VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ NGỌC PHÚC
CƯỠNG CHẾ THI HÀNH BẢN ÁN VỀ THU HỒI NỢ
CHO NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ NGỌC PHÚC
CƯỠNG CHẾ THI HÀNH BẢN ÁN VỀ THU HỒI NỢ
CHO NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS: ĐINH DŨNG SỸ
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số
liệu, trích dẫn trong luận văn hoàn toàn trung thực. Những kết quả trong
luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Vũ Ngọc Phúc
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH BẢN ÁN VỀ THU HỒI NỢ CHO NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ .............................................. 9
1.1.Khái niệm và vai trò của cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự ............................. 9 1.2. Khái niệm, nội dung, vai trò và các yếu tố tác động đến việc thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự ............................................................. 15
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH BẢN ÁN VỀ THU HỒI NỢ CHO NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........................................................................... 29
2.1. Thực trạng pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự .......................... 29 2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội ................................................................................. 42 Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH BẢN ÁN VỀ THU HỒI NỢ CHO NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ .................................................................................................................... 60
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại ........................................................ 60 3.2. Giải pháp hoàn thiện và bảo đảm hiệu quả thi hành bản án về cưỡng chế thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự ......... 65 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 78
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Kết quả thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội ............ 44
từ năm 2014 đến năm 2018 về việc ................................................................ 44
Bảng 2.2: Kết quả thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội ............ 44
từ năm 2014 đến năm 2018 về tiền ................................................................. 44
Bảng 2.3: Kết quả việc áp dụng cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho
Ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2014 đến 2018
......................................................................................................................... 45
Bảng 2.4: Kết quả áp dụng đối với từng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân
sự nhằm thu hồi nợ trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2014 ................... 46
đến năm 2018 .................................................................................................. 46
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong đời sống xã hội, các hoạt động kinh doanh, thương mại nhằm đáp ứng
các nhu cầu vật chất và tinh thần chủ yếu được thực hiện thông qua các giao dịch
dân sự, kinh tế trên cơ sở giao kết và thực hiện hợp đồng. Khi thiết lập các giao
dịch, hợp đồng, vấn đề các bên quan tâm là thực hiện các cam kết, thỏa thuận, khả
năng thực hiện nghĩa vụ - điều kiện đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên,
nhất là đối với các quan hệ dân sự liên quan đến các Ngân hàng thương mại.
Hoạt động tín dụng, ngân hàng theo nghĩa chung nhất là quan hệ giao dịch
giữa bên cho vay và bên vay, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho các
bên vay một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một khoảng thời
gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi phát sinh.
Thực tiễn cho thấy, hiện nay, rất nhiều trường hợp bên vay không đủ khả năng
thanh toán lãi và gốc cho ngân hàng do nhiều nguyên nhân khác nhau như làm ăn
thua lỗ, phá sản....Chính những yếu tố này đã làm cho trong những năm gần đây,
các bản án xét xử và việc thi hành án dân sự liên quan đến các Ngân hàng thương
mại tăng vọt. Chỉ tính riêng tại thành phố Hà Nội, năm 2019, việc thi hành các bản
án để thu hồi nợ liên quan đến ngân hàng thương mại đã thụ lý khoảng 4 nghìn việc
tương đương với số tiền gần 30 nghìn tỷ đồng; đặc biệt với sự xuất hiện của các vụ
đại án có số tiền phải thi hành rất lớn, có tính chất đặc biệt phức tạp, nhiều vụ việc
không có điều kiện thi hành hoặc bán đấu giá tài sản không có người mua.....
Thực tế, không phải lúc nào người phải thi hành án có điều kiện thi hành đều
tự nguyện trả tiền cho ngân hàng thương mại. Dẫn đến, cơ quan Thi hành án dân sự
phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế để thu hồi nợ cho ngân hàng. Nhưng khi cơ
quan Thi hành án dân sự tổ chức cưỡng chế thi hành án các bản án để thu hồi nợ
cho các Ngân hàng thương mại thường rất khó khăn, quá trình thi hành án diễn ra
hết sức phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức; liên
quan đến nhiều cơ quan khác nhau. Các cơ quan thi hành án dân sự thường phải
1
chịu áp lực, tác động từ nhiều phía. Trong khi đó, để tổ chức thi hành án các bản án
để thu hồi nợ cho ngân hàng được nhanh chóng và đúng đắn, ngoài việc nắm vững
nội dung quyết định bản án, quyết định được đưa ra thi hành, nội dung yêu cầu thi
hành án của phía ngân hàng thương mại thì cơ quan thi hành án dân sự còn phải
nắm vững được tất cả những vấn đề khác có liên quan đến việc thi hành án như địa
chỉ, tài sản, thu nhập...của người phải thi hành án. Tuy nhiên, người phải thi hành án
thường giấu giếm các thông tin về địa chỉ, tài sản, thu nhập của họ...để trốn tránh
việc thi hành án.
Pháp luật Việt Nam hiện hành đã từng bước được hoàn thiện tạo ra hành lang
pháp lý cần thiết để hoạt động cưỡng chế thi hành bản án nói chung và cưỡng chế
thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại nói riêng diễn ra thuận
lợi, có hiệu quả. Tuy nhiên, Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014
và các thông tư, quy chế có liên quan vẫn còn những hạn chế nhất định dẫn đến
thực tiễn tổ chức cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương
mại còn nhiều bất cập, chưa thực sự phát huy hết hiệu quả. “Công lý bị trì hoãn
cũng có nghĩa là công lý bị từ chối” (Justice delayed is justice denied). Cải thiện
môi trường đầu tư kinh doanh đang đặt ra nhiều thách thức cũng như cơ hội, đòi
hỏi các cơ quan THADS phải có những nỗ lực, chuyển mình, từ tư duy, nhận thức
cho đến những hành động cụ thể là việc làm có tính cấp bách và có ý nghĩa chiến
lược, nhất là việc việc thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại lại càng cấp bách,
góp phần giải phóng nguồn lực kinh tế bị “đóng băng” trong các khoản nợ xấu,
thúc đẩy các giao dịch liên quan đến kinh tế phát triển, tạo công ăn việc làm cho
xã hội....
Bằng đề tài “Cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng
thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự từ thực tiễn từ thành phố Hà Nội”
luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về cưỡng chế thi hành án bản
án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự, đem
đến cho người đọc cái nhìn toàn cảnh về thực tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội,
2
chỉ rõ và phân tích nguyên nhân của những vướng mắc từ đó kiến nghị một số giải
pháp để nâng cao chất lượng công tác cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho
ngân hàng thương mại trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong khoảng thời gian năm năm trở lại đây chứng kiến sự gia tăng đáng kể
các đề tài nghiên cứu về THADS, có thể kể đến các đề tài:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước “Luận cứ khoa học của việc đổi
mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới” do Bộ Tư
pháp chủ trì.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi
hành án” do Tổng cục THADS – Bộ Tư pháp chủ trì.
- Các sách “Kỹ năng thi hành án dân sự” của Học viện Tư pháp; Giáo trình
“Luật Thi hành án dân sự Việt Nam” của Trường Đại học Luật Hà Nội; “Sổ tay
Chấp hành viên” của tác giả Lê Thu Hà; “Xử lý tình huống trong thi hành án dân sự
và các văn bản pháp luật về thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn Thanh Thủy,
Lê Thị Kim Dung; “Sổ tay nghiệp vụ thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn Văn
Luyện...
- Các đề tài luận án tiến sĩ: “Hoàn thiện pháp luật THADS ở Việt Nam hiện
nay” luận án của tác giả Nguyễn Thanh Thủy; “Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong
hoạt động THADS ở Việt Nam hiện nay” luận án của tác giả Nguyễn Quang Thái;
“Hiệu qủa áp dụng pháp luật trong THADS ở Việt Nam” của tác giả Đặng Đình
Quyền; “Giám sát THADS ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Hoàng Thế Anh...
- Đối với các đề tài nghiên cứu về cưỡng chế thi hành án: “Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam”, Lê Anh Tuấn, Luận
án tiến sĩ Luật học, Hà Nội, 2017; “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn thành phố Hà Nội”, Lê Xuân Tùng,
luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2016; “Biện pháp cưỡng chế, kê biên tài sản
trong thi hành án dân sự”, Nguyễn Thanh Phong, luận văn thạc sĩ Luật học, Hà
Nội, 2011; “Biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền trong hoạt động thi
3
hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội”, Lê Đình Nam, luận văn thạc sĩ luật
học, 2012. Ngoài ra, còn có các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành của các
chuyên gia, các nhà nghiên cứu khoa học như: “Hoàn thiện pháp luật về các biện
pháp cưỡng chế thi hành án” của tác giả Trần Phương Thảo, tạp chí Luật học số
11/2018; “Một số vướng mắc khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân
sự” của tác giả Nguyễn Doãn Phương, tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 08/2016…
Nhìn chung, các công trình khoa học trên đây đã nghiên cứu và làm sáng tỏ
một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thi hành án dân sự nói chung, cưỡng chế thi
hành án dân sự nói riêng. Tuy nhiên, các công trình này đều chú trọng nghiên cứu
toàn diện về cưỡng chế thi hành án, chưa có công trình nào tập trung đi sâu vào
phân tích cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo
pháp luật thi hành án dân sự, đặc biệt là của địa phương có những đặc thù riêng
biệt với lượng án nhiều, phức tạp nhất cả nước như Hà Nội. Vì vậy, sau khi nghiên
cứu, tiếp thu có chọn lọc các quan điểm, phân tích, đánh giá của các công trình khoa
học trên, tác giả xác định việc nghiên cứu chuyên sâu cưỡng chế thi hành bản án về
thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự từ thực tiễn
trên địa bàn thành phố Hà Nội là cần thiết và có giá trị áp dụng thực tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về cưỡng chế thi hành bản
án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự; thực tiễn áp
dụng cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi
hành án dân sự tại thành phố Hà Nội (trong đó tập trung đánh giá những ưu điểm,
hạn chế, bất cập và nguyên nhân từ thực tiễn áp dụng cưỡng chế thi hành bản án về
thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự tại Hà Nội),
luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng cưỡng chế
thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự trên
địa bàn thành phố Hà Nội trước yêu cầu mới.
4
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được các mục đích đặt ra trên đây, luận văn thực hiện các nhiệm vụ chủ
yếu sau đây:
- Phân tích khái niệm, đặc điểm; vai trò và ý nghĩa của cưỡng chế thi hành bản
án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự; pháp
luật về cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại tại Việt
Nam.
- Phân tích, đánh giá tác động của vị trí địa lý, tự nhiên và kinh tế - xã hội tác
động đến việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân
hàng thương mại trong thi hành án dân sự thành phố Hà Nội; phân tích những ưu
điểm, hạn chế, bất cập và nguyên nhân từ thực tiễn cưỡng chế thi hành bản án về
thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự tại Hà Nội.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả cưỡng chế thi hành
bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự trên địa
bàn thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản quy định của pháp luật
THADS và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành bản
án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tại
thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại
trong thi hành án dân sự là một vấn đề nghiên cứu tương đối lớn, có phạm vi nghiên
cứu rộng nên có thể được nghiên cứu dưới nhiều phương diện khác nhau và với
nhiều nội dung khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả tập trung
nghiên cứu vào những nội dung cơ bản như sau:
- Nghiên cứu cơ quan trực tiếp tổ chức THADS trong thành phố Hà Nội gồm
cơ quan THADS cấp thành phố (Cục THADS thành phố Hà Nội) và cơ quan
5
THADS cấp huyện (Chi cục THADS quận, huyện, thị xã trực thuộc) với các cơ
quan có liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan THADS. Các “cơ quan”
trong phạm vi nghiên cứu của luận văn là các cơ quan Nhà nước hoặc đơn vị
chuyên môn thuộc cơ quan Nhà nước.
- Nghiên cứu những quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến cưỡng
chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự
và đánh giá thực tiễn cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương
6
mại trong thi hành án dân sự tại thành phố Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu luận án là các quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Leenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
nhà nước và pháp luật; xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN; về đổi mới và tổ
chức hoạt động của nhà nước, nhất là nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật. Bên
cạnh đó, tác giả luận văn cũng sử dụng các quan điểm khoa học được rút ra từ các
công trình nghiên cứu trước đó.
Các phương pháp nghiên cứu chủ đạo của luận văn là phương pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử. Để hoàn thành luận văn, tác giả cũng sử dụng các
phương pháp truyền thống khác như phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, quy
nạp, so sánh, thống kê...., trong đó:
- Phương pháp lịch sử, phân tích, quy nạp được sử dụng chủ yếu tại Chương 1,
nêu lên các cơ sở lý thuyết của vấn đề đặt ra, từ đó khái quát hóa thành những luận
điểm, quan điểm nền tảng lý thuyết xuyên suốt nội dung của luận văn.
- Phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê được áp dụng nhằm làm
rõ những nội dung của Chương 2. Đây là chương phân tích thực tiễn về cưỡng chế
thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự tại
thành phố Hà Nội với những ví dụ, số liệu cụ thể qua đó rút ra những ưu điểm, tồn
tại, hạn chế tạo cơ sở đề xuất các giải pháp tại Chương 3. Ngoài ra phương pháp
phân tích cũng được áp dụng nhằm làm sáng tỏ những nhận định, quan điểm đã
được đưa ra về những vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài luận văn.
- Phương pháp phân tích, chứng minh được sử dụng chủ yếu tại Chương 3 để
làm rõ những quan điểm, giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả thực hiện pháp luật về
cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành
án dân sự phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Luận văn đã nghiên cứu tương đối toàn diện, đầy đủ về thực tiễn cưỡng
7
chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân
sự tại thành phố Hà Nội. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận về cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng
thương mại trong thi hành án dân sự ở Việt Nam nói chung và thành phố Hà Nội
nói riêng.
- Luận văn đã đi sâu nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng pháp luật về cưỡng
chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự
hiện nay và thực tiễn tại thành phố Hà Nội, chỉ ra những kết quả đạt được, nguyên
nhân của kết quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế trong việc thực thi pháp
luật về thi hành án dân sự.
- Luận văn đã đưa ra các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng
thi hành án dân sự công tác thi hành án dân sự tại thành phố Hà Nội từ nay và tầm
nhìn trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn có kết cấu 3 chương, gồm:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về cưỡng chế thi hành bản án thu hồi
nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự.
- Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án dân sự về cưỡng chế
thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại tại thành phố Hà Nội.
- Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi
8
hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại từ thực tiễn thành phố Hà Nội.
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH BẢN ÁN VỀ THU HỒI NỢ CHO NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1.Khái niệm và vai trò của cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ
cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm cưỡng chế thi hành bản án dân sự và cưỡng chế thi hành
bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự
Hoạt động Thi hành án dân sự được hiểu là quá trình thực hiện các quyền và
nghĩa vụ dân sự của các bên khi được bản án, quyết định của Tòa án và các cơ quan
có thẩm quyền khác ghi nhận. Tuy nhiên, khi hết thời hạn tự nguyện thi hành án,
nếu người phải thi hành án mặc dù có điều kiện thi hành án nhưng cố tình trốn
tránh, trì hoãn, không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình thì lúc này Cưỡng chế
thi hành án được xem là công cụ hữu hiệu nhất để bản án, quyết định của Tòa án
được thực thi triệt để. Tại điều 45 và Điều 46 - Luật thi hành án dân sự cũng quy
định sau khi hết thời gian tự nguyện thi hành án là 10 ngày, kể từ ngày người phải
thi hành án có điều kiện thi hành mà không thi hành hoặc trong trường hợp cần
ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn
tránh việc thi hành án, thì Chấp hành viên có quyền áp dụng kịp thời các biện pháp
cưỡng chế thi hành án.
Vậy cưỡng chế thi hành bản án dân sự được hiểu như thế nào?
Cưỡng chế Nhà nước là dùng quyền lực Nhà nước bắt buộc cá nhân, tổ chức
thực hiện hoặc không thực hiện một công việc nhất định trái với ý muốn của họ.
Cưỡng chế gắn liền với hoạt động quản lý Nhà nước và là phương pháp thường
xuyên được áp dụng trong quản lý Nhà nước [32-Tr.63].
Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp thi hành án dân sự dùng
9
quyền lực nhà nước buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ thi hành án dân
sự của họ, do chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có
điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án.
Bản án là văn bản ghi nhận phán quyết của Toà án sau khi xét xử một vụ
án.Thuật ngữ “bản án” được sử dụng lần đầu tyên tại Sắc lệnh thiết lập các toà án
quân sự ngày 13/9/1945. Tuy nhiên, đến ngày 3/3/1969 Toà án nhân dân tối cao
mới ban hành Thông tư số 1-UB hướng dẫn về cơ cấu bản án và cách viết bản án.
Bản án đánh dấu sự kết thúc toàn bộ quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cho nên nội
dung của nó phải phản ánh những kết quả của phiên tòa và ý kiến phân tích, đánh
giá của hội đồng xét xử. Thẩm phán chủ toạ phiên toà có nhiệm vụ viết bản án. Một
số nước, thuật ngữ bản án chỉ dùng trong trường hợp xét xử vụ án hình sự, còn
trong việc giải quyết vụ kiện dân sự thì văn bản ghi nhận quyết định của toà án
tuyên xử gọi là quyết định của toà án. Ở Việt Nam, trong lĩnh vực hình sự cũng như
dân sự đều dùng thuật ngữ chung là bản án. Bản án trong lĩnh vực hình sự gọi là bản
án hình sự. Bản án trong lĩnh vực dân sự gọi là bản án dân sự [32-Tr.63].
Cưỡng chế thi hành án bản án dân sự là biện pháp cưỡng bức bắt buộc của
các cơ quan có thẩm quyền thi hành án, do Chấp hành viên quyết định theo thẩm
quyền nhằm buộc người phải thi hành án phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa
vụ về tài sản theo bản án, quyết định Cưỡng chế thi hành án được áp dụng trong
trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi
hành, hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu
tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án.
Như vậy, từ những khái niệm này có thể xác định được những vấn đề về
cưỡng chế thi hành bản án dân sự như sau:
- Chủ thể áp dụng cưỡng chế thi hành án là các Chấp hành viên được cơ quan
thi hành án phân công theo quyết định phân công để giải quyết thi hành án theo
từng vụ việc cụ thể.
- Khách thể: là việc thực thi các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
10
pháp luật và các cơ quan có thẩm quyền khác.
- Đối tượng: là người phải thi hành án được nêu trong phán quyết của Tòa
án, có thể là cá nhân, tổ chức, cơ quan…
- Mục đích áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành bản án dân sự là buộc người
phải thi hành án thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản, hoặc cần ngăn chặn
người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án.
Trong phạm vi bài viết, luận văn chỉ tập trung vào mục đích cưỡng chế thi
hành bản án dân sự nhằm thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại. Trong đó, thu hồi
nợ được hiểu là là yêu cầu khách nợ thanh toán cho chủ nợ các khoản tiền, tài sản
khác đến hạn/quá hạn mà khách nợ phải trả cho chủ nợ theo hợp đồng hoặc thỏa
thuận giữa chủ nợ và khách nợ hoặc theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền [19-Tr.62]. Doanh nghiệp đạt trạng thái hoạt động lý tưởng khi không nợ quá
hạn và không bị doanh nghiệp nào đó chiếm dụng vốn quá thời gian quy định. Tuy
nhiên, thật khó để tìm ra doanh nghiệp nào có thể đạt được trạng thái này trong
hàng trăm ngàn doanh nghiệp tại Việt Nam. Trên thực tế, các doanh nghiệp đều
muốn chiếm dụng vốn được của doanh nghiệp khác càng lâu, càng có lợi cho mình,
đặc biệt khi mà hoàn cảnh kinh tế khó khăn như những năm gần đây. Và bằng
chứng là hầu hết các doanh nghiệp bị phá sản bởi không thể thanh toán được các
khoản nợ, hoặc không thể thanh khoản các khoản nợ của khách nợ quá hạn.
Như vậy có thể hiểu cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng
thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự là: là biện pháp thi hành án dân sự
dùng quyền lực Nhà nước nhằm buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ về
tài sản để thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo bản án, quyết định của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật, do Chấp hành viên thuộc cơ quan thi hành án có thẩm
quyền áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành nhưng
không tự nguyện thi hành án.
Cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trong
thi hành án dân sự có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, cưỡng chế thu hồi nợ thể hiện quyền năng đặc biệt của Nhà nước
11
và được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực Nhà nước. Chỉ có cơ quan chức năng và
người có thẩm quyền được Nhà nước quy định mới được phép áp dụng các biện
pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo luật định. Ở nước ta, thẩm quyền thực hiện
cưỡng chế thi hành án dân sự thuộc về cơ quan Thi hành án dân sự các cấp và người
có thẩm quyền là các Chấp hành viên được phân công thực hiện nhiệm vụ.
Thứ hai, cưỡng chế thi hành án là một nguyên tắc cơ bản trong thi hành án
dân sự. Điều 9 Luật Thi hành án dân sự quy định: “1. Nhà nước khuyến khích
đương sự tự nguyện thi hành án. 2. Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án
mà không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của luật
này.” Luật này cũng quy định người phải thi hành án có thời gian tự nguyện thi
hành án là 10 ngày kể từ ngày họ nhận được quyết định thi hành án hoặc được
thông báo hợp lệ quyết định thi hành án. Như vậy, tinh thần của Điều luật đã thể
hiện quan điểm việc thi hành án được tổ chức tuân theo nguyên tắc kết hợp giữa
thái độ tự nguyện của người phải thi hành án và sự cưỡng chế của Nhà nước thông
qua hoạt động của cơ quan thi hành án và Chấp hành viên. Tuy nhiên, có thể hiểu
Nhà nước đã trao cho đương sự quyền lựa chọn phương thức thi hành án, và sự tự
nguyện thi hành án được khuyến khích thực hiện trước khi Nhà nước phải áp dụng
biện pháp cưỡng chế thi hành án.
Thứ ba,cưỡng chế thi hành án bản án dân sự không chỉ có hiệu lực bắt buộc
đối với người phải thi hành án mà tất cả những cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên
quan đều phải tôn trọng và thực hiện. Nói một cách khác, để đảm bảo hoạt động
cưỡng chế thi hành án đạt hiệu quả, các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đều
phải có trách nhiệm phối hợp và thực hiện. Chẳng hạn Chấp hành viên ra quyết định
cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của ông A, trong
khi đó gia đình ông B hiện đang ở nhờ trên diện tích đất này thì ngoài ông A, gia
đình ông B cũng phải có trách nhiệm thực hiện quyết định này của cơ quan thi hành
án.
Thứ tư, người phải thi hành án phải chịu mọi chi phí về cưỡng chế. Khi áp
dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, ngoài việc phải thực hiện các nghĩa
12
vụ về tài sản theo bản án, quyết định của Tòa án, người phải thi hành án còn phải
chịu tất cả các chi phí để thực hiện việc cưỡng chế thi hành án, như chi phí cho việc
định giá, giám định tài sản, bán đấu giá tài sản, tiền bồi dưỡng cho những người
trực tiếp tham gia cưỡng chế và bảo vệ cưỡng chế thi hành án.
Thứ năm, việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành án chỉ được áp
dụng khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án. Chấp hành viên trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ phải tiến hành xác minh điều kiện của người phải thi hành
án để xem người này có hay không có điều kiện thi hành án. Quy định này thể hiện
quan điểm nhân đạo của Nhà nước, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người phải thi
hành án, đồng thời cũng đảm bảo hoạt động cưỡng chế khi được áp dụng sẽ đạt hiệu
quả khả thi trong thực tiễn.
Ngoài những đặc điểm chung, hoạt động cưỡng chế thu hồi nợ cho Ngân
hàng thương mại cũng có đặc điểm riêng. Đối tượng nhắm đến của hoạt động này
không bao gồm hành vi của người phải thi hành án mà chỉ là các nghĩa vụ về tài sản
của người phải thi hành án đối với các Ngân hàng thương mại. Từ đặc điểm này đã
xác định không phải tất cả biện pháp cưỡng chế được quy định trong Luật Thi hành
án dân sự đều được áp dụng, mà chỉ những biện pháp cưỡng chế mà đối tượng mà
nó nhắm đến là tài sản của người phải thi hành án nhằm mục đích thu hồi nợ cho
Ngân hàng thương mại.
1.1.2. Vai trò của cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân
hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự
Các biện pháp cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng
thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự là công cụ pháp lý hữu hiệu nhất bảo
đảm thi hành nghiêm chỉnh, hiệu quả bản án, quyết định của Tòa án đối với các
nghĩa vụ về tài sản, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cá nhân, tổ
chức, cơ quan có liên quan. Pháp luật quy định và đề cao tính tự nguyện thi hành
của người phải thi hành án theo phán quyết đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Tuy nhiên, vì nhiều lý do, mà chủ yếu xuất phát từ phía người phải thi hành án, việc
để các bên liên quan tự nguyện chấp hành đã không mang lại hiệu quả thi hành án
13
cao. Các biện pháp cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương
mại bằng hiệu lực cưỡng chế Nhà nước mang tính bắt buộc của mình trên thực tiễn
đã chứng minh tính hiệu quả cao và kịp thời. Nếu không có chế định cưỡng chế
nhằm thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại, các bên đương sự sẽ có tâm lý chây ì
và thiếu tôn trọng phán quyết của Tòa án nói riêng, pháp luật của Nhà nước nói
chung vì cho rằng Nhà nước thiếu cơ chế xử lý đối với các nghĩa vụ mà họ phải thi
hành, từ đó dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của Ngân hàng thương mại không
được đảm bảo. Đối với những người phải thi hành án có thái độ không hợp tác,
chống đối thì cưỡng chế thi hành án sẽ là biện pháp sử dụng sức mạnh Nhà nước
buộc họ phải chấp hành để đảm bảo lợi ích hợp pháp bị xâm hại được khôi
phục.[32-Tr.63]
Góp phần nâng cao hiệu quả của công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án dân sự. Nói như vậy bởi lẽ giai đoạn thi hành án là giai đoạn cuối cùng nhằm đưa
phán quyết của Tòa án thực thi trong thực tiễn. Và cưỡng chế thi hành án nói chung,
cưỡng chế thi hành bản án nhằm thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại nói riêng
khi được áp dụng và đạt hiệu quả thì không chỉ phán quyết của Tòa án được thực
thi, mà nó còn mang lại những hiệu quả gián tiếp đối với các giai đoạn tố tụng. Để
giải quyết một vụ án hình sự, phải trải qua các giai đoạn tố tụng theo những thủ tục,
trình tự chặt chẽ do luật định. Tuy nhiên, các giai đoạn tố tụng trước đó gần như sẽ
không thể hiện được nhiều giá trị, bởi nếu thiếu đi giai đoạn thi hành án dân sự thì
phán quyết của Tòa án dù trong lĩnh vực hình sự hay dân sự cũng đều khó có thể
được thực thi một cách đầy đủ, trọn vẹn, thậm chí không thể thực hiện. Vì vậy, kết
quả của hoạt động cưỡng chế thi hành án chính là sự phản ánh hiệu quả và giá trị
của hoạt động điều tra, truy tố và xét xử.
Ngoài ra, hiệu lực của hoạt động cưỡng chế có tác dụng lớn trong việc răn
đe, giáo dục ý thức tự giác chấp hành pháp luật của người phải thi hành án, góp
phần nâng cao ý thức pháp luật của người dân, tăng cường pháp chế. Rõ ràng, với
những kết quả khả quan đã đạt được, cưỡng chế thi hành án dân sự giúp người dân
hiểu rằng Nhà nước có đủ quyền năng pháp lý để thiết lập lại và ổn định trật tự xã
14
hội. Vì vậy, cưỡng chế thi hành án dân sự bằng việc sử dụng quyền lực của Nhà
nước đã có tác dụng trong việc răn đe, giáo dục ý thức tự giác chấp hành pháp luật
của người phải thi hành án nói riêng, ý thức của người dân nói chung. Đồng thời,
hoạt động cưỡng chế thi hành án vô hình chung cũng góp phần nâng cao ý thức, thái
độ tuân thủ pháp luật của người dân, và cao hơn là tăng cường pháp chế.
1.2. Khái niệm, nội dung, vai trò và các yếu tố tác động đến việc thực
hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng
thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu
hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự
Pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương
mại theo pháp luật thi hành án dân sự được hiểu là tổng hợp các quy định của pháp
luật điều chỉnh, quy định về vấn đề cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm mục đích
thu hồi nợ cho các Ngân hàng thương mại. Các quy định này được cụ thể hóa trong
Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành (các Nghị định, Thông
tư và các văn bản hưỡng dẫn chuyên ngành). Bên cạnh đó, còn có các quy định
pháp luật có liên quan đến hoạt động cưỡng chế trong lĩnh vực đất đai, ngân hàng…
Các quy định này nêu rõ những hình thức, biện pháp, cách thức, thủ tục thực hiện
việc cưỡng chế; quy định rõ ai là người thẩm quyền được áp dụng biện pháp cưỡng
chế, chủ thể bị cưỡng chế là ai, đối tượng bị cưỡng chế, trách nhiệm của các cơ
quan, tổ chức và cá nhân liên quan trong thực hiện tổ chức cưỡng chế thi hành án
dân sự.[19-Tr.62]
Như vậy, có thể hiểu rằng pháp luật về cưỡng chế thi hành án bản án dân sự
về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại là tập hợp các quy định pháp luật điều
chỉnh các vấn đề về trình tự, thủ tục, đối tượng, chủ thể và các vấn đề khác của chế
định cưỡng chế nhằm buộc người phải thi hành án phải thực hiện các nghĩa vụ về
tài sản theo bản án, quyết định của Tòa án để thu hồi nợ cho các Ngân hàng thương
mại.
Cưỡng chế thi hành án bản án thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại là giải
pháp cuối cùng được áp dụng khi đương sự, cá nhân, tổ chức liên quan không tự
15
nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định có hiệu lực thi hành.
Tuy nhiên, với mục đích thi hành các nghĩa vụ dân sự nên pháp luật về cưỡng chế
thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự
cũng có những đặc điểm có bản là:
Thứ nhất, pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân
hàng thương mại trong thi hành án dân sự đảm bảo tính độc lập và chủ động của
chấp hành viên. Trong hoạt động thi hành án dân sự, chấp hành viên là chủ thể được
Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định dân sự có hiệu lực pháp
luật, do đó khi thi hành nhiệm vụ, về nguyên tắc chấp hành viên chỉ tuân theo pháp
luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ, đặc biệt là khi phải
áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu hồi nợ cho các Ngân hàng thương mại thì chấp
hành viên phải chịu nhiều áp lực trong thực thi nhiệm vụ. Vì vậy, để đảm bảo cho
chấp hành viên thực hiện đúng các quy định pháp luật về cưỡng chế thu hồi nợ cho
Ngân hàng thương mại thì các cơ quan, tổ chức và cá nhân phải có trách nhiệm phối
hợp theo đúng phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình; mọi hành vi cản
trở, can thiệp trái pháp luật đối với hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, chấp
hành viên đều phải bị xử lý theo quy định của pháp luật. Tính chủ động, độc lập của
chấp hành viên được pháp luật quy định cụ thể tại Điều 20 Luật Thi hành án dân sự,
theo đó bao gồm các thẩm quyền như: kịp thời tổ chức thi hành vụ việc được phân
công; ra các quyết định về thi hành án theo thẩm quyền; thi hành đúng nội dung bản
án, quyết định; áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành
án dân sự... Đặc biệt là tính độc lập của chấp hành viên được đề cao trong quá trình
cưỡng chế thi hành án dân sự khi pháp luật cho phép được lựa chọn biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự phù hợp (ví dụ như: Trừ vào thu nhập của người phải
thi hành án; kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do
người thứ ba giữ...). Trong quá trình thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án
dân sự, tính độc lập của chấp hành viên được thể hiện rõ nhất dưới hình thức áp
dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự thông qua việc chấp hành viên lựa
chọn biện pháp cưỡng chế cần áp dụng để tổ chức thi hành. Tuy nhiên, để đảm bảo
16
cho chấp hành viên được độc lập và chủ động trong việc áp dụng pháp luật về
cưỡng chế thu hồi nợ co Ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự thì các chủ
thể khác (đương sự, cá nhân, tổ chức liên quan) cũng phải thực hiện đúng các quyền
và nghĩa vụ của mình theo pháp luật quy định. Ví dụ như: người phải thi hành án
không được cản trở, chống đối việc cưỡng chế thi hành án; cơ quan, tổ chức liên
quan có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự theo đúng quy định
pháp luật; Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm kiểm sát việc áp dụng biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự cũng như quá trình tổ chức thực hiện biện pháp cưỡng
chế thi hành án dân sự....
Thứ hai, pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân
hàng thương mại trong thi hành án dân sự đảm bảo tôn trọng quyền tự định đoạt của
các đương sự, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội. Đây là một đặc điểm đặc thù
của pháp luật về cưỡng chế thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại, bởi lẽ về nguyên
tắc, thi hành án dân sự chủ yếu là thi hành các quyết định của Tòa án mang tính chất
tài sản - đặc trưng của quan hệ dân sự, vì vậy, quyền tự định đoạt và thỏa thuận của
đương sự luôn được tôn trọng trong suốt quá trình thi hành án, kể cả khi đã áp dụng
biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Mặc dù biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ
cho Ngân hàng thương mại chỉ áp dụng khi người phải thi hành án không tự nguyện
thi hành, nhưng sau khi cơ quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp cưỡng chế,
người phải thi hành án vẫn có quyền thỏa thuận với người phải thi hành án về việc
hoãn tổ chức cưỡng chế để tự nguyện thi hành án; người được thi hành án vẫn có
quyền rút yêu cầu thi hành án để cơ quan thi hành án dân sự đình chỉ việc thi hành
án; thậm chí ngay trước khi mở cuộc đấu giá tài sản đã bị kê biên, người phải thi
hành án vẫn có quyền nhận lại tài sản của mình sau khi nộp đủ tiền thi hành án cùng
các chi phí liên quan...Chính vì sự tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự nên
trong một số trường hợp cụ thể, chủ thể có thẩm quyền có thể lựa chọn biện pháp
thích hợp để việc thi hành án được nhanh chóng, đạt hiệu quả trên cơ sở thỏa thuận
của các đương sự và trong những trường hợp như vậy việc thực hiện pháp luật về
17
cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trong thi hành
án dân sự không nhất thiết phải theo đúng như nội dung bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật.
Thứ ba, pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng
thương mại trong thi hành án dân sự phải trên cơ sở các trình tự, thủ tục được pháp
luật quy định. Trong thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên
là chủ thể có thẩm quyền được Nhà nước giao trực tiếp thi hành các bản án, quyết
định dân sự có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, để đảm bảo hiệu quả cưỡng chế thi
hành án dân sự thì vấn đề quan trọng nhất là chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện
pháp cưỡng chế thi hành án dân sự phải tuân thủ những nguyên tắc, điều kiện, trình
tự pháp luật quy định nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự. Ví dụ như: chấp hành viên phải tuân thủ trình tự, thủ tục về kê
biên tài sản, giao bảo quản tài sản sau kê biên, thẩm định giá tài sản kê biên để đưa
ra đấu giá, giao tài sản cho người trúng đấu giá... Ngoài chủ thể có thẩm quyền áp
dụng biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại, pháp luật cũng
quy định các chủ thể khác cũng phải tuân thủ các trình tự, thủ tục nhất định để đảm
bảo thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự theo đúng quyền và nghĩa
vụ pháp luật quy định. Ví dụ như: đương sự thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo đối
với quyết định, hành vi của chấp hành viên theo đúng trình tự, thủ tục về khiếu nại,
tố cáo trong thi hành án dân sự; Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền kiến nghị,
kháng nghị theo đúng trình tự, thủ tục về kiến nghị, kháng nghị; Quốc hội, Hội đồng
nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với các chủ thể trong việc thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình cưỡng chế thi hành án dân sự...
1.2.2. Nội dung của pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ
cho Ngân hàng thương mại
Một là, quy định về căn cứ cưỡng chế thi hành án dân sự: việc cưỡng chế thi
hành án phải căn cứ vào Bản án, quyết định có hiệu lực thi hành; Quyết định thi
hành án; Quyết định cưỡng chế thi hành án.
Hai là, quy định về điều kiện cưỡng chế thi hành án dân sự: Áp dụng biện
18
pháp cưỡng chế thi hành án dân sự cần có các điều kiện cơ bản như: người phải thi
hành án phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc phải thực hiện hành vi theo bản án,
quyết định có hiệu lực thi hành; người phải thi hành án có điều kiện thi hành án và
người phải thi hành án không tự nguyện thi hành. Từ những điều kiện trên, cho thấy
biện pháp cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trong
thi hành án dân sự chỉ được áp dụng khi người phải thi hành án có nghĩa vụ phải
thực hiện theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền và có thái độ, hành vi không
tự nguyện thi hành mặc dù có điều kiện thi hành án. Có điều kiện thi hành án được
hiểu là trường hợp người phải thi hành án có tài sản, thu nhập để thi hành nghĩa vụ
về tài sản; Tự mình hoặc thông qua người khác thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Tuy
nhiên, trong quá trình tác nghiệp, người có thẩm quyền thi hành án cần chú ý về
việc áp dụng thời hạn tự nguyện thi hành án là 10 ngày kể từ ngày nhận quyết định,
thông báo hợp lệ được quy định tại Điều 45 và Điều 46 Luật thi hành án dân sự
được sửa đổi, bổ sung năm 2014 [24-Tr.63].
Ba là, quy định về nguyên tắc cưỡng chế thi hành án dân sự: Xuất phát từ
đặc trưng của thi hành án dân sự là việc tổ chức thi hành bản án, phần quyết định
của Tòa án về tài sản hoặc một công việc nhất định, quyết định của trọng tài, quyết
định xử lý vụ việc cạnh tranh của hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh hoặc phải nộp
phí thi hành án nên đối tượng của cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ trong thi
hành án dân sự là tài sản hoặc một công việc nhất định. Điều này hoàn toàn khác
biệt so với đặc trưng của thi hành án hình sự là nhằm hạn chế hoặc tước đoạt quyền
và lợi ích của người bị kết án. Chính vì vậy cưỡng chế thi hành án hình sự mang
tính cứng rắn và tuyệt đối còn thi hành án dân sự mang tính mềm dẻo hơn. Điều này
thể hiện ở các nguyên tắc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành bản án về thu
hồi nợ trong thi hành án dân sự như; Chủ thể có thẩm quyền chỉ được áp dụng biện
pháp cưỡng chế pháp luật quy định; không được áp dụng biện pháp cưỡng chế trong
thời gian và trường hợp pháp luật cấm; việc cưỡng chế thi hành án dân sự phải
tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án và các chi phí cần thiết khác.
Bốn là, quy định về các biện pháp cưỡng chế: Theo pháp luật hiện hành thì
19
chỉ có cơ quan thi hành án và Văn phòng Thừa phát lại mới được Nhà nước trao cho
quyền tổ chức thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của cơ quan có
thẩm quyền và chỉ người có thẩm quyền thi hành án mới có quyền áp dụng các biện
pháp cưỡng chế. Ngoài ra các chủ thể khác, bằng sức mạnh của mình, bắt buộc
người khác phải thi hành án đều trái pháp luật. Để tránh sự lạm quyền của các chủ
thể trong việc cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ trong thi hành án dân sự,
pháp luật đã quy định cụ thể các biện pháp cưỡng chế thi hành án mà người có thẩm
quyền thi hành án có quyền áp dụng, trình tự, thủ tục áp dụng. Hiện nay, pháp luật
quy định các biện pháp cưỡng chế cụ thể như: “1. Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu
hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án. 2. Trừ vào thu nhập của
người phải thi hành án. 3. Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả
tài sản đang do người thứ ba giữ. 4. Khai thác tài sản của người phải thi hành án.
5. Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ. 6. Buộc người phải thi
hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định”. [24-Tr.63]
Năm là, quy định về trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành bản án vê thu hồi nợ
trong thi hành án dân sự: để thực hiện cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân
sự, các biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự đều phải tuân thủ
thủ tục và một số nguyên tắc chung như: xác minh điều kiện thi hành án của người
phải thi hành án trước khi tiến hành cưỡng chế; xây dựng kế hoạch cưỡng chế;
thông báo hợp lệ các văn bản quyết định về thi hành án dân sự cho đương sự, người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, các cơ quan hữu quan theo luật định; Tuân thủ các
quy định của pháp luật về thời hạn, thời hiệu trước, trong và sau khi cưỡng chế...
1.2.3. Vai trò của pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho
Ngân hàng thương mại
Một là, nhằm củng cố, tăng cường quyền lực nhà nước, quy định nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm của Chấp hành viên và của các tổ chức, cá nhân có liên
quan trong thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự để thu hồi nợ cho các Ngân hàng
thương mại.
Thông qua các quy định về cưỡng chế thi hành án dân sự nói chung và cưỡng
20
chế thi hành án dân sự để thu hồi nợ cho các Ngân hàng thương mại nói riêng, Nhà
nước xác định rõ quyền lực của Nhà nước bằng việc cho phép Cơ quan Thi hành án
dân sự áp dụng các biện pháp bảo đảm, các biện pháp cưỡng chế, xử phạt vi phạm
hành chính, thậm chí là đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi
chống đối, các hành vi vi phạm các quy định về thi hành án dân sự. Pháp luật về
cưỡng chế thi hành án dân sự xác định rõ các quyền năng của cơ quan Nhà nước,
của cơ quan Thi hành án dân sự và của Chấp hành viên trong việc buộc người phải
thi hành án phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình theo nội dung Bản án, quyết
định đã tuyên nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, bảo đảm và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước và của công dân [31-Tr.63].
Pháp luật về cưỡng chế thi hành án bản án về thu hồi nợ còn là phương tiện
để nhà nước quản lý xã hội, triển khai những chủ trương, chính sách của Nhà nước
một cách đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy mô cả nước, đồng thời đó cũng là
phương tiện để Nhà nước kiểm soát các hoạt động của Chấp hành viên của các tổ
chức, các cơ quan và mọi công dân trong cưỡng chế thi hành án dân sự.
Hai là, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, đương sự và tổ chức,
cá nhân liên quan. Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án bản án về thu hồi
nợ cho Ngân hàng thương mại là một quá trình hoạt động có mục đích, bảo đảm cho
các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật được tôn trọng và thi hành nghiêm
chỉnh, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức,
công dân. Thông qua các quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
trong quá trình thi hành án dân sự, pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự tạo ra
hành lang pháp lý bảo đảm cho cơ quan thi hành án dân sự, chủ thể có thẩm quyền
thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình; các tổ chức, cá nhân có liên quan
thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ và đảm bảo cho các quyết định cưỡng chế
được thực thi trên thực tế. Thực tiễn cho thấy rằng bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật thể hiện sự phán quyết về quyền, nghĩa vụ của các đương sự có liên quan
và việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ đó chính là sự bảo đảm lợi ích chung của Nhà
nước, xã hội, cơ quan, tổ chức, cá nhân. Vì vậy, việc thực thi các bản án, quyết định
21
không chỉ bảo đảm quyền, lợi ích của các đương sự, người có quyền, lợi ích liên
quan trong bản án, quyết định đó mà còn ảnh hưởng đến việc đảm bảo trật tự an
toàn xã hội; quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân khác có liên
quan. Từ đó, để đảm bảo lợi ích chung của xã hội thì Nhà nước phải có biện pháp
phù hợp để người phải thi hành án thực hiện đúng nghĩa vụ của mình theo bản án,
quyết định nếu có điều kiện thi hành án, trong đó cưỡng chế thi hành án dân sự biện
pháp được áp dụng cuối cùng nhưng cũng là biện pháp hữu hiệu nhất để đảm bảo
thi hành án, đảm bảo quyền bình đẳng của các chủ thể trong xã hội. Vì vậy, thực
hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự được coi là cơ chế bảo đảm quyền,
lợi ích của các đương sự, tổ chức, cá nhân khác và lợi ích của Nhà nước nói chung
và trong thi hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật theo thủ tục thi hành án
dân sự nói riêng.
Ba là, góp phần nâng cao ý thức pháp luật về thi hành án dân sự của đương
sự, cá nhân, tổ chức liên quan và góp phần tăng cường pháp chế. Nhà nước quản lý
xã hội bằng pháp luật, bởi vậy thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật
về cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng là quá trình hoạt động có mục đích làm
cho các quy phạm pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự được thực thi trên thực
tế, do đó các cơ quan nhà nước nói chung, cơ quan thi hành án dân sự nói riêng, các
tổ chức và công dân phải có trách nhiệm trong việc thực hiện tốt các quy định của
pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. Thực tế cho thấy rằng khi người phải thi
hành án không tự nguyện thi hành mà cơ quan thi hành án dân sự buộc phải áp dụng
biện pháp cưỡng chế thì việc tổ chức cưỡng chế thường gặp nhiều khó khăn, nhất là
khi phải áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản thì thường gặp phải sự
chống đối quyết liệt của người phải thi hành án và gia đình, gây ảnh hưởng đến an
ninh trật tự tại địa phương, do đó nếu có sự phối hợp tốt của cơ quan, tổ chức liên
quan trong việc thực hiện đúng các quy định về cưỡng chế thi hành án dân sự thì sẽ
đảm bảo hiệu quả cưỡng chế và qua đó nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của
đương sự và cộng đồng, đồng thời đảm bảo tính pháp chế trong việc thực thi các
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Thực tiễn cho thấy rằng cưỡng chế thi
22
hành án dân sự được coi là biện pháp mạnh nhân danh Nhà nước để đảm bảo tính
nghiêm minh của pháp luật, có tác dụng răn đe, phòng ngừa những hành vi vi phạm
pháp luật trong quá trình thi hành án và cũng là kênh phổ biến, tuyên truyền, giáo
dục nâng cao ý thức pháp luật cho các chủ thể trong xã hội trong việc nhận thức
đúng các quy định pháp luật, nhận thức đúng trách nhiệm tôn trọng và thi hành bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật; nhận thức đúng hành vi vi phạm, thiếu sót của
mình để từ đó kịp thời sửa chữa, khắc phục và tuân thủ nghiêm các quy định pháp
luật; củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án, đảm bảo uy
tín của Tòa án và cơ quan thi hành án dân sự. Bốn là, thực hiện pháp luật về cưỡng
chế thi hành án dân sự góp phần nâng cao hiệu quả của công tác điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án dân sự Bản án, quyết định là sản phẩm của quá trình điều tra, truy
tố và xét xử của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền qua những trình tự, thủ tục tố tụng
cụ thể, vì vậy, khi bản án, quyết định được các đương sự tự nguyện thi hành thể
hiện tính đúng đắn, hiệu quả của công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án dân
sự. Tuy nhiên, trong trường hợp phải cưỡng chế thi hành án dân sự thì có thể có sự
chưa đồng tình của người phải thi hành án về tính đúng đắn của bản án, quyết định
và như vậy dẫn đến có sự hoài nghi đối với công tác điều tra, truy tố và xét xử và thi
hành án dân sự. Từ đó, quá trình thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân
sự cũng là quá trình kiểm nghiệm lại tính đúng đắn của hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử để khắc phục những hạn chế, tồn tại, vi phạm (nếu có) để nâng cao hiệu quả
công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án dân sự. Ví dụ như: khi áp dụng biện
pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự phát hiện những
thiếu sót, vi phạm trong bản án; sự khác nhau giữa nội dung quyết định của bản án
với thực tế tài sản của đương sự thì cơ quan thi hành án dân sự có quyền đề nghị
Tòa án đã xét xử đính chính, sửa chữa sai sót, giải thích bản án hoặc đề nghị người
có thẩm quyền xem xét lại bản án theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm. Đồng thời,
khi người phải thi hành án dân sự không tự nguyện thi hành án thì việc phải áp dụng
biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự cũng thể hiện tính nghiêm minh của pháp
23
luật, góp phần nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
dân sự, nhất là việc áp dụng biện pháp cưỡng chế là cơ sở để thu hồi tài sản, đấu giá
tài sản để thu tiền thi hành án.
1.2.4. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi
hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo thi hành án dân sự
Cưỡng chế thi hành án là một chế định quan trọng được pháp luật thi hành án
dân sự quy định cụ thể và chi tiết, nhằm mục đích đưa hoạt động thi hành án đạt
hiệu quả cao nhất. Cũng như các chế định pháp luật khác, pháp luật về cưỡng chế
thi hành án dân sự nhằm mục đích thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trong quá
trình thực thi chịu ảnh hưởng và bị tác động bởi nhiều yếu tố, bao gồm các yếu tố
năng lực thực thi công vụ của Cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành viên, ý thức
pháp luật của các bên liên quan trong cưỡng chế thi hành án dân sự và sự phối hợp
của các bên liên quan trong cưỡng chế thi hành án dân sự.
- Năng lực thực thi công vụ của Cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành
viên thi hành án dân sự
Chấp hành viên thi hành án dân sự là một chức danh tư pháp do cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền bổ nhiệm theo quy trình, thủ tục nhất định khi đáp ứng đầy đủ
các yêu cầu, tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định của pháp luật;
được Nhà nước giao nhiệm vụ tổ chức thi hành hoặc trực tiếp thi hành các bản án,
quyết định theo quy định của pháp luật; được sử dụng quyền lực Nhà nước để tổ
chức thi hành án dân sự. Hoạt động của cơ quan Thi hành án dân sự được thực hiện
chủ yếu thông qua hoạt động của đội ngũ Chấp hành viên, về bản chất là hoạt động
áp dụng pháp luật; do đó, các hoạt động tác nghiệp của đội ngũ Chấp hành viên phải
tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật về nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi
hành án dân sự. Nếu áp dụng pháp luật một cách đơn thuần, cứng nhắc thì sẽ không
đạt được hiệu quả, kết quả như mong muốn, mà có khi lại dẫn đến tình trạng bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng không thể thi hành được trên
thực tế hoặc có thi hành được thì hậu quả xã hội xảy ra lại rất khó khắc phục điều
này rất dễ nhận thấy ở những vụ cưỡng chế thi hành án lớn mà gần đây các phương
24
tiện truyền thông đưa tin.
Để việc cưỡng chế thi hành đạt hiệu quả cao, Chấp hành viên phải có năng
lực chuyên môn, nghiệp vụ để có thể áp dụng pháp luật một cách linh hoạt, khéo
léo. Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của Chấp hành viên thi hành án dân sự, về cơ
bản bao gồm các yếu tố như trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật
nghề nghiệp, kỹ năng nghiệp vụ công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống…
- Ý thức pháp luật của các bên liên quan trong cưỡng chế thi hành án bản án
về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại:
Ý thức chấp hành pháp luật của các bên thể hiện qua thái độ tự giác, tự
nguyện thi hành án, tự thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự đã được bản án, quyết định
của Tòa án ghi nhận, thể hiện ý chí và sự mong muốn của các bên. Kết quả của tự
nguyện thi hành án là tiền đề, cơ sở và là căn cứ để Chấp hành viên áp dụng các
biện pháp cưỡng chế thi hành án nếu đương sự không tự nguyện thi hành án. Tự
nguyện thi hành án là biện pháp đầu tiên, quan trọng để các Chấp hành viên thi
hành bản án, quyết định trên thực tế. Tự nguyện thi hành án cũng là mục tiêu phấn
đấu và cũng là sự mong muốn hướng tới của các cơ quan thi hành án dân sự nói chung
và của các Chấp hành viên nói riêng, bởi hiệu quả của việc tự nguyện thi hành án là rất
cao, góp phần giữ vững được sự ổn định tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã
hội trong khu vực, thắt chặt được mối quan hệ đoàn kết, tiết kiệm thời gian, tiền của,
công sức và tác động đến ý thức chấp hành pháp luật của công dân.
Chủ thể của tự nguyện thi hành án không chỉ là người được thi hành án,
người phải thi hành án, mà còn có thể là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Đối với người được thi hành án, sự tự nguyện của người được thi hành án chính là họ
dùng quyền lợi của mình đã được bản án có hiệu lực pháp luật ghi nhận để thể hiện ở
chỗ họ có thể thỏa thuận với người phải thi hành án về thời gian, địa điểm, phương
thức thi hành án, nhưng thỏa thuận này không trái pháp luật và đạo đức xã hộị.
Việc tự nguyện thi hành án của người được thi hành án cũng được Nhà nước
khuyến khích và được thể hiện dưới một cơ chế khác, đó là người được thi hành án
cũng có thể đơn phương tự nguyện đồng ý cho bên phải thi hành án hoãn thi hành
25
án, thời gian hoãn do bên được thi hành án quyết định. Hoặc người được thi hành án
cũng có thể đơn phương tự nguyện từ bỏ quyền và lợi ích của họ được hưởng theo
bản án, quyết định, nếu việc từ bỏ này không làm ảnh hưởng đến lợi ích Nhà nước
hoặc của người khác.
Cả hai trường hợp nói trên, tuy cách xử lý khác nhau nhưng về bản chất đều
giống nhau đó là thể hiện việc tự nguyện thi hành án của người được thi hành án.
Trường hợp nếu các bên không có ý thức tự giác, tự nguyện thi hành án,
không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình, thì Chấp hành viên buộc phải áp dụng
các biện pháp cưỡng chế thi hành án. Việc áp dung biện pháp cưỡng chế là hết sức
cần thiết, bảo đảm công lý được thực thi, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật,
tuy nhiên, nó cũng có thể làm tốn kém thời gian, chi phí, ảnh hưởng đến an ninh,
chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương.
- Sự phối hợp của các bên liên quan trong cưỡng chế thi hành bản án về thu
hồi nợ cho Ngân hàng thương mại:
Thi hành án dân sự là hoạt động liên quan trực tiếp đến quyền về tài sản và
nhân thân của các bên đương sự, để giải quyết việc thi hành án, cơ quan thi hành án
dân sự phải tiến hành nhiều thủ tục như: tống đạt, xác minh, áp dụng các biện pháp
đảm bảo, biện pháp cưỡng chế thi hành án… vì thế, cơ quan thi hành án dân sự
không thể một mình mà thực hiện được các công việc trên, mà cần có sự phối hợp
với các cơ quan, tổ chức có liên quan.
Cơ quan Thi hành án dân sự thực hiện nhiệm vụ chính là tổ chức thi hành các
bản án, quyết định của Tòa án về phần dân sự mà quyền lợi của các bên đương sự
giai đoạn này luôn mâu thuẫn nhau (một bên là được thi hành án bên kia là phải thi
hành án) và đây cũng là giai đoạn mà quyền về tài sản, nhân thân của các bên được
thi hành trên thực tế, nên mâu thuẫn càng gay gắt và quyết liệt hơn, khiếu nại – tố
cáo cũng vì thế mà diễn ra nhiều hơn, phức tạp hơn.
Mặt khác, hoạt động thi hành án dân sự liên quan đến nhiều hoạt động thuộc
chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chức năng khác, đòi hỏi các cơ quan này phải
tham gia giải quyết theo chức năng, nhiệm vụ được giao thì mới có thể xử lý được
26
các vấn đề liên quan đến thi hành án dân sự, như: hoạt động của Ủy ban nhân dân
các cấp, Văn phòng, Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai, cơ quan Tài nguyên và
môi trường trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng tài sản; hoạt
động của cơ quan Thuế trong việc tính thuế, nghĩa vụ tài chính đối với tài sản thi
hành án; hoạt động của cơ quan Công an trong việc bảo vệ cưỡng chế, khởi tố vụ án
hình sự về tội không chấp hành án, tống đạt tài liệu, trả giấy tờ, tài sản cho phạm
nhân, trích xuất phạm nhân là người phải thi hành án để Chấp hành viên làm việc
trực tiếp; hoạt động của Tòa án nhân dân các cấp trong xét xử, áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời…[30-Tr.74].
Vì vậy, việc phối hợp tốt với các cơ quan, tổ chức, ban ngành liên quan trong
thi hành án dân sự là một trong những yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của
công tác thi hành án dân sự. Có thể nói, nếu cơ quan thi hành án dân sự nhận được sự
phối hợp hỗ trợ tốt từ các cơ quan, ban ngành liên quan thì công tác thi hành án dân sự
27
sẽ đạt kết quả cao, việc tổ chức thi hành án của Chấp hành viên sẽ có nhiều thuận lợi.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Thi hành án dân sự có vai trò quan trọng trong hoạt động tư pháp nói chung
và quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Bản án, quyết định của Toà án chỉ thực sự
có giá trị khi được thi hành trên thực tế. Hoạt động thi hành án là công đoạn cuối
cùng, bảo đảm cho bản án, quyết định của Toà án được chấp hành, góp phần bảo
đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định
chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Để công tác
thi hành án dân sự đạt được hiệu quả, thì không thể thiếu các biện pháp cưỡng chế
thi hành án, là các biện pháp mạnh, sử dụng quyền lực nhà nước, thể hiện tính
nghiêm khắc, nghiêm minh của pháp luật, giữ vững kỷ cương phép nước, bảo vệ tốt
hơn quyền của người được thi hành án, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức và Nhà nước theo bản án, quyết định của Toà án, quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài
thương mại. Việc nghiên cứu các biện pháp cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ
cho Ngân hàng thương mại sẽ giúp làm rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, vị
trí, vai trò của cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành viên; xác định rõ hơn trách
nhiệm, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan tronag hoạt động thi
28
hành án dân sự, cũng như công tác quản lý nhà nước về thi hành án dân sự.
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH BẢN ÁN VỀ THU HỒI NỢ CHO NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Thực trạng pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ
cho Ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự
2.1.1. Căn cứ cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng
thương mại
Để áp dụng các biện pháp cưỡng chế nói chung, biện pháp cưỡng chế thi hành
bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại nói riêng, cơ quan thi hành án dân sự
và Chấp hành viên phải dựa vào các căn cứ được quy định tại Điều 70 Luật Thi hành
án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Điều luật này quy định 03 căn
cứ để cưỡng chế thi hành án bao gồm:
- Bản án, quyết định: đây là những bản án, quyết định được thi hành theo thủ
tục thi hành án dân sự, gồm có bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài
sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết
định dân sự trong bản án, quyết định hình sự , phần tài sản trong bản án, quyết định
hành chính của Tòa án, quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, quyết định xử lý
vụ việc cạnh tranh của Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, Hội đồng xử lý vụ
việc hạn chế cạnh tranh, quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án và phán quyết, quyết
định của Trọng tài thương mại.
- Quyết định thi hành án: là quyết định do thủ trưởng cơ quan thi hành án ban hành
theo thủ tục chủ động ra quyết định thi hành án hoặc theo đơn yêu cầu của đương sự.
- Quyết định cưỡng chế thi hành án: là quyết định do Chấp hành viên ban
hành. trường hợp bản án, quyết định đã tuyên kê biên, phong tỏa tài sản, tài khoản
và trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án
29
thì không phải có quyết định cưỡng chế thi hành án.
2.1.2. Điều kiện áp dụng cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân
hàng thương mại trong thi hành án dân sự
Để áp dụng cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương
mại cần phải đáp ứng các điều kiện nhất định, cụ thể như sau:
Thứ nhất, người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc phải
thực hiện hành vi theo bản án, quyết định của Tòa án, quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh và quyết định của trọng tài thương mại.
Thứ hai, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án là những người mà
Chấp hành viên đã xác minh khẳng định được người đó có tài sản (trừ tài sản là tiền
thì không áp dụng biện pháp cưỡng chế này). Tài sản của người phải thi hành án có
thể là động sản, bất động sản và kể cả quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất, vốn
góp... theo quy định tại Mục 6 Luật THADS năm 2008.
Thứ ba, hết thời gian tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án không
tự nguyện thi hành. Thời gian tự nguyện thi hành án quy định tại Điều 45 Luật
THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 là 10 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án
nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án. Nếu trong thời gian
tự nguyện thi hành án của người phải thi hành án mà không đạt được kết quả như
mong muốn thì Chấp hành viên phải dùng đến quyền lực của nhà nước tức là áp
dụng các biện pháp cưỡng chế để buộc người có nghĩa vụ phải thi hành theo đúng
bản án, quyết định của Tòa án và quyết định của cơ quan Thi hành án.
Thứ tư, chưa hết thời gian người phải thi hành án tự nguyện thi hành nhưng
cần ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.
Trong thời gian tự nguyện thi hành án của người phải thi hành án, nếu Chấp hành
viên nhận thấy cần phải ngăn chặn hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh
nghĩa vụ thi hành án thì Chấp hành viên có quyền ra quyết định áp dụng ngay các
biện pháp cưỡng chế thi hành án được quy định tại Chương IV Luật THADS theo
30
quy định tại Khoản 2 Điều 45 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014.
2.1.3. Nguyên tắc áp dụng cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho
Ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự
Thứ nhất, chỉ có người có thẩm quyền thi hành án mới có quyền áp dụng
biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự nói chung, cưỡng chế thu hồi nợ nói riêng
và chỉ được áp dụng một trong các biện pháp cưỡng chế nhằm thu hồi nợ trong Luật
thi hành án dân sự. Như đã phân tích ở những phần trên, cưỡng chế thi hành án
nhằm thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại là một chế định pháp luật, sử dụng
quyền lực Nhà nước để buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ về tài sản
của mình. Vì vậy, việc áp dụng cưỡng chế thu hồi nợ bắt buộc phải do cơ quan và
người có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục luật định. Bên cạnh đó, Chấp
hành viên khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại
thì chỉ được lựa chọn trong các biện pháp cưỡng chế được quy định tại khoản 1, 2,
3, 4 Điều 71 Luật thi hành án dân sự, bao gồm các biện pháp sau: khấu trừ tiền
trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án; trừ
vào thu nhập của người phải thi hành án; kê biên, xử lý tài sản của người phải thi
hành án, kể cả tài sản do người thứ ba giữ; khai thác tài sản của người phải thi hành
án.
Thứ hai, chỉ áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm thu
hồi nợ cho Ngân hàng thương mại khi hết thời gian tự nguyện thi hành án, trừ
trường hợp áp dụng cưỡng chế ngay. Tự nguyện thi hành án là một trong hai biện
pháp thi hành án dân sự và được ưu tiên áp dụng. Khoản 1 Điều 9 Luật Thi hành án
dân sự quy định: “Nhà nước khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án”. Tự
nguyện thi hành án là biện pháp đầu tiên, quan trọng để các Chấp hành viên thi
hành bản án, quyết định trên thực tế. Mặt khác, tự nguyện thi hành án cũng là mục
tiêu phấn đấu và cũng là sự mong muốn hướng tới của các cơ quan thi hành án nói
chung và của các Chấp hành viên nói riêng bởi hiệu quả của việc tự nguyện thi hành
án là rất cao. Nó không chỉ góp phần giữ vững được sự ổn định tình hình an ninh,
chính trị, trật tự an toàn xã hội trong khu vực, thắt chặt được mối quan hệ đoàn kết,
31
tiết kiệm thời gian, tiền của, công sức mà còn tác động đến ý thức chấp hành pháp
luật của công dân. Vì vậy, chỉ sau khi hết thời gian tự nguyện thi hành án được quy
định tại Điều 45 Luật Thi hành án dân sự thì Chấp hành viên mới tiếp tục xem xét
các điều kiện khác để lựa chọn áp dụng cưỡng chế thu hồi nợ, trừ các trường hợp
pháp luật quy định cần áp dụng cưỡng chế ngay (là khi cần ngăn chặn người phải
thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc hành vi khác nhằm trốn tránh
việc thi hành án) [20-Tr.63].
Thứ ba, không được cưỡng chế thi hành án trong thời gian mà pháp luật quy
định không được cưỡng chế thi hành án. Theo khoản 2 Điều 46 Luật Thi hành án
dân sự, trong thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ sáng ngày hôm sau, các ngày nghỉ,
ngày lễ theo quy định của pháp luật và các trường hợp đặc biệt khác do Chính phủ
quy định thì Chấp hành viên không được tổ chức cưỡng chế thi hành án. Quy định
này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người phải thi hành án
bởi các hoạt động cưỡng chế thường gây ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt, đời
sống thường ngày của người phải thi hành án, thậm chí là đối với người nhà, người
sống lệ thuộc vào người phải thi hành án. Nếu tổ chức cưỡng chế trong những
khoảng thời gian được xem là nhạy cảm này, không chỉ có tác động xấu đến tâm lý
của người phải thi hành án, dẫn đến hệ quả là sự thiếu hợp tác, chống đối quyết liệt
của người phải thi hành án mà còn làm xấu đi hình ảnh của cơ quan nhà nước bởi sự
thiếu nhân văn trong việc thực thi pháp luật. Do đó, khi lập kế hoạch cưỡng chế,
Chấp hành viên cần chú ý không vi phạm nguyên tắc này để việc cưỡng chế đạt
hiệu quả như mong muốn, tránh gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự xã hội.
Thứ tư, chủ thể có thẩm quyền có thể áp dụng một hoặc nhiều biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế phải tương ứng
với nghĩa vụ của người phải thi hành án và chi phí hợp lý về thi hành án. Luật
không quy định Chấp hành viên chỉ được áp dụng một biện pháp cưỡng chế duy
nhất đối với mỗi trường hợp cưỡng chế thi hành án. Căn cứ vào tình hình, điều kiện
của từng người phải thi hành án, Chấp hành viên có thể áp dụng một hoặc nhiều
biện pháp cưỡng chế nhằm thu hồi nợ một cách phù hợp và hiệu quả. Trước khi lựa
32
chọn và áp dụng biện pháp cưỡng chế, Chấp hành viên cần xác định nghĩa vụ về tài
sản mà người phải thi hành án phải chấp hành và các chi phí hợp lý về thi hành án
để tiến hành cưỡng chế được quy định tại Điều 73 Luật Thi hành án dân sự. Chấp
hành viên cần đảm bảo việc lựa chọn và áp dụng biện pháp cưỡng chế phải tương
ứng với tổng chi phí và nghĩa vụ về tài sản cần thi hành, tránh trường hợp tài sản bị
cưỡng chế có giá trị quá lớn hoặc quá ít so với khoản phải thi hành, dẫn đến việc
cưỡng chế khó khăn và có thể gây thiệt hại, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của
người phải thi hành án.
2.1.4. Các biện pháp cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân
hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự
Theo Điều 71 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm
2014, cưỡng chế thi hành án bao gồm 06 biện pháp sau:
- Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người
phải thi hành án.
- Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.
- Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do
người thứ ba giữ.
- Khai thác tài sản của người phải thi hành án.
- Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ.
- Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công
việc nhất định.
Đối với hoạt động cưỡng chế nhằm thu hồi nợ, đối tượng tác động nhắm đến
là nghĩa vụ tài sản của người phải thi hành án, do đó một số biện pháp cưỡng chế
được liệt kê trên đây không được áp dụng. Cụ thể các biện pháp cưỡng chế thu hồi
nợ cho Ngân hàng thương mại chỉ bao gồm:
- Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người
phải thi hành án.
- Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.
- Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do
33
người thứ ba giữ.
- Khai thác tài sản của người phải thi hành án.
Đối với hai biện pháp buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy
tờ và buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc
nhất định, đây là những biện pháp có đối tượng tác động là hành vi của người phải
thi hành án, do đó không thuộc phạm vi nghiên cứu.
Để cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm thu hồi nợ cho Ngân hàng thương
mại, Chấp hành viên chỉ được quyền lựa chọn và áp dụng một trong các biện pháp
được liệt kê trên đây mà không thể có sự lựa chọn khác.
Nội dung cụ thể của các biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ cho Ngân hàng
thương mại được quy định như sau:
- Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người
phải thi hành án:
Đây là một trong các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được áp dụng
trong trường hợp người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo bản
án, quyết định của Tòa án và người này hiện đang có tiền trong tài khoản hoặc đang
sở hữu giấy tờ có giá. Nếu người phải thi hành đang giữ tiền, giấy tờ có giá hoặc
gửi tại Kho bạc, tổ chức tín dụng thì biện pháp cưỡng chế này sẽ là biện pháp đầu
tiên được áp dụng để thu hồi nợ.
- Khấu trừ tiền trong tài khoản: Biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản được
áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có tài khoản tại kho bạc Nhà nước,
ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác. Trước khi ra quyết định cưỡng chế, Chấp
hành viên cần tiến hành xác định số tiền của người phải thi hành án trong tài khoản
tại ngân hàng, tổ chức tín dụng hoặc kho bạc Nhà nước trên cơ sở các tài liệu, thông
tin do Chấp hành viên xác minh, thu thập hoặc do người được thi hành án. Sau khi
xác định đủ điều kiện áp dụng, theo quy định tại Điều 76 Luật Thi hành án dân sự,
Chấp hành viên ra quyết định khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành
án theo nguyên tắc: số tiền khấu trừ không được vượt quá nghĩa vụ thi hành án và
chi phí cưỡng chế. Quyết định cưỡng chế phải được gửi cho người được thi hành
34
án, người phải thi hành án, tổ chức đang giữ tiền của người phải thi hành án. Ngay
sau khi nhận được quyết định về khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải thi
hành án, cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản phải có trách nhiệm hợp tác và
thực hiện khấu trừ tiền để chuyển vào tài khoản của cơ quan thi hành án dân sự
hoặc chuyển cho người được thi hành án theo quyết định khấu trừ.
Ngoài ra, nếu có căn cứ cho rằng người phải thi hành án có dấu hiệu tẩu tán
tiền trong tài khoản thì Chấp hành viên có quyền ra quyết định phong tỏa tài khoản.
Việc chấm dứt phong tỏa tài khoản chỉ được Chấp hành viên thực hiện khi người
phải thi hành án đã thi hành xong nghĩa vụ của mình, hoặc cơ quan, tổ chức đã thực
hiện xong yêu cầu của Chấp hành viên về khấu trừ tiền trong tài khoản của người
phải thi hành án, hoặc đã có quyết định đình chỉ thi hành án.
- Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án: Giống như biện pháp cưỡng
chế khấu trừ tiền trong tài khoản, đối tượng của biện pháp trừ vào thu nhập của
người phải thi hành án cũng là tiền. Thu nhập của người phải thi hành án được xác
định tại khoản 1 Điều 78 Luật thi hành án bao gồm: tiền lương, tiền công, tiền
lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao động và thu nhập hợp pháp khác. Các khoản thu
nhập này thường không lớn nên Chấp hành viên chỉ áp dụng khi thi hành án cấp
dưỡng, thi hành án theo định kỳ, khoản tiền phải thi hành án không lớn hoặc tài sản
khác của người phải thi hành án không đủ để thi hành án, do các bên đương sự thỏa
thuận hoặc bản án, quyết định ấn định trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.
Tuy nhiên, mức trừ vào thu nhập được xác định cụ thể theo quy định tại
khoản 2 Điều 78 Luật Thi hành án dân sự chứ không phải được thực hiện một cách
tùy tiện hay theo suy nghĩ chủ quan của Chấp hành viên hoặc đề nghị của người
được thi hành án. Theo đó, mức cao nhất được trừ vào tiền lương, tiền công, tiền
lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao động là 30% tổng số tiền được nhận hàng tháng,
trừ trường hợp các đương sự có thỏa thuận khác. Đối với thu nhập khác thì mức
khấu trừ căn cứ vào thu nhập thực tế của người phải thi hành án, nhưng phải đảm
bảo điều kiện sinh hoạt tối thiểu của người đó và người được nuôi dưỡng theo quy
định của pháp luật. Quyết định cưỡng chế này được gửi cho các cơ quan, tổ chức,
35
người sử dụng lao động, cơ quan bảo hiểm xã hội nơi người phải thi hành án nhận
tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp và các thu nhập hợp pháp khác và
các cơ quan, tổ chức, cá nhân này có trách nhiệm thực hiện việc khấu trừ, sau đó
chuyển tiền đã trừ cho cơ quan thi hành án để chi trả cho người được thi hành án
theo quyết định cưỡng chế của Chấp hành viên.
- Thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án:
Biện pháp cưỡng chế này được quy định tại Điều 79 Luật Thi hành án dân
sự, Điều 22 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/07/2015 của Chính phủ, theo đó
biện pháp này được áp dụng trong trường hợp xác định được người phải thi hành án
có thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc thu tiền từ hoạt động kinh
doanh của người phải thi hành án theo định kỳ tùy theo tính chất ngành nghề kinh
doanh của người phải thi hành án. Khi thu tiền, Chấp hành viên phải đảm bảo để lại
số tiền tối thiểu cho hoạt động kinh doanh tùy theo tính chất ngành nghề và sinh
hoạt của người phải thi hành án và gia đình theo quy định về chuẩn nghèo của Nhà
nước.
- Thu tiền của người phải thi hành án đang giữ:
Biện pháp này được quy định tại Điều 80 Luật Thi hành án dân sự, được áp
dụng trong trường hợp Chấp hành viên phát hiện người phải thi hành án đang giữ
tiền và có căn cứ xác định khoản tiền đó là của người phải thi hành án. Sau khi xác
định được những điều kiện trên, Chấp hành viên ra quyết định thu tiền để thi hành
án và tiến hành giao quyết định này cho người phải thi hành án. Khi tiến hành
cưỡng chế, Chấp hành viên lập biên bản thu tiền và cấp biên lai cho người thi hành
án. Nếu người phải thi hành án có thái độ không hợp tác và không ký vào biên bản
thì phải có chữ ký của người làm chứng.
- Thu tiền của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ:
Biện pháp này được quy định tại Điều 81 Luật thi hành án dân sự và Điều 23
Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/07/2015 của Chính phủ. Biện pháp cưỡng chế
này được áp dụng khi Chấp hành viên phát hiện người phải thi hành án có tiền để
thi hành án nhưng khoản tiền này lại đang do người thứ ba giữ. Sau khi xác định rõ
36
số tiền của người phải thi hành án và người nào đang giữ số tiền này, Chấp hành
viên ra quyết định để thu khoản tiền đó. Trường hợp phát hiện tổ chức, cá nhân
đang phải trả tiền, tài sản cho người phải thi hành án mà khoản tiền, tài sản đó đã
được xác định bằng bản án, quyết định của Tòa án đang có hiệu lực pháp luật thì
Chấp hành viên yêu cầu tổ chức, cá nhân đó giao nộp số tiền, tài sản cho cơ quan thi
hành án để thi hành án.
- Thu giữ giấy tờ có giá: biện pháp này được quy định tại Điều 82, 83 Luật
Thi hành án dân sự. Giấy tờ có giá của người phải thi hành án có thể là cổ phiếu,
trái phiếu, công trái, thương phiếu kho bạc, tín phiếu ngân hàng nhà nước, kì phiếu,
chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá khác do Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước quy định còn giá trị thanh toán. Biện pháp cưỡng chế này được áp dụng khi
Chấp hành viên phát hiện người phải thi hành án hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân
đang giữ giấy tờ có giá của người phải thi hành án. Sau khi xác minh và có đủ căn
cứ, Chấp hành viên ra quyết định thu giữ giấy tờ đó để thi hành án và gửi quyết
định cho người phải thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá nhân đang giữ giấy tờ. Người
phải thi hành án hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân giữ giấy tờ có giá của người phải thi
hành án có trách nhiệm phải thực hiện quyết định cưỡng chế và chuyển giao giấy tờ
có giá cho cơ quan thi hành án dân sự, nếu không thực hiện thì Chấp hành viên có
quyền yêu cầu những cơ quan, tổ chức có thẩm quyền chuyển giao giá trị của giấy
tờ đó đê thi hành án.
- Biện pháp cưỡng chế đối với tài sản là quyền sở hữu trí tuệ: Biện pháp này
được quy định tại Điều 84, 85, 86 Luật Thi hành án dân sự, Điều 29, 30, 31 Nghị
định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/07/2015 của Chính phủ và quy định của Luật Sở hữu
trí tuệ. Chấp hành viên ra quyết định kê biên quyền sở hữu trí tuệ thuộc quyền sở
hữu của người phải thi hành án, kể cả quyền sở hữu trí tuệ của người phải thi hành
án đã chuyển quyền sử dụng cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Tuy nhiên, luật
cũng quy định trường hợp ngoại lệ, Chấp hành viên không được kê biên quyền sở
hữu trí tuệ của người phải thi hành án khi nhằm mục đích bảo đảm mục tiêu quốc
37
phòng, an ninh, dân sinh và lợi ích của Nhà nước, xã hội tại Luật Sở hữu trí tuệ mà
Nhà nước quyết định chủ sở hữu trí tuệ phải chuyển giao quyền của mình cho cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác sử dụng trong thời gian nhất định.
- Biện pháp cưỡng chế đối với tài sản là quyền sử dụng đất: Biện pháp này
được quy định tại Điều 110, 111, 112, 113 Luật Thi hành án dân sự, theo đó Chấp
hành viên chỉ kê biên quyền sử dụng đất của người phải thi hành án thuộc trường
hợp được chuyển quyền sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai. Người phải
thi hành án chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà thuộc trường hợp
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 100, 101 Luật
đất đai năm 2013, hoặc thuộc diện quy hoạch phải thu hồi đất, nhưng chưa có quyết
định thu hồi đất thì vẫn được kê biên, xử lý quyền sử dụng đất đó. Khi kê biên
quyền sử dụng đất có tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sở hữu của người phải thi
hành án thì kê biên cả quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Trường hợp đất
của người phải thi hành án có tài sản gắn liền với đất mà tài sản đó thuộc quyền sở
hữu của người khác thì chấp hành viên chỉ kê biên quyền sử dụng đất và thông báo
cho người có tài sản gắn liền với đất.
- Biện pháp cưỡng chế khai thác tài sản: được quy định tại Điều 107, 108,
109 Luật thi hành án, theo đó Chấp hành viên cưỡng chế khai thác tài sản trong
trường hợp tài sản của người phải thi hành án có giá trị quá lớn so với nghĩa vụ phải
thi hành và tài sản đó có thể khai thác để thi hành án hoặc người được thi hành án
đồng ý cưỡng chế khai thác tài sản để thi hành án nếu việc khai thác tài sản không
ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba. Tài sản của người phải thi
hành án bị cưỡng chế khai thác để thi hành án theo các hình thức: tài sản mà người
phải thi hành án đang trực tiếp khai thác hoặc cho người khác khai thác thì người
đàng khai thác được tiếp tục khai thác; trường hợp tài sản, bao gồm cả quyền sử
dụng đất mà chưa khai thác thì Chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành án ký
hợp đồng khai thác tài sản đối với tổ chức, cá nhân có nhu cầu khai thác tài sản.
Người khai thác tài sản này phải nộp số tiền thu được từ việc khai thác tài sản cho
38
cơ quan thi hành án dân sự, sau khi trừ các chi phí cần thiếu.
Thực tế, biện pháp cưỡng chế thường được sử dụng nhiều là “kê biên, xử lý
tài sản của người phải thi hành án” nên ngoài những trình tự, thủ tục trong cưỡng
chế thi hành án dân sự nêu trên, pháp luật còn quy định trình tự, thủ tục cưỡng chế
thi hành án đối với một số tài sản đặc thù như: kê biên tài sản là quyền sở hữu trí
tuệ, kê biên tài sản là quyền sử dụng đất, kê biên, xử lý tài sản cầm cố, thế chấp,
kê biên tài sản đang do người thứ ba giữ, kê biên vốn góp, kê biên phương tiện
giao thông, kê biên hoa lợi… Những trường hợp cụ thể này đều thuộc một trong
các biện pháp cưỡng chế đã được phân tích ở trên với mục đích thu hồi nợ cho
người được thi hành án.
2.1.5. Trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân
hàng thương mại
Biện pháp cưỡng chế thi hành án được áp dụng trong trường hợp người phải
thi hành án cố tình chống đối, chây ì, không có thái độ chấp hành, trốn tránh nghĩa
vụ thi hành bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, do tác động
và ảnh hưởng lớn của hoạt động cưỡng chế đối với các quan hệ xã hội nói chung,
người phải thi hành án nói riêng nên việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành
án phải được thực hiện theo một trình tự thủ tục luật định chặt chẽ. Trước khi áp
dụng cưỡng chế thi hành án, cơ quan thi hành án và Chấp hành viên đã phải trải qua
các thủ tục chung của công tác thi hành án như thụ lý thi hành án, thông báo thi
hành án, thuyết phục thi hành án, xác minh điều kiện thi hành án… từ đó xác định
đối tượng cưỡng chế và lựa chọn biện pháp cưỡng chế phù hợp đối với từng trường
hợp cụ thể. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài chúng ta chỉ đi sâu nghiên cứu những
bước cơ bản của hoạt động động cưỡng chế như sau:
- Xác minh điều kiện thi hành án:
Xác minh điều kiện thi hành án dân sự là điều kiện bắt buộc và quyết định
cho việc thực hiện hoạt động cưỡng chế có thành công hay không. Công tác xác
minh điều kiện thi hành án dân sự phải được thực hiện một cách khoa học, toàn
diện, đầy đủ và chi tiết tới từng nội dung, phù hợp với yêu cầu đặt ra của vụ việc
39
cưỡng chế cụ thể. Khi thực hiện xác minh điều kiện thi hành án, Chấp hành viên
phải tuân thủ các quy định tại Điều 44 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, được sửa
đổi, bổ sung năm 2014, Điều 9 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/07/2015 của
Chính phủ được sửa đỏi bổ sung bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP, Điều 4 TTLT số
04/2010 ngày 26/07/2010 và mục 1, Chương II của Thông tư liên tịch số 02/2014 ngày
14/01/2014 quy định chi tiết các vấn đề liên quan đến công tác xác minh thi hành án dân
sự, cũng như trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến hoạt động xác
minh thi hành án. Theo đó, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi
hành án mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên tiến
hành xác minh. Người phải thi hành án phải kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông
tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án với cơ quan thi hành án dân sự và phải chịu
trách nhiệm về việc kê khai của mình.
- Lựa chọn biện pháp cưỡng chế và xác định loại tài sản không được kê biên,
cưỡng chế
Việc lựa chọn biện pháp cưỡng chế thi hành án được quy định tại Điều 13
Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/07/2015 của Chính phủ được sửa đỏi bổ sung
bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP. Theo đó, căn cứ nội dung bản án, quyết định,
trên cơ sở tính chất, mức độ, nghĩa vụ thi hành án, điều kiện của người phải thi
hành án, đề nghị của đương sự và tình hình thực tế của địa phương, Chấp hành
viên sẽ lựa chọn việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án cho phù hợp. Việc
áp dụng biện pháp cưỡng chế phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành
án và các chi phí cần thiết.
Khi lựa chọn biện pháp cưỡng chế để thu hồi nợ, Chấp hành viên cần lưu ý
đến các tài sản mà pháp luật quy định không được kê biên được quy định tại Điều
87 Luật Thi hành án dân sự để có sự lựa chọn phù hợp. Theo đó, các loại tài sản
không được kê biên, cưỡng chế bao gồm:
1. Tài sản bị cấm lưu thông theo quy định của pháp luật; tài sản phục vụ
quốc phòng, an ninh, lợi ích công cộng; tài sản do ngân sách nhà nước cấp cho cơ
quan, tổ chức.
40
2. Tài sản sau đây của người phải thi hành án là cá nhân:
a) Số lương thực đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người phải thi hành án và
gia đình trong thời gian chưa có thu nhập, thu hoạch mới;
b) Số thuốc cần dùng để phòng, chữa bệnh của người phải thi hành án và gia
đình;
c) Vật dụng cần thiết của người tàn tật, vật dụng dùng để chăm sóc người
ốm;
d) Đồ dùng thờ cúng thông thường theo tập quán ở địa phương;
đ) Công cụ lao động cần thiết, có giá trị không lớn được dùng làm phương
tiện sinh sống chủ yếu hoặc duy nhất của người phải thi hành án và gia đình;
e) Đồ dùng sinh hoạt cần thiết cho người phải thi hành án và gia đình.
3. Tài sản sau đây của người phải thi hành án là doanh nghiệp, hợp tác xã,
cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ:
a) Số thuốc phục vụ việc phòng, chữa bệnh cho người lao động; lương thực,
thực phẩm, dụng cụ và tài sản khác phục vụ bữa ăn cho người lao động;
b) Nhà trẻ, trường học, cơ sở y tế và thiết bị, phương tiện, tài sản khác thuộc
các cơ sở này, nếu không phải là tài sản để kinh doanh;
c) Trang thiết bị, phương tiện, công cụ bảo đảm an toàn lao động, phòng,
chống cháy nổ, phòng, chống ô nhiễm môi trường.
- Ra quyết định cưỡng chế:
Điều 45 và 46 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung
năm 2014 quy định: thời hạn tự nguyện thi hành án là 10 ngày, kể từ ngày người
phải thi hành án nhận được quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ
quyết định thi hành án. Hết thời hạn này, người phải thi hành án có điều kiện thi
hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế. Như vậy, sau khi hết thời
hạn luật định 10 ngày, nếu người phải thi hành án không tự nguyện, tự giác thực
hiện nghĩa vụ của mình, Chấp hành viên được phân công sẽ ra quyết định cưỡng
chế thi hành án, đồng thời lựa chọn một trong các biện pháp cưỡng chế phù hợp.
41
- Lập kế hoạch cưỡng chế:
Trước khi tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự, Chấp hành viên phải lập
kế hoạch cưỡng chế, trừ trường hợp phải cưỡng chế ngay. Kế hoạch cưỡng chế gồm
các nội dung chính sau: biện pháp cưỡng chế cần áp dụng, thời gian, địa điểm
cưỡng chế, phương án tiến hành cưỡng chế, yếu cầu về lực lượng tham gia và bảo
vệ cưỡng chế, dự trù kinh phí cưỡng chế.
Kế hoạch cưỡng chế gửi ngay cho Viện kiểm sát, cơ quan Công an cùng cấp,
UBND cấp xã nơi tổ chức cưỡng chế hoặc cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc
cưỡng chế thi hành án.
Cơ quan thi hành án có thẩm quyền phải thực hiện việc thông báo quyết định
cưỡng chế và các tài liệu có liên quan cho người phải thi hành án, người được thi hành
án và những người có quyền lợi liên quan. Việc thông báo quyết định cưỡng chế được
thực hiện theo quy định chung về thông báo thi hành án quy định tại Điều 39, 40, 41,
42 Luật Thi hành án dân sự và Điều 12 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ.
- Tiến hành cưỡng chế:
Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền tiến hành cưỡng chế tại nơi có tài
sản hoặc đối tượng cần cưỡng chế. Trước khi thực hiện cưỡng chế theo kế hoạch và
quyết định cưỡng chế đã ấn định, người có thẩm quyền thi hành án chủ trì phổ biến
toàn bộ kế hoạch, phân công nhiệm vụ cụ thể của từng đơn vị, từng người, nêu các
tình huống có thể xảy ra và biện pháp xử lý các tình huống đó.
Chuẩn bị đầy đủ các biên bản, văn bản cần sử dụng trước khi tiến hành
cưỡng chế. Chuẩn bị đầy đủ phương tiện, điều kiện liên quan đã dự kiến phục vụ tốt
cho việc cưỡng chế.
Người có thẩm quyền thi hành án chủ trì điều hành toàn bộ quá trình cưỡng
chế, kịp thời xử lý mọi tình huống đã dự kiến trong kế hoạch và tình huống phát
sinh diễn ra trong quá trình cưỡng chế cho đến khi kết thúc việc cưỡng chế.
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu
hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự trên địa
42
bàn thành phố Hà Nội
2.2.1. Tình hình cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ trong thi hành án dân sự
trên địa bàn thành phố Hà Nội
Thành phố Hà Nội – thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là
trung tâm đầu não về chính trị,văn hóa, khoa học kĩ thuật, đồng thời là trung tâm
lớn về giao dịch kinh tế và quốc tế của cả nước.
Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, Hà Nội hiện nay
gồm 12 quận, 1 thị xã và 17 huyện ngoại thành. Từ diện tích gần 1.000 km² , Hà
Nội sau khi mở rộng có diện tích 3.324,92 km²
Tính đến năm 2018, dân số Hà Nội là 8.215.000 người, 55% dân số (tức 4,5
triệu người) sống ở thành thị, 3,7 triệu sống ở nông thôn (45%).
Kinh tế Thủ đô năm 2018 tiếp tục phát triển toàn diện, tổng sản phẩm trên
địa bàn (GRDP) tăng 8,65% (theo cách tính mới là 7,37%) và duy trì năm sau tăng
hơn năm trước (năm 2016 tăng 8,2%; năm 2017 tăng 8,48%). GRDP bình quân đầu
người năm 2018 đạt 4.080USD/người, gấp 1,12 lần năm 2015. Tổng thu ngân sách
của thành phố năm 2018 ước đạt 238,8 nghìn tỷ đồng, bằng 100,2% dự toán (tăng
12,6% so với cùng kỳ).[13-Tr.62].
Với vị thế là Thủ đô, trung tâm kinh tế của cả nước, nền kinh tế - xã hội của
Hà Nội phát triển vượt bậc, là nơi tập trung đầu tư của nhiều ngành, phát triển trên
nhiều lĩnh vực, đặc biệt là về thương mại, tài chính, bất động sản. Nhất là những
năm gần đây, tiến trình đô thị hóa, đầu tư xây dựng, mở rộng cơ sở hạ tầng với quy
mô lớn, tốc độ phát triển rất nhanh.
Cùng với những đặc thù về kinh tế, văn hóa, chính trị và dân cư tập trung
đông đúc, trong những năm qua, do ảnh hưởng của tốc độ đô thị hóa quá nhanh,
ảnh hưởng nặng nề của khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu, Hà Nội có thể coi
là một trong những điểm nóng nổi cộm và phức tạp, phát sinh các tranh chấp liên
quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, tín dụng ngân hàng, tranh chấp dân sự và
có cả sự tăng lên các vụ án hình sự, các vi pháp pháp luật trong nhiều lĩnh vực.
Trong những năm gần đây, hàng nghìn doanh nghiệp tại Hà Nội phải đóng
43
cửa hoặc ngừng hoạt động, hàng nghìn tỷ nợ tín dụng, ngân hàng không được thanh
toán đã phát sinh nhiều tranh chấp, bất động sản đóng băng, thị trường tài chính, tín
dụng trì trệ, thiếu bền vững, tỷ lệ nợ xấu tăng cao, tội phạm về hình sự trong lĩnh
vực kinh tế cũng tăng nhanh với tính chất ngày càng phức tạp… đã tạo nên gánh
nặng trách nhiệm, hậu quả nặng nề cho xã hội, trong đó có các cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án và cuối cùng là Thi hành án dân sự.
Theo báo cáo thống kê hàng năm của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà
Nội về công tác thi hành án dân sự từ năm 2014 đến năm 2018, số vụ việc thụ lý
năm sau đều có xu hướng tăng cao hơn năm trước cả về số lượng và giá trị, trong đó
nguyên nhân chủ yếu là do số lượng vụ việc tranh chấp dân sự liên quan đến Ngân
hàng thương mại ngày càng tăng với số tiền có giá trị lớn. Cụ thể như sau:
Bảng 2.1: Kết quả thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội
từ năm 2014 đến năm 2018 về việc
Năm Tỷ lệ Tổng số việc thụ lý Số thi hành xong Tổng số có điều kiện thi hành
2014 34.127 23.584 20.145 85%
2015 36.502 26.060 23.629 91%
2016 39.614 29.783 22.656 76%
2017 44.791 32.806 26.284 80%
2018 48.435 35.352 27.060 76%
( Nguồn:[8-Tr.62])
Bảng 2.2: Kết quả thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội
từ năm 2014 đến năm 2018 về tiền
Năm
Tỷ lệ
Tổng số tiền và giá trị tài sản thụ lý
Số có điều kiện thi hành
Số thi hành xong/số có điều kiện
2014
10.621.471.824
5.690.832.154
4.594.232.476
80.7%
2015
11.677.340.576
6.076.231.265
5.181.955.124
85%
2016
15.050.036.520
10.564.241.779
2.639.632.843
25%
2017
22.618.414.936
11.665.154.016
4.018.992.594
30.9%
44
2018
29.979.136.696
16.399.725.363
3.171.983.871
19.34%
(Nguồn: [8-Tr.62])
Từ bảng số liệu thống kê cho thấy, năm 2014 tổng số việc phải thi hành năm
2014 là 34.127 việc với số tiền 10.621.471.824.000 đồng, nhưng đến năm 2018, con
số này đã tăng 70,4% về việc và 282% về tiền với số việc phải thi hành là 48.435
và số tiền phải thi hành là 29.979.136.696.000 đồng. Tổng số việc giải quyết được
trên tổng số có điều kiện thi hành năm sau đều tăng hơn năm trước cả về số việc và
số tiền, nhưng số lượng việc cũng như số tiền tồn đọng chuyển sang năm sau còn
nhiều. Năm 2014, số án tồn từ năm 2013 chuyển sang là 15.476 việc và
3.698.432.567.000 đồng. Đến năm 2018, số án tồn chuyển từ năm 2017 sang là
17.269 việc và 15.666. 302.243.000 đồng. Một trong những nguyên nhân dẫn đến
tình trạng này là công tác cưỡng chế thi hành án để thu hồi nợ còn chưa phát huy
hết khả năng và hiệu quả như mong muốn. Cụ thể:
Bảng 2.3: Kết quả việc áp dụng cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho
Ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2014 đến 2018
Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 1.515 1.224 1.926 1.015 2.042
169 236 364 519 532
Số việc phải cưỡng chế thu hồi nợ Số việc cưỡng chế có huy động lực lượng
(Nguồn: [8-Tr.62])
Số liệu thống kê tại bảng trên đây cho thấy rằng số vụ việc thi hành án phải
cưỡng chế thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại có sự gia tăng cùng với số lượng
việc phải thi hành hàng năm, đặc biệt là số lượng việc phải cưỡng chế vẫn còn ở
mức cao, ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả thi hành án dân sự, nhất là tốn thời gian,
chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự cho Nhà nước và cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Bởi thực tế những việc cưỡng chế thi hành án dân sự thường liên quan đến việc xử
lý tài sản có giá trị lớn, nhất là tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất, cổ phiếu, nhà
xưởng, tàu biển, dây chuyển sản xuất của các doanh nghiệp... Điều này có ý nghĩa
45
quan trọng trong việc bảo đảm hiệu quả thi hành án dân sự. Bên cạnh đó, thực hiện
pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự cũng góp phần nâng cao ý thức pháp luật
trong xã hội, giảm thiểu các vụ việc khiếu nại, tố cáo bức xúc kéo dài; nâng cao ý
trách nhiệm của đội ngũ chấp hành viên, công chức thi hành án dân sự cũng như
trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan trong thi hành án dân
sự.
Bảng 2.4: Kết quả áp dụng đối với từng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân
sự nhằm thu hồi nợ trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2014
đến năm 2018
(Đơn vị tính: 1.000 đồng)
Năm
Số việc/tiền cưỡng chế thi hành án áp dụng biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền…. Số việc/tiền cưỡng chế thi hành án áp dụng biện pháp trừ vào thu nhập của người phải thi hành án
212/1.576.234 312/3.890.012 407/1.097.602 388/2.067.123 417/3.456.980 327/3.294.325 426/3.089.567 502/4.567.821 672/3.456.978 721/4.009.526 Số việc/tiền cưỡng chế thi hành án áp dụng biện pháp kê biên, xử lý tài sản của người đang thi hành án 474/2.672.434 481/4.468.908 598/6.594.012 856/6.187.945 898/7.213.097 Số việc/tiền cưỡng chế thi hành án áp dụng biện pháp khai thác tài sản của người phải thi hành án 02/1.000.768 05/2.134.602 08/3.494.210 10/3.789.105 06/2.189.056 2014 2015 2016 2017 2018
(Nguồn: [8-Tr.62])
Theo số liệu thống kê cho thấy, cả bốn biện pháp cưỡng chế thi hành án để
thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại đều được các Chấp hành viên áp dụng tùy
từng trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, do đặc thù của mỗi biện pháp mà số lượng việc
áp dụng có sự chênh lệch. Từ năm 2014 đến năm 2018, trên địa bàn Hà Nội, biện
pháp cưỡng chế thi hành án đối với nghĩa vụ về tài sản chủ yếu được áp dụng nhiều
là biện pháp kê biên, xử lý tài sản của người đang thi hành án, kể cả tài sản đang do
người thứ ba giữ, chiếm tỷ lệ trung bình 47%. Tiếp đó là biện pháp khấu trừ tiền
trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án với tỷ
lệ trung bình 15% Biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án
và biện pháp khai thác tài sản của người phải thi hành án lần lượt chiếm tỷ lệ trung
46
bình 30% và 08%. Có sự chênh lệch về việc lựa chọn biện pháp cưỡng chế như vậy
là do đặc điểm của từng biện pháp và điều kiện thi hành án của người phải thi hành án
trong từng vụ việc là khác nhau. Và việc áp dụng biện pháp kê biên, xử lý tài sản của
người đang thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ là phù hợp và mang lại
hiệu quả khả thi nhất.
2.2.2. Những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định pháp
luật về cưỡng chế thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự
trên địa bàn thành phố Hà Nội
2.2.2.1. Một số quy định pháp luật về các biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ
cho Ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự chưa thực sự hợp lý, thiếu tính
khả thi.
- Khấu trừ tiền trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người
phải thi hành án
Thành phố Hà Nội với đặc thù là trung tâm kinh tế - văn hóa – chính trị của
cả nước, do đó, việc giao dịch và sử dụng tài khoản ngân hàng ngày càng trở lên
phổ biến. Từ thực tiễn cho thấy, nếu người phải thi hành án có sẵn tiền trong tài
khoản hoặc do chính người này đang giữ thì đây là biện pháp cưỡng chế thi hành án
nhanh và hiệu quả nhất. Theo số liệu thống kê cho thấy, trong 05 năm từ năm 2014
đến 2018, Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội và các Chi cục THADS cấp
huyện đã áp dụng biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy
tờ có giá của người phải thi hành án đối với 4.567 vụ việc, qua đó đã giải quyết dứt
điểm 4.023 vụ việc. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi vẫn còn những khó khăn,
vướng mắc tồn tại.
Đối với việc khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành án: việc
thực hiện biện pháp này gặp nhiều khó khăn từ việc phối hợp của tổ chức tín dụng
trong việc xác minh điều kiện thi hành án. Theo quy định tại Điều 11 Luật Thi
hành án dân sự, các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn,
nghĩa vụ của mình phải có trách nhiệm phối hợp, thực hiện yêu cầu của cơ quan
thi hành án dân sự và Chấp hành viên trong việc thi hành án. Pháp luật về thi hành
47
án đã quy định rõ ràng trách nhiệm trong việc phối hợp với cơ quan thi hành án,
tuy nhiên trong thực tiễn việc phối hợp này còn nhiều hạn chế, bất cập. Việc thu
thập thông tin về tài khoản, thu nhập của người phải thi hành án gặp nhiều khó
khăn do hiện nay nước ta chưa có cơ sở dữ liệu quốc gia về tài khoản, tiền gửi
khách hàng trong các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại. Ngoài ra, khi đã
xác minh được tài khoản, thu nhập của người phải thi hành án thì khó khăn vẫn
chưa hết. Các tổ chức tín dụng sẽ viện dẫn điều 14 Luật các tổ chức tín dụng năm
2010 để từ chối cung cấp thông tin về tài khoản của người phải thi hành án, hoặc
sẽ thực hiện nhưng cung cấp thông tin một cách hạn chế, dẫn đến khó khăn trong
việc thi hành án. Sau khi đã thu thập thông tin về tài khoản của người phải thi
hành án thì các ngân hàng lại viện lý do số tiền thi hành lớn, phải xin ý kiến của
Hội sở hoặc viện lý do phải bảo vệ khách hàng nên trì hoãn việc thực hiện quyết
định cưỡng chế của cơ quan THADS khiến vụ việc kéo dài, dẫn đến người được
thi hành án bức xúc, khiếu nại cơ quan thi hành án nhiều lần. Trường hợp số tiền
phải thi hành án lớn nhưng bị trì hoãn thi hành nằm ở ngân hàng trong khi nhu cầu
sử dụng, tái đầu tư của người được thi hành án đang cấp thiết sẽ là thiệt hại không
nhỏ cho người được thi hành án. Trái lại, đối với ngân hàng khoản tiền đó sẽ mang
lại khoản lợi nhuận đáng kể.
- Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án:
Cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án chưa phù hợp, vì
mức được trừ vào tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao
động là 30% tổng số tiền được nhận hàng tháng, như vậy đối với những người có
thu nhập thấp thì việc thi hành án bị kéo dài, còn trong trường hợp họ phải thi hành
án với số tiền lớn mặc dù có thu nhập cao lẽ ra chỉ khấu trừ một lần với mức thu
nhập từ tiền lương hoặc tiền công trên 30% cũng đủ để thi hành án dân sự nhưng
vẫn phải cưỡng chế nhiều lần.
- Đối với biện pháp cưỡng chế thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người
phải thi hành án
Thực tiễn thi hành các quy định này cho thấy có một số khó khăn, đặc biệt là
48
vấn đề xác định mức tiền thu từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án.
Mặc dù Nghị định 62/NĐ-CP đã hướng dẫn mức trừ phải căn cứ trên sổ sách, giấy
tờ hoặc tình hình kinh doanh thực tế, nhưng tình hình kinh doanh thực tế như thế
nào thì không phải trong mọi trường hợp Chấp hành viên đều có khả năng đánh giá
đúng, từ đó quyết định về mức thu có thể là chưa phù hợp. Việc xác định mức tối
thiểu cần để lại để tiếp tục duy trì cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng là một
vấn đề khá khó khăn. Mặc dù Nghị định 62/NĐ-CP cũng đã hướng dẫn nhưng
hướng dẫn này còn khá chung chung như: Chấp hành viên căn cứ vào tính chất,
ngành nghề kinh doanh, quy mô kinh doanh của người phải thi hành.
- Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do
người thứ ba giữ
Qua thực tiễn công tác cho thấy, đây là biện pháp cưỡng chế được áp dụng
chủ yếu trong 04 biện pháp cưỡng chế nhằm thu hồi nợ trên địa bàn thành phố Hà
Nội. Tuy nhiên, đây cũng lại là biện pháp cưỡng chế phức tạp, đòi hỏi trình tự, thủ
tục kê biên cần nhiều bước, nhiều giai đoạn chặt chẽ. Bên cạnh đó, người phải thi
hành án thường xuyên có sự thiếu hợp tác, chống đối quyết liệt, nhiều trường hợp
phải huy động lực lượng để bảo vệ, đòi hỏi các Chấp hành viên phải có bản lĩnh
vững vàng, tinh thông nghiệp vụ, có kinh nghiệm và kỹ năng xử lý tình huống, kỹ
năng thuyết phục và cẩn trọng trong tác nghiệp. Ngoài ra, việc quy định của pháp
luật thi hành án hiện nay cũng mang lại nhiều khó khăn cho công tác cưỡng chế thi
hành án, trong đó phải kể đến khó khăn do đương sự cố tình kéo dài thời gian thi
hành án bằng cách yêu cầu định giá lại tài sản kê biên. Trên địa bàn thành phố Hà
Nội có nhiều vụ việc kéo dài nhiều năm, chưa giải quyết dứt điểm được vì đương sự
yêu cầu định giá lại. Trước đây, theo quy định của Luật Thi hành án dân sự năm
2008, đương sự có quyền yêu cầu định giá lại tài sản trong hai trường hợp
sau:Trường hợp thứ nhất, trước khi có thông báo công khai về việc bán đấu giá tài
sản (khoản 2 Điều 98). Trường hợp thứ hai, trong thời hạn mười ngày kể từ ngày
bán đấu giá không thành (Điều 104). Với quy định như vậy đã làm cho quá trình
định giá, bán đấu giá và định giá lại dường như không có điểm dừng, trừ trường hợp
49
đương sự không yêu cầu định giá lại hoặc tài sản được bán đấu giá thành.
Đến nay, Điều 99 và Điều 104 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa
đổi, bổ sung năm 2014 đã khắc phục việc quy định khá thoáng đối với những
trường hợp được yêu cầu định giá lại nhưng vẫn chưa thực sự triệt để. Tại điểm b
khoản 1 Điều 99 Luật Thi hành án dân sự quy định:
“Đương sự có yêu cầu định giá lại trước khi có thông báo công khai về việc
bán đấu giá tài sản. Yêu cầu định giá lại chỉ được thực hiện một lần và chỉ được
chấp nhận nếu đương sự có đơn yêu cầu trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ
ngày nhận được thông báo về kết quả thẩm định giá và phải nộp ngay tạm ứng chi
phí định giá lại tài sản.”
Như vậy, quyền yêu cầu định giá lại được thực hiện sau khi kê biên, định giá
tài sản cho đến trước khi thông báo công khai về việc bán đấu giá tài sản. Khi
đương sự thực hiện quyền yêu cầu này, pháp luật thi hành án dân sự không có một
quy định nào buộc đương sự phải nêu lý do làm căn cứ cho yêu cầu của mình. Điều
này sẽ dẫn đến sự tùy tiện hoặc cố tình lợi dụng quyền yêu cầu định giá lại để kéo
dài thời gian thi hành án một cách hợp pháp, gây khó khăn cho hoạt động thi hành
án cũng như gây thiệt hại cho người được thi hành án. Hơn nữa, theo quy định trên
thì dù việc định giá được thực hiện bằng hình thức nào, kể cả việc định giá do các
bên thỏa thuận ngay tại thời điểm kê biên thì cũng có thể bị người phải thi hành án
hoặc người được thi hành án yêu cầu định giá lại. Điều này rõ ràng chưa hợp lý, vì lẽ
các bên có quyền tự phá vỡ các thỏa thuận của chính mình và có thể gây thiệt hại cho
phía còn lại mà không bị ràng buộc nào về mặt pháp lý. Quy định như vậy vô tình đã
tạo ra một kẻ hở pháp luật mà người phải thi hành án có thể lợi dụng để làm cho quá
trình thi hành án kéo dài và phức tạp hơn. Hậu quả là hiệu lực của bản án, quyết định
không được đương sự tôn trọng và làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật.
2.2.2.2. Pháp luật chưa quy định cụ thể về trình tự, thủ tục xác minh điều kiện
cưỡng chế, vì thế trong thực tiễn thi hành án dân sự thường vận dụng quy định chung
về xác minh điều kiện thi hành án để xác minh điều kiện cưỡng chế thi hành án.
Về xác minh điều kiện cưỡng chế thi hành án dân sự, theo quy định thì để
50
tiến hành cưỡng chế thì chấp hành viên phải xác minh các thông tin liên quan đến
việc cưỡng chế được đảm bảo, đồng thời cung cấp thông tin cho cơ quan Công an
biết để tiến hành xác minh, xây dựng kế hoạch và lập phương án bảo vệ cưỡng chế
theo quy định tại Quy chế phối hợp liên ngành số 03/2012/TTLT-BTP-BCA ngày
30/3/2012. Tuy nhiên, pháp luật lại chưa quy định cụ thể về xác minh điều kiện
cưỡng chế thi hành án dân sự gồm những nội dung gì; trình tự, thủ tục xác minh
điều kiện cưỡng chế thi hành án dân sự như thế nào, trong khi đó thực tế có 02 điều
kiện quan trọng cần phải xác minh trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế là người
phải thi hành án có điều kiện thi hành án và không tự nguyện thi hành án. Hạn chế
này dẫn tới sự lúng túng và vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, do không có quy
định về thủ tục xác minh điều kiện cưỡng chế thi hành án nên các Chấp hành viên
thường vận dụng quy định chung về xác minh điều kiện thi hành án để xác minh
điều kiện cưỡng chế thi hành án dân sự.
2.2.2.3. Có nhiều trường hợp người phải thi hành án (đương sự) không tuân
thủ pháp luật, có hành vi chống đối việc cưỡng chế thi hành án; sử dụng quyền
khiếu nại, tố cáo không đúng pháp luật để trì hoãn, kéo dài việc thi hành án
Thực tiễn công tác THADS cho thấy, sự chống đối quyết liệt của người phải
THA, người có tài sản bị xử lý, bán đấu giá là nguyên nhân hàng đầu cho việc
không bàn giao được tài sản cho người trúng đấu giá. Không hiếm vụ việc người có
tài sản bị kê biên, xử lý, bán đấu giá là bên thứ ba bảo lãnh, thế chấp tài sản để cho
người phải THA vay nợ ngân hàng; tài sản nhà đất là gia tài lớn của cả gia đình, của
nhiều thế hệ sinh sống, nhưng lại rất khó buộc trách nhiệm của người phải THA, đã
dẫn đến tâm lý bức xúc, chống đối quyết liệt để cản trở việc THA, cản trở việc giao
tài sản cho người mua trúng đấu giá.
Thực tế cho thấy rằng có nhiều trường hợp cưỡng chế thi hành án dân sự,
người phải thi hành án nại ra những lý do khác nhau để yêu cầu, khiếu nại, thậm chí
tố cáo sai sự thật, nhằm cố tình trì hoãn việc thi hành án. Tuy nhiên, quá trình giải
quyết khiếu nại, tố cáo đối với các trường hợp này gặp rất nhiều khó khăn, do người
51
phải thi hành án hoặc người bị cưỡng chế làm đơn tới nhiều cấp, ngành nhưng
không trực tiếp đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết để đối thoại, làm việc, vì vậy
dẫn đến việc khiếu nại kéo dài…
2.2.2.4. Vẫn còn nhiều việc cưỡng chế thi hành án phải huy động lực lượng
gây tốn kém thời gian, chi phí cho cơ quan thi hành án dân sự
Từ góc độ quản lý nhà nước, việc tự nguyện thi hành án sẽ giúp cơ quan
THADS rút ngắn thời gian thi hành án thông qua việc giảm đến mức thấp nhất thời
gian xác minh, kê biên, bán đấu giá, giảm chi phí thi hành án, hạn chế rủi ro cho
chấp hành viên thực thi nhiệm vụ trước sự cản trở, chống đối của đương sự, giảm số
việc khiếu nại, tố cáo, nguy cơ phát sinh trách nhiệm bồi thường.
Thực tế thời gian qua cho thấy, nhiều trường hợp người phải thi hành án có
điều kiện thi hành án nhưng thiếu ý thức chấp hành pháp luật, thậm chí coi thường
pháp luật, cố tình trốn tránh, chây ỳ, chống đối việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án
nhưng dư luận xã hội chưa có thái độ phê bình, lên án kịp thời. Một số trường hợp
chống đối quyết liệt, nhất là trong quá trình cưỡng chế giao tài sản trúng đấu giá
(hiện có 108 vụ việc) hoặc cố tình khiếu nại vượt cấp, khởi kiện tại Tòa án (hiện có
56 vụ việc) gây khó khăn, kéo dài, trì hoãn việc thi hành án nhưng chưa có các biện
pháp đủ mạnh để buộc thực hiện hoặc răn đe người phải thi hành án.
2.2.2.5. Trong việc áp dụng pháp luật về cưỡng chế thu hồi nợ, một số chấp
hành viên đã không thực hiện đúng trình tự thủ tục pháp luật quy định dẫn đến việc
tố cáo của đương sự, thậm chí những việc thi hành án phải bồi thường
Đã có những chấp hành viên, cán bộ thi hành án dân sự bị xử lý kỉ luật, cao
hơn là bị truy cứu trách nhiệm hình sự do các vi phạm về chuyên môn, nghiệp vụ
của mình.
2.2.2.6. Cơ chế xử phạt hành chính và xử lý trách nhiệm hình sự đối với
những cá nhân, tổ chức trì hoãn, không chấp hành, tẩu tán tài sản thi hành án chưa
hiệu quả và chưa đủ mạnh để răn đe
Để đảm bảo hiệu quả thực hiện pháp luật cưỡng chế thi hành án dân sự thì
phải có những cơ chế đảm bảo xử lý vi phạm trong cưỡng chế, nhất là đối với hành
52
vi chống đối, cản trở việc cưỡng chế thi hành án dân sự. Tuy nhiên, mặc dù pháp
luật có quy định biện pháp xử phạt hành chính và truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với trường hợp người phải thi hành án và những cá nhân, tổ chức trì hoãn, không
chấp hành án, tẩu tán tài sản thi hành án (Điều 379, Điều 380 và Điều 381 Bộ luật
Hình sự năm 2015), nhưng thực tế số lượng các vụ việc không chấp hành án trên
toàn quốc rất nhiều nhưng việc xử lý về hình sự rất ít.
2.2.2.7. Hiện tượng bản án, quyết định tuyên không rõ, khó thi hành và giải
thích bản án của Tòa án vượt quá nội dung bản án dẫn tới vướng mắc trong cưỡng
chế thi hành án vẫn còn tồn tại
Nội dung bản án tuyên chưa rõ khó thi hành tương đối đa dạng như: Không
phân định rõ về phạm vi nghĩa vụ bảo đảm của nhiều tài sản thế chấp cho một hoặc
nhiều hợp đồng tín dụng; không đề cập đến tài sản trên đất tồn tại từ trước khi có
bản án; bản án, quyết định của tòa án không tuyên cụ thể nghĩa vụ bảo đảm (gốc, lãi
phát sinh đến thời điểm xét xử) của các tài sản thế chấp của bên thứ ba cho một hợp
đồng tín dụng; không đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố
tụng trong quá trình xét xử vụ án. Thậm chí có những trường hợp tòa án tuyên
không đúng quy định của pháp luật nhưng đã hết thời hạn kháng nghị giám đốc
thẩm. Có thể lấy ví dụ minh họa qua một sự việc cụ thể như sau:
Theo bản án số 59/KDTM ngày 05/02/2018 của Tòa án nhân dân thành phố
Hà Nội tuyên: Ông Nguyễn Văn T và gia đình phải trả cho Ngân hàng TMCP B số
tiền gốc là 10 tỷ đồng, tiền lãi là 5 tỷ đồng, tổng cộng 15 tỷ đồng, nếu hết thời gian
thỏa thuận mà ông Nguyễn Văn T không thanh toán hết số tiền gốc và lãi là 15 tỷ
đồng cho Ngân hàng TMCP B thì Ngân hàng TMCP B có quyền yêu cầu cơ quan
thi hành án có thẩm quyền kê biên, phát mại tài sản thế chấp là toàn bộ QSDĐtại
Thửa đất số 84(1) – 2 tờ bản đồ số 45, tại thôn Giao Tất A, xã Kim Sơn, huyện Gia
Lâm, thành phố Hà Nội với diện tích 250m2 được UBND huyện Gia Lâm cấp
GCNQSDĐ ngày 30/3/2011 mang tên Nguyễn Văn T.
Quá trình thi hành án do người phải thi hành án là ông Nguyễn Văn T và gia
đình không thanh toán tiền trả ngân hàng, Cục THADS thành phố Hà Nội thực hiện
53
kê biên xử lý tài sản thế chấp đảm bảo thi hành án. Để thi hành án đúng quy định,
ngày 17/9/2018, Cục THADS thành phố Hà Nội phối hợp với chính quyền địa
phương tiến hành kiểm tra, xác minh hiện trạng tài sản thế chấp theo bản án tuyên.
Kết quả xác minh thực tế cho thấy trên phần diện tích đất kê biên có một phần nhà
xây 3 tầng có diện tích 50m2sàn (nhà xây 3 tầng có tổng diện tích 120m2 một sàn).
Do nhà ở nêu trên không thuộc tài sản thế chấp và được xây dựng trên diện tích đất
thế chấp trước thời điểm QSDĐ được thế chấp cho ngân hàng, tuy nhiên trong quá
trình xét xử vụ án tại phần quyết định của bản án, tòa án chỉ tuyên phần xử lý toàn
bộ QSDĐ 250 m2 để đảm bảo thi hành án còn tài sản là nhà ở trên đất không được
bản án đề cập đưa vào xử lý do đó đã gây khó khăn, vướng mắc cho công tác kê
biên tài sản thế chấp là QSDĐ để thi hành án. Do đó, Cục THADS thành phố Hà
Nội đã có công văn đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có văn bản giải
thích bản án số 59/KDTM ngày 05/02/2018 để có căn cứ xử lý tài sản là nhà ở
không phải là tài sản thế chấp nhưng có trên đất thế chấp được đúng quy định của
pháp luật.
2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế về áp dụng pháp luật về
cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trên địa bàn
thành phố Hà Nội
2.2.3.1. Nguyên nhân khách quan
- Các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho
Ngân hàng thương mại còn nhiều hạn chế, bất cập.
Sự thiếu rõ ràng, cụ thể, chồng chéo, thậm chí thiếu bao quát của các quy
định chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cưỡng chế thu hồi nợ đã được phân
tích, luận giải ở trên. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu cũng cho thấy pháp luật thi hành
án dân sự chưa quy định theo hướng xác định Thi hành án dân sự là thủ tục tố tụng,
là khâu thực hiện kết quả hoạt động của quyền tư pháp, do đó có sự cắt khúc, tách
rời giữa hoạt động xét xử với hoạt động thi hành án. Vì vậy, trách nhiệm, quyền hạn
của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh đối với việc
thi hành các bản án, quyết định của mình, trong đó có trách nhiệm, quyền hạn của
54
Tòa án trong cưỡng chế thu hồi nợ còn hạn chế. Tòa án mới chỉ tham gia phối hợp
mà chưa có vai trò cụ thể và quan trọng trong cưỡng chế thi hành án, bởi thế việc xử
lý tài sản cưỡng chế thi hành án là tài sản chung hoặc tài sản có tranh chấp khó thực
hiện vì Tòa án chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp tài sản đã kê biên, phân chia
tài sản nếu các đương sự không thỏa thuận được và khởi kiện ra Tòa án. Bộ luật Tố
tụng dân sự tại các Điều từ Điều 309 đến Điều 311 không quy định về quyền của
Tòa án cấp phúc thẩm trong giải quyết hậu quả của việc thi hành án dân sự đã thi
hành dẫn tới khó xử lý trong trường hợp bản án, quyết định chưa có hiệu lực được
thi hành ngay theo quy định tại khoản 2 Điều 482 Bộ luật này. Bộ luật Tố tụng dân
sự đã có quy định về việc giải quyết hậu quả của việc thi hành án khi Hội đồng
giám đốc thẩm, tái thẩm hủy án hoặc sửa án tại các điều từ Điều 344 đến Điều 357.
Tuy nhiên, việc giải quyết những hệ quả, vướng mắc trong trường hợp kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án hoặc của Viện kiểm sát dẫn đến
thay đổi nội dung các bản án đã có hiệu lực pháp luật đang được cưỡng chế thi hành
hoặc đã cưỡng chế thi hành xong là rất khó khăn, phức tạp.
- Số việc và tiền thụ lý ngày càng nhiều và tiếp tục tăng cao qua các năm như
đã phân tích ở các phần trên. Theo đó, năm 2018, số việc thụ lý mới là 31.166 việc
với số tiền trên 14 nghìn tỷ đồng, tăng 7% về việc và 12% về tiền so với năm 2017.
Với đặc thù là trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị của cả nước, tại Hà Nội có nhiều
vụ việc có giá trị phải thi hành rất lớn, đặc biệt là án kinh doanh thương mại liên
quan đến các tổ chức tín dụng, ngân hàng. Việc cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản bảo
đảm mà chủ yếu là bất động sản gặp nhiều khó khăn do thị trường bất động sản
chưa có chuyển biến rõ rệt. Nhiều trường hợp phải định giá lại nhiều lần, ra quyết
định giảm giá nhiều lần để bán đấu giá nhưng vẫn không có người mua. Bên cạnh
đó, người dân không tránh khỏi tâm lý e ngại khi mua tài sản liên quan đến thi hành
án bởi nhiều nguyên nhân. Trong đó, phải kể đến những vụ việc đã bán đấu giá
thành nhưng chưa giao được hoặc việc giao rất chậm trễ cho người trúng đấu giá
bởi người phải thi hành án có thái độ chống đối, chây ì, dẫn đến việc làm ảnh hưởng
55
đến quyền và lợi ích hợp pháp của người mua.
- Biên chế của cơ quan thi hành án dân sự còn chưa tương xứng với khối lượng
công việc; chế độ, chính sách đãi ngộ chưa hợp lý đối với Chấp hành viên, cán bộ thi
hành án dân sự, nhất là cơ chế bảo vệ đối với Chấp hành viên còn chưa được bảo đảm.
- Cơ sở vật chất, kinh phí phục vụ cho việc cưỡng chế thi hành án dân sự còn
rất khó khăn, nhất là tình trạng thiếu kho vật chứng, trụ sở làm việc. Một số cơ quan
thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội vẫn phải đi thuê trụ sở, kho vật
chứng, hoặc dùng chung trụ sở, tận dụng trụ sở cũ của cơ quan khác đã phần nào
hạn chế kết quả thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, trong đó có hoạt động cưỡng chế
thu hồi nợ của các cơ quan Thi hành án dân sự. Bên cạnh đó, kinh phí tạm ứng
cưỡng chế thi hành án dân sự còn hạn chế dẫn đến việc thực thi nhiệm vụ này còn
nhiều khó khăn. Do suy thoái kinh tế, sản xuất, kinh doanh thương mại gặp khó
khăn, các tranh chấp kinh tế tăng mạnh về số lượng án thụ lý, đặc biệt là các vụ án
liên quan đến bất động sản. Trong quá trình thi hành án phải tổ chức cưỡng chế thi
hành án, tình trạng người phải thi hành án chống đối quyết liệt ngày càng nhiều, để
cưỡng chế thành công phải huy động lực lượng tham gia phối hợp thực hiện, vì vậy
kinh phí tạm ứng chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự chưa đáp ứng được cho số
lượng vụ việc cưỡng chế ngày càng tăng và phức tạp. Nộ dung chi nhiều, đặc biệt là
chi định giá tài sản, giảm giá và tổ chức bán đấu giá tài sản nhưng không bán được.
- Ý thức chấp hành pháp luật của người phải thi hành án cũng như của các tổ
chức, cá nhân có liên quan còn hạn chế.
Rõ ràng một thực tế hiện nay dễ dàng nhận thấy là ý thức tuân thủ pháp luật
của một số tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thi hành án, nhất là ý thức của
người phải thi hành án trong cưỡng chế thu hồi nợ chưa cao. Nhiều trường hợp
đương sự chống đối quyết liệt dẫn đến việc cơ quan Thi hành án dân sự phải huy
động lực lượng tham gia cưỡng chế với số lượng lớn. Hình thức chống đối cưỡng
chế thi hành án cũng đa dạng như cố tình chây ỳ, không hợp tác, tẩu tán tài sản, bỏ
đi khỏi nhà, thậm chí chống đối quyết liệt bằng việc đe dọa sử dụng các chất gây
cháy nổ và cố thủ trong nhà, tự thiêu, đem hài cốt vào chôn trong nhà phải cưỡng
56
chế… gây khó khăn cho việc cưỡng chế thi hành án. Tình trạng này xảy ra càng
ngày càng nhiều với mức độ nghiêm trọng hơn, nhất là với những tài sản bị cưỡng
chế là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất – những tài sản có giá trị lớn và
là nơi sinh sống của đương sự. Bản thân người phải thi hành án cũng có những nhận
thức và ý thức tuân thủ pháp luật còn hạn chế, cho rằng Nhà nước không có chế tài
nào đủ mạnh để xử lý đối với những hành vi vi phạm của họ.
2.2.3.2. Nguyên nhân chủ quan
- Công tác quản lý, chỉ đạo điều hành thi hành án dân sự, trong đó có chỉ đạo
cưỡng chế thu hồi nợ trong các cơ quan thi hành án dân sự chưa đáp ứng được yêu
cầu. Nhiều cơ quan thi hành án dân sự chưa thật sự quyết liệt, thiếu giải pháp cụ thể,
thiếu hiệu quả trong cưỡng chế thi hành án dân sự.
- Năng lực chuyên môn, ý thức trách nhiệm, tinh thần gương mẫu đi đầu của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý ở một số đơn vị thi hành án dân sự trên địa bàn
thành phố Hà Nội còn chưa cao dẫn đến sai sót, vi phạm trong cưỡng chế thi hành
án dân sự.
- Đã có nhiều trường hợp bị xử lý kỷ luật do vi phạm về chuyên môn nghiệp
vụ trong việc chỉ đạo, thực thi cưỡng chế thi hành án dân sự. Thậm chí có một số
trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự do thực hiện cưỡng chế thi hành án dân
sự không đúng quy định pháp luật, điển hình như trường hợp của Chấp hành viên
Trịnh Ngọc Trung – nguyên Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai
Bà Trưng do có sai phạm trong việc cưỡng chế kê biên, xử lý nhà đất tại 194 Phố
Huế, Hà Nội. Ông Trung đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội ra quyết định trái
57
pháp luật do ban hành quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự trái pháp luật.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Thi hành án dân sự có vai trò quan trọng, nhằm đảm bảo các bản án, quyết
định của Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền được chấp hành nghiêm chỉnh, góp
phần tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của nhà nước, tổ chức và cá nhân qua đó góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã
hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.
Với những kết quả đạt được trong những năm qua, có thể thấy công tác thi
hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội đã có nhiều chuyển biến tích cực, số
việc, số tiền giải quyết xong của năm sau luôn cao hơn năm trước, theo hướng ngày
càng bền vững, những thiếu sót, vi phạm trong thi hành án dân sự được tập trung
chấn chỉnh, khắc phục kịp thời; kỷ cương, kỷ luật được siết chặt; cơ sở vật chất,
phương tiện làm việc của các cơ quan Thi hành án dân sự trong địa bàn tiếp tục
được quan tâm đầu tư đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng tốt hơn.
Qua số liệu thống kê nêu trên ta cũng có thể thấy rằng, áp dụng biện pháp
cưỡng chế là một công cụ không thể thiếu trong thi hành án, biểu hiện rõ ràng nhất
là kết quả thi hành án từ việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế chiếm tỉ lệ đáng kể
so với tổng số lượng án phải thi hành.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thi hành án dân sự còn
nhiều hạn chế như: Kết quả đạt được của các đơn vị trong địa bàn thành phố vẫn
chưa đồng đều, việc tổ chức thi hành án trong một số vụ việc còn chậm, người phải
thi hành án là các tổ chức, cá nhân chưa chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định
của Tòa án, các cơ quan có thẩm quyền; trụ sở làm việc, kho vật chứng của một số
cơ quan thi hành án chưa được quan tâm đầu tư đúng mức và chưa đáp ứng được
yêu cầu, nhiệm vụ được giao; công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành trong thi
hành án vẫn có lúc, có nơi chưa thực sự chặt chẽ và hiệu quả; một số cấp ủy, chính
quyền địa phương còn chưa có sự quan tâm đúng mức trong lãnh đạp, chỉ đạo, tạo
điều kiện cho hoạt động thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự.
Để phát huy những kết quả đạt được, đồng thời khắc phục những bất cập,
58
hạn chế nêu trên, tạo bước chuyển biến mới trong công tác thi hành án dân sự từng
bước xây dựng ngành thi hành án dân sự trong sạch, vững mạnh, toàn diện thì cần
các giải pháp cả về lý luận và thực tiễn nhằm đưa công tác đáp ứng hơn nữa yêu
59
cầu, nhiệm vụ trong thời gian tới.
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH BẢN ÁN VỀ THU HỒI NỢ CHO NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án
về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự về cưỡng chế thi hành bản án
về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo hướng đề cao trách nhiệm của Thủ
trưởng cơ quan THADS và cá nhân các Chấp hành viên
Trong tổ chức cưỡng chế thi hành án, Chấp hành viên có quyền độc lập tác
nghiệp và tuân theo quy định của pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về
những hành vi của mình. Cụ thể quyền hạn và nhiệm vụ của Chấp hành viên được
quy định tại Điều 20 Luật Thi hành án dân sự. Thủ trưởng là người đứng đầu Cơ
quan Thi hành án dân sự có trách nhiệm quản lý, chỉ đạo hoạt động thi hành án dân
sự của đơn vị, hướng dẫn về mặt chuyên môn, nghiệp vụ, chỉ đạo, kiểm tra công tác
thi hành án đối với cán bộ, Chấp hành viên.
Chấp hành viên là người được Thủ trưởng cơ quan Thi hành án giao nhiệm
vụ trực tiếp tổ chức thi hành án, đồng thời là chủ thể chịu trách nhiệm chính trước
pháp luật về những hành vi của mình và được pháp luật bảo vệ. Thi hành án dân sự
là hoạt động rất đa dạng, đặc biệt là hoạt động cưỡng chế thu hồi nợ, động chạm
đến quyền và lợi ích của nhiều cá nhân, tổ chức, liên quan đến nhiều lĩnh vực, Chấp
hành viên dù muốn cũng không có đủ khả năng để bao quát và đáp ứng tất cả các
lĩnh vực chuyên môn. Trong những trường hợp phức tạp như vậy đòi hỏi phải có sự
hỗ trợ, chỉ đạo trực tiếp, hướng dẫn sát sao về mặt chuyên môn nghiệp vụ của Thủ
trưởng đơn vị. Mặt khác, Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự chịu trách nhiệm
quản lý, chỉ đạo về thi hành án dân sự, bảo đảm việc áp dụng thống nhất các quy
định của pháp luật trong hoạt động thi hành án dân sự. Thủ trưởng là người phải là
60
người chịu trách nhiệm trước Thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp và trước pháp
luật về toàn bộ hoạt động của cơ quan nói chung, của từng Chấp hành viên nói riêng
[17-Tr.69].
Vì vậy, để đảm bảo hoạt động thi hành án dân sự nói chung, hoạt động
cưỡng chế thu hồi nợ nói riêng được thực hiện, tổ chức nghiêm túc, theo đúng trình
tự, thủ tục luật định và đạt được hiệu quả như mong muốn thì cần tiếp tục hoàn
thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án theo hướng đề cao trách nhiệm của Thủ
trưởng và cá nhân Chấp hành viên cơ quan Thi hành án dân sự.
3.1.2. Minh bạch hóa quá trình cưỡng chế thi hành án
Quá trình tổ chức thi hành án dân sự cũng như quá trình cưỡng chế thi hành
án phải được minh bạch hóa thông qua việc Chấp hành viên và cơ quan Thi hành án
dân sự phải thông báo đầy đủ, ngay từ khi phát sinh nghĩa vụ của các bên (thời điểm
ra quyết định thi hành án) cho đến khi các bên thực hiện xong quyền, nghĩa vụ của
mình theo quy định của pháp luật.
Quyết định về thi hành án, giấy báo, giấy triệu tập và văn bản khác có liên
quan đến việc thi hành án phải thông báo cho đương sự, người có quyền, nghĩa vụ
liên quan để họ thực hiện quyền, nghĩa vụ theo nội dung của văn bản đó, thông qua
các hình thức:
- Thông báo trực tiếp hoặc qua cơ quan, tổ chức, cá nhân khác theo quy định
của pháp luật;
- Niêm yết công khai;
- Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Khi thông báo trực tiếp cho cá nhân, văn bản thông báo cho cá nhân phải
được giao trực tiếp và yêu cầu người đó ký nhận hoặc điểm chỉ. Trường hợp người
được thông báo vắng mặt thì văn bản thông báo được giao cho một trong số những
người thân thích có đủ năng lực hành vi dân sự cùng cư trú với người đó, bao gồm
vợ, chồng, con, ông, bà, cha, mẹ, bác, chú….của đương sự, của vợ hoặc chồng của
đương sự. Việc giao thông báo phải lập thành biên bản. Trường hợp người được
thông báo không có người thân thích có đủ năng lực hành vi dân sự cùng cư trú
61
hoặc có nhưng người đó từ chối nhận văn bản thông báo hoặc người được thông báo
vắng mặt mà không rõ thời điểm trở về thì người thực hiện thông báo phải lập biên
bản về việc không thực hiện được thông báo, có chữ ký của người chứng kiến và
thực hiện việc niêm yết công khai. Trường hợp người được thông báo đã chuyển
đến địa chỉ mới thì phải thông báo theo địa chỉ mới của người được thông báo.
Khi thông báo trực tiếp cho cơ quan, tổ chức thì văn bản thông báo phải
được giao trực tiếp cho người đại diện theo pháp luật hoặc người chịu trách nhiệm
nhận văn bản của cơ quan, tổ chức đó và phải được những người này ký nhận.
Trường hợp cơ quan, tổ chức được thông báo có người đại diện tham gia việc thi
hành án hoặc cử người đại diện nhận văn bản thông báo thì những người này ký
nhận văn bản thông báo.
Việc thông báo cũng có thể thực hiện bằng hình thức niêm yết công khai.
Việc niêm yết công khai văn bản thông báo chỉ được thực hiện khi không rõ địa chỉ
của người được thong báo hoặc không thể thực hiện được việc thông báo trực tiếp,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Cơ quan Thi hành án dân sự trực tiếp
hoặc ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của
người được thông báo hoặc cá nhân, tổ chức có đủ điều kiện theo quy định của pháp
luật thực hiện việc niêm yết.
Việc niêm yết được thực hiện bằng cách niêm yết văn bản thông báo tại trụ
sở cơ quan Thi hành án dân sự, trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú hoặc nơi
cư trú cuối cùng của người được thông báo và phải lập thành biên bản, trong đó ghi
rõ ngày, tháng, năm niêm yết; số, ngày, tháng, năm, tên của văn bản thông báo, có
chữ ký của người chứng kiến.
Trường hợp cần thiết, việc thông báo được thực hiện qua trên phương tiện
thông tin đại chúng. Nếu xác định đương sự đang có mặt tại địa phương nơi đương
sự cư trú thì việc thông báo được thực hiện trên báo ngày trong hai số liên tiếp hoặc
trên đài phát thanh, đài truyền hình của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương của
địa phương đó hai lần trong hai ngày liên tiếp. Trường hợp xác định đương sự
62
không có mặt tại địa phương nơi đương sự cư trú thì việc thông báo được thực hiện
trên báo ngày trong hai số liên tiếp hoặc trên đài phát thanh, đài truyền hình của
trung ương hai lần trong hai ngày liên tiếp.
Bên cạnh đó, cơ quan Thi hành án dân sự phải niêm yết công khai trình tự,
thủ tục thi hành án dân sự tại trụ sở cơ quan. Hoạt động thi hành án dân sự chịu sự
giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ
quan Nhà nước khác trong thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật.
Đồng thời, Viện kiểm sát nhân dân có quyền kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan trong việc thi hành án dân sự. Khi kiểm sát thi hành án dân sự, Viện kiểm
sát nhân dân có quyền yêu cầu Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự ra quyết
định về thi hành án, gửi các quyết định về thi hành án, thi hành đúng bản án, quyết
định; tự kiểm tra việc thi hành án và thông báo kết quả kiểm tra cho Viện kiểm sát
nhân dân; yêu cầu cơ quan, tổ chức và cá nhân cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng
có liên quan đến việc thi hành án; trực tiếp kiểm sát hoạt động thi hành án dân sự
của cơ quan thi hành án dân sự và các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan; ban
hành kết luận kiểm sát khi kết thúc việc kiểm sát; tham gia phiên họp của Tòa án
xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp Ngân sách Nhà nước và
phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân; kiến nghị xem xét hành vi, quyết
định liên quan đến thi hành án có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng của Tòa án, cơ
quan Thi hành án dân sự, yêu cầu khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý người vi
phạm; kiến nghị cơ quan, tổ chức liên quan có sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản
lý khắc phục nguyên nhân, điều kiện dẫn tới vi phạm pháp luật và áp dụng các biện
pháp phòng ngừa; kháng nghị hành vi, quyết định của Thủ trưởng, Chấp hành viên
cơ quan Thi hành án dân sự có vi phạm pháp luật nghiêm trọng xâm phạm lợi ích
của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; yêu cầu đình
chỉ việc thi hành, thu hồi, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ quyết định có vi phạm pháp
luật trong việc thi hành án, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật [14-Tr.69].
3.1.3. Huy động sự tham gia tích cực của các cơ quan, tổ chức, cá nhân vào
63
hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự
Hoạt động thi hành án dân sự trên cơ sở các bản án, quyết định của Tòa án
hoặc Trọng tài thương mại hoặc Hội đồng xử lý vụ việc canh tranh, vì vậy, hoạt
động thi hành án dân sự được tiến hành sau khi đã kết thúc quá trình tố tụng của
Tòa án và quá trình giải quyết tranh chấp của Trọng tài thương mại, của Hội đồng
xử lý vụ việc cạnh tranh trước đó. Do đó, trong quá trình tố tụng và giải quyết
tranh chấp, nếu như đương sự nhận thấy sự bất lợi về phía mình, họ tìm mọi cách
để tẩu tán tài sản trước khi bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định của
Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh được tuyên và có hiệu
lực pháp luật. Bởi thế, nếu như các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử áp dụng kịp
thời biện pháp cưỡng chế, ngăn chặn như: kê biên, phong tỏa, tạm giữ tài sản của
người phạm tội, ngăn ngừa việc tẩu tán tài sản thì việc thi hành án sẽ thuận lợi cho
việc thi hành có hiệu quả bản án, quyết định, giảm án tồn đọng.
Trong quá trình tổ chức thi hành án, theo quy định của pháp luật thì người có
thẩm quyền kháng nghị có quyền yêu cầu hoãn thi hành án dân sự, tạm đình chỉ thi
hành án dân sự để xem xét việc kháng nghị hoặc xem xét lại bản án, quyết định theo
trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm. Ngược lại, cơ quan thi hành án dân sự cũng có
quyền đề nghị Tòa án xem xét lại bản án, quyết định nếu thấy có căn cứ cho rằng
bản án, quyết định không khách quan hoặc có vi phạm pháp luật trong quá trình tiến
hành tố tụng hoặc yêu cầu Tòa án giải thích những điểm chưa rõ trong bản án, quyết
định của Tòa án. Tất cả những công việc này nếu không được Tòa án thực hiện, trả
lời một cách nghiêm túc và có trách nhiệm thì cũng làm chậm tiến độ, thậm chí gây
khó khăn cho hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự.
Để việc tổ chức thi hành dứt điểm được các bản án khó thi hành, người phải
thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng cố tình chống đối, chây ì thì đòi hỏi
Chấp hành viên, Thừa phát lại phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự cần thiết. Việc cưỡng chế thi hành án dân sự đảm bảo thành công đòi hỏi có
sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan hữu quan như Công an, Viện kiểm sát, chính
64
quyền và các tổ chức đoàn thể ở địa phương; nhân dân địa phương, các cơ quan, tổ
chức có liên quan đến công tác thi hành án dân sự để phát huy sức mạnh của cả hệ
thống chính trị vào việc thi hành án dân sự.
Do đó, xây dựng các giải pháp nâng cao hiệu quả cưỡng chế thi hành án dân
sự phải gắn liền với việc nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức
hữu quan trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức đó; đảm bảo
được sự phối hợp chặt chữ giữa cơ quan THADS với các cơ quan, tổ chức hữu quan
trong quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết định có hiệu lực thi hành, từ đó phát
huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội vào công tác THADS.
3.2. Giải pháp hoàn thiện và bảo đảm hiệu quả thi hành bản án về cưỡng
chế thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện một số quy định pháp luật về cưỡng chế về thi
hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự
Hiệu quả cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương
mại trong thi hành án dân sự phụ thuộc rất lớn vào cơ sở pháp luật. Thực tế cho thấy
rằng pháp luật về thi hành án dân sự, trong đó có pháp luật về cưỡng chế thi hành
bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng ở nước ta mặc dù đã được hoàn thiện trong thời
gian qua nhưng cũng còn nhiều vướng mắc, bất cập. Vì vậy, việc hoàn thiện pháp
luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trong
thi hành án dân sự là cần thiết, theo đó cần tập trung vào những nội dung cơ bản
sau:
- Hoàn thiện căn cứ cưỡng chế thi hành bản án để thu hồi nợ cho Ngân hàng
thương mại, cụ thể là: sửa đổi Điều 73 Luật Thi hành án dân sự theo hướng thay đổi
"căn cứ cưỡng chế thi hành án" bằng quy định "căn cứ để tổ chức cưỡng chế thi
hành án", theo đó quy định căn cứ để tổ chức cưỡng chế thi hành án bao gồm: bản
án, quyết định; quyết định thi hành án và quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự
thay cho quy định hiện nay căn cứ để cưỡng chế thi hành án bao gồm bản án, quyết
định; quyết định thi hành án và quyết định cưỡng chế thi hành án, trừ trường hợp
65
bản án, quyết định đã tuyên kê biên, phong toả tài sản, tài khoản và trường hợp thi
hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án tại Điều 70 Luật
Thi hành án dân sự.
- Bổ sung quy định về chỉ định tài sản cưỡng chế để thu hồi nợ cho Ngân
hàng thương mại, theo đó cho phép người được thi hành án chỉ định tài sản cưỡng
chế thi hành án dân sự nếu người được thi hành án cho rằng tài sản đó là của người
phải thi hành án, trong trường hợp này chấp hành viên không được từ chối cưỡng
chế tài sản mà người được thi hành án chỉ định cưỡng chế. Tuy nhiên, loại tài sản
được chỉ định cưỡng chế chỉ là động sản để đảm bảo tính kịp thời trong việc bảo
toàn tài sản đảm bảo thi hành án dân sự; đối với tài sản là bất động sản và động sản
phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì không áp dụng quy định chỉ định tài
sản cưỡng chế thi hành án dân sự bởi vì những tài sản này đã có cơ chế đăng ký
quyền sở hữu, sử dụng nên việc chuyển dịch phải thông qua thủ tục chặt chẽ do
pháp luật quy định. Để bảo đảm quy định chỉ định cưỡng chế tài sản thi hành án dân
sự được thực hiện hiệu quả và bảo đảm quyền lợi của người có tài sản bị chỉ định
cưỡng chế thi hành án dân sự nhầm, cũng như đề cao trách nhiệm của người chỉ
định cưỡng chế tài sản thi hành án dân sự thì quy định người chỉ định cưỡng chế tài
sản thi hành án dân sự phải chịu trách nhiệm về việc chỉ định tài sản, nếu chỉ định
sai thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại, nếu các đương sự không thỏa thuận
được về giải quyết bồi thường thiệt hại thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố
tụng dân sự.
- Quy định cụ thể về cưỡng chế kê biên, xử lý tàu bay, tàu biển để thi hành
án thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại bởi vì khoản 4 Điều 96 Luật Thi hành án
dân sự quy định việc kê biên đối với tàu bay, tàu biển để thi hành án được thực hiện
theo quy định của pháp luật về bắt giữ tàu bay, tàu biển, thế nhưng Pháp lệnh bắt
giữ tàu bay và Pháp lệnh bắt giữ tàu biển quy định Thẩm phán Tòa án quyết định
bắt giữ tàu bay, tàu biển để thi hành án mà chưa quy định cụ thể Chấp hành viên
căn cứ quyết định bắt giữ tàu bay, tàu biển của Tòa án để tiến hành định giá, bán
66
đấu giá hay phải ra quyết định cưỡng chế kê biên tàu bay, tàu biển để thi hành án.
- Bổ sung quy định thủ tục kê biên, bán đấu giá tài sản của cơ quan nhà
nước, doanh nghiệp nhà nước để thi hành án dân sự. Cụ thể hoá thủ tục cưỡng chế
thi hành bản án thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại đặc thù cho từng loại hình
doanh nghiệp, cơ quan nhà nước phải thi hành án.
- Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 94 Luật Thi hành án dân sự theo hướng:
Việc kê biên nhà ở là nơi ở duy nhất của người phải thi hành án và gia đình chỉ
được thực hiện sau khi xác minh, xác định người đó không có các tài sản khác hoặc
có nhưng không đủ để thi hành án, trừ trường hợp tài sản mà bản án, quyết định
tuyên kê biên để bảo đảm thi hành án hoặc người phải thi hành án đồng ý kê biên
nhà ở để thi hành án; sửa đổi khoản 1 Điều 95 Luật Thi hành án dân sự theo hướng:
Việc kê biên nhà ở là nơi ở duy nhất của người phải thi hành án và gia đình họ chỉ
được thực hiện sau khi xác minh, xác định người đó không có tài sản khác hoặc có
nhưng không đủ để thi hành án, trừ trường hợp nhà ở được bản án, quyết định tuyên
kê biên để bảo đảm thi hành án hoặc người phải thi hành án đồng ý kê biên nhà ở để
thi hành án.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về việc kê biên, xử lý tài sản của người phải thi
hành án xây dựng trên đất của người khác và trường hợp trên đất của người phải thi
hành án có tài sản của người khác theo hướng tạo điều kiện cho người có đất gắn
với tài sản của người phải thi hành án hoặc người có tài sản gắn với đất của người
phải thi hành án được quyền ưu tiên thỏa thuận mua lại đất hoặc tài sản của người
phải thi hành án theo giá khởi điểm nếu không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của
người thứ ba. Nếu các bên không tự thỏa thuận mua lại, cơ quan thi hành án dân sự
hướng dẫn khởi kiện ra Tòa án để phân chia tài sản trong thời hạn 30 ngày. Nếu
đương sự không khởi kiện hoặc không được Tòa án thụ lý giải quyết thì cơ quan thi
hành án dân sự tiến hành xử lý tài sản theo quy định của pháp luật.
- Quy định cụ thể về kê biên, xử lý tài sản là quyền sử dụng đất nông nghiệp,
đất giao cho hộ gia đình trực tiếp sản xuất nông nghiệp, làm muối, nuôi trồng thuỷ
sản, trồng lúa nước và để lại cho người phải thi hành án là người trực tiếp lao động,
67
chỉ có nguồn thu nhập từ sản xuất nông nghiệp, làm muối, nuôi trồng thuỷ sản,
trồng lúa nước diện tích đất nhất định sản xuất để có lương thực sinh sống trong
thời gian 06 tháng đến một năm.
- Bổ sung quy định người trúng đấu giá tài sản gắn liền với quyền sử dụng
đất thuê của Nhà nước được tiếp tục thuê đất trong thời hạn thuê đất còn lại mà
người phải thi hành án đã ký hợp đồng thuê đất trước khi kê biên, xử lý tài sản gắn
liền với đất thuê để đảm bảo hiệu quả của biện pháp kê biên, xử lý tài sản.
- Bổ sung quy định về cưỡng chế thi hành án dân sự đối với một số loại tài
sản phù hợp với Bộ luật dân sự năm 2015, nhất là những tài sản đặc biệt chưa được
quy định trong pháp luật về thi hành án dân sự như: quyền tài sản, tài sản hình thành
trong tương lai.
- Bổ sung quy định về trình tự, thủ tục kê biên, bán đấu giá tài sản của cơ
quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước để thi hành bản án thu hồi nợ cho Ngân
hành thương mại. Cụ thể hoá thủ tục cưỡng chế thi hành án dân sự đặc thù cho từng
loại hình doanh nghiệp, cơ quan nhà nước phải thi hành án.
- Đối với cưỡng chế khấu trừ thu nhập: cần nghiên cứu mở rộng phạm vi áp
dụng biện pháp cưỡng chế này đối với người phải thi hành án trong tất cả các
trường hợp có cơ sở xác định thu nhập của người phải thi hành án, đồng thời để
giảm lượng án tồn đọng thì cần quy định tăng mức khấu trừ thu nhập ở mức tối
thiểu là 50% tổng số thu nhập hàng tháng.
3.2.2.Tăng cường công tác phối hợp giữa cơ quan quản lý thi hành án dân
sự, cơ quan thi hành dân sự với cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan
Để công tác thi hành án dân sự, nhất là trong tổ chức cưỡng chế thi hành
án nhằm thu hồi nợ đạt hiệu quả thì các cơ quan có trách nhiệm liên quan phải
phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng và đồng bộ, giải quyết kịp thời những vướng mắc,
khó khăn phát sinh trong việc phối hợp, đặc biệt là trong tổ chức cưỡng chế thi
hành các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, trật tự an toàn
xã hội ở địa phương.
Các cơ quan có liên quan đề xuất biện pháp giải quyết những vướng mắc,
68
khó khăn trong việc phối hợp các cơ quan có liên quan và tổ chức cưỡng chế thi
hành án dân sự. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ngành, đơn vị
mình, các cơ quan hữu quan phải có trách nhiệm chỉ đạo hoặc đề xuất chỉ đạo đối
với tập thể, cá nhân thuộc ngành, đơn vị mình phối hợp chặt chẽ với cơ quan Thi
hành án dân sự. Cùng tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị mình xem xét, giải quyết các
vấn đề có liên quan đến chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan có liên quan
trong thi hành án dân sự, chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự thuộc
chức năng quản lý của ngành, đơn vị mình để phối hợp thực hiện.
3.2.3. Nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ Chấp hành viên, công chức
cơ quan thi hành án dân sự và bảo đảm các chế độ, chính sách đãi ngộ tương xứng
Để nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho Chấp hành viên, công
chức làm công tác thi hành án dân sự trong hoạt động cưỡng chế thu hồi nợ cần
thực hiện các giải pháp sau đây:
Thứ nhất, cần thường xuyên tổ chức tập huấn chuyên sâu về nội dung, trình
tự, thủ tục thực hiện hoạt động cưỡng chế thi hành án nhằm thu hồi nợ và các quy
định của pháp luật có liên quan.
Thứ hai, tổ chức kiểm tra các hoạt động kê biên, xử lý tài sản để thi hành án,
nhất là các vụ việc có giá trị lớn. Kịp thời phát hiện các sai sót để khắc phục, thông
tin rộng rãi, phổ biến các dạng sai sót, vi phạm, tồn tại, hạn chế trong tác nghiệp thi
hành án trong toàn hệ thống để Chấp hành viên, công chức làm công tác thi hành án
tổ chức nghiên cứu, đối chiếu và rút kinh nghiệm chung.
Thứ ba, tập trung chỉ đạo Chấp hành viên thực hiện tốt công tác xác minh
điều kiện thi hành án của đương sự. Trong đó, tập trung xác minh, làm rõ các thông
tin về tài sản, trên cơ sở đó, làm việc với cơ quan nhà nước quản lý chuyên ngành
để giải quyết các vấn đề khó khăn, vướng mắc phát sinh, làm rõ trường hợp nào có
thể kê biên thì áp dụng biện pháp kê biên, xử lý tài sản đảm bảo thi hành án và
trường hợp nào không thực hiện được việc kê biên thì cần kịp thời báo cáo, phối
hợp với cơ quan hữu quan hoặc có biện pháp giải quyết phù hợp, đúng quy định.
3.2.4. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thi hành án dân
69
sự
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, pháp luật về thi hành
án dân sự nói riêng có ý nghĩa quan trọng để đảm bảo hiệu quả cưỡng chế thu hồi
nợ. Ý nghĩa của công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật được thể hiện
qua kỹ năng vận động, thuyết phục của chấp hành viên để qua đó không chỉ đương
sự hiểu, nhận thức đúng về trách nhiệm, nghĩa vụ thi hành án và tự nguyện thi hành
án, giảm thiểu sự chống đối mà còn tạo sự ủng hộ của dư luận xã hội đối với công
tác thi hành án dân sự. Chính vì vậy, trong từng tác nghiệp, trình tự, thủ tục cưỡng
chế, đòi hỏi chấp hành viên phải chủ động, linh hoạt trong việc lựa chọn, giải thích
các quy định pháp luật được áp dụng để không chỉ người phải thi hành án hiểu,
nhận thức đúng mà trong nhiều trường hợp ngay chính người được thi hành án cũng
nhận thức rõ trách nhiệm phối hợp để giải quyết phù hợp những vướng mắc, khó
khăn trong quá trình thi hành án (ví dụ như: tạo điều kiện cho người phải thi hành
án có chỗ ở khi phải cưỡng chế, xử lý tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất..). Tuy
nhiên, để làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành án
dân sự, đòi hỏi chấp hành viên phải nghiên cứu, đánh giá cụ thể từng trường hợp
phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự để từ đó có sự lựa chọn, phối
hợp đúng đúng với các cơ quan, tổ chức cá nhân liên quan.
3.2.5. Tăng cường hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự
Cưỡng chế đối với quyền sử dụng đất thường liên quan đến các việc thi hành
án có giá trị lớn, phức tạp, do đó hiệu quả cưỡng chế phụ thuộc nhiều vào sự phối
hợp, ủng hộ của các cơ quan, tổ chức liên quan tại địa phương, trong đó Ban Chỉ
đạo thi hành án dân sự các cấp là đầu mối chỉ đạo, phối hợp các ngành, các địa
phương trong việc tổ chức thi hành án; chỉ đạo, định hướng xử lý các vụ án khó
khăn, phức tạp, qua đó nâng cao hiệu quả công tác thi hành án. Để nâng cao hiệu
quả hoạt động của Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự, các cấp uỷ Đảng thường xuyên
lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra hoạt động của các Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự; kịp
thời tháo gỡ hoặc đề xuất với Trung ương những vướng mắc về cơ chế chính sách
mà bản thân Ủy ban nhân dân các cấp và Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự không giải
70
quyết được. Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự các cấp cần tăng cường chỉ đạo, đôn
đốc, kiểm tra các cơ quan thi hành án dân sự trong việc thực hiện các quy định của
pháp luật về thi hành án; tham mưu cho cấp uỷ Đảng và Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cùng cấp và cấp trên tăng cường việc chỉ đạo, phối hợp các cơ quan hữu quan xử lý
những khó khăn, vướng mắc trong công tác thi hành án dân sự nói chung, đối với
các vụ việc tín dụng ngân hàng nói riêng. Đặc biệt là thành viên Ban Chỉ đạo thi
hành án dân sự các cấp cần nâng cao trách nhiệm của mình đối với hoạt động của
Ban chỉ đạo, tránh tình trạng hoạt động hình thức, hoạt động theo kiểu định kỳ trong
các dịp sơ kết, tổng kết thi hành án dân sự tại địa phương.
Về phía các cơ quan thi hành án dân sự cần làm tốt công tác tham mưu cho
Ban chỉ đạo thi hành án dân sự các biện pháp, kế hoạch thi hành các vụ việc thi
hành án tín dụng ngân hàng tồn đọng, phức tạp và có giá trị lớn.
3.2.6. Nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành
án dân sự
Trong thi hành án dân sự, các khiếu nại, tố cáo thường phát sinh khi cơ quan
có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ, nhất là khi phải cưỡng chế
tài sản là quyền sử dụng đất thì đương sự có tâm lý cản trở, chống đối quyết liệt hơn
thông qua việc khiếu nại, tố cáo, do đó nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố
cáo đối với thi hành án dân sự nói chung, đối với các việc phải cưỡng chế đối với
quyền sử dụng đất nói riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc bảo đảm
thực hiện pháp luật về cưỡng chế thu hồi nợ đối với quyền sử dụng đất nhằm ngăn
ngừa và giảm thiểu các trường hợp lợi dụng các quy định pháp luật về giải quyết
khiếu nại, tố cáo để trốn tránh thi hành án, kéo dài thời gian thi hành án. Để nâng
cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo hạn chế mức thấp nhất bất cập,
tồn tại cần triển khai thực hiện tốt một số giải pháp như: tăng cường vai trò lãnh đạo
của cấp ủy Đảng, quản lý điều hành của chính quyền, đặc biệt là đề cao trách nhiệm
của Tổng cục thi hành án dân sự và các Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương trong việc bố trí cán bộ có đủ năng lực, trình độ, năng lực và
phẩm chất đảm nhiệm chức năng tiếp dân và tham mưu giải quyết kịp thời các
71
khiếu nại, tố cáo liên quan đến các vụ việc tín dụng ngân hàng.
3.2.7. Tăng cường kiểm sát, giám sát, thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động
cưỡng chế thu hồi nợ
Công tác kiểm sát, giám sát, thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động cưỡng chế
thu hồi nợ có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thực hiện đúng pháp luật thi
hành án dân sự, đặc biệt là đối với chấp hành viên và cơ quan thi hành án dân sự.
Thực tế thời gian qua các cơ quan có thẩm quyền đã thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của mình về kiểm sát, giám sát, thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động thi
hành án dân sự nói chung, cưỡng chế thu hồi nợ nói riêng, vì vậy đã kịp thời phát
hiện những vi phạm, thiếu sót trong quá trình cưỡng chế thi hành án dân sự của các
cơ quan thi hành án dân sự và kiến nghị khắc phục, xử lý kịp thời.
Chính vì vậy, việc tăng cường kiểm sát, giám sát, thanh tra, kiểm tra đối với
hoạt động cưỡng chế thu hồi nợ trong thời gian tới có ý nghĩa quan trọng trong việc
phòng ngừa vi phạm dẫn đến thiệt hại cho đương sự cũng như dẫn đến những việc bồi
thường trong thi hành án dân sự. Từ đó, các cơ quan có thẩm quyền cần tiếp tục tăng
cường công tác kiểm sát, giám sát, thanh tra, kiểm tra nhằm phát hiện, ngăn chặn và
uốn nắn kịp thời những vi phạm pháp luật của chấp hành viên, công chức thi hành án
trong cưỡng chế thu hồi nợ, đặc biệt là chú trọng kiểm tra, kiểm sát theo chuyên đề,
theo đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; kiểm tra, kiểm sát theo kiến nghị của cử
tri, nhất là kiểm tra, kiểm sát đối với những việc thi hành án liên quan đến các tổ chức
tín dụng, ngân hàng có giá trị lớn và những vụ đại án mà tài sản liên quan đến nhiều địa
phương trong cả nước…Đặc biệt là, cơ quan quản lý thi hành án dân sự cần phải
thường xuyên kiểm tra đối với các cơ quan thi hành án dân sự nhằm đảm bảo thực hiện
đúng các trình tự, thủ tục cưỡng chế thu hồi nợ nhằm hạn chế thấp nhất tình trạng để
xảy ra sai sót, vi phạm và kịp thời chấn chỉnh, khắc phục kịp thời những vi phạm có thể
dẫn đến việc phải thực hiện trách nhiệm bồi thường nhà nước.
3.2.8. Bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện tiến hành cưỡng chế thu
hồi nợ
Kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ quan thi hành án dân
72
sự hiện nay còn rất hạn chế nên trong điều kiện làm việc khó khăn thì chấp hành
viên rất dễ bị dao động về lập trường tư tưởng và nguy cơ ngại áp dụng biện pháp
cưỡng chế hoặc thực hiện việc cưỡng chế thu hồi nợ chậm trễ, sai sót là khó tránh
khỏi. Do đó, để đảm bảo hiệu quả cưỡng chế thu hồi nợ, tăng cường sự tích cực áp
dụng biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ thì phải đáp ứng đầy đủ và kịp thời kinh phí
hoạt động cho cơ quan thi hành án dân sự, tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện
hoạt động, đặc biệt là xây dựng trụ sở, hệ thống kho tang vật, tài sản của các cơ
quan thi hành án dân sự. Đây cũng là giải pháp phù hợp với chủ trương cải cách tư
pháp trong lĩnh vực thi hành án đã được định hướng tại Nghị quyết 49-NQ/TW, đó
là "từng bước xây dựng trụ sở làm việc của các cơ quan tư pháp khang trang, hiện
đại, đầy đủ tiện nghi". Theo đó, tăng cường mức tạm ứng chi phí cưỡng chế thi
hành án dân sự và kịp thời bổ sung tạm ứng chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự đã
được quyết toán khoản do Ngân sách Nhà nước chịu. Trang bị đầy đủ công cụ hỗ
trợ để cấp cho chấp hành viên sử dụng theo quy định của pháp luật, với các loại dùi
cui điện, dùi cui cao su, găng tay điện; phương tiện xịt hơi cay, chất gây mê; các
loại súng dùng để bắn đạn nhựa, đạn cao su, hơi cay, chất gây mê và các loại đạn sử
dụng cho các loại súng này để góp phần bảo vệ an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản
của chấp hành viên và những người khác tham gia cưỡng chế thi hành án dân sự.
3.2.9. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và khoa học kỹ thuật trong
thi hành án
Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong cưỡng chế thi hành án dân
sự với việc chú trọng thông tin tuyên truyền về tự nguyện và cưỡng chế thi hành án
dân sự với việc chú trọng thông tin tuyên truyền về tự nguyện và cưỡng chế thi
hành án dân sự trên phương tiện thông tin đại chúng, nâng cao năng lực sử dụng
phương tiện công nghệ thông tin trong hoạt động thi hành án dân sự nói chung và
cưỡng chế nói riêng, quản lý sử dụng hạ tầng kỹ thuật, xây dựng và triển khai áp dụng
73
đến các cơ quan thi hành án trong toàn quốc phần mềm quản lý quá trình thụ lý.
KÊT LUẬN CHƯƠNG 3
Cưỡng chế thi hành án dân sự với tính chất đặc thù là dùng quyền lực nhà
nước áp đặt đối với đối tượng bị cưỡng chế thi hành án dân sự, bảo đảm cho các bản
án, quyết định được nghiêm chỉnh thi hành, góp phần thực hiện chức năng quản lý
xã hội của nhà nước. Việc tổ chức cưỡng chế thực hiện một cách đúng đắn, phù hợp
và đạt hiệu quả cao sẽ có hiệu quả cho việc cưỡng chế thi hành án dân sự và nâng
cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Nếu việc tiến hành cưỡng chế thi hành án
dân sự thực hiện không có căn cứ, sai trình tự, thủ tục, không đúng thẩm quyền, đối
tượng và không phù hợp với đặc trưng bản chất pháp lý của vụ việc cưỡng chế thi
hành án dân sự sẽ làm giảm hiệu lực, hiệu quả thi hành án. Hiệu quả cưỡng chế thi
hành án dân sự sẽ ảnh hưởng bởi nhiều hoạt động, công đoạn khác nhau, từ xác
minh điều kiện cưỡng chế, lựa chọn biện pháp cưỡng chế, ra quyết định cưỡng chế,
đến lựa chọn biện pháp cưỡng chế, ra quyết định cưỡng chế và tổ chức thực hiện
quyết định cưỡng chế… Tổ chức thực hiện quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự
là công việc khó khăn và phức tạp nhất khi tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự
mà hầu hết các vụ việc cưỡng chế thi hành án dân sự đều phải trải qua.
Cưỡng chế thi hành án dân sự không chỉ phát huy hiệu quả ngay sau khi tiến
hành xong một vụ việc cưỡng chế mà còn phát huy tác dụng trong một thời gian dài
sau đó. Thực trạng cưỡng chế thi hành án cũng đã chỉ ra rằng, việc cưỡng chế thi
hành án dân sự để có thể thành công, đạt được hiệu quả phụ thuộc vào rất nhiều yếu
tố: năng lực tổ chức thực hiện quyết định cưỡng chế, sự phối hợp giữa các lực
lượng tham gia cưỡng chế, thái độ hợp tác, ý thức chấp hành của các bên đương sự,
đặc biệt là nó còn phụ thuộc rất lớn vào nội dụng các quy định pháp luật về cưỡng
chế thi hành án dân sự. Nếu các quy định của pháp luật thi hành án dân sự đầy đủ,
khoa học, rõ ràng, phù hợp với thực tiễn sẽ giúp cho việc cưỡng chế thi hành án dân
sự thành công, đạt hiệu quả cao. Ngược lại, nếu quy phạm pháp luật về cưỡng chế
thi hành án dân sự nằm rải rác ở nhiều văn bản, quy định không rõ ràng, mâu thuẫn,
chồng chéo sẽ dẫn đến khó khăn trong nhận thức và thực hiện. Ở góc độ này, những
74
bất cập của lý luận và pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự được coi là tiêu chí
có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà nghiên cứu, các cơ quan quản lý nhà nước,
những ở góc độ khác, những vi phạm trong cưỡng chế thi hành án dân sự không
được phát hiện và xử lý thì cưỡng chế thi hành án chưa hiệu quả. Với các giải pháp
được đưa ra, công tác thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội sẽ được đạt
75
được nhiều kết quả khả quan trong thời gian tới.
KẾT LUẬN
Thi hành án dân sự là hoạt động quan trọng đảm bảo hiệu lực của các bán án,
quyết định trên thực tế, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, tổ chức và
cá nhân liên quan. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ trong THADS
nhằm thi hành bản án, quyết định của Tòa án có một vai trò quan trọng trong việc
đảm bảo hiệu lực của các phán quyết dân sự của Tòa án. Hiệu quả của việc cưỡng
chế là cơ sở, tiền đề cho sự thành công, hiệu quả của một vụ thi hành án về tài sản
khi đương sự không tự nguyện thi hành. Từ thực tế công tác thi hành án dân sự trên
địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm qua cho thấy việc áp dụng các biện
pháp cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự nhằm thi hành bản án, quyết
định của Tòa án cũng còn những tồn tại, hạn chế nhất định. Do đó, yêu cầu phải
hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự nói chung, quy
định về các biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ là một yêu cầu cấp thiết nhằm tạo điều
kiện cho các cơ quan Thi hành án dân sự và Chấp hành viên có căn cứ pháp lý cụ
thể, rõ ràng nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự nói riêng
và việc bảo đảm cho một trật tự pháp luật của Nhà nước nói chung. Qua việc nghiên
cứu thực tiễn áp dụng các biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ, chúng ta thấy còn khá
nhiều hạn chế, để khắc phục những hạn chế, cần phải có những giải pháp đồng bộ
và khả thi, cụ thể như: Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong thi
hành án dân sự đặc biệt là trong công tác cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án
dân sự. Cần có sự đối chiếu quy định về cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân
sự giữa các văn bản để khắc phục những quy định chưa đồng bộ, bổ sung những
khoảng trống chưa được pháp luật điều chỉnh. Đảm bảo sự thống nhất các quy định
trong từng văn bản cũng như giữa các văn bản pháp luật. Trên cơ sở hiện thực hóa
các biện pháp xử lý cụ thể đó là kiện toàn tổ chức, bộ máy cơ quan thi hành án dân
sự; nâng cao trình độ năng lực của đội ngũ Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân
sự; nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban chỉ đạo thi hành án dân sự các cấp trên địa
bàn thành phố Hà Nội; nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi
76
hành án dân sự; tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan thi hành án dân sự
với các cơ quan hữu quan trong việc thực hiện, và đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật, phát huy được tính tích cực của việc xã hội hóa nhằm
huy động các nguồn lực của xã hội đề đưa ngành THADS lên một tầm cao mới, hy
vọng sẽ nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ trên địa bàn
thành phố Hà Nội. Thực hiện đồng bộ các giải pháp đổi mới tư duy, hoàn thiện
khung pháp luật và cơ chế áp dụng sẽ tạo những tác động thực tế đến việc áp dụng
biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành bản án, quyết định của Tòa án, góp
77
phần đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính
trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt nam đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội;
2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính
trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội;
3. Ban Chấp hành trung ương (2014), Số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 Kết luận của
Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về chiến lược cải cách tưp háp đến năm
2020, Hà Nội;
4. Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính - Bộ Lao động thương binh xã hội - Ngân hàng
nhà nước Việt Nam (2014), Số 02/2014/TTLT-BTP-BTC-BLĐTBXH-
NHNNVN ngày 14/01/2014 hướng dẫn việc cung cấp thông tin về tài khoản,
thu nhập của người phải thi hành án và thực hiện phong tỏa, khấu trừ để thi
hành án, Hà Nội;
5. Bộ Tư pháp - Tòa án nhân dân tối cao - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
(2010), Số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 hướng
dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành
trong thi hành án dân sự, Hà Nội;
6. Bộ Tư pháp - Bộ Công an (2012), Số 03/2012/TTLT-BTP-BCA ngày 30/3/2012
quy định cụ thể việc phối hợp bảo vệ cưỡng chế trong thi hành án dân sự, Hà
Nội;
7. Chính phủ (2015), Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án
dân sự, Hà Nội;
8. Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội, Báo cáo thống kê kết quả thi
78
hành án năm 2014, 2015,2016,2017, 2018, Hà Nội;
9. Lê Anh Tuấn (2015), Những điểm mới về cưỡng chế thi hành án dân sự, tạp
chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Thi hành án dân sự năm 2015;
10. Lê Đình Nam (2012), Biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền trong
hoạt động thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội, luận văn thạc
sĩ luật học, Hà Nội;
11. Lê Thu Hà (Chủ biên) (2012), Giáo trình kỹ năng thi hành án dân sự, Nxb
Tư pháp, HàNội.
12. Lê Tuấn Anh (2017), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cưỡng chế thi
hành án dân sự ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội;
13. Lê Xuân Tùng (2016), Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo
pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn thành phố Hà Nội, luận văn thạc sĩ
Luật học, Hà Nội;
14. Nguyễn Công Long (2000), Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự,
thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện, luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội;
15. Nguyễn Doãn Phương (2016), Một số vướng mắc khi áp dụng các biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự, tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 08/2016;
16. Nguyễn Thanh Phong (2011), Biện pháp cưỡng chế, kê biên tài sản trong thi
hành án dân sự, luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội;
17. Nguyễn Thanh Thủy (2008), Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt
Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội;
18. Nguyễn Thị Kim Tuyến (2010), Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự
ở thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội;
19. Nguyễn Trọng Tân (2008), Áp dụng pháp luật trong cưỡng chế thi hành án
dân sự ở Việt Nam hiện nay, luận văn thạc sĩ Luật học;
20. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự, HàNội.
21. Quốc hội (2008), Luật Thi hành án dân sự, HàNội;
22. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
79
HàNội;
23. Quốc hội (2013), Luật Đất đai, HàNội;
24. Quốc hội (2014), Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung), HàNội;
25. Quốc hội (2015), Nghị quyết số 107/2015/QH13 ngày 26/11/2015 về việc
thực hiện chế định thừa phát lại, HàNội;
26. Quốc hội (2015), Nghị quyết số 111/2015/QH13 ngày 27/11/2015 về công
tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện Kiểm sát
nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2016 và các
năm tiếp theo, HàNội;
27. Quốc hội (2012), Nghị quyết số 36/2012/QH13 về việc tiếp tục thí điểm chế
định Thừa phát lại đến hết ngày 31/12/2015;
28. Thủ tướng chính phủ (2012), Quyết định số 510/QĐ-TTg ngày 25/03/2012 về
việc phê duyệt Đề án “tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại”;
29. Trần Công Thịnh, Thực tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để
thi hành án dân sự và một số khuyến nghị, tạp chí Khoa học ĐHQGHN số
24/2008;
30. Trần Phương Thảo (2018), Hoàn thiện pháp luật về các biện pháp cưỡng chế
thi hành án, tạp chí Luật học số 11/2018;
31. Trần Phương Thảo (2007), Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, tạp
chí Luật học số 07/2007;
32. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật THADS Việt Nam, Hà
80
Nội.