu giá thu được khoản phí từ dịch vụ đấu giá do họ cung cấp.

Với tính công khai, minh bạch và đại chúng nên cuộc đấu giá tất yếu sẽ có

nhiều người tham gia, tài sản sẽ bán được dễ dàng hơn và giá trị tài sản thu được là

cao nhất. Do vậy, đảm bảo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực được thi

12

hành, quyền lợi của người được thi hành án được bảo đảm.

1.1.3.3. Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự góp phần hoàn thiện thủ tục thi

hành án dân sự

Trước đây việc bán tài sản trong thi hành án dân sự do Chấp hành viên của

cơ quan thi hành án dân sự tiến hành theo cách thức bán tài sản thông thường. Như

vậy, sẽ rất dễ dẫn đến tình trạng Chấp hành viên lạm quyền, cố ý làm sai, không

bảo đảm quyền lợi cho người được thi hành án, người phải thi hành án nếu như

Chấp hành viên không vô tư, khách quan khi thi hành công vụ.

Mặt khác, với việc Chấp hành viên tự kê biên tài sản, tự mình tổ chức bán tài

sản đã kê biên sẽ dẫn đến việc tập trung quyền lực rất lớn ở Chấp hành viên khi thi

hành công vụ. Điều đó còn dẫn đến sự lộng quyền, dễ dàng tha hóa, biến chất khi

thi hành công vụ nếu Chấp hành viên đó không có lập trường tư tưởng vững vàng,

không có đạo đức công vụ tốt. Chấp hành viên có thể lợi dụng việc bán tài sản đã

kê biên để đưa “ tay trong " hoặc người nhà, người quen vào mua bán tài sản, thông

đồng, dìm giá gây thiệt hại cho chính người chủ sở hữu tài sản ( người phải thi hành

án) và ngay cả người được thi hành án cũng bị ảnh hưởng quyền lợi của mình.

1.1.4. Nguyên tắc pháp luật bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự.

Nhằm bảo đảm cho hoạt động đấu giá tài sản diễn ra trong khuôn khổ pháp

luật, bảo đảm sự thống nhất quản lý của nhà nước, bảo đảm quyền nghĩa vụ các bên

- Nguyên tắc công khai, liên tục:

tham gia, pháp luật về bán đấu giá tài sản quy định một số nguyên tắc cụ thể sau:

Nguyên tắc này đòi hỏi hoạt động bán đấu giá tài sản phải công khai tất cả

các thông tin liên quan đến tài sản bán đấu giá, công khai ngay từ giai đoạn ra thông

báo bán đấu giá về các thông tin liên quan đến tài sản như: người có tài sản bán đấu

giá, chủ sở hữu tài sản, tổ chức bán đấu giá tài sản; công khai về thời gian, địa điểm

bán đấu giá, giá khởi điểm; công khai về tình trạng tài sản, chất lượng tài sản, số

lượng, các đặc tính kỹ thuật. Tại cuộc bán đấu giá tài sản, người điều hành phiên

đấu giá phải công khai tất cả các thông tin liên quan như: giới thiệu từng tài sản bán

13

đấu giá, giới thiệu những người tham giá đấu giá hợp lệ, nhắc lại giá khởi điểm, trả

lời các câu hỏi của những người tham gia đấu giá và đề nghị những người tham gia

- Nguyên tắc khách quan, trung thực, công bằng:

đấu giá trả giá. . .

Nguyên tắc này yêu cầu tất cả thông tin liên quan đến cuộc bán đấu giá đều

phải khách quan, trung thực, chính xác, không được sai lệch. Tất cả các thông tin về

người có tài sản bán đấu giá, người tổ chức bán đấu giá, tài sản bán đấu giá, chất

lượng tài sản, nguồn gốc xuất sứ tài sản. . . đều phải chính xác, các bên phải trung

thực không được gian dối, không được đăng thông tin sai lệch về việc bán đấu giá.

Trong bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự, nguyên tắc khách quan được

thể hiện thông qua việc xác định giá trị khởi điểm để đưa tài sản ra bán đấu giá phải

phù hợp với giá trị thị trường thực tế của tài sản. Nếu việc xác định giá trị tài sản

không đúng với thực tế sẽ gây thiệt hại cho một trong các bên có liên quan đến việc

bán đấu giá và có thể sẽ phát sinh những tranh chấp làm ảnh hưởng đến quá trình tổ

chức bán đấu giá tài sản để thi hành án .

Nguyên tắc trung thực đòi hỏi tất cả các chủ thể tham gia quan hệ đấu giá tài

sản đều phải tuân theo, không thể xảy ra tình trạng dối trá, không trung thực với

khách hàng, không để xảy ra tình trạng người có tài sản bán đấu giá, người tham gia

đấu giá và người tổ chức đấu giá tài sản móc ngoặc, thông đồng với nhau. Nguyên

tắc trung thực nhằm bảo vệ quyền lợi cho các bên tham gia bán đấu giá, đảm bảo

cho khách hàng có sự yên tâm về tài sản mà mình lựa chọn [37, tr.278,279].

Nguyên tắc công bằng giữa các bên được thể hiện qua việc bất cứ tổ chức, cá

nhân nào cũng đều có quyền đăng ký tham gia đấu giá (trừ trường hợp không đủ

điều kiện như người không được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, trường

hợp không được tham gia đấu giá, …theo quy định). Khi đăng ký tham gia đấu giá

thì phải nộp phí mua hồ sơ đấu giá và khoản tiền đặt trước để được tham gia đấu

giá. Tất cả những người tham gia đấu giá đều có quyền tiếp cận đối với tài sản đấu

giá như nhau. Tại phiên bán đấu giá, những người tham gia phiên đấu giá tài sản

đều có quyền tự do trả giá, người điều hành phiên đấu giá tài sản buộc phải công

14

khai các mức giá đã trả và họ tên người mua trả giá cao nhất trong mỗi bước giá.

Người đã trả giá cao nhất và cuối cùng thì sẽ là người thắng cuộc trong phiên đấu

giá tài sản .

- Nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia:

Trong quan hệ bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự, do có rất nhiều bên có

quyền, lợi ích liên quan nên việc bảo đảm quyền và lợi ích của các bên luôn được

dung hòa. Người mua được tài sản bán đấu giá sau khi thanh toán tiền đủ tiền thì

được nhận tài sản và được thực hiện đầy đủ có quyền của mình theo hợp đồng dịch

vụ đấu giá tài sản, hợp đồng mua bán tài sản đấu giá. Người mua trúng đấu giá

được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản đã mua trúng đấu

giá trong mọi trường hợp dù người chủ sở hữu tài sản có chây ỳ, không chịu bàn

giao tài sản và giấy tờ sở hữu tài sản. Cơ quan thi hành án dân sự thực hiện chi trả

tiền cho người được thi hành án theo bản án, quyết định của Tòa án, khấu trừ chi

phí tổ chức cưỡng chế thi hành án sau khi nhận được tiền tổ chức bán đấu giá

- Mọi cuộc bán đấu giá đều phải do đấu giá viên điều hành theo đúng trình

chuyển và bàn giao số tiền còn lại cho người phải thi hành án nếu còn thừa.

tự, thủ tục bán đấu giá:

Theo nguyên tắc này thì tất cả các phiên bán đấu giá tài sản đều phải do đấu

giá viên có đủ điều kiện, năng lực bán đấu giá tài sản điều hành theo đúng trình tự,

thủ tục quy định trong Luật đấu giá tài sản thì phiên đấu giá mới có giá trị và được

pháp luật công nhận. Nếu đấu giá viên không đủ điều kiện nhưng vẫn điều hành

phiên đấu giá thì đương nhiên phiên bán đấu giá đó sẽ bị hủy, quyền và nghĩa vụ

của các bên không được thiết lập, bên nào có lỗi thì sẽ phải bồi thường thiệt hại cho

người trúng đấu giá mà không mua được tài sản.

1.2. Khái quát lý luận về pháp luật bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự.

1.2.1. Khái niệm pháp luật bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự.

Theo Từ điển Luật học thì: “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang

tính bắt buộc chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các

quan hệ xã hội, phục vụ và bảo vệ quyền lợi của các tầng lớp dân cư trong xã hội”

15

[36, tr.15].

Theo khoản 2 Điều 5 Luật Đấu giá tài sản năm 2016 thì: “Đấu giá tài sản là

hình thức bán tài sản có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc,

trình tự và thủ tục được quy định tại Luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 49

của Luật này’’ [27, tr.2].

Như vậy, dựa trên các khái niệm về pháp luật, khái niệm về bán đấu giá tài

sản và khái niệm bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự, có thể đưa ra khái

niệm pháp luật về bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự như sau: Pháp luật về

bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự là hệ thống các quy phạm pháp luật điều

chỉnh lĩnh vực bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự, quy định về nguyên tắc,

trình tự, thủ tục được Nhà nước thừa nhận hoặc ban hành, quy định hình thức mua

bán đặc biệt, công khai đối với tài sản bị kê biên để thi hành án nhằm bảo đảm việc

thi hành án dân sự có hiệu quả, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của cá

nhân, tổ chức.

Tính khách quan của sự ra đời pháp luật về bán đấu giá tài sản trong thi

hành án dân sự trong hệ thống pháp luật

Thứ nhất, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong bán đấu

giá tài sản thi hành án dân sự.

Thứ hai, bắt nguồn từ yêu cầu thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng

về hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách tư pháp.

Thứ ba, pháp luật về bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự tạo cơ sở

pháp lý cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước đối với

hoạt động này.

Trong lịch sử thi hành án dân sự, việc chấp hành viên thực hiện việc cưỡng

chế kê biên đối với tài sản diễn ra khá phổ biến và có thể coi đây là biện pháp

nghiệp vụ chủ yếu. Hiệu quả của việc thi hành án chỉ đạt được khi tài sản bị cưỡng

chế kê biên bán được thành công. Tuy nhiên, từ thực tiễn hoạt động bán tài sản

trong thi hành án dân sự cho thấy, nếu để chấp hành viên tự bán tài sản đã cưỡng

chế kê biên như thủ tục bán tài sản thông thường thì sẽ dẫn đến một số hậu quả tiêu

16

cực sau:

Thứ nhất, khó bán được những tài sản có giá trị lớn. Do cơ quan thi hành án

dân sự chỉ hoạt động giới hạn trong lãnh thổ hành chính nhất định nên việc thông

báo bán tài sản thi hành án dân sự khó có thể công khai rộng rãi để nhiều người

được biết, nhất là những người ở những tỉnh, thành phố khác. Đối với những tài sản

có giá trị lớn, không phải người dân nào ở địa phương đó cũng có đủ điều kiện để

mua, do đó sẽ có những tài sản không thể bán được.

Thứ hai, không đảm bảo quyền, lợi ích cho các bên liên quan trong quan hệ

mua bán tài sản thi hành án. Do chấp hành viên thường chỉ quan tâm đến việc bán

được tài sản mà không quan tâm đến giá của tài sản bán được. Vì vậy, có trường

hợp tài sản được bán không đúng với giá trị thực của nó và cũng không có cơ sở đối

chiếu, kiểm chứng.

Thứ ba, Chấp hành viên là người vừa cưỡng chế kê biên, vừa là người bán tài

sản, dễ dẫn đến sự lạm quyền khi thi hành công vụ. Chấp hành viên thích kê biên tài

sản nào thì kê biên, thích bán như thế nào thì tùy. Không kể đến việc chấp hành

viên thông đồng với tổ chức bán đấu giá, với người mua tài sản để bán với giá rẻ

nhất để vụ lợi hoặc tìm cách để không bán được tài sản nếu cấu kết với người phải

thi hành án. Cho dù như thế nào, thì quyền lợi của những người tham gia trong quan

hệ thi hành án và mua bán tài sản thi hành án dân sự cũng không được bảo đảm; đạo

đức công vụ của chấp hành viên cũng dễ bị ảnh hưởng.

Luật Đấu giá tài sản năm 2016 ra đời với tính chất công khai, đại chúng,

khách quan của mình, bán đấu giá hoàn toàn khắc phục được những nhược điểm

của bán tài sản theo cách thông thường trong thi hành án dân sự. Thông qua biện

pháp bán đấu giá sẽ bảo đảm tài sản của người thi hành án được bán với giá cao

nhất, tránh được tình trạng dìm giá, trục lợi. Cùng với đó, bản án được thi hành

nghiêm chỉnh, đúng pháp luật góp phần bảo vệ trật tự, kỷ cương của xã hội.

1.2.2. Nội dung của pháp luật về bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự

Nội dung của pháp luật về bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự bao

gồm các quy phạm pháp luật về: Chủ thể bán đấu giá, đối tượng bán đấu giá, tài sản

17

bán đấu giá trong thi hành án dân sự, trình tự và thủ tục bán đấu giá tài sản trong thi

hành án dân sự, phương thức, hình thức bán đấu giá và quản lý nhà nước về bán đấu

giá tài sản trong thi hành án dân sự. Trong đó:

Thứ nhất, về chủ thể bán đấu giá: trong nguyên lý chung của bán đấu giá tài

sản thì người bán đấu giá tài sản là Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản hoặc

Doanh nghiệp có chức năng bán đấu giá tài sản, người yêu cầu bán đấu giá có thể

là chủ sở hữu của tài sản bán đấu giá, bên nhận bảo đảm tài sản đấu giá, cơ quan thi

hành án. Người tham gia đấu giá là người được quyền tham gia trả giá khi cuộc bán

đấu giá tài sản được tiến hành, bao gồm những người đã đăng ký đấu giá, nộp lệ

phí tham gia đấu giá và có tên trong danh sách đấu giá, người mua tài sản đấu giá

là người trả giá cao nhất trong số những người tham gia đấu giá với điều kiện giá

mua tài sản mà họ đã trả bằng hoặc cao hơn giá khởi điểm. Tuy nhiên, trong việc

bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự thì người yêu cầu bán đấu giá là cơ quan thi

hành án chứ không phải là chủ sở hữu của tài sản bán đấu giá (khỉ họ không tự

nguyện).

Thứ hai, đối tượng bán đấu giá là tài sản trong thi hành án dân sự: Luật

đấu giá tài sản chỉ quy định tài sản thi hành án là một trong các nhóm đối tượng

được bán đấu giá tài sản chứ không liệt kê cụ thể các tài sản nào được bán đấu

giá, tài sản nào không được bán đấu giá và hạn chế bán đấu giá. Luật Thi hành

án dân sự hiện hành cũng không quy định cụ thể loại tài sản nào dùng để bán

đấu giá thi hành án. Tuy nhiên theo quy định thì có thể hiểu đối tượng đấu giá

tài sản thi hành án chính là tài sản đã bị cưỡng chế kê biên tài sản để thi hành án.

Tài sản đó có thể là bất động sản động sản hoặc quyền sở hữu trí tuệ có giá trị ít

nhất từ 10.000.000 đồng trở lên.

Thứ ba, về tài sản bán đấu giá trong thi hành án dân sự. Đối với việc bán

đấu giá thông thường thì tài sản được đem ra bán đấu giá có thể là bất kỳ tài sản nào

mà người bán muốn đưa ra bán. Người bán tài sản chỉ đưa ra mức giá khởi điểm để

những người mua tham khảo giá, còn giá bán thực tế do những người tham dự cuộc

đấu giá xác định trên cơ sở tự cạnh tranh giá với nhau. Còn trong bán đấu giá tài sản

18

trong thi hành án dân sự thì xuất phát từ việc để đảm bảo thi hành nghĩa vụ theo bản

án, quyết định của Tòa án. Tài sản đưa ra bán đấu giá để thi hành án thường có giá

trị tương đương hoặc lớn hơn với nghĩa vụ phải thi hành theo bản án, quyết định của

Tòa án chứ không phải là bất kỳ tài sản nào mà người phải thi hành án có.

Thứ tư, về trình tự và thủ tục bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự,

bao gồm: Ký Hợp đồng dịch vụ đấu giá, niêm yết, thông báo công khai và trưng bày

tài sản bán đấu giá; mua hồ sơ và đăng ký tham gia bán đấu giá; trình tự, thủ tục của

phiên đấu giá; rút lại giá đã trả; hủy kết quả bán đấu giá, ký hợp đồng mua bán tài

sản bán đấu giá; bảo vệ quyền lợi ích của người mua tài sản bán đấu giá, người

nhận tài sản để thi hành án; trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự và các cơ

quan có thẩm quyền trong việc đăng ký chuyển quyền sở hữu, sử dụng cho người

mua tài sản bán đấu giá, người nhận tài sản để trừ vào tiền được thi hành, xử lý tài

sản không có người tham gia đấu giá, bán đấu giá không thành.

Thứ năm, việc bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự thực hiện theo

trình tự thủ tục thi hành án dân sự và mang tính cưỡng bức. Theo đó, sau khi hết

thời hạn tự nguyện thi hành án theo luật định nhưng người phải thi hành án không

tự nguyện thi hành án mặc dù có tài sản thì Cơ quan thi hành án dân sự sẽ tiến hành

kê biên tài sản để bán đấu giá thi hành án mà không phụ thuộc vào ý chí của người

phải thi hành án là muốn hay không muốn bán. Trong trường hợp này, về phía

người được thi hành án mong muốn nhanh chóng bán được tài sản để thi hành bản

án, quyết định của Tòa án và mong nhanh chóng nhận được tiền. Còn về phía người

phải thi hành án thì do mang tâm lý bị ép buộc, cưỡng chế, nên thường có tâm lý

chây ì, cố tình cản trở gây khó khăn cho quá trình bán đấu giá tài sản thi hành án.

Do đó pháp luật bán đấu giá tài sản quy định trình tự, thủ tục bán đấu giá khá chặt

chẽ và cần sự phải có phối hợp chặt chẽ giữa các bên tham gia trong quá trình bán

đấu giá. Quá trình bán đấu giá tài sản để thi hành án đòi hỏi những tổ chức, cá nhân

có thẩm quyền liên quan thực hiện trách nhiệm phải khách quan, công tâm, tuân thủ

đầy đủ các quy định của pháp luật về bán đấu giá, đồng thời phải có sự phối hợp

chặt chẽ, kịp thời giữa người sở hữu tài sản bị bán đấu giá, người mua được tài sản

19

bán đấu giá, Cơ quan thi hành án dân sự và Tổ chức bán đấu giá để nhanh chóng

giải quyết những vướng mắc phát sinh nhằm đảm bảo quyền lợi của các bên .

Thứ sáu, về phương thức, hình thức bán đấu giá. Trong bán đấu giá thông

thường, miễn là hai bên thỏa thuận với nhau về hình thức thực hiện (đấu giá trực

tiếp bằng lời nói tại cuộc đấu giá, đấu giá bằng bỏ phiếu trực tiếp tại cuộc đấu giá,

đấu giá bằng bỏ phiếu gián tiếp, đấu giá trực tuyến) và thỏa thuận đó tuân thủ theo

đúng quy định pháp luật thì việc bán đấu giá có thể thực hiện bằng các phương thức

khác nhau như trả giá lên, đặt giá xuống. Còn bán đấu giá tài sản trong thi hành án

dân sự nhằm tránh những mâu thuẫn có thể phát sinh giữa các bên trong quá trình tổ

chức đấu giá, pháp luật về bán đấu giá tài sản đã quy định chặt chẽ về thủ tục,

phương thức, hình thức bán đấu giá, qua đó việc bán đấu giá tài sản được thực hiện

theo hình thức đấu giá trực tiếp bằng lời nói, đấu giá bằng bỏ phiếu. Tuy nhiên,

trong thực tiễn thi hành án thì việc bán đấu giá tài sản để thi hành án chỉ được thực

hiện bằng hình thức công khai, trực tiếp bằng lời nói theo phương thức trả giá lên để

đảm bảo tính khách quan.

Kết luận Chương 1

Đấu giá tài sản là một hoạt động dịch vụ trong nền kinh tế thị trường hiện

nay. Đấu giá tài sản có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển thông qua việc đa

dạng hóa các hình thức trao đổi, mua bán lưu thông hàng hóa. Nhà nước có nhiệm

vụ quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó có hoạt động bán đấu

giá, theo đó Nhà nước quản lý bán đấu giá bằng cách ban hành các văn bản quy

phạm pháp luật để điều chỉnh các hoạt động bán đấu giá, tổ chức thực hiện pháp

luật bán đấu giá và kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật đối với cá nhận, tổ

chức có hành vi vi phạm pháp luật bán đấu giá, góp phần làm cho thị trường mua

bán hàng hóa thông qua dịch vụ bán đấu giá được công khai, minh bạch, đảm bảo

quyền và lợi ích của các bên.

Bán đấu giá tài sản là một công đoạn trong quá trình thực hiện việc cưỡng

chế thi hành án dân sự nhằm đảm bảo cho việc thi hành nghĩa vụ trả tiền theo bản

án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khác với bán đấu giá tài sản

20

thông thường, bán đấu giá tài sản trong thi hành án thì người sở hữu tài sản thường

không tự nguyện đưa tài sản ra bán đấu giá nên đòi hỏi việc quy định về trình tự,

thủ tục phải hết sức chặt chẽ, các bên phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong

quá trình tổ chức việc bán đấu giá tài sản. Với ý nghĩa là một biện pháp cưỡng chế

nhằm bảo đảm thi hành án dân sự, đảm bảo quyền lợi ích của các bên, bán đấu giá

tài sản cũng góp phần hoàn thiện các thủ tục về thi hành án dân sự trong việc tổ

chức bán đấu giá tài sản để thi hành án.

Chương 1 tác giả đã nêu và phân tích các vấn đề lý luận về bán đấu giá tài

sản, sự hình thành phát triển một số hình thức đấu giá trên thế giới, nghiên cứu tổng

thể về trình tự, thủ tục về bán đấu giá tài sản, làm rõ các cơ sở pháp lý về quản lý

bán đấu giá tài sản. Kết quả nghiên cứu ở chương 1 sẽ làm cơ sở lý luận cho việc

thực hiện chương 2 về thực trạng thực hiện pháp luật về bán đấu giá để thi hành án

21

dân sự tại thành phố Hồ Chí Minh.

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐỂ THI

HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI THÀNH PHỐ HỒ

CHÍ MINH

2.1. Thực trạng pháp luật về bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự.

Hiện nay bán đấu giá tài sản đã cụ thể hơn trong Luật đấu giá tài sản năm

2016. Dưới đây luận văn phân tích, đánh giá những mặt được, hạn chế của pháp luật

bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự theo nội dung của chế định này.

2.1.1. Chủ thể bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự

Trong bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự thì người yêu cầu bán đấu giá

không phải là chủ sở hữu của tài sản bán đấu giá mà là cơ quan thi hành án, người

bán đấu giá tài sản là có thể là doanh nghiệp có chức năng bán đấu giá tài sản hoặc

Trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản. Đây chính là yếu tố chi phối, tác động nhiều đến

quá trình bán đấu giá và việc thực hiện các trình tự thủ tục bán đấu giá.

- Người có tài sản bán đấu giá và người sở hữu tài sản bán đấu giá

Người có tài sản bán đấu giá trong thi hành án dân sự khác với người có tài

sản bán đấu giá thông thường. Người có tài sản bán đấu giá trong thi hành án dân sự

không phải là chủ sở hữu tài sản mà là chấp hành viên được giao nhiệm vụ thi hành

các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật . Do vậy, Chấp hành

viên có đầy đủ quyền và nghĩa vụ giống như chủ sở hữu tài sản trong đấu giá tài sản

thông thường.

Người sở hữu tài sản thường là người phải thi hành bản án, quyết định của

Tòa án. Tuy nhiên, trong một số trường hợp họ chỉ là người có tài sản chung với

người phải thi hành án mà tài sản đó đang bị cưỡng chế kê biên, định giá, bán đấu

giá dùng để thi hành án dân sự. Do có quyền lợi trực tiếp và liên quan nên họ được

quyền biết tất cả những thông tin về quá trình tổ chức bán đấu giá tài sản. Nếu có

vấn đề phát sinh trong cuộc đấu giá ảnh hưởng đến quyền lợi của họ thì họ có quyền

22

khởi kiện để yêu cầu Tòa án hủy kết quả bán đấu giá tài sản. Trước khi mở cuộc bán

đấu giá tài sản 01 ngày làm việc, người phải thi hành án có quyền nhận lại tài sản

họ nếu nộp đủ các khoản tiền phải thi hành án và thanh toán các chi phí thực tế, hợp

lý đã phát sinh từ việc cưỡng chế thi hành án, tổ chức bán đấu giá tài sản. Họ có

quyền nhận lại số tiền thừa từ việc bán đấu giá tài sản sau khi đã thanh toán các chi

phí theo quy định của pháp luật.

- Tổ chức bán đấu giá tài sản và đấu giá viên

Luật đấu giá tài sản quy định khá rõ ràng về điều kiện đăng ký kinh doanh

của doanh nghiệp đấu giá tài sản. Để hoạt động trong lĩnh vực đấu giá tài sản doanh

nghiệp phải được thành lập, đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp, tổ chức và hoạt

động dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân, Công ty hợp doanh và “Doanh nghiệp

đấu giá tư nhân có chủ doanh nghiệp là đấu giá viên, đồng thời là Giám đốc doanh

nghiệp; Công ty đấu giá hợp danh có ít nhất một thành viên hợp danh là đấu giá

viên, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc của công ty đấu giá hợp danh là đấu giá viên”

Điều 22 [27, tr.11]. Việc quy định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

đấu giá tài sản phải là đấu giá viên nhằm tạo sự bình đẳng giữa Trung tâm dịch vụ

đấu giá tài sản và doanh nghiệp đấu giá tài sản, đồng thời nâng cao trách nhiệm của

doanh nghiệp trong hoạt động đấu giá tài sản.

Đấu giá viên là người được cấp chứng chỉ hành nghề đấu giá, là chủ thể tham

gia quan hệ đấu giá tài sản thi hành án dân sự thì đấu giá viên phải làm việc trong tổ

chức hành nghề đấu giá chuyên nghiệp. Muốn trở thành đấu giá viên phải tốt nghiệp

khoá đào tạo đấu giá trong thời hạn là 06 tháng và được cơ sở đào tạo nghề đấu giá

cấp chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề đấu giá. Người có giấy chứng nhận tốt

nghiệp đào tạo nghề đấu giá hoặc được miễn đào tạo nghề đấu giá phải tập sự hành

nghề đấu giá tại tổ chức đấu giá trong thời hạn 06 tháng và được tham dự kiểm tra

kết quả tập sự hành nghề đấu giá. Nếu đạt yêu cầu kết quả kiểm tra kết quả tập sự

đấu giá thì nộp hồ sơ đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề đấu giá đến Bộ tư pháp và

nộp phí để được cấp chứng chỉ hanh nghề đấu giá.

Ngoài ra, người được cấp chứng chỉ hành nghề đấu giá bị thu hồi chứng chỉ

23

hành nghề đấu giá khi: Thuộc trường hợp không được cấp chứng chỉ hành nghề đấu

giá; Bị tuyên bố mất tích hoặc tuyên bố là đã chết; Khi đã được cấp chứng chỉ hành

nghề đấu giá nhưng người đó không hành nghề đấu giá tài sản tại các tổ chức bán

đấu giá tài sản trong thời hạn 02 năm trừ trường hợp có lý do chính đáng hoặc bị xử

phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính

do vi phạm về lợi dụng danh nghĩa đấu giá viên để trục lợi, thông đồng, móc nối với

người có tài sản đấu giá, người tham gia đấu giá, tổ chức thẩm định giá, tổ chức

giám định tài sản đấu giá, cá nhân, tổ chức khác để làm sai lệch thông tin tài sản đấu

giá, dìm giá, làm sai lệch hồ sơ đấu giá hoặc kết quả đấu giá tài sản [27, tr.8].

- Người tham gia đấu giá tài sản

Tổ chức đấu giá tài sản bán hồ sơ tham gia đấu giá, tiếp nhận hồ sơ tham gia

đấu giá trong giờ hành chính, liên tục kể từ ngày niêm yết việc đấu giá tài sản cho

đến trước ngày mở cuộc đấu giá 02 ngày.

Tổ chức, cá nhân đăng ký tham gia đấu giá thông qua việc mua, nộp hồ sơ

tham gia đấu giá hợp lệ và nộp tiền đặt trước cho tổ chức đấu giá tài sản theo quy

định của Luật đấu giá tài sản.

- Người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong bán đấu giá tài sản trong thi

hành án dân sự

Trong thi hành án dân sự, người được thi hành án cũng có quyền lợi liên

quan đến việc đấu giá tài sản. Người được thi hành án được quyền nhận tiền đấu giá

tài sản thành tương đương với khoản tiền mà họ được nhận theo bản án, quyết định

của Tòa án đã có hiệu lực. Nếu giá trị tài sản thi hành án bán được thấp hơn khoản

tiền mà họ được nhận theo bản án, quyết định của Tòa án thì họ được nhận toàn bộ

số tiền sau khi trừ đi chi phí đấu giá, chi phí thi hành án.

2.1.2.Đối tượng bán đấu giá là tài sản trong thi hành án dân sự

Luật THADS không quy định cụ thể loại tài sản nào dùng để bán đấu giá thi

hành án. Tuy nhiên, căn cứ quy định của BLDS và Luật THADS có thể hiểu rằng:

Đối tượng đấu giá tài sản thi hành án chính là tài sản đã bị cưỡng chế kê biên, định

24

giá để thi hành án. Tài sản đó có thể là vật hữu và trị giá được bằng tiền, có thể trở

thành tài sản trao đổi trên thị trường. Đó có thể là động hoặc bất động sản hoặc

quyền sở hữu trí tuệ có giá trị ít nhất từ 2.000.000 đồng trở lên.

Sau khi có đơn yêu cầu của người được thi hành án về việc thi hành bản án,

quyết định của Tòa án, căn cứ vào nội dung bản án, quyết định; tính chất, mức độ,

nghĩa vụ thi hành án; điều kiện của người phải thi hành án; đề nghị của đương sự và

tình hình thực tế của địa phương, chấp hành viên sẽ phải lựa chọn biện pháp cưỡng

chế và loại tài sản phù hợp để áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án. Việc áp

dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án phải tương ứng với nghĩa vụ của

người phải thi hành án và các chi phí thi hành án theo quy định của pháp luật, trừ

trường hợp tài sản duy nhất của người phải thi hành án lớn hơn nhiều lần so với

nghĩa vụ thi hành án mà tài sản đó không thể phân chia được hoặc việc phân chia

làm giảm đáng kể giá trị của tài sản; tài sản bảo đảm đã được bản án, quyết định

tuyên xử lý để thi hành án hoặc trường hợp người phải thi hành án tự nguyện đề

nghị kê biên tài sản cụ thể trong số nhiều tài sản mà không gây trở ngại cho việc thi

hành án và tài sản đó đủ để thi hành án, các chi phí liên quan.

Ngoài ra, trường hợp tài sản đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp

khẩn cấp tạm thời, biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án

mà phát sinh các giao dịch liên quan đến tài sản đó thì tài sản đó bị kê biên, xử lý để

thi hành án. Chấp hành viên có văn bản yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đối với

tài sản đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến

giao dịch đối với tài sản đó.

Trường hợp có giao dịch về tài sản mà người phải thi hành án không sử dụng

toàn bộ khoản tiền thu được từ giao dịch đó để thi hành án và không còn tài sản

khác hoặc có tài sản khác nhưng không đủ để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án thì xử

lý như sau:

a) Trường hợp có giao dịch về tài sản nhưng chưa hoàn thành việc chuyển

quyền sở hữu, sử dụng thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản theo quy

định. Khi kê biên tài sản, nếu có tranh chấp thì Chấp hành viên thực hiện theo quy

25

định tại khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự, trường hợp cần tuyên bố giao

dịch vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao

dịch thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự.

Trường hợp có giao dịch về tài sản kể từ thời điểm bản án, quyết định có

hiệu lực pháp luật nhưng đã hoàn thành việc chuyển quyền sở hữu, sử dụng thì

Chấp hành viên không kê biên tài sản mà thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều

75 Luật Thi hành án dân sự và có văn bản thông báo cho các cơ quan, tổ chức, cá

nhân có liên quan để phối hợp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử

dụng, thay đổi hiện trạng tài sản. Việc xử lý tài sản được thực hiện theo quyết định

của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền.

b) Trường hợp có các giao dịch khác liên quan đến tài sản mà không chuyển

giao quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất cho người khác thì Chấp hành viên

tiến hành kê biên, xử lý tài sản để thi hành án. Quyền và lợi ích hợp pháp của người

tham gia giao dịch được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự và các quy

định của pháp luật có liên quan.

2.1.3.Trình tự, thủ tục đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự

Quyền lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản trước hết thuộc về người phải thi

hành án và người được thi hành án được quy định tại khoản 2 Điều 101 Luật Thi

hành án dân sự: “Đương sự có quyền thỏa thuận về tổ chức bán đấu giá tài sản

trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày định giá” [26, tr.99]. Trong trường hợp

đương sự không thỏa thuận được tổ chức đấu giá thì chấp hành viên có quyền lựa

chọn tổ chức đấu giá tài sản để ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản. Thời hạn ký

hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản l à 1 0 ngày, kể từ ngày định giá (khoản 2 Điều 101

Luật Thi hành án dân sự ). Trước khi ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản, tổ chức

đấu giá cần yêu cầu ngươi có tài sản đấu giá cung cấp các văn bản chứng minh

quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc quyền được bán tài sản theo quy định của pháp

luật. Do đó để chuẩn bị cho việc ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản thì chấp hành

viên phải xác định và cung cấp các giấy tờ, tài liệu về tài sản phù hợp để đảm bảo

tính pháp lý của tài sản đưa ra đấu giá, hạn chế tình trạng tranh chấp, khiếu nại,

26

khiếu kiện và nếu có tranh chấp xảy ra thì quyền, lợi ích hợp pháp của người có tài

sản, người tham gia đấu giá, ngưòi mua được tài sản đấu giá ngay tình được pháp

luật công nhận và bảo vệ, đồng thời phải trực tiếp làm việc với tổ chức đấu giá tài

sản để thỏa thuận các điều khoản cần thiết trong hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản.

- Hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản: phải được lập thành văn bản gồm một số

nội dung chính quy định tại Luật Đấu giá tài sản năm 2016 như: tài sản đấu giá; giá

khởi điểm của tài sản đấu giá; tiền đặc trước; bước giá; hình thức đấu giá, phương

thức đấu giá; thời hạn, địa điềm tổ chức đấu giá; thù lao dịch vụ đấu giá, chi phí đấu

giá tài sản; quyền, nghĩa vụ các bên; đơn phương chấm dứt hợp đồng, hủy hợp

đồng; trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, phương thức giải quyết tranh chấp; các

thỏa thuận khác; hiệu lực của hợp đồng.

- Về thời hạn đấu giá tài sản thi hành án: Theo khoản 2 Điều 101 Luật Thi

hành án dân sự thì thời hạn đấu giá tài sản được thực hiện như sau: Việc đấu giá đối

với động sản phải được thực hiện trong thời hạn l à 3 0 ngày kể từ ngày ký hợp

đồng, đối với bất động sản phải được thực hiện trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày

ký hợp đồng [26, tr.99]. Vì vậy, điều khoản về thời hạn bán tài sản đấu giá trong

hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản giữa chấp hành viên với tổ chức đấu giá chuyên

nghiệp phải phù hợp với quy định của khoản 2 Điều 101 Luật Thi hành án dân sự

hiện hành.

- Niêm yết, thông báo công khai và trưng bày tài sản đấu giá: Việc đấu giá tài

sản phải được thông báo và niêm yết công khai. Niêm yết thông báo đấu giá tài sản

được xem là nội dung quan trọng trong công tác đấu giá tài sản. Nó thể hiện việc

tuân thủ quy định pháp luật của các tổ chức đấu giá, đảm bảo cho thông tin về đấu

giá được công khai rộng rãi, tạo điều kiện cho người có nhu cầu mua tài sản đấu giá

dễ dàng tiếp cận và tham gia đấu giá tài sản, giúp cho cuộc đấu giá đạt hiệu quả cao

nhất.

- Đăng ký tham gia đấu giá: Theo quy định tại khoản 1 Điều Luật Đấu giá

tài sản thì cá nhân, tổ chức đăng ký tham gia đấu giá thông qua việc mua, nộp hồ sơ

tham gia đấu giá hợp lệ và tiền đặt trước cho tổ chức đấu giá tài sản theo quy định

27

của Luật Đấu giá tài sản và quy định khác của pháp luật có liên quan. Trong trường

hợp pháp luật có quy định về điều kiện khi tham gia đấu giá thì người tham gia đấu

giá phải đáp ứng điều kiện đó. Nhằm ngăn ngừa tình trạng một số tổ chức đấu giá

gây khó khăn cho người tham gia đấu giá trong việc mua hồ sơ và hạn chế người

tham gia đấu giá đăng ký tham gia đấu giá, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho

người tham gia đấu giá, đảm bảo việc đăng ký tham gia đấu giá được minh bạch,

công bằng, khoản 2 Điều 38 Luật Đấu giá tài sản đã quy định buộc tổ chức đấu giá

tài sản phải “bán hồ sơ tham gia đấu giá, tiếp nhận hồ sơ tham gia đấu giá trong giờ

hành chính, liên tục kể từ ngày niêm yết việc đấu giá tài sản cho đến trước ngày mở

cuộc đấu giá 02 ngày”. Mặt khác, Luật Đấu giá tài sản (khoản 3 Điều 38) cấm

người có tài sản đấu giá, tổ chức đấu giá tài sản đặt thêm yêu cầu, điều kiện khác

đối với người tham gia đấu giá ngoài những điều kiện đăng ký tham gia đấu giá

được quy định tại Luật đấu giá tài sản và pháp luật có liên quan.

Về tiền đặt trước: Nhằm hạn chế tình trạng thông đồng, câu kết giữa những

người tham gia đấu giá tài sản, hạn chế tình trạng các đối tượng không thực sự có nhu

cầu mua nhưng vẫn tham gia đấu giá nhằm mục đích trục lợi, gây khó khăn cho cuộc

đấu giá, Luật Đấu giá tài sản đã tăng khoản tiền đặt trước so với Nghị định số

17/2010/NĐ-CP. Theo đó, khoản tiền đặt trước tối thiểu là 5% và tối đa là 20% giá

khởi điểm của tài sản đấu giá. Luật Đấu giá tài sản cũng quy định tổ chức đấu giá

không được thu tiền mặt đối với khoản tiền đặt trước, trừ trường hợp khoản tiền đặt

trước có giá trị dưới năm triệu đồng thì người tham gia đấu giá có thể nộp trực tiếp

cho tổ chức đấu giá tài sản. Theo đó, người đăng ký mua tài sản nộp tiền đặt trước

được gửi vào một tài khoản thanh toán riêng của tổ chức đấu giá tài sản mở tại ngân

hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, các bên có thể

thỏa thuận thay thế tiền đặt trước bằng bảo lãnh ngân hàng.

Việc thu tiền đặt trước của người tham gia đấu giá chỉ được thực hiện trong

thời hạn 03 ngày làm việc trước ngày mở cuộc đấu giá, trừ trường hợp tổ chức đấu

giá tài sản và người tham gia đấu giá có thỏa thuận khác nhưng phải trước ngày mở

cuộc đấu giá. Luật cũng cấm các tổ chức đấu giá tài sản sử dụng tiền đặt trước của

28

người tham gia đấu giá vào bất kỳ mục đích nào khác.

- Trình tự, thủ tục phiên đấu giá: Sau khi có người tham gia đấu giá tối thiểu

đủ đảm bảo sự cạnh tranh về giá thì phiên đấu giá được tiến hành. Mở đầu cuộc bán

đấu giá tài sản, đấu giá viên điều hành cuộc đấu giá giới thiệu bản thân, người giúp

việc; đọc quy chế bán đấu giá; thông báo nội quy của cuộc đấu giá tài sản; công bố

danh sách những người đăng ký tham gia đấu giá tài sản và điểm danh để xác định

những người tham gia đấu giá tài sản; giới thiệu tài sản đấu giá; nhắc lại giá khởi

điểm; thông báo bước giá và khoảng thời gian tối đa giữa các lần trả giá (nếu có);

trả lời các câu hỏi của người tham gia đấu giá.

Đấu giá viên yêu cầu những người tham gia đấu giá tài sản tiến hành trả

giá. Nếu sau ba lần đấu giá viên nhắc lại giá cao nhất đã trả mà không có người

tham gia đấu giá nào trả giá cao hơn giá đã trả thì đấu giá viên công bố người mua

được tài sản đấu giá. Sau khi đấu giá viên công bố, người mua được tài sản đấu giá

được coi là đã chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán tài sản đấu giá.Trong trường

hợp giá trả cao nhất được công bố thấp hơn so với giá khởi điểm thì cuộc đấu giá tài

sản coi như không thành. Diễn biến của cuộc đấu giá phải được ghi lại vào biên bản

đấu giá. Biên bản đấu giá phải có chữ ký của đấu giá viên điều hành cuộc đấu giá,

người ghi biên bản, người trúng đấu giá, đại diện người tham gia đấu giá. Biên bản

đấu giá được đóng dấu của tổ chức đấu giá tài sản; trong trường hợp cuộc đấu giá

do Hội đồng đấu giá tài sản thực hiện thì được đóng dấu của Hội đồng đấu giá tài

sản.

Để đảm bảo quyền lợi của người mua trúng đấu giá, Luật Đấu giá tài sản

cũng đã có quy định cụ thể về thời hạn tổ chức đấu giá tài sản hoàn thiện thủ tục ghi

kết quả đấu giá tài sản vào Sổ Đăng ký đấu giá tài sản là 01 ngày làm việc kể từ

ngày cuộc đấu giá kết thúc. Thời hạn để chuyển kết quả và danh sách người mua

trúng đấu giá cho người có tài sản đấu giá là 03 ngày làm việc kể từ ngày cuộc đấu

giá kết thúc.

- Rút lại giá đã trả: Tại cuộc đấu giá tài sản theo hình thức đấu giá trực tiếp

bằng lời nói, nếu người đã trả giá cao nhất rút lại giá đã trả trước khi đấu giá viên

29

công bố người trúng đấu giá thì cuộc đấu giá vẫn tiếp tục và bắt đầu từ giá của

người trả giá liền kề trước đó. Người rút lại giá đã trả hoặc rút lại giá đã chấp nhận

bị truất quyền tham gia cuộc đấu giá. Khoản tiền đặt trước của người rút lại giá đã

trả thuộc về người có tài sản đấu giá .

- Hủy kết quả bán đấu giá: Luật đấu giá tài sản quy định rõ các trường hợp

mà kết quả bán đấu giá bị hủy, là: Theo thỏa thuận giữa người có tài sản đấu giá, tổ

chức đấu giá tài sản và người trúng đấu giá về việc hủy kết quả đấu giá tài sản hoặc

giữa người có tài sản đấu giá và người trúng đấu giá về việc hủy giao kết hợp đồng

mua bán tài sản đấu giá, hủy bỏ hợp đồng mua bán tài sản đấu giá, trừ trường hợp

gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp

của cá nhân, tổ chức; Hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản, hợp đồng mua bán tài sản

đấu giá bị Tòa án tuyên bố vô hiệu theo quy định của pháp luật về dân sự; Hợp

đồng dịch vụ đấu giá tài sản bị hủy bỏ theo quy định tại khoản 6 Điều 33 của Luật

đấu giá tài sản; Người có tài sản đấu giá, người tham gia đấu giá, người trúng đấu

giá, tổ chức đấu giá tài sản, đấu giá viên có hành vi thông đồng, móc nối, dìm giá

trong quá trình tham gia đấu giá dẫn đến làm sai lệch thông tin tài sản đấu giá hoặc

hồ sơ tham gia đấu giá hoặc kết quả đấu giá tài sảnTheo quyết định của người có

thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp đấu giá tài sản nhà nước

khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 6 Điều 33 của Luật đấu giá tài sản.

Luật Đấu giá tài sản quy định việc bồi thường thiệt hại trong trường hợp kết

quả đấu giá tài sản bị hủy do hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản, hợp đồng mua bán

tài sản đấu giá bị tuyên vô hiệu, bị đơn phương chấm dứt thực hiện, bị hủy bỏ thì

các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu

không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền. Bên có lỗi gây thiệt hại

phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

- Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá: Luật Đấu giá tài sản đã xác định người

trúng đấu giá được coi như chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán tài sản đấu giá kể

từ thời điểm đấu giá viên công bố người trúng đấu giá tài sản. Kể từ thời điểm này,

quyền và nghĩa vụ của các bên được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân

30

sự và quy định khác của pháp luật có liên quan. Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá

được ký kết giữa người trúng đấu giá với người có tài sản đấu giá hoặc giữa người

trúng đấu giá, người có tài sản đấu giá và tổ chức đấu giá tài sản nếu các bên có

thỏa thuận, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Khi thực hiện việc ký kết

Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá phải tuân thủ các quy định của pháp luật về dân

sự.

- Bảo vệ quyền của người mua tài sản đấu giá, người nhận tài sản để thi

hành án: Theo quy định của pháp luật về đấu giá tài sản hiện hành, thì thời hạn,

phương thức, địa điểm giao tài sản đấu giá cho người mua được tài sản đấu giá do

chấp hành viên và tổ chức đấu giá thỏa thuận trong điều khoản của hợp đồng; người

có tài sản đấu giá trong thời hạn nhất định phải giao tài sản đấu giá cho người mua

được tài sản đấu giá. Kể từ ngày người mua được tài sản trúng đấu giá nộp đủ tiền

thì trong thời hạn không quá 30 ngày, đối với trường hợp có khó khăn, phức tạp thì

thời hạn không quá 60 ngày cơ quan thi hành án dân sự phải tổ chức việc giao tài

sản cho người mua trúng đấu giá, trừ trường hợp có sự kiện bất khả kháng. Tổ chức

đấu giá là người chứng kiến việc giao, nhận tài sản bán đấu giá.

- Xử lý tài sản không có người tham gia đấu giá, đấu giá không thành: Để

tiếp tục đưa tài sản thi hành án dân sự ra đấu giá, Chấp hành viên cần hoàn tất thủ

tục giảm giá và ký tiếp phụ lục Hợp đồng bán đấu giá tài sản.

2.1.4. Khái quát những hạn chế của pháp luật hiện hành về bán đấu giá tài sản để

thi hành án dân sự

Về thể chế, từ thực tiễn công tác THADS và đấu giá tài sản để thi hành án

thời gian qua ở thành phố Hồ Chí Minh cho thấy các quy định pháp luật là cơ sở

cho đấu giá tài sản để THADS còn có những vướng mắc, bất cập ảnh hưởng đến

hiệu quả đấu giá tài sản. Cụ thể như:

Thứ nhất, theo quy định tại Điều 101 Luật thi hành án ân sự thì trong thời

hạn 10 ngày, kể từ ngày định giá Chấp hành viên phải ký hợp đồng dịch vụ đấu giá

tài sản được tiến hành và việc bán đấu giá đối với động sản phải được thực hiện

trong thời hạn là 30 ngày, đối với bất động sản là 45 ngày, kể từ ngày ký hợp đồng.

31

Tuy nhiên trên thực tế có nhiều trường hợp cơ quan thi hành án phải tạm dừng thực

hiện hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản khi có kháng nghị của người có thẩm quyền

xem xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm hoặc tạm dừng

để người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại về thi hành án. Đây là vướng mắc mà

hiện nay vẫn chưa có quy định cụ thể đối với việc xử lý hậu quả của việc dừng thực

hiện hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản (việc tạm dừng phải xử lý như thế nào?; có

bảo lưu kết quả đăng ký tham gia đấu giá hay không? Tổ chức đấu giá tài sản sẽ vi

phạm thời hạn bán đấu giá tài sản nếu bảo lưu kết quả đăng ký tham gia đấu giá cho

những người đăng ký tham gia đấu giá tài sản, nhưng nếu thanh lý hợp đồng dịch

vụ đấu giá tài sản đã ký kết để chờ hết thời hạn hoãn, tạm dừng thì ai sẽ là người

phải chịu các chi phí cho việc tổ chức bán đấu giá và thiệt hại cho các khách hàng

đã đăng ký tham gia đấu giá?).

Thứ hai, theo quy định của pháp luật về đấu giá tài sản thì đối với các tài sản

thông thường, tổ chức đấu giá tài sản được quyền bán đấu giá khi đã hết thời hạn

thông báo niêm yết đối với động sản là 07 ngày, đối với bất động sản là 30 ngày.

Nhưng đối với tài sản kê biên để thi hành án thì Luật thi hành án dân sự quy định

việc bán đấu giá đối với tài sản là động sản phải được thực hiện trong thời hạn là 30

ngày, đối với tài sản là bất động sản thì thời hạn là 45 ngày, kể từ ngày ký hợp đồng

dịch vụ đấu giá tài sản. Vì vậy, trong thực tế dẫn đến việc xử lý tài sản qua thủ tục

bán đấu giá sẽ kéo dài, gây tốn kém thời gian và chi phí cho cả cơ quan thi hành án

dân sự, tổ chức đấu giá và các bên đương sự, nhất là trong trường hợp tài sản đưa ra

đấu giá nhưng không có khách hàng đang ký tham gia thì phải thông báo cho các

bên đương sự để thỏa thuận về giá, mức giảm giá và ký lại hợp đồng dịch vụ đấu

giá để có cơ sở tiếp tục tổ chức đấu giá tài sản .

Thứ ba, pháp luật hiện hành chưa có quy định một cách thống nhất đối với

việc giao tài sản cho người mua trúng đấu giá. Theo quy định khoản 1 Điều 49 Luật

Luật Thi hành án dân sự thì Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự ra thông báo về

việc tạm đình chỉ thi hành án khi nhận được quyết định tạm đình chỉ thi hành án

của người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc

32

thẩm, tái thẩm. Tuy nhiên, Điều 103 Luật Thi hành án dân sự tại khoản 2 lại quy

định trường hợp người mua được tài sản bán đấu giá khi đã nộp đủ tiền mua tài sản

bán đấu giá nhưng bản án, quyết định bị kháng nghị, sửa đổi hoặc bị hủy thì cơ

quan Thi hành án dân sự vẫn phải tiếp tục việc bàn giao tài sản bán đấu giá, kể cả

trường hợp phải thực hiện cưỡng chế thi hành án để giao tài sản cho người mua

được tài sản bán đấu giá. Chính việc quy định chưa thống nhất như vậy nên thực tế

trong nhiều trường hợp cơ quan Thi hành án dân sự do dự trong việc giao hay

không giao tài sản đã đấu giá thành.

Đây là vụ tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa nguyên đơn là Ngân hàng

TMCP-A với bị đơn là bà M, được Tòa án nhân dân quận X, TP. Hồ Chí Minh giải

quyết bằng Quyết định công nhận thỏa thuận giữa các bên đương sự số 51/QĐST-

DS ngày 05/3/2009.

Sau khi nhận đơn yêu cầu thi hành án, Chi cục thi hành án dân sự có thẩm

quyền đã ra Quyết định thi hành án số 154/QĐ-THA ngày 10/7/2009 cho thi hành

khoản: “Buộc bà M có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng TMCP-A số sợ nợ là

10.013.556.288 đồng tính đến thời điểm ngày 24/02/2009.

Ghi nhận sự tự nguyện của bà M nếu đến hạn thanh toán mà bà M không

thanh toán số tiền nói trên thì Ngân hàng TMCP-A được quyền yêu cầu cơ quan thi

hành án phát mãi tài sản thế chấp là Quyền sử dụng đất có diện tích …và tài sản gắn

liền với đất có diện tích… tọa lạc tại thửa… ”

Quá trình tổ chức thi hành án, bà M không tự nguyện thi hành, căn cứ theo

quy định pháp luật về thi hành án dân sự, Chi cục Thi hành án dân sự quận Y đã

cưỡng chế kê biên tài sản thế chấp để đảm bảo cho Ngân hàng. Sau khi kê biên, xử

lý tài sản theo quy định pháp luật và người mua được tài sản đã nộp đủ tiền mua

trúng đấu giá.

Sau đó, Chi cục THADS quận Y nhận được quyết định kháng nghị số

31/2011-KN-DS/GĐT ngày 05/10/2011 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh về

việc kháng nghị giám đốc thẩm và tạm đình chỉ thi hành Quyết định số 0451/QĐST

33

ngày 05/3/2009 của Tòa án nhân dân quận X.

Tiếp đến, Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh có Quyết định Giám đốc thẩm

số 55/201/DS-GĐT ngày 13/12/2011, hủy toàn bộ Quyết định số 51/QĐST-DS

ngày 05/3/2009 của Tòa án nhân dân quận X để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm từ

đầu do có vi phạm nghiêm trọng về mặt tố tụng. Trong thời gian này, tài sản thế

chấp Ngân hàng đã kê biên, xử lý và người mua được tài sản cũng đã nộp đủ tiền

nhưng chưa nhận được tài sản.

Sau khi bản án bị hủy, Chi Cục Thi hành án dân sự đã ra quyết định đình chỉ

thi hành, chờ kết quả xét xử của Tòa án nhân dân có thẩm quyền để tiếp tục thi hành

án và chuyển trả 70% số tiền bán đấu giá tài sản cho Ngân hàng TMCP-A (30% số

tiền bán đấu giá do Trung tâm bán đấu giá tài sản tạm giữ). Người mua trúng đấu

giá tài sản đã nhiều lần có đơn khiếu nại yêu cầu Chi cục Thi hành án giao tài sản

nhưng vụ việc vẫn còn bỏ ngỏ do vẫn chưa có bản án sơ thẩm xét xử lại của Tòa án

nhân dân quận X.

Mặc dù, Quyết định số 51/QĐST-DS ngày 05/3/2009 của Tòa án nhân dân

quận X đã bị hủy nhưng Điều 103 Luật thi hành án dân sự hiện hành có quy định ưu

tiên bảo vệ quyền lợi cho người mua trúng đấu giá tài sản thi hành án:

“Trường hợp người mua được tài sản bán đấu giá đã nộp đủ tiền mua tài sản

bán đấu giá nhưng bản án, quyết định bị kháng nghị, sửa đổi hoặc bị hủy thì cơ

quan thi hành án dân sự tiếp tục giao tài sản, kể cả thực hiện việc cưỡng chế thi

hành án để giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá, trừ trường hợp kết

quả bán đấu giá bị hủy theo quy định của pháp luật hoặc đương sự có thỏa thuận

khác”. Quy định như vậy để bảo vệ quyền lợi cho người mua trúng đấu giá tài sản.

Do Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh đã ra bản án giám đốc thẩm, hủy

Quyết định số 51/QĐST-DS ngày 05/3/2009 của Tòa án nhân dân quận X để xét xử

lại từ đầu, nhưng trong khi chờ bản án sơ thẩm xét xử lại của Tòa án có thẩm quyền

thì vấn đề đặt ra là có tiến hành giao tài sản cho người mua trúng đấu giá theo như

khoản 2 Điều 103 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định

34

không? Xoay quanh vấn đề này còn nhiều quan điểm không thống nhất như sau:

Ý kiến thứ nhất cho rằng, tài sản thế chấp đã kê biên, xử lý xong, người mua

được tài sản bán đấu giá đã nộp đủ tiền, nên căn cứ Điều 103 Luật Thi hành án dân

sự sửa đối, bổ sung năm 2014 thì Chi Cục thi hành án phải ra quyết định thu hồi

quyết định đình chỉ thi hành án để ra quyết định giao tài sản cho người mua trúng

đấu giá, trường hợp người có tài sản bán đấu giá không tự nguyện giao thì tiến hành

cưỡng chế theo quy định.

Ý kiến thứ hai cho rằng, Quyết định số 51/QĐST-DS ngày 05/3/2009 của

Tòa án nhân dân quận X là cơ sở pháp lý để thi hành án nhưng đã bị hủy và Chi

Cục thi hành án dân sự đã ra Quyết định đình chỉ số 08/QĐ-CCTHA ngày

09/02/2012. Vì vậy không có căn cứ để thu hồi quyết định đình chỉ thi hành án cũng

như ra quyết định giao tài sản, không có cơ sở để tổ chức thi hành việc giao tài sản

cho người mua được tài sản bán đấu giá, cần phải chờ bản án của Tòa án nhân dân

quận X để có cơ sở xem xét tiếp tục thi hành (trừ những trường hợp có quy định

khác của pháp luật).

Tác giả đồng tình với quan điểm này vì các lý do sau:

Thứ nhất: Trường hợp này cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định đình

chỉ thi hành án do có quyết định giám đốc thẩm tuyên hủy bản án, quyết định sơ

thẩm vào năm 2012 căn cứ theo điểm d khoản 1 Điều 50 Luật thi hành án dân sự

năm 2008 (Điều 50 và Điều 103 chưa được sửa đổi, bổ sung). Khi đó, phải áp dụng

Luật thi hành án dân sự năm 2008 để thi hành.

Căn cứ Điều 52 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 về kết thúc thi hành án,

một trong những trường hợp kết thúc thi hành án là khi có quyết định đình chỉ thi

hành án. Như vậy, mọi hoạt động tố tụng thi hành án phải bị dừng lại để chờ bản án,

quyết định mới có hiệu lực để có cơ sở xử lý tiếp. Đến năm 2014 thì Luật thi hành

án dân sự được sửa đổi, bổ sung theo hướng bảo vệ quyền lợi cho người mua trúng

đấu giá tài sản. Trong khi đó khoản 1 Điều 2 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ

sung 2014 quy định đối với các việc thi hành án đã được thi hành xong trước thời

điểm Luật có hiệu lực mà sau khi Luật này có hiệu lực đương sự còn khiếu nại thì

35

áp dụng quy định của Luật thi hành án dân sự năm 2008 để giải quyết. Do đó,

không thể căn cứ khoản 2 Điều 103 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung 2014

để cho thi hành phần giao tài sản cho người mua trúng đấu giá.

Thứ hai: Trong vụ việc này cơ quan thi hành án đã ra quyết định đình chỉ thi

hành án nên trường hợp muốn thực hiện giao tài sản cho người mua trúng đấu giá,

cơ quan thi hành án phải ra quyết định giao tài sản như vậy về mặt trình tự pháp lý

sẽ có sự mâu thuẫn chồng chéo giữa 02 quyết định. Giả sử cơ quan thi hành án thu

hồi quyết định đình chỉ để ban hành quyết định giao tài sản theo Điều 103 Luật thi

hành án dân sự sửa đổi, bổ sung 2014 cũng không thể thực hiện được vì Điều 37

Luật thi hành án dân sự về thu hồi, hủy quyết định về thi hành án không quy định

căn cứ nào để thu hồi hay hủy quyết định đình chỉ thi hành án nêu trên.

Thứ ba: Mặc dù đây không phải là lỗi của cơ quan thi hành án nhưng trường

hợp cần thiết để tránh gây thiệt hại cho các bên và giải quyết được khiếu nại, Chấp

hành viên có thể hướng dẫn người mua trúng đấu giá khởi kiện ra Tòa án có thẩm

quyền yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá để nhận lại tiền kèm theo tiền lãi gửi Ngân

hàng.

Tình huống nêu trên xảy ra trên thực tế hiện nay vẫn còn nhiều và vẫn là vấn

đề gây lúng túng cho những người thực thi và áp dụng pháp luật. Do đó thiết nghĩ

các cơ quan trung ương cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn thống nhất việc xử lý

đối với tài sản là nhà đất đã bán đấu giá thành nhưng chưa giao được cho người

mua trúng đấu giá do bản án, quyết định của Tòa án bị hủy theo trình tự giám đốc

thẩm hoặc tái thẩm.

2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự

ở Thành phố Hồ Chí Minh

2.2.1.Tình hình, kết quả thực hiện pháp luật về bán đấu giá tài sản để thi hành án

dân sự ở Thành phố Hồ Chí Minh

Công tác THADS trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đóng một vai trò đặc

biệt quan trọng đối với công tác THADS trên phạm vi cả nước. Trong những năm

qua, các cơ quan THADS trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh (gồm Cục THADS

36

và 24 Chi cục THADS Quận Huyện) đã nhận thức đúng tầm quan trọng của công

tác THADS, coi trọng công tác vận động, thuyết phục đương sự nghiêm chỉnh chấp

hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, đặc biệt là chú trọng làm tốt công

phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan để nâng cao hiệu quả cưỡng chế kê

biên, xử lý tài sản để thi hành án...Vì vậy, công tác THADS trên địa bàn thành phố

Hồ Chí Minh đã có nhiều chuyển biến, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội

và đảm bảo trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn thành phố. Kết quả THADS thể hiện

cụ thể ở Bảng 2.1 dưới đây:

Bảng 2.1. Kết quả THADS từ năm 2015 đến 2019

THỐNG KÊ KẾT QUẢ THI HÀNH THỐNG KÊ KẾT QUẢ THI ÁN DÂN SỰ THEO GIÁ TRỊ HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO VIỆC (1.000.000 đồng)

Số việc NĂM Tổng số Số việc đã Tổng số Số tiền có Tổng số đã có điều việc phải giải quyết tiền phải điều kiện giải giải quyết kiện thi thi hành xong thu quyết hành

2015 90.271 66.681 55.009 48.365.633 15.651.347 6.670.816

2016 97.640 79.681 60.840 60.154.156 30.818.090 10.123.058

2017 106.769 84.722 60.244 74.520.484 39.265.691 18.598.642

2018 111.137 109.499 66.170 69.131.842 58.925.932 10.641.693

2019 112.707 84.423 63.936 106.042.767 68.146.257 23.916.964

Nguồn: Cục THADS Thành phố Hồ Chí Minh

Theo số liệu thống kê nêu trên đã cho thấy tại Thành phố Hồ Chí Minh thì số

lượng việc, giá trị phải thi hành án là rất lớn. Đăc biệt là trong những năm gần đây

tại thành phố Hồ Chí Minh đã xảy ra nhiều vụ án tham nhũng, kinh tế lớn với số

tiền phải thu cho nhà nước, tổ chức và công dân rất lớn, đặt ra cho các cơ quan

THADS Thành phố những nhiệm vụ rất nặng nề.

Từ năm 2015 đến 2019, theo số liệu báo cáo tổng hợp tại Cục THADS

Thành phố thì trung bình mỗi năm các cơ quan THADS Thành phố thụ lý trên

37

103.705 việc với số tiền 71.662 tỷ đồng. Qua số liệu tổng kết hàng năm có thể nhận

thấy việc, tiền thi hành án ngày càng tăng. Bình quân mỗi năm giải quyết xong

67.240 việc, với số tiền thu được là 13.990 tỷ đồng.

Để có được những kết quả nêu trên, các chấp hành viên của các cơ quan

THADS đã đặc biệt coi trọng công tác động viên, thuyết phục đương sự tự nguyện,

thỏa thuận trong thi hành án nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án, giảm thiểu những

trường hợp phải áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên xử lý tài sản để thi hành án.

Tuy nhiên, đối với những trường hợp người phải thi hành án có tài sản nhưng

không tự nguyện thi hành án thì chấp hành viên kiên quyết áp dụng biện pháp

cưỡng chế kê biên tài sản theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật để đưa ra đấu giá,

nhất là những vụ việc liên quan đến đấu giá tài sản kê biên có giá trị lớn (nhà

xưởng, dây chuyền sản xuất, nhà ở, quyền sử dụng đất ...) trong các việc thi hành

án liên quan đến tín dụng, ngân hàng, án kinh tế, tham nhũng. Kết quả đấu giá tài

sản kê biên do trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong những năm gần đây được

thể hiện ở Bảng 2.2 dưới đây:

Bảng 2.2: Kết quả đấu giá tài sản để THADS

Sô việc đấu Sô việc đấu giá bị Số việc bán Số việc Số việc đấu giá giá thành hủy (do thỏa đấu giá tài Năm đấu giá phải định giá lại, chưa giao thuận, xét xử của sản thành hạ giá để đấu giá được tài sản tòa án...)

2015 292 160 20 0 112

2016 354 126 17 0 211

2017 316 143 81 2 90

2018 262 458 122 73 1

2019 471 102 67 1 302

Nguồn: Cục THADS Thành phố Hồ Chí Minh

Theo số liệu thống kê về kết quả đấu giá tài sản để thi hành án như trên

38

cho thấy rằng do số việc các cơ quan THADS của thành phố Hồ Chí Minh phải

thi hành hàng năm đều tăng nên số việc phải kê biên tài sản để đấu giá cũng tăng.

Hoạt động đấu giá tài sản để thi hành án đã dần đi vào nề nếp, cơ bản đảm bảo

đúng trình tự, thủ tục theo luật định đã góp phần rút ngắn thời gian tổ chức thi

hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp

pháp của đương sự và các tổ chức, cá nhân có liên quan, góp phần hạn chế những

khiếu nại, tố cáo phát sinh liên quan đến việc kê biên, đấu giá tài sản để thi hành

án và góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả THADS.

2.2.2. Hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong bán đấu giá tài sản để thi hành án dân

sự và nguyên nhân

Bên cạnh những ưu điểm, kết quả đã đạt được thì hoạt động bán đấu giá

tài sản trong THA dân sự thời gian qua cũng còn một số tồn tại, hạn chế như:

mặc dù lượng việc đã kê biên, định giá và đưa ra bán đấu giá là rất lớn nhưng

kết quả việc bán đấu giá thành và lượng giá trị thu được từ việc bán đấu giá tài

sản cũng là rất thấp. Bên cạnh đó, chất lượng nhiều phiên đấu giá nhìn chung

còn chưa cao, còn tồn tại tình trạng “quân xanh, quân đỏ”, thông đồng, dìm giá,

giá trị tài sản bán vượt mức giá khởi điểm chưa cao, chưa có tiêu chí lựa chọn tổ

chức bán đấu giá, cơ chế kiểm soát việc bán đấu giá... Đặc biệt, việc bàn giao tài

sản cho người mua được tài sản bán đấu giá còn gặp rất nhiều khó khăn, dẫn đến

tình trạng người mua được tài sản ngay tình nhất là tài sản THA chịu nhiều rủi

ro.

Thực tế cho thấy, hoạt động bán đấu giá trong thời gian qua chưa đáp ứng

được kỳ vọng và mong muốn trong xử lý tài sản THA, đây cũng chính là nguyên

nhân cơ bản dẫn đến hiệu quả THA đạt thấp. Tình trạng này kéo dài sẽ dẫn đến việc

người dân “tẩy chay” đấu giá tài sản THA. Việc bán đấu giá tài sản THA đạt hiệu

quả thấp xuất phát từ các nguyên nhân:

Thứ nhất, do trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và ý thức của chấp hành viên

cơ quan thi hành án dân sự.

Quá trình tổ chức THA là chuỗi các trình tự, thủ tục THA có liên kết với

39

nhau từ ra quyết định THA, xác minh điều kiện, kê biên tài sản THA, thẩm định giá

tài sản THA, bán đấu giá tài sản THA, giao tài sản THA và thanh toán tiền bán tài

sản THA... Nếu trong quá trình tổ chức THA, chấp hành viên thực hiện không đúng

hoặc có sai sót, vi phạm về thủ tục THA sẽ làm ảnh hưởng đến việc bán đấu giá tài

sản nói riêng và kết quả THA nói chung. Qua rà soát, thống kê cho thấy nguyên

nhân dẫn đễn hoạt động bán đấu giá tài sản THA đạt hiệu quả thấp đó là:

- Chấp hành viên có sai sót ngay từ quá trình xác minh điều kiện THA hoặc

sai sót trong quá trình tổ chức kê biên tài sản THA

Việc bán đấu giá tài sản THA phụ thuộc rất nhiều vào quá trình tổ chức THA

của chấp hành viên, đặc biệt là việc kê biên tài sản. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều

trường hợp, chấp hành viên đã không thực hiện việc xác minh tài sản một cách đầy

đủ, không kiểm tra hiện trạng tài sản trước khi kê biên hoặc lập biên bản kê biên

một cách chung chung dẫn đến một số trường hợp tài sản đã bán đấu giá thành

nhưng không thể giao được tài sản cho người mua trúng đấu giá và dẫn đến nguy cơ

phải hủy kết quả bán đấu giá. Một số trường hợp cụ thể minh chứng cho vấn đề này

như sau:

+ Không thực hiện xác minh hoặc kết quả xác minh không đúng thực tế: Để

tổ chức thi hành Bản án số 135/DSPT ngày 06/7/2010 của Tòa án nhân dân tôi cao

tại thành phô M, cơ quan THA dân sự đã ra quyết định kê biên số 108/QĐ-THA

ngày 03/11/2010 nội dung “kê biên toàn bộ quyền sử dụng đất 2.713,6 m2 và tài sản

gắn liền với đất tọa lạc tại xã B huyện H”. Tài sản được bán đấu giá thành vào ngày

20/7/2016. Tuy nhiên, trong lúc chuẩn bị cưỡng chế giao tài sản cho ngươi mua

trúng đấu giá thì phát hiện ra trong 2.713,6 m2 có 800 m2 đất là được Nhà nước cho

người phải THA thuê trả tiền hàng năm. Từ đó, dẫn đến có tranh chấp và việc giao

tài sản cho người mua trúng đấu giá vẫn chưa thực hiện được.

+ Tài sản đã kê biên, bán đấu giá không đúng vối hiện trạng tài sản: Để tổ

chức THA, cơ quan THA đã kê biên và bán đấu giá thành tài sản là 01 khách sạn

gồm có 06 tầng. Tuy nhiên, khi tổ chức giao tài sản cho người mua trúng đấu giá thì

phát hiện khách sạn đó có 07 tầng. Nguyên nhân của việc phát sinh này không phải

40

do người phải THA xây dựng thêm mà do cơ quan THA dân sự khi kê biên đã dựa

vào bản vẽ của trung tâm đo vẽ tài sản (đơn vị đã được cơ quan THA thuê đến kiểm

tra và thực hiện việc đo, vẽ toàn bộ hiện trạng tài sản) để thực hiện việc kê biên,

thẩm định giá và bán đấu giá tài sản. Từ sự chênh lệch này dẫn đến việc tài sản đã

bán đấu giá thành nhưng ngưòi phải THA khiếu nại, tố cáo, cơ quan THA khó khăn

trong việc giao tài sản cho người mua trúng đấu giá.

- Chấp hành viên ký hợp đồng thẩm định giá với tổ chức thẩm định giá

không đủ điều kiện, không có chức năng thẩm định giá.

Đây là vi phạm rất nghiêm trọng dẫn đến kết quả thi hành án sẽ không được

công nhận. Theo quy định tại Điều 98 Luật THADS và Luật giá năm 2012 thì vừa

lựa chọn, ký kết hợp đồng thẩm định giá với tổ chức thẩm định giá phải bảo đảm tổ

chức đó phải đủ điều kiện theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, quá trình thực hiện

các CHV không kiểm tra tra kỹ dẫn đến thực hiện hợp đồng thẩm định giá với tổ

chức thẩm định giá không đủ điều kiện về thẩm định giá, như trưởng hợp vụ bà

Nguyễn Minh Trang xảy ra tại Chi cục THADS quận Tân phú do Công ty thẩm

đeịnh giá Quốc tế thẩm định hay toàn bộ hoạt động thẩm định giá tại Kiên Giang do

Công ty TNHHXD Nhựt Vương và Tần Vương không đủ điều kiện hoạt động thẩm

định giá thực hiện ( gồm 203 vụ việc với số tiền lên đến hơn 803 tỷ đồng) dẫn đến

kết quả thẩm định giá không được công nhận.

- Kết quả thẩm định giá không phù hợp với giá thị trường

Để có thể đưa tài sản ra bán đấu giá thì cần phải có giá khởi điểm, trong

trường hợp bán tài sản THA thì giá khởi điểm của tài sản có thể do các đương sự

thỏa thuận hoặc do kết quả thẩm định giá của tổ chức thẩm định giá hoặc do kết quả

xác định giá của chấp hành viên. Việc đưa ra giá khởi điểm phù hợp với giá của thị

trường là yếu tố quan trọng để hoạt động bán đấu giá tài sản đạt hiệu quả cao.

Trên thực tế, để xác định giá khỏi điểm đối với tài sản THA, trong phần lớn

trường hợp, cơ quan THA phải ký hợp đồng với các tổ chức thẩm định giá để yêu

cầu họ xác định giá của tài sản THA. Tuy nhiên, hiện nay chưa có tiêu chí cụ thể để

đánh giá chất lượng của các tổ chức thẩm định giá nên khi lựa chọn các tổ chức

41

thẩm định giá để ký hợp đồng chủ yếu dựa trên cảm tính của chấp hành viên. Do đó,

vẫn tồn tại hiện tượng các tổ chức thẩm định giá đã đưa ra kết quả thẩm định giá

không chính xác với giá thị trường như quá cao hoặc quá thấp (ví dụ, cùng một tài

sản THA là con tàu nhưng trong một khoảng thời gian 06 tháng, giá thẩm định lần

thứ nhất là hơn 4,7 tỷ đồng, lần thứ hai thẩm định hơn 18 tỷ đồng, lần thứ ba thẩm

định còn hơn 4,7 tỷ đồng). Trường hợp tổ chức thẩm định giá đưa ra giá quá thấp có

thể hấp dẫn người có nhu cầu mua, tuy nhiên nó cũng làm ảnh hưởng nghiêm trọng

đến quyền lợi hợp pháp của các đương sự, dẫn đến khiếu nại, bức xúc kéo dài.

Trường hợp tổ chức thẩm định giá đưa ra giá quá cao dẫn đến có nhiều trường hợp

phải giảm giá tài sản đến 10 lần, thậm chí có những tài sản phải giảm giá đến hơn

20 lần nhưng vẫn không bán được. Đầy chính là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tài

sản bán đấu giá không thành rất lớn và tạo ra chi phí đấu giá tài sản cao, ảnh hưởng

đến quyền và lợi ích của các bên liên quan.

Bên cạnh đó, Luật Thi hành án dân sự quy định việc lựa chọn tổ chức thẩm

định giá chỉ được thực hiện sau quá trình tổ chức kê biên tài sản THA. Do đó, đến

thời điểm thẩm định giá, tổ chức thẩm định giá tiến hành xem xét hiện trạng tài sản

để làm cơ sở cho việc thẩm định giá. Qua kiểm đếm, rà soát, đối chiếu tài sản hiện

có và tài sản theo biên bản kê biên của chấp hành viên có sự không thông nhất (tăng

hoặc giảm đáng kể, làm thay đổi về giá trị của tài sản). Vì vậy, việc thẩm định giá

tài sản đã gặp trở ngại hoặc kết quả thẩm định giá không thực sự chính xác.

- Thiếu sự kiểm soát trong quá trình đấu giá tài sản

Theo quy định của Luật Thi hành án dân sự thì tài sản kê biên được bán theo

các hình thức đấu giá và bán không qua thủ tục đấu giá. Để bán thông qua thủ tục

đấu giá, cơ quan THA dân sự thực hiện việc ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức đấu

giá do các đương sự thỏa thuận lựa chọn, trường hợp các đương sự không thỏa

thuận được thì cơ quan THA dân sự lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản để ký hợp

đồng.

Trên thực tế, khi ký hợp đồng với các tổ chức đấu giá tài sản (kể cả trường

hợp do các đương sự lựa chọn hoặc cơ quan THA lựa chọn), một số cơ quan THA

42

dân sự thường để các tổ chức đấu giá tài sản soạn sẵn mẫu của hợp đồng nên mỗi tổ

chức đấu giá lại đưa ra mẫu hợp đồng tương đối khác nhau. Việc để các tổ chức đấu

giá soạn sẵn mẫu hợp đồng dẫn đến có những điều, khoản không phù hợp với các

quy định của pháp luật về THA dân sự. Ví dụ: Tại Điều 5 của Hợp đồng bán đấu

giá tài sản số 214/HĐ ngày 24/9/2015 của cơ quan THA dân sự với tổ chức bán đấu

giá tài sản có dung là trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ tiền, bên

B (tổ chức bán đấu giá tài sản) sẽ thanh toán tiền cho bên A (Cục Thi hành án dân

sự). Như vậy, nội dung của hợp đồng đã vi phạm Điều 27 của Nghị định số

62/2015/NĐ-CP ngày 15/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi

hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự .

Bên cạnh đó, các cơ quan THA dân sự gần như phó mặc toàn bộ quá trình

bán đấu giá tài sản cho các tổ chức bán đấu giá tài sản và thiếu sự kiểm soát dẫn đến

nhiều tổ chức đấu giá tài sản lợi dụng để thao túng hoạt động bán đấu giá tài sản

như: Thông đồng, dìm giá; hạn chế người tham gia đấu giá tài sản (bằng cách hạn

chế bán hồ sơ hoặc đặt thêm các điều kiện để được tham gia đấu giá tài sản); không

thực hiện việc thông báo hoặc niêm yết theo đúng quy định; tính toán chi phí bán

đấu giá không chính xác... làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc bán đấu giá tài sản

THA.

Ngoài ra, việc thiếu kiểm tra, giám sát đối với các tổ chức đấu giá dẫn đến

trong thời gian qua một số tổ chức bán đấu giá đã có hành vi sử dụng hoặc chiếm

đoạt tiền đặt trước hoặc tiền mua tài sản dẫn đến mất niềm tin của người dân và gây

ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của cơ quan THA dân sự. Một số tổ chức

đấu giá chậm chuyển tiền hoặc chỉ chuyển một phần tiền bán đấu giá tài sản cho các

cơ quan THA (ví dụ, các tổ chức bán đấu giá chỉ chuyển cho cơ quan THA dân sự

70% đến 80% số tiền người mua trúng đấu giá nộp, số còn lại chỉ được chuyển sau

khi cơ quan THA dân sự giao được tài sản cho người mua trúng đấu giá), cá biệt

một số tổ chức bán đấu giá còn lợi dụng quy định trên để chiếm đoạt tiền bán tài sản

THA.

- Không kiên quyết trong việc tổ chức giao tài sản cho người mua trúng đấu

43

giá

Một số chấp hành viên, cơ quan THA dân sự còn chưa kiên quyết trong tổ

chức giao tài sản cho người mua trúng đấu giá. Nhiều trường hợp khi người phải

THA (hoặc chủ sở hữu tài sản) khiếu nại, chống đối thì cơ quan THA dân sự ngại

va chạm nên không kiên quyết trong việc giao tài sản cho người mua trúng đấu giá.

Việc chậm giao tài sản cho ngưòi mua trúng đấu giá làm ảnh hưởng nghiêm trọng

đến quyền và lợi ích hợp pháp của người mua trúng đấu giá và có thể dẫn đến khả

năng các nhà đầu tư quay lưng lại với tài sản THA. Ví dụ: Để thi hành Quyết định

công nhận sự thỏa thuận cửa các đương sự số 69/2011/QĐST.KDTM ngày

22/6/2011, cơ quan THA dân sự đã bán đấu giá thành tài sản là quyền sử dụng

2.287 m2 đất và các tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất với giá là 5.453.000 đồng

từ ngày 02/8/2013. Người mua trúng đấu giá (chính là người được THA) đã nộp đủ

số tiền trên. Nhưng đến ngày 30/6/2017, cơ quan THA dân sự vẫn chưa tổ chức

giao tài sản cho người mua trúng đấu giá với lý do là người phải THA khiếu nại về

việc tính lãi suất chậm THA của ngưòi được THA.

Thứ hai, còn có sự chưa thống nhất giữa các cơ quan có liên quan trong việc

áp dụng pháp luật.

Theo trình tự, thủ tục về bán đấu giá tài sản thì nếu sau ba lần đấu giá viên

nhắc lại giá cao nhất đã trả mà không có người nào trả giá cao hơn thì đấu giá viên

công bố người đã trả giá cao nhất là người mua trúng đấu giá tài sản. Sau khi đấu

giá viên công bố, người mua trúng đấu giá tài sản được coi là đã chấp nhận giao kết

hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá. Trong trường hợp bán đấu giá thành thì đấu

giá viên điều hành cuộc bán đấu giá tài sản lập hợp đồng mua bán tài sản bán đấu

giá. Tuy nhiên, pháp luật về đấu giá chưa phân định rõ ràng thời điểm nào thì được

quyền hủy kết quả bán đấu giá và thời điểm nào thì hủy hợp đồng mua bán tài sản.

Mặt khác, Điều 102 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm

2014) quy định về hủy kết quả bán đấu giá tài sản như sau: “1. Việc hủy kết quả bán

đấu giá tài sản được thực hiện theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản;

trường hợp kết quả bán đấu giá tài sản bị hủy thì việc xử lý tài sản để THA được

44

thực hiện theo quy định của Luật này. 2. Người mua được tài sản bán đấu giá, chấp

hành viên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về kết quả bán

đấu giá tài sản, nếu có căn cứ chứng minh có vi phạm trong quá trình bán đấu giá

tài sản”.

Việc không quy định rõ ràng thời điểm nào thì hủy kết quả bán đấu giá và

khi nào phải thực hiện hủy hợp đồng mua bán tài sản, dẫn đến nhiều trường hợp các

cơ quan nhà nước can thiệp vào quan hệ dân sự. Cụ trong một số trường hợp, người

mua trúng đấu giá đã ký hợp đồng mua bán tài sản với tổ chức bán đấu giá, cơ quan

THA dân sự đã tổ chức giao tài sản cho người mua trúng đấu giá nhưng cơ quan

thanh tra vẫn căn cứ điểm b khoản 7, điểm c khoản 8 Điều 19, khoản 3 Điều 20

Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi

phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia

đình, THA dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã và Nghị định số 67/2015/NĐ-

CP ngày 14/8/2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định sô

110/2013/NĐ-CP để hủy kết quả bán đấu giá tài sản. Một số Tòa án vẫn thực hiện

việc thụ lý đơn yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá của người phải THA, sau khi thụ lý

thì nhiều lần hoãn phiên tòa, phải 01 năm sau mới xét xử sơ thẩm và sau đó cũng

gần 01 năm nữa nhưng chưa xét xử phúc thẩm dẫn đến trường hợp người mua trúng

đấu giá bỏ ra hơn 30 tỷ đồng nhưng hơn 02 năm vẫn chưa nhận được tài sản dã mua

đấu giá.

Bên cạnh đó, khi cơ quan THA dân sự tổ chức giao tài sản cho người mua

trúng đấu giá, một số cơ quan hữu quan đưa ra các lý do như gia đình người phải

THA có nhiều thế hệ chung sống hoặc nguồn gốc hình, thành tài sản bán đấu giá

không phải chỉ của mình người phải THA hoặc bản án, quyết định của Tòa án

không nhận được sự đồng thuận của người dân hoặc việc tổ chức THA còn “lấn

cấn”, người mua trúng đấu giá chưa bảo đảm điều kiện năng lực tài chinh để thực

hiện dự án đầu tư... dẫn đến việc trì hoãn giao tài sản cho người mua trúng đấu giá.

Thứ ba, do người phải thi hành án (hoặc chủ sở hữu tài sẩn thi hành án)

45

chống đối, cản trở việc kê biên, bán đấu giá tài sản.

Hầu hết các vụ việc THA có tài sản là bất động sản bị kê biên, bán đấu giá

đều gặp sự chống đối quyết liệt của người phải THA hoặc chủ sở hữu tài sản, việc

chống đối không chỉ xảy ra tại thời điểm cơ quan THA dân sự tổ chức cưỡng chế

mà xuyên suốt trong quá trình cơ quan THA tổ chức thi hành vụ việc. Bên cạnh

những vụ việc người phải THA không hợp tác với cơ quan THA trong quá trình tổ

chức THA (như nhận thông báo về THA, kê khai tài sản của mình...), khi cơ quan

THA tiến hành kê biên bán đấu giá thành tài sản thì khiếu nại hoặc khởi kiện ra Tòa

án để cản trở việc giao tài sản cho người mua trúng đấu giá. Một số việc đương sự

chống đối thiếu căn cứ nhưng việc xử lý, áp dụng chế tài chưa thực sự kịp thời

mang tính răn đe đã làm ảnh hưỏng đến việc THA.

Thứ tư, do tâm lý người dân e ngại khi mua tài sản bán đấu giá để thi hành án

Hiệu quả của hoạt động bán đấu giá tài sản THA thấp xuất phát từ một

nguyên nhân khác, đó là người dân e ngại khi mua tài sản bán đấu giá để THA.

Trước hết người đăng ký mua tài sản thường có tâm lý e ngại mua tài sản đấu giá để

thi hành án và thường cho rằng ngôi nhà đó, công trình đó không đem lại điều may

mắn cho gia chủ. Vì vậy, trừ trường hợp tài sản đấu giá có giá trị rẻ hơn so với giá

thị trường thì mới có người quan tâm mua tài sản để kinh doanh. Bên cạnh đó trong

thời gian qua trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng đã có nhiều bài viết,

thông tin phản ánh tình trạng mua nhà trúng đấu giá nhưng không được nhận nhà

hoặc thời gian từ khi mua trúng đấu giá cho đến khi nhận được nhà kéo dài gây thiệt

hại về vật chất và tinh thần cho người mua tài sản. Từ đó, phát sinh tâm lý e ngại

khi đăng ký mua tài sản là bất động sản của ngươi phải THA mặc dù trên thực tế

người dân vẫn có nhu cầu đối với loại tài sản này.

Thứ năm, quy định về việc cho người phải thi hành án nhận lại tài sản trước

khi mở cuộc bán đấu giá 01 ngày làm việc, nếu nộp đủ tiền thi hành án và thanh

toán các chi phí thực tế hợp lý đã phát sinh từ việc cưỡng chế thi hành án, tổ chức

bán đấu giá (Điều 101 Luật THADS) đã gây nhiều khó khăn, tốn kém chi phí và

thời gian cho các tổ chức đấu giá tài sản. Bởi vì ngay sau khi ký hợp đồng dịch vụ

46

đấu giá tài sản với cơ quan THADS, tổ chức đấu giá tài sản đã phải tiến hành các

thủ tục ban hành quy chế đấu giá, niêm yết, thông báo công khai trên các phương

tiện thông tin đại chúng và giới thiệu cho khách hàng tham khảo hồ sơ. Khi có

khách hàng mua hồ sơ đăng ký tham gia đấu giá, tổ chức đấu giá tài sản đã phải

hoàn tất mọi thủ tục hồ sơ, phát hành giấy mời cho các cơ quan liên quan và thông

báo cho khách hàng dự cuộc đấu giá. Vì vậy, khi nhận được thông báo về việc dừng

việc đấu giá của cơ quan THADS do người phải thi hành án đã nộp tiền nhận lại tài

sản, tổ chức đấu giá tài sản phải tiến hành các thủ tục thông báo ngay cho khách

hành và các cơ quan liên quan biết để không phải mất thời gian đến dự phiên đấu

giá. Điều này vừa làm mất thời gian và vửa làm mất khoản chí phí liên quan đến

niêm yết, thông báo, photo hồ sơ...của tổ chức đấu giá, thậm chí tổ chức đấu giá có

thể phải đối mặt với bức xúc, khiếu nại của khách hàng, làm giảm uy tín, mất niềm

tin của khách hàng đối với tổ chức đấu giá.

Thứ sáu, theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự thì tài sản đưa ra

đấu giá để thi hành án là tài sản đã bị kê biên, định giá để đảm bảo thi hành án và

sau khi kê biên tài sản sẽ được giao cho người phải thi hành án, người thân thích

của người phải thi hành án hoặc người đang sử dụng có trách nhiệm bảo quản tài

sản. Tuy nhiên, trên thực tế đây lại là một nguyên nhân dẫn đến khó khăn, phức tạp

cho quá trình tổ chức bán đấu giá tài sản để thi hành án. Bởi vì, nếu người được

giao bảo quản tài sản không hợp tác, cố tình gây khó khăn, cản trở, không tạo điều

kiện cho người có nhu cầu mua tài sản xem tài sản, thông tin không đúng sự thật về

tài sản thì việc tổ chức đấu giá sẽ gặp khó khăn. Người có nhu cầu mua tài sản sẽ

ngại mua thì không tiếp cận để xem được tài sản và họ thấy trước được khả năng

chống đối của người bảo quản tài sản nếu tài sản bán đấu giá thành.

Những tồn tại, khó khăn, vướng mắc cơ bản nêu trên là do một số nguyên

nhân chủ yếu sau đây:

- Các quy định pháp luật về quá trình tổ chức bán đấu giá tài sản để thi hành

án vẫn còn có sự chồng chéo, không đồng bộ với các quy định pháp luật có liên

quan; việc tổ chức đấu giá tài sản để thi hành án phụ thuộc nhiều vào kết quả thực

47

hiện các trình tự, thủ tục về thi hành án nói chung, kê biên, định giá tài sản để thi

hành án nói riêng. Pháp luật chưa xác định rõ vị trí, vai trò của hoạt động bán đấu

giá trong quá trình tổ chức thi hành án nên dẫn tới tình trạng các tổ chức đấu giá tài

sản can thiệp quá sâu vào hoạt động THADS.

- Việc thẩm định giá tài sản kê biên để đưa ra đấu giá còn nhiều bất cập.

Đơn cử như để đưa tài sản ra đấu giá, Chấp hành viên phải ký hợp đồng với tổ chức

thẩm định giá để xác định giá khởi điểm phù hợp với giá thị trường, nhưng hiện

nay chưa có tiêu chí cụ thể để đánh giá chất lượng của tổ chức thẩm định giá mà

chủ yếu do sự lựa chọn nên thực tế có nhiều trường hợp thẩm định giá đưa ra giá trị

cao hơn nhiều so với giá trị thực tế của tài sản nên không ít vụ việc phải giảm giá

hơn 10 lần nhưng vẫn không bán được tài sản (đây là một trong những nguyên

nhân dẫn đến nhiều vụ việc bán đấu giá không thành, tốn kém chi phí cho đấu giá

tài sản).

- Ý thức chấp hành pháp luật về thi hành án và đấu giá tài sản của người

phải thi hành án và một số tổ chức, cá nhâ còn hạn chế. Thực tế cho thấy rằng tài

sản đưa ra bán đấu giá chủ yếu là nhà ở, quyền sử dụng đất thường có giá trị lớn,

gắn với đời sống của con người nên người phải thi hành án hoặc người thân thích

của họ thường cản trở việc thi hành án, chống đối; cố tình gây khó khăn cho việc kê

biên, định giá, bán đấu giá hoặc có đơn khiếu nại, tố cáo sai sự thật nhằm kéo dài

việc thi hành án trong khi chưa có cơ chế hữu hiệu để xử lý hành vi cản trở, chống

đối việc thi hành án (mặc dù pháp luật xử phạt hành chính trong lĩnh vực thi hành

án có quy định, Bộ luật hình sự cũng quy định những hành vi cụ thể về việc truy

cứu trách nhiệm hình sự đối với các trường hợp người phải thi hành án không chấp

hành án, tẩu tán tài sản thi hành án…. nhưng trên thực tế rất khó xử lý về hình sự

hoặc nếu có xử phạt thì việc thu hồi tiền phạt không khả thi.).

- Hiện nay hiện tượng tiêu cực trong công tác bán đấu giá tài sản diễn ra khá

phổ biến, sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức bán đấu giá cũng là một

vấn đề cần đáng quan tâm, tình trạng “quân xanh, quân đỏ”, tình trạng CHV câu kết

với tổ chức đấu giá do mình chọn để ký HĐ DV đấu giá nhằm sắp xếp để người

48

của mình mua được tài sản thông qua tổ chức đấu giá đó như: đăng thông tin tài

sản bán đấu giá trên các báo ít người đọc: Thể thao, An ninh quốc phòng, báo tài

chính..., không cho khách hàng mua hồ sơ như đóng cửa bỏ đi hoặc bán hồ sơ

nhưng tìm mọi cách để người mua hồ sơ không nộp được tiền đặc cọc theo đúng

thời hạn để loại ra khỏi cuộc đấu giá như viện lý do kế toán, thủ quỹ không có ở

trụ sở không thu tiền được, cho só tài khoản sai để người mua hồ sơ không thể

chuyển tiền được.

Kết luận Chương 2

Các quy định của pháp luật hiện hành về bán đấu giá tài sản trong thi hành

án dân sự đã tương đối đầy đủ, cụ thể như các vấn đề về chủ thể bán đấu giá;

nguyên tắc; đối tượng; trình tự thủ tục bán đấu giá; quản lý nhà nước về bán đấu giá

tài sản. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trong công tác đấu giá tài sản,

các quy định của pháp luật về đấu giá tài sản khi đưa vào thực tiễn áp dụng vẫn còn

nhiều hạn chế, bất cập cần phải được tổng kết, đánh giá để hoàn thiện. Cũng từ đó,

luận văn đã nghiên cứu việc thực hiện pháp luật về tổ chức bán đấu giá tài sản trong

thi hành án dân sự từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh, qua đó đánh giá về

những thành tựu dạt được đồng thời chỉ ra các mặt còn tồn tại hạn chế như: Chấp

hành viên còn nhiều vi phạm về các quy định của pháp luật trong quá xử lý tài sản

thi hành án; tài sản đã tổ chức bán đấu giá thành nhưng việc bàn giao tài sản bị kéo

dài hoặc không bàn giao được tài sản cho người mua trúng đấu giá; khách hàng cò

tâm lý e ngại khi mua tài sản bán đấu giá để thi hành án; việc dừng tổ chức bán đấu

giá do người phải thi hành án chuộc lại tài sản và các nguyên nhân khác do pháp

luật quy định; cơ chế kiểm sát hoạt động bán đấu giá tài sản để thi hành án còn chưa

rõ ràng, cụ thể. Đây được coi là những căn cứ từ thực tiễn bán đấu giá để góp phần

xác định các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản trong thi

hành án dân sự tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung.

Với việc nghiên cứu, phận tích thực trang thực hiện pháp luật về bán đấu giá

và quản lý bán đấu giá tại thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn đã đánh giá được thực

trang thực hiện pháp luật về bán đấu giá tài sản và quản lý bán đấu giá tại thành phố

49

Hồ Chí Minh. Đồng thời, nêu rõ những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của nhữmn

tồ tại hạn chế đó. Thông qua kết quả đạt được tại chương 2 sẽ làm cơ sở lý luận cho

việc đưa ra các phương hướng, giải pháp và những kiến nghị tại chương 3 của Luận

50

văn này.

Chương 3

QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢTHỰC HIỆN PHÁP LUẬT BÁN ĐẤU GIÁ TÀI

SẢN ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

3.1. Quan điểm, phương hướng hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật

bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự

3.1.1 Quan điểm, phương hướng hoàn thiện pháp luật

Đấu giá tài sản được xem là giai đoạn cuối cùng và quan trọng trong quá

trình xử lý tài sản của người phải thi hành án để bảo đảm bản án, quyết định của

Toà án đã có hiệu lực pháp luật được thực thi. Trên thực tiễn có nhiều vụ việc cơ

quan thi hành án dân sự đã kê biên, thẩm định giá và tổ chức bán đấu giá tài sản

thành công nhưng kết quả giao tài sản đã bán đấu giá cho người mua trúng đấu giá

chưa được cao, từ đó dẫn đến số tiền thi hành án thu được từ việc đấu giá tài sản

vẫn còn thấp, kết quả thi hành án dạt hiệu quả chưa cao. Để nâng cao chất lượng

hoạt động đấu giá, Quốc hội đã ban hành Luật Đấu giá tài sản năm 2016 có hiệu

lực từ ngày 01/7/2017.

Sau hơn 02 năm triển khai thi hành, Luật Đấu giá tài sản đã khẳng định được

đây là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật về đấu giá tài sản,

tăng cường chủ trương xã hội hóa hoạt động đấu giá tài sản, là cơ sở pháp lý cho

việc phát triển dịch vụ đấu giá tài sản như một dịch vụ chuyên nghiệp hướng tới

nền kinh tế thị trường, tạo cơ chế đấu giá tài sản tự nguyện phù hợp với nhu cầu

của các cá nhân, tổ chức trong xã hội, tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của nguời có tài sản đấu giá và người mua được tài sản đấu giá, góp phần

nâng cao hiệu quả hoạt động bán đấu giá tài sản, hoạt động thi hành án.

Tuy nhiên, trên thực tế pháp luật về bán đấu giá trong thi hành án dân sự khi

áp dụng vào thực tiễn vẫn còn có nhiều bất cập, vướng mắc cần phải khắc phục để

pháp luật về đấu giá tài sản ngày càng hoàn thiện hơn, đáp ứng được những yêu cầu

51

đòi hỏi trong thời kỳ hội, cụ thể ở một nội dung sau:

Thứ nhất, pháp luật phải tiếp tục thể chế hóa chủ trương của Đảng về cải

cách tư pháp. Theo về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Nghị quyết số

49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị thì hoạt động đấu giá phải được đảm

bảo được tính đồng bộ với các ngành luật liên quan và phải phù hợp với nền kinh tế

thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật. Đó là việc

nhanh chóng ban hành các văn bản pháp luật để hướng dẫn Luật đấu giá tài sản như

nghị định, thông tư và các văn này phải phù hợp, không có sự mâu thuẫn hoặc

chồng chéo đối với Luật đấu giá tài sản và Luật thi hành án dân sự.

Thứ ba, bảo đảm phù hợp với thực tiễn về việc bán đấu giá quyền sử dụng

đất và tài sản gắn liền với đất để thi hành án dân sự, phải khắc phục triệt để những

khó khăn, vướng mắc phát sinh từ thực tiễn thi hành án.

Thứ tư, bảo đảm tính phù hợp, tương thích với thông lệ quốc tế trong quá

trình thực hiện việc bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự.

Thứ năm, đấu giá tài sản để thi hành án dân sự phải đáp ứng yêu cầu về xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền đặt ra là phải phân định rõ chức

năng, nhiệm vụ của từng cơ quan nhà nước để thực hiện tốt quyền lập pháp, quyền

hành pháp và quyền tư pháp, trong đó có việc quy định cưỡng chế thi hành án và

đấu giá tài sản để thi hành án phải trên cơ sở pháp luật và phù hợp với thực tế công

tác thi hành án dân sự.

Mục đích chính của hoạt động thi hành án dân sự là nhằm bảo đảm các bản

án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành trên thực tế,

bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan,

tổ chức tham gia vào quá trình thi hành án. Việc chậm thi hành án hoặc thi hành

không đúng quy định pháp luật dẫn đến việc thi hành bản án, quyết định được

không đúng nội dung, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cơ

quan, tổ chức, cá nhân. Đấu giá tài sản để thi hành án dân sự là một khâu, một giai

52

đoạn của quá trình tổ chức thi hành án, bởi vậy việc nâng cao hiệu quả đấu giá tài

sản để thi hành án nhằm từng bước khắc phục, hạn chế tình trạng xâm phạm đến lợi

ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Vì vậy,

các quy định của pháp luật về đấu giá tài sản để thi hành án đòi hỏi phải thật cụ thể,

đảm bảo được thực thi trên thực tiễn và phải được nghiêm chỉnh thi hành theo đúng

tinh thần của Nhà nước pháp quyền là pháp luật phải là tối thượng.

Thứ sáu, đấu giá tài sản để thi hành án dân sự phải bảo đảm quyền con

người, quyền công dân

Trong quá trình thi hành án dân sự, nhất là khi phải kê biên, đấu giá tài sản

của người phải thi hành án thì việc kê biên, định giá tài sản để đưa ra bán đấu giá

phải đảm bảo đúng quy định pháp luật. Việc đảm bảo kê biên, định giá, bán đấu giá

đúng quy định pháp luật sẽ đảm bảo quyền con người, quyền của công dân mà trực

tiếp là các quyền về sở hữu, quyền sử dụng, quyền chuộc lại tài sản của người phải

thi hành án; quyền thỏa thuận giữa người được thi hành án và người phải thi hành

án; quyền yêu cầu Tòa án xem xét hủy kết quả đấu giá của các bên; quyền khiếu

nại, tố cáo của cá nhân, tổ chức nếu có căn cứ cho rằng việc đấu giá có vi phạm

pháp luật, có sự thông đồng, dìm giá giữa đấu giá viên và những người tham gia đấu

giá; người mua tài sản đấu giá ngay tình được pháp luật bảo vệ. Như vậy, để đảm

bảo hiệu quả của việc đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự thì phải bảo đảm tốt

các quyền con người, quyền của công dân, nhất là đối với những người trực tiếp

liên quan đến quá trình thi hành án, quá trình bán đấu giá tài sản để thi hành án, qua

đó góp phần hạn chế các khiếu nại, tố cáo phát sinh trong quá trình thi hành án .

3.1.2. Quan điểm, phương hướng thực hiện pháp luật

Thứ nhất, phải tăng cường hơn nữa quan hệ, phối hợp giữa các cơ quan có

Trong quá trình giải quyết việc thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự phải

tiến hành nhiều thủ tục như: Tống đạt, xác minh, áp dụng các biện pháp đảm bảo, biện

pháp cưỡng chế thi hành án, kê biên, định giá, bán đấu giá tài sản v.v...và bán đấu giá

tài sản trong thi hành án dân sự là hoạt động liên quan trực tiếp đến quyền về tài sản

của các bên đương sự. Vì vậy, cơ quan thi hành án dân sự không thể “đơn thân độc mã”

53

liên quan đến hoạt động bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.

thực hiện được tất cả những công việc trên mà đòi hỏi cần phải có sự phối hợp của các

cơ quan, tổ chức có liên quan. Việc phối hợp tốt với các cơ quan, tổ chức, ban ngành

có liên quan trong quá trình tổ chức thi hành án là một trong những yếu tố quan

trọng quyết định hiệu quả của công tác thi hành án dân sự. Nơi nào có được sự quan

tâm của cấp uỷ, Ủy ban nhân dân thì nơi đó việc thi hành án dân sự được thuận lợi

đạt được thành tích tốt. Đặc biệt là, để đảm bảo sự phối hợp trong thi hành án dân

sự và đấu giá tài sản, cần phải phát huy vai trò của Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự

các cấp. Việc tăng cường vai trò của Ban chỉ đạo thi hành án dân sự các cấp sẽ đảm

bảo sự chỉ đạo phối hợp kịp thời, hiệu quả giữa các cơ quan, tổ chức liên quan nhằm

đẩy nhanh tiến độ giải quyết việc thi hành án cũng như đấu giá tài sản để thi hành

Thứ hai, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật. Trong khi hoạt động

án.

bán đấu giá tài sản để thi hành án chấp hành viên, tổ chức bán đấu giá tài sản, đấu

giá viên vẫn còn để xảy ra nhiều lỗi thiếu sót. Tuy nhiên, mức xử phạt vi phạm hành

chính đối với những vi phạm trong hoạt động đấu giá còn rất “khiêm tốn”, tính răn

đe chưa cao. Do vậy, pháp luật cần có quy định cụ thể về việc xử lý nghiêm đối với

chấp hành viên, đấu giá viên và tổ chức bán đấu giá tài sản có lỗi trong việc kê biên,

định giá, bán đấu giá tài sản để thi hành án. Nếu có xảy ra thiệt hại thì Chấp hành

viên, đấu giá viên và tổ chức đấu giá phải thực hiện việc bồi thường theo quy định

của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước theo quy định của Bộ luật Dân sự,

Thứ ba, về mặt thủ tục, yêu cầu phải thực hiện việc niêm yết công khai thủ

Bộ luật Tố tụng dân sự.

tục thi hành án, thông báo bán đấu giá tài sản tại các cơ quan thi hánh án cho người

dân dễ tìm hiểu, nắm bắt thông tin để họ có thái độ hợp tác với cơ quan thi hành án

trong quá trình thi hành, cũng như trong đấu giá tài sản .

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự

Hoàn thiện quy định pháp luật về bán đấu giá tài sản là giải pháp đóng vai

trò quan trọng trong việc thi hành pháp luật về bán đấu giá tài sản của cả nước nói

54

chung và ở Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Lý do: nếu pháp luật về bán đấu giá

tài sản không được hoàn thiện, các quy định về điều kiện, cách thức, trình tự, thủ

tục không đầy đủ thì sẽ khó khăn cho các chủ thể trong quá trình bán đấu giá tài sản

trên thực tế. Điều này dẫn đến sự tuỳ tiện trong quá trình bán đấu giá tài sản, từ đó

làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước và các chủ thể tham gia quan hệ bán đấu giá

tài sản. Để việc bán đấu giá tài sản thi hành án có hiệu quả cao thì điều kiện tiên

quyết, quan trọng là phải dựa trên một hệ thống pháp luật có chất lượng cao, những

bất cập, hạn chế, khiếm khuyết của pháp luật phải bị loại bỏ. Vì vậy, việc rà soát,

tập hợp, hệ thống hoá các văn bản pháp luật đóng vai trò rất quan trọng. Có thể nói

đây là bước đầu tiên trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật nói

chung, pháp luật về bán đấu giá tài sản thi hành án nói riêng.

Với mục đích đóng góp thêm kênh thông tin cho việc góp ý hoàn thiện Luật

Đấu giá tài sản, theo tác giả luận văn cần tập trung vào một số giải pháp sau:

Một là, quy định về một khoản tiền phạt đối với việc vi phạm thời hạn thanh

toán tiền đối với người mua được tài sản.

Để tránh những vi phạm trong việc nộp tiền trúng đấu giá sau khi đấu giá

thành đối với người mua trúng đấu giá tài sản thì ngoài việc quy định khoản tiền đặt

trước thuộc về người có tài sản đấu giá thì nên có quy định về một khoản tiền phạt

đối với hành vi vi phạm về thời hạn nộp tiền mua tài sản trúng đấu giá đối với

người mua trúng đấu giá. Quy định này sẽ làm cho người mua trúng đấu giá có sự

cân nhắc kỹ lưỡng trước khi tham gia đấu giá tài sản. Theo quy thì thời hạn người

mua tài sản nộp tiền là không quá 30 ngày kể từ ngày đấu giá thành. Mặc dù pháp

luật đã quy định rõ như vậy nhưng lại không quy định số tiền phải nộp là bao nhiêu,

nộp một phần tiền hay nộp tất cả số tiền còn lại. Do vậy, nên cần sửa lại là nộp tiền

toàn bộ số tiền còn lại ( sau khi trừ tiền đặc trước) theo hợp đồng mua bán tài sản

trong thời hạn không quá 30 ngày kể từ ngày đấu giá thành cho rõ ràng cụ thể, chi

tiết hơn.

Hai là, sửa đổi quy định niêm yết, thông báo công khai bán đấu giá tài sản

Theo quy định của Luật đấu giá tài sản “ Đối với tài sản là bất động sản thì tổ

55

chức đấu giá tài sản phải niêm yết việc đấu giá tài sản tại trụ sở của tổ chức mình,

nơi tổ chức cuộc đấu giá và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có bất động sản đấu giá ít

nhất là 15 ngày trước ngày mở cuộc đấu giá ”.

Quy định này là chưa phù hợp với thực tiễn và chưa đảm bảo tính khả thi.

Trên thực tế, đối với việc niêm yết các loại tài sản bán đấu giá là bất động sản như

quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất thì tổ chức đấu giá tài sản khó có thể

niêm yết tại nơi có bất động sản bán đấu giá. Cụ thể, đối với việc niêm yết thông

báo bán đấu giá quyền sử dụng đất là các lô đất trống thì tổ chức đấu giá không biết

phải niêm yết thông báo bán đấu giá ở đâu và niêm yết như thế nào; đối với tài sản

thi hành án là nhà, đất mà người phải thi hành án đang quản lý, sử dụng thì người

phải thi hành án thường không có thiện chí hợp tác mà thậm chí còn có các hành vi

cản trở, chống đối trong khi theo quy định pháp luật thì tổ chức đấu giá tài sản

không có phương tiện hỗ trợ cho việc niêm yết tại nơi có bất động sản. Như vậy,

quy định thủ tục niêm yết này chỉ mang tính hình thức mà không có tính thực tiễn.

Mặt khác mục đích, bản chất của việc niêm yết tài sản đấu giá là nhằm công khai

thong tin bán đấu giá để nhiều người được biết về tài sản đang rao bán đấu giá. Trên

thực tế đa số người dân biết được các thông tin đấu giá tài sản thông qua các

phương tiện thông tin đại chúng, vì vậy nên bỏ quy định việc niêm yết tại nơi có bất

động sản cho phù hợp với thực tế.

Ba là, các giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự và

pháp luật về đấu giá tài sản

Việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về THADS và pháp luật về đấu giá tài sản

Thứ nhất, để khắc phục việc chậm giao tài sản đấu giá thành cho người mua

cần tập trung vào những nội dung cơ bản sau:

được tài sản do khi kê biên tài sản được giao cho người phải thi hành án hoặc người

thân thích của người phải thi hành án quản lý, sử dụng, trong thời gian tới cần quy

định tài sản đưa ra đấu giá phải là tài sản đang do cơ quan THADS hoặc cơ quan có

chức năng bảo quản tài sản quản lý. Việc quy định như vậy sẽ khắc phục được tình

trạng người muốn tham gia đấu giá nhưng do tâm lý sợ rủi ro khi không nhận được

56

tài sản sau khi đấu giá thành nên không đăng ký tham gia đấu giá, đồng thời tránh

thiệt được hại cho người có tài sản bán đấu giá do có ít người đăng ký tham gia đấu

Thứ hai, để khắc phục tình trạng thông đồng, dìm giá qua các lần giảm giá

giá thì sẽ dẫn đến tình trạng bị ép giá, phải giảm giá nhiều lần.

tài sản để đấu giá, cần có quy định về việc Chấp hành viên chỉ được ký hợp đồng

dịch vụ đấu giá tài sản với một tổ chức đấu giá tài sản không quá 3 lần để đấu giá

tài sản kê biên (tức là sau 2 lần giảm giá). Bởi vì, trên địa bàn tỉnh, thành phố trực

thuộc trung ương, đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều tổ chức đấu giá

được thành lập và việc quy định như vậy sẽ đòi hỏi tổ chức đấu giá tài sản phải

công khai, minh bạch hơn trong đấu giá tài sản, tích cực hơn trong việc tổ chức đấu

giá để mong sớm bán được tài sản cho người thực sự có nhu cầu mua tài sản để thu

được phí đấu giá, tránh kéo dài việc thi hành án và thiệt hại cho người phải thi hành

án khi tài sản đấu giá phải giảm giá nhiều lần mới có người mua.

3.3. Giải pháp thực hiện pháp luật bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự

3.3.1. Giải pháp chung

Qua thực tiễn thực hiện pháp luật bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự

cho thấy hiệu quả của hoạt động thực hiện pháp luật bán đấu giá tài sản hiện nay

phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố, trong đó chủ yếu là trình độ kiến thức, hiểu biết

pháp luật của các chủ thể pháp luật; công tác phổ biến,giáo dục, tuyên truyền pháp

luật bán đấu giá tài sản; vai trò, trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong hoạt

động thực hiện pháp luật bán đấu giá tài sản. Vì vậy để nâng cao hiệu quả thực hiện

pháp luật về bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự, cần thực hiện một số giải

pháp cụ thể sau:

Thứ nhất, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về

một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã đặt ra: "Tiếp tục

tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác thi hành án dân sự, nâng cao hiệu quả

công tác thi hành án, giải quyết căn bản tình trạng án tồn đọng". Thể chế hóa

đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đã liên tục hoàn thiện pháp

luật về thi hành án dân sự nói chung và các quy định của pháp luật về bán đấu giá

57

tài sản thi hành án dân sự nói riêng. Đồng thời, Nghị quyết 49-NQ/TW có nêu:

“Cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, bảo đảm sự ổn

định chính trị, bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân

dân, do nhân dân, vì nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công,

phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành

pháp, tư pháp” [2, tr.23]. Chính vì vậy cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và

Nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự, cần tập

trung đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng đối với Nhà nước, cụ thể hóa thành

Hiến pháp, pháp luật.

Thứ hai, tăng cường việc tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật

về bán đấu giá tài sản và thi hành án dân sự

Cần đa dạng hóa về hình thức và phong phú về nội dung trong công tác tuyên

truyền, giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật về bán đấu giá tài sản, pháp luật

về THA dãn sự nói riêng. Thông qua các hoạt động tổ chức THA, tổ chức các cuộc

thi, các bài nghiên cứụ, trao đổi, các cơ quan tư pháp cung cấp tài liệu để nâng cao

nhận thức pháp luật cho nhân dân, giúp họ nắm được và chấp hành nghiêm chỉnh

các quy định pháp luật nói chung và pháp luật đấu giá tài sản nói riêng, để người

dần hiểu và yên tâm khi mua tài sản thông qua đấu giá, đồng thời giúp giám sát

hoạt động bán đấu giá tài sản.

Thứ ba, phải kiện toàn tổ chức bán đấu giá tài sản thi hành án và đội ngũ

đấu giá viên thực hiện tốt nhiệm vụ bán đấu giá bảo đảm hoạt động bán đấu giá tài

sản được xã hội hóa một cách sâu sắc.

Thứ tư, nhận thức đúng về vị trí vai trò, tầm quan trọng của công tác bán

đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.

Lãnh đạo các cơ quan, đơn vị liên quan cần nhận thức đúng về vị trí vai trò,

tầm quan trọng của công tác bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự là một

trong những khâu công tác quan trọng. Thường xuyên thông báo rút kinh nghiệm

các dạng vi phạm của các cơ quan liên quan công tác bán đấu giá tài sản trong thi

hành án dân sự; học tập các phương pháp, cách làm hay của các địa phương, đơn vị

58

để cùng rút kinh nghiệm. Phải có chế tài xử lý nghiêm đối với chấp hành viên, đấu

giá viên làm công tác bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự khi cố tình sai

phạm dẫn đến để xảy ra các vụ việc gây hậu quả nghiêm trọng.Tăng cường tập huấn

nghiệp vụ chuyên sâu cho các cán bộ trong các cơ quan làm công tác liên quan bán

đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.

Thứ năm, phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan thi hành án dân sự và tổ chức bán

đấu giá.

Các cơ quan thi hành án dân sự và các tổ chức bán đấu giá tài sản cần phải có

quy chế phối hợp chặt chẽ với nhau hơn nữa tạo thành một mối thống nhất để cùng

nhau chia sẻ những khó khăn, vướng mắc từ đó có hướng giải quyết hợp tình, hợp

lý, đảm bảo được quyền và lợi ích của các bên nhằm ngày càng mang lại hiệu quả

cao hơn trong công tác bán đấu giá tài sản để thi hành án.

Thứ sáu, tăng cường hơn nữa công tác giám sát đối với những hồ sơ liên

quan đến đấu giá tài sản ngay từ những giai đoạn ban đầu của quá trình kê biên,

định giá, đấu giá tài sản nhằm hạn chế những thiếu sót trong quá trình tổ chức đấu

giá tài sản.

.Thứ bảy, cần có sự kiểm tra giám sát chặt chẽ đối với người đăng ký tham

gia đấu giá tài sản.

Chấp hành viên phải yêu cầu tổ chức đấu giá tài sản thực hiện nghiêm túc

việc kiểm tra điều kiện đăng ký tham gia đấu giá của những khách hàng, nếu phát

hiện những trường hợp không được đăng ký tham gia đấu giá tài sản theo quy định

của pháp luật về đấu giá thì phải loại ngay hồ sơ.

Thứ tám, nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ chấp hành viên, đấu giá

viên và công chức, nhân viên của các cơ quan thi hành án dân sự và tổ chức đấu

giá tài sản.

Thực tế công tác THADS cho thấy rằng trong điều kiện phát triển và hội

nhập kinh tế hiện nay bên cạnh những kết quả đạt được thì cũng làm phát sinh

nhiều vi phạm pháp luật, tranh chấp phải được giải quyết bởi các cơ quan có thẩm

quyền. Vì vậy, hiệu quả công tác THADS nói chung, đấu giá tài sản để thi hành án

59

nói riêng phụ thuộc nhiều vào trình độ, năng lực của Chấp hành viên, đấu giá viên

trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ về thi hành án và đấu giá tài sản. Do đó, để đảm

bảo hiệu quả THADS nói chung, đấu giá tài sản để thi hành án nói riêng đòi hỏi

phải không ngừng nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ công chức, chấp hành

viên, đấu giá viên trong các cơ quan THADS và các tổ chức đấu giá tài sản để trang

bị kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm cho công chức, chấp hành viên và đấu giá viên

phù hợp với yêu cầu của công tác THADS và đấu giá tài sản trong tình hình mới .

3.3.2 Giải pháp đối với Thành phố Hồ Chí Minh

Thứ nhất, nâng cao trách nhiệm, năng lực của chấp hành viên trong quá trình

tổ chức thi hành án

Để việc bán đấu giá tài sản THA được hiệu quả, cần thiết nâng cao ý thức

trách nhiệm của chấp hành viên. Quá trình tổ chức THA cần tuân thủ đầy đủ các

quy định pháp luật, hạn chế tối đa việc khiếu nại về trình tự, thủ tục THA dân sự.

Do đó, đòi hỏi chấp hành viên cần thường xuyên cập nhật các văn bản quy phạm

pháp luật liên quan đến quá trình tổ chức THA nói chung và bán đấu giá tài sản

THA, bán đấu giá nói riêng. Quá trình tổ chức THA cần bám sát quy định của pháp

luật để thực hiện đúng pháp luật. Mặt khác, cần luôn lưu ý một số vấn đề trong quá

trình xử lý một số tài sản, ví dụ như đổi với các tài sản bất động sản gắn liền với

quyền sử dụng đất thuê trả tiền hàng năm hoặc các tài sản khi chuyển dịch phải nộp

thuế... thì cơ quan THA dân sự phải làm việc với các cơ quan hữu quan và phải

thông báo công khai các nội dung đó để người có nhu cầu đăng ký mua tài sản đấu

giá biết.

Khi phát sinh khiếu nại, tố cáo cần kịp thời giải quyết dứt điểm khiếu nại, tô'

cáo, tránh trình trạng tài sản được bán đấu giá thành mối phát sinh các khiếu nại về

thủ tục THA trưổc đó làm ảnh hưỏng nghiêm trọng đến hoạt động bán đấu giá tài

sản. Kiên quyết xử lý nghiêm các CHV có hành vi vi phạm trong tổ chức thi hành

án nói chung và hoạt động bán đấugiá nói riêng.

Thứ hai, để hạn chế việc vi phạm về chủ thể đấu giá tài sản trong Luật đấu giá

tài sản đã có quy định rõ ràng cụ thể về điều kiện để tham gia đấu giá tài sản, về

60

việc nộp tiền đặt trước khi tham gia đấu giá tài sản. Tuy nhiên trong quá trình tổ

chức bán đấu giá vẫn còn hiện tượng “quân xanh, quân đỏ”. Điều này sẽ làm ảnh

hưởng đến tính khách quan, trung thực, công khai của việc tổ chức bán đấu giá tài

sản. Nên trong thời đại kỹ thuật số, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông

tin ngày nay chúng ta cần áp dụng hình thức đấu giá trực tuyến nhiều hơn và có

những giải pháp kỹ thuật để cho việc tổ chức đấu giá trực tuyến ngày càng trở nên

phổ biến hơn.

Bên cạnh đó Tổng Cục thi hành án dân sự đã ban hành quy trình tổ chức thi

hành án trong đó quy định rõ: Chấp hành viên trước khi ký hợp đồng thẩm định

giá, bán đấu giá phải có tờ trình Thủ trưởng để báo cáo rõ lý do và cơ sở của việc

lựa chọn tổ chức thẩm định, Tổ chức đấu giá. Bên cạnh đó Cục THADS TP.HCM

cũng đã có quy trình lựa chọn tổ chức thẩm định giá, tổ chức đấu giá, quy trình tổ

chức thẩm định giá, quy trình tổ chức đấu giá quy định chi tiết cách thức, tiêu chí

thực hiện việc lựa chọn nhằm hạn chế tình trạng tiêu cực trong công tác thẩm định

giá, bán đấu giá. Trong đó có những việc đáng chú ý như: chỉ cho phép đăng báo

bán đấu giá trên các báo có nhiều người đọc như Pháp luật TP.HCM, Tuổi trẻ, Sài

Gòn Giải phóng, Thanh Niên...Chấp hành viên có nghĩa vụ giám sát việc đăng

báo, niêm yết và lưu ngay các giấy tờ chứng minh việc đăng báo, niêm yết. Chấp

hành viên phải thực hiện việc đăng thông báo bán đấu giá tài sản lên trang web

thông tin điện tử của Cục Thi hành án ( mục thông báo bán tài sản) và hiện nay Bộ

tư pháp cũng đã có trang web bán đấu giá riêng để các tổ chức phải đăng công

khai việc bán đấu giá tài sản trên trang web này.

Trường hợp các Tổ chức đấu giá cố tình đóng cửa không bán hồ sơ hoặc tìm

cách gây khó khăn trong việc tham gia đấu giá tài sản thi hành án thì người muốn

tham gia đấu giá có thể phản ảnh trực tiếp lên Thanh tra Sở tư pháp, mời thừa phát

lại lập vi bằng làm cơ sở để phản ảnh lên Sở tư pháp và Cơ quan thi hành án, điện

thoại trực tiếp cho Chấp hành viên thụ lý và Thủ trưởng Cơ quan thi hành án hoặc

phảnh ánh trực tiếp ra Tổng cục thi hành án.

Thứ ba, cần có biện pháp mạnh mẽ, chặt chẽ hơn trong việc niêm yết, thông

61

báo công khai về việc bán đấu giá tài sản.

Các Chấp hành viên phải làm hết trách nhiệm của mình đối với tài sản mình

đã kê biên, định giá và đưa ra bán đấu giá để thi hành án. Trong quá trình tổ chức

đấu giá tài sản phải thực hiện tốt việc niêm yết, thông báo công khai và phải theo

dõi, kiểm tra xem việc tổ chức đấu giá có thực hiện đúng quy định pháp luật về đấu

giá tài sản không. Nếu phát hiện có sai phạm về việc công khai bán đấu giá tài sản

thì Chấp hành viên có quyền đề nghị dừng việc đấu giá tài sản ngay hoặc đề nghị

cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật. Việc hạn chế những

vi phạm trong quá trình niêm yết, thông báo công khai là rất quan trọng trong quá

trình đấu giá tài sản. Vì trong một số trường hợp khi đã đấu giá thành, các bên đã

thực hiện xong nghĩa vụ đối với việc mua tài sản đấu giá, tuy nhiên do trong quá

trình thanh kiểm tra các hồ sơ phát hiện ra việc vi phạm về niêm yết, thông báo

công khai nên kết quả đấu giá tài sản sẽ bị hủy và việc hủy kết quả đấu giá tài sản

sẽ kéo theo rất nhiều vấn đề gây ảnh hưởng tới quyền lợi ích pháp của các bên, gây

ảnh hưởng đến hoạt động đấu giá, công tác thi hành án dân sự, gây bức xúc trong

dư luận, xã hội.

Thứ tư, để khắc phục tình trạng vi phạm về thời hạn giao tài sản đấu giá cho

người mua trúng đấu giá, đòi hỏi Chấp hành viên phải có sự cương quyết, sự phối

kết hợp tốt cùng với chính quyền địa phương, các cơ quan ban ngành và đặc biệt

phải thường xuyên báo cáo Ban chỉ đạo thi hành án ở địa phương đối với những vụ

việc khó khăn phức tạp để từ đó có những biện pháp tháo gỡ nhằm bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của người mua tài sản.

Kết luận Chương 3

Sau hơn 2 năm thi hành Luật đấu giá tài sản, các tổ chức bán đấu giá tài sản

và đội ngũ đấu giá viên đã có sự phát triển về số lượng, chất lượng, quy mô, tính

chuyên nghiệp, cơ bản đáp ứng nhu cầu bán đấu giá của các địa phương. Kết quả

hoạt động bán đấu giá trong thời gian vừa qua đã từng bước khẳng định hiệu quả

của xã hội hóa, chuyên nghiệp hóa hoạt động bán đấu giá tài sản, đóng góp tích cực

62

cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, công tác bán đấu giá tài sản trong THADS thời gian

qua cũng bộc lộ khác nhiều bất cập. Pháp luật THADS quy định việc bán đấu giá

quyền sở hữu trí tuệ nhưng thủ tục cụ thể chưa có quy định. Vấn đề thông báo bán

đấu giá tài sản thi hành án chưa quy định hợp lý, rõ ràng. Vấn đề xử lý tài sản bán

đấu giá không thành quy định chưa thống nhất giữa Luật THADS và Luật đấu gía

tài sản. Quá trình phối hợp giữa các cơ quan liên quan nhằm đảm bảo quyền lợi hợp

pháp của người trúng đấu giá là tài sản THADS cũng còn nhiều điểm bất hợp lý.

Chấp hành viên là người có thẩm quyền bán đấu giá tài sản thi hành án nhưng chưa

được đào tạo chuyên nghiệp về bán đấu giá nên dễ dẫn đến sai sót khi thực hiện

nghiệp vụ bán đấu giá. Còn tồn tại nhiều sai phạm trong thực hiện nghiệp vụ cưỡng

chế kê biên của Chấp hành viên và bán đấu giá của Chấp hành viên. Nguyên nhân

của những hạn chế, bất cập trên xuất phát từ việc thể chế pháp lý về bán đấu giá tài

sản THADS chưa hoàn thiện; chất lượng đội ngũ đấu giá viên còn hạn chế; công

tác bồi dưỡng nghiệp vụ cho các đấu giá viên chưa được thực hiện thường xuyên và

đặc biệt vấn đề đạo đức của Chấp hành viên, đấu giá viên còn bị bỏ ngỏ. Việc phải

tổng kết, đánh giá hiệu quả của Luật đấu giá tài sản là cần thiết, trên cơ sở đánh giá

sẽ kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện thực tế hiện hành, d9a3m

63

bảo đưa Luật đấu giá đi vào thực tiễn của xã hội.

KẾT LUẬN

Bán đấu giá tài sản là một trong những hình thức mua bán đặc biệt, đã có từ

lâu trên thế giới. Ở Việt Nam, bán đấu giá tài sản mới chỉ được pháp luật quy định

từ 30 năm nay. Từ những quy định ban đầu trong Pháp lệnh THADS năm 1989,

Nghị định 17/2010/Đ-CP đến nay với những quy định trong BLDS năm 2015, Luật

THADS 2008 ( bổ sung, sửa đổi năm 2014), Luật đấu giá tài sản 2016 và các văn

bản pháp luật hướng dẫn thi hành đã tạo nên một chế định về bán đấu giá tài sản thi

hành án tương đối hoàn chỉnh và trở thành cơ sở pháp lý cho các hoạt động đấu giá

tài sản THADS trong nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước

ta. Pháp luật về bán đấu giá tài sản thi hành án đã góp phần tạo lập môi trường công

khai, minh bạch, cạnh tranh bình đẳng, chống gian lận và góp phần bảo vệ lợi ích

hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong quan hệ mua bán tài sản đấu giá. Tuy nhiên,

trong thời gian qua, bán đấu giá tài sản trong THADS cũng còn bộc lộ những hạn

chế nhất định mà nguyên nhân là do hệ thống pháp luật còn chưa thực sự đồng bộ,

thống nhất cùng với việc thực hiện của những người tham gia vào quá trình này còn

nhiều khiếm khuyết khiến cho hoạt động này chưa phát triển và mang lại hiệu quả

như mong muốn.

Để nâng cao hiệu quả bán đấu giá tài sản trong THADS, qua nghiên cứu

cho thấy một mặt cần phải hoàn thiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực này,

mặt khác phải tăng cường các biện pháp tổ chức thực hiện pháp luật về lĩnh vực

này. Về hoàn thiện pháp luật, cần bổ sung các quy định về bán đấu giá quyền sở

hữu trí tuệ cũng như bán đấu giá một số loại tài sản có tính chất đặc thù như loại tài

sản hình thành trong tương lai; các tài sản là di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; các

quyền tài sản; hoa lợi, lợi tức gắn liền với tài sản hoặc các vật đồng bộ, vật chính,

vật phụ. ; sửa đổi các quy định về phương thức đấu giá (theo hướng bổ sung một số

phương thức đấu giá mới như thông lệ quốc tế); sửa đổi quy định nơi niêm yết bất

động sản bán đấu giá; hướng dẫn bán đấu giá tài sản thi hành án không thành và xử

lý bán đấu giá tài sản thi hành án không thành; hoàn thiện thủ tục chuyển quyền sở

64

hữu tài sản mua được thông qua đấu giá trong phần trình tự thủ tục bán đấu giá tài

sản thi hành án; hoàn thiện quy định pháp luật về việc phối hợp giữa các cơ quan

liên quan trong quá trình bán đấu giá tài sản trong THADS cũng như chuyển quyền

sở hữu tài sản bán đấu giá. về thực hiện pháp luật, cần tăng cường năng lực của đội

ngũ bán đấu giá tài sản thi hành án cả về chất lượng và số lượng thông qua đào tạo,

bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng đấu giá; xây dựng quy tắc nghề nghiệp đấu giá; tăng

cường phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật để đảm bảo những người

thực hiện hoạt động này thật sự công tâm, khách quan khi thực hiện nhiệm vụ; nâng

cao trách nhiệm của các chủ thể tham gia trong quan hệ bán đấu giá tài sản trong

THADS và tăng cường tuyên truyền, phố biến pháp luật để người dân hiểu rõ hơn

về hoạt động bán đấu giá tài sản trong THADS, đặc biệt thông qua các phương tiện

thông tin đại chúng, điện tử công nghệ để người dân tiếp cận công khai, rộng rãi với

65

tài sản bán đấu giá trong THADS.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 48-NQ/TW về chiến lược xây dựng và

hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm

2020, ban hành ngày 24/5/2005, Hà Nội.

2. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp

đến năm 2020, ban hành ngày 02/6/2005, Hà Nội.

3. Bộ Tư pháp (2014) Báo cáo số 180/BC-BTP sơ kết 4 năm thi hành Nghị định

số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản,

ban hành ngày 18/7/2014, Hà Nội.

4. Bộ Tư pháp (2009) Pháp luật về bán đấu giá tài sản, tài liệu Hội thảo –

thành phố Hồ Chí Minh, ban hành ngày 12/6/2009, Hồ Chí Minh.

5. Chính phủ (2015) Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng

dẫn thi hành một số điều của Luật THADS,ban hành ngày 18/7/2015, Hà

Nội.

6. Chính phủ (2017) Báo cáo công tác thi hành án năm 2017, ban hành ngày

30/9/2017, Hà Nội.

7. Lê Hùng Cường (2017) “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi

hành án dân sự hiện nay”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (số chuyên đề), tr.

51-57.

8. David W. Pearce (1999) Từ điển kinh tế học hiện đại, NXB Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Nguyễn Xuân Đồng (2011) “ Những vướng mắc trong công tác bán đấu giá

quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất”,

Tap chí Dân chủ và pháp luật, số 10, tr.7-12.

11. Nguyễn Hồng Hải (2012) Một số ý kiến về đấu giá tài sản theo quy định của

pháp luật Việt Nam hiện hành và một số đề xuất, Tài liệu hội nghị Vụ Bổ trợ

tư pháp - Bộ Tư pháp, Hà Nội.

12. Nguyễn Quang Hòa (2012) “Bán đấu giá tài sản - Một số nét về thực

trạng”,Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 12, tr. 20-25.

13. Bùi Thị Thu Hiền (2015) “Nâng cao hiệu quả bán đấu giá tài sản trong

THADS”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 7, tr.48- 52.

14. Phạm Thị Liên Hương (2015) “Hoạt động bán đấu giá tài sản những bất cập

và giải pháp”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 10, tr. 26 - 27.

15. Hội đồng quốc gia (1995) Đại Từ điển bách khoa Việt Nam, NXB Trung

tâm biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam, Hà Nội.

16. Khoa Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(2004) Tài liệu học tập và nghiên cứu môn học lý luận chung về nhà nước và

pháp luật, tập 1, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

17. Đặng Thị Bích Liễu (2010) “Vấn đề: người có tài sản bán đấu giá và người

bán đấu giá tài sản trong pháp luật về đấu giá ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà

nước và pháp luật, số 2, tr.5-8.

18. Đặng Trần Hoàng Linh (2012) “Nhận diện những bất cập từ thực tiễn hoạt

động bán đấu giá tài sản”,Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 12, tr. 18-25.

19. Nguyễn Thị Mai (2009) “Những bất cập trong hoạt động đấu giá tài sản”,

Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 11, tr. 11-17.

20. Thanh Minh, Mai Hoa và Huyền Trang (2012), Kinh nghiệm bán đấu giá tài

sản theo pháp luật một số quốc gia trên thế giới, Dân chủ và pháp luật, (12).

21. Nguyễn Thị Minh (2012) “Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật

bán đấu giá ở Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 12, tr. 5-8.

22. Nhà Pháp luật Việt – Pháp (1998) Bộ luật dân sự của nước cộng hòa Pháp,

ban hành ngày 14/11/1998, Hà Nội.

23. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005) Bộ luật dân sự,

ban hành ngày 14/6/2005, Hà Nội.

24. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015) Bộ luật dân

sự,ban hành ngày 24/11/2015, Hà Nội.

25. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008) Luật thi hành

án dân sự, ban hành ngày 14/11/2008, Hà Nội.

26. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014) Luật Thi hành

án dân sự, ban hành ngày 25/11/2014, Hà Nội.

27. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2016) Luật Đấu giá

tài sản, ban hành ngày 17/11/2016, Hà Nội.

28. Nguyễn Hồng Sinh (2011) “Những khó khăn vướng mắc trong công tác

kiểm soát việc bán đấu giá tài sản thi hành án”, Tạp chí Kiểm sát, số 23, tr.5-

9.

29. Nguyễn Hồng Sinh (2012) “Những vướng mắc trong công tác kiểm sát hoạt

động bán đấu giá tài sản thi hành án”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 12,

tr.9-14.

30. Đặng Thị Tâm (2014) Bán đấu giá tài sản - Một số vấn đề lý luận và thực

tiễn, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

31. Võ Đình Toàn (2012) “Một số vấn đề lý luận về bán đấu giá và pháp luật

bán đấu giá”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề 2012, tr.25-30.

32. Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản (2000) Luật Nhật Bản, Nhà Xuất bản

Thanh niên, Hà Nội.

33. Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

(1989) Pháp lệnh thi hành án dân sự, ngày ban hành 28/9/1989, Hà Nội .

34. Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

(1993) Pháp lệnh thi hành án dân sự, ngày ban hành 17/4/1993, Hà Nội .

35. Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

(2004) Pháp lệnh thi hành án dân sự ngày ban hành 14/01/2004, Hà Nội .

36. Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp (2006) Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp,

Hà Nội.

37. Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp (2011) Hoàn thiện pháp luật về bán

đấu giá tài sản nhằm thúc đẩy thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

38. Vụ Bổ trợ tư pháp - Bộ Tư pháp (2004) Luật Bán đấu giá tài sản của Trung

Quốc, ngày ban hành 20/7/2004, Hà Nội .

39. Wikipedia (2019) “Auction”, Từ điển Bách khoa toàn thư mở,

< http://en.wikipedia.org/wiki/Auction>, (ngày 28/12/2019).