VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ NGỌC PHÚC

CƯỠNG CHẾ THI HÀNH BẢN ÁN VỀ THU HỒI NỢ

CHO NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT

THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ NGỌC PHÚC

CƯỠNG CHẾ THI HÀNH BẢN ÁN VỀ THU HỒI NỢ

CHO NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT

THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Luật kinh tế

Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS: ĐINH DŨNG SỸ

HÀ NỘI, 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số

liệu, trích dẫn trong luận văn hoàn toàn trung thực. Những kết quả trong

luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Vũ Ngọc Phúc

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH BẢN ÁN VỀ THU HỒI NỢ CHO NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ .............................................. 9

1.1.Khái niệm và vai trò của cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự ............................. 9 1.2. Khái niệm, nội dung, vai trò và các yếu tố tác động đến việc thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự ............................................................. 15

Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH BẢN ÁN VỀ THU HỒI NỢ CHO NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........................................................................... 29

2.1. Thực trạng pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự .......................... 29 2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội ................................................................................. 42 Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH BẢN ÁN VỀ THU HỒI NỢ CHO NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ .................................................................................................................... 60

3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại ........................................................ 60 3.2. Giải pháp hoàn thiện và bảo đảm hiệu quả thi hành bản án về cưỡng chế thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự ......... 65 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 78

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Kết quả thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội ............ 44

từ năm 2014 đến năm 2018 về việc ................................................................ 44

Bảng 2.2: Kết quả thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội ............ 44

từ năm 2014 đến năm 2018 về tiền ................................................................. 44

Bảng 2.3: Kết quả việc áp dụng cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho

Ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2014 đến 2018

......................................................................................................................... 45

Bảng 2.4: Kết quả áp dụng đối với từng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân

sự nhằm thu hồi nợ trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2014 ................... 46

đến năm 2018 .................................................................................................. 46

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong đời sống xã hội, các hoạt động kinh doanh, thương mại nhằm đáp ứng

các nhu cầu vật chất và tinh thần chủ yếu được thực hiện thông qua các giao dịch

dân sự, kinh tế trên cơ sở giao kết và thực hiện hợp đồng. Khi thiết lập các giao

dịch, hợp đồng, vấn đề các bên quan tâm là thực hiện các cam kết, thỏa thuận, khả

năng thực hiện nghĩa vụ - điều kiện đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên,

nhất là đối với các quan hệ dân sự liên quan đến các Ngân hàng thương mại.

Hoạt động tín dụng, ngân hàng theo nghĩa chung nhất là quan hệ giao dịch

giữa bên cho vay và bên vay, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho các

bên vay một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một khoảng thời

gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi phát sinh.

Thực tiễn cho thấy, hiện nay, rất nhiều trường hợp bên vay không đủ khả năng

thanh toán lãi và gốc cho ngân hàng do nhiều nguyên nhân khác nhau như làm ăn

thua lỗ, phá sản....Chính những yếu tố này đã làm cho trong những năm gần đây,

các bản án xét xử và việc thi hành án dân sự liên quan đến các Ngân hàng thương

mại tăng vọt. Chỉ tính riêng tại thành phố Hà Nội, năm 2019, việc thi hành các bản

án để thu hồi nợ liên quan đến ngân hàng thương mại đã thụ lý khoảng 4 nghìn việc

tương đương với số tiền gần 30 nghìn tỷ đồng; đặc biệt với sự xuất hiện của các vụ

đại án có số tiền phải thi hành rất lớn, có tính chất đặc biệt phức tạp, nhiều vụ việc

không có điều kiện thi hành hoặc bán đấu giá tài sản không có người mua.....

Thực tế, không phải lúc nào người phải thi hành án có điều kiện thi hành đều

tự nguyện trả tiền cho ngân hàng thương mại. Dẫn đến, cơ quan Thi hành án dân sự

phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế để thu hồi nợ cho ngân hàng. Nhưng khi cơ

quan Thi hành án dân sự tổ chức cưỡng chế thi hành án các bản án để thu hồi nợ

cho các Ngân hàng thương mại thường rất khó khăn, quá trình thi hành án diễn ra

hết sức phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức; liên

quan đến nhiều cơ quan khác nhau. Các cơ quan thi hành án dân sự thường phải

1

chịu áp lực, tác động từ nhiều phía. Trong khi đó, để tổ chức thi hành án các bản án

để thu hồi nợ cho ngân hàng được nhanh chóng và đúng đắn, ngoài việc nắm vững

nội dung quyết định bản án, quyết định được đưa ra thi hành, nội dung yêu cầu thi

hành án của phía ngân hàng thương mại thì cơ quan thi hành án dân sự còn phải

nắm vững được tất cả những vấn đề khác có liên quan đến việc thi hành án như địa

chỉ, tài sản, thu nhập...của người phải thi hành án. Tuy nhiên, người phải thi hành án

thường giấu giếm các thông tin về địa chỉ, tài sản, thu nhập của họ...để trốn tránh

việc thi hành án.

Pháp luật Việt Nam hiện hành đã từng bước được hoàn thiện tạo ra hành lang

pháp lý cần thiết để hoạt động cưỡng chế thi hành bản án nói chung và cưỡng chế

thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại nói riêng diễn ra thuận

lợi, có hiệu quả. Tuy nhiên, Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014

và các thông tư, quy chế có liên quan vẫn còn những hạn chế nhất định dẫn đến

thực tiễn tổ chức cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương

mại còn nhiều bất cập, chưa thực sự phát huy hết hiệu quả. “Công lý bị trì hoãn

cũng có nghĩa là công lý bị từ chối” (Justice delayed is justice denied). Cải thiện

môi trường đầu tư kinh doanh đang đặt ra nhiều thách thức cũng như cơ hội, đòi

hỏi các cơ quan THADS phải có những nỗ lực, chuyển mình, từ tư duy, nhận thức

cho đến những hành động cụ thể là việc làm có tính cấp bách và có ý nghĩa chiến

lược, nhất là việc việc thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại lại càng cấp bách,

góp phần giải phóng nguồn lực kinh tế bị “đóng băng” trong các khoản nợ xấu,

thúc đẩy các giao dịch liên quan đến kinh tế phát triển, tạo công ăn việc làm cho

xã hội....

Bằng đề tài “Cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng

thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự từ thực tiễn từ thành phố Hà Nội”

luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về cưỡng chế thi hành án bản

án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự, đem

đến cho người đọc cái nhìn toàn cảnh về thực tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội,

2

chỉ rõ và phân tích nguyên nhân của những vướng mắc từ đó kiến nghị một số giải

pháp để nâng cao chất lượng công tác cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho

ngân hàng thương mại trong thời gian tới.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trong khoảng thời gian năm năm trở lại đây chứng kiến sự gia tăng đáng kể

các đề tài nghiên cứu về THADS, có thể kể đến các đề tài:

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước “Luận cứ khoa học của việc đổi

mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới” do Bộ Tư

pháp chủ trì.

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi

hành án” do Tổng cục THADS – Bộ Tư pháp chủ trì.

- Các sách “Kỹ năng thi hành án dân sự” của Học viện Tư pháp; Giáo trình

“Luật Thi hành án dân sự Việt Nam” của Trường Đại học Luật Hà Nội; “Sổ tay

Chấp hành viên” của tác giả Lê Thu Hà; “Xử lý tình huống trong thi hành án dân sự

và các văn bản pháp luật về thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn Thanh Thủy,

Lê Thị Kim Dung; “Sổ tay nghiệp vụ thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn Văn

Luyện...

- Các đề tài luận án tiến sĩ: “Hoàn thiện pháp luật THADS ở Việt Nam hiện

nay” luận án của tác giả Nguyễn Thanh Thủy; “Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong

hoạt động THADS ở Việt Nam hiện nay” luận án của tác giả Nguyễn Quang Thái;

“Hiệu qủa áp dụng pháp luật trong THADS ở Việt Nam” của tác giả Đặng Đình

Quyền; “Giám sát THADS ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Hoàng Thế Anh...

- Đối với các đề tài nghiên cứu về cưỡng chế thi hành án: “Một số vấn đề lý

luận và thực tiễn về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam”, Lê Anh Tuấn, Luận

án tiến sĩ Luật học, Hà Nội, 2017; “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự

theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn thành phố Hà Nội”, Lê Xuân Tùng,

luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2016; “Biện pháp cưỡng chế, kê biên tài sản

trong thi hành án dân sự”, Nguyễn Thanh Phong, luận văn thạc sĩ Luật học, Hà

Nội, 2011; “Biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền trong hoạt động thi

3

hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội”, Lê Đình Nam, luận văn thạc sĩ luật

học, 2012. Ngoài ra, còn có các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành của các

chuyên gia, các nhà nghiên cứu khoa học như: “Hoàn thiện pháp luật về các biện

pháp cưỡng chế thi hành án” của tác giả Trần Phương Thảo, tạp chí Luật học số

11/2018; “Một số vướng mắc khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân

sự” của tác giả Nguyễn Doãn Phương, tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 08/2016…

Nhìn chung, các công trình khoa học trên đây đã nghiên cứu và làm sáng tỏ

một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thi hành án dân sự nói chung, cưỡng chế thi

hành án dân sự nói riêng. Tuy nhiên, các công trình này đều chú trọng nghiên cứu

toàn diện về cưỡng chế thi hành án, chưa có công trình nào tập trung đi sâu vào

phân tích cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo

pháp luật thi hành án dân sự, đặc biệt là của địa phương có những đặc thù riêng

biệt với lượng án nhiều, phức tạp nhất cả nước như Hà Nội. Vì vậy, sau khi nghiên

cứu, tiếp thu có chọn lọc các quan điểm, phân tích, đánh giá của các công trình khoa

học trên, tác giả xác định việc nghiên cứu chuyên sâu cưỡng chế thi hành bản án về

thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự từ thực tiễn

trên địa bàn thành phố Hà Nội là cần thiết và có giá trị áp dụng thực tế.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về cưỡng chế thi hành bản

án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự; thực tiễn áp

dụng cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi

hành án dân sự tại thành phố Hà Nội (trong đó tập trung đánh giá những ưu điểm,

hạn chế, bất cập và nguyên nhân từ thực tiễn áp dụng cưỡng chế thi hành bản án về

thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự tại Hà Nội),

luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng cưỡng chế

thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự trên

địa bàn thành phố Hà Nội trước yêu cầu mới.

4

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được các mục đích đặt ra trên đây, luận văn thực hiện các nhiệm vụ chủ

yếu sau đây:

- Phân tích khái niệm, đặc điểm; vai trò và ý nghĩa của cưỡng chế thi hành bản

án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự; pháp

luật về cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại tại Việt

Nam.

- Phân tích, đánh giá tác động của vị trí địa lý, tự nhiên và kinh tế - xã hội tác

động đến việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân

hàng thương mại trong thi hành án dân sự thành phố Hà Nội; phân tích những ưu

điểm, hạn chế, bất cập và nguyên nhân từ thực tiễn cưỡng chế thi hành bản án về

thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự tại Hà Nội.

- Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả cưỡng chế thi hành

bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự trên địa

bàn thành phố Hà Nội.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản quy định của pháp luật

THADS và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành bản

án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tại

thành phố Hà Nội.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại

trong thi hành án dân sự là một vấn đề nghiên cứu tương đối lớn, có phạm vi nghiên

cứu rộng nên có thể được nghiên cứu dưới nhiều phương diện khác nhau và với

nhiều nội dung khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả tập trung

nghiên cứu vào những nội dung cơ bản như sau:

- Nghiên cứu cơ quan trực tiếp tổ chức THADS trong thành phố Hà Nội gồm

cơ quan THADS cấp thành phố (Cục THADS thành phố Hà Nội) và cơ quan

5

THADS cấp huyện (Chi cục THADS quận, huyện, thị xã trực thuộc) với các cơ

quan có liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan THADS. Các “cơ quan”

trong phạm vi nghiên cứu của luận văn là các cơ quan Nhà nước hoặc đơn vị

chuyên môn thuộc cơ quan Nhà nước.

- Nghiên cứu những quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến cưỡng

chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự

và đánh giá thực tiễn cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương

6

mại trong thi hành án dân sự tại thành phố Hà Nội.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu luận án là các quan điểm của chủ nghĩa

Mác – Leenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về

nhà nước và pháp luật; xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN; về đổi mới và tổ

chức hoạt động của nhà nước, nhất là nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật. Bên

cạnh đó, tác giả luận văn cũng sử dụng các quan điểm khoa học được rút ra từ các

công trình nghiên cứu trước đó.

Các phương pháp nghiên cứu chủ đạo của luận văn là phương pháp duy vật

biện chứng và duy vật lịch sử. Để hoàn thành luận văn, tác giả cũng sử dụng các

phương pháp truyền thống khác như phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, quy

nạp, so sánh, thống kê...., trong đó:

- Phương pháp lịch sử, phân tích, quy nạp được sử dụng chủ yếu tại Chương 1,

nêu lên các cơ sở lý thuyết của vấn đề đặt ra, từ đó khái quát hóa thành những luận

điểm, quan điểm nền tảng lý thuyết xuyên suốt nội dung của luận văn.

- Phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê được áp dụng nhằm làm

rõ những nội dung của Chương 2. Đây là chương phân tích thực tiễn về cưỡng chế

thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự tại

thành phố Hà Nội với những ví dụ, số liệu cụ thể qua đó rút ra những ưu điểm, tồn

tại, hạn chế tạo cơ sở đề xuất các giải pháp tại Chương 3. Ngoài ra phương pháp

phân tích cũng được áp dụng nhằm làm sáng tỏ những nhận định, quan điểm đã

được đưa ra về những vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài luận văn.

- Phương pháp phân tích, chứng minh được sử dụng chủ yếu tại Chương 3 để

làm rõ những quan điểm, giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả thực hiện pháp luật về

cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành

án dân sự phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền

XHCN ở nước ta hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

- Luận văn đã nghiên cứu tương đối toàn diện, đầy đủ về thực tiễn cưỡng

7

chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân

sự tại thành phố Hà Nội. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ

những vấn đề lý luận về cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng

thương mại trong thi hành án dân sự ở Việt Nam nói chung và thành phố Hà Nội

nói riêng.

- Luận văn đã đi sâu nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng pháp luật về cưỡng

chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự

hiện nay và thực tiễn tại thành phố Hà Nội, chỉ ra những kết quả đạt được, nguyên

nhân của kết quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế trong việc thực thi pháp

luật về thi hành án dân sự.

- Luận văn đã đưa ra các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng

thi hành án dân sự công tác thi hành án dân sự tại thành phố Hà Nội từ nay và tầm

nhìn trong thời gian tới.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận

văn có kết cấu 3 chương, gồm:

- Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về cưỡng chế thi hành bản án thu hồi

nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự.

- Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án dân sự về cưỡng chế

thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại tại thành phố Hà Nội.

- Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi

8

hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại từ thực tiễn thành phố Hà Nội.

Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH BẢN ÁN VỀ THU HỒI NỢ CHO NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1.Khái niệm và vai trò của cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ

cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự

1.1.1. Khái niệm cưỡng chế thi hành bản án dân sự và cưỡng chế thi hành

bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự

Hoạt động Thi hành án dân sự được hiểu là quá trình thực hiện các quyền và

nghĩa vụ dân sự của các bên khi được bản án, quyết định của Tòa án và các cơ quan

có thẩm quyền khác ghi nhận. Tuy nhiên, khi hết thời hạn tự nguyện thi hành án,

nếu người phải thi hành án mặc dù có điều kiện thi hành án nhưng cố tình trốn

tránh, trì hoãn, không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình thì lúc này Cưỡng chế

thi hành án được xem là công cụ hữu hiệu nhất để bản án, quyết định của Tòa án

được thực thi triệt để. Tại điều 45 và Điều 46 - Luật thi hành án dân sự cũng quy

định sau khi hết thời gian tự nguyện thi hành án là 10 ngày, kể từ ngày người phải

thi hành án có điều kiện thi hành mà không thi hành hoặc trong trường hợp cần

ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn

tránh việc thi hành án, thì Chấp hành viên có quyền áp dụng kịp thời các biện pháp

cưỡng chế thi hành án.

Vậy cưỡng chế thi hành bản án dân sự được hiểu như thế nào?

Cưỡng chế Nhà nước là dùng quyền lực Nhà nước bắt buộc cá nhân, tổ chức

thực hiện hoặc không thực hiện một công việc nhất định trái với ý muốn của họ.

Cưỡng chế gắn liền với hoạt động quản lý Nhà nước và là phương pháp thường

xuyên được áp dụng trong quản lý Nhà nước [32-Tr.63].

Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp thi hành án dân sự dùng

9

quyền lực nhà nước buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ thi hành án dân

sự của họ, do chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có

điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án.

Bản án là văn bản ghi nhận phán quyết của Toà án sau khi xét xử một vụ

án.Thuật ngữ “bản án” được sử dụng lần đầu tyên tại Sắc lệnh thiết lập các toà án

quân sự ngày 13/9/1945. Tuy nhiên, đến ngày 3/3/1969 Toà án nhân dân tối cao

mới ban hành Thông tư số 1-UB hướng dẫn về cơ cấu bản án và cách viết bản án.

Bản án đánh dấu sự kết thúc toàn bộ quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cho nên nội

dung của nó phải phản ánh những kết quả của phiên tòa và ý kiến phân tích, đánh

giá của hội đồng xét xử. Thẩm phán chủ toạ phiên toà có nhiệm vụ viết bản án. Một

số nước, thuật ngữ bản án chỉ dùng trong trường hợp xét xử vụ án hình sự, còn

trong việc giải quyết vụ kiện dân sự thì văn bản ghi nhận quyết định của toà án

tuyên xử gọi là quyết định của toà án. Ở Việt Nam, trong lĩnh vực hình sự cũng như

dân sự đều dùng thuật ngữ chung là bản án. Bản án trong lĩnh vực hình sự gọi là bản

án hình sự. Bản án trong lĩnh vực dân sự gọi là bản án dân sự [32-Tr.63].

Cưỡng chế thi hành án bản án dân sự là biện pháp cưỡng bức bắt buộc của

các cơ quan có thẩm quyền thi hành án, do Chấp hành viên quyết định theo thẩm

quyền nhằm buộc người phải thi hành án phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa

vụ về tài sản theo bản án, quyết định Cưỡng chế thi hành án được áp dụng trong

trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi

hành, hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu

tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án.

Như vậy, từ những khái niệm này có thể xác định được những vấn đề về

cưỡng chế thi hành bản án dân sự như sau:

- Chủ thể áp dụng cưỡng chế thi hành án là các Chấp hành viên được cơ quan

thi hành án phân công theo quyết định phân công để giải quyết thi hành án theo

từng vụ việc cụ thể.

- Khách thể: là việc thực thi các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực

10

pháp luật và các cơ quan có thẩm quyền khác.

- Đối tượng: là người phải thi hành án được nêu trong phán quyết của Tòa

án, có thể là cá nhân, tổ chức, cơ quan…

- Mục đích áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành bản án dân sự là buộc người

phải thi hành án thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản, hoặc cần ngăn chặn

người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án.

Trong phạm vi bài viết, luận văn chỉ tập trung vào mục đích cưỡng chế thi

hành bản án dân sự nhằm thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại. Trong đó, thu hồi

nợ được hiểu là là yêu cầu khách nợ thanh toán cho chủ nợ các khoản tiền, tài sản

khác đến hạn/quá hạn mà khách nợ phải trả cho chủ nợ theo hợp đồng hoặc thỏa

thuận giữa chủ nợ và khách nợ hoặc theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm

quyền [19-Tr.62]. Doanh nghiệp đạt trạng thái hoạt động lý tưởng khi không nợ quá

hạn và không bị doanh nghiệp nào đó chiếm dụng vốn quá thời gian quy định. Tuy

nhiên, thật khó để tìm ra doanh nghiệp nào có thể đạt được trạng thái này trong

hàng trăm ngàn doanh nghiệp tại Việt Nam. Trên thực tế, các doanh nghiệp đều

muốn chiếm dụng vốn được của doanh nghiệp khác càng lâu, càng có lợi cho mình,

đặc biệt khi mà hoàn cảnh kinh tế khó khăn như những năm gần đây. Và bằng

chứng là hầu hết các doanh nghiệp bị phá sản bởi không thể thanh toán được các

khoản nợ, hoặc không thể thanh khoản các khoản nợ của khách nợ quá hạn.

Như vậy có thể hiểu cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng

thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự là: là biện pháp thi hành án dân sự

dùng quyền lực Nhà nước nhằm buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ về

tài sản để thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo bản án, quyết định của Tòa án

đã có hiệu lực pháp luật, do Chấp hành viên thuộc cơ quan thi hành án có thẩm

quyền áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành nhưng

không tự nguyện thi hành án.

Cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trong

thi hành án dân sự có những đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, cưỡng chế thu hồi nợ thể hiện quyền năng đặc biệt của Nhà nước

11

và được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực Nhà nước. Chỉ có cơ quan chức năng và

người có thẩm quyền được Nhà nước quy định mới được phép áp dụng các biện

pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo luật định. Ở nước ta, thẩm quyền thực hiện

cưỡng chế thi hành án dân sự thuộc về cơ quan Thi hành án dân sự các cấp và người

có thẩm quyền là các Chấp hành viên được phân công thực hiện nhiệm vụ.

Thứ hai, cưỡng chế thi hành án là một nguyên tắc cơ bản trong thi hành án

dân sự. Điều 9 Luật Thi hành án dân sự quy định: “1. Nhà nước khuyến khích

đương sự tự nguyện thi hành án. 2. Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án

mà không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của luật

này.” Luật này cũng quy định người phải thi hành án có thời gian tự nguyện thi

hành án là 10 ngày kể từ ngày họ nhận được quyết định thi hành án hoặc được

thông báo hợp lệ quyết định thi hành án. Như vậy, tinh thần của Điều luật đã thể

hiện quan điểm việc thi hành án được tổ chức tuân theo nguyên tắc kết hợp giữa

thái độ tự nguyện của người phải thi hành án và sự cưỡng chế của Nhà nước thông

qua hoạt động của cơ quan thi hành án và Chấp hành viên. Tuy nhiên, có thể hiểu

Nhà nước đã trao cho đương sự quyền lựa chọn phương thức thi hành án, và sự tự

nguyện thi hành án được khuyến khích thực hiện trước khi Nhà nước phải áp dụng

biện pháp cưỡng chế thi hành án.

Thứ ba,cưỡng chế thi hành án bản án dân sự không chỉ có hiệu lực bắt buộc

đối với người phải thi hành án mà tất cả những cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên

quan đều phải tôn trọng và thực hiện. Nói một cách khác, để đảm bảo hoạt động

cưỡng chế thi hành án đạt hiệu quả, các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đều

phải có trách nhiệm phối hợp và thực hiện. Chẳng hạn Chấp hành viên ra quyết định

cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của ông A, trong

khi đó gia đình ông B hiện đang ở nhờ trên diện tích đất này thì ngoài ông A, gia

đình ông B cũng phải có trách nhiệm thực hiện quyết định này của cơ quan thi hành

án.

Thứ tư, người phải thi hành án phải chịu mọi chi phí về cưỡng chế. Khi áp

dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, ngoài việc phải thực hiện các nghĩa

12

vụ về tài sản theo bản án, quyết định của Tòa án, người phải thi hành án còn phải

chịu tất cả các chi phí để thực hiện việc cưỡng chế thi hành án, như chi phí cho việc

định giá, giám định tài sản, bán đấu giá tài sản, tiền bồi dưỡng cho những người

trực tiếp tham gia cưỡng chế và bảo vệ cưỡng chế thi hành án.

Thứ năm, việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành án chỉ được áp

dụng khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án. Chấp hành viên trong quá

trình thực hiện nhiệm vụ phải tiến hành xác minh điều kiện của người phải thi hành

án để xem người này có hay không có điều kiện thi hành án. Quy định này thể hiện

quan điểm nhân đạo của Nhà nước, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người phải thi

hành án, đồng thời cũng đảm bảo hoạt động cưỡng chế khi được áp dụng sẽ đạt hiệu

quả khả thi trong thực tiễn.

Ngoài những đặc điểm chung, hoạt động cưỡng chế thu hồi nợ cho Ngân

hàng thương mại cũng có đặc điểm riêng. Đối tượng nhắm đến của hoạt động này

không bao gồm hành vi của người phải thi hành án mà chỉ là các nghĩa vụ về tài sản

của người phải thi hành án đối với các Ngân hàng thương mại. Từ đặc điểm này đã

xác định không phải tất cả biện pháp cưỡng chế được quy định trong Luật Thi hành

án dân sự đều được áp dụng, mà chỉ những biện pháp cưỡng chế mà đối tượng mà

nó nhắm đến là tài sản của người phải thi hành án nhằm mục đích thu hồi nợ cho

Ngân hàng thương mại.

1.1.2. Vai trò của cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân

hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự

Các biện pháp cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng

thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự là công cụ pháp lý hữu hiệu nhất bảo

đảm thi hành nghiêm chỉnh, hiệu quả bản án, quyết định của Tòa án đối với các

nghĩa vụ về tài sản, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cá nhân, tổ

chức, cơ quan có liên quan. Pháp luật quy định và đề cao tính tự nguyện thi hành

của người phải thi hành án theo phán quyết đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

Tuy nhiên, vì nhiều lý do, mà chủ yếu xuất phát từ phía người phải thi hành án, việc

để các bên liên quan tự nguyện chấp hành đã không mang lại hiệu quả thi hành án

13

cao. Các biện pháp cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương

mại bằng hiệu lực cưỡng chế Nhà nước mang tính bắt buộc của mình trên thực tiễn

đã chứng minh tính hiệu quả cao và kịp thời. Nếu không có chế định cưỡng chế

nhằm thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại, các bên đương sự sẽ có tâm lý chây ì

và thiếu tôn trọng phán quyết của Tòa án nói riêng, pháp luật của Nhà nước nói

chung vì cho rằng Nhà nước thiếu cơ chế xử lý đối với các nghĩa vụ mà họ phải thi

hành, từ đó dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của Ngân hàng thương mại không

được đảm bảo. Đối với những người phải thi hành án có thái độ không hợp tác,

chống đối thì cưỡng chế thi hành án sẽ là biện pháp sử dụng sức mạnh Nhà nước

buộc họ phải chấp hành để đảm bảo lợi ích hợp pháp bị xâm hại được khôi

phục.[32-Tr.63]

Góp phần nâng cao hiệu quả của công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành

án dân sự. Nói như vậy bởi lẽ giai đoạn thi hành án là giai đoạn cuối cùng nhằm đưa

phán quyết của Tòa án thực thi trong thực tiễn. Và cưỡng chế thi hành án nói chung,

cưỡng chế thi hành bản án nhằm thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại nói riêng

khi được áp dụng và đạt hiệu quả thì không chỉ phán quyết của Tòa án được thực

thi, mà nó còn mang lại những hiệu quả gián tiếp đối với các giai đoạn tố tụng. Để

giải quyết một vụ án hình sự, phải trải qua các giai đoạn tố tụng theo những thủ tục,

trình tự chặt chẽ do luật định. Tuy nhiên, các giai đoạn tố tụng trước đó gần như sẽ

không thể hiện được nhiều giá trị, bởi nếu thiếu đi giai đoạn thi hành án dân sự thì

phán quyết của Tòa án dù trong lĩnh vực hình sự hay dân sự cũng đều khó có thể

được thực thi một cách đầy đủ, trọn vẹn, thậm chí không thể thực hiện. Vì vậy, kết

quả của hoạt động cưỡng chế thi hành án chính là sự phản ánh hiệu quả và giá trị

của hoạt động điều tra, truy tố và xét xử.

Ngoài ra, hiệu lực của hoạt động cưỡng chế có tác dụng lớn trong việc răn

đe, giáo dục ý thức tự giác chấp hành pháp luật của người phải thi hành án, góp

phần nâng cao ý thức pháp luật của người dân, tăng cường pháp chế. Rõ ràng, với

những kết quả khả quan đã đạt được, cưỡng chế thi hành án dân sự giúp người dân

hiểu rằng Nhà nước có đủ quyền năng pháp lý để thiết lập lại và ổn định trật tự xã

14

hội. Vì vậy, cưỡng chế thi hành án dân sự bằng việc sử dụng quyền lực của Nhà

nước đã có tác dụng trong việc răn đe, giáo dục ý thức tự giác chấp hành pháp luật

của người phải thi hành án nói riêng, ý thức của người dân nói chung. Đồng thời,

hoạt động cưỡng chế thi hành án vô hình chung cũng góp phần nâng cao ý thức, thái

độ tuân thủ pháp luật của người dân, và cao hơn là tăng cường pháp chế.

1.2. Khái niệm, nội dung, vai trò và các yếu tố tác động đến việc thực

hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng

thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu

hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự

Pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương

mại theo pháp luật thi hành án dân sự được hiểu là tổng hợp các quy định của pháp

luật điều chỉnh, quy định về vấn đề cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm mục đích

thu hồi nợ cho các Ngân hàng thương mại. Các quy định này được cụ thể hóa trong

Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành (các Nghị định, Thông

tư và các văn bản hưỡng dẫn chuyên ngành). Bên cạnh đó, còn có các quy định

pháp luật có liên quan đến hoạt động cưỡng chế trong lĩnh vực đất đai, ngân hàng…

Các quy định này nêu rõ những hình thức, biện pháp, cách thức, thủ tục thực hiện

việc cưỡng chế; quy định rõ ai là người thẩm quyền được áp dụng biện pháp cưỡng

chế, chủ thể bị cưỡng chế là ai, đối tượng bị cưỡng chế, trách nhiệm của các cơ

quan, tổ chức và cá nhân liên quan trong thực hiện tổ chức cưỡng chế thi hành án

dân sự.[19-Tr.62]

Như vậy, có thể hiểu rằng pháp luật về cưỡng chế thi hành án bản án dân sự

về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại là tập hợp các quy định pháp luật điều

chỉnh các vấn đề về trình tự, thủ tục, đối tượng, chủ thể và các vấn đề khác của chế

định cưỡng chế nhằm buộc người phải thi hành án phải thực hiện các nghĩa vụ về

tài sản theo bản án, quyết định của Tòa án để thu hồi nợ cho các Ngân hàng thương

mại.

Cưỡng chế thi hành án bản án thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại là giải

pháp cuối cùng được áp dụng khi đương sự, cá nhân, tổ chức liên quan không tự

15

nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định có hiệu lực thi hành.

Tuy nhiên, với mục đích thi hành các nghĩa vụ dân sự nên pháp luật về cưỡng chế

thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự

cũng có những đặc điểm có bản là:

Thứ nhất, pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân

hàng thương mại trong thi hành án dân sự đảm bảo tính độc lập và chủ động của

chấp hành viên. Trong hoạt động thi hành án dân sự, chấp hành viên là chủ thể được

Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định dân sự có hiệu lực pháp

luật, do đó khi thi hành nhiệm vụ, về nguyên tắc chấp hành viên chỉ tuân theo pháp

luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ, đặc biệt là khi phải

áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu hồi nợ cho các Ngân hàng thương mại thì chấp

hành viên phải chịu nhiều áp lực trong thực thi nhiệm vụ. Vì vậy, để đảm bảo cho

chấp hành viên thực hiện đúng các quy định pháp luật về cưỡng chế thu hồi nợ cho

Ngân hàng thương mại thì các cơ quan, tổ chức và cá nhân phải có trách nhiệm phối

hợp theo đúng phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình; mọi hành vi cản

trở, can thiệp trái pháp luật đối với hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, chấp

hành viên đều phải bị xử lý theo quy định của pháp luật. Tính chủ động, độc lập của

chấp hành viên được pháp luật quy định cụ thể tại Điều 20 Luật Thi hành án dân sự,

theo đó bao gồm các thẩm quyền như: kịp thời tổ chức thi hành vụ việc được phân

công; ra các quyết định về thi hành án theo thẩm quyền; thi hành đúng nội dung bản

án, quyết định; áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành

án dân sự... Đặc biệt là tính độc lập của chấp hành viên được đề cao trong quá trình

cưỡng chế thi hành án dân sự khi pháp luật cho phép được lựa chọn biện pháp

cưỡng chế thi hành án dân sự phù hợp (ví dụ như: Trừ vào thu nhập của người phải

thi hành án; kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do

người thứ ba giữ...). Trong quá trình thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án

dân sự, tính độc lập của chấp hành viên được thể hiện rõ nhất dưới hình thức áp

dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự thông qua việc chấp hành viên lựa

chọn biện pháp cưỡng chế cần áp dụng để tổ chức thi hành. Tuy nhiên, để đảm bảo

16

cho chấp hành viên được độc lập và chủ động trong việc áp dụng pháp luật về

cưỡng chế thu hồi nợ co Ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự thì các chủ

thể khác (đương sự, cá nhân, tổ chức liên quan) cũng phải thực hiện đúng các quyền

và nghĩa vụ của mình theo pháp luật quy định. Ví dụ như: người phải thi hành án

không được cản trở, chống đối việc cưỡng chế thi hành án; cơ quan, tổ chức liên

quan có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự theo đúng quy định

pháp luật; Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm kiểm sát việc áp dụng biện pháp

cưỡng chế thi hành án dân sự cũng như quá trình tổ chức thực hiện biện pháp cưỡng

chế thi hành án dân sự....

Thứ hai, pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân

hàng thương mại trong thi hành án dân sự đảm bảo tôn trọng quyền tự định đoạt của

các đương sự, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội. Đây là một đặc điểm đặc thù

của pháp luật về cưỡng chế thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại, bởi lẽ về nguyên

tắc, thi hành án dân sự chủ yếu là thi hành các quyết định của Tòa án mang tính chất

tài sản - đặc trưng của quan hệ dân sự, vì vậy, quyền tự định đoạt và thỏa thuận của

đương sự luôn được tôn trọng trong suốt quá trình thi hành án, kể cả khi đã áp dụng

biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Mặc dù biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ

cho Ngân hàng thương mại chỉ áp dụng khi người phải thi hành án không tự nguyện

thi hành, nhưng sau khi cơ quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp cưỡng chế,

người phải thi hành án vẫn có quyền thỏa thuận với người phải thi hành án về việc

hoãn tổ chức cưỡng chế để tự nguyện thi hành án; người được thi hành án vẫn có

quyền rút yêu cầu thi hành án để cơ quan thi hành án dân sự đình chỉ việc thi hành

án; thậm chí ngay trước khi mở cuộc đấu giá tài sản đã bị kê biên, người phải thi

hành án vẫn có quyền nhận lại tài sản của mình sau khi nộp đủ tiền thi hành án cùng

các chi phí liên quan...Chính vì sự tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự nên

trong một số trường hợp cụ thể, chủ thể có thẩm quyền có thể lựa chọn biện pháp

thích hợp để việc thi hành án được nhanh chóng, đạt hiệu quả trên cơ sở thỏa thuận

của các đương sự và trong những trường hợp như vậy việc thực hiện pháp luật về

17

cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trong thi hành

án dân sự không nhất thiết phải theo đúng như nội dung bản án, quyết định đã có

hiệu lực pháp luật.

Thứ ba, pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng

thương mại trong thi hành án dân sự phải trên cơ sở các trình tự, thủ tục được pháp

luật quy định. Trong thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên

là chủ thể có thẩm quyền được Nhà nước giao trực tiếp thi hành các bản án, quyết

định dân sự có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, để đảm bảo hiệu quả cưỡng chế thi

hành án dân sự thì vấn đề quan trọng nhất là chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện

pháp cưỡng chế thi hành án dân sự phải tuân thủ những nguyên tắc, điều kiện, trình

tự pháp luật quy định nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp

pháp của đương sự. Ví dụ như: chấp hành viên phải tuân thủ trình tự, thủ tục về kê

biên tài sản, giao bảo quản tài sản sau kê biên, thẩm định giá tài sản kê biên để đưa

ra đấu giá, giao tài sản cho người trúng đấu giá... Ngoài chủ thể có thẩm quyền áp

dụng biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại, pháp luật cũng

quy định các chủ thể khác cũng phải tuân thủ các trình tự, thủ tục nhất định để đảm

bảo thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự theo đúng quyền và nghĩa

vụ pháp luật quy định. Ví dụ như: đương sự thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo đối

với quyết định, hành vi của chấp hành viên theo đúng trình tự, thủ tục về khiếu nại,

tố cáo trong thi hành án dân sự; Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền kiến nghị,

kháng nghị theo đúng trình tự, thủ tục về kiến nghị, kháng nghị; Quốc hội, Hội đồng

nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với các chủ thể trong việc thực hiện các

quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình cưỡng chế thi hành án dân sự...

1.2.2. Nội dung của pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ

cho Ngân hàng thương mại

Một là, quy định về căn cứ cưỡng chế thi hành án dân sự: việc cưỡng chế thi

hành án phải căn cứ vào Bản án, quyết định có hiệu lực thi hành; Quyết định thi

hành án; Quyết định cưỡng chế thi hành án.

Hai là, quy định về điều kiện cưỡng chế thi hành án dân sự: Áp dụng biện

18

pháp cưỡng chế thi hành án dân sự cần có các điều kiện cơ bản như: người phải thi

hành án phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc phải thực hiện hành vi theo bản án,

quyết định có hiệu lực thi hành; người phải thi hành án có điều kiện thi hành án và

người phải thi hành án không tự nguyện thi hành. Từ những điều kiện trên, cho thấy

biện pháp cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trong

thi hành án dân sự chỉ được áp dụng khi người phải thi hành án có nghĩa vụ phải

thực hiện theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền và có thái độ, hành vi không

tự nguyện thi hành mặc dù có điều kiện thi hành án. Có điều kiện thi hành án được

hiểu là trường hợp người phải thi hành án có tài sản, thu nhập để thi hành nghĩa vụ

về tài sản; Tự mình hoặc thông qua người khác thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Tuy

nhiên, trong quá trình tác nghiệp, người có thẩm quyền thi hành án cần chú ý về

việc áp dụng thời hạn tự nguyện thi hành án là 10 ngày kể từ ngày nhận quyết định,

thông báo hợp lệ được quy định tại Điều 45 và Điều 46 Luật thi hành án dân sự

được sửa đổi, bổ sung năm 2014 [24-Tr.63].

Ba là, quy định về nguyên tắc cưỡng chế thi hành án dân sự: Xuất phát từ

đặc trưng của thi hành án dân sự là việc tổ chức thi hành bản án, phần quyết định

của Tòa án về tài sản hoặc một công việc nhất định, quyết định của trọng tài, quyết

định xử lý vụ việc cạnh tranh của hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh hoặc phải nộp

phí thi hành án nên đối tượng của cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ trong thi

hành án dân sự là tài sản hoặc một công việc nhất định. Điều này hoàn toàn khác

biệt so với đặc trưng của thi hành án hình sự là nhằm hạn chế hoặc tước đoạt quyền

và lợi ích của người bị kết án. Chính vì vậy cưỡng chế thi hành án hình sự mang

tính cứng rắn và tuyệt đối còn thi hành án dân sự mang tính mềm dẻo hơn. Điều này

thể hiện ở các nguyên tắc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành bản án về thu

hồi nợ trong thi hành án dân sự như; Chủ thể có thẩm quyền chỉ được áp dụng biện

pháp cưỡng chế pháp luật quy định; không được áp dụng biện pháp cưỡng chế trong

thời gian và trường hợp pháp luật cấm; việc cưỡng chế thi hành án dân sự phải

tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án và các chi phí cần thiết khác.

Bốn là, quy định về các biện pháp cưỡng chế: Theo pháp luật hiện hành thì

19

chỉ có cơ quan thi hành án và Văn phòng Thừa phát lại mới được Nhà nước trao cho

quyền tổ chức thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của cơ quan có

thẩm quyền và chỉ người có thẩm quyền thi hành án mới có quyền áp dụng các biện

pháp cưỡng chế. Ngoài ra các chủ thể khác, bằng sức mạnh của mình, bắt buộc

người khác phải thi hành án đều trái pháp luật. Để tránh sự lạm quyền của các chủ

thể trong việc cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ trong thi hành án dân sự,

pháp luật đã quy định cụ thể các biện pháp cưỡng chế thi hành án mà người có thẩm

quyền thi hành án có quyền áp dụng, trình tự, thủ tục áp dụng. Hiện nay, pháp luật

quy định các biện pháp cưỡng chế cụ thể như: “1. Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu

hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án. 2. Trừ vào thu nhập của

người phải thi hành án. 3. Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả

tài sản đang do người thứ ba giữ. 4. Khai thác tài sản của người phải thi hành án.

5. Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ. 6. Buộc người phải thi

hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định”. [24-Tr.63]

Năm là, quy định về trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành bản án vê thu hồi nợ

trong thi hành án dân sự: để thực hiện cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân

sự, các biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự đều phải tuân thủ

thủ tục và một số nguyên tắc chung như: xác minh điều kiện thi hành án của người

phải thi hành án trước khi tiến hành cưỡng chế; xây dựng kế hoạch cưỡng chế;

thông báo hợp lệ các văn bản quyết định về thi hành án dân sự cho đương sự, người

có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, các cơ quan hữu quan theo luật định; Tuân thủ các

quy định của pháp luật về thời hạn, thời hiệu trước, trong và sau khi cưỡng chế...

1.2.3. Vai trò của pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho

Ngân hàng thương mại

Một là, nhằm củng cố, tăng cường quyền lực nhà nước, quy định nhiệm vụ,

quyền hạn, trách nhiệm của Chấp hành viên và của các tổ chức, cá nhân có liên

quan trong thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự để thu hồi nợ cho các Ngân hàng

thương mại.

Thông qua các quy định về cưỡng chế thi hành án dân sự nói chung và cưỡng

20

chế thi hành án dân sự để thu hồi nợ cho các Ngân hàng thương mại nói riêng, Nhà

nước xác định rõ quyền lực của Nhà nước bằng việc cho phép Cơ quan Thi hành án

dân sự áp dụng các biện pháp bảo đảm, các biện pháp cưỡng chế, xử phạt vi phạm

hành chính, thậm chí là đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi

chống đối, các hành vi vi phạm các quy định về thi hành án dân sự. Pháp luật về

cưỡng chế thi hành án dân sự xác định rõ các quyền năng của cơ quan Nhà nước,

của cơ quan Thi hành án dân sự và của Chấp hành viên trong việc buộc người phải

thi hành án phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình theo nội dung Bản án, quyết

định đã tuyên nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, bảo đảm và bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước và của công dân [31-Tr.63].

Pháp luật về cưỡng chế thi hành án bản án về thu hồi nợ còn là phương tiện

để nhà nước quản lý xã hội, triển khai những chủ trương, chính sách của Nhà nước

một cách đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy mô cả nước, đồng thời đó cũng là

phương tiện để Nhà nước kiểm soát các hoạt động của Chấp hành viên của các tổ

chức, các cơ quan và mọi công dân trong cưỡng chế thi hành án dân sự.

Hai là, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, đương sự và tổ chức,

cá nhân liên quan. Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án bản án về thu hồi

nợ cho Ngân hàng thương mại là một quá trình hoạt động có mục đích, bảo đảm cho

các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật được tôn trọng và thi hành nghiêm

chỉnh, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức,

công dân. Thông qua các quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể

trong quá trình thi hành án dân sự, pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự tạo ra

hành lang pháp lý bảo đảm cho cơ quan thi hành án dân sự, chủ thể có thẩm quyền

thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình; các tổ chức, cá nhân có liên quan

thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ và đảm bảo cho các quyết định cưỡng chế

được thực thi trên thực tế. Thực tiễn cho thấy rằng bản án, quyết định có hiệu lực

pháp luật thể hiện sự phán quyết về quyền, nghĩa vụ của các đương sự có liên quan

và việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ đó chính là sự bảo đảm lợi ích chung của Nhà

nước, xã hội, cơ quan, tổ chức, cá nhân. Vì vậy, việc thực thi các bản án, quyết định

21

không chỉ bảo đảm quyền, lợi ích của các đương sự, người có quyền, lợi ích liên

quan trong bản án, quyết định đó mà còn ảnh hưởng đến việc đảm bảo trật tự an

toàn xã hội; quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân khác có liên

quan. Từ đó, để đảm bảo lợi ích chung của xã hội thì Nhà nước phải có biện pháp

phù hợp để người phải thi hành án thực hiện đúng nghĩa vụ của mình theo bản án,

quyết định nếu có điều kiện thi hành án, trong đó cưỡng chế thi hành án dân sự biện

pháp được áp dụng cuối cùng nhưng cũng là biện pháp hữu hiệu nhất để đảm bảo

thi hành án, đảm bảo quyền bình đẳng của các chủ thể trong xã hội. Vì vậy, thực

hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự được coi là cơ chế bảo đảm quyền,

lợi ích của các đương sự, tổ chức, cá nhân khác và lợi ích của Nhà nước nói chung

và trong thi hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật theo thủ tục thi hành án

dân sự nói riêng.

Ba là, góp phần nâng cao ý thức pháp luật về thi hành án dân sự của đương

sự, cá nhân, tổ chức liên quan và góp phần tăng cường pháp chế. Nhà nước quản lý

xã hội bằng pháp luật, bởi vậy thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật

về cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng là quá trình hoạt động có mục đích làm

cho các quy phạm pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự được thực thi trên thực

tế, do đó các cơ quan nhà nước nói chung, cơ quan thi hành án dân sự nói riêng, các

tổ chức và công dân phải có trách nhiệm trong việc thực hiện tốt các quy định của

pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. Thực tế cho thấy rằng khi người phải thi

hành án không tự nguyện thi hành mà cơ quan thi hành án dân sự buộc phải áp dụng

biện pháp cưỡng chế thì việc tổ chức cưỡng chế thường gặp nhiều khó khăn, nhất là

khi phải áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản thì thường gặp phải sự

chống đối quyết liệt của người phải thi hành án và gia đình, gây ảnh hưởng đến an

ninh trật tự tại địa phương, do đó nếu có sự phối hợp tốt của cơ quan, tổ chức liên

quan trong việc thực hiện đúng các quy định về cưỡng chế thi hành án dân sự thì sẽ

đảm bảo hiệu quả cưỡng chế và qua đó nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của

đương sự và cộng đồng, đồng thời đảm bảo tính pháp chế trong việc thực thi các

bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Thực tiễn cho thấy rằng cưỡng chế thi

22

hành án dân sự được coi là biện pháp mạnh nhân danh Nhà nước để đảm bảo tính

nghiêm minh của pháp luật, có tác dụng răn đe, phòng ngừa những hành vi vi phạm

pháp luật trong quá trình thi hành án và cũng là kênh phổ biến, tuyên truyền, giáo

dục nâng cao ý thức pháp luật cho các chủ thể trong xã hội trong việc nhận thức

đúng các quy định pháp luật, nhận thức đúng trách nhiệm tôn trọng và thi hành bản

án, quyết định có hiệu lực pháp luật; nhận thức đúng hành vi vi phạm, thiếu sót của

mình để từ đó kịp thời sửa chữa, khắc phục và tuân thủ nghiêm các quy định pháp

luật; củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án, đảm bảo uy

tín của Tòa án và cơ quan thi hành án dân sự. Bốn là, thực hiện pháp luật về cưỡng

chế thi hành án dân sự góp phần nâng cao hiệu quả của công tác điều tra, truy tố, xét

xử và thi hành án dân sự Bản án, quyết định là sản phẩm của quá trình điều tra, truy

tố và xét xử của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền qua những trình tự, thủ tục tố tụng

cụ thể, vì vậy, khi bản án, quyết định được các đương sự tự nguyện thi hành thể

hiện tính đúng đắn, hiệu quả của công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án dân

sự. Tuy nhiên, trong trường hợp phải cưỡng chế thi hành án dân sự thì có thể có sự

chưa đồng tình của người phải thi hành án về tính đúng đắn của bản án, quyết định

và như vậy dẫn đến có sự hoài nghi đối với công tác điều tra, truy tố và xét xử và thi

hành án dân sự. Từ đó, quá trình thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân

sự cũng là quá trình kiểm nghiệm lại tính đúng đắn của hoạt động điều tra, truy tố,

xét xử để khắc phục những hạn chế, tồn tại, vi phạm (nếu có) để nâng cao hiệu quả

công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án dân sự. Ví dụ như: khi áp dụng biện

pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự phát hiện những

thiếu sót, vi phạm trong bản án; sự khác nhau giữa nội dung quyết định của bản án

với thực tế tài sản của đương sự thì cơ quan thi hành án dân sự có quyền đề nghị

Tòa án đã xét xử đính chính, sửa chữa sai sót, giải thích bản án hoặc đề nghị người

có thẩm quyền xem xét lại bản án theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm. Đồng thời,

khi người phải thi hành án dân sự không tự nguyện thi hành án thì việc phải áp dụng

biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự cũng thể hiện tính nghiêm minh của pháp

23

luật, góp phần nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án

dân sự, nhất là việc áp dụng biện pháp cưỡng chế là cơ sở để thu hồi tài sản, đấu giá

tài sản để thu tiền thi hành án.

1.2.4. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi

hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo thi hành án dân sự

Cưỡng chế thi hành án là một chế định quan trọng được pháp luật thi hành án

dân sự quy định cụ thể và chi tiết, nhằm mục đích đưa hoạt động thi hành án đạt

hiệu quả cao nhất. Cũng như các chế định pháp luật khác, pháp luật về cưỡng chế

thi hành án dân sự nhằm mục đích thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trong quá

trình thực thi chịu ảnh hưởng và bị tác động bởi nhiều yếu tố, bao gồm các yếu tố

năng lực thực thi công vụ của Cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành viên, ý thức

pháp luật của các bên liên quan trong cưỡng chế thi hành án dân sự và sự phối hợp

của các bên liên quan trong cưỡng chế thi hành án dân sự.

- Năng lực thực thi công vụ của Cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành

viên thi hành án dân sự

Chấp hành viên thi hành án dân sự là một chức danh tư pháp do cơ quan Nhà

nước có thẩm quyền bổ nhiệm theo quy trình, thủ tục nhất định khi đáp ứng đầy đủ

các yêu cầu, tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định của pháp luật;

được Nhà nước giao nhiệm vụ tổ chức thi hành hoặc trực tiếp thi hành các bản án,

quyết định theo quy định của pháp luật; được sử dụng quyền lực Nhà nước để tổ

chức thi hành án dân sự. Hoạt động của cơ quan Thi hành án dân sự được thực hiện

chủ yếu thông qua hoạt động của đội ngũ Chấp hành viên, về bản chất là hoạt động

áp dụng pháp luật; do đó, các hoạt động tác nghiệp của đội ngũ Chấp hành viên phải

tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật về nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi

hành án dân sự. Nếu áp dụng pháp luật một cách đơn thuần, cứng nhắc thì sẽ không

đạt được hiệu quả, kết quả như mong muốn, mà có khi lại dẫn đến tình trạng bản án,

quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng không thể thi hành được trên

thực tế hoặc có thi hành được thì hậu quả xã hội xảy ra lại rất khó khắc phục điều

này rất dễ nhận thấy ở những vụ cưỡng chế thi hành án lớn mà gần đây các phương

24

tiện truyền thông đưa tin.

Để việc cưỡng chế thi hành đạt hiệu quả cao, Chấp hành viên phải có năng

lực chuyên môn, nghiệp vụ để có thể áp dụng pháp luật một cách linh hoạt, khéo

léo. Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của Chấp hành viên thi hành án dân sự, về cơ

bản bao gồm các yếu tố như trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật

nghề nghiệp, kỹ năng nghiệp vụ công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống…

- Ý thức pháp luật của các bên liên quan trong cưỡng chế thi hành án bản án

về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại:

Ý thức chấp hành pháp luật của các bên thể hiện qua thái độ tự giác, tự

nguyện thi hành án, tự thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự đã được bản án, quyết định

của Tòa án ghi nhận, thể hiện ý chí và sự mong muốn của các bên. Kết quả của tự

nguyện thi hành án là tiền đề, cơ sở và là căn cứ để Chấp hành viên áp dụng các

biện pháp cưỡng chế thi hành án nếu đương sự không tự nguyện thi hành án. Tự

nguyện thi hành án là biện pháp đầu tiên, quan trọng để các Chấp hành viên thi

hành bản án, quyết định trên thực tế. Tự nguyện thi hành án cũng là mục tiêu phấn

đấu và cũng là sự mong muốn hướng tới của các cơ quan thi hành án dân sự nói chung

và của các Chấp hành viên nói riêng, bởi hiệu quả của việc tự nguyện thi hành án là rất

cao, góp phần giữ vững được sự ổn định tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã

hội trong khu vực, thắt chặt được mối quan hệ đoàn kết, tiết kiệm thời gian, tiền của,

công sức và tác động đến ý thức chấp hành pháp luật của công dân.

Chủ thể của tự nguyện thi hành án không chỉ là người được thi hành án,

người phải thi hành án, mà còn có thể là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Đối với người được thi hành án, sự tự nguyện của người được thi hành án chính là họ

dùng quyền lợi của mình đã được bản án có hiệu lực pháp luật ghi nhận để thể hiện ở

chỗ họ có thể thỏa thuận với người phải thi hành án về thời gian, địa điểm, phương

thức thi hành án, nhưng thỏa thuận này không trái pháp luật và đạo đức xã hộị.

Việc tự nguyện thi hành án của người được thi hành án cũng được Nhà nước

khuyến khích và được thể hiện dưới một cơ chế khác, đó là người được thi hành án

cũng có thể đơn phương tự nguyện đồng ý cho bên phải thi hành án hoãn thi hành

25

án, thời gian hoãn do bên được thi hành án quyết định. Hoặc người được thi hành án

cũng có thể đơn phương tự nguyện từ bỏ quyền và lợi ích của họ được hưởng theo

bản án, quyết định, nếu việc từ bỏ này không làm ảnh hưởng đến lợi ích Nhà nước

hoặc của người khác.

Cả hai trường hợp nói trên, tuy cách xử lý khác nhau nhưng về bản chất đều

giống nhau đó là thể hiện việc tự nguyện thi hành án của người được thi hành án.

Trường hợp nếu các bên không có ý thức tự giác, tự nguyện thi hành án,

không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình, thì Chấp hành viên buộc phải áp dụng

các biện pháp cưỡng chế thi hành án. Việc áp dung biện pháp cưỡng chế là hết sức

cần thiết, bảo đảm công lý được thực thi, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật,

tuy nhiên, nó cũng có thể làm tốn kém thời gian, chi phí, ảnh hưởng đến an ninh,

chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương.

- Sự phối hợp của các bên liên quan trong cưỡng chế thi hành bản án về thu

hồi nợ cho Ngân hàng thương mại:

Thi hành án dân sự là hoạt động liên quan trực tiếp đến quyền về tài sản và

nhân thân của các bên đương sự, để giải quyết việc thi hành án, cơ quan thi hành án

dân sự phải tiến hành nhiều thủ tục như: tống đạt, xác minh, áp dụng các biện pháp

đảm bảo, biện pháp cưỡng chế thi hành án… vì thế, cơ quan thi hành án dân sự

không thể một mình mà thực hiện được các công việc trên, mà cần có sự phối hợp

với các cơ quan, tổ chức có liên quan.

Cơ quan Thi hành án dân sự thực hiện nhiệm vụ chính là tổ chức thi hành các

bản án, quyết định của Tòa án về phần dân sự mà quyền lợi của các bên đương sự

giai đoạn này luôn mâu thuẫn nhau (một bên là được thi hành án bên kia là phải thi

hành án) và đây cũng là giai đoạn mà quyền về tài sản, nhân thân của các bên được

thi hành trên thực tế, nên mâu thuẫn càng gay gắt và quyết liệt hơn, khiếu nại – tố

cáo cũng vì thế mà diễn ra nhiều hơn, phức tạp hơn.

Mặt khác, hoạt động thi hành án dân sự liên quan đến nhiều hoạt động thuộc

chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chức năng khác, đòi hỏi các cơ quan này phải

tham gia giải quyết theo chức năng, nhiệm vụ được giao thì mới có thể xử lý được

26

các vấn đề liên quan đến thi hành án dân sự, như: hoạt động của Ủy ban nhân dân

các cấp, Văn phòng, Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai, cơ quan Tài nguyên và

môi trường trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng tài sản; hoạt

động của cơ quan Thuế trong việc tính thuế, nghĩa vụ tài chính đối với tài sản thi

hành án; hoạt động của cơ quan Công an trong việc bảo vệ cưỡng chế, khởi tố vụ án

hình sự về tội không chấp hành án, tống đạt tài liệu, trả giấy tờ, tài sản cho phạm

nhân, trích xuất phạm nhân là người phải thi hành án để Chấp hành viên làm việc

trực tiếp; hoạt động của Tòa án nhân dân các cấp trong xét xử, áp dụng biện pháp

khẩn cấp tạm thời…[30-Tr.74].

Vì vậy, việc phối hợp tốt với các cơ quan, tổ chức, ban ngành liên quan trong

thi hành án dân sự là một trong những yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của

công tác thi hành án dân sự. Có thể nói, nếu cơ quan thi hành án dân sự nhận được sự

phối hợp hỗ trợ tốt từ các cơ quan, ban ngành liên quan thì công tác thi hành án dân sự

27

sẽ đạt kết quả cao, việc tổ chức thi hành án của Chấp hành viên sẽ có nhiều thuận lợi.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Thi hành án dân sự có vai trò quan trọng trong hoạt động tư pháp nói chung

và quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Bản án, quyết định của Toà án chỉ thực sự

có giá trị khi được thi hành trên thực tế. Hoạt động thi hành án là công đoạn cuối

cùng, bảo đảm cho bản án, quyết định của Toà án được chấp hành, góp phần bảo

đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền,

lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định

chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Để công tác

thi hành án dân sự đạt được hiệu quả, thì không thể thiếu các biện pháp cưỡng chế

thi hành án, là các biện pháp mạnh, sử dụng quyền lực nhà nước, thể hiện tính

nghiêm khắc, nghiêm minh của pháp luật, giữ vững kỷ cương phép nước, bảo vệ tốt

hơn quyền của người được thi hành án, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ

chức và Nhà nước theo bản án, quyết định của Toà án, quyết định xử lý vụ việc

cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài

thương mại. Việc nghiên cứu các biện pháp cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ

cho Ngân hàng thương mại sẽ giúp làm rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, vị

trí, vai trò của cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành viên; xác định rõ hơn trách

nhiệm, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan tronag hoạt động thi

28

hành án dân sự, cũng như công tác quản lý nhà nước về thi hành án dân sự.

Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH BẢN ÁN VỀ THU HỒI NỢ CHO NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Thực trạng pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ

cho Ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự

2.1.1. Căn cứ cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng

thương mại

Để áp dụng các biện pháp cưỡng chế nói chung, biện pháp cưỡng chế thi hành

bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại nói riêng, cơ quan thi hành án dân sự

và Chấp hành viên phải dựa vào các căn cứ được quy định tại Điều 70 Luật Thi hành

án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Điều luật này quy định 03 căn

cứ để cưỡng chế thi hành án bao gồm:

- Bản án, quyết định: đây là những bản án, quyết định được thi hành theo thủ

tục thi hành án dân sự, gồm có bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài

sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết

định dân sự trong bản án, quyết định hình sự , phần tài sản trong bản án, quyết định

hành chính của Tòa án, quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, quyết định xử lý

vụ việc cạnh tranh của Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, Hội đồng xử lý vụ

việc hạn chế cạnh tranh, quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc

cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án và phán quyết, quyết

định của Trọng tài thương mại.

- Quyết định thi hành án: là quyết định do thủ trưởng cơ quan thi hành án ban hành

theo thủ tục chủ động ra quyết định thi hành án hoặc theo đơn yêu cầu của đương sự.

- Quyết định cưỡng chế thi hành án: là quyết định do Chấp hành viên ban

hành. trường hợp bản án, quyết định đã tuyên kê biên, phong tỏa tài sản, tài khoản

và trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án

29

thì không phải có quyết định cưỡng chế thi hành án.

2.1.2. Điều kiện áp dụng cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân

hàng thương mại trong thi hành án dân sự

Để áp dụng cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương

mại cần phải đáp ứng các điều kiện nhất định, cụ thể như sau:

Thứ nhất, người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc phải

thực hiện hành vi theo bản án, quyết định của Tòa án, quyết định xử lý vụ việc cạnh

tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc

cạnh tranh và quyết định của trọng tài thương mại.

Thứ hai, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án là những người mà

Chấp hành viên đã xác minh khẳng định được người đó có tài sản (trừ tài sản là tiền

thì không áp dụng biện pháp cưỡng chế này). Tài sản của người phải thi hành án có

thể là động sản, bất động sản và kể cả quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất, vốn

góp... theo quy định tại Mục 6 Luật THADS năm 2008.

Thứ ba, hết thời gian tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án không

tự nguyện thi hành. Thời gian tự nguyện thi hành án quy định tại Điều 45 Luật

THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 là 10 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án

nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án. Nếu trong thời gian

tự nguyện thi hành án của người phải thi hành án mà không đạt được kết quả như

mong muốn thì Chấp hành viên phải dùng đến quyền lực của nhà nước tức là áp

dụng các biện pháp cưỡng chế để buộc người có nghĩa vụ phải thi hành theo đúng

bản án, quyết định của Tòa án và quyết định của cơ quan Thi hành án.

Thứ tư, chưa hết thời gian người phải thi hành án tự nguyện thi hành nhưng

cần ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.

Trong thời gian tự nguyện thi hành án của người phải thi hành án, nếu Chấp hành

viên nhận thấy cần phải ngăn chặn hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh

nghĩa vụ thi hành án thì Chấp hành viên có quyền ra quyết định áp dụng ngay các

biện pháp cưỡng chế thi hành án được quy định tại Chương IV Luật THADS theo

30

quy định tại Khoản 2 Điều 45 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014.

2.1.3. Nguyên tắc áp dụng cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho

Ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự

Thứ nhất, chỉ có người có thẩm quyền thi hành án mới có quyền áp dụng

biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự nói chung, cưỡng chế thu hồi nợ nói riêng

và chỉ được áp dụng một trong các biện pháp cưỡng chế nhằm thu hồi nợ trong Luật

thi hành án dân sự. Như đã phân tích ở những phần trên, cưỡng chế thi hành án

nhằm thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại là một chế định pháp luật, sử dụng

quyền lực Nhà nước để buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ về tài sản

của mình. Vì vậy, việc áp dụng cưỡng chế thu hồi nợ bắt buộc phải do cơ quan và

người có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục luật định. Bên cạnh đó, Chấp

hành viên khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại

thì chỉ được lựa chọn trong các biện pháp cưỡng chế được quy định tại khoản 1, 2,

3, 4 Điều 71 Luật thi hành án dân sự, bao gồm các biện pháp sau: khấu trừ tiền

trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án; trừ

vào thu nhập của người phải thi hành án; kê biên, xử lý tài sản của người phải thi

hành án, kể cả tài sản do người thứ ba giữ; khai thác tài sản của người phải thi hành

án.

Thứ hai, chỉ áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm thu

hồi nợ cho Ngân hàng thương mại khi hết thời gian tự nguyện thi hành án, trừ

trường hợp áp dụng cưỡng chế ngay. Tự nguyện thi hành án là một trong hai biện

pháp thi hành án dân sự và được ưu tiên áp dụng. Khoản 1 Điều 9 Luật Thi hành án

dân sự quy định: “Nhà nước khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án”. Tự

nguyện thi hành án là biện pháp đầu tiên, quan trọng để các Chấp hành viên thi

hành bản án, quyết định trên thực tế. Mặt khác, tự nguyện thi hành án cũng là mục

tiêu phấn đấu và cũng là sự mong muốn hướng tới của các cơ quan thi hành án nói

chung và của các Chấp hành viên nói riêng bởi hiệu quả của việc tự nguyện thi hành

án là rất cao. Nó không chỉ góp phần giữ vững được sự ổn định tình hình an ninh,

chính trị, trật tự an toàn xã hội trong khu vực, thắt chặt được mối quan hệ đoàn kết,

31

tiết kiệm thời gian, tiền của, công sức mà còn tác động đến ý thức chấp hành pháp

luật của công dân. Vì vậy, chỉ sau khi hết thời gian tự nguyện thi hành án được quy

định tại Điều 45 Luật Thi hành án dân sự thì Chấp hành viên mới tiếp tục xem xét

các điều kiện khác để lựa chọn áp dụng cưỡng chế thu hồi nợ, trừ các trường hợp

pháp luật quy định cần áp dụng cưỡng chế ngay (là khi cần ngăn chặn người phải

thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc hành vi khác nhằm trốn tránh

việc thi hành án) [20-Tr.63].

Thứ ba, không được cưỡng chế thi hành án trong thời gian mà pháp luật quy

định không được cưỡng chế thi hành án. Theo khoản 2 Điều 46 Luật Thi hành án

dân sự, trong thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ sáng ngày hôm sau, các ngày nghỉ,

ngày lễ theo quy định của pháp luật và các trường hợp đặc biệt khác do Chính phủ

quy định thì Chấp hành viên không được tổ chức cưỡng chế thi hành án. Quy định

này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người phải thi hành án

bởi các hoạt động cưỡng chế thường gây ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt, đời

sống thường ngày của người phải thi hành án, thậm chí là đối với người nhà, người

sống lệ thuộc vào người phải thi hành án. Nếu tổ chức cưỡng chế trong những

khoảng thời gian được xem là nhạy cảm này, không chỉ có tác động xấu đến tâm lý

của người phải thi hành án, dẫn đến hệ quả là sự thiếu hợp tác, chống đối quyết liệt

của người phải thi hành án mà còn làm xấu đi hình ảnh của cơ quan nhà nước bởi sự

thiếu nhân văn trong việc thực thi pháp luật. Do đó, khi lập kế hoạch cưỡng chế,

Chấp hành viên cần chú ý không vi phạm nguyên tắc này để việc cưỡng chế đạt

hiệu quả như mong muốn, tránh gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự xã hội.

Thứ tư, chủ thể có thẩm quyền có thể áp dụng một hoặc nhiều biện pháp

cưỡng chế thi hành án dân sự. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế phải tương ứng

với nghĩa vụ của người phải thi hành án và chi phí hợp lý về thi hành án. Luật

không quy định Chấp hành viên chỉ được áp dụng một biện pháp cưỡng chế duy

nhất đối với mỗi trường hợp cưỡng chế thi hành án. Căn cứ vào tình hình, điều kiện

của từng người phải thi hành án, Chấp hành viên có thể áp dụng một hoặc nhiều

biện pháp cưỡng chế nhằm thu hồi nợ một cách phù hợp và hiệu quả. Trước khi lựa

32

chọn và áp dụng biện pháp cưỡng chế, Chấp hành viên cần xác định nghĩa vụ về tài

sản mà người phải thi hành án phải chấp hành và các chi phí hợp lý về thi hành án

để tiến hành cưỡng chế được quy định tại Điều 73 Luật Thi hành án dân sự. Chấp

hành viên cần đảm bảo việc lựa chọn và áp dụng biện pháp cưỡng chế phải tương

ứng với tổng chi phí và nghĩa vụ về tài sản cần thi hành, tránh trường hợp tài sản bị

cưỡng chế có giá trị quá lớn hoặc quá ít so với khoản phải thi hành, dẫn đến việc

cưỡng chế khó khăn và có thể gây thiệt hại, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của

người phải thi hành án.

2.1.4. Các biện pháp cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân

hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự

Theo Điều 71 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm

2014, cưỡng chế thi hành án bao gồm 06 biện pháp sau:

- Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người

phải thi hành án.

- Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.

- Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do

người thứ ba giữ.

- Khai thác tài sản của người phải thi hành án.

- Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ.

- Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công

việc nhất định.

Đối với hoạt động cưỡng chế nhằm thu hồi nợ, đối tượng tác động nhắm đến

là nghĩa vụ tài sản của người phải thi hành án, do đó một số biện pháp cưỡng chế

được liệt kê trên đây không được áp dụng. Cụ thể các biện pháp cưỡng chế thu hồi

nợ cho Ngân hàng thương mại chỉ bao gồm:

- Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người

phải thi hành án.

- Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.

- Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do

33

người thứ ba giữ.

- Khai thác tài sản của người phải thi hành án.

Đối với hai biện pháp buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy

tờ và buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc

nhất định, đây là những biện pháp có đối tượng tác động là hành vi của người phải

thi hành án, do đó không thuộc phạm vi nghiên cứu.

Để cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm thu hồi nợ cho Ngân hàng thương

mại, Chấp hành viên chỉ được quyền lựa chọn và áp dụng một trong các biện pháp

được liệt kê trên đây mà không thể có sự lựa chọn khác.

Nội dung cụ thể của các biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ cho Ngân hàng

thương mại được quy định như sau:

- Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người

phải thi hành án:

Đây là một trong các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được áp dụng

trong trường hợp người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo bản

án, quyết định của Tòa án và người này hiện đang có tiền trong tài khoản hoặc đang

sở hữu giấy tờ có giá. Nếu người phải thi hành đang giữ tiền, giấy tờ có giá hoặc

gửi tại Kho bạc, tổ chức tín dụng thì biện pháp cưỡng chế này sẽ là biện pháp đầu

tiên được áp dụng để thu hồi nợ.

- Khấu trừ tiền trong tài khoản: Biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản được

áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có tài khoản tại kho bạc Nhà nước,

ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác. Trước khi ra quyết định cưỡng chế, Chấp

hành viên cần tiến hành xác định số tiền của người phải thi hành án trong tài khoản

tại ngân hàng, tổ chức tín dụng hoặc kho bạc Nhà nước trên cơ sở các tài liệu, thông

tin do Chấp hành viên xác minh, thu thập hoặc do người được thi hành án. Sau khi

xác định đủ điều kiện áp dụng, theo quy định tại Điều 76 Luật Thi hành án dân sự,

Chấp hành viên ra quyết định khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành

án theo nguyên tắc: số tiền khấu trừ không được vượt quá nghĩa vụ thi hành án và

chi phí cưỡng chế. Quyết định cưỡng chế phải được gửi cho người được thi hành

34

án, người phải thi hành án, tổ chức đang giữ tiền của người phải thi hành án. Ngay

sau khi nhận được quyết định về khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải thi

hành án, cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản phải có trách nhiệm hợp tác và

thực hiện khấu trừ tiền để chuyển vào tài khoản của cơ quan thi hành án dân sự

hoặc chuyển cho người được thi hành án theo quyết định khấu trừ.

Ngoài ra, nếu có căn cứ cho rằng người phải thi hành án có dấu hiệu tẩu tán

tiền trong tài khoản thì Chấp hành viên có quyền ra quyết định phong tỏa tài khoản.

Việc chấm dứt phong tỏa tài khoản chỉ được Chấp hành viên thực hiện khi người

phải thi hành án đã thi hành xong nghĩa vụ của mình, hoặc cơ quan, tổ chức đã thực

hiện xong yêu cầu của Chấp hành viên về khấu trừ tiền trong tài khoản của người

phải thi hành án, hoặc đã có quyết định đình chỉ thi hành án.

- Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án: Giống như biện pháp cưỡng

chế khấu trừ tiền trong tài khoản, đối tượng của biện pháp trừ vào thu nhập của

người phải thi hành án cũng là tiền. Thu nhập của người phải thi hành án được xác

định tại khoản 1 Điều 78 Luật thi hành án bao gồm: tiền lương, tiền công, tiền

lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao động và thu nhập hợp pháp khác. Các khoản thu

nhập này thường không lớn nên Chấp hành viên chỉ áp dụng khi thi hành án cấp

dưỡng, thi hành án theo định kỳ, khoản tiền phải thi hành án không lớn hoặc tài sản

khác của người phải thi hành án không đủ để thi hành án, do các bên đương sự thỏa

thuận hoặc bản án, quyết định ấn định trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.

Tuy nhiên, mức trừ vào thu nhập được xác định cụ thể theo quy định tại

khoản 2 Điều 78 Luật Thi hành án dân sự chứ không phải được thực hiện một cách

tùy tiện hay theo suy nghĩ chủ quan của Chấp hành viên hoặc đề nghị của người

được thi hành án. Theo đó, mức cao nhất được trừ vào tiền lương, tiền công, tiền

lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao động là 30% tổng số tiền được nhận hàng tháng,

trừ trường hợp các đương sự có thỏa thuận khác. Đối với thu nhập khác thì mức

khấu trừ căn cứ vào thu nhập thực tế của người phải thi hành án, nhưng phải đảm

bảo điều kiện sinh hoạt tối thiểu của người đó và người được nuôi dưỡng theo quy

định của pháp luật. Quyết định cưỡng chế này được gửi cho các cơ quan, tổ chức,

35

người sử dụng lao động, cơ quan bảo hiểm xã hội nơi người phải thi hành án nhận

tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp và các thu nhập hợp pháp khác và

các cơ quan, tổ chức, cá nhân này có trách nhiệm thực hiện việc khấu trừ, sau đó

chuyển tiền đã trừ cho cơ quan thi hành án để chi trả cho người được thi hành án

theo quyết định cưỡng chế của Chấp hành viên.

- Thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án:

Biện pháp cưỡng chế này được quy định tại Điều 79 Luật Thi hành án dân

sự, Điều 22 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/07/2015 của Chính phủ, theo đó

biện pháp này được áp dụng trong trường hợp xác định được người phải thi hành án

có thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc thu tiền từ hoạt động kinh

doanh của người phải thi hành án theo định kỳ tùy theo tính chất ngành nghề kinh

doanh của người phải thi hành án. Khi thu tiền, Chấp hành viên phải đảm bảo để lại

số tiền tối thiểu cho hoạt động kinh doanh tùy theo tính chất ngành nghề và sinh

hoạt của người phải thi hành án và gia đình theo quy định về chuẩn nghèo của Nhà

nước.

- Thu tiền của người phải thi hành án đang giữ:

Biện pháp này được quy định tại Điều 80 Luật Thi hành án dân sự, được áp

dụng trong trường hợp Chấp hành viên phát hiện người phải thi hành án đang giữ

tiền và có căn cứ xác định khoản tiền đó là của người phải thi hành án. Sau khi xác

định được những điều kiện trên, Chấp hành viên ra quyết định thu tiền để thi hành

án và tiến hành giao quyết định này cho người phải thi hành án. Khi tiến hành

cưỡng chế, Chấp hành viên lập biên bản thu tiền và cấp biên lai cho người thi hành

án. Nếu người phải thi hành án có thái độ không hợp tác và không ký vào biên bản

thì phải có chữ ký của người làm chứng.

- Thu tiền của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ:

Biện pháp này được quy định tại Điều 81 Luật thi hành án dân sự và Điều 23

Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/07/2015 của Chính phủ. Biện pháp cưỡng chế

này được áp dụng khi Chấp hành viên phát hiện người phải thi hành án có tiền để

thi hành án nhưng khoản tiền này lại đang do người thứ ba giữ. Sau khi xác định rõ

36

số tiền của người phải thi hành án và người nào đang giữ số tiền này, Chấp hành

viên ra quyết định để thu khoản tiền đó. Trường hợp phát hiện tổ chức, cá nhân

đang phải trả tiền, tài sản cho người phải thi hành án mà khoản tiền, tài sản đó đã

được xác định bằng bản án, quyết định của Tòa án đang có hiệu lực pháp luật thì

Chấp hành viên yêu cầu tổ chức, cá nhân đó giao nộp số tiền, tài sản cho cơ quan thi

hành án để thi hành án.

- Thu giữ giấy tờ có giá: biện pháp này được quy định tại Điều 82, 83 Luật

Thi hành án dân sự. Giấy tờ có giá của người phải thi hành án có thể là cổ phiếu,

trái phiếu, công trái, thương phiếu kho bạc, tín phiếu ngân hàng nhà nước, kì phiếu,

chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá khác do Thống đốc Ngân hàng Nhà

nước quy định còn giá trị thanh toán. Biện pháp cưỡng chế này được áp dụng khi

Chấp hành viên phát hiện người phải thi hành án hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân

đang giữ giấy tờ có giá của người phải thi hành án. Sau khi xác minh và có đủ căn

cứ, Chấp hành viên ra quyết định thu giữ giấy tờ đó để thi hành án và gửi quyết

định cho người phải thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá nhân đang giữ giấy tờ. Người

phải thi hành án hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân giữ giấy tờ có giá của người phải thi

hành án có trách nhiệm phải thực hiện quyết định cưỡng chế và chuyển giao giấy tờ

có giá cho cơ quan thi hành án dân sự, nếu không thực hiện thì Chấp hành viên có

quyền yêu cầu những cơ quan, tổ chức có thẩm quyền chuyển giao giá trị của giấy

tờ đó đê thi hành án.

- Biện pháp cưỡng chế đối với tài sản là quyền sở hữu trí tuệ: Biện pháp này

được quy định tại Điều 84, 85, 86 Luật Thi hành án dân sự, Điều 29, 30, 31 Nghị

định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/07/2015 của Chính phủ và quy định của Luật Sở hữu

trí tuệ. Chấp hành viên ra quyết định kê biên quyền sở hữu trí tuệ thuộc quyền sở

hữu của người phải thi hành án, kể cả quyền sở hữu trí tuệ của người phải thi hành

án đã chuyển quyền sử dụng cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Tuy nhiên, luật

cũng quy định trường hợp ngoại lệ, Chấp hành viên không được kê biên quyền sở

hữu trí tuệ của người phải thi hành án khi nhằm mục đích bảo đảm mục tiêu quốc

37

phòng, an ninh, dân sinh và lợi ích của Nhà nước, xã hội tại Luật Sở hữu trí tuệ mà

Nhà nước quyết định chủ sở hữu trí tuệ phải chuyển giao quyền của mình cho cơ

quan, tổ chức, cá nhân khác sử dụng trong thời gian nhất định.

- Biện pháp cưỡng chế đối với tài sản là quyền sử dụng đất: Biện pháp này

được quy định tại Điều 110, 111, 112, 113 Luật Thi hành án dân sự, theo đó Chấp

hành viên chỉ kê biên quyền sử dụng đất của người phải thi hành án thuộc trường

hợp được chuyển quyền sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai. Người phải

thi hành án chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà thuộc trường hợp

được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 100, 101 Luật

đất đai năm 2013, hoặc thuộc diện quy hoạch phải thu hồi đất, nhưng chưa có quyết

định thu hồi đất thì vẫn được kê biên, xử lý quyền sử dụng đất đó. Khi kê biên

quyền sử dụng đất có tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sở hữu của người phải thi

hành án thì kê biên cả quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Trường hợp đất

của người phải thi hành án có tài sản gắn liền với đất mà tài sản đó thuộc quyền sở

hữu của người khác thì chấp hành viên chỉ kê biên quyền sử dụng đất và thông báo

cho người có tài sản gắn liền với đất.

- Biện pháp cưỡng chế khai thác tài sản: được quy định tại Điều 107, 108,

109 Luật thi hành án, theo đó Chấp hành viên cưỡng chế khai thác tài sản trong

trường hợp tài sản của người phải thi hành án có giá trị quá lớn so với nghĩa vụ phải

thi hành và tài sản đó có thể khai thác để thi hành án hoặc người được thi hành án

đồng ý cưỡng chế khai thác tài sản để thi hành án nếu việc khai thác tài sản không

ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba. Tài sản của người phải thi

hành án bị cưỡng chế khai thác để thi hành án theo các hình thức: tài sản mà người

phải thi hành án đang trực tiếp khai thác hoặc cho người khác khai thác thì người

đàng khai thác được tiếp tục khai thác; trường hợp tài sản, bao gồm cả quyền sử

dụng đất mà chưa khai thác thì Chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành án ký

hợp đồng khai thác tài sản đối với tổ chức, cá nhân có nhu cầu khai thác tài sản.

Người khai thác tài sản này phải nộp số tiền thu được từ việc khai thác tài sản cho

38

cơ quan thi hành án dân sự, sau khi trừ các chi phí cần thiếu.

Thực tế, biện pháp cưỡng chế thường được sử dụng nhiều là “kê biên, xử lý

tài sản của người phải thi hành án” nên ngoài những trình tự, thủ tục trong cưỡng

chế thi hành án dân sự nêu trên, pháp luật còn quy định trình tự, thủ tục cưỡng chế

thi hành án đối với một số tài sản đặc thù như: kê biên tài sản là quyền sở hữu trí

tuệ, kê biên tài sản là quyền sử dụng đất, kê biên, xử lý tài sản cầm cố, thế chấp,

kê biên tài sản đang do người thứ ba giữ, kê biên vốn góp, kê biên phương tiện

giao thông, kê biên hoa lợi… Những trường hợp cụ thể này đều thuộc một trong

các biện pháp cưỡng chế đã được phân tích ở trên với mục đích thu hồi nợ cho

người được thi hành án.

2.1.5. Trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân

hàng thương mại

Biện pháp cưỡng chế thi hành án được áp dụng trong trường hợp người phải

thi hành án cố tình chống đối, chây ì, không có thái độ chấp hành, trốn tránh nghĩa

vụ thi hành bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, do tác động

và ảnh hưởng lớn của hoạt động cưỡng chế đối với các quan hệ xã hội nói chung,

người phải thi hành án nói riêng nên việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành

án phải được thực hiện theo một trình tự thủ tục luật định chặt chẽ. Trước khi áp

dụng cưỡng chế thi hành án, cơ quan thi hành án và Chấp hành viên đã phải trải qua

các thủ tục chung của công tác thi hành án như thụ lý thi hành án, thông báo thi

hành án, thuyết phục thi hành án, xác minh điều kiện thi hành án… từ đó xác định

đối tượng cưỡng chế và lựa chọn biện pháp cưỡng chế phù hợp đối với từng trường

hợp cụ thể. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài chúng ta chỉ đi sâu nghiên cứu những

bước cơ bản của hoạt động động cưỡng chế như sau:

- Xác minh điều kiện thi hành án:

Xác minh điều kiện thi hành án dân sự là điều kiện bắt buộc và quyết định

cho việc thực hiện hoạt động cưỡng chế có thành công hay không. Công tác xác

minh điều kiện thi hành án dân sự phải được thực hiện một cách khoa học, toàn

diện, đầy đủ và chi tiết tới từng nội dung, phù hợp với yêu cầu đặt ra của vụ việc

39

cưỡng chế cụ thể. Khi thực hiện xác minh điều kiện thi hành án, Chấp hành viên

phải tuân thủ các quy định tại Điều 44 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, được sửa

đổi, bổ sung năm 2014, Điều 9 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/07/2015 của

Chính phủ được sửa đỏi bổ sung bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP, Điều 4 TTLT số

04/2010 ngày 26/07/2010 và mục 1, Chương II của Thông tư liên tịch số 02/2014 ngày

14/01/2014 quy định chi tiết các vấn đề liên quan đến công tác xác minh thi hành án dân

sự, cũng như trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến hoạt động xác

minh thi hành án. Theo đó, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi

hành án mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên tiến

hành xác minh. Người phải thi hành án phải kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông

tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án với cơ quan thi hành án dân sự và phải chịu

trách nhiệm về việc kê khai của mình.

- Lựa chọn biện pháp cưỡng chế và xác định loại tài sản không được kê biên,

cưỡng chế

Việc lựa chọn biện pháp cưỡng chế thi hành án được quy định tại Điều 13

Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/07/2015 của Chính phủ được sửa đỏi bổ sung

bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP. Theo đó, căn cứ nội dung bản án, quyết định,

trên cơ sở tính chất, mức độ, nghĩa vụ thi hành án, điều kiện của người phải thi

hành án, đề nghị của đương sự và tình hình thực tế của địa phương, Chấp hành

viên sẽ lựa chọn việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án cho phù hợp. Việc

áp dụng biện pháp cưỡng chế phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành

án và các chi phí cần thiết.

Khi lựa chọn biện pháp cưỡng chế để thu hồi nợ, Chấp hành viên cần lưu ý

đến các tài sản mà pháp luật quy định không được kê biên được quy định tại Điều

87 Luật Thi hành án dân sự để có sự lựa chọn phù hợp. Theo đó, các loại tài sản

không được kê biên, cưỡng chế bao gồm:

1. Tài sản bị cấm lưu thông theo quy định của pháp luật; tài sản phục vụ

quốc phòng, an ninh, lợi ích công cộng; tài sản do ngân sách nhà nước cấp cho cơ

quan, tổ chức.

40

2. Tài sản sau đây của người phải thi hành án là cá nhân:

a) Số lương thực đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người phải thi hành án và

gia đình trong thời gian chưa có thu nhập, thu hoạch mới;

b) Số thuốc cần dùng để phòng, chữa bệnh của người phải thi hành án và gia

đình;

c) Vật dụng cần thiết của người tàn tật, vật dụng dùng để chăm sóc người

ốm;

d) Đồ dùng thờ cúng thông thường theo tập quán ở địa phương;

đ) Công cụ lao động cần thiết, có giá trị không lớn được dùng làm phương

tiện sinh sống chủ yếu hoặc duy nhất của người phải thi hành án và gia đình;

e) Đồ dùng sinh hoạt cần thiết cho người phải thi hành án và gia đình.

3. Tài sản sau đây của người phải thi hành án là doanh nghiệp, hợp tác xã,

cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ:

a) Số thuốc phục vụ việc phòng, chữa bệnh cho người lao động; lương thực,

thực phẩm, dụng cụ và tài sản khác phục vụ bữa ăn cho người lao động;

b) Nhà trẻ, trường học, cơ sở y tế và thiết bị, phương tiện, tài sản khác thuộc

các cơ sở này, nếu không phải là tài sản để kinh doanh;

c) Trang thiết bị, phương tiện, công cụ bảo đảm an toàn lao động, phòng,

chống cháy nổ, phòng, chống ô nhiễm môi trường.

- Ra quyết định cưỡng chế:

Điều 45 và 46 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung

năm 2014 quy định: thời hạn tự nguyện thi hành án là 10 ngày, kể từ ngày người

phải thi hành án nhận được quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ

quyết định thi hành án. Hết thời hạn này, người phải thi hành án có điều kiện thi

hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế. Như vậy, sau khi hết thời

hạn luật định 10 ngày, nếu người phải thi hành án không tự nguyện, tự giác thực

hiện nghĩa vụ của mình, Chấp hành viên được phân công sẽ ra quyết định cưỡng

chế thi hành án, đồng thời lựa chọn một trong các biện pháp cưỡng chế phù hợp.

41

- Lập kế hoạch cưỡng chế:

Trước khi tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự, Chấp hành viên phải lập

kế hoạch cưỡng chế, trừ trường hợp phải cưỡng chế ngay. Kế hoạch cưỡng chế gồm

các nội dung chính sau: biện pháp cưỡng chế cần áp dụng, thời gian, địa điểm

cưỡng chế, phương án tiến hành cưỡng chế, yếu cầu về lực lượng tham gia và bảo

vệ cưỡng chế, dự trù kinh phí cưỡng chế.

Kế hoạch cưỡng chế gửi ngay cho Viện kiểm sát, cơ quan Công an cùng cấp,

UBND cấp xã nơi tổ chức cưỡng chế hoặc cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc

cưỡng chế thi hành án.

Cơ quan thi hành án có thẩm quyền phải thực hiện việc thông báo quyết định

cưỡng chế và các tài liệu có liên quan cho người phải thi hành án, người được thi hành

án và những người có quyền lợi liên quan. Việc thông báo quyết định cưỡng chế được

thực hiện theo quy định chung về thông báo thi hành án quy định tại Điều 39, 40, 41,

42 Luật Thi hành án dân sự và Điều 12 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ.

- Tiến hành cưỡng chế:

Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền tiến hành cưỡng chế tại nơi có tài

sản hoặc đối tượng cần cưỡng chế. Trước khi thực hiện cưỡng chế theo kế hoạch và

quyết định cưỡng chế đã ấn định, người có thẩm quyền thi hành án chủ trì phổ biến

toàn bộ kế hoạch, phân công nhiệm vụ cụ thể của từng đơn vị, từng người, nêu các

tình huống có thể xảy ra và biện pháp xử lý các tình huống đó.

Chuẩn bị đầy đủ các biên bản, văn bản cần sử dụng trước khi tiến hành

cưỡng chế. Chuẩn bị đầy đủ phương tiện, điều kiện liên quan đã dự kiến phục vụ tốt

cho việc cưỡng chế.

Người có thẩm quyền thi hành án chủ trì điều hành toàn bộ quá trình cưỡng

chế, kịp thời xử lý mọi tình huống đã dự kiến trong kế hoạch và tình huống phát

sinh diễn ra trong quá trình cưỡng chế cho đến khi kết thúc việc cưỡng chế.

2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu

hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự trên địa

42

bàn thành phố Hà Nội

2.2.1. Tình hình cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ trong thi hành án dân sự

trên địa bàn thành phố Hà Nội

Thành phố Hà Nội – thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là

trung tâm đầu não về chính trị,văn hóa, khoa học kĩ thuật, đồng thời là trung tâm

lớn về giao dịch kinh tế và quốc tế của cả nước.

Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, Hà Nội hiện nay

gồm 12 quận, 1 thị xã và 17 huyện ngoại thành. Từ diện tích gần 1.000 km² , Hà

Nội sau khi mở rộng có diện tích 3.324,92 km²

Tính đến năm 2018, dân số Hà Nội là 8.215.000 người, 55% dân số (tức 4,5

triệu người) sống ở thành thị, 3,7 triệu sống ở nông thôn (45%).

Kinh tế Thủ đô năm 2018 tiếp tục phát triển toàn diện, tổng sản phẩm trên

địa bàn (GRDP) tăng 8,65% (theo cách tính mới là 7,37%) và duy trì năm sau tăng

hơn năm trước (năm 2016 tăng 8,2%; năm 2017 tăng 8,48%). GRDP bình quân đầu

người năm 2018 đạt 4.080USD/người, gấp 1,12 lần năm 2015. Tổng thu ngân sách

của thành phố năm 2018 ước đạt 238,8 nghìn tỷ đồng, bằng 100,2% dự toán (tăng

12,6% so với cùng kỳ).[13-Tr.62].

Với vị thế là Thủ đô, trung tâm kinh tế của cả nước, nền kinh tế - xã hội của

Hà Nội phát triển vượt bậc, là nơi tập trung đầu tư của nhiều ngành, phát triển trên

nhiều lĩnh vực, đặc biệt là về thương mại, tài chính, bất động sản. Nhất là những

năm gần đây, tiến trình đô thị hóa, đầu tư xây dựng, mở rộng cơ sở hạ tầng với quy

mô lớn, tốc độ phát triển rất nhanh.

Cùng với những đặc thù về kinh tế, văn hóa, chính trị và dân cư tập trung

đông đúc, trong những năm qua, do ảnh hưởng của tốc độ đô thị hóa quá nhanh,

ảnh hưởng nặng nề của khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu, Hà Nội có thể coi

là một trong những điểm nóng nổi cộm và phức tạp, phát sinh các tranh chấp liên

quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, tín dụng ngân hàng, tranh chấp dân sự và

có cả sự tăng lên các vụ án hình sự, các vi pháp pháp luật trong nhiều lĩnh vực.

Trong những năm gần đây, hàng nghìn doanh nghiệp tại Hà Nội phải đóng

43

cửa hoặc ngừng hoạt động, hàng nghìn tỷ nợ tín dụng, ngân hàng không được thanh

toán đã phát sinh nhiều tranh chấp, bất động sản đóng băng, thị trường tài chính, tín

dụng trì trệ, thiếu bền vững, tỷ lệ nợ xấu tăng cao, tội phạm về hình sự trong lĩnh

vực kinh tế cũng tăng nhanh với tính chất ngày càng phức tạp… đã tạo nên gánh

nặng trách nhiệm, hậu quả nặng nề cho xã hội, trong đó có các cơ quan điều tra,

Viện kiểm sát, Tòa án và cuối cùng là Thi hành án dân sự.

Theo báo cáo thống kê hàng năm của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà

Nội về công tác thi hành án dân sự từ năm 2014 đến năm 2018, số vụ việc thụ lý

năm sau đều có xu hướng tăng cao hơn năm trước cả về số lượng và giá trị, trong đó

nguyên nhân chủ yếu là do số lượng vụ việc tranh chấp dân sự liên quan đến Ngân

hàng thương mại ngày càng tăng với số tiền có giá trị lớn. Cụ thể như sau:

Bảng 2.1: Kết quả thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội

từ năm 2014 đến năm 2018 về việc

Năm Tỷ lệ Tổng số việc thụ lý Số thi hành xong Tổng số có điều kiện thi hành

2014 34.127 23.584 20.145 85%

2015 36.502 26.060 23.629 91%

2016 39.614 29.783 22.656 76%

2017 44.791 32.806 26.284 80%

2018 48.435 35.352 27.060 76%

( Nguồn:[8-Tr.62])

Bảng 2.2: Kết quả thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội

từ năm 2014 đến năm 2018 về tiền

Năm

Tỷ lệ

Tổng số tiền và giá trị tài sản thụ lý

Số có điều kiện thi hành

Số thi hành xong/số có điều kiện

2014

10.621.471.824

5.690.832.154

4.594.232.476

80.7%

2015

11.677.340.576

6.076.231.265

5.181.955.124

85%

2016

15.050.036.520

10.564.241.779

2.639.632.843

25%

2017

22.618.414.936

11.665.154.016

4.018.992.594

30.9%

44

2018

29.979.136.696

16.399.725.363

3.171.983.871

19.34%

(Nguồn: [8-Tr.62])

Từ bảng số liệu thống kê cho thấy, năm 2014 tổng số việc phải thi hành năm

2014 là 34.127 việc với số tiền 10.621.471.824.000 đồng, nhưng đến năm 2018, con

số này đã tăng 70,4% về việc và 282% về tiền với số việc phải thi hành là 48.435

và số tiền phải thi hành là 29.979.136.696.000 đồng. Tổng số việc giải quyết được

trên tổng số có điều kiện thi hành năm sau đều tăng hơn năm trước cả về số việc và

số tiền, nhưng số lượng việc cũng như số tiền tồn đọng chuyển sang năm sau còn

nhiều. Năm 2014, số án tồn từ năm 2013 chuyển sang là 15.476 việc và

3.698.432.567.000 đồng. Đến năm 2018, số án tồn chuyển từ năm 2017 sang là

17.269 việc và 15.666. 302.243.000 đồng. Một trong những nguyên nhân dẫn đến

tình trạng này là công tác cưỡng chế thi hành án để thu hồi nợ còn chưa phát huy

hết khả năng và hiệu quả như mong muốn. Cụ thể:

Bảng 2.3: Kết quả việc áp dụng cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho

Ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2014 đến 2018

Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 1.515 1.224 1.926 1.015 2.042

169 236 364 519 532

Số việc phải cưỡng chế thu hồi nợ Số việc cưỡng chế có huy động lực lượng

(Nguồn: [8-Tr.62])

Số liệu thống kê tại bảng trên đây cho thấy rằng số vụ việc thi hành án phải

cưỡng chế thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại có sự gia tăng cùng với số lượng

việc phải thi hành hàng năm, đặc biệt là số lượng việc phải cưỡng chế vẫn còn ở

mức cao, ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả thi hành án dân sự, nhất là tốn thời gian,

chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự cho Nhà nước và cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Bởi thực tế những việc cưỡng chế thi hành án dân sự thường liên quan đến việc xử

lý tài sản có giá trị lớn, nhất là tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất, cổ phiếu, nhà

xưởng, tàu biển, dây chuyển sản xuất của các doanh nghiệp... Điều này có ý nghĩa

45

quan trọng trong việc bảo đảm hiệu quả thi hành án dân sự. Bên cạnh đó, thực hiện

pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự cũng góp phần nâng cao ý thức pháp luật

trong xã hội, giảm thiểu các vụ việc khiếu nại, tố cáo bức xúc kéo dài; nâng cao ý

trách nhiệm của đội ngũ chấp hành viên, công chức thi hành án dân sự cũng như

trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan trong thi hành án dân

sự.

Bảng 2.4: Kết quả áp dụng đối với từng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân

sự nhằm thu hồi nợ trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2014

đến năm 2018

(Đơn vị tính: 1.000 đồng)

Năm

Số việc/tiền cưỡng chế thi hành án áp dụng biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền…. Số việc/tiền cưỡng chế thi hành án áp dụng biện pháp trừ vào thu nhập của người phải thi hành án

212/1.576.234 312/3.890.012 407/1.097.602 388/2.067.123 417/3.456.980 327/3.294.325 426/3.089.567 502/4.567.821 672/3.456.978 721/4.009.526 Số việc/tiền cưỡng chế thi hành án áp dụng biện pháp kê biên, xử lý tài sản của người đang thi hành án 474/2.672.434 481/4.468.908 598/6.594.012 856/6.187.945 898/7.213.097 Số việc/tiền cưỡng chế thi hành án áp dụng biện pháp khai thác tài sản của người phải thi hành án 02/1.000.768 05/2.134.602 08/3.494.210 10/3.789.105 06/2.189.056 2014 2015 2016 2017 2018

(Nguồn: [8-Tr.62])

Theo số liệu thống kê cho thấy, cả bốn biện pháp cưỡng chế thi hành án để

thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại đều được các Chấp hành viên áp dụng tùy

từng trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, do đặc thù của mỗi biện pháp mà số lượng việc

áp dụng có sự chênh lệch. Từ năm 2014 đến năm 2018, trên địa bàn Hà Nội, biện

pháp cưỡng chế thi hành án đối với nghĩa vụ về tài sản chủ yếu được áp dụng nhiều

là biện pháp kê biên, xử lý tài sản của người đang thi hành án, kể cả tài sản đang do

người thứ ba giữ, chiếm tỷ lệ trung bình 47%. Tiếp đó là biện pháp khấu trừ tiền

trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án với tỷ

lệ trung bình 15% Biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án

và biện pháp khai thác tài sản của người phải thi hành án lần lượt chiếm tỷ lệ trung

46

bình 30% và 08%. Có sự chênh lệch về việc lựa chọn biện pháp cưỡng chế như vậy

là do đặc điểm của từng biện pháp và điều kiện thi hành án của người phải thi hành án

trong từng vụ việc là khác nhau. Và việc áp dụng biện pháp kê biên, xử lý tài sản của

người đang thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ là phù hợp và mang lại

hiệu quả khả thi nhất.

2.2.2. Những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định pháp

luật về cưỡng chế thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự

trên địa bàn thành phố Hà Nội

2.2.2.1. Một số quy định pháp luật về các biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ

cho Ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự chưa thực sự hợp lý, thiếu tính

khả thi.

- Khấu trừ tiền trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người

phải thi hành án

Thành phố Hà Nội với đặc thù là trung tâm kinh tế - văn hóa – chính trị của

cả nước, do đó, việc giao dịch và sử dụng tài khoản ngân hàng ngày càng trở lên

phổ biến. Từ thực tiễn cho thấy, nếu người phải thi hành án có sẵn tiền trong tài

khoản hoặc do chính người này đang giữ thì đây là biện pháp cưỡng chế thi hành án

nhanh và hiệu quả nhất. Theo số liệu thống kê cho thấy, trong 05 năm từ năm 2014

đến 2018, Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội và các Chi cục THADS cấp

huyện đã áp dụng biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy

tờ có giá của người phải thi hành án đối với 4.567 vụ việc, qua đó đã giải quyết dứt

điểm 4.023 vụ việc. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi vẫn còn những khó khăn,

vướng mắc tồn tại.

Đối với việc khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành án: việc

thực hiện biện pháp này gặp nhiều khó khăn từ việc phối hợp của tổ chức tín dụng

trong việc xác minh điều kiện thi hành án. Theo quy định tại Điều 11 Luật Thi

hành án dân sự, các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn,

nghĩa vụ của mình phải có trách nhiệm phối hợp, thực hiện yêu cầu của cơ quan

thi hành án dân sự và Chấp hành viên trong việc thi hành án. Pháp luật về thi hành

47

án đã quy định rõ ràng trách nhiệm trong việc phối hợp với cơ quan thi hành án,

tuy nhiên trong thực tiễn việc phối hợp này còn nhiều hạn chế, bất cập. Việc thu

thập thông tin về tài khoản, thu nhập của người phải thi hành án gặp nhiều khó

khăn do hiện nay nước ta chưa có cơ sở dữ liệu quốc gia về tài khoản, tiền gửi

khách hàng trong các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại. Ngoài ra, khi đã

xác minh được tài khoản, thu nhập của người phải thi hành án thì khó khăn vẫn

chưa hết. Các tổ chức tín dụng sẽ viện dẫn điều 14 Luật các tổ chức tín dụng năm

2010 để từ chối cung cấp thông tin về tài khoản của người phải thi hành án, hoặc

sẽ thực hiện nhưng cung cấp thông tin một cách hạn chế, dẫn đến khó khăn trong

việc thi hành án. Sau khi đã thu thập thông tin về tài khoản của người phải thi

hành án thì các ngân hàng lại viện lý do số tiền thi hành lớn, phải xin ý kiến của

Hội sở hoặc viện lý do phải bảo vệ khách hàng nên trì hoãn việc thực hiện quyết

định cưỡng chế của cơ quan THADS khiến vụ việc kéo dài, dẫn đến người được

thi hành án bức xúc, khiếu nại cơ quan thi hành án nhiều lần. Trường hợp số tiền

phải thi hành án lớn nhưng bị trì hoãn thi hành nằm ở ngân hàng trong khi nhu cầu

sử dụng, tái đầu tư của người được thi hành án đang cấp thiết sẽ là thiệt hại không

nhỏ cho người được thi hành án. Trái lại, đối với ngân hàng khoản tiền đó sẽ mang

lại khoản lợi nhuận đáng kể.

- Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án:

Cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án chưa phù hợp, vì

mức được trừ vào tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao

động là 30% tổng số tiền được nhận hàng tháng, như vậy đối với những người có

thu nhập thấp thì việc thi hành án bị kéo dài, còn trong trường hợp họ phải thi hành

án với số tiền lớn mặc dù có thu nhập cao lẽ ra chỉ khấu trừ một lần với mức thu

nhập từ tiền lương hoặc tiền công trên 30% cũng đủ để thi hành án dân sự nhưng

vẫn phải cưỡng chế nhiều lần.

- Đối với biện pháp cưỡng chế thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người

phải thi hành án

Thực tiễn thi hành các quy định này cho thấy có một số khó khăn, đặc biệt là

48

vấn đề xác định mức tiền thu từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án.

Mặc dù Nghị định 62/NĐ-CP đã hướng dẫn mức trừ phải căn cứ trên sổ sách, giấy

tờ hoặc tình hình kinh doanh thực tế, nhưng tình hình kinh doanh thực tế như thế

nào thì không phải trong mọi trường hợp Chấp hành viên đều có khả năng đánh giá

đúng, từ đó quyết định về mức thu có thể là chưa phù hợp. Việc xác định mức tối

thiểu cần để lại để tiếp tục duy trì cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng là một

vấn đề khá khó khăn. Mặc dù Nghị định 62/NĐ-CP cũng đã hướng dẫn nhưng

hướng dẫn này còn khá chung chung như: Chấp hành viên căn cứ vào tính chất,

ngành nghề kinh doanh, quy mô kinh doanh của người phải thi hành.

- Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do

người thứ ba giữ

Qua thực tiễn công tác cho thấy, đây là biện pháp cưỡng chế được áp dụng

chủ yếu trong 04 biện pháp cưỡng chế nhằm thu hồi nợ trên địa bàn thành phố Hà

Nội. Tuy nhiên, đây cũng lại là biện pháp cưỡng chế phức tạp, đòi hỏi trình tự, thủ

tục kê biên cần nhiều bước, nhiều giai đoạn chặt chẽ. Bên cạnh đó, người phải thi

hành án thường xuyên có sự thiếu hợp tác, chống đối quyết liệt, nhiều trường hợp

phải huy động lực lượng để bảo vệ, đòi hỏi các Chấp hành viên phải có bản lĩnh

vững vàng, tinh thông nghiệp vụ, có kinh nghiệm và kỹ năng xử lý tình huống, kỹ

năng thuyết phục và cẩn trọng trong tác nghiệp. Ngoài ra, việc quy định của pháp

luật thi hành án hiện nay cũng mang lại nhiều khó khăn cho công tác cưỡng chế thi

hành án, trong đó phải kể đến khó khăn do đương sự cố tình kéo dài thời gian thi

hành án bằng cách yêu cầu định giá lại tài sản kê biên. Trên địa bàn thành phố Hà

Nội có nhiều vụ việc kéo dài nhiều năm, chưa giải quyết dứt điểm được vì đương sự

yêu cầu định giá lại. Trước đây, theo quy định của Luật Thi hành án dân sự năm

2008, đương sự có quyền yêu cầu định giá lại tài sản trong hai trường hợp

sau:Trường hợp thứ nhất, trước khi có thông báo công khai về việc bán đấu giá tài

sản (khoản 2 Điều 98). Trường hợp thứ hai, trong thời hạn mười ngày kể từ ngày

bán đấu giá không thành (Điều 104). Với quy định như vậy đã làm cho quá trình

định giá, bán đấu giá và định giá lại dường như không có điểm dừng, trừ trường hợp

49

đương sự không yêu cầu định giá lại hoặc tài sản được bán đấu giá thành.

Đến nay, Điều 99 và Điều 104 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa

đổi, bổ sung năm 2014 đã khắc phục việc quy định khá thoáng đối với những

trường hợp được yêu cầu định giá lại nhưng vẫn chưa thực sự triệt để. Tại điểm b

khoản 1 Điều 99 Luật Thi hành án dân sự quy định:

“Đương sự có yêu cầu định giá lại trước khi có thông báo công khai về việc

bán đấu giá tài sản. Yêu cầu định giá lại chỉ được thực hiện một lần và chỉ được

chấp nhận nếu đương sự có đơn yêu cầu trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ

ngày nhận được thông báo về kết quả thẩm định giá và phải nộp ngay tạm ứng chi

phí định giá lại tài sản.”

Như vậy, quyền yêu cầu định giá lại được thực hiện sau khi kê biên, định giá

tài sản cho đến trước khi thông báo công khai về việc bán đấu giá tài sản. Khi

đương sự thực hiện quyền yêu cầu này, pháp luật thi hành án dân sự không có một

quy định nào buộc đương sự phải nêu lý do làm căn cứ cho yêu cầu của mình. Điều

này sẽ dẫn đến sự tùy tiện hoặc cố tình lợi dụng quyền yêu cầu định giá lại để kéo

dài thời gian thi hành án một cách hợp pháp, gây khó khăn cho hoạt động thi hành

án cũng như gây thiệt hại cho người được thi hành án. Hơn nữa, theo quy định trên

thì dù việc định giá được thực hiện bằng hình thức nào, kể cả việc định giá do các

bên thỏa thuận ngay tại thời điểm kê biên thì cũng có thể bị người phải thi hành án

hoặc người được thi hành án yêu cầu định giá lại. Điều này rõ ràng chưa hợp lý, vì lẽ

các bên có quyền tự phá vỡ các thỏa thuận của chính mình và có thể gây thiệt hại cho

phía còn lại mà không bị ràng buộc nào về mặt pháp lý. Quy định như vậy vô tình đã

tạo ra một kẻ hở pháp luật mà người phải thi hành án có thể lợi dụng để làm cho quá

trình thi hành án kéo dài và phức tạp hơn. Hậu quả là hiệu lực của bản án, quyết định

không được đương sự tôn trọng và làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật.

2.2.2.2. Pháp luật chưa quy định cụ thể về trình tự, thủ tục xác minh điều kiện

cưỡng chế, vì thế trong thực tiễn thi hành án dân sự thường vận dụng quy định chung

về xác minh điều kiện thi hành án để xác minh điều kiện cưỡng chế thi hành án.

Về xác minh điều kiện cưỡng chế thi hành án dân sự, theo quy định thì để

50

tiến hành cưỡng chế thì chấp hành viên phải xác minh các thông tin liên quan đến

việc cưỡng chế được đảm bảo, đồng thời cung cấp thông tin cho cơ quan Công an

biết để tiến hành xác minh, xây dựng kế hoạch và lập phương án bảo vệ cưỡng chế

theo quy định tại Quy chế phối hợp liên ngành số 03/2012/TTLT-BTP-BCA ngày

30/3/2012. Tuy nhiên, pháp luật lại chưa quy định cụ thể về xác minh điều kiện

cưỡng chế thi hành án dân sự gồm những nội dung gì; trình tự, thủ tục xác minh

điều kiện cưỡng chế thi hành án dân sự như thế nào, trong khi đó thực tế có 02 điều

kiện quan trọng cần phải xác minh trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế là người

phải thi hành án có điều kiện thi hành án và không tự nguyện thi hành án. Hạn chế

này dẫn tới sự lúng túng và vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, do không có quy

định về thủ tục xác minh điều kiện cưỡng chế thi hành án nên các Chấp hành viên

thường vận dụng quy định chung về xác minh điều kiện thi hành án để xác minh

điều kiện cưỡng chế thi hành án dân sự.

2.2.2.3. Có nhiều trường hợp người phải thi hành án (đương sự) không tuân

thủ pháp luật, có hành vi chống đối việc cưỡng chế thi hành án; sử dụng quyền

khiếu nại, tố cáo không đúng pháp luật để trì hoãn, kéo dài việc thi hành án

Thực tiễn công tác THADS cho thấy, sự chống đối quyết liệt của người phải

THA, người có tài sản bị xử lý, bán đấu giá là nguyên nhân hàng đầu cho việc

không bàn giao được tài sản cho người trúng đấu giá. Không hiếm vụ việc người có

tài sản bị kê biên, xử lý, bán đấu giá là bên thứ ba bảo lãnh, thế chấp tài sản để cho

người phải THA vay nợ ngân hàng; tài sản nhà đất là gia tài lớn của cả gia đình, của

nhiều thế hệ sinh sống, nhưng lại rất khó buộc trách nhiệm của người phải THA, đã

dẫn đến tâm lý bức xúc, chống đối quyết liệt để cản trở việc THA, cản trở việc giao

tài sản cho người mua trúng đấu giá.

Thực tế cho thấy rằng có nhiều trường hợp cưỡng chế thi hành án dân sự,

người phải thi hành án nại ra những lý do khác nhau để yêu cầu, khiếu nại, thậm chí

tố cáo sai sự thật, nhằm cố tình trì hoãn việc thi hành án. Tuy nhiên, quá trình giải

quyết khiếu nại, tố cáo đối với các trường hợp này gặp rất nhiều khó khăn, do người

51

phải thi hành án hoặc người bị cưỡng chế làm đơn tới nhiều cấp, ngành nhưng

không trực tiếp đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết để đối thoại, làm việc, vì vậy

dẫn đến việc khiếu nại kéo dài…

2.2.2.4. Vẫn còn nhiều việc cưỡng chế thi hành án phải huy động lực lượng

gây tốn kém thời gian, chi phí cho cơ quan thi hành án dân sự

Từ góc độ quản lý nhà nước, việc tự nguyện thi hành án sẽ giúp cơ quan

THADS rút ngắn thời gian thi hành án thông qua việc giảm đến mức thấp nhất thời

gian xác minh, kê biên, bán đấu giá, giảm chi phí thi hành án, hạn chế rủi ro cho

chấp hành viên thực thi nhiệm vụ trước sự cản trở, chống đối của đương sự, giảm số

việc khiếu nại, tố cáo, nguy cơ phát sinh trách nhiệm bồi thường.

Thực tế thời gian qua cho thấy, nhiều trường hợp người phải thi hành án có

điều kiện thi hành án nhưng thiếu ý thức chấp hành pháp luật, thậm chí coi thường

pháp luật, cố tình trốn tránh, chây ỳ, chống đối việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án

nhưng dư luận xã hội chưa có thái độ phê bình, lên án kịp thời. Một số trường hợp

chống đối quyết liệt, nhất là trong quá trình cưỡng chế giao tài sản trúng đấu giá

(hiện có 108 vụ việc) hoặc cố tình khiếu nại vượt cấp, khởi kiện tại Tòa án (hiện có

56 vụ việc) gây khó khăn, kéo dài, trì hoãn việc thi hành án nhưng chưa có các biện

pháp đủ mạnh để buộc thực hiện hoặc răn đe người phải thi hành án.

2.2.2.5. Trong việc áp dụng pháp luật về cưỡng chế thu hồi nợ, một số chấp

hành viên đã không thực hiện đúng trình tự thủ tục pháp luật quy định dẫn đến việc

tố cáo của đương sự, thậm chí những việc thi hành án phải bồi thường

Đã có những chấp hành viên, cán bộ thi hành án dân sự bị xử lý kỉ luật, cao

hơn là bị truy cứu trách nhiệm hình sự do các vi phạm về chuyên môn, nghiệp vụ

của mình.

2.2.2.6. Cơ chế xử phạt hành chính và xử lý trách nhiệm hình sự đối với

những cá nhân, tổ chức trì hoãn, không chấp hành, tẩu tán tài sản thi hành án chưa

hiệu quả và chưa đủ mạnh để răn đe

Để đảm bảo hiệu quả thực hiện pháp luật cưỡng chế thi hành án dân sự thì

phải có những cơ chế đảm bảo xử lý vi phạm trong cưỡng chế, nhất là đối với hành

52

vi chống đối, cản trở việc cưỡng chế thi hành án dân sự. Tuy nhiên, mặc dù pháp

luật có quy định biện pháp xử phạt hành chính và truy cứu trách nhiệm hình sự đối

với trường hợp người phải thi hành án và những cá nhân, tổ chức trì hoãn, không

chấp hành án, tẩu tán tài sản thi hành án (Điều 379, Điều 380 và Điều 381 Bộ luật

Hình sự năm 2015), nhưng thực tế số lượng các vụ việc không chấp hành án trên

toàn quốc rất nhiều nhưng việc xử lý về hình sự rất ít.

2.2.2.7. Hiện tượng bản án, quyết định tuyên không rõ, khó thi hành và giải

thích bản án của Tòa án vượt quá nội dung bản án dẫn tới vướng mắc trong cưỡng

chế thi hành án vẫn còn tồn tại

Nội dung bản án tuyên chưa rõ khó thi hành tương đối đa dạng như: Không

phân định rõ về phạm vi nghĩa vụ bảo đảm của nhiều tài sản thế chấp cho một hoặc

nhiều hợp đồng tín dụng; không đề cập đến tài sản trên đất tồn tại từ trước khi có

bản án; bản án, quyết định của tòa án không tuyên cụ thể nghĩa vụ bảo đảm (gốc, lãi

phát sinh đến thời điểm xét xử) của các tài sản thế chấp của bên thứ ba cho một hợp

đồng tín dụng; không đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố

tụng trong quá trình xét xử vụ án. Thậm chí có những trường hợp tòa án tuyên

không đúng quy định của pháp luật nhưng đã hết thời hạn kháng nghị giám đốc

thẩm. Có thể lấy ví dụ minh họa qua một sự việc cụ thể như sau:

Theo bản án số 59/KDTM ngày 05/02/2018 của Tòa án nhân dân thành phố

Hà Nội tuyên: Ông Nguyễn Văn T và gia đình phải trả cho Ngân hàng TMCP B số

tiền gốc là 10 tỷ đồng, tiền lãi là 5 tỷ đồng, tổng cộng 15 tỷ đồng, nếu hết thời gian

thỏa thuận mà ông Nguyễn Văn T không thanh toán hết số tiền gốc và lãi là 15 tỷ

đồng cho Ngân hàng TMCP B thì Ngân hàng TMCP B có quyền yêu cầu cơ quan

thi hành án có thẩm quyền kê biên, phát mại tài sản thế chấp là toàn bộ QSDĐtại

Thửa đất số 84(1) – 2 tờ bản đồ số 45, tại thôn Giao Tất A, xã Kim Sơn, huyện Gia

Lâm, thành phố Hà Nội với diện tích 250m2 được UBND huyện Gia Lâm cấp

GCNQSDĐ ngày 30/3/2011 mang tên Nguyễn Văn T.

Quá trình thi hành án do người phải thi hành án là ông Nguyễn Văn T và gia

đình không thanh toán tiền trả ngân hàng, Cục THADS thành phố Hà Nội thực hiện

53

kê biên xử lý tài sản thế chấp đảm bảo thi hành án. Để thi hành án đúng quy định,

ngày 17/9/2018, Cục THADS thành phố Hà Nội phối hợp với chính quyền địa

phương tiến hành kiểm tra, xác minh hiện trạng tài sản thế chấp theo bản án tuyên.

Kết quả xác minh thực tế cho thấy trên phần diện tích đất kê biên có một phần nhà

xây 3 tầng có diện tích 50m2sàn (nhà xây 3 tầng có tổng diện tích 120m2 một sàn).

Do nhà ở nêu trên không thuộc tài sản thế chấp và được xây dựng trên diện tích đất

thế chấp trước thời điểm QSDĐ được thế chấp cho ngân hàng, tuy nhiên trong quá

trình xét xử vụ án tại phần quyết định của bản án, tòa án chỉ tuyên phần xử lý toàn

bộ QSDĐ 250 m2 để đảm bảo thi hành án còn tài sản là nhà ở trên đất không được

bản án đề cập đưa vào xử lý do đó đã gây khó khăn, vướng mắc cho công tác kê

biên tài sản thế chấp là QSDĐ để thi hành án. Do đó, Cục THADS thành phố Hà

Nội đã có công văn đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có văn bản giải

thích bản án số 59/KDTM ngày 05/02/2018 để có căn cứ xử lý tài sản là nhà ở

không phải là tài sản thế chấp nhưng có trên đất thế chấp được đúng quy định của

pháp luật.

2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế về áp dụng pháp luật về

cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trên địa bàn

thành phố Hà Nội

2.2.3.1. Nguyên nhân khách quan

- Các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho

Ngân hàng thương mại còn nhiều hạn chế, bất cập.

Sự thiếu rõ ràng, cụ thể, chồng chéo, thậm chí thiếu bao quát của các quy

định chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cưỡng chế thu hồi nợ đã được phân

tích, luận giải ở trên. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu cũng cho thấy pháp luật thi hành

án dân sự chưa quy định theo hướng xác định Thi hành án dân sự là thủ tục tố tụng,

là khâu thực hiện kết quả hoạt động của quyền tư pháp, do đó có sự cắt khúc, tách

rời giữa hoạt động xét xử với hoạt động thi hành án. Vì vậy, trách nhiệm, quyền hạn

của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh đối với việc

thi hành các bản án, quyết định của mình, trong đó có trách nhiệm, quyền hạn của

54

Tòa án trong cưỡng chế thu hồi nợ còn hạn chế. Tòa án mới chỉ tham gia phối hợp

mà chưa có vai trò cụ thể và quan trọng trong cưỡng chế thi hành án, bởi thế việc xử

lý tài sản cưỡng chế thi hành án là tài sản chung hoặc tài sản có tranh chấp khó thực

hiện vì Tòa án chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp tài sản đã kê biên, phân chia

tài sản nếu các đương sự không thỏa thuận được và khởi kiện ra Tòa án. Bộ luật Tố

tụng dân sự tại các Điều từ Điều 309 đến Điều 311 không quy định về quyền của

Tòa án cấp phúc thẩm trong giải quyết hậu quả của việc thi hành án dân sự đã thi

hành dẫn tới khó xử lý trong trường hợp bản án, quyết định chưa có hiệu lực được

thi hành ngay theo quy định tại khoản 2 Điều 482 Bộ luật này. Bộ luật Tố tụng dân

sự đã có quy định về việc giải quyết hậu quả của việc thi hành án khi Hội đồng

giám đốc thẩm, tái thẩm hủy án hoặc sửa án tại các điều từ Điều 344 đến Điều 357.

Tuy nhiên, việc giải quyết những hệ quả, vướng mắc trong trường hợp kháng nghị

theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án hoặc của Viện kiểm sát dẫn đến

thay đổi nội dung các bản án đã có hiệu lực pháp luật đang được cưỡng chế thi hành

hoặc đã cưỡng chế thi hành xong là rất khó khăn, phức tạp.

- Số việc và tiền thụ lý ngày càng nhiều và tiếp tục tăng cao qua các năm như

đã phân tích ở các phần trên. Theo đó, năm 2018, số việc thụ lý mới là 31.166 việc

với số tiền trên 14 nghìn tỷ đồng, tăng 7% về việc và 12% về tiền so với năm 2017.

Với đặc thù là trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị của cả nước, tại Hà Nội có nhiều

vụ việc có giá trị phải thi hành rất lớn, đặc biệt là án kinh doanh thương mại liên

quan đến các tổ chức tín dụng, ngân hàng. Việc cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản bảo

đảm mà chủ yếu là bất động sản gặp nhiều khó khăn do thị trường bất động sản

chưa có chuyển biến rõ rệt. Nhiều trường hợp phải định giá lại nhiều lần, ra quyết

định giảm giá nhiều lần để bán đấu giá nhưng vẫn không có người mua. Bên cạnh

đó, người dân không tránh khỏi tâm lý e ngại khi mua tài sản liên quan đến thi hành

án bởi nhiều nguyên nhân. Trong đó, phải kể đến những vụ việc đã bán đấu giá

thành nhưng chưa giao được hoặc việc giao rất chậm trễ cho người trúng đấu giá

bởi người phải thi hành án có thái độ chống đối, chây ì, dẫn đến việc làm ảnh hưởng

55

đến quyền và lợi ích hợp pháp của người mua.

- Biên chế của cơ quan thi hành án dân sự còn chưa tương xứng với khối lượng

công việc; chế độ, chính sách đãi ngộ chưa hợp lý đối với Chấp hành viên, cán bộ thi

hành án dân sự, nhất là cơ chế bảo vệ đối với Chấp hành viên còn chưa được bảo đảm.

- Cơ sở vật chất, kinh phí phục vụ cho việc cưỡng chế thi hành án dân sự còn

rất khó khăn, nhất là tình trạng thiếu kho vật chứng, trụ sở làm việc. Một số cơ quan

thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội vẫn phải đi thuê trụ sở, kho vật

chứng, hoặc dùng chung trụ sở, tận dụng trụ sở cũ của cơ quan khác đã phần nào

hạn chế kết quả thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, trong đó có hoạt động cưỡng chế

thu hồi nợ của các cơ quan Thi hành án dân sự. Bên cạnh đó, kinh phí tạm ứng

cưỡng chế thi hành án dân sự còn hạn chế dẫn đến việc thực thi nhiệm vụ này còn

nhiều khó khăn. Do suy thoái kinh tế, sản xuất, kinh doanh thương mại gặp khó

khăn, các tranh chấp kinh tế tăng mạnh về số lượng án thụ lý, đặc biệt là các vụ án

liên quan đến bất động sản. Trong quá trình thi hành án phải tổ chức cưỡng chế thi

hành án, tình trạng người phải thi hành án chống đối quyết liệt ngày càng nhiều, để

cưỡng chế thành công phải huy động lực lượng tham gia phối hợp thực hiện, vì vậy

kinh phí tạm ứng chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự chưa đáp ứng được cho số

lượng vụ việc cưỡng chế ngày càng tăng và phức tạp. Nộ dung chi nhiều, đặc biệt là

chi định giá tài sản, giảm giá và tổ chức bán đấu giá tài sản nhưng không bán được.

- Ý thức chấp hành pháp luật của người phải thi hành án cũng như của các tổ

chức, cá nhân có liên quan còn hạn chế.

Rõ ràng một thực tế hiện nay dễ dàng nhận thấy là ý thức tuân thủ pháp luật

của một số tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thi hành án, nhất là ý thức của

người phải thi hành án trong cưỡng chế thu hồi nợ chưa cao. Nhiều trường hợp

đương sự chống đối quyết liệt dẫn đến việc cơ quan Thi hành án dân sự phải huy

động lực lượng tham gia cưỡng chế với số lượng lớn. Hình thức chống đối cưỡng

chế thi hành án cũng đa dạng như cố tình chây ỳ, không hợp tác, tẩu tán tài sản, bỏ

đi khỏi nhà, thậm chí chống đối quyết liệt bằng việc đe dọa sử dụng các chất gây

cháy nổ và cố thủ trong nhà, tự thiêu, đem hài cốt vào chôn trong nhà phải cưỡng

56

chế… gây khó khăn cho việc cưỡng chế thi hành án. Tình trạng này xảy ra càng

ngày càng nhiều với mức độ nghiêm trọng hơn, nhất là với những tài sản bị cưỡng

chế là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất – những tài sản có giá trị lớn và

là nơi sinh sống của đương sự. Bản thân người phải thi hành án cũng có những nhận

thức và ý thức tuân thủ pháp luật còn hạn chế, cho rằng Nhà nước không có chế tài

nào đủ mạnh để xử lý đối với những hành vi vi phạm của họ.

2.2.3.2. Nguyên nhân chủ quan

- Công tác quản lý, chỉ đạo điều hành thi hành án dân sự, trong đó có chỉ đạo

cưỡng chế thu hồi nợ trong các cơ quan thi hành án dân sự chưa đáp ứng được yêu

cầu. Nhiều cơ quan thi hành án dân sự chưa thật sự quyết liệt, thiếu giải pháp cụ thể,

thiếu hiệu quả trong cưỡng chế thi hành án dân sự.

- Năng lực chuyên môn, ý thức trách nhiệm, tinh thần gương mẫu đi đầu của

đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý ở một số đơn vị thi hành án dân sự trên địa bàn

thành phố Hà Nội còn chưa cao dẫn đến sai sót, vi phạm trong cưỡng chế thi hành

án dân sự.

- Đã có nhiều trường hợp bị xử lý kỷ luật do vi phạm về chuyên môn nghiệp

vụ trong việc chỉ đạo, thực thi cưỡng chế thi hành án dân sự. Thậm chí có một số

trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự do thực hiện cưỡng chế thi hành án dân

sự không đúng quy định pháp luật, điển hình như trường hợp của Chấp hành viên

Trịnh Ngọc Trung – nguyên Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai

Bà Trưng do có sai phạm trong việc cưỡng chế kê biên, xử lý nhà đất tại 194 Phố

Huế, Hà Nội. Ông Trung đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội ra quyết định trái

57

pháp luật do ban hành quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự trái pháp luật.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Thi hành án dân sự có vai trò quan trọng, nhằm đảm bảo các bản án, quyết

định của Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền được chấp hành nghiêm chỉnh, góp

phần tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp

của nhà nước, tổ chức và cá nhân qua đó góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã

hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.

Với những kết quả đạt được trong những năm qua, có thể thấy công tác thi

hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội đã có nhiều chuyển biến tích cực, số

việc, số tiền giải quyết xong của năm sau luôn cao hơn năm trước, theo hướng ngày

càng bền vững, những thiếu sót, vi phạm trong thi hành án dân sự được tập trung

chấn chỉnh, khắc phục kịp thời; kỷ cương, kỷ luật được siết chặt; cơ sở vật chất,

phương tiện làm việc của các cơ quan Thi hành án dân sự trong địa bàn tiếp tục

được quan tâm đầu tư đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng tốt hơn.

Qua số liệu thống kê nêu trên ta cũng có thể thấy rằng, áp dụng biện pháp

cưỡng chế là một công cụ không thể thiếu trong thi hành án, biểu hiện rõ ràng nhất

là kết quả thi hành án từ việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế chiếm tỉ lệ đáng kể

so với tổng số lượng án phải thi hành.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thi hành án dân sự còn

nhiều hạn chế như: Kết quả đạt được của các đơn vị trong địa bàn thành phố vẫn

chưa đồng đều, việc tổ chức thi hành án trong một số vụ việc còn chậm, người phải

thi hành án là các tổ chức, cá nhân chưa chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định

của Tòa án, các cơ quan có thẩm quyền; trụ sở làm việc, kho vật chứng của một số

cơ quan thi hành án chưa được quan tâm đầu tư đúng mức và chưa đáp ứng được

yêu cầu, nhiệm vụ được giao; công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành trong thi

hành án vẫn có lúc, có nơi chưa thực sự chặt chẽ và hiệu quả; một số cấp ủy, chính

quyền địa phương còn chưa có sự quan tâm đúng mức trong lãnh đạp, chỉ đạo, tạo

điều kiện cho hoạt động thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự.

Để phát huy những kết quả đạt được, đồng thời khắc phục những bất cập,

58

hạn chế nêu trên, tạo bước chuyển biến mới trong công tác thi hành án dân sự từng

bước xây dựng ngành thi hành án dân sự trong sạch, vững mạnh, toàn diện thì cần

các giải pháp cả về lý luận và thực tiễn nhằm đưa công tác đáp ứng hơn nữa yêu

59

cầu, nhiệm vụ trong thời gian tới.

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH BẢN ÁN VỀ THU HỒI NỢ CHO NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án

về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại

3.1.1. Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự về cưỡng chế thi hành bản án

về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo hướng đề cao trách nhiệm của Thủ

trưởng cơ quan THADS và cá nhân các Chấp hành viên

Trong tổ chức cưỡng chế thi hành án, Chấp hành viên có quyền độc lập tác

nghiệp và tuân theo quy định của pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về

những hành vi của mình. Cụ thể quyền hạn và nhiệm vụ của Chấp hành viên được

quy định tại Điều 20 Luật Thi hành án dân sự. Thủ trưởng là người đứng đầu Cơ

quan Thi hành án dân sự có trách nhiệm quản lý, chỉ đạo hoạt động thi hành án dân

sự của đơn vị, hướng dẫn về mặt chuyên môn, nghiệp vụ, chỉ đạo, kiểm tra công tác

thi hành án đối với cán bộ, Chấp hành viên.

Chấp hành viên là người được Thủ trưởng cơ quan Thi hành án giao nhiệm

vụ trực tiếp tổ chức thi hành án, đồng thời là chủ thể chịu trách nhiệm chính trước

pháp luật về những hành vi của mình và được pháp luật bảo vệ. Thi hành án dân sự

là hoạt động rất đa dạng, đặc biệt là hoạt động cưỡng chế thu hồi nợ, động chạm

đến quyền và lợi ích của nhiều cá nhân, tổ chức, liên quan đến nhiều lĩnh vực, Chấp

hành viên dù muốn cũng không có đủ khả năng để bao quát và đáp ứng tất cả các

lĩnh vực chuyên môn. Trong những trường hợp phức tạp như vậy đòi hỏi phải có sự

hỗ trợ, chỉ đạo trực tiếp, hướng dẫn sát sao về mặt chuyên môn nghiệp vụ của Thủ

trưởng đơn vị. Mặt khác, Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự chịu trách nhiệm

quản lý, chỉ đạo về thi hành án dân sự, bảo đảm việc áp dụng thống nhất các quy

định của pháp luật trong hoạt động thi hành án dân sự. Thủ trưởng là người phải là

60

người chịu trách nhiệm trước Thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp và trước pháp

luật về toàn bộ hoạt động của cơ quan nói chung, của từng Chấp hành viên nói riêng

[17-Tr.69].

Vì vậy, để đảm bảo hoạt động thi hành án dân sự nói chung, hoạt động

cưỡng chế thu hồi nợ nói riêng được thực hiện, tổ chức nghiêm túc, theo đúng trình

tự, thủ tục luật định và đạt được hiệu quả như mong muốn thì cần tiếp tục hoàn

thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án theo hướng đề cao trách nhiệm của Thủ

trưởng và cá nhân Chấp hành viên cơ quan Thi hành án dân sự.

3.1.2. Minh bạch hóa quá trình cưỡng chế thi hành án

Quá trình tổ chức thi hành án dân sự cũng như quá trình cưỡng chế thi hành

án phải được minh bạch hóa thông qua việc Chấp hành viên và cơ quan Thi hành án

dân sự phải thông báo đầy đủ, ngay từ khi phát sinh nghĩa vụ của các bên (thời điểm

ra quyết định thi hành án) cho đến khi các bên thực hiện xong quyền, nghĩa vụ của

mình theo quy định của pháp luật.

Quyết định về thi hành án, giấy báo, giấy triệu tập và văn bản khác có liên

quan đến việc thi hành án phải thông báo cho đương sự, người có quyền, nghĩa vụ

liên quan để họ thực hiện quyền, nghĩa vụ theo nội dung của văn bản đó, thông qua

các hình thức:

- Thông báo trực tiếp hoặc qua cơ quan, tổ chức, cá nhân khác theo quy định

của pháp luật;

- Niêm yết công khai;

- Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Khi thông báo trực tiếp cho cá nhân, văn bản thông báo cho cá nhân phải

được giao trực tiếp và yêu cầu người đó ký nhận hoặc điểm chỉ. Trường hợp người

được thông báo vắng mặt thì văn bản thông báo được giao cho một trong số những

người thân thích có đủ năng lực hành vi dân sự cùng cư trú với người đó, bao gồm

vợ, chồng, con, ông, bà, cha, mẹ, bác, chú….của đương sự, của vợ hoặc chồng của

đương sự. Việc giao thông báo phải lập thành biên bản. Trường hợp người được

thông báo không có người thân thích có đủ năng lực hành vi dân sự cùng cư trú

61

hoặc có nhưng người đó từ chối nhận văn bản thông báo hoặc người được thông báo

vắng mặt mà không rõ thời điểm trở về thì người thực hiện thông báo phải lập biên

bản về việc không thực hiện được thông báo, có chữ ký của người chứng kiến và

thực hiện việc niêm yết công khai. Trường hợp người được thông báo đã chuyển

đến địa chỉ mới thì phải thông báo theo địa chỉ mới của người được thông báo.

Khi thông báo trực tiếp cho cơ quan, tổ chức thì văn bản thông báo phải

được giao trực tiếp cho người đại diện theo pháp luật hoặc người chịu trách nhiệm

nhận văn bản của cơ quan, tổ chức đó và phải được những người này ký nhận.

Trường hợp cơ quan, tổ chức được thông báo có người đại diện tham gia việc thi

hành án hoặc cử người đại diện nhận văn bản thông báo thì những người này ký

nhận văn bản thông báo.

Việc thông báo cũng có thể thực hiện bằng hình thức niêm yết công khai.

Việc niêm yết công khai văn bản thông báo chỉ được thực hiện khi không rõ địa chỉ

của người được thong báo hoặc không thể thực hiện được việc thông báo trực tiếp,

trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Cơ quan Thi hành án dân sự trực tiếp

hoặc ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của

người được thông báo hoặc cá nhân, tổ chức có đủ điều kiện theo quy định của pháp

luật thực hiện việc niêm yết.

Việc niêm yết được thực hiện bằng cách niêm yết văn bản thông báo tại trụ

sở cơ quan Thi hành án dân sự, trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú hoặc nơi

cư trú cuối cùng của người được thông báo và phải lập thành biên bản, trong đó ghi

rõ ngày, tháng, năm niêm yết; số, ngày, tháng, năm, tên của văn bản thông báo, có

chữ ký của người chứng kiến.

Trường hợp cần thiết, việc thông báo được thực hiện qua trên phương tiện

thông tin đại chúng. Nếu xác định đương sự đang có mặt tại địa phương nơi đương

sự cư trú thì việc thông báo được thực hiện trên báo ngày trong hai số liên tiếp hoặc

trên đài phát thanh, đài truyền hình của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương của

địa phương đó hai lần trong hai ngày liên tiếp. Trường hợp xác định đương sự

62

không có mặt tại địa phương nơi đương sự cư trú thì việc thông báo được thực hiện

trên báo ngày trong hai số liên tiếp hoặc trên đài phát thanh, đài truyền hình của

trung ương hai lần trong hai ngày liên tiếp.

Bên cạnh đó, cơ quan Thi hành án dân sự phải niêm yết công khai trình tự,

thủ tục thi hành án dân sự tại trụ sở cơ quan. Hoạt động thi hành án dân sự chịu sự

giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ

quan Nhà nước khác trong thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật.

Đồng thời, Viện kiểm sát nhân dân có quyền kiểm sát việc tuân theo pháp

luật của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, cá nhân có

liên quan trong việc thi hành án dân sự. Khi kiểm sát thi hành án dân sự, Viện kiểm

sát nhân dân có quyền yêu cầu Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự ra quyết

định về thi hành án, gửi các quyết định về thi hành án, thi hành đúng bản án, quyết

định; tự kiểm tra việc thi hành án và thông báo kết quả kiểm tra cho Viện kiểm sát

nhân dân; yêu cầu cơ quan, tổ chức và cá nhân cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng

có liên quan đến việc thi hành án; trực tiếp kiểm sát hoạt động thi hành án dân sự

của cơ quan thi hành án dân sự và các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan; ban

hành kết luận kiểm sát khi kết thúc việc kiểm sát; tham gia phiên họp của Tòa án

xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp Ngân sách Nhà nước và

phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân; kiến nghị xem xét hành vi, quyết

định liên quan đến thi hành án có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng của Tòa án, cơ

quan Thi hành án dân sự, yêu cầu khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý người vi

phạm; kiến nghị cơ quan, tổ chức liên quan có sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản

lý khắc phục nguyên nhân, điều kiện dẫn tới vi phạm pháp luật và áp dụng các biện

pháp phòng ngừa; kháng nghị hành vi, quyết định của Thủ trưởng, Chấp hành viên

cơ quan Thi hành án dân sự có vi phạm pháp luật nghiêm trọng xâm phạm lợi ích

của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; yêu cầu đình

chỉ việc thi hành, thu hồi, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ quyết định có vi phạm pháp

luật trong việc thi hành án, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật [14-Tr.69].

3.1.3. Huy động sự tham gia tích cực của các cơ quan, tổ chức, cá nhân vào

63

hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự

Hoạt động thi hành án dân sự trên cơ sở các bản án, quyết định của Tòa án

hoặc Trọng tài thương mại hoặc Hội đồng xử lý vụ việc canh tranh, vì vậy, hoạt

động thi hành án dân sự được tiến hành sau khi đã kết thúc quá trình tố tụng của

Tòa án và quá trình giải quyết tranh chấp của Trọng tài thương mại, của Hội đồng

xử lý vụ việc cạnh tranh trước đó. Do đó, trong quá trình tố tụng và giải quyết

tranh chấp, nếu như đương sự nhận thấy sự bất lợi về phía mình, họ tìm mọi cách

để tẩu tán tài sản trước khi bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định của

Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh được tuyên và có hiệu

lực pháp luật. Bởi thế, nếu như các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử áp dụng kịp

thời biện pháp cưỡng chế, ngăn chặn như: kê biên, phong tỏa, tạm giữ tài sản của

người phạm tội, ngăn ngừa việc tẩu tán tài sản thì việc thi hành án sẽ thuận lợi cho

việc thi hành có hiệu quả bản án, quyết định, giảm án tồn đọng.

Trong quá trình tổ chức thi hành án, theo quy định của pháp luật thì người có

thẩm quyền kháng nghị có quyền yêu cầu hoãn thi hành án dân sự, tạm đình chỉ thi

hành án dân sự để xem xét việc kháng nghị hoặc xem xét lại bản án, quyết định theo

trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm. Ngược lại, cơ quan thi hành án dân sự cũng có

quyền đề nghị Tòa án xem xét lại bản án, quyết định nếu thấy có căn cứ cho rằng

bản án, quyết định không khách quan hoặc có vi phạm pháp luật trong quá trình tiến

hành tố tụng hoặc yêu cầu Tòa án giải thích những điểm chưa rõ trong bản án, quyết

định của Tòa án. Tất cả những công việc này nếu không được Tòa án thực hiện, trả

lời một cách nghiêm túc và có trách nhiệm thì cũng làm chậm tiến độ, thậm chí gây

khó khăn cho hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự.

Để việc tổ chức thi hành dứt điểm được các bản án khó thi hành, người phải

thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng cố tình chống đối, chây ì thì đòi hỏi

Chấp hành viên, Thừa phát lại phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án

dân sự cần thiết. Việc cưỡng chế thi hành án dân sự đảm bảo thành công đòi hỏi có

sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan hữu quan như Công an, Viện kiểm sát, chính

64

quyền và các tổ chức đoàn thể ở địa phương; nhân dân địa phương, các cơ quan, tổ

chức có liên quan đến công tác thi hành án dân sự để phát huy sức mạnh của cả hệ

thống chính trị vào việc thi hành án dân sự.

Do đó, xây dựng các giải pháp nâng cao hiệu quả cưỡng chế thi hành án dân

sự phải gắn liền với việc nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức

hữu quan trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức đó; đảm bảo

được sự phối hợp chặt chữ giữa cơ quan THADS với các cơ quan, tổ chức hữu quan

trong quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết định có hiệu lực thi hành, từ đó phát

huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội vào công tác THADS.

3.2. Giải pháp hoàn thiện và bảo đảm hiệu quả thi hành bản án về cưỡng

chế thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự

3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện một số quy định pháp luật về cưỡng chế về thi

hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự

Hiệu quả cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương

mại trong thi hành án dân sự phụ thuộc rất lớn vào cơ sở pháp luật. Thực tế cho thấy

rằng pháp luật về thi hành án dân sự, trong đó có pháp luật về cưỡng chế thi hành

bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng ở nước ta mặc dù đã được hoàn thiện trong thời

gian qua nhưng cũng còn nhiều vướng mắc, bất cập. Vì vậy, việc hoàn thiện pháp

luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trong

thi hành án dân sự là cần thiết, theo đó cần tập trung vào những nội dung cơ bản

sau:

- Hoàn thiện căn cứ cưỡng chế thi hành bản án để thu hồi nợ cho Ngân hàng

thương mại, cụ thể là: sửa đổi Điều 73 Luật Thi hành án dân sự theo hướng thay đổi

"căn cứ cưỡng chế thi hành án" bằng quy định "căn cứ để tổ chức cưỡng chế thi

hành án", theo đó quy định căn cứ để tổ chức cưỡng chế thi hành án bao gồm: bản

án, quyết định; quyết định thi hành án và quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự

thay cho quy định hiện nay căn cứ để cưỡng chế thi hành án bao gồm bản án, quyết

định; quyết định thi hành án và quyết định cưỡng chế thi hành án, trừ trường hợp

65

bản án, quyết định đã tuyên kê biên, phong toả tài sản, tài khoản và trường hợp thi

hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án tại Điều 70 Luật

Thi hành án dân sự.

- Bổ sung quy định về chỉ định tài sản cưỡng chế để thu hồi nợ cho Ngân

hàng thương mại, theo đó cho phép người được thi hành án chỉ định tài sản cưỡng

chế thi hành án dân sự nếu người được thi hành án cho rằng tài sản đó là của người

phải thi hành án, trong trường hợp này chấp hành viên không được từ chối cưỡng

chế tài sản mà người được thi hành án chỉ định cưỡng chế. Tuy nhiên, loại tài sản

được chỉ định cưỡng chế chỉ là động sản để đảm bảo tính kịp thời trong việc bảo

toàn tài sản đảm bảo thi hành án dân sự; đối với tài sản là bất động sản và động sản

phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì không áp dụng quy định chỉ định tài

sản cưỡng chế thi hành án dân sự bởi vì những tài sản này đã có cơ chế đăng ký

quyền sở hữu, sử dụng nên việc chuyển dịch phải thông qua thủ tục chặt chẽ do

pháp luật quy định. Để bảo đảm quy định chỉ định cưỡng chế tài sản thi hành án dân

sự được thực hiện hiệu quả và bảo đảm quyền lợi của người có tài sản bị chỉ định

cưỡng chế thi hành án dân sự nhầm, cũng như đề cao trách nhiệm của người chỉ

định cưỡng chế tài sản thi hành án dân sự thì quy định người chỉ định cưỡng chế tài

sản thi hành án dân sự phải chịu trách nhiệm về việc chỉ định tài sản, nếu chỉ định

sai thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại, nếu các đương sự không thỏa thuận

được về giải quyết bồi thường thiệt hại thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố

tụng dân sự.

- Quy định cụ thể về cưỡng chế kê biên, xử lý tàu bay, tàu biển để thi hành

án thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại bởi vì khoản 4 Điều 96 Luật Thi hành án

dân sự quy định việc kê biên đối với tàu bay, tàu biển để thi hành án được thực hiện

theo quy định của pháp luật về bắt giữ tàu bay, tàu biển, thế nhưng Pháp lệnh bắt

giữ tàu bay và Pháp lệnh bắt giữ tàu biển quy định Thẩm phán Tòa án quyết định

bắt giữ tàu bay, tàu biển để thi hành án mà chưa quy định cụ thể Chấp hành viên

căn cứ quyết định bắt giữ tàu bay, tàu biển của Tòa án để tiến hành định giá, bán

66

đấu giá hay phải ra quyết định cưỡng chế kê biên tàu bay, tàu biển để thi hành án.

- Bổ sung quy định thủ tục kê biên, bán đấu giá tài sản của cơ quan nhà

nước, doanh nghiệp nhà nước để thi hành án dân sự. Cụ thể hoá thủ tục cưỡng chế

thi hành bản án thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại đặc thù cho từng loại hình

doanh nghiệp, cơ quan nhà nước phải thi hành án.

- Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 94 Luật Thi hành án dân sự theo hướng:

Việc kê biên nhà ở là nơi ở duy nhất của người phải thi hành án và gia đình chỉ

được thực hiện sau khi xác minh, xác định người đó không có các tài sản khác hoặc

có nhưng không đủ để thi hành án, trừ trường hợp tài sản mà bản án, quyết định

tuyên kê biên để bảo đảm thi hành án hoặc người phải thi hành án đồng ý kê biên

nhà ở để thi hành án; sửa đổi khoản 1 Điều 95 Luật Thi hành án dân sự theo hướng:

Việc kê biên nhà ở là nơi ở duy nhất của người phải thi hành án và gia đình họ chỉ

được thực hiện sau khi xác minh, xác định người đó không có tài sản khác hoặc có

nhưng không đủ để thi hành án, trừ trường hợp nhà ở được bản án, quyết định tuyên

kê biên để bảo đảm thi hành án hoặc người phải thi hành án đồng ý kê biên nhà ở để

thi hành án.

- Sửa đổi, bổ sung quy định về việc kê biên, xử lý tài sản của người phải thi

hành án xây dựng trên đất của người khác và trường hợp trên đất của người phải thi

hành án có tài sản của người khác theo hướng tạo điều kiện cho người có đất gắn

với tài sản của người phải thi hành án hoặc người có tài sản gắn với đất của người

phải thi hành án được quyền ưu tiên thỏa thuận mua lại đất hoặc tài sản của người

phải thi hành án theo giá khởi điểm nếu không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của

người thứ ba. Nếu các bên không tự thỏa thuận mua lại, cơ quan thi hành án dân sự

hướng dẫn khởi kiện ra Tòa án để phân chia tài sản trong thời hạn 30 ngày. Nếu

đương sự không khởi kiện hoặc không được Tòa án thụ lý giải quyết thì cơ quan thi

hành án dân sự tiến hành xử lý tài sản theo quy định của pháp luật.

- Quy định cụ thể về kê biên, xử lý tài sản là quyền sử dụng đất nông nghiệp,

đất giao cho hộ gia đình trực tiếp sản xuất nông nghiệp, làm muối, nuôi trồng thuỷ

sản, trồng lúa nước và để lại cho người phải thi hành án là người trực tiếp lao động,

67

chỉ có nguồn thu nhập từ sản xuất nông nghiệp, làm muối, nuôi trồng thuỷ sản,

trồng lúa nước diện tích đất nhất định sản xuất để có lương thực sinh sống trong

thời gian 06 tháng đến một năm.

- Bổ sung quy định người trúng đấu giá tài sản gắn liền với quyền sử dụng

đất thuê của Nhà nước được tiếp tục thuê đất trong thời hạn thuê đất còn lại mà

người phải thi hành án đã ký hợp đồng thuê đất trước khi kê biên, xử lý tài sản gắn

liền với đất thuê để đảm bảo hiệu quả của biện pháp kê biên, xử lý tài sản.

- Bổ sung quy định về cưỡng chế thi hành án dân sự đối với một số loại tài

sản phù hợp với Bộ luật dân sự năm 2015, nhất là những tài sản đặc biệt chưa được

quy định trong pháp luật về thi hành án dân sự như: quyền tài sản, tài sản hình thành

trong tương lai.

- Bổ sung quy định về trình tự, thủ tục kê biên, bán đấu giá tài sản của cơ

quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước để thi hành bản án thu hồi nợ cho Ngân

hành thương mại. Cụ thể hoá thủ tục cưỡng chế thi hành án dân sự đặc thù cho từng

loại hình doanh nghiệp, cơ quan nhà nước phải thi hành án.

- Đối với cưỡng chế khấu trừ thu nhập: cần nghiên cứu mở rộng phạm vi áp

dụng biện pháp cưỡng chế này đối với người phải thi hành án trong tất cả các

trường hợp có cơ sở xác định thu nhập của người phải thi hành án, đồng thời để

giảm lượng án tồn đọng thì cần quy định tăng mức khấu trừ thu nhập ở mức tối

thiểu là 50% tổng số thu nhập hàng tháng.

3.2.2.Tăng cường công tác phối hợp giữa cơ quan quản lý thi hành án dân

sự, cơ quan thi hành dân sự với cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan

Để công tác thi hành án dân sự, nhất là trong tổ chức cưỡng chế thi hành

án nhằm thu hồi nợ đạt hiệu quả thì các cơ quan có trách nhiệm liên quan phải

phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng và đồng bộ, giải quyết kịp thời những vướng mắc,

khó khăn phát sinh trong việc phối hợp, đặc biệt là trong tổ chức cưỡng chế thi

hành các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, trật tự an toàn

xã hội ở địa phương.

Các cơ quan có liên quan đề xuất biện pháp giải quyết những vướng mắc,

68

khó khăn trong việc phối hợp các cơ quan có liên quan và tổ chức cưỡng chế thi

hành án dân sự. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ngành, đơn vị

mình, các cơ quan hữu quan phải có trách nhiệm chỉ đạo hoặc đề xuất chỉ đạo đối

với tập thể, cá nhân thuộc ngành, đơn vị mình phối hợp chặt chẽ với cơ quan Thi

hành án dân sự. Cùng tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị mình xem xét, giải quyết các

vấn đề có liên quan đến chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan có liên quan

trong thi hành án dân sự, chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự thuộc

chức năng quản lý của ngành, đơn vị mình để phối hợp thực hiện.

3.2.3. Nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ Chấp hành viên, công chức

cơ quan thi hành án dân sự và bảo đảm các chế độ, chính sách đãi ngộ tương xứng

Để nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho Chấp hành viên, công

chức làm công tác thi hành án dân sự trong hoạt động cưỡng chế thu hồi nợ cần

thực hiện các giải pháp sau đây:

Thứ nhất, cần thường xuyên tổ chức tập huấn chuyên sâu về nội dung, trình

tự, thủ tục thực hiện hoạt động cưỡng chế thi hành án nhằm thu hồi nợ và các quy

định của pháp luật có liên quan.

Thứ hai, tổ chức kiểm tra các hoạt động kê biên, xử lý tài sản để thi hành án,

nhất là các vụ việc có giá trị lớn. Kịp thời phát hiện các sai sót để khắc phục, thông

tin rộng rãi, phổ biến các dạng sai sót, vi phạm, tồn tại, hạn chế trong tác nghiệp thi

hành án trong toàn hệ thống để Chấp hành viên, công chức làm công tác thi hành án

tổ chức nghiên cứu, đối chiếu và rút kinh nghiệm chung.

Thứ ba, tập trung chỉ đạo Chấp hành viên thực hiện tốt công tác xác minh

điều kiện thi hành án của đương sự. Trong đó, tập trung xác minh, làm rõ các thông

tin về tài sản, trên cơ sở đó, làm việc với cơ quan nhà nước quản lý chuyên ngành

để giải quyết các vấn đề khó khăn, vướng mắc phát sinh, làm rõ trường hợp nào có

thể kê biên thì áp dụng biện pháp kê biên, xử lý tài sản đảm bảo thi hành án và

trường hợp nào không thực hiện được việc kê biên thì cần kịp thời báo cáo, phối

hợp với cơ quan hữu quan hoặc có biện pháp giải quyết phù hợp, đúng quy định.

3.2.4. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thi hành án dân

69

sự

Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, pháp luật về thi hành

án dân sự nói riêng có ý nghĩa quan trọng để đảm bảo hiệu quả cưỡng chế thu hồi

nợ. Ý nghĩa của công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật được thể hiện

qua kỹ năng vận động, thuyết phục của chấp hành viên để qua đó không chỉ đương

sự hiểu, nhận thức đúng về trách nhiệm, nghĩa vụ thi hành án và tự nguyện thi hành

án, giảm thiểu sự chống đối mà còn tạo sự ủng hộ của dư luận xã hội đối với công

tác thi hành án dân sự. Chính vì vậy, trong từng tác nghiệp, trình tự, thủ tục cưỡng

chế, đòi hỏi chấp hành viên phải chủ động, linh hoạt trong việc lựa chọn, giải thích

các quy định pháp luật được áp dụng để không chỉ người phải thi hành án hiểu,

nhận thức đúng mà trong nhiều trường hợp ngay chính người được thi hành án cũng

nhận thức rõ trách nhiệm phối hợp để giải quyết phù hợp những vướng mắc, khó

khăn trong quá trình thi hành án (ví dụ như: tạo điều kiện cho người phải thi hành

án có chỗ ở khi phải cưỡng chế, xử lý tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất..). Tuy

nhiên, để làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành án

dân sự, đòi hỏi chấp hành viên phải nghiên cứu, đánh giá cụ thể từng trường hợp

phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự để từ đó có sự lựa chọn, phối

hợp đúng đúng với các cơ quan, tổ chức cá nhân liên quan.

3.2.5. Tăng cường hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự

Cưỡng chế đối với quyền sử dụng đất thường liên quan đến các việc thi hành

án có giá trị lớn, phức tạp, do đó hiệu quả cưỡng chế phụ thuộc nhiều vào sự phối

hợp, ủng hộ của các cơ quan, tổ chức liên quan tại địa phương, trong đó Ban Chỉ

đạo thi hành án dân sự các cấp là đầu mối chỉ đạo, phối hợp các ngành, các địa

phương trong việc tổ chức thi hành án; chỉ đạo, định hướng xử lý các vụ án khó

khăn, phức tạp, qua đó nâng cao hiệu quả công tác thi hành án. Để nâng cao hiệu

quả hoạt động của Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự, các cấp uỷ Đảng thường xuyên

lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra hoạt động của các Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự; kịp

thời tháo gỡ hoặc đề xuất với Trung ương những vướng mắc về cơ chế chính sách

mà bản thân Ủy ban nhân dân các cấp và Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự không giải

70

quyết được. Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự các cấp cần tăng cường chỉ đạo, đôn

đốc, kiểm tra các cơ quan thi hành án dân sự trong việc thực hiện các quy định của

pháp luật về thi hành án; tham mưu cho cấp uỷ Đảng và Chủ tịch Ủy ban nhân dân

cùng cấp và cấp trên tăng cường việc chỉ đạo, phối hợp các cơ quan hữu quan xử lý

những khó khăn, vướng mắc trong công tác thi hành án dân sự nói chung, đối với

các vụ việc tín dụng ngân hàng nói riêng. Đặc biệt là thành viên Ban Chỉ đạo thi

hành án dân sự các cấp cần nâng cao trách nhiệm của mình đối với hoạt động của

Ban chỉ đạo, tránh tình trạng hoạt động hình thức, hoạt động theo kiểu định kỳ trong

các dịp sơ kết, tổng kết thi hành án dân sự tại địa phương.

Về phía các cơ quan thi hành án dân sự cần làm tốt công tác tham mưu cho

Ban chỉ đạo thi hành án dân sự các biện pháp, kế hoạch thi hành các vụ việc thi

hành án tín dụng ngân hàng tồn đọng, phức tạp và có giá trị lớn.

3.2.6. Nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành

án dân sự

Trong thi hành án dân sự, các khiếu nại, tố cáo thường phát sinh khi cơ quan

có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ, nhất là khi phải cưỡng chế

tài sản là quyền sử dụng đất thì đương sự có tâm lý cản trở, chống đối quyết liệt hơn

thông qua việc khiếu nại, tố cáo, do đó nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố

cáo đối với thi hành án dân sự nói chung, đối với các việc phải cưỡng chế đối với

quyền sử dụng đất nói riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc bảo đảm

thực hiện pháp luật về cưỡng chế thu hồi nợ đối với quyền sử dụng đất nhằm ngăn

ngừa và giảm thiểu các trường hợp lợi dụng các quy định pháp luật về giải quyết

khiếu nại, tố cáo để trốn tránh thi hành án, kéo dài thời gian thi hành án. Để nâng

cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo hạn chế mức thấp nhất bất cập,

tồn tại cần triển khai thực hiện tốt một số giải pháp như: tăng cường vai trò lãnh đạo

của cấp ủy Đảng, quản lý điều hành của chính quyền, đặc biệt là đề cao trách nhiệm

của Tổng cục thi hành án dân sự và các Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực

thuộc trung ương trong việc bố trí cán bộ có đủ năng lực, trình độ, năng lực và

phẩm chất đảm nhiệm chức năng tiếp dân và tham mưu giải quyết kịp thời các

71

khiếu nại, tố cáo liên quan đến các vụ việc tín dụng ngân hàng.

3.2.7. Tăng cường kiểm sát, giám sát, thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động

cưỡng chế thu hồi nợ

Công tác kiểm sát, giám sát, thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động cưỡng chế

thu hồi nợ có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thực hiện đúng pháp luật thi

hành án dân sự, đặc biệt là đối với chấp hành viên và cơ quan thi hành án dân sự.

Thực tế thời gian qua các cơ quan có thẩm quyền đã thực hiện chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn của mình về kiểm sát, giám sát, thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động thi

hành án dân sự nói chung, cưỡng chế thu hồi nợ nói riêng, vì vậy đã kịp thời phát

hiện những vi phạm, thiếu sót trong quá trình cưỡng chế thi hành án dân sự của các

cơ quan thi hành án dân sự và kiến nghị khắc phục, xử lý kịp thời.

Chính vì vậy, việc tăng cường kiểm sát, giám sát, thanh tra, kiểm tra đối với

hoạt động cưỡng chế thu hồi nợ trong thời gian tới có ý nghĩa quan trọng trong việc

phòng ngừa vi phạm dẫn đến thiệt hại cho đương sự cũng như dẫn đến những việc bồi

thường trong thi hành án dân sự. Từ đó, các cơ quan có thẩm quyền cần tiếp tục tăng

cường công tác kiểm sát, giám sát, thanh tra, kiểm tra nhằm phát hiện, ngăn chặn và

uốn nắn kịp thời những vi phạm pháp luật của chấp hành viên, công chức thi hành án

trong cưỡng chế thu hồi nợ, đặc biệt là chú trọng kiểm tra, kiểm sát theo chuyên đề,

theo đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; kiểm tra, kiểm sát theo kiến nghị của cử

tri, nhất là kiểm tra, kiểm sát đối với những việc thi hành án liên quan đến các tổ chức

tín dụng, ngân hàng có giá trị lớn và những vụ đại án mà tài sản liên quan đến nhiều địa

phương trong cả nước…Đặc biệt là, cơ quan quản lý thi hành án dân sự cần phải

thường xuyên kiểm tra đối với các cơ quan thi hành án dân sự nhằm đảm bảo thực hiện

đúng các trình tự, thủ tục cưỡng chế thu hồi nợ nhằm hạn chế thấp nhất tình trạng để

xảy ra sai sót, vi phạm và kịp thời chấn chỉnh, khắc phục kịp thời những vi phạm có thể

dẫn đến việc phải thực hiện trách nhiệm bồi thường nhà nước.

3.2.8. Bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện tiến hành cưỡng chế thu

hồi nợ

Kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ quan thi hành án dân

72

sự hiện nay còn rất hạn chế nên trong điều kiện làm việc khó khăn thì chấp hành

viên rất dễ bị dao động về lập trường tư tưởng và nguy cơ ngại áp dụng biện pháp

cưỡng chế hoặc thực hiện việc cưỡng chế thu hồi nợ chậm trễ, sai sót là khó tránh

khỏi. Do đó, để đảm bảo hiệu quả cưỡng chế thu hồi nợ, tăng cường sự tích cực áp

dụng biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ thì phải đáp ứng đầy đủ và kịp thời kinh phí

hoạt động cho cơ quan thi hành án dân sự, tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện

hoạt động, đặc biệt là xây dựng trụ sở, hệ thống kho tang vật, tài sản của các cơ

quan thi hành án dân sự. Đây cũng là giải pháp phù hợp với chủ trương cải cách tư

pháp trong lĩnh vực thi hành án đã được định hướng tại Nghị quyết 49-NQ/TW, đó

là "từng bước xây dựng trụ sở làm việc của các cơ quan tư pháp khang trang, hiện

đại, đầy đủ tiện nghi". Theo đó, tăng cường mức tạm ứng chi phí cưỡng chế thi

hành án dân sự và kịp thời bổ sung tạm ứng chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự đã

được quyết toán khoản do Ngân sách Nhà nước chịu. Trang bị đầy đủ công cụ hỗ

trợ để cấp cho chấp hành viên sử dụng theo quy định của pháp luật, với các loại dùi

cui điện, dùi cui cao su, găng tay điện; phương tiện xịt hơi cay, chất gây mê; các

loại súng dùng để bắn đạn nhựa, đạn cao su, hơi cay, chất gây mê và các loại đạn sử

dụng cho các loại súng này để góp phần bảo vệ an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản

của chấp hành viên và những người khác tham gia cưỡng chế thi hành án dân sự.

3.2.9. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và khoa học kỹ thuật trong

thi hành án

Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong cưỡng chế thi hành án dân

sự với việc chú trọng thông tin tuyên truyền về tự nguyện và cưỡng chế thi hành án

dân sự với việc chú trọng thông tin tuyên truyền về tự nguyện và cưỡng chế thi

hành án dân sự trên phương tiện thông tin đại chúng, nâng cao năng lực sử dụng

phương tiện công nghệ thông tin trong hoạt động thi hành án dân sự nói chung và

cưỡng chế nói riêng, quản lý sử dụng hạ tầng kỹ thuật, xây dựng và triển khai áp dụng

73

đến các cơ quan thi hành án trong toàn quốc phần mềm quản lý quá trình thụ lý.

KÊT LUẬN CHƯƠNG 3

Cưỡng chế thi hành án dân sự với tính chất đặc thù là dùng quyền lực nhà

nước áp đặt đối với đối tượng bị cưỡng chế thi hành án dân sự, bảo đảm cho các bản

án, quyết định được nghiêm chỉnh thi hành, góp phần thực hiện chức năng quản lý

xã hội của nhà nước. Việc tổ chức cưỡng chế thực hiện một cách đúng đắn, phù hợp

và đạt hiệu quả cao sẽ có hiệu quả cho việc cưỡng chế thi hành án dân sự và nâng

cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Nếu việc tiến hành cưỡng chế thi hành án

dân sự thực hiện không có căn cứ, sai trình tự, thủ tục, không đúng thẩm quyền, đối

tượng và không phù hợp với đặc trưng bản chất pháp lý của vụ việc cưỡng chế thi

hành án dân sự sẽ làm giảm hiệu lực, hiệu quả thi hành án. Hiệu quả cưỡng chế thi

hành án dân sự sẽ ảnh hưởng bởi nhiều hoạt động, công đoạn khác nhau, từ xác

minh điều kiện cưỡng chế, lựa chọn biện pháp cưỡng chế, ra quyết định cưỡng chế,

đến lựa chọn biện pháp cưỡng chế, ra quyết định cưỡng chế và tổ chức thực hiện

quyết định cưỡng chế… Tổ chức thực hiện quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự

là công việc khó khăn và phức tạp nhất khi tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự

mà hầu hết các vụ việc cưỡng chế thi hành án dân sự đều phải trải qua.

Cưỡng chế thi hành án dân sự không chỉ phát huy hiệu quả ngay sau khi tiến

hành xong một vụ việc cưỡng chế mà còn phát huy tác dụng trong một thời gian dài

sau đó. Thực trạng cưỡng chế thi hành án cũng đã chỉ ra rằng, việc cưỡng chế thi

hành án dân sự để có thể thành công, đạt được hiệu quả phụ thuộc vào rất nhiều yếu

tố: năng lực tổ chức thực hiện quyết định cưỡng chế, sự phối hợp giữa các lực

lượng tham gia cưỡng chế, thái độ hợp tác, ý thức chấp hành của các bên đương sự,

đặc biệt là nó còn phụ thuộc rất lớn vào nội dụng các quy định pháp luật về cưỡng

chế thi hành án dân sự. Nếu các quy định của pháp luật thi hành án dân sự đầy đủ,

khoa học, rõ ràng, phù hợp với thực tiễn sẽ giúp cho việc cưỡng chế thi hành án dân

sự thành công, đạt hiệu quả cao. Ngược lại, nếu quy phạm pháp luật về cưỡng chế

thi hành án dân sự nằm rải rác ở nhiều văn bản, quy định không rõ ràng, mâu thuẫn,

chồng chéo sẽ dẫn đến khó khăn trong nhận thức và thực hiện. Ở góc độ này, những

74

bất cập của lý luận và pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự được coi là tiêu chí

có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà nghiên cứu, các cơ quan quản lý nhà nước,

những ở góc độ khác, những vi phạm trong cưỡng chế thi hành án dân sự không

được phát hiện và xử lý thì cưỡng chế thi hành án chưa hiệu quả. Với các giải pháp

được đưa ra, công tác thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội sẽ được đạt

75

được nhiều kết quả khả quan trong thời gian tới.

KẾT LUẬN

Thi hành án dân sự là hoạt động quan trọng đảm bảo hiệu lực của các bán án,

quyết định trên thực tế, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, tổ chức và

cá nhân liên quan. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ trong THADS

nhằm thi hành bản án, quyết định của Tòa án có một vai trò quan trọng trong việc

đảm bảo hiệu lực của các phán quyết dân sự của Tòa án. Hiệu quả của việc cưỡng

chế là cơ sở, tiền đề cho sự thành công, hiệu quả của một vụ thi hành án về tài sản

khi đương sự không tự nguyện thi hành. Từ thực tế công tác thi hành án dân sự trên

địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm qua cho thấy việc áp dụng các biện

pháp cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân sự nhằm thi hành bản án, quyết

định của Tòa án cũng còn những tồn tại, hạn chế nhất định. Do đó, yêu cầu phải

hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự nói chung, quy

định về các biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ là một yêu cầu cấp thiết nhằm tạo điều

kiện cho các cơ quan Thi hành án dân sự và Chấp hành viên có căn cứ pháp lý cụ

thể, rõ ràng nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự nói riêng

và việc bảo đảm cho một trật tự pháp luật của Nhà nước nói chung. Qua việc nghiên

cứu thực tiễn áp dụng các biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ, chúng ta thấy còn khá

nhiều hạn chế, để khắc phục những hạn chế, cần phải có những giải pháp đồng bộ

và khả thi, cụ thể như: Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong thi

hành án dân sự đặc biệt là trong công tác cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án

dân sự. Cần có sự đối chiếu quy định về cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành án dân

sự giữa các văn bản để khắc phục những quy định chưa đồng bộ, bổ sung những

khoảng trống chưa được pháp luật điều chỉnh. Đảm bảo sự thống nhất các quy định

trong từng văn bản cũng như giữa các văn bản pháp luật. Trên cơ sở hiện thực hóa

các biện pháp xử lý cụ thể đó là kiện toàn tổ chức, bộ máy cơ quan thi hành án dân

sự; nâng cao trình độ năng lực của đội ngũ Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân

sự; nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban chỉ đạo thi hành án dân sự các cấp trên địa

bàn thành phố Hà Nội; nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi

76

hành án dân sự; tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan thi hành án dân sự

với các cơ quan hữu quan trong việc thực hiện, và đẩy mạnh công tác tuyên truyền,

phổ biến, giáo dục pháp luật, phát huy được tính tích cực của việc xã hội hóa nhằm

huy động các nguồn lực của xã hội đề đưa ngành THADS lên một tầm cao mới, hy

vọng sẽ nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ trên địa bàn

thành phố Hà Nội. Thực hiện đồng bộ các giải pháp đổi mới tư duy, hoàn thiện

khung pháp luật và cơ chế áp dụng sẽ tạo những tác động thực tế đến việc áp dụng

biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ trong thi hành bản án, quyết định của Tòa án, góp

77

phần đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính

trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt nam đến

năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội;

2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính

trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội;

3. Ban Chấp hành trung ương (2014), Số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 Kết luận của

Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

02/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về chiến lược cải cách tưp háp đến năm

2020, Hà Nội;

4. Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính - Bộ Lao động thương binh xã hội - Ngân hàng

nhà nước Việt Nam (2014), Số 02/2014/TTLT-BTP-BTC-BLĐTBXH-

NHNNVN ngày 14/01/2014 hướng dẫn việc cung cấp thông tin về tài khoản,

thu nhập của người phải thi hành án và thực hiện phong tỏa, khấu trừ để thi

hành án, Hà Nội;

5. Bộ Tư pháp - Tòa án nhân dân tối cao - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao

(2010), Số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 hướng

dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành

trong thi hành án dân sự, Hà Nội;

6. Bộ Tư pháp - Bộ Công an (2012), Số 03/2012/TTLT-BTP-BCA ngày 30/3/2012

quy định cụ thể việc phối hợp bảo vệ cưỡng chế trong thi hành án dân sự, Hà

Nội;

7. Chính phủ (2015), Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính

phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án

dân sự, Hà Nội;

8. Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội, Báo cáo thống kê kết quả thi

78

hành án năm 2014, 2015,2016,2017, 2018, Hà Nội;

9. Lê Anh Tuấn (2015), Những điểm mới về cưỡng chế thi hành án dân sự, tạp

chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề Luật sửa đổi, bổ sung một số điều

của Luật Thi hành án dân sự năm 2015;

10. Lê Đình Nam (2012), Biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền trong

hoạt động thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội, luận văn thạc

sĩ luật học, Hà Nội;

11. Lê Thu Hà (Chủ biên) (2012), Giáo trình kỹ năng thi hành án dân sự, Nxb

Tư pháp, HàNội.

12. Lê Tuấn Anh (2017), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cưỡng chế thi

hành án dân sự ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội;

13. Lê Xuân Tùng (2016), Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo

pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn thành phố Hà Nội, luận văn thạc sĩ

Luật học, Hà Nội;

14. Nguyễn Công Long (2000), Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự,

thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện, luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội;

15. Nguyễn Doãn Phương (2016), Một số vướng mắc khi áp dụng các biện pháp

cưỡng chế thi hành án dân sự, tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 08/2016;

16. Nguyễn Thanh Phong (2011), Biện pháp cưỡng chế, kê biên tài sản trong thi

hành án dân sự, luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội;

17. Nguyễn Thanh Thủy (2008), Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt

Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội;

18. Nguyễn Thị Kim Tuyến (2010), Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự

ở thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội;

19. Nguyễn Trọng Tân (2008), Áp dụng pháp luật trong cưỡng chế thi hành án

dân sự ở Việt Nam hiện nay, luận văn thạc sĩ Luật học;

20. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự, HàNội.

21. Quốc hội (2008), Luật Thi hành án dân sự, HàNội;

22. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

79

HàNội;

23. Quốc hội (2013), Luật Đất đai, HàNội;

24. Quốc hội (2014), Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung), HàNội;

25. Quốc hội (2015), Nghị quyết số 107/2015/QH13 ngày 26/11/2015 về việc

thực hiện chế định thừa phát lại, HàNội;

26. Quốc hội (2015), Nghị quyết số 111/2015/QH13 ngày 27/11/2015 về công

tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện Kiểm sát

nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2016 và các

năm tiếp theo, HàNội;

27. Quốc hội (2012), Nghị quyết số 36/2012/QH13 về việc tiếp tục thí điểm chế

định Thừa phát lại đến hết ngày 31/12/2015;

28. Thủ tướng chính phủ (2012), Quyết định số 510/QĐ-TTg ngày 25/03/2012 về

việc phê duyệt Đề án “tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại”;

29. Trần Công Thịnh, Thực tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để

thi hành án dân sự và một số khuyến nghị, tạp chí Khoa học ĐHQGHN số

24/2008;

30. Trần Phương Thảo (2018), Hoàn thiện pháp luật về các biện pháp cưỡng chế

thi hành án, tạp chí Luật học số 11/2018;

31. Trần Phương Thảo (2007), Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, tạp

chí Luật học số 07/2007;

32. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật THADS Việt Nam, Hà

80

Nội.