VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRƯƠNG ANH QUYẾT
ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CHẤP HÀNH VIÊN THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và luật hành chính
Mã số: 8.38.01.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. Đặng Thị Phượng
HÀ NỘI, 2021 2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỘI NGŨ CHẤP HÀNH VIÊN THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ
I. Khái niệm, đặc điểm về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi hành án
dân sự
II. Nội dung của đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự
III. Các yếu tố ảnh hưởng đến đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi
hành án dân sự
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ
CHẤP HÀNH VIÊN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
I. Khái quát đội ngũ Chấp hành viên thi hành án dân sự
II.Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Chấp hành viên thi hành án
dân sự ở Việt Nam hiện nay
III. Đánh giá thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Chấp hành viên thi
hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO
TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CHẤP HÀNH VIÊN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
I. Quan điểm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Chấp hành viên thi
hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay
II. Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Chấp hành viên thi
hành án dân sự trong thời gian tới
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. THA Thi hành án
2. THADS Thi hành án dân sự
3. TA Tòa án
4. XHCN Xã hội chủ nghĩa
5. CQTHA Cơ quan thi hành án
6. CQTHADS Cơ quan thi hành án dân sự
7. CHV Chấp hành viên
8. BA, QĐ Bản án, quyết định
9. TAND Tòa án nhân dân
10. PL Pháp luật
11. CQQLNN Cơ quan quản lý nhà nước
12. VKSND Viện kiểm sát nhân dân
13. CBCC Cán bộ công chức
14. CCHC Cải cách hành chính
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Trong thời gian qua, trên cơ sở các nghị quyết của Đảng, Nhà nước đã thực
hiện những biện pháp cải cách nền hành chính quốc gia trên nhiều lĩnh vực, trong
đó, vấn đề cải cách chế độ công vụ, công chức luôn được xác định là yếu tố quan
trọng. Các biện pháp cải cách đó đã mang lại những kết quả nhất định: nền hành
chính phục vụ đã bắt đầu hình thành thay thế cho nền hành chính quan liêu, bao cấp;
công tác tuyển chọn, quản lý cán bộ, công chức ngày càng công khai, minh bạch, có
sự phân cấp rõ hơn về thẩm quyền; đội ngũ cán bộ, công chức được đào tạo cơ bản,
tăng về số lượng và chất lượng, bước đầu đã có sự chuẩn hoá; một số cơ quan của
Nhà nước, của Đảng đã được sắp xếp lại theo hướng tinh giảm… Tuy nhiên, kết quả
đạt được chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu của nhân
dân cũng như mong muốn của Đảng và Nhà nước. Tình trạng nhũng nhiễu, cửa
quyền, thiếu trách nhiệm ở một bộ phận cán bộ, công chức, nhất là ở các cơ quan
trực tiếp giải quyết công việc của nhân dân và doanh nghiệp chậm được khắc phục;
tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra
nghiêm trọng; chế độ tiền lương chưa phản ánh đúng giá trị sức lao động và chưa
đáp ứng được nhu cầu đời sống của cán bộ, công chức; các quy định về tuyển dụng,
đào tạo, bồi dưỡng và đánh giá cán bộ, công chức còn nhiều bất cập; chưa có chính
sách phù hợp để thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao phục vụ cho nền công vụ;
v.v...1
Đội ngũ chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự cũng không nằm ngoài tình
trạng nói trên. Ngoài ra, xuất phát từ đặc thù nghề nghiệp, đội ngũ chấp hành viên ở
nước ta còn tồn tại những điểm khiếm khuyết như: chấp hành viên còn lúng túng về
các kỹ năng nghiệp vụ cơ bản của hoạt động thi hành án dân sự, việc đào tạo Chấp
hành viên còn mang tính chắp vá, thiếu đồng bộ, việc đào tạo chuẩn hoá trình độ
5
chấp hành viên còn chậm và chưa được quan tâm đúng mức… Những vấn đề này
ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công tác thi hành án.
Trong bối cảnh Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn
thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân do dân vì dân, vai trò
và ý nghĩa của công tác thi hành án dân sự ngày càng được nhận thức đầy đủ hơn,
có vị trí xứng đáng trong hệ thống tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp
Việt Nam. Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động thi hành án dân sự cũng
được ban hành và hoàn thiện đảm bảo khung pháp lý về tổ chức hoạt động và việc
thực thi các phán quyết dân sự của Toà án. Hoạt động thi hành án trong thời gian
qua đã có những bước chuyển biến đáng ghi nhận, tổ chức và hoạt động của cơ quan
thi hành án được hoàn thiện dần, đội ngũ chấp hành viên được tăng cường về số
lượng và đào tạo về kỹ năng nghiệp vụ. Trong thời gian qua, để thực hiện Nghị
quyết số 08/NQ-TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị, năm 2003, Cục
Thi hành án dân sự (nay là Tổng cục Thi hành án dân sự) cũng đã tiến hành rà soát
từng bước đội ngũ Chấp hành viên. Năm 2005, thực hiện yêu cầu của Bộ Nội vụ,
Cục Thi hành án dân sự cũng đã tiến hành tổng điều tra, khảo sát đội ngũ cán bộ
công chức các cơ quan thi hành án dân sự trong phạm vi toàn quốc.
Bên cạnh những thành quả đã đạt được, hoạt động của cơ quan thi hành án nói
chung và đội ngũ chấp hành viên nói riêng vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Một trong
số các khiếm khuyết nổi cộm đó là số vụ việc ngày càng tăng sẽ đặt ra những yêu
cầu hết sức khó khăn cho các cơ quan thi hành án dân sự, do vậy:
Cần có bao nhiêu Chấp hành viên để có thể hoàn thành nhiệm vụ được giao? và
làm thế nào để tăng cường năng lực của chấp hành viên để thực hiện công việc thật
năng suất, hiệu quả? vẫn đang là những câu hỏi lớn chưa có lời giải đáp một cách
thoả đáng. Số lượng chấp hành viên theo đánh giá thì vẫn còn thiếu và yếu, vậy thiếu
đến đâu và yếu như thế nào thì cho đến nay vẫn chưa có phân tích, đánh giá, lý giải
một cách khoa học và hệ thống.
6
Trong những năm qua, mặc dù các cơ quan chức năng đã có nhiều cố gắng,
song vẫn chưa có được một giải pháp hữu hiệu cho việc đào tạo đối với đội ngũ
Chấp hành viên. Trên thực tế, lâu nay việc đào tạo Chấp hành viên còn mang tính
chắp vá, thiếu đồng bộ. Việc đào tạo chuẩn hoá trình độ chấp hành viên còn chậm và
chưa được quan tâm đúng mức. Công tác đào tạo nghiệp vụ Chấp hành viên tại Học
viện tư pháp còn có những hạn chế như: chỉ tiêu được phân bổ hàng năm chưa cao
(chỉ 300 Chấp hành viên/năm), đội ngũ giảng viên tuy có kinh nghiệm thực tiễn
nhưng lại ít kinh nghiệm về công tác sư phạm, lịch học chưa thực sự phù hợp với các
chấp hành viên ở các tỉnh xa, nội dung chương trình đào tạo mới dừng lại ở việc vừa
đào tạo, vừa rút kinh nghiệm...
Một bộ phận Chấp hành viên sau khi được bổ nhiệm còn gặp rất nhiều lúng
túng về các kỹ năng nghiệp vụ cơ bản của hoạt động thi hành án dân sự như: các yêu
cầu của việc tống đạt giấy tờ, yêu cầu của quá trình xác minh, kỹ năng lập biên bản,
yêu cầu của việc cưỡng chế... Các kỹ năng nghề nghiệp là điều kiện hết sức quan
trọng để Chấp hành viên có thể hoàn thành nhiệm vụ. Việc thi hành án không chỉ
thực hiện đúng các thủ tục thi hành án mà đòi hỏi chấp hành viên phải hiểu biết pháp
luật dân sự, hôn nhân gia đình, đất đai, doanh nghiệp... Chưa kể, pháp luật ở nước ta
thường xuyên thay đổi, nhiều quy định quá chung chung, thiếu rõ ràng, trong khi đó
Chấp hành viên không được đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn một cách thường xuyên,
kịp thời. Điều này đã dẫn đến một thực tế là Chấp hành viên áp dụng không đúng,
thiếu thống nhất, thậm chí sai các quy định của pháp luật. Mãi đến năm 2002, chúng
ta mới mở được khóa đào tạo nguồn Chấp hành viên đầu tiên, song công tác đào tạo
nghề của Chấp hành viên mới chỉ ở bước đầu vừa làm vừa học hỏi và rút kinh
nghiệm, nên hiệu quả chưa thực sự như mong muốn;
Đặc biệt, hiện nay trước yêu cầu thực hiện chiến lược cải cách tư pháp trong
lĩnh vực thi hành án đã được đặt ra trong hai Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị
đó là Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và 7
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 với các định hướng lớn về cải cách, đổi mới trong lĩnh vực thi hành án cần
phải được nghiên cứu để luận giải một cách thấu đáo, như: Tăng thời hạn bổ nhiệm
chức danh tư pháp hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm không kỳ hạn; Nghiên cứu thực
hiện cơ chế thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào chức danh chấp hành viên; Có cơ
chế thu hút, tuyển chọn người có tâm huyết, đủ đức, đủ tài vào làm việc tại các cơ
quan thi hành án; Mở rộng nguồn để bổ nhiệm vào chức danh chấp hành viên không
chỉ là cán bộ trong các cơ quan tư pháp, mà còn là các luật gia, luật sư; Đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao năng lực về ngoại ngữ, tin học cho đội ngũ chấp hành viên để có
thể thi hành tốt các vụ án có yếu tố nước ngoài, v.v...
Trong quá trình thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2025, Bộ Tư
pháp đã xác định công tác thi hành án dân sự là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
trước mắt cũng như lâu dài, đồng thời chuẩn bị các điều kiện cần thiết để giúp Chính
phủ quản lý thống nhất công tác thi hành án nói chung. Vì vậy, việc xây dựng đội
ngũ chấp hành viên đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có năng lực
vững vàng về chuyên môn, nghiệp vụ được coi là điều kiện tiên quyết để đảm bảo
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ thi hành án.
Tuy nhiên, hiện nay đội ngũ chấp hành viên nói riêng, cán bộ cơ quan thi
hành án dân sự nói chung còn thiếu về số lượng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ
chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, kết quả đào tạo bồi dưỡng chưa đạt
được nhiều hiệu quả như mong muốn, chưa có các chuyên đề kế hoạch đào tạo lâu
dài mang tính chiến lược từ đó giải quyết được các yêu cầu trước mắt và lâu dài
trong việc xắp xếp và bố trí các nhiệm vụ đào tạo bồi dưỡng cho cả hệ thống cơ
quan thi hành án dân sự nói chung và Chấp hành viên nói riêng. Kết quả đào tạo
và những chương trình trọng tâm thể hiện tại Học viện tư pháp chỉ mang vóc dáng
đào tạo về nghiệp vụ mang tính bổ trợ kiến thức pháp lý chưa khái quát một cách
có hệ thống cho việc đào tạo, bồi dưỡng mang tính chất lâu dài, vì thế việc nâng
cao hơn nữa kết quả đào tạo một cách toàn diện về chuyên môn, đạo đức cho đội 8
ngũ Chấp hành viên là nhiệm vụ giải pháp trước mắt và lâu dài mang tính chiến
lược của cả hệ thống đặc biệt là Học viện tư pháp trong giai đoạn trước mắt và lâu
dài mang tính chiến lược đây là cơ sở để dần hoàn thiện hơn nữa hệ thống cơ quan
thi hành án dân sự và đội ngũ chấp hành viên đáp ứng sự mong đợi của nhà nước
và nhân dân. Như vậy công tác đào tạo, bồi dưỡng luôn là cái gốc rễ của cán bộ
quyết định cho việc thực hiện nhiệm vụ của cả hệ thống nghành nên việc đào tạo
bồi dưỡng làm sao cho trọng tâm, có hệ thống, chất lượng đào tạo bồi dưỡng đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ của đất nước là câu hỏi cần được giải đáp một cách khoa
học đối với tất cả các nghành các lĩnh vực, Công tác đào tạo Chấp hành viên còn
mới mẻ, kinh nghiệm chưa nhiều. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài luận văn “Đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”
làm luận văn thạc sĩ luật học góp phần quan trọng trong quá trình nâng cao năng
lực thi hành án dân sự nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong thời gian tới.
Tình hình nghiên cứu của đề tài:
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu vấn đề ĐTBD đội ngũ cán bộ tư pháp nói chung
trong đó có CHVTHADS nói riêng luôn được Đảng và nhà nước ta quan tâm, đặc
biệt kể từ khi triển khai thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, các chương trình kế hoạch
cải cách tư pháp của Ban Cải cách tư pháp Trung ương và của ngành Thi hành án
dân sự nói riêng và được cụ thể hóa bằng các chương trình đào tạo do Tổng cục thi
hành án dân sự và Học viện tư pháp tổ chức thực hiện, Kết quả đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ công chức trong hệ thống Nghành thi hành án nói chung và đào tạo, bồi
dưỡng Chấp hành viên nói riêng đã nang tính bài bản có hệ thống các chức danh
được quan tâm xây dựng trên cơ sở các điều kiện cần và đủ, chất lượng đào tạo đáp
ứng yêu cầu, số lượng đào tạo phù hợp với nhiệm vụ và yêu cầu đặt ra của xã hội,
công tác bồi dưỡng được thực hiện đình kỳ theo chuyên đề hàng năm cững như các
chuyên đề cụ thể được cập nhật đã tạo cho cán bộ, công chức và chấp hành viên linh
hoạt và đủ điều kiện cơ sở bắt kịp các quy định của pháp luật, nhiều sự quan tâm của
ngành trong đào tạo mở (đào tạo các chức danh thạc sĩ, tiến sĩ, cao cấp lý luận chính 9
trị......được quan tâm và xem, như nhiệm vụ trong tâm của nghành đối với một số
chức danh chủ chốt và dần mở rộng đối với toàn bộ hệ thống cán bộ nói chung. Đay
là những bức đệm quan trọng mang tính tích cực để dần hoàn thiện một cơ chế đào
tạo bồi dưỡng mang tính chát hệ thống và lâu dài khẳng định qua chất lượng của
chấp hành viên và kết quả thi hành án dân sự hàng năm của toàn hệ thống. Làm tốt
hơn nữa vấn đề này vai trò của tổng cục thi hành án, học viện tư pháp là rất quan
trọng song song với những kết quả đạt được vẫn còn nhiều những bất cấp về chất
lượng đội ngũ chấp hành viên mà nòng cốt là công tác đào tạo bồi dưỡng vẫn còn là
một trong những vấn đề cần được quan tâm cần xây dựng thành một đề án có tính
chiến lược đáp ứng được yêu cầu lâu dài và định hướng đúng đắn phù hợp trong
công tác đào tạo bồi dưỡng.
Bởi vậy, cũng có nhiều tác giả, nhiều công trình, Luận văn nghiên cứu, đánh
giá và đề cập chuyên sâu về vấn đề này. Một số công trình tiêu biểu có thể kể đến
như
- Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa của tác giả Đỗ
Thành Nam.
- Hoàn thiện địa vị pháp lý của chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt
Nam của tác giả Nguyễn Thị Phíp.
- Vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực Thi hành án dân sự qua thực tiễn tại
Thanh Hóa của tác giả Lê Trung Kiên.
- Chất lượng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Giang của
tác giả Nguyễn Thành Bắc.
- Chất lượng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở tỉnh Đồng Tháp của
tác giả Vũ Quang Hiện.
- Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Đồng Tháp của tácgiả Trần
Công Bằng.
- Mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự với cơ quan, tổchức
hữu quan trong Thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa của tác giả Vi Trọng Thụ .
10
- Quản lý nhà nước bằng pháp luật trong thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa
hiện nay của tác giả Lê Hùng Cường.
- Xây dựng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở thành phố Hà Nội của
tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân.
- Chất lượng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Giang hiện
nay của tác giả Hà Thị Thái.
- Công tác thi hành án dân sự ở huyện miền núi Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa của
tác giả Trương Anh Quyết.
- Góp phần hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự tại Việt Nam hiệnnay
của tác giả Lê Hùng Cường.Ngoài ra còn nhiều công trình, đề tài khoa học và các
bài viết nghiên cứu của các tác giả khác về một số vần đề lý luận và thực tiễn về thi
hành án dân sự và chấp hành viên; nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu
dưới góc độ lý luận và thực tiễn về: “Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Chấp hành viên
Thi hành án dân sự ở việt nam hiện nay”.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ
2.1. Mục tiêu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, phân tích quy định của pháp luật, đánh giá thực
trạng đội ngũ chấp hành viên hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất nhu cầu phát triển đội
ngũ chấp hành viên và chương trình khung về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành
viên thi hành án dân sự trong thời gian tới đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu đề ra, Luận văn có những nhiệm vụ chính sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về ĐTBD đội ngũ CHV, từ đó làm rõ khái
niệm, đặc thù nghề nghiệp chấp hành viên, các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng lao
động của chấp hành viên.
- Phân tích thực trạng quy định về ĐTBD đội ngũ CHV, theo đó nghiên cứu
khái niệm, nội dung và xác định rõ các tiêu chí đánh giá đội ngũ chấp hành viên.
11
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao chất lượng đào
tạo, bồi dưỡng chấp hành viên nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở Việt Nam
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý
luận, những quy định về ĐTBD đội ngũ CHVTHADS.
Phạm vi không gian: Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi hành án
dân sự ở Việt Nam
Phạm vi thời gian: Giai đoạn 2015-2020
5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Để thực hiện nhiệm vụ đặt ra, Luận văn xây dựng dựa trên quan điểm duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chính Minh và
các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về ĐTBD cán bộ, công chức.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử: Thực tiễn cho thấy, hoạt động tư pháp nói chung và
THADS nói riêng là một lĩnh vực có bề dày lịch sử. Vì vậy, trong quá trình nghiên
cứu, tác giả đã tập trung nghiên cứu cả những vấn đề chúng ta đã làm được, thậm chí
có những kinh nghiệm quý báu của cha ông ta đã được luật hóa có giá trị pháp lý.
Ngoài ra, trong thời gian qua, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học
liên quan đến công tác thi hành án. Vì vậy, việc sử dụng phương pháp nghiên cứu
lịch sử sẽ giúp tác giả sử dụng kết quả đã được nghiên cứu nay vẫn còn có giá trị
thực tiễn, giá trị chứng minh để làm phong phú thêm nội dung nghiên cứu của Luận
văn, đồng thời đảm bảo tránh sự trùng lắp.
12
- Phương pháp phân tích: Phân tích các định hướng phát triển nhất là
địnhhướng cải cách tư pháp, các điều kiện khách quan, chủ quan, vấn đề kinh tế, xã
hội của Việt nam; phân tích thực trạng đội ngũ CHV và phân tích các quy định PL
có liên quan để làm rõ cơ sở thực tiễn và khoa học lý luận về phát triển đội ngũ CHV
mà cụ thể là vấn đề đào tạo đội ngũ CHV.
- Phương pháp so sánh: Để việc nghiên cứu có hiệu quả, mỗi vấn đề được đưa
ra đều có sự so sánh, đối chiếu, kể cả so sánh đối chiếu với kinh nghiệm của một số
nước, làm cơ sở cho việc vận dụng linh hoạt những nội dung đã được kiểm nghiệm
có hiệu quả của nước ngoài phù hợp với tình hình của nước ta. Tránh sự sao chép
máy móc kinh nghiệm của nước ngoài.
- Phương pháp tổng hợp: Trên cơ sở những nghiên cứu lý luận và thực tế, tổng
hợp các kết quả thu được, đưa ra phương hướng, giải pháp về nhu cầu phát triển
đội ngũ chấp hành viên và xây dựng chương trình đào tạo theo yêu cầu cải cách tư
pháp ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn nghiên cứu làm rõ một số nội dung sau:
- Làm rõ khái niệm, đặc điểm, nội dung của ĐTBD đội ngũ CHVTHADS của
Việt Nam hiện nay
- Đánh giá những kết quả, hạn chế và nguyên nhân những hạn chế trong công tác
ĐTBD đội ngũ đội ngũ CHVTHADS của Việt Nam hiện nay
-Từ đó đề ra những giải pháp có tính khoa học và phù hợp với thực tế nhằm
nâng cao hiệu quả ĐTBD các chức danh tư pháp và đội ngũ đội ngũ CHVTHADS của
Việt Nam trong thời gian tới.
Kết quả của Luận văn được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng
chiến lược ĐTBD đội ngũ CHVTHADS của Việt Nam. Đồng thời, kết quả đó cũng
được sử dụng vào việc đổi mới các nội dung có liên quan trong thực tiễn thực hiện
ĐTBD đội ngũ đội ngũ CHVTHADS của Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của Luận văn
13
Ngoài phần lời nói đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3
chương.
Chương 1. Cơ sở lý luận về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ đội ngũ CHVTHADS.
Chương 2. Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ đội ngũ CHVTHADS ở Việt
Nam hiện nay.
Chương 3. Quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ đội ngũ CHVTHADS ở Việt Nam hiện nay.
14
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CHẤP HÀNH
VIÊN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
I. Khái niệm, đặc điểm về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi
hành án dân sự.
1. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng.
1.1. Khái niệm về đào tạo.
Đào tạo là quá trình truyền thụ tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo
quy định của từng cấp học, bậc học từ đó tạo ra một đội ngũ có kiến thức bằng cấp cơ
bản tương ứng với các nghạch, bậc và trình độ chuyên môn được đào tạo (Trích nội dung
Quyết định số 273/QĐ-BTP năm 2008)
Đào tạo được hiểu là một quá trình hoạt động có tổ chức và mục đích hình thành và
phát triển hệ thống các tri thức, kỹ xảo,…để hoàn thiện một cá nhân, với mục tiêu để cho
họ có thể thực hiện công việc một cách có năng suất và hiệu quả. Theo Từ điển Bách
khoa Việt Nam, đào tạo là: Quá trình tác động đến một con người nhằm làm cho con
người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách có hệ
thống, nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng một sự
phân công lao động nhất định, góp phần của mình vào việc phát triển xã hội. Duy trì
và phát triển nền văn minh loài người, về cơ bản đào tạo là giảng dạy và học tập ở
nhà trường gắn với việc giáo dục đạo đức và nhân cách.
Theo Đại Từ điển tiếng Việt: “Đào tạo là dạy dỗ, rèn luyện để trở nên người có
hiểu biết, có nghề nghiệp: Đào tạo thành người có tri thức, đào tạo chuyên môn nghiệp
vụ”. Theo các văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam “đào tạo” như Nghị định
18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2010 của Chính phủ về ĐT,BD cán bộ, công chức đã đưa
ra cách hiểu về ĐTBD:“Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống
những tri thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp học, bậc học”
15
Từ các quan niệm trên trong phạm vi nghiên cứu của luận văn “đào tạo” có thể
được hiểu là quá trình trang bị kiến thức nghề nghiệp chuyên môn và kinh nghiệm
cho một chủ thể để họ có thể thực hiện công việc một cách độc lập trong một điều
kiện nhất định. Đào tạo là một quá trình hoạt động có tổ chức và mục đích nhằm
trang bị những kiến thức, kỹ năng một cách có hệ thống nhằm làm hình thành và
những tri thức thông qua giảng dạy, học tập, rèn luyện của chủ thể. Đào tạo có thể
được thực hiện ở các cơ sở đào tạo như: Trường Đại học, Cao đẳng, Trung học
chuyên nghiệp, Trường dạy nghề…. Đào tạo cũng có thể được thực hiện qua việc tự
rèn luyện, hoặc có thể được thực hiện thông qua. Đào tạo còn có được hiểu l một quá
trình truyền thụ những kiến thức mới, cơ bản một cách có hệ thống để chủ thể được đào
tạo qua đó có kiến thức, trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao hơn. Ví dụ: Đào tạo nâng
cao trình độ chuyên môn cho CHVTHADS (đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ).
Trong nội dung luận văn này đào tạo được hiểu là: Đào tạo là quá trình trang bị
tri thức và kỹ năngmột cách toàn diện cho con người qua sự học tập và rèn luyện
tích cực, chủ động của người đó.
1.2. Khái niệm về bồi dưỡng.
Bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật nâng cao kiến thức kỹ năng làm việc
bổ sung các quy định mới trong lĩnh vực công tác hoặc các lĩnh vực khác có liên
quan cho cán bộ, công chức hoặc người được bồi dưỡng, việc bồi dưỡng mang
tính chất ngắn hạn hoặc bổ sung thêm các kiến thức, các quy định mới ở một giai
đoạn một thời gian cụ thể.
Bên cạnh đó theo Đại từ điển tiếng Việt: bồi dưỡng là làm khoẻ thêm, mạnh
thêm. Làm cho tốt hơn, giỏi hơn. Nghị định 18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2010 của
Chính phủ về ĐTBD cán bộ, công chức, viên chức định nghĩa bồi dưỡng, “bồi
dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc”.
Như vậy, bồi dưỡng là công việc thường được thực hiện sau đào tạo hoặc trong
quá trình đào tạo, với mục đích bổ sung kiến thức hoặc trang bị thêm những kiến 16
thức mới cho một bộ phận một hệ thống đã được thông qua việc đào tạo về chuyên
nghành và đang thực hiện nhiệm vụ được giao liên quan đến các kiến thức cần được
cập nhật tại các chương trình bồi dưỡng đòi hỏi việc bồi dưỡng phải mang tính chất
linh động phù hợp đáp ứng kịp thời yêu cầu về mặt thời gian chất lượng trọng tâm
trong công tác bồi dưỡng tạo sự gắn kết giữa người được bồi dưỡng và kiến thức
được bồi dưỡng từ đó trang bị cho họ có đủ điều kiện, phẩm chất đạo đức, trình độ,
năng lực để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Kết quả của các khoá bồi dưỡng là
người học nhận được những chứng chỉ kết quả khóa bồi dưỡng. Qua những luận giải
ở trên, có thể đưa ra khái niệm: Bồi dưỡng là việc bổ sung kiến thức cho người đang
thực hiện những công việc trong những lĩnh vực nhất định với mục đích cho họ có được
kỹ năng và trình độ cao hơn để đáp ứng tốt hơn các yêu cầu, tiêu chuẩn của công việc.
Theo quy định mới của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 sửa đổi bổ sung
năm 2019 thì khái niệm công chức được hiểu là công dân Việt Nam, được tuyển
dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân
dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo,
quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh
đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương
của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
1.3. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng chấp hành viên thi hành án dân sự Theo quy định của Đảng và nhà nước cũng như cụ thể hóa tại Luật thi hành án
dân sự (Điều 17 Luật thi hành án dân sự sủa đổi, bổ sung năm 2014)
17
Chấp hành viên thi hành án dân sự trước hết là công chức. Đồng thời cũng là
người được nhà nước giao nhiệm vụ thi hành những bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật giữ vai trò trung tâm trong các hoạt động thi hành án dân sự. Theo Từ
điển Luật học thì: Chấp hành viên thi hành án dân sự là công chức ngành tư pháp.
Người được Nhà nước giao trách nhiệm tổ chức thi hành bản án, quyết định về dân
sự của Toà án Việt Nam và bản án, quyết định về dân sự của Toà án nước ngoài đã
được Toà án Việt Nam công nhận [2].
Theo quy định tại Điều 17 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ sung
năm 2014 thì: Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các
bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật đồng thời quy định Chấp hành
viên có ba ngạch là Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành
viên cao cấp.
Tuy nhiên, Chấp hành viên là chức danh gì và có đặc thù ra sao thì hiện nay
đang có nhiều ý kiến khác nhau.
Liên quan đến vấn đề này, đa số ý kiến cho rằng, Chấp hành viên là chức danh
tư pháp, được pháp luật quy định nhiều nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng (tương tự
như chức danh Kiểm sát viên và Thẩm phán). Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng
Chấp hành viên là công chức hành chính - tư pháp vì xuất phát từ đặc thù của hoạt
động thi hành án là hoạt động mang tính chất hành chính - tư pháp.
Về vấn đề này qua nghiên cứu cho thấy, Chấp hành viên là một chức danh tư
pháp, được pháp luật quy định nhiều nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng. Bởi vì, khác
với hoạt động của các cơ quan hành chính, hoạt động của cơ quan thi hành án phần
lớn thông qua vai trò hoạt động của các cá nhân những người được Nhà nước giao
trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Toà án là Chấp hành viên. Mỗi
quyết định của CHV có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của các bên có liên
quan, đồng thời liên quan trực tiếp đến hiệu lực của bản án, quyết định nhân danh
Nhà nước của Toà án. Ngoài sự vô tư, khách quan của CHV, một trong những yêu
cầu không thể thiếu đó là khi thực thi nhiệm vụ, CHV độc lập, tuân theo bản án, 18
quyết định của Toà án và theo quy định của PL. Tính độc lập được hiểu là trong quá
trình thi hành án, dựa vào niềm tin nội tâm của mình, CHV chỉ tuân theo PL và bản
án, quyết định của Toà án, chịu trách nhiệm trước PL và được PL bảo vệ. Các cơ
quan Nhà nước, tổ chức xã hội, công dân… nếu không được PL cho phép, không
được can thiệp làm cho việc thi hành án không đúng với nội dung bản án, quyết định
của Toà án hoặc làm chậm tiến độ thi hành án, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của các
bên có liên quan. Báo cáo số 164/BC-UBTVQH12 ngày 22/10/2008 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội khóa 12 về việc giải trình tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật Thi
hành án dân sự cũng cho rằng: “Chấp hành viên là một chức danh tư pháp gắn với
việc thực hiện nghiệp vụ chuyên môn về thi hành án dân sự, việc bổ nhiệm không
theo nhiệm kỳ sẽ tạo ra sự yên tâm để Chấp hành viên làm tốt công tác thi hành án,
điều này cũng không làm hạn chế đến việc xử lý kỷ luật nếu Chấp hành viên có vi
phạm, hoặc miễn nhiệm nếu không đủ năng lực, điều kiện làm Chấp hành viên. Vì
vậy, dự thảo Luật đã được chỉnh lý theo hướng quy định việc bổ nhiệm Chấp hành
viên thông qua thi tuyển và không có nhiệm kỳ là phù hợp với định hướng của Nghị
quyết 49-NQ/TW của Bộ chính trị: “Nghiên cứu thực hiện cơ chế thi tuyển để chọn
người bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp. Tăng thời hạn bổ nhiệm chức danh tư
pháp hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm không có kỳ hạn”. Chấp hành viên có 3
nghạch là Chấp hành viên sơ cấp. Chấp hành viên trung cấp, Chấp hành viên cao
cấp. Việc bổ nhiệm Chấp hành viên thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ tư pháp,
công tác đào tạo bồi dưỡng Chấp hành viên được cụ thể hóa tại Luật thi hành án dân
sự và các văn bản hướng dẫn.
Chấp hành viên là chức danh tư pháp, được nhà nước giao trách nhiệm thi
hành các bản án, quyết định của Toà án, độc lập, tuân theo pháp luật, chịu trách
nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
CHVTHADS là việc tổ chức thực hiện hoạt động ĐTBD cho đội ngũ CHVTHADS,
trong đó đào tạo là trang bị những kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ cần thiết cho
CHVTHADS nhằm đáp ứng điều kiện tiêu chuẩn của ngạch bậc; bồi dưỡng là việc 19
tổ chức thực hiện hoạt động bổ sung, cập nhật kiến thức mới hoặc rèn luyện thêm
các kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ CHVTHADS nhằm giúp họ nâng cao năng lực
trong thực hiện nhiệm vụ được giao.
Như vậy đào tạo Chấp hành viên là việc Tổng cục Thi hành án, Bộ Tư pháp
xây dựng chương trình kế hoạch, chọn lọc trên hệ thống thi hành án dân sự toàn
quốc các cán bộ công chức đủ điều kiện về mặt trình độ, thời gian, năng lực tham gia
lớp đào tạo Chấp hành viên (Sơ cấp, trung cấp, cao cấp) tại Học viện Tư pháp bằng
hình thức tập trung có thời hạn tối thiểu từ 06 tháng trở lên. Sau khóa đào tạo người
được đào tạo được trang bị những kiến thức cơ bản và đủ các điều kiện về mặt tiêu
trí để tham gia thi tuyển vào các ngạch chấp hành viên theo quy định.
Song song trong công tác đào tạo chuyên nghành hiện nay Bộ tư pháp, tổng
cục thi hành án đặc biệt quan tâm đến công tác đào tạo thêm kiến thức pháp luật nói
chung, và trang bị nhận thức lý luận chính trị cho đội ngũ chấp hành viên và cán bộ,
công chức bằng các hình thức khuyến khích tham gia các khóa đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ
và cao hơn cử cán bộ chủ chốt đủ điều kiện học các lớp cao cấp lý luận chính trị và
dần mở rộng đến tác đối tượng trong nguồn quy hoạch đây được đánh giá là những
bước tiến quan trọng trong công tác đào tạo để có đội ngũ cán bộ chấp hành viên
mang tính chiến lược lau dài.
Về công tác bồi dưỡng chấp hành viên được hiểu là việc xây dựng các chương
trình để bổ trợ kiến thức pháp luật đạo đức nghề nghiệp nhằm đáp ứng một mục tiêu
quan trọng đó là nâng cao kỹ năng thực thi nhiệm vụ, việc bồi dưỡng có thể mang
tính toàn diện trên cả hệ thống cũng có thể mang tính chọn lọc từng vùng từng đơn
vị với các chuyên đề phù hợp. Hiện nay công tác bồi dưỡng đã cơ bản được thực
hieenj thường xuyên đúng với các mục tiêu và đối tượng nhắm đến nhưng chất
lượng sau bồi dưỡng vẫn còn hạn chế bất cập cần được xem xét để có giải pháp phù
hợp.
2. Đặc điểm của đào tạo, bồi dưỡng Chấp hành viên thi hành án dân sự
20
Một là, ĐTBD đội ngũ CHVTHADS là việc tổ chức thực hiện hoạt động ĐTBD
gắn liền với vị trí và nhiệm vụ của CHVTHADS và theo tiêu chuẩn của từng ngạch
bậc CHVTHADS và từng lĩnh vực công tác.
Bộ Tư pháp trên cơ sở của việc quy định chức năng nhiệm vụ cụ thể của
CHVTHADS cần phải xác định năng lực cần thiết, từ đó thực hiện công tác tuyển
dụng, bố trí, sử dụng đội ngũ CHVTHADS. Điều đó đòi hỏi hoạt động đào tạo phải
xác định được nội dung, hình thức, mô hình và phương pháp ĐTBD phù hợp với
từng ngạch CHVTHADS. Cụ thể là, đối với để thi nâng ngạch phải qua bồi dưỡng
trung cấp lý luận chính trị; Đối với bồi dưỡng nghiệp vụ cho CHVTHADS, về nội
dung, cần bồi dưỡng chuyên sâu về chuyên môn theo từng khâu nghiệp vụ.
CHVTHADS thực hiện ở khâu công tác nghiệp vụ nào thì sẽ được bồi dưỡng nghiệp
vụ ở khâu công tác đó, nhằm nâng cao chất lượng, kỹ năng thực nhiệm vụ theo hướng
chuyên môn hoá.
Hai là, ĐTBD đội ngũ CHVTHADS là việc ĐTBD kỹ năng hành nghề cho người
làm nghề, nhưng là loại hình nghề nghiệp đặc thù, vì thế nội dung, phương pháp, chủ thể
thực hiện việc ĐTBD cũng có những đòi hỏi khác biệt
Nội dung ĐTBD không chỉ có trang bị, cập nhật kiến thức mà còn trang bị, rèn
luyện kỹ năng nghề nghiệp, trong đó đề cao việc ĐTBD kỹ năng nghề nghiệp.
Phương pháp ĐTBD đòi hỏi sự kết hợp linh hoạt giữa thuyết trình với các phương
pháp có sự tham gia của người học, trong đó các phương pháp có sự tham gia của
người học giữ vai trò chủ đạo. Chủ thể đào tạo là những giảng viên không chỉ là đội
ngũ giảng viên cơ hữu của cơ sở ĐTBD mà bao gồm được sự tham gia của đội ngũ
giảng viên kiêm chức là các CHVTHADS có kinh nghiệm, có chuyên môn cao, trong
đó coi trọng phát triển đội ngũ giảng viên kiêm chức bên cạnh việc chăm lo bồi
dưỡng nghiệp vụ thực tiễn cho đội ngũ giảng viên cơ hữu.
Ba là, ĐTBD đội ngũ CHVTHADS gắn với quy hoạch, kế hoạch bố trí, sử dụng
cán bộ, công chức của ngành thi hành án
21
Thực hiện việc tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo điều hành trong việc phân
công, phân nhiệm trong tập thể lãnh đạo và đảm bảo “không có vùng trống cán bộ
chuyên trách” trong thực hiện các nhiệm vụ công tác.
Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CHVTHADS là ĐTBD kỹ năng nghề nghiệp nhưng
là loại hình nghề nghiệp đặc thù, nghề nghiệp thực thi pháp luật. Vì vậy, công tác
ĐTBD không chỉ chú trọng trang bị, rèn luyện kiến thức, kỹ năng mà còn quan tâm
đến việc hình thành và trau dồi đạo đức nghề nghiệp, truyền thụ những đường lối,
quan điểm chỉ đạo chung, trên cơ sở đó người học có được thái độ, cách thức ứng xử
trong thực tiễn thực hiện nhiệm vụ.
Bốn là, ĐTBD đội ngũ CHVTHADS là một hoạt động đặc thù
Có thể nói, CHV là một nghề nghiệp đặc thù, các thao tác nghiệp vụ của chấp
hành viên liên quan đến nhiều lĩnh vực ngành nghề khác nhau như Tài chính, Địa
chính, Xây dựn…và liên quan đến nhiều cơ quan khác nhau cùng phối hợp thực
hiện. Điều này đòi hỏi Chấp hành viên phải không những nắm vững pháp luật về
quy trình, thủ tục thi hành án, pháp luật chuyên ngành khác nhau mà còn phải am
hiểu các nghiệp vụ chuyên ngành khác, phải có khả năng chỉ đạo, tiến hành phối hợp
thực hiện nhiệm vụ nên công tác đào tạo, bồi dưỡng CHVTHADS cũng mang tính
đặc thù.
II. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự
Nhằm cụ thể hóa về quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước
về ĐTBD như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hành Trung ương khóa XI
(Nghị quyết số 29 – NQ/TW) với nội dung đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào
tạo giai đoạn 2006-2020, Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 6/9/2014 của Chính phủ về
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo và các Nghị quyết của Đảng, Quốc
hội, Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu: Giáo dục nghề nghiệp,
tập trung đào tạo nhân lực có kiến thức, kỹ năng và trách nhiệm nghề nghiệp; giáo
dục đại học tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển
phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học..., các 22
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về ĐTBD, cụ
thể là:
Luật Cán bộ, công chức năm 2008; Luật Viên chức năm 2008 và Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019 (có
hiệu lực thi hành ngày 01/7/2020); Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017
về ĐTBD cán bộ, công chức, viên chức... đã xác định mục tiêu của công tác ĐTBD
cán bộ, công chức, viên chức là: Trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện
nhiệm vụ trong hoạt động công vụ của cán bộ, công chức và hoạt động nghề nghiệp
của viên chức, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên
nghiệp, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị và năng lực, đáp ứng yêu
cầu phục vụ nhân dân, sự nghiệp phát triển của đất nước.
Để tiếp tục hoàn thiện và nâng cao năng lực về chuyên môn, nghiệp vụ của đội
ngũ cán bộ tư pháp, trong đó có đội ngũ chấp hành viên, Nghị quyết số 26-NQ/TW
ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp đã khẳng định:
“Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp… đào tạo cán bộ nguồn của các chức
danh tư pháp, bổ trợ tư pháp; bồi dưỡng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp theo hướng
cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề
nghiệp và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất, đạo đức trong sạch, dũng cảm đấu
tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
Quyết định 2707/QĐ-BTP ngày 29/12/2017 và Quyết định số 302/QĐ-BTP ngày
26/02/2018 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công
chức viên chức Bộ Tư pháp năm 2017-2018
Quyết định số 334/QĐ-BTP ngày 20/01/2019 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Phê
duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức viên chức Bộ Tư pháp năm 2019
Quyết định số 3179/QĐ-BTP ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Bộ Tư pháp về
Phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức viên chức Bộ Tư pháp năm 2020
23
Trong các kế hoạch xây dựng đội ngũ CHV có chất lượng cao, có trình độ
đào tạo phù hợp với lĩnh vực công tác; có kỹ năng nghiệp vụ thành thạo, tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ công tác được giao.
1. Về chủ thể đào tạo, bồi dưỡng
Chủ thể thực hiện hoạt động ĐTBD đội ngũ CHVTHADS chủ yếu của Học
Viện Tư pháp và một số cơ sở đào tạo Luật: Trường Đại học Luật, Khoa Luật Đại học
Quốc gia, Học viện Cảnh sát, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam…
Để thực hiện các hoạt động ĐTBD, các cơ sở ĐTBD phải tổ chức bộ máy
tương ứng với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, bao gồm các khoa chuyên môn
và các phòng chức năng. Trong đó, tham gia trực tiếp vào hoạt động ĐTBD là các
khoa chuyên môn có liên quan đến các lĩnh vực nghiệp vụ của ngành thi hành án và
phòng/khoa quản lý hoạt động ĐTBD, trong đó đặc biệt nổi bật là vai trò của đội
ngũ giảng viên - cỗ “máy cái” của quá trình ĐTBD cán bộ.
Thực hiện nhiệm vụ ĐTBD đội ngũ CHVTHADS, giảng viên có một vị trí,
vai trò vừa đặc biệt quan trọng lại vừa mang những nét đặc thù như sau:
- Giảng viên các cơ sở đào tạo trong ngành THA chính là những người trực tiếp
thực hiện và quyết định chất lượng ĐTBD; trực tiếp cung cấp các kiến thức pháp lý; kỹ
năng liên quan đến các công tác thực hiện chức năng của CHV mà trọng tâm là các kỹ
năng điều tra, thi hành án,... cho toàn bộ cán bộ trong ngành thi hành án. Vì vậy, mỗi cơ
sở đào tạo chỉ có thể đáp ứng được nhanh nhạy các yêu cầu đó nếu có một đội ngũ
giảng viên đủ mạnh, luôn sẵn sàng điều chỉnh thích ứng trong điều kiện mới.
- Đội ngũ giảng viên vừa có kiến thức lý luận và kinh nghiệm thực tiễn, bằng
năng lực thực sự, lòng yêu nghề, say mê nghiên cứu khoa học, mới có thể cung cấp
cho các ngành THA và xã hội những sản phẩm có giá trị nhất, quyết định sự phát
triển bằng việc ĐTBD nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Giảng viên ĐTBD đội ngũ THA phải có phẩm chất chính trị vững vàng, chấp
hành nghiêm chỉnh đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thường
xuyên học tập nâng cao nhận thức chính trị, có ý thức tổ chức kỷ luật; đấu tranh, ngăn 24
chặn những hành vi vi phạm pháp luật và các quy định nghề nghiệp; gương mẫu thực
hiện nghĩa vụ công dân, tích cực tham gia các hoạt động chính trị, xã hội.
- Tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp
Giảng viên ĐTBD đội ngũ THA phải có đạo đức lối sống lành mạnh, thực
hiện trau dồi kiến thức kỹ năng luôn đi cùng với trau dồi đạo đức nghề nghiệp; Có
trình độ, có kinh nghiệm nghề nghiệp. Giảng viên phải thực sự gương mẫu, trách
nhiệm, yêu nghề, tâm huyết với nghề; có ý thức giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín,
lương tâm nhà giáo.
- Đạt chuẩn về trình độ đào tạo chuyên môn theo quy định
Giảng viên ĐTBD đội ngũ THA phải đạt chuẩn về trình độ đào tạo chuyên
môn, theo đó, phải có bằng cử nhân luật hoặc đại học khác trở lên, chuyên ngành
phù hợp với nghề giảng dạy, nắm vững kiến thức của môn học hay nội dung được
phân công giảng dạy.
Giảng viên ĐTBD đội ngũ THA phải có tiêu chuẩn về kỹ năng hành nghề luật.
Giảng viên cũng phải có khả năng thực hiện thành thạo các kỹ năng của nghề được
phân công giảng dạy; có khả năng áp dụng pháp luật và giải quyết tốt các tình huống áp
dụng pháp luật phát sinh trong thực tiễn công tác của nghề tương ứng mà mình có
nhiệm vụ ĐTBD.
- Có trình độ lý luận chính trị, quản lý nhà nước, tin học, ngoại ngữ và nghiệp
vụ sư phạm.
Giảng viên cơ hữu phải có chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm, có kinh nghiệm giảng
dạy đủ đáp ứng yêu cầu của công tác ĐTBD.
Ngoài ra, về công tác chuẩn bị và thực hiện hoạt động giảng dạy: giảng viên
tham gia hoạt động ĐTBD phải lập được kế hoạch giảng dạy môn học, cả khoá học;
soạn được giáo án theo quy định; lựa chọn được phương pháp dạy học phù hợp; chuẩn
bị đầy đủ các phương tiện dạy học, đảm bảo chất lượng dạy kỹ năng hành nghề luật;
ứng dụng được công nghệ thông tin trong giảng dạy.
- Tiêu chuẩn về kinh nghiệm thực tiễn: tiêu chuẩn về kinh nghiệm thực tiễn
25
nghề nghiệp cũng là nội dung quan trọng trong tiêu chuẩn giảng viên.
Tóm lại, đội ngũ giảng viên ĐTBD cần vừa phải giỏi chuyên môn, có nhiều
kinh nghiệm thực tiễn và kỹ năng nghề nghiệp.
2. Về đối tượng đào tạo, bồi dưỡng
Đối tượng của hoạt động ĐTBD là đội ngũ CHVTHADS là cán bộ đã được
tuyển dụng vào ngành, có trình độ cử nhân luật đã được đào tạo về nghiệp vụ THA và
được bổ nhiệm là CHVTHADS. Tuy nhiên, không phải mọi CHVTHADS đều được
đi ĐTBD mà tùy theo từng loại hình đào tạo hay bồi dưỡng, tùy thuộc vào vị trí,
nhiệm vụ mà được cử đi ĐBBD, cụ thể:
Về cử CHVTHADS đi bồi dưỡng, đối tượng bồi dưỡng chính là đội ngũ
CHVTHADS đã có kỹ năng, kinh nghiệm nghề nhất định, nhưng cần phải được bồi
dưỡng nâng cao, chuyên sâu để hoàn thiện tiêu chuẩn theo ngạch, bậc, chức vụ...
Chính tiêu chí này là căn cứ để xác định các điều kiện về nội dung chương trình bồi
dưỡng, phương pháp ĐTBD và giảng viên đảm bảo tính phù hợp và hiệu quả thực sự.
3. Về hình thức và nội dung ĐTBD
Hình thức bồi dưỡng công chức, viên chức trong đó có CHVTHADS gồm: Tập
sự; Bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp
viên chức; bồi dưỡng trước khi bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý; bồi dưỡng theo
yêu cầu của vị trí việc làm; bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên ngành.
Về nội dung bồi dưỡng
Nội dung bồi dưỡng đội ngũ CHVTHADS gồm: bồi dưỡng về lý luận chính
trị; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh; bồi dưỡng kỹ năng, kiến thức quản
lý nhà nước; bồi dưỡng kiến thức quản lý chuyên ngành, nghiệp vụ; đạo đức công
vụ, đạo đức nghề nghiệp; tin học, ngoại ngữ .
Nhóm nội dung bồi dưỡng gồm: Một là, bồi dưỡng lý luận chính trị cho
CHVTHADS gồm trung cấp lý luận chính trị và cao cấp lý luận chính trị; hai là,
chương trình bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh; ba là, chương trình bồi
dưỡng kiến thức quản lý nhà nước theo tiêu chuẩn ngạch công chức; bốn là, chương 26
trình bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước trước khi bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo,
quản lý; năm là, bồi dưỡng theo yêu cầu của vị trí việc làm, kỹ năng chuyên ngành.
4. Về quản lý đào tạo, bồi dưỡng
Hoạt động quản lý ĐTBD thực hiện theo các văn bản quy định như Nghị định
101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, viên chức đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Bộ Nội vụ, Bộ Tài
chính, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, của bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và trách nhiệm của đơn vị sử dụng cán bộ, công
chức, viên chức phải thực hiện các quy định về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, viên chức; quy định chế độ báo cáo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, viên chức tại Điều 44.
III. Các yếu tố ảnh hưởng đến đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi
hành án dân sự
1. Yếu tố quản lý, điều hành của Lãnh đạo
Công tác tổ chức quản lý, chỉ đạo của Lãnh đạo các cơ sở đào tạo cũng ảnh
hưởng không nhỏ đến chất lượng ĐTBD đội ngũ CHVTHADS. Hệ thống tổ chức trong
nhà trường hình thành nên các bộ phận, quan hệ công việc giữa các bộ phận (phối hợp
và tương trợ); mối quan hệ như thế nào sẽ liên quan đến thời gian và hiệu quả hoạt động
ĐTBD. Công tác quản lý người học bao gồm nhiều vấn đề: Tổ chức kế hoạch ĐTBD
cho từng khoá học, năm học, học kỳ, hàng tuần; giải quyết những vướng mắc của người
học... Đây là công việc vừa ảnh hưởng trực tiếp đến thời gian, tiền bạc của người học,
vừa góp phần hình thành phong thái, đạo đức nghề nghiệp của CHVTHADS, đồng thời
góp phần nâng cao chất lượng ĐTBD.
Để góp phần kích thích người học tự giác, nhiệt tình học tập, cùng với những
chính sách khuyến khích của Nhà nước. Các biện pháp khuyến khích vật chất như
tiền thưởng, học bổng là rất quan trọng. Mối quan hệ giữa người học với giảng viên,
cán bộ quản lý, có ảnh hưởng rất lớn đến tin tâm lý người học.
2. Chương trình đào tạo, bồi dưỡng
27
Chương trình ĐTBD là hệ thống kiến thức lý thuyết và thực hành được thiết
kế đồng bộ với phương pháp giảng dạy và đánh giá kết quả học tập để đảm bảo
người học phải tích lũy được kiến thức và đạt được năng lực cần thiết đối với mỗi
trình độ của giáo dục đại học. Xây dựng Chương trình ĐTBD là cung cấp cho người
học thông tin về mục tiêu, nội dung môn học.
Chương trình ĐTBD quyết định tới nội dung, phương pháp ĐTBD. Chất
lượng ĐTBD là vấn đề cốt lõi của chương trình ĐTBD nó biểu hiện rõ nét qua năng
lực, khả năng vận dụng các kiến thức của người học sau khi học xong chương trình
ĐTBD đó.
3. Chất lượng của đội ngũ giảng viên
Chất lượng giảng viên tham gia ĐTBD cũng ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động
ĐTBD. Kiến thức của các môn học khác có liên quan, kiến thức về tâm lý, giao tiếp,
xử lý các tình huống sư phạm... Chất lượng của giảng viên trước hết phải xem xét tới
yếu tố: Đạt chuẩn về trình độ chuyên môn. Giảng viên phải có kiến thức thực tế, có
những kỹ năng nhất định ở từng khâu, từng giai đoạn của quá trình thực hiện chức
năng thi hành án dân sự thì mới đáp ứng được yêu cầu của hoạt động ĐTBD.
4. Yếu tố người học
Một trong những yếu tố quan trong tác động đến chất lượng nội dung, phương
pháp ĐTBD chính là người học. Người học có trình độ, năng lực ở mức nào, ý thức
học tập, ý thức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm của người học như thế nào sẽ quyết
định nội dung, chương trình ĐTBD và phương pháp ĐTBD khác nhau phù hợp với
từng đối tượng. Bên cạnh đó, khi người học xây dựng được cho mình động cơ học
tập đúng đắn thì người học sẽ hứng thú, say mê và việc dạy và học sẽ thu được
những kết quả tích cực.
5. Về điều kiện đảm bảo
Cơ sở vật chất và các phương tiện phục vụ giảng dạy, học tập là điều kiện tối
thiểu, đầu tiên của quá trình đào tạo.
Cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ, trang bị cho giáo dục đào tạo
28
những phương tiện, thiết bị giảng dạy rất hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng
đào tạo.
- Thư viện, phòng đọc, nguồn tài liệu phục vụ giảng dạy cần đa dạng
Với phương pháp ĐTBD hiện đại, người học tiếp cận tri thức dưới phương
pháp tự học, tự nghiên cứu.
IV. Yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự
Để tiếp tục hoàn thiện và nâng cao năng lực về chuyên môn, nghiệp vụ của đội
ngũ cán bộ tư pháp, trong đó có đội ngũ chấp hành viên, Nghị quyết số 26-NQ/TW
ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp đã khẳng định:
“Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp… đào tạo cán bộ nguồn của các chức
danh tư pháp, bổ trợ tư pháp; bồi dưỡng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp theo hướng
cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề
nghiệp và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất, đạo đức trong sạch, dũng cảm đấu
tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Đối với lĩnh vực thi hành án
dân sự, yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự phải
đảm bảo các yêu cầu Chấp hành viên có thể khái quát trên các khía cạnh:
1. Yêu cầu về trình độ chuyên môn
Xuất phát từ vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên nên việc
xác định yêu cầu về chuyên môn đôi với đội ngũ nãy giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
Liên quan đến vấn đề này có quan điểm cho rằng: thời gian qua, tình trạng thiếu
Chấp hành viên diễn ra khá phổ biến, nhưng đến nay vẫn chưa thể khắc phục xong.
Nguồn cán bộ có trình độ cử nhân luật để bổ sung và thu hút vào các cơ quan thi
hành án dân sự gặp rất nhiều khó khăn (nhất là ở những đơn vị miền núi, vùng sâu,
vùng xa). Trong khi đó, hoạt động thi hành án dân sự có những loại việc tương đối
đơn giản, rõ ràng, lượng tiền, tài sản phải thi hành không lớn chỉ cần những người có
trình độ pháp lý ở mức độ vừa phải cũng có thể thực hiện được. Tuy nhiên, do pháp
luật hiện hành quy định cứng tiêu chuẩn bổ nhiệm Chấp hành viên phải có trình độ 29
"cử nhân luật trở lên" nên cơ quan thi hành án không thể tuyển những người có trình
độ trung cấp luật. Vì vậy, chưa tạo ra chính sách thu hút nguồn cán bộ vào làm
việc tại cơ quan thi hành án, kể cả việc thu hút những người có nhiều kinh nghiệm
về công tác dân vận, hiểu biết địa bàn và cơ sở như Chủ tịch, Phó chủ tịch, cán bộ tư
pháp - hộ tịch cấp xã đã được đào tạo trình độ trung cấp luật11. Tuy nhiên, đa số ý
kiến cho rằng, Chấp hành viên là chức danh tư pháp, được pháp luật quy định nhiều
nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng nên cần giữ nguyên tiêu chuẩn bổ nhiệm chấp hành
viên là cử nhân luật theo quy định của pháp luật hiện hành. Quy định như vậy cũng
phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp như Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị đã xác định: “Cán bộ có chức danh tư pháp phải có
trình độ đại học luật và được đào tạo về kỹ năng nghề nghiệ tư pháp theo chức
danh”. Do đó, Luật thi hành án dân sự đã giữ nguyên tiêu chuẩn bổ nhiệm chấp hành
viên là phải có trình độ cử nhân luật.
Qua nghiên cứu cho thấy, Chấp hành viên là chức danh tư pháp, được quy định
nhiều nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng nên Luật thi hành án dân sự quy định chấp
hành viên phải có trình độ cử nhân luật trở lên là phù hợp.
2. Yêu cầu về trình độ lý luận chính trị
Lý luận là hệ thống những tri thức đã được khái quát, tạo ra một quan niệm
hoàn chỉnh về các quy luật và về mối liên hệ cơ bản của hiện thực. Lý luận là sự
phản ánh và tái hiện hiện thực khách quan. Mọi lý luận đều quy định bởi hoàn cảnh
lịch sử trong đó nó hình thành từ điều kiện cụ thể của lịch sử sản xuất, kỹ thuật và
thực nghiệm. Còn chính trị là toàn bộ những hoạt động có liên quan đến mối quan
hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, các tầng lớp xã hội, mà cốt lõi của nó là vấn
đề giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực nhà nước, sự tham gia vào công
việc của nhà nước, sự xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của
nhà nước. Bất kỳ vấn đề chính trị nào cũng đều liên quan đến quyền lợi của các giai
cấp và nhà nước. Chính trị thuộc cấu trúc thượng tầng bao gồm (hệ tư tưởng chính
trị, nhà nước, các đảng phái) xuất hiện khi xã hội phân chia thành các giai cấp dựa 30
trên cơ sở hạ tầng kinh tế. Lê-nin khẳng định: "Không có một lập trường chính trị
đúng thì một giai cấp nhất định nào đó không thể giữ vững được sự thống trị của
mình, và do đó, cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực
sản xuất" (Lê-nin). Lý luận chính trị của Đảng và nhận thức lý luận chính trị của
cán bộ, đảng viên có tầm quan trọng đặc biệt, quyết định năng lực lãnh đạo, cầm
quyền của Đảng và sự thành bại của cách mạng. Lê-nin cho rằng, trước hết và trên
hết "lý luận là kim chỉ nam cho hành động", là điều kiện tiên quyết để đưa những
nghị quyết của đảng vào thực tiễn cuộc sống có hiệu quả. Còn theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh thì không có lý luận cách mạng thì không có "cách mạng vận động". Sự
nghiệp đổi mới càng đòi hỏi cao sự lãnh đạo của Đảng, vai trò tiên phong, gương
mẫu, hiểu biết của cán bộ, đảng viên. Vì vậy, việc tăng cường nhận thức cho cán bộ,
đảng viên về lý luận chính trị trong tình hình hiện nay có ý nghĩa to lớn.
Đối với Chấp hành viên, người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành bản án,
quyết định của Tòa án. Các quyết định của Chấp hành viên có liên quan đến quyền
cơ bản của công dân (như quyền tài sản, quyền chỗ ở, quyền nhân thân...), liên quan
trực tiếp đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội nên ngoài sự hiểu biết về pháp
luật thì những kiến thức về lý luận chính trị đóng vai trò quan trọng trong quá trình
thực thi nhiệm vụ được giao. Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Khóa XII đã xác định: “cấp ủy địa phương có trách nhiệm lãnh đạo, thường
xuyên kiểm tra công tác kiểm sát và xét xử, công tác thi hành án bảo đảm đúng
đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước”. Ban Thường vụ Tỉnh
ủy, Thành ủy có trách nhiệm “giới thiệu nhân sự cấp trưởng, cấp phó Viện kiểm sát
nhân dân, Tòa án nhân dân, Thường trực cấp ủy giới thiệu nhân sự Thẩm phán và
Kiểm sát viên, Chấp hành viên để ngành dọc cấp trên bổ nhiệm”. Vì vậy, việc nâng
cao trình độ lý luận chính trị của Chấp hành viên là yêu cầu cần thiết.
3. Yêu cầu về ngoại ngữ, tin học
Ngoài các yêu cầu về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, chính trị, phẩm chất đạo
đức đối với chấp hành viên thì yêu cầu về ngoại ngữ, tin học cũng hết sức cần thiết. 31
Có thể nói một trong những khâu yếu nhất và chưa được quan tâm đào tạo một cách
có chất lượng đó là về kiến thức ngoại ngữ và tin học. Phần lớn sinh viên khi đã vào
học đại học họ chỉ mới quan tâm đầu tư nhiều nhất cho việc học chuyên môn của
chuyên ngành đào tạo, ví dụ học đại học luật thì mới chỉ quan tâm chủ yếu đến các
môn học về luật. Trong khi đó trước yêu cầu của bối cảnh hội nhập và sự phát triển
như vũ bão của công nghệ khoa học như hiện nay thì nếu thiếu một trong hai hoặc cả
hai yếu tố này đều làm cho công chức nói chung và đội ngũ chấp hành viên nói riêng
rất bị động trong xử lý công việc, ví dụ khi yêu cầu báo cáo thống kê gấp số lượng
việc, tiền và cần phải được trao đổi nhanh bằng thư điện tử giữa Tổng cục Thi hành
án dân sự với Chấp hành viên ở địa phương, nếu Chấp hành viên không thông thạo
các thao tác về vi tính và mạng thì việc giải quyết công việc rất chậm trễ và khó
khăn.
4. Yêu cầu về thời gian làm công tác pháp luật
Theo quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thì tiêu chuẩn về
thời gian công tác pháp luật của Chấp hành viên được xác định như sau: Đối với
Chấp hành viên cấp huyện: người có đủ tiêu chuẩn chung, có thời gian làm công tác
pháp luật từ bốn năm trở lên, có năng lực thi hành những vụ việc thuộc thẩm quyền
của cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện.
Đối với Chấp hành viên cấp tỉnh: người có đủ tiêu chuẩn chung nêu trên và đã
làm Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện từ năm năm trở lên, có
năng lực thi hành những vụ việc thuộc thẩm quyền của cơ quan thi hành án dân sự
cấp tỉnh. Trong trường hợp do nhu cầu cán bộ của cơ quan thi hành án, người có đủ
tiêu chuẩn chung nêu trên và đã có thời gian làm công tác pháp luật từ mười năm trở
lên, có năng lực thi hành những vụ việc thuộc thẩm quyền của cơ quan thi hành án
dân sự cấp tỉnh thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Chấp hành viên cơ quan
thi hành án dân sự cấp tỉnh.
Cũng về vấn đề trên, Luật Thi hành án dân sự đã quy định tương đối cụ thể thời
gian làm công tác pháp luật, coi đây như là một trong những điều kiện bắt buộc để 32
được bổ nhiệm làm Chấp hành viên. Theo đó, tuỳ vào từng chức danh chấp hành
viên mà thời gian công tác pháp luật để được xem xét bổ nhiệm chấp hành viên cũng
khác nhau, cụ thể đối với chấp hành viên sơ cấp thì phải có thời gian công tác pháp
luật từ ba năm trở lên, đối với chấp hành viên trung cấp thì phải có thời gian làm
chấp hành viên sơ cấp từ năm năm trở lên, đối với chấp hành viên cao cấp thì phải
có thời gian làm chấp hành viên trung cấp từ năm năm trở lên.
5. Yêu cầu về kiến thức pháp luật
Hệ thống pháp luật của nước ta là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên
hệ nội tại thống nhất với nhau, thể hiện trong các văn bản do các cơ quan có thẩm
quyền ban hành. Trong khi đó, hoạt động thi hành án dân sự có liên quan trực tiếp
đến nhiều lĩnh vực khác nhau, chịu sự điều chỉnh của nhiều quan hệ pháp luật. Vì
vậy, trong quá trình thực thi nhiệm vụ một mặt đòi hỏi Chấp hành viên phải nắm
vững nội dung cơ bản của hệ thống pháp luật, mặt khác cần xác định rõ những văn
bản đang có hiệu lực thi hành, những văn bản hết hiệu lực thi hành. Mối tương quan
giữa hệ thống pháp luật chung với các quy định của pháp luật thi hành án dân sự.
Bên cạnh đó, trong quá trình tổ chức thi hành án, việc Chấp hành viên nắm
vững các văn bản pháp luật về thi hành án là hoàn toàn chưa đủ mà còn phải thấm
nhuần các văn bản pháp luật khác có liên quan. Ví dụ: việc thi hành án rất nhiều
trường hợp là có liên quan đến chế độ tài sản. Từ đó, phát sinh những tình huống rất
đa dạng. Người phải thi hành án là tổ chức, từ đó phải phân biệt tổ chức đó là doanh
nghiệp hay cơ quan nhà nước; doanh nghiệp thì thuộc loại hình nào; công ty cổ phần
hay doanh nghiệp tư nhân hay công ty trách nhiệm hữu hạn... Mỗi loại hình doanh
nghiệp có chế độ tài sản, chế độ trách nhiệm khác nhau. Nếu không nắm vững quy
định của pháp luật doanh nghiệp, dân sự về các vấn đề trên, chắc chắn việc thi hành
án sẽ không tránh khỏi những sai sót, thậm chí vi phạm. Tương tự như vậy, khi tổ
chức việc thi hành án đối với người phải thi hành án là cá nhân, Chấp hành viên cần
nắm được nghĩa vụ thi hành án là do cá nhân đó chịu trách nhiệm hay là các thành
viên của gia đình người phải thi hành án trên cơ sở phân biệt trách nhiệm giám hộ, 33
phân biệt trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm liên đới theo pháp luật dân sự; kê biên tài
sản theo thứ tự động sản kê biên trước, bất động sản kê biên sau, do đó, phải phân
biệt được động sản với bất động sản; kê biên tài sản riêng của người phải thi hành án
phải được kê biên trước, tài sản chung kê biên sau; Chấp hành viên được quyền kê
biên tài sản của người phải thi hành án chung với người khác nhưng khi kê biên tài
sản chung cần phải đảm bảo cho đồng sở hữu chung được biết, được thực hiện
quyền ưu tiên mua tài sản; việc mua bán tài sản phải tuân theo quy định về hợp đồng
mua bán tài sản theo quy định của pháp luật dân sự; người phải thi hành án có hành
vi chống đối việc thi hành án thì có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định
của về tội danh của pháp luật hình sự và theo thủ tục của pháp luật tố tụng hình sự;
Như vậy, bên cạnh pháp luật về thi hành án dân sự, chấp hành viên phải tìm
hiểu và nắm chắc các quy định của pháp luật dân sự, tố tụng dân sự, hình sự. tố tụng
hình sự, pháp luật về doanh nghiệp…thì mới tổ chức thi hành án đúng pháp luật
được.
* Pháp luật thi hành án dân sự là tổng thể các quy phạm điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định dân sự, hình
phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài
sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong
bản án, quyết định hành chính của Toà án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có
liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh
và quyết định của Trọng tài thương mại, bao gồm các quy định về quyền, nghĩa vụ
của người được THA, người phải THA, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; các
tổ chức, cá nhân có liên quan đến THA; quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quản lý, tổ chức việc THA; nhiệm
vụ, quyền hạn, trách nhiệm của CHV và trình tự, thủ tục THADS. Vì vậy, Chấp
hành viên có nghĩa vụ phải nắm vững, hiểu sâu các quy định của pháp luật về thi ành
án dân sự. Điều này thể hiện trên các khía cạnh như:
34
- Nắm vững các quy định về tổ chức, hoạt động của các CQQLNN về THADS;
Mối quan hệ trong tổ chức và hoạt động của các CQTHADS; Mối quan hệ giữa cơ
quan quản lý THADS và CQTHADS; Mối quan hệ giữa CQTHADS và CHV, cán
bộ THA; Mối quan hệ giữa CQTHADS và cơ quan được uỷ thác THA; Mối quan hệ
giữa CQTHADS và người phải THA, người được THA, người có quyền lợi liên
quan đến việc THA.
- Nắm vững các quy định về mối quan hệ giữa CQTHADS và các cơ quan tiến
hành tố tụng; Mối quan hệ giữa CQTHADS và VKSND thực hiện kiểm sát THADS;
Mối quan hệ giữa CQTHADS và chính quyền địa phương, các cơ quan, tổ chức, cá
nhân liên quan trong việc THADS.
- Nắm vững các quy định liên quan đến nội dung việc thi hành và chấp hành các
BA, QĐ của TA về dân sự, phát sinh ngay sau khi BA, QĐ về dân sự có hiệu lực
pháp luật như quan hệ giữa CQTHADS và người phải THA, người được THA và
những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Từ những quan hệ chủ yếu này sẽ
phát sinh nhiều mối quan hệ khác trong quá trình THA nhằm bảo đảm việc thực hiện
nghiêm chỉnh quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quá trình thực thi các BA,
QĐ về dân sự của TA.
- Nắm vững các quy định liên quan đến trình tự, thủ tục thi hành án dân sự như:
quan hệ phát sinh trong bước chuyển từ thủ tục tố tụng (giai đoạn xét xử) sang thủ
tục THA, chủ yếu là trong việc chuyển giao BA, QĐ đã có hiệu lực của TA. Tiếp đó
là trình tự, các bước tiếp theo của quá trình THA như: thụ lý THA, ra quyết định thi
hành, tự nguyện thỏa thuận THA, cưỡng chế THA... Đặc biệt là việc áp dụng các
biện pháp cưỡng chế như: kê biên tài sản, trừ vào thu nhập hợp pháp của người phải
THA, kê biên phần tài sản của người phải THA trong khối tài sản chung, cưỡng chế
giao đồ vật, cưỡng chế thi hành nghĩa vụ giao vật hoặc trả nhà, chuyển quyền sử
dụng đất, cưỡng chế thi hành nghĩa vụ buộc làm hoặc không được làm một công
việc nhất định...
35
6. Yêu cầu về năng lực áp dụng pháp luật
Chấp hành viên là người tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án
nên đòi hỏi phái có năng lực áp dụng pháp luật. Năng lực này thể hiện từ việc tuân
thủ pháp luật, thi hành pháp luật và đặc biệt là việc sử dụng pháp luật của Chấp hành
viên có ý nghĩa quyết định đối với hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Năng lực áp
dụng pháp luật của Chấp hành viên thể hiện trên các khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, xác định rõ giới hạn về thẩm quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ được pháp
luật giao trong quá trình thi hành án.
Thứ hai, chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục
thi hành án dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Hoạt động THADS góp phần quan trọng trong việc bảo đảm tính nghiêm minh
của PL; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; góp phần giữ vững
ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước và
pháp chế XHCN. Việc cơ quan THADS và CHV thực hiện nghiêm chỉnh PL có ý
nghĩa quyết định đến việc bảo đảm pháp chế XHCN trong lĩnh vực này. Yêu cầu của
pháp chế XHCN đối với CHV đó là phải tự giác tuân thủ thực hiện đầy đủ các nhiệm
vụ, quyền hạn của Chấp hành viên; Tôn trọng quyền thoả thuận của các đương sự về
việc thi hành án nếu thoả thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và không
trái đạo đức xã hội; thực hiện nghiêm các quy định về những trường hợp loại trừ
hoặc được miễn cưỡng chế THADS.
Thứ ba, áp dụng đúng, đầy đủ các quy định của pháp luật trong từng điều kiện
và vụ việc cụ thể:
- Lựa chọn quy phạm pháp luật: Đó là việc mà sau khi đã xác định xong điều
kiện thi hành án của người phải thi hành án, làm xong các thủ tục cần thiết như hòa
giải, định thời gian tự nguyện thi hành án, Chấp hành viên phải nghiên cứu toàn
diện các tình tiết, các yếu tố ảnh hưởng đến việc thi hành án... và lựa chọn trong số
các quy phạm pháp luật quy định các biện pháp thi hành án để xác định biện pháp thi
36
hành án phù hợp và đạt hiệu quả cao, đồng thời phải áp dụng các quy phạm pháp
luật khác một cách đồng bộ, có hiệu quả.
- Lựa chọn biện pháp thi hành án: sau khi đã nắm chắc được thái độ, điều kiện,
đối tượng về tài sản, nghĩa vụ mà người phải thi hành án phải thực hiện, Chấp hành
viên phải nghiên cứu, xem xét để lựa chọn và ra quyết định áp dụng các biện pháp
thi hành, đảm bảo đúng với tính chất, nội dung của vụ việc và không trái với quy
định của pháp luật.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong nội dung Chương 1, tác giả đã trình bày những vấn đề lý luận về
ĐTBD, đội ngũ CHVTHADS, những quy định về ĐTBD cán bộ, công chức, viên
chức nói chung và ĐTBD đội ngũ CHVTHADS.
Nghiên cứu về lý luận ĐTBD, đội ngũ CHVTHADS, Chương 1 đã đưa ra khái
niệm, đặc điểm và vai trò của việc ĐTBD đội ngũ CHVTHADS.
Phân tích về những quy định về ĐTBD cán bộ, công chức, viên chức nói
chung và ĐTBD đội ngũ CHVTHADS nói riêng, tác giả đã lần lượt trình bày nội
dung về chủ thể ĐTBD, đối tượng ĐTBD, cách thức tổ chức tiến hành ĐTBD, nội
dung, hình thức ĐTBD và công tác quản lý ĐTBD đội ngũ CHVTHADS theo quy
định của pháp luật hiện hành.
Luận văn cũng nêu và đánh giá những yếu tố ảnh hưởng đến ĐTBD đội ngũ
CHVTHADS như: yếu tố quản lý của Lãnh đạo, chương trình ĐTBD, chất lượng
của đội ngũ giảng viên, yếu tố người học và cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ
công tác ĐTBD.
Những cơ sở lý luận và pháp lý kể trên là căn cứ quan trọng để các cán bộ,
CHVTHADS có thể thực hiện tốt nhiệm vụ tham gia vào việc ĐTBD của mình,
đồng thời giúp cho các cấp trong Ngành có kế hoạch ĐTBD đội ngũ CHVTHADS
phù hợp với tình hình mới. Đây là cơ sở nền tảng để tác giả có thể triển khai các nội
dung có liên quan tại Chương 2 và Chương 3.
37
Chương 2
THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CHẤP HÀNH
VIÊN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
I. Khái quát đội ngũ Chấp hành viên hành án dân sự
Nhận thức tầm quan trọng của đội ngũ Chấp hành viên trong hoạt động thi hành
án dân sự nên trong những năm qua, các cơ quan chức năng (đặc biệt là Bộ Tư pháp)
đã đưa ra nhiều giải pháp để không ngừng củng cố tăng cường cả về số lượng và
chất lượng đối với đội ngũ cán bộ này.
Tại thời điểm bàn giao công tác thi hành án từ Toà án sang cho các cơ quan
trong quản lý nhà nước giữa Bộ Tư pháp với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Sở Tư
pháp về công tác thi hành án dân sự thuộc Chính phủ quản lý cả nước có 53 phòng
Thi hành án dân sự cấp tỉnh, 547 Đội thi hành án cấp huyện với biên chế 1.126
người, trong đó có 700 Chấp hành viên cấp tỉnh, cấp huyện và 426 cán bộ.
Đến thời điểm năm 2004, năm triển khai thực hiện những quy định mới của
Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 và thực hiện việc bổ nhiệm Chấp hành viên
theo nhiệm kỳ thì cả nước có 2.105 Chấp hành viên, trong đó Chấp hành viên cấp
tỉnh là 324, cấp huyện là 1781. Từ năm 2005, sau khi các văn bản về tổ chức cán bộ
và hướng dẫn việc bổ nhiệm Chấp hành viên được ban hành như Nghị định số
50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 của Chính phủ quy định về cơ quan quản lý thi
hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và cán bộ, công chức làm công tác thi
hành án dân sự; Thông tư số 06/2005/TT-BTP ngày 24/6/2005 của Bộ Tư pháp
hướng dẫn tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức chức danh Chấp hành
viên; …thì việc bổ nhiệm lại, bổ nhiệm mới Chấp hành viên theo nhiệm kỳ đã bắt
đầu được triển khai thực hiện. Đây là đợt tổng rà soát lớn về tất cả các trường hợp đã
được bổ nhiệm Chấp hành viên trước đó đã đến thời hạn 5 năm phải làm thủ tục
trình ra Bộ Tư pháp để bổ nhiệm lại. Qua đợt tổng rà soát đó đã giúp các cơ quan thi
hành án dân sự địa phương cũng như Bộ Tư pháp, Cục Thi hành án dân sự và bản
thân mỗi Chấp hành viên phải tự kiểm điểm, đánh giá lại kết quả thi hành nhiệm vụ
38
của Chấp hành viên thời gian qua và kể cả việc rèn luyện phẩm chất đạo đức Chấp
hành viên. Qua kết quả đánh giá đó mà một số Chấp hành viên đã không được bổ
nhiệm lại với các nguyên nhân khác nhau như vì không hoàn thành nhiệm vụ được
giao, kết quả thi hành về việc và về tiền thấp; vì lý do sức khoẻ; vi phạm kỷ luật,
hoặc không đủ tuổi để tiếp tục tái bổ nhiệm Chấp hành viên thêm một nhiệm kỳ 5
năm …
Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2019, tổng số Chấp hành viên cả nước có 3.223
người, trong đó có 451 Chấp hành viên cấp tỉnh, 40 Chấp hành viên cấp quân khu,
2.732 Chấp hành viên cấp huyện [22]. Số lượng Chấp hành viên chiếm tỷ lệ 36% so
với biên chế hiện có và chiếm 33% so với tổng biên chế phân bổ, trung bình mỗi
tỉnh có 6 Chấp hành viên cấp tỉnh và mỗi huyện có 3 Chấp hành viên cấp huyện,
riêng Thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh có 26 Chấp hành viên cấp thành
phố và 145 Chấp hành viên cấp quận, huyện; Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội
có 33 Chấp hành viên cấp thành phố và 153 Chấp hành viên cấp quận, huyện. Có
một số đơn vị Thi hành án dân sự cấp tỉnh có số lượng Chấp hành viên ít như Thi
hành án dân sự tỉnh Hậu Giang, tỉnh Đắc Nông có 2 Chấp hành viên, Thi hành án
dân sự tỉnh Lai Châu, Sóc Trăng, Điện Biên có 3 Chấp hành viên. So với thời điểm
năm 1993, số Chấp hành viên đến nay đã tăng lên 04 lần.
Về số lượng: Tính đến nay hiện cả nước có 63 cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh và
693 cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện. Do có sự tăng về số lượng các cơ quan
thi hành án, so với năm 1993 tăng lên 132 cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện
cũng như số lượng việc thi hành án tăng lên ngày càng nhiều, tính chất phức tạp hơn
nên số lượng Chấp hành viên cũng tăng lên theo từng năm. Nhìn chung trong những
năm qua, Chính phủ, Bộ Tư pháp đã có nhiều quan tâm đến việc tăng cường bổ sung
biên chế cho các cơ quan THADS. Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra thì đội
ngũ CHV và cán bộ thi hành án vẫn còn thiếu so với khối lượng công việc được
giao. Theo số liệu thống kê án trong ba năm gần nhất tính từ năm 2017 đến nay thì
mỗi năm lượng án lại tăng lên một cách đáng kể. Theo thống kê của Cục Thi hành
39
án dân sự thì năm 2015 thụ lý 561.180 vụ việc; năm 2016 thụ lý 602.059 vụ việc;
năm 2017 thụ lý 648.266 vụ việc... (tăng 0,8% so với năm 2016), năm 2018 thụ lý
661.494 việc (tăng 0,3 % so với cùng kỳ năm 2017). Tổng số tiền phải thu năm 2017
là 21.350 tỷ 827 triệu 968 nghìn đồng, nhưng đến năm 2018, tổng số tiền phải thu là
22.696 tỷ 520 triệu 431 nghìn đồng, chỉ trong 6 tháng đầu năm 2019 thụ lý 472.989
việc, tổng số tiền phải thi hành là 21.162 tỷ 522 triệu 241 nghìn đồng. Con số này
cho thấy khối lượng công việc cũng như số tiền phải thi hành của các cơ quan thi
hành án dân sự trong cả nước ngày càng tăng lên một cách đáng kể. Trong khi đó số
lượng biên chế của các cơ quan thi hành án dân sự lại chưa đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ được giao.
Năm 2019, nhiều cơ quan thi hành án dân sự số vụ việc phải thi hành án dân sự
ngày càng tăng như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Thái Nguyên,
Quảng Ninh, Khánh Hoà, Đăk Lăk, Bình Dương, Đồng Nai, Tiền Giang, Kiên
Giang, Thanh Hóa ...
Trước tình trạng số lượng việc thi hành án có xu hướng ngày càng tăng cùng
với tính chất và mức độ ngày càng phức tạp hơn. Trong khi đó yêu cầu và mục tiêu
của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, của hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải
tích cục và thực hiện có hiệu quả chiến lược của cách tư pháp, cải cách hành chính.
Một trong những nội dung của cải cách tư pháp, cải cách hành chính đó là phải nâng
cao hiệu quả của công tác thi hành án nói chung, của công tác thi hành án dân sự nói
riêng. Nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án dân sự không chỉ đơn thuần là
nâng cao số lượng việc được thi hành mang tính chất số học mà còn đòi hỏi từng vụ
việc phải được thi hành đúng đắn trong từng giai đoạn, từng quy trình, từng hành vi
thi hành của Chấp hành viên đảm bảo thực thi tối đa quyền lợi của các bên trong
quan hệ thi hành án. Do yêu cầu ngày càng cao, khắt khe đó trong từng tác nghiệp
của Chấp hành viên đối với từng vụ việc mà mặc dù số lượng Chấp hành viên có
được tăng cường về cơ bản nhưng vẫn chưa đủ đáp ứng yêu cầu, vẫn có tình trang
quá tải đối với Chấp hành viên.
40
Theo đó, sẽ có ba ngạch chấp hành viên là chấp hành viên sơ cấp, chấp hành
viên trung cấp, chấp hành viên cao cấp thay vì chỉ có hai ngạch chấp hành viên là
chấp hành viên cấp tỉnh, chấp hành viên cấp huyện như quy định của pháp luật hiện
hành, nên sẽ thuận lợi hơn trong công tác điều động, luân chuyển chấp hành viên khi
cần thiết.
II. Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Chấp hành viên thi
hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay
1. Về chủ thể thực hiện đào tạo, bồi dưỡng
Trên cơ sở Quy chế công tác ĐTBD cán bộ, công chức, viên chức ngành THADS
và Kế hoạch ĐTBD cán bộ, công chức, viên chức của BTP xây dựng kế hoạch cử
đội ngũ cán bộ, CHV đi ĐTBD theo các chương trình đào tạo. Trong thời gian vừa
qua đã có hàng trăm lượt cán bộ, công chức được cử đi ĐTBD về quản lý nhà nước,
tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng quản lý. Chủ thể thực hiện đào
tạo được thực hiện, cụ thể:
- Các cơ sở đào tạo của Ngành: Học viện Tư pháp là cơ sở đào tạo chức danh tư
pháp thuộc Bộ Tư pháp, gồm các giảng viên có nhiều kinh nghiệm của Nhà Trường,
các đồng chí là lãnh đạo các Vụ nghiệp vụ của Bộ Tư pháp và các chuyên gia trong
lĩnh vực thi hành án dân sự để mở các lớp đào tạo chuyên sâu, bồi dưỡng về kỹ năng
thi hành án, giải quyết các vụ, việc dân sự.
- Liên kết với các cơ sở đào tạo ngoài Ngành: ĐTBD CHVTHADS có vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, cập nhật
những kiến thức cần thiết để phục vụ yêu cầu công tác ngày càng tốt hơn. Thông qua đó
giúp đội ngũ cán bộ, CHV nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm được giao, đồng thời hoàn thiện các tiêu chuẩn theo ngạch và vị trí chức danh
đang đảm nhiệm. Trong những năm qua BTP đã liên kết với các cơ sở ĐTBD của các
Ngành như: liên kết với Học viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh, Đại học Luật Hà
Nội, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Mở Hà Nội, Học viện khoa học xã hội để đào
tạo thạc sỹ; với Học viện Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Hành chính Nhà nước... để
41
bồi dưỡng trình độ lý luận chính trị, quản lý nhà nước, kiến thức quốc phòng, an ninh..
Đối tượng cử CHV đi đào tạo
Theo quy định hiện hành, các CHV sẽ được cử đi đào tạo sau đại học, song đối tượng
của hoạt động đào tạo sau đại học là các CHV phải đảm bảo các tiêu chí sau:
- Có thời gian công tác từ đủ 03 năm trở lên (không kể thời gian tập sự);
- Có cam kết thực hiện nhiệm vụ, công vụ tại cơ quan, đơn vị sau khi hoàn thành
chương trình đào tạo trong thời gian ít nhất gấp 03 lần thời gian đào tạo;
- Chuyên ngành đào tạo phù hợp với vị trí việc làm.
2. Về nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng
Một là, về nội dung đào tạo nghề Chấp hành viên
Vấn đề đào tạo nghề đối với Chấp hành viên giữ vai trò quan trọng trong việc
từng bước nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ Chấp hành viên.
Tuy nhiên, đến năm 2011- 2012 thì công tác đào tạo nghề Chấp hành viên mới
thực sự được quan tâm, kể cả về cơ sở đào tạo đến vấn đề tuyển chọn người tham gia
các khoá học đào tạo chấp hành viên với khoảng 1.800 học viên. Qua khảo sát từ
người học và các giảng viên tham gia giảng dạy, cơ quan quản lý và các đơn vị chức
năng thuộc Bộ Tư pháp, từ phía cơ quan sử dụng người lao động là cơ quan thi hành
án cho thấy chương trình đào tạo Chấp hành viên được chỉnh sửa, bổ sung, cập nhật
hàng năm nên từng bước đã đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của tình hình mới, có
thể kể đến một số vấn đề sau:
Về chương trình đào tạo Chấp hành viên
Trước hết, về cấu trúc chương trình đào tạo: Qua nghiên cứu cho thấy, trong
những khóa học đầu, chương trình đào tạo chấp hành viên được thiết kế với cấu trúc
tương tự như cấu trúc chương trình của các chức danh tư pháp khác như thẩm phán,
kiểm sát viên. Cụ thể, trong các khóa học I và II, các học viên đã được trang bị các
kiến thức chung về thi hành án dân sự; các kiến thức pháp luật chuyên sâu liên quan
đến hoạt động thi hành án dân sự; các kiến thức về kỹ năng thi hành án (kỹ năng
chung và kỹ năng thi hành án một số loại án cụ thể). Mỗi kỹ năng học viên được học
42
từ 6 đến 12 tiết lý thuyết, sau đó áp dụng vào giải quyết các tình huống cụ thể là các
hồ sơ thực tế được Học viện khai thác, sưu tầm từ các Phòng và đội thi hành án. Bên
cạnh đó, chương trình còn được thiết kế những kiến thức bổ trợ cho hoạt động thi
hành án và các buổi tọa đàm giữa các giảng viên là những người có kinh nghiệm
trong hoạt động nghề nghiệp với học viên. Với thời lượng 9 tháng đào tạo, trong đó
có 7 tháng thực học và 2 tháng đi thực tập, chương trình đào tạo nghiệp vụ thi hành
án khóa I và khóa II được thiết kế như sau:
Phần 1: Những vấn đề chung về thi hành án dân sự và chấp hành viên (chiếm
11% chương trình);
Phần II: Các vấn đề pháp luật chuyên sâu liên quan đến thi hành án dân sự
(chiếm 12% chương trình);
Phần III: Kỹ năng (chiếm 52% chương trình), trong đó:
+ Kỹ năng chung (chiếm 33% chương trình),
+ Kỹ năng thi hành một số loại án cụ thể (chiếm 19% Chương trình); Phần IV:
Chuyên đề mở rộng (chiếm 5% chương trình);
Phần V: Kiến thức bổ trợ (chiếm 13% chương trình): có bao gồm cả phần đào
tạo kiến thức tin học văn phòng.
Tuy nhiên, do cấu trúc của chương trình đào tạo của khóa I và II nhiều chuyên
đề bị trùng lặp và không cần thiết; quá trình thực tập không thu được kết quả như
mong muốn; thời gian đào tạo quá dài… nên đến Chương trình khóa III được thiết
kế thành hai phần cụ thể như sau:
Phần I: Phần chung: 180 tiết (chiếm 25% chương trình), gồm có:
+ Phần thi hành án dân sự và chấp hành viên: 114 tiết (chiếm 16%): tại phần
này, hầu như phần I của chương trình đào tạo khóa II được kế thừa, có bổ sung thêm
phần quá trình xây dựng pháp lệnh THADS năm 2004 và những điểm mới trong
Pháp lệnh do Pháp lệnh này vừa mới được ra đời thay thế cho Pháp lệnh cũ; và
chuyển một số chuyên đề thuộc phần chuyên đề mở rộng và kiến thức bổ trợ vào
phần này;
43
+ Phần các vấn đề pháp luật chuyên sâu liên quan đến thi hành án dân sự: 66
tiết (chiếm 9%): về cơ bản phần này cũng giữ nguyên các chuyên đề có trong phần II
của Chương trình khóa II, có bỏ đi một số chuyên đề để tránh sự trùng lặp;
Phần II: Kỹ năng: 450 tiết (chiếm 61% chương trình): được chia làm hai phần
nhỏ là:
+ Phần kỹ năng chung: 246 tiết (34%): được thiết kế lại theo trình tự tiến hành
công việc thi hành án trên thực tế.
+ Phần kỹ năng cưỡng chế thi hành án: được thiết kế lại theo quy định của Pháp
lệnh thi hành án dân sự năm 2004.
Thi và kiến tập: 96 tiết (13%)
Chương trình đào tạo nghiệp vụ thi hành án khóa III được các học viên đánh
giá cao. Trong phiếu thăm dò ý kiến của học viên vào cuối khóa học về tổng thể
khóa đào tạo, nhiều ý kiến học viên đánh giá cao về tính phù hợp và khoa học của
chương trình đào tạo được thiết kế. Phần lớn các ý kiến đều cho rằng các chuyên đề
trong chương trình về cơ bản là phù hợp. Tuy nhiên, để phù hợp với chương trình cải
cách tư pháp nên cấu trúc Chương trình đào tạo chấp hành viên hiện nay đã có điều
chỉnh lại cho phù hợp.
Phần I: Phần chung: 114 tiết (chiếm 17,4% chương trình), gồm có:
+ Phần cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên: 60 tiết
+ Phần các chuyên đề pháp luật liên quan đến thi hành án dân sự: 54 tiết. Phần
II: Kỹ năng: 414 tiết (63,3% chương trình), được chia làm hai phần là:
+ Phần kỹ năng chung: được thiết kế theo trình tự tiến hành công việc thi hành
án trên thực tế.
+ Phần kỹ năng cưỡng chế thi hành án: xây dựng trên cơ sở các biện pháp
cưỡng chế được quy định trong Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 và các việc
thi hành án trong các loại vụ án đặc thù (tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hành chính,
lao động, kinh tế, hôn nhân và gia đình, thừa kế…)
Thi, viết tiểu luận, báo cáo hồ sơ, kiến tập: 126 tiết (19,2% chương trình).
44
- Chương trình đào tạo chấp hành viên khóa VI:
Đối với chương trình đào tạo nghiệp vụ thi hành án khóa VI, phần các vấn đề
pháp luật liên quan đến thi hành án dân sự đã bị loại bỏ, số tiết này được bổ sung
cho phần kỹ năng. Cụ thể chương trình đào tạo nghiệp vụ thi hành án được thiết kế
như sau:
Phần I: Phần chung (cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên): 66 tiết
(10% chương trình)
Phần II: Phần kỹ năng: 486 tiết (74,3% chương trình)
+ Phần kỹ năng chung: được thiết kế theo trình tự tiến hành công việc thi hành
án trên thực tế.
+ Phần kỹ năng cưỡng chế thi hành án: xây dựng trên cơ sở các biện pháp
cưỡng chế được quy định trong Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 và các việc
thi hành án trong các loại vụ án đặc thù (tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hành chính,
lao động, kinh tế, hôn nhân và gia đình, thừa kế…)
Thi, viết tiểu luận, báo cáo hồ sơ, kiến tập: 102 tiết (15,5% chương trình)
Rõ ràng, chương trình đào tạo chấp hành viên thường xuyên được cải tiến trên
cơ sở góp ý của người học và các giảng viên tham gia giảng dạy đồng thời là những
người thực tế hành nghề chấp hành viên. Cấu trúc chương trình là tương đối phù hợp
với mục tiêu đào tạo nghề, đó là tập trung chủ yếu rèn luyện kỹ năng cho học viên.
Về phương pháp đào tạo Chấp hành viên
Phương pháp đào tạo có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm và nâng cao chất
lượng đào tạo. Để chương trình đào tạo được triển khai trên thực tế một cách hiệu
quả, lựa chọn phương pháp đào tạo phù hợp là hết sức cần thiết và quan trọng.
Phương pháp đào tạo có nội hàm rộng hơn phương pháp giảng dạy. Nếu phương
pháp giảng dạy chỉ đơn thuần là các cách thức, phương pháp truyền đạt kiến thức
cho học viên, thì phương pháp đào tạo là tổng hợp những cách thức, phương thức,
biện pháp nhằm truyền đạt kiến thức và rèn luyện kỹ năng, tạo cho học viên những
môi trường và điều kiện để hình thành ý tưởng, xây dựng quan điểm và rèn luyện kỹ
45
năng nghề nghiệp. Có quan điểm còn cho rằng, phương pháp đào tạo chính là việc tổ
chức hoạt động học tập của học viên nhằm đạt được các mục tiêu đào tạo. Đồng ý
với quan điểm này, trình bày của tác giả hướng tới phân tích, đánh giá thực trạng áp
dụng các phương pháp đào tạo đối với chức danh Chấp hành viên, đồng thời đưa ra
hướng hoàn thiện, cải cách toàn diện các thành tố của phương pháp đào tạo từ
phương pháp giảng, phương pháp quản lý đến phương pháp đánh giá chất lượng
đào tạo đối với chức danh này:
Thứ nhất, phương pháp thuyết trình: Qua nghiên cứu cho thấy, trong chương
trình đào tạo Chấp hành viên, phương pháp này chủ yếu được các giảng viên sử
dụng để giảng dạy các bài trong phần chuyên đề chung và phần lý thuyết kỹ năng.
Với việc áp dụng phương pháp này, trong quá trình giảng dạy các giảng viên Chấp
hành viên đã truyền đạt được những kiến thức mang tính hệ thống cho học viên. Tuy
nhiên, việc chỉ ngồi nghe giảng đã dẫn tới tình trạng học viên tiếp nhận kiến thức
một cách thụ động, làm hạn chế khả năng tích cực, chủ động trong buổi học của học
viên. Để khắc phục những hạn chế của phương pháp này, trong quá trình giảng dạy
các chuyên đề này, các giảng viên không thuần tuý áp dụng theo truyền thống mà có
sự kết hợp với các biện pháp khác. Trên cơ sở phương pháp thuyết trình, giảng viên
nêu các tình huống thực tiễn để cho học viên phân tích, đánh giá, bình luận và áp
dụng các kiến thức lý thuyết vừa được giảng viên trang bị để giải quyết các vấn đề
mà tình huống đặt ra. Sau đó giảng viên kết luận tình huống để củng cố kiến thức lý
thuyết cho học viên.
Mặc dù đã có những đổi mới và hạn chế nhược điểm của phương pháp thuyết
trình nhưng việc áp dụng phương pháp này trong đào tạo Chấp hành viên cũng vẫn
còn những hạn chế nhất định. Đó là việc vẫn còn tình trạng giảng viên khi giảng dạy
theo phương pháp này độc thoại quá nhiều, dẫn đến tình trạng giảng viên không nắm
được những phản hồi từ phía học viên, không phát hiện được những lỗ hổng trong
kiến thức của học viên để có giải pháp kịp thời. Từ đó dẫn đến tình trạng học viên
thiếu sự chủ động, sáng tạo trong quá trình học.
46
Để phương pháp này được sử dụng một cách có hiệu quả, các giảng viên trong
quá trình giảng dạy cần chuẩn bị nhiều tình huống, ví dụ thực tiễn để học viên có thể
thảo luận, tránh tình trạng giáo viên độc thoại trên lớp. Hơn nữa, việc lựa chọn giảng
viên để giảng dạy những chuyên đề này cũng hết sức quan trọng. Đây là những
chuyên đề mang tính chất lý thuyết và là nền tảng cho quá trình giảng dạy phần kỹ
năng sau này, chính vì vậy, cần lựa chọn những giảng viên có nhiều kinh nghiệm
trong quá trình giảng dạy, đồng thời phải có kiến thức pháp luật uyên thâm. Hơn
nữa, để phương pháp này phát huy hiệu quả thì cần phải kết hợp với việc sử dụng
các phương pháp giảng dạy khác như thảo luận, giải quyết tình huống...
Thứ hai, phương pháp song giảng: Đây là phương pháp không chỉ được sử
dụng trong đào tạo Chấp hành viên mà còn được sử dụng rộng rãi trong đào tạo các
chức danh tư pháp khác. Phương pháp này là sự kết hợp giữa giảng viên đang trực
tiếp hành nghề trong thực tế với giáo viên lý thuyết là cán bộ giảng dạy, nghiên cứu
của các cơ sở đào tạo, viện nghiên cứu và các cơ quan quản lý nhà nước. Trong
chương trình đào tạo Chấp hành viên, phương pháp song giảng được áp dụng để
giảng các bài lý thuyết kỹ năng và bài tình huống. Việc áp dụng phương pháp này
trong các khóa đào tạo Chấp hành viên đã mang lại những hiệu quả đáng kể. Sau
khóa học, học viên không những được trang bị kỹ năng nghề nghiệp mà còn được
trang bị cả kiến thức lý luận cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của mình. Đồng
thời, phương pháp song giảng cũng giúp các giảng viên trong quá trình giảng dạy
học tập được kinh nghiệm và bổ sung kiến thức cho nhau.
Tuy nhiên, việc áp dụng phương pháp song giảng trong đào tạo Chấp hành viên
trong thời gian qua cũng thể hiện một số hạn chế nhất định. Đó là việc chưa có sự
kết hợp nhuần nhuyễn giữa các giảng viên trong quá trình giảng dạy, vẫn còn có tình
trạng bất đồng quan điểm của các giảng viên khi lên lớp. Điều này xuất phát từ nhiều
nguyên nhân khác nhau. Trước hết đó là do giảng viên lý thuyết và giảng viên thực
hành thường không có thời gian để trao đổi trước với nhau về nội dung bài giảng
cũng như thống nhất về chuyên môn, về cách thức tiến hành bài giảng. Chính vì vậy,
47
mà việc áp dụng phương pháp song giảng thời gian qua chưa thực sự mang lại hiệu
quả như mong muốn.
Xuất phát từ những lý do trên, để phương pháp song giảng phát huy hiệu quả
thì các giảng viên cần dành thời gian trao đổi trước với nhau về một số vấn đề của
bài giảng như nội dung bài giảng, cách thức tiến hành bài giảng, phân công người
dẫn dắt, cách thức giải quyết những bất đồng… Thông thường, các giảng viên được
mời để song giảng là một giảng viên lý thuyết của Học viện Tư pháp, Đại học Luật,
Cục Thi hành án dân sự và một giảng viên thực tế là Chấp hành viên đang công tác
tại các cơ quan thi hành án. Vì vậy, việc các giảng viên gặp nhau để trực tiếp trao
đổi về bài giảng là hết sức khó khăn, do đó, các giảng viên nên dành thời gian trao
đổi với nhau qua điện thoại, Email…
Thứ ba, phương pháp giảng thông qua tình huống: Như đã phân tích ở trên, đối
tượng đào tạo Chấp hành viên chủ yếu là những người mới chỉ được đào tạo qua
chương trình đại học luật. Về cơ bản, họ mới chỉ được đào tạo các kiến thức lý
thuyết, thậm chí kiến thức về thi hành án dân sự là rất ít. Mặc dù đã được làm việc
trong cơ quan thi hành án nhưng họ mới chỉ là những cán bộ giúp việc, có những
trường hợp làm các công việc khác không liên quan đến nghiệp vụ thi hành án như
kế toán, thủ kho... Và nếu có được làm cán bộ giúp việc cho Chấp hành viên thì họ
cũng mới chỉ dựa vào những kinh nghiệm của bản thân trong quá trình làm việc để
giải quyết. Vì vậy, khi đứng trước những công việc cần tới những kiến thức cơ bản
về luật thì họ lại lúng túng, đôi khi dù đã giải quyết xong công việc họ cũng không
khẳng định được cách giải quyết của mình đúng hay sai... Hơn nữa, có thể nói, họ
mới chỉ là những người giúp việc cho Chấp hành viên nên những công việc họ thực
hiện chỉ là những công việc của cán bộ như tống đạt thông báo, viết biên bản...;
không phải là những kỹ năng nghề nghiệp cơ bản của Chấp hành viên. Do đó, có thể
khẳng định cái thiếu cơ bản nhất của đối tượng đào tạo Chấp hành viên chính là
những kiến thức về thực tiễn, kinh nghiệm trong việc giải quyết các tình huống xảy
ra trong thực tế khi thực hiện các công việc chuyên môn của mình. Vì vậy, việc áp
48
dụng phương pháp giảng thông qua tình huống phải là phương pháp đào tạo chiếm
ưu thế hơn so với các phương pháp khác.
Cụ thể, các hồ sơ tình huống trong đào tạo Chấp hành viên phải được biên tập
theo từng kỹ năng trong quy trình thi hành án khép kín như kỹ năng nhận và phân
tích bản án, quyết định của Tòa án; kỹ năng ra quyết định thi hành án; kỹ năng thông
báo thi hành án; kỹ năng thuyết phục đương sự tự nguyện thi hành án; kỹ năng tổ
chức cưỡng chế thi hành án; kỹ năng kết thúc việc thi hành án. Bên cạnh đó, cũng
cần phải sưu tầm những hồ sơ tình huống tương ứng với những kỹ năng khác như:
hoãn thi hành án, tạm đình chỉ thi hành án, đình chỉ thi hành án... Và cuối cùng, cần
sưu tầm những hồ sơ tình huống để học viên nghiên cứu những kỹ năng cưỡng chế
thi hành án như cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền bằng việc kê biên, khấu trừ tài
khoản, trừ vào thu nhập của người phải thi hành án... và kỹ năng thi hành những vụ
án cụ thể như kỹ năng thi hành án kinh doanh, thương mại; kỹ năng thi hành phần tài
sản trong bản án hành chính; kỹ năng thi hành phần dân sự trong bản án hình sự; kỹ
năng thi hành án hôn nhân gia đình...
Bước tiếp theo trong việc áp dụng phương pháp giảng thông qua tình huống đó
là triển khai hồ sơ tình huống tại buổi học. Học viên được phát trước hồ sơ thực tế
trong một thời gian hợp lý trước mỗi buổi học tình huống và học viên phải nghiên
cứu trước hồ sơ, đồng thời phải viết thu hoạch. Tại buổi học, các học viên trao đổi,
thảo luận với nhau, trao đổi, thảo luận với giảng viên và việc trao đổi diễn ra liên tục
cho đến khi thống nhất được việc giải quyết tình huống đặt ra. Thông qua việc giải
quyết các vấn đề mà tình huống đặt ra, giảng viên khái quát hoá thành các kinh
nghiệm nghề nghiệp, làm cơ sở cho các thao tác nghề nghiệp chuẩn sau này của học
viên. Đồng thời với việc giải quyết các tình huống phát sinh trong hồ sơ, giảng viên
có thể khai thác thêm một số tình huống thường xảy ra trong thực tế mà liên quan
đến bài học để học viên giải quyết. Bên cạnh việc thảo luận giải quyết những tình
huống trong hồ sơ, với những bài tình huống, một số giảng viên đã áp dụng cách
thức cho học viên được thực hành nghề nghiệp ngay tại buổi học bằng việc đóng vai
49
Chấp hành viên, cán bộ thi hành án để trực tiếp giải quyết những công việc đó. Hơn
nữa, trong buổi học tình huống, học viên còn được rèn luyện cả kỹ năng soạn thảo
các văn bản giải quyết thi hành án trong từng trường hợp cụ thể.
Đào tạo nghề nghiệp Chấp hành viên là việc trang bị cho học viên những kỹ
năng thực hành pháp luật mà trong thực tế hành nghề họ phải áp dụng. Nếu người ta
không biết cách thực hiện một việc gì như thế nào, thì họ không thể thực hiện được
công việc đó. Nếu không có kỹ năng làm việc thì không thể thực hiện được công
việc. Những kỹ năng không đơn thuần phát triển từ sự lắng nghe người khác giảng
giải cách thực hiện công việc như thế nào. Kỹ năng được phát triển và củng cố thông
qua thực hành, thông qua sự bắt tay thực sự vào công việc. Kỹ năng được phát triển
chủ yếu thông qua thực hành và thông qua sự tiếp nhận thông tin kịp thời về chất
lượng công việc thực hành. Chính vì vậy, để phương pháp giảng thông qua tình
huống thực sự hiệu quả thì với các bài học tình huống giảng viên cần đi sâu vào việc
hướng dẫn kỹ năng thực hành nghề nghiệp cho học viên. Hay nói cách khác, giảng
viên nên áp dụng phương pháp thực hành hồ sơ tình huống để giảng đối với những
hồ sơ tình huống.
Hơn nữa, bản chất của việc thực hành hồ sơ tình huống chính là thực tập tại
chỗ. Thực hành hồ sơ tình huống chính là việc học viên được trực tiếp đóng vai
Chấp hành viên, cán bộ thi hành án trong chính hồ sơ tình huống đó để giải quyết
công việc. Do vậy, nếu áp dụng phương pháp này trong buổi học tình huống một
mặt sẽ giúp học viên được thực hành nghề nghiệp ngay tại lớp học, mặt khác khắc
phục được những khó khăn phát sinh trong quá trình học viên Chấp hành viên đi
thực tế trước đây.
Ngoài ra, việc áp dụng phương pháp thực hành hồ sơ tình huống đặt người học
vào vai trò chủ động tiến hành giờ học. Điều này không những tạo hứng thú cho
người học, mà còn nâng cao việc ứng dụng của phương pháp học theo nhóm của các
học viên. Hơn nữa, việc các học viên là người chủ động trong giờ học sẽ giúp các
học viên rèn luyện tính chủ động, sáng tạo và độc lập trong công việc.
50
Mặt khác, việc học viên được thực hành hồ sơ tình huống sẽ tạo điều kiện cho
học viên tiếp cận nhanh với công việc phải giải quyết sau này.
Thông qua thực hành hồ sơ tình huống học viên được tự mình thực hiện các
công việc, tự mình giải quyết tình huống một cách độc lập, đây là bước quan trọng
giúp học viên tự tạo cho mình khả năng độc lập, sáng tạo, khẳng định và rèn luyện
bản lĩnh nghề nghiệp trong quá trình thực thi nhiệm vụ sau này.
* Về cách thức biên tập hồ sơ tình huống:
Trong chương trình đào tạo Chấp hành viên, sau những buổi học kỹ năng là
một hoặc một số buổi học tình huống. Trong các buổi học tình huống này, giảng
viên và học viên sẽ cùng tìm hiểu các hồ sơ tình huống có thật trên thực tế. Tuy
nhiên, qua nghiên cứu cho thấy, trong nhiều khoá đào tạo Chấp hành viên, đa phần
các hồ sơ chỉ được rút bỏ rất ít bút lục, đối với mọi tình huống đều có gần như đầy
đủ một hồ sơ thực tế. Điều này đã làm cho các giảng viên và học viên khi tiến hành
giờ tình huống đều phụ thuộc vào hồ sơ tình huống, nhiều giáo viên dành quá nhiều
thời gian để nhận xét hồ sơ tình huống, thậm chí, có những giáo viên còn phê phán
cả chấp hành viên đã thực hiện việc thi hành án trong hồ sơ. Kết quả là, sau khi
nghiên cứu hồ sơ tình huống, cái mà học viên nhận được chưa phải là kỹ năng để
thực hiện công việc thi hành án thực tế.
Đối với đào tạo Chấp hành viên thi hành án dân sự, để phục vụ cho việc triển
khai phương pháp thực hành tình huống, hồ sơ tình huống đã có điều chỉnh, biên tập
theo hướng chỉ giữ lại những bút lục đủ để học viên và giảng viên giải quyết được
kỹ năng yêu cầu, hay nói cách khác những bút lục nào thể hiện công việc của chấp
hành viên trong giai đoạn đó sẽ bị rút ra để giảng viên và học viên phải thực hiện
công việc của chấp hành viên thực thụ để ra được văn bản trong giai đoạn đó. Ví dụ,
đối với tình huống Ra quyết định thi hành án, hồ sơ tình huống cung cấp cho học
viên chỉ là bản án và đơn yêu cầu thi hành án. Tóm lại, học viên và giảng viên sẽ
phải làm những chấp hành viên để thực hiện công việc chứ không đơn thuần chỉ
nhận xét về việc làm của các chấp hành viên phụ trách hồ sơ.
51
Mỗi hồ sơ tình huống sẽ được kèm theo yêu cầu của hồ sơ tình huống. Với mỗi
tình huống khác nhau sẽ có những yêu cầu khác nhau. Đây là những nội dung mà
giảng viên và học viên sẽ phải tuân thủ để giải quyết trong quá trình học ở nhà và
học trên lớp.
* Tổ chức buổi thực hành tình huống trên lớp:
- Phương pháp tiến hành: Với ý tưởng là để học viên phải được thực hành công
việc của một chấp hành viên thực thụ nên phương pháp tiến hành các buổi thực hành
tình huống được xây dựng theo hướng học viên sẽ là người nói, nghe, làm và nhận
xét. Giảng viên chỉ là người hướng dẫn, điều hành để buổi thực hành tình huống đi
đúng quỹ đạo nên thay vì giảng viên là người nói chủ yếu, thì theo phương pháp này,
giảng viên nói rất ít, công việc chủ yếu của giảng viên là nghe và kết luận.
- Cơ cấu tổ chức buổi thực hành tình huống: Thực tế, mỗi lớp Chấp hành viên
có số lượng học viên tương đối đông, khoảng 60-70 học viên/1 lớp. Căn cứ vào số
lượng các buổi thực hành tình huống, việc tổ chức buổi học tình huống được thực
hiện theo các nhóm, mỗi nhóm có khoảng 8-9 học viên. Các nhóm này sẽ được phân
công cố định trong toàn khóa học. Điều này để tạo ra sự ổn định của nhóm học nói
riêng và lớp học nói chung. Việc phân nhóm cố định cũng tạo điều kiện cho các học
viên trong nhóm hiểu về cách làm việc của nhau và cùng nhau tạo nên buổi làm việc
nhóm hiệu quả. Nhiệm vụ của các nhóm là phải chuẩn bị toàn bộ các yêu cầu của
tình huống đã được cung cấp ở nhà, đối với tình huống không đóng vai thì phải làm
việc theo nhóm và chuẩn bị báo cáo để một học viên thay mặt nhóm báo cáo kết quả
nghiên cứu hồ sơ trên lớp, đối với tình huống đóng vai thì mỗi nhóm phải tự tập
đóng vai theo yêu cầu của tình huống. Mỗi tình huống sẽ có rất nhiều yêu cầu khác
nhau, tuy nhiên, nhiệm vụ của các nhóm là chuẩn bị toàn bộ các yêu cầu đó, chứ
không chỉ là chuẩn bị một hoặc một số các yêu cầu.
- Quy trình thực hiện bài thực hành tình huống: Trong cơ cấu chương trình đào
tạo Chấp hành viên, trên cơ sở các kỹ năng mà Chấp hành viên phải thực hiện có thể
chia thành hai loại thực hành tình huống khác nhau, một loại thực hành tình huống
52
đóng vai và một loại thực hành tình huống không đóng vai. Đối với mỗi loại thực
hành tình huống này thì quy trình thực hiện có những điểm khác nhau, cụ thể:
+ Đối với buổi thực hành tình huống không đóng vai:
Với những buổi thực hành tình huống này, không đòi hỏi học viên phải đóng
vai mà giảng viên chỉ yêu cầu học viên báo cáo về kết quả nghiên cứu đã thực hiện ở
nhà. Bắt đầu buổi học, giảng viên yêu cầu một nhóm học viên báo cáo kết quả
nghiên cứu ở nhà và nội dung soạn thảo các quyết định, công văn (nếu có). Đồng
thời, yêu cầu các học viên ở các nhóm khác theo dõi, nhận xét. Sau đó, giảng viên có
thể cho các nhóm khác lên báo cáo kết quả và yêu cầu các học viên khác nhận xét.
Cuối cùng, giảng viên phải kết luận vấn đề, khái quát và đưa ra những kinh nghiệm
nghề nghiệp đối với tình huống đó, đồng thời đưa ra những lưu ý và chỉ ra những sai
sót để học viên rút kinh nghiệm.
Sau khi đã giải quyết xong tình huống, giảng viên triển khai cho các học viên
thảo luận các tình huống có liên quan hoặc mở rộng thành những tình huống khác
nhau để học viên giải quyết và giảng viên kết luận vấn đề.
* Đối với buổi thực hành tình huống đóng vai: Bắt đầu buổi học, giảng viên yêu
cầu một nhóm học viên lên đóng các vai theo yêu cầu của hồ sơ tình huống. Tùy
thuộc vào từng buổi học tình huống khác nhau mà nhóm đó phải đóng những vai
khác nhau. Sau đó, giảng viên chủ động phân công các vai diễn cho học viên. Sau
khi nhóm được chỉ định hoàn thành việc đóng vai, giảng viên yêu cầu các học viên
khác nhận xét. Tiếp theo, giảng viên có thể chỉ định các nhóm khác thực hành đóng
vai và cuối cùng giảng viên phải đưa ra những kết luận hoặc những kinh nghiệm
nghề nghiệp cho học viên. Sau khi đã hoàn thành việc đóng vai theo yêu cầu của hồ
sơ tình huống, thời gian còn lại của buổi học giảng viên cho các học viên thảo luận
các vấn đề xung quanh tình huống hoặc giải đáp các thắc mắc của học viên.
Từ thực tế nêu trên, qua nghiên cứu cho thấy việc áp dụng phương pháp thực
hành tình huống trong đào tạo Chấp hành viên khóa VI đã mang lại những hiệu quả
nhất định, nhất là tăng cường vai trò chủ động trong học tập của học viên. Điều này
53
thể hiện ở chỗ, trước các buổi thực hành tình huống mỗi nhóm học viên phải tự
nghiên cứu ở nhà, tự tập đóng vai trước theo yêu cầu hồ sơ tình huống... đồng thời
trên lớp các học viên chủ động vào vai để thực hiện công việc của Chấp hành viên,
tự giải quyết các tình huống phát sinh tạo cho học viên quen dần với công việc sau
này cũng như cách thức tổ chức công việc. Hơn nữa, phương pháp này đã tăng
cường và khuyến khích khả năng làm việc theo nhóm, tạo hứng thú trong học tập
của các học viên. Bên cạnh đó, phương pháp thực hành tình huống còn tăng cường
vai trò và trách nhiệm của các giảng viên trong giờ học. Đối với buổi học tình
huống này, giảng viên phải quan sát hết sức tỉ mỉ việc làm của học viên để trên cơ sở
đó đưa ra những nhận xét, kết luận xác đáng, chỉ ra những sai sót cũng như những
kinh nghiệm nghề nghiệp cho học viên áp dụng vào thực tế sau này.
Tuy nhiên, phương pháp thực hành tình huống là một phương pháp đòi hỏi phải
dành nhiều thời gian, công sức. Giảng viên cũng như học viên cần phải có sự chuẩn
bị tốt thì mới có thể đạt được kết quả cao. Mặt khác, phương pháp này không những
đòi hỏi sự cố gắng của mỗi một cá nhân mà còn đòi hỏi yếu tố tập thể để tạo hào
hứng trong học tập, đồng thời đòi hỏi sự chuẩn bị nội dung của từng hồ sơ phải hết
sức công phu thì mới có thể thành công. Chính vì vậy, bên cạnh những kết quả đạt
được thì việc áp dụng phương pháp thực hành tình huống đã thể hiện một số bất cập.
Cụ thể đó là:
Một là, việc đưa ra phương pháp thực hành tình huống là giúp cho các học viên
được tự mình đóng vai Chấp hành viên để giải quyết các công việc liên quan đến kỹ
năng nghề nghiệp sau này. Chính vì vậy, nếu trong khóa học các học viên được đóng
vai Chấp hành viên để thực hành tất cả các kỹ năng thì sẽ rất tốt. Tuy nhiên, với số
lượng học viên trên một lớp quá đông từ 60 - 70 học viên dẫn đến tình trạng mỗi học
viên chỉ được đóng vai Chấp hành viên từ một đến hai lần. Hơn nữa, một số giảng
viên không phân vai cho học viên mà để cho học viên tự phân vai nên có những học
viên cả khóa học không được đóng vai Chấp hành viên lần nào. Điều này phần nào
đã làm giảm hiệu quả của phương pháp thực hành tình huống.
54
Hai là, trong khóa đào tạo Chấp hành viên vừa qua, thông thường các giảng
viên gọi một nhóm lên đóng vai và các thành viên của nhóm đó đóng tất cả các vai
theo yêu cầu của hồ sơ. Điều này đã tạo nên sự nhàm chán, kém hứng thú cho các
học viên.
Ba là, trong các buổi thực hành tình huống có một số giảng viên gọi nhóm thứ
nhất lên thực hành, sau đó cho nhóm thứ hai thực hành đúng tình huống đó mà
không có sự mở rộng tình huống điều này cũng là nguyên nhân dẫn đến sự nhàm
chán cho các học viên trong buổi học.
Bốn là, theo kịch bản, đối với mỗi buổi thực hành tình huống sau khi tiến hành
cho các học viên đóng vai thì giảng viên cần dành một khoảng thời gian nhất định để
giải đáp các thắc mắc và mở rộng các tình huống phát sinh xung quanh buổi học để
các học viên trao đổi, thảo luận. Mục đích của việc trao đổi tình huống là để rèn
luyện kỹ năng xử lý tình huống, khả năng chủ động, sáng tạo của học viên. Tuy
nhiên, việc giải quyết tình huống phát sinh trên lớp chưa thực sự tốt và đạt hiệu quả
như mong muốn.
Thứ tư, phương pháp kiến tập tại cơ quan thi hành án: Đây là phương pháp đào
tạo giúp học viên làm quen với các vụ việc trong thực tế, để từ đó có cách nhìn vụ
việc từ nhiều góc độ khác nhau. Qua buổi kiến tập học viên sẽ có điều kiện học tập ở
Chấp hành viên trong cách xử sự và cách giải quyết đối với tình huống cụ thể. Trong
chương trình đào tạo Chấp hành viên dành 01 buổi để các học viên được đi kiến tập
tại các cơ quan thi hành án. Với buổi kiến tập này, các học viên được chứng kiến
Chấp hành viên tiến hành những việc thi hành án cụ thể như: xác minh, làm việc với
đương sự, tổ chức cưỡng chế thi hành án… Thông thường, việc kiến tập của học
viên được chia theo nhóm từ 10 - 15 người. Trước khi đi kiến tập, giảng viên hướng
dẫn buổi kiến tập sẽ liên hệ với Chấp hành viên của cơ quan thi hành án, chấp hành
viên phụ trách vụ việc có thể lên lớp hoặc giáo viên hướng dẫn buổi kiến tập nắm
bắt nội dung vụ việc thi hành án để giới thiệu với học viên. Sau buổi kiến tập, các
học viên sẽ phải viết báo cáo thu hoạch nhận xét về việc thi hành án của Chấp hành
55
viên mà học viên đã được chứng kiến và đưa ra những kinh nghiệm của bản thân sau
buổi thực tế.
Phương pháp này đã mang lại hiệu quả nhất định góp phần nâng cao chất lượng
đào tạo Chấp hành viên trong thời gian qua. Tuy nhiên, để việc áp dụng phương
pháp này trong thời gian tới đạt kết quả cao hơn thì ngoài việc bố trí cho học viên
một buổi thực tế tại cơ quan thi hành án, cần bố trí thời gian để các học viên được
trực tiếp xem việc giải quyết thi hành án thông qua băng, đĩa… Sau khi xem, các học
viên có thể thảo luận, đưa ra những nhận xét đối với việc làm của Chấp hành viên,
đồng thời giảng viên sẽ tổng kết lại và đưa ra cách làm đúng với việc thi hành án đó.
Phương pháp đánh giá kết quả đào tạo
Phương pháp đánh giá kết quả đào tạo Chấp hành viên cũng không kém phần
quan trọng trong việc góp phần nâng cao chất lượng đào tạo Chấp hành viên nói
riêng và các chức danh tư pháp nói chung. Tuy nhiên, muốn làm sáng tỏ vấn đề này
thiết nghĩ cần phải đề cập qua đến vấn đề nội dung và phương pháp giảng dạy đối
với chức danh Chấp hành viên. Đây là cơ sở, căn cứ để xác định phương pháp đánh
giá kết quả học tập của học viên Chấp hành viên.
Đánh giá kết quả của các học viên trong việc tiếp thu các kỹ năng nghề nghiệp
không phải chỉ thông qua việc kiểm tra, thi cử vào cuối kỳ của khoá học. Việc đánh
giá phải được tiến hành thường xuyên, định kỳ và trong cả quá trình đào tạo nghề
Chấp hành viên. Nội dung, phương pháp giảng dạy khác nhau thì phương pháp đánh
giá kết quả của học viên Chấp hành viên cũng khác nhau. Nội dung khoá đào tạo
nghề nghiệp Chấp hành viên bao gồm hai phần chính: Phần đào tạo lý thuyết, cung
cấp các kiến thức cơ bản cho học viên và phần đào tạo kỹ năng nghề nghiệp của học
viên. Vì vậy đối với học phần này cũng phải có phương pháp đánh giá kết quả đào
tạo khác nhau.
Đối với những nội dung giảng dạy nhằm cung cấp các kiến thức pháp luật cơ
bản cho học viên, thông thường giảng viên sẽ sử dụng phương pháp thuyết trình. Để
đánh giá kết quả học tập của học viên hay đánh giá học viên tiếp thu bài giảng đến
56
mức độ nào? Học viên có nắm được kiến thức mà giảng viên truyền đạt không?
Thông thường giảng viên Chấp hành viên cho học viên làm bài kiểm tra sau khi kết
thúc một bài giảng. Ngoài ra, cũng có những giảng viên cho phép các học viên đặt
các câu hỏi vào cuối buổi giảng hoặc có thể cắt ngang để hỏi trong lúc giảng bài.
Các câu hỏi đặt ra này sẽ mang lại sự phản hồi tới giảng viên về sự hiểu biết, sự tiếp
thu của học viên đối với bài giảng của giảng viên.
Đối với những nội dung giảng dạy nhằm cung cấp kỹ năng nghề nghiệp cho các
học viên trong các giờ thảo luận, giải quyết tình huống việc đánh giá kết quả đào tạo
thông qua việc học viên trình bày ý kiến của mình để giải quyết tình huống thực tế
như thế nào, sau đó để những học viên khác có ý kiến bình luận hoặc thông qua việc
thực hành của học viên. Qua đó giảng viên nắm được là học viên đã vận dụng kiến
thức cơ bản đã được học vào giải quyết các tình huống cụ thể như thế nào hoặc các
kỹ năng mà học viên sử dụng khi thực hành ra sao. Như vậy, đối với nội dung giảng
dạy này, việc đánh giá kết quả đào tạo của học viên cần đánh giá thông qua việc thực
hành của học viên.
Tuy nhiên, trên đây mới là phương pháp, biện pháp đánh giá sự tiếp thu của học
viên được sử dụng trong quá trình giảng dạy, đào tạo của giảng viên, của người
hướng dẫn. Để có sự đánh giá đúng đắn đối với kết quả của học viên, qua nghiên
cứu cho thấy trong đào tạo Chấp hành viên các khóa học trước của Học viện Tư
pháp đã sử dụng phương pháp đánh giá bằng hình thức kiểm tra và thi trong suốt quá
trình học của học viên. Cụ thể, chương trình đào tạo Chấp hành viên được thiết kế
sau hai hoặc ba bài sẽ có một bài đối thoại - kiểm tra và sau một số tiết nhất định sẽ
có một bài thi kết thúc học phần và được sử dụng hình thức thi viết để giải quyết các
tình huống cụ thể. Việc các học viên tham gia các kỳ kiểm tra định kỳ sau các bài lý
thuyết, thực hành và các bài thi học phần bên cạnh mục đích rèn luyện kỹ năng viết
bài thi còn có mục đích quan trọng đó là rèn luyện kỹ năng trình bày cách giải quyết
vấn đề cụ thể để chuẩn bị cho kỳ thi kết thúc khoá học. Cụ thể, kết thúc khóa học
học viên Chấp hành viên còn phải tham gia kỳ thi tốt nghiệp. Kết quả của kỳ thi tốt
57
nghiệp sẽ góp phần vào việc đánh giá một cách toàn diện về kết quả của học viên nói
riêng và kết quả đào tạo nói chung. Tuy nhiên, để đào tạo Chấp hành viên khóa VI,
việc đánh giá kết quả học tập của học viên cũng có những thay đổi đáng kể. Chương
trình đào tạo Chấp hành viên được thiết kế với 09 học phần, trong đó có 02 học phần
kết thúc bằng hình thức hoàn thành báo cáo, 03 học phần kết thúc bằng hình thức
tính điểm thực hành và 04 học phần kết thúc bằng hình thức thi viết. Việc đánh giá
kết quả học tập của học viên không chỉ bằng hình thức thi viết như trước đây mà còn
bằng cả việc viết báo cáo và thực hành tình huống trên lớp.
Đến năm 2007, trên cơ sở quy định của Quyết định số 80/QĐ-HVTP ngày
17/8/2007 của Giám đốc Học viện Tư pháp thì kết quả học tập của học viên Chấp
hành viên được đánh giá tại tất cả các buổi học trên lớp và điểm kết thúc học phần.
Mỗi học phần được đánh giá bằng 04 loại điểm, đó là: điểm nhận thức, điểm chuyên
cần, điểm thường xuyên và điểm kết thúc học phần. Trong đó:
- Điểm nhận thức chiếm trọng số 10%: Do giảng viên đang dạy cho điểm kết
quả tham gia xây dựng bài, nội dung phát biểu có chất lượng đáp ứng yêu cầu bài
học của học viên.
- Điểm chuyên cần chiếm trọng số 20%: Do cán bộ quản lý khóa, lớp cho điểm
dựa trên sự theo dõi, quản lý thường xuyên thời gian lên lớp của học viên và căn cứ
vào ý thức chấp hành kỷ luật học đường của từng học viên sau khi có ý kiến của Tổ
trưởng Tổ Giáo vụ.
Điểm chuyên cần được tính như sau: Nếu thời gian học viên vắng mặt trên lớp
từ 20% trở lên đối với học phần đó thì phải nhận điểm 0; từ 17%-19% nhận điểm 1;
từ 15%-16% nhận điểm 2; từ 13%-14% nhận điểm 3; từ 11%-12% nhận điểm 4;
10% nhận điểm 5; từ 8%-9% nhận điểm 6; từ 6%-7% nhận điểm 7; từ 4%- 5% nhận
điểm 8; từ 2%-3% nhận điểm 9 (Thời gian có mặt trên lớp được tính bằng số lần
điểm danh xác suất cho mỗi học phần đó).
58
- Điểm thường xuyên chiếm trọng số 15%: Thường là điểm bài đối thoại - kiểm
tra do giảng viên lên lớp tổ chức kiểm tra, thu và chuyển bài cho Tổ Bộ môn chấm,
lên điểm.
- Điểm kết thúc học phần: Là điểm bài thi viết hoặc hoàn thành báo cáo hoặc
điểm thực hành.
Với việc đánh giá kết quả học tập của học viên theo cách thức mới này, đã phát
huy được tính chủ động, sáng tạo, sôi nổi trong học tập của học viên. Điều này cũng
là một trong những yếu tố góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và kết quả học tập
của học viên.
Cũng với những điểm tích cực, kích thích được người dạy và người học tính
cực tham gia vào giờ học trên lớp, quyết định số 80/QĐ-HVTP ngày 17/8/2007 cũng
bộc lộ những hạn chế nhất định. Đó là điểm chuyên cần, thực chất là điểm điểm
danh chiếm tối đa 2/10 điểm trong một học phần của học viên làm cho việc đánh giá
kiến thức của người học thiếu tính chính xác. Khắc phục tình trạng này, theo Quyết
định số 80/QĐ-HVTP ngày 31/3/2018 của Giám đốc Học viện Tư pháp thì phương
pháp đánh giá kết quả học tập của học viên có một số thay đổi. Điểm học phần bao
gồm hai loại điểm. Loại điểm chiếm trọng số 20% gồm điểm nhận thức chiếm trọng
số 10% và điểm thường xuyên chiếm trọng số 10%.
Điểm nhận thức là điểm do giảng viên đang dạy cho điểm học viên tham gia
xây dựng bài, nọi dung phát biểu của học viện.
Điểm thường xuyên thường là điểm bài đối thoại, kiểm tra do giảng viên lên
lớp tổ chức.
Loại điểm chiếm trọng số 80% là điểm bài thi viết hoặc các hình thức thi khác
bắt buộc học viên phải tham gia, được tổ chức vào cuối mỗi học phần do Hội đồng
quản lý thi học phần tổ chức thi và chấm thi theo quy định.
Với phương pháp đánh giá điểm theo bản hướng dẫn mới, người học được đánh
giá đúng, thực chất hơn về kết quả học tập của mình. Về cho người thày hoàn thành
tốt buổi giảng trên lớp theo phương pháp tích cực, lấy người học làm trung tâm.
59
Hai là, về nội dung đào tạo lý luận - hành chính
Như đã phân tích tại tiểu mục 1.3.3 của Báo cáo phúc trình, đối với Chấp hành
viên, người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án.
Các quyết định của Chấp hành viên có liên quan đến quyền cơ bản của công dân
(như quyền tài sản, quyền chỗ ở, quyền nhân thân...) và liên quan trực tiếp đến an
ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội nên ngoài sự hiểu biết về pháp luật thì những
kiến thức về lý luận chính trị đóng vai trò quan trọng trong quá trình thực thi nhiệm
vụ được giao. Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa X đã
xác định: “cấp ủy địa phương có trách nhiệm lãnh đạo, thường xuyên kiểm tra công
tác kiểm sát và xét xử, công tác thi hành án bảo đảm đúng đường lối, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước”. Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy có trách
nhiệm “giới thiệu nhân sự cấp trưởng, cấp phó Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân
dân, Thường trực cấp ủy giới thiệu nhân sự Thẩm phán và Kiểm sát viên, Chấp hành
viên để ngành dọc cấp trên bổ nhiệm”. Vì vậy, việc nâng cao trình độ lý luận chính
trị của Chấp hành viên là yêu cầu cần thiết. Tuy nhiên, thực tế công tác đào tạo về lý
luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước cho đội ngũ Chấp hành viên trong thời
gian qua còn nhiều bất cập, những hạn chế này có những nguyên nhân chủ quan và
khách quan, điển hình như:
Thứ nhất, số lượng Chấp hành viên được đào tạo về lý luận chính trị, quản lý
hành chính nhà nước là chưa nhiều, chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc thi
hành án. Điều này xuất phát từ nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về cơ chế tổ
chức bộ máy và việc phân bổ chỉ tiêu đi học. Nhiều địa phương không thể cử người
đi học các lớp bồi dưỡng quản lý nhà nước chương trình chuyên viên và bồi dưỡng
kiến thức lý luận chính trị trung cấp, cao cấp vì không có chỉ tiêu (cơ quan THADS
thuộc biên chế theo ngành dọc), trong khi đó lượng cán bộ dự kiến cử đi học tại mỗi
địa phương lại không nhiều nên không thể mở lớp riêng cho cơ quan THADS từng
tỉnh, dẫn đến tình trạng việc đào tạo quản lý nhà nước chương trình chuyên viên và
bồi dưỡng lý luận chính trị gặp nhiều khó khăn. Tại một số địa phương, Sở Tư pháp
60
và Trưởng THADS tỉnh (nay là Cục trưởng) đã phối hợp với cơ quan chức năng ở
địa phương để tạo điều kiện cho cán bộ thi hành án được đi học, nhưng số lượng rất
ít, nhìn chung việc đào tạo quản lý nhà nước cũng như lý luận chính trị tại địa
phương không đồng bộ, số cán bộ chưa được chuyển ngạch còn tồn đọng nhiều vì
thiếu tiêu chuẩn. Việc chưa được nâng ngạch, chuyển ngạch của cán bộ thi hành án
có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cán bộ cũng như việc xem xét bổ nhiệm Chấp
hành viên, Thẩm tra viên. Việc đào tạo cao cấp lý luận chính trị cũng tương tự như
vậy. Theo quy định thì các đối tượng là Cục trưởng, Phó cục trưởng Cục THADS,
Chi cục trưởng, Phó chi cục trưởng Chi cục THADS và những người trong diện quy
hoạch lãnh đạo cơ quan THADS địa phương rất cần thiết phải được trang bị kiến
thức cao cấp lý luận chính trị. Nhìn chung, qua khảo sát địa phương cho thấy Sở Tư
pháp và Cục THADS một số địa phương cũng đã phối hợp với các cơ quan chức
năng cử các đối tượng này đi học, nhưng số lượng còn hạn chế. Các đối tượng trong
diện quy hoạch lãnh đạo cơ quan THADS hầu như chưa được cử đi học.
Thứ hai, có những cơ quan thi hành án dân sự, có những thời điểm mặc dù có
chỉ tiêu đi đào tạo lý luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước nhưng lại không có
người cử đi học vì thiếu người, số lượng việc thi hành án nhiều, quá tải về công việc.
Hiện nay, trung bình mỗi cơ quan THADS cấp tỉnh có từ 5 đến 8 Chấp hành viên,
mỗi cơ quan THADS cấp huyện có từ 2 đến 3 Chấp hành viên, trong đó bao gồm cả
Thủ trưởng, Phó thủ trưởng và Chấp hành viên. Phần lớn các cơ quan thi hành án
dân sự hiện đang nằm trong tình trạng quá tải công việc, thiếu chấp hành viên làm
nhiệm vụ thi hành án, do đó nếu cử Chấp hành viên đi học các khóa đào tạo về lý
luận chính trị, hành chính nhà nước thì sẽ không có người tổ chức thi hành án. Do
vậy, dẫn đến tình trạng khi cần cơ cấu chấp hành viên vào nguồn bổ nhiệm lãnh đạo
hoặc bổ nhiệm chức danh thẩm tra viên thì có những chấp hành viên mặc dù năng
lực trình độ chuyên môn rất vững, có kinh nghiệm công tác thi hành án nhưng lại
thiếu các chứng chỉ này nên không đủ điều kiện để bổ nhiệm, đã gây không ít khó
khăn cho công tác bổ nhiệm, kiện toàn và chuẩn bị nguồn cho đội ngũ lãnh đạo.
61
Hiện nay có những cơ quan THADS vẫn chưa đề nghị bổ nhiệm thẩm tra viên vì
không có người đủ điều kiện, trong đó đặc biệt là điều kiện về chứng chỉ quản lý
hành chính nhà nước, trong khi văn bản quy định chức danh thẩm tra viên đã được
ban hành và có hiệu lực từ năm 2007.
Thứ ba, chất lượng đào tạo lý luận chính trị, hành chính nhà nước cũng đang
còn nhiều bất cập, chưa thật sự đem lại hiệu quả thiết thực. Đa số người được bổ
nhiệm Chấp hành viên là những người đã được đào tạo có bằng cử nhân luật, trong
khi đó các môn học về hành chính nhà nước lại áp dụng chung cho tất cả các đối
tượng nên rất nhiều môn học, nội dung Chấp hành viên đã được đào tạo cơ bản ở
chương trình đại học Luật. Do vậy, việc học lại những môn này là hoàn toàn không
cần thiết. Tương tự như vậy, đối với môn lý luận chính trị nhiều môn ở chương trình
cử nhân luật có nội dung đề cập đến vấn đề này như môn lịch sử đảng, tư tưởng Hồ
Chí Minh, Triết học, Lý luận Nhà nước và Pháp luật, v.v... mà chấp hành viên đã
được học. Chính vì đã được trang bị về cơ bản kiến thức này nên tâm lý đi học của
họ thường mang tính chất đối phó, chưa thật sự hấp dẫn đối với họ. Trong khi đó còn
nhiều nội dung liên quan đến công việc thi hành án thì chấp hành viên lại không
được đi học, ví dụ như học lên cao hơn như thạc sỹ, tiến sỹ hoặc trang bị thêm kiến
thức về tin học, ngoại ngữ, bổ sung kiến thức mới ở những lĩnh vực pháp luật
chuyên ngành khác, v.v...
3. Về quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng
Công tác quản lý hoạt động ĐTBD của BTP trong những năm qua đã làm tốt vai
trò của mình, thường xuyên phối hợp chặt chẽ với Học Viện Tư pháp, Học viện chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Hành chính, Học Viện Khoa học xã hội và một số
cơ sở đào tạo khác để cử CHVTHADS đi đào tạo sau đại học và tích cực triển khai có
hiệu quả kế hoạch ĐTBD cán bộ, công chức, viên chức của Ngành. Quan hệ phối hợp
được thực hiện từ khâu khảo sát và đề xuất nhu cầu ĐTBD, chương trình, kế hoạch đến
triển khai thực hiện các hoạt động cụ thể.
* Đánh giá hoạt động đào tạo, bồi dưỡng
62
Qua số liệu của Cục thi hành án dân sự cho thấy, trong số hơn 3000 Chấp hành
viên thì có đến hơn 90% đáp ứng được yêu cầu tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ
(có trình độ cử nhân luật), đã qua đào tạo nghiệp vụ thi hành án, song một số cán bộ
trẻ tuy đã được đào tạo nghề nhưng ít kinh nghiệm thực tiễn, một số cán bộ có kinh
nghiệm thực tiễn lại chưa được đào tạo chuyên sâu về thi hành án, trong khi đó hoạt
động thi hành án hết sức phức tạp, hệ thống PL còn có nhiều bất cập (nhất là PL thi
hành án vẫn còn tản mạn, thiếu đồng bộ), cơ chế quản lý thi hành án chưa thống nhất
và cũng chưa có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa THADS với thi hành án hình sự"[24]
Cho đến nay Học viện Tư pháp đã đào tạo được mười bảy khóa lớp nguồn bổ
nhiệm chấp hành viên (mỗi năm một khóa), hiện đang đào tạo khóa thứ XVIII. Từ
khóa I năm 2002 đến khóa VI, trung bình mỗi khóa đào tạo được 300 chấp hành
viên. Sau khi kết thúc khóa XVIII tổng số Chấp hành viên được đào tạo qua lớp
nguồn để bổ nhiệm chấp hành viên là khoảng 2.600 chấp hành viên. Như vậy, so với
tổng số 3.223 chấp hành viên của cả nước tính đến 01/1/2020 thì phần lớn số lượng
chấp hành viên đã được đào tạo qua lớp nguồn chấp hành viên. Trong số 2.600 chấp
hành viên được đào tạo có khoảng 35% là được đào tạo cử nhân luật chính quy, tức
là khoảng 910 chấp hành viên; 60% là được đào tạo tại chức luật, tức là khoảng
1.560 chấp hành viên, còn lại 5% là được đào tạo từ xa chiếm khoảng 130 chấp hành
viên.
Trong những năm qua, được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của Lãnh đạo BTP,
hoạt động ĐTBD CHVTHADS đã thu được nhiều kết quả tích cực.
Số lượng học viên tăng là chỉ số đầu tiên phản ánh kết quả ĐTBD đội ngũ
CHVTHADS. Từ năm 2015 đến năm 2020, đã ĐTBD được 1389 lượt CHVTHADS.
Trong đó, năm 2015 là 160 học viên, năm 2016 là 228 học viên, năm 2017 là 232
học viên, năm 2018 là 240 học viên, năm 2019 là 249 học viên, năm 2020 là 300
học viên.
Chất lượng đào tạo nâng lên rõ rệt, CHVTHADS sau khi tham gia các khóa
ĐTBD đã được trau dồi, củng cố và nâng cao kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề
63
nghiệp và đặc biệt là đã biết vận dụng những kiến thức, kỹ năng đã được truyền thụ
vào thực hiện nhiệm vụ và hàng năm, luôn luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ
được giao.
Như vậy, về cơ bản hoạt động ĐTBD đội ngũ CHVTHADS đã bám sát vào
nhiệm vụ chính trị của ngành, vào tiêu chuẩn CHVTHADS để hướng tới nhiệm vụ
trọng tâm là đẩy nhanh tiến độ chuẩn hoá và nâng cao trình độ về lý luận chính trị, kiến
thức quản lý nhà nước, kỹ năng nghiệp vụ chuyên ngành, kiến thức hội nhập kinh tế
quốc tế, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra đối với đội ngũ CHVTHADS.
III. Tồn tại, hạn chế trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi
hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay
1. Tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động ĐTBD đội ngũ CHVTHADS
vẫn còn tồn tại những vấn đề cần phải khắc phục sau đây:
Một là: Hệ thống cơ quan thi hành án dân sự chưa tập trung xây dựng được đề
án nhằm nghiên cứu một cách triệt để có hệ thống đối với nhu cầu, năng lực đào tạo
các nghạch Chấp hành viên một mặt đảm bảo yêu cầu phát triển và đặt ra của xã hội,
mặt khác đảm bảo cân bằng số lượng việc tiền được phân bổ cho Chấp hành viên
trên toàn quốc.
Hai là: Việc phân bổ số lượng Chấp hành viên trên toàn quốc thiếu sự đồng
bộ, thống nhất vẫn để xảy ra tình trạng mất cân bằng trong chỉ tiêu đầu việc phải giải
quyết hằng năm giữa các Chấp hành viên trên toàn quốc.
Hệ thống cơ quan thi hành án dân sự chưa chú trọng đến vấn đề công tác khảo
sát có ý nghĩa hết sức quan trọng để hệ thống cơ quan thi hành án đối phó với các
vấn đề thừa thiếu Chấp hành viên một cách cục bộ cũng như hoạch định được chính
sách đào tạo bồi dưỡng một cách linh hoạt, chủ động trong từng giai đoạn từng địa
phương cụ thể.
Ba là: Việc đào tạo, bồi dưỡng Chấp hành viên đang dựa vào nhu cầu thực tế
của cơ quan thi hành án dân sự địa phương trong khi đó để giải quyết dứt điểm vấn
64
đề đào tạo bồi dưỡng có hiệu quả thì việc xây dựng một kế hoạch mang tính chất
tổng thể lâu dài có chiến lược là yêu cầu đặt ra cho hệ thống cơ quan thi hành án dân
sự.
Bốn là, về đào tạo thạc sỹ, hiện nay việc cử CHV đi đào tạo thạc sỹ chủ yếu là
ở các cơ sở đào tạo ngoài Ngành nên việc tiếp thu những kiến thức nền tảng về chức
năng, nhiệm vụ của ngành, về các lĩnh vực có liên quan, đặc biệt là khối kiến thức về
kỹ năng THADA theo hướng đáp ứng những đòi hỏi đặc thù của nghề nghiệp là chưa
đạt yêu cầu.
Năm là, các chương trình bồi dưỡng chưa phong phú, đa dạng, chưa đáp ứng
được đòi hỏi của thực tiễn
Hiện nay, các chương trình bồi dưỡng chủ yếu được xây dựng gắn với các lĩnh
vực công tác thực hiện chức năng của ngành, trong khi đó qua khảo sát ý kiến của
các học viên là CHVTHADS, hơn 80% ý kiến cho rằng, họ mong muốn được bồi
dưỡng chuyên sâu theo từng kỹ năng của mỗi chức danh. Ví dụ: trong lĩnh vực hình
sự, CHVTHADS mong muốn được bồi dưỡng chuyên sâu các kỹ năng THA,... tuy
nhiên các chương trình bồi dưỡng được xây dựng hầu như tích hợp chung các kỹ
năng. Chính vì vậy, nội dung giữa các chương trình trong nhiều trường hợp không
có sự khác biệt rõ nét. Ví dụ: trong lĩnh vực hình sự, các chương trình bồi dưỡng chủ
yếu được xây dựng theo các nhóm tội phạm cụ thể, vì vậy nội dung dễ bị trùng lắp.
Bên cạnh đó, các chương trình bồi dưỡng gắn với những cải cách pháp luật, đáp ứng
yêu cầu hội nhập quốc tế hầu như không được xây dựng trong 05 năm gần đây,
Sáu là, nội dung các chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn chưa sâu
sắc, chưa đáp ứng yêu cầu của người học
Với thời lượng thông thường từ 05 đến 10 ngày, các chương trình bồi dưỡng
kiến thức, kỹ năng chuyên ngành bắt buộc hàng năm hầu như chỉ trình bày được một
cách khái quát nhất lĩnh vực mà phạm vi bồi dưỡng đề cập, không có điều kiện đi
sâu hoặc tổng hợp, khái quát tất cả các vấn đề thực tiễn có liên quan để đúc kết thành
lý luận, kinh nghiệm. Người học cũng không có cơ hội thực hành nhiều với các hồ
65
sơ, tình huống mà chủ yếu nghe giảng lý thuyết kết hợp với hỏi đáp, thảo luận. Nội
dung chương trình đào tạo chưa bao quát hết các vấn đề, kỹ năng cần đào tạo, đặc
biệt, thiếu các chuyên đề về giải quyết án có yếu tố nước ngoài trong chương trình
đào tạo.
Bên cạnh đó, nội dung ĐTBD còn nặng về lý thuyết, ít tính thực tiễn. Nội
dung giảng dạy còn thiên về giải thích pháp luật thực định, chưa có sự tổng kết kinh
nghiệm thành lý luận. Tài liệu ĐTBD tuy được biên soạn chủ yếu bởi các nhà lý
luận và các chuyên gia thực tiễn có liên quan đến lĩnh vực ĐTBD, tuy nhiên khó có
thể kết hợp hài hòa được hai yếu tố lý luận và thực tiễn trong cùng một sản phẩm.
Các giảng viên cơ hữu của Nhà trường, việc biên soạn một bài giảng có tính lý
luận là thế mạnh của họ tuy nhiên lại ít yếu tố thực tiễn, trong khi đó với các chuyên
gia thực tiễn lại gặp khó khăn trong việc khái quát những vấn đề thực tế để đúc rút
thành lý luận, kinh nghiệm, những hướng dẫn nghề nghiệp mang tính cẩm nang.
Bảy là, phương pháp ĐTBD còn mang nặng tính áp đặt, truyền thụ, chưa đề
cao tính chủ động, sáng tạo và tư duy của người học
Đa số giảng viên vẫn sử dụng phương pháp giảng dạy truyền thống, chậm đổi
mới và đa dạng hóa các phương pháp ĐTBD. Vẫn còn những giảng viên ngại sự
thay đổi, giảng dạy theo cách thuyết trình, chưa thường xuyên cập nhật kiến thức
mới và thông tin nên chưa gây được sự hứng thú cho người học. Phương pháp được
sử dụng chủ yếu là thuyết trình, chưa có sự kết hợp với các phương pháp giảng dạy
khác như: hỏi đáp, giải quyết tình huống, giải quyết trực tiếp các vụ việc có thật trên
cơ sở hồ sơ. Việc rèn luyện các kĩ năng mềm đối với học viên chưa thực sự được
chú trọng, đặc biệt là kỹ năng tranh luận, thuyết trình và kĩ năng giải quyết vấn đề.
Riêng các khóa bồi dưỡng được mở trong thời gian quá ngắn, số lượng học
viên nhiều, vì thế khó áp dụng các phương pháp giảng dạy hiện đại, phương pháp đi
thực tế. Các chuyên đề chủ yếu nặng về nội dung lý thuyết, mặc dù trong quá trình
giảng dạy giảng viên có đưa ra các tình huống hoặc trình bày kinh nghiệm thực tiễn
nhưng về cơ bản vẫn sử dụng phương pháp thuyết trình. Hệ thống hồ sơ vụ việc thực
66
tế đưa vào giảng dạy trong các lớp bồi dưỡng chưa nhiều, nhiều chương trình không
có sự sử dụng hồ sơ tình huống để giảng dạy, tài liệu học tập chủ yếu chỉ có tập bài
giảng và các văn bản pháp luật.
Tám là, về đối tượng ĐTBD cử chưa đúng đối tượng, chưa vận dụng kết quả
ĐTBD vào thực hiện nhiệm vụ.
Số lượng biên chế CHV hai cấp chưa bảo đảm đáp ứng yêu cầu theo cơ cấu tổ
chức, bộ máy, nhiệm vụ, quyền, việc cử CHVTHADS đi ĐTBD đôi khi còn chưa
thực sự đúng đối tượng. Bên cạnh đó, một bộ phận CHVTHADS mặc dù đã được cử
đi ĐTBD, nhưng do chưa vận dụng được những kiến thức, kỹ năng đã được lĩnh hội
trong quá trình ĐTBD vào thực hiện nhiệm vụ nên năng lực thực hiện nhiệm vụ còn
hạn chế chưa tương xứng với trình độ được đào tạo ở bậc sau đại học.
Chín là, công tác quản lý về ĐTBD chưa thực sự hiệu quả, chưa xây dựng vị trí
việc làm, việc lập kế hoạch, chiến lược ĐTBD cho đội ngũ CHVTHADS còn chưa chủ
động, thiếu tầm nhìn chiến lược, không ít trường hợp là để giải quyết tình thế trước mắt.
Ngoài ra, công tác quản lý còn một số bất cập như việc khảo sát nhu cầu ĐTBD
để đề xuất xây dựng, ban hành kế hoạch ĐTBD hàng năm còn chậm; việc cử người
tham dự các lớp bồi dưỡng đôi khi chưa đúng đối tượng, nhu cầu nên ảnh hưởng không
nhỏ đến hiệu quả bồi dưỡng; công tác kiểm tra, đôn đốc báo cáo kết quả sau ĐTBD
chưa được thường xuyên, sâu sát. Ngoài ra, kinh phí đầu tư cho ĐTBD chưa thực sự
đáp ứng yêu cầu, việc tăng cường nguồn lực đầu tư từ bên ngoài (đầu tư, hợp tác, dự
án, tài trợ) còn nhiều hạn chế.
2. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế
Còn có những tồn tại, hạn chế trên là do những nguyên nhân sau đây:
Một là, quy định về ĐTBD đội ngũ CHVTHADS chưa hoàn thiện
Mặc dù trong thời gian qua, Nhà nước và Bộ Tư pháp đã có nhiều văn bản về
công tác ĐTBD nói chung và ĐTBD cho đội ngũ CHVTHADS nói riêng trong đó
quán triệt sâu sắc và triệt để những vấn đề phải ĐTBD, phát huy các phương pháp
ĐTBD cụ thể, song, trong thời gian qua, các văn bản pháp luật của Nhà nước về
67
công tác ĐTBD cũng như về nội dung đào tạo kỹ năng đã có sự thay đổi, nhưng
Ngành vẫn chậm ban hành các văn bản hướng dẫn nên chưa kịp thời đáp ứng yêu
cầu của công tác ĐTBD cho đội ngũ CHVTHADS. Bên cạnh đó hệ thống cơ quan
thi hành án dân sự, Tổng cục Thi hành án, Học viện Tư pháp chưa xây dựng được
một kế hoạch, đề án khoa học mang tính chất thực tiễn nhằm đánh giá yêu cầu đặt ra
trước mắt và lâu dài đối với đội ngũ Chấp hành viên. Từ đó chủ động trong công tác
đào tạo bồi dưỡng và phân bổ để đảm bảo tính phù hợp, năng lực sở trường và khối
lượng công việc cho từng đơn vị và cá nhân Chấp hành viên.
Việc đào tạo chỉ mới đáp ứng được nhu cầu trước mắt chưa có hoạch định
được cho nhu cầu phát triển trong tương lai dẫn đến bị động trong công tác đào tạo,
bồi dưỡng.
Hai là, chất lượng giảng viên còn có những hạn chế nhất định
Về giảng viên cơ hữu, đội ngũ này đa số có phương pháp sư phạm, có trình độ
lý luận và kiến thức chuyên môn nhưng kiến thức thực tiễn còn hạn chế. Trong đội
ngũ giảng viên cơ hữu, số giảng viên đạt trình độ tiến sỹ còn rất ít, số lượng giảng
viên thạc sỹ tuy chiếm tỉ lệ cao so với tổng số giảng viên nhưng khả năng sư phạm
và kinh nghiệm thực tế còn nhiều hạn chế. Cơ cấu tuổi đời, tuổi nghề của đội ngũ
giảng viên có sự khác biệt lớn gây nên tình trạng đứt đoạn trong chuyển giao giữa
các thế hệ và chuẩn bị đội ngũ kế cận. Việc thu hút và duy trì một đội ngũ giảng viên
cơ hữu đủ mạnh để tham gia giảng dạy các lớp đào tạo ĐTBD gặp không ít khó
khăn. Nhiều giảng viên giảng viên trẻ tuy năng động, sáng tạo, nhanh nhạy trong
tiếp cận kiến thức nhưng kỹ năng nghề và khả năng sư phạm còn hạn chế. Một bộ
phận nhỏ giảng viên của trường chậm đổi mới, có tư tưởng trung bình chủ nghĩa,
chậm đổi mới nội dung, phương pháp dạy học. Số giảng viên vừa có trình độ lý luận,
phương pháp sư phạm vừa có kiến thức thực tiễn còn tương đối hiếm. Trình độ đội
ngũ giảng viên đã được nâng cao song lại chưa đồng đều giữa các đơn vị khoa, bộ môn
trong trường, thậm chí có khoa, phòng chưa có giảng viên có trình độ Tiến sỹ. Trình độ
tin học, ngoại ngữ của đội ngũ giảng viên nhà trường cũng là vấn đề cần phải quan
68
tâm, nhất là khi đứng trước yêu cầu tăng cường hội nhập quốc tế.
Về đội ngũ giảng viên thỉnh giảng, đây là lực lượng góp phần đáng kể vào kết
quả thực hiện công tác ĐTBD đội ngũ CHVTHADS. Đội ngũ giảng viên này có thế
mạnh về kinh nghiệm thực tiễn nghề nghiệp, tuy nhiên do đa số họ ít có kinh nghiệm
thuyết trình, kinh nghiệm đào tạo và kỹ năng sư phạm nên hiệu quả giảng dạy không
cao. Điều này cũng đặt ra giống như khi họ được mời tham gia biên soạn tài liệu bồi
dưỡng.
Ba là, nguyên nhân từ phía người học - các CHVTHADS được cử đi ĐTBD
Một số CHVTHADS tinh thần trách nhiệm chưa cao, chưa chịu khó nghiên
cứu, học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Một số CHVTHADS còn
ngại đi ĐTBD, chưa nhìn nhận đúng tầm quan trọng của công tác ĐTBD đối với việc
nâng cao trình độ, kỹ năng nghiệp vụ, còn có tư tưởng coi ĐTBD chỉ là điều kiện để
bổ nhiệm, nâng ngạch mà chưa coi ĐTBD nâng cao kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp
là điều kiện cần thiết của CHVTHADS đối với sự phát triển của ngành. Bên cạnh đó,
do thói quen ngại tư duy trong quá trình học, do phần nhiều ảnh hưởng lớn của
phương pháp dạy học cũ, vẫn là trong giờ học, thầy giảng trò nghe và ghi chép. Sự
thiếu tích cực trong học tập của người học cũng làm giảm sự nhiệt tình của giảng viên
và như vậy việc dạy và học trở nên nhàm chán, mang tính đối phó. Mặt khác, không
coi trọng kết quả ĐTBD, không biết kết hợp kiến thức, kỹ năng đã được truyền thụ
với thực tiễn nghề nghiệp nên hiệu quả công tác chưa cao.
Bốn là, thiếu các nguồn lực vật chất cần thiết để đổi mới nội dung, cải tiến
phương pháp ĐTBD theo hướng tích cực, hiện đại
Để có thể áp dụng triệt để học theo tín chỉ, đòi hỏi cấp bách của một cơ sở đào
tạo là phải có một thư viện hiện đại, dễ tiếp cận với nguồn học liệu phong phú. Lãnh
đạo các cơ sở đào tạo đã rất quan tâm đầu tư cho thư viện cũng như liên kết với
nhiều đối tác khác nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người
học.
- Chưa áp dụng được công nghệ thông tin mạnh mẽ vào ĐTBD
69
Để tổ chức lớp học theo quy mô các lớp nhỏ, cần phải có hệ thống máy móc
trang thiết bị đủ để đáp ứng yêu cầu, hệ thống học liệu phong phú, nhất là các hồ sơ
vụ việc thu thập được từ thực tiễn phải là những hồ sơ điển hình, đa dạng, có sai lầm
nghiêm trọng trong áp dụng luật nội dung hoặc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
để, từ đó giúp học viên phân tích, đánh giá, rút kinh nghiệm, nhưng do chưa hình
thành được hệ thống cơ sở dữ liệu án mẫu đầy đủ hay các thiết bị mô phỏng kỹ thuật
điều tra hình sự hiện đại phục vụ công tác ĐTBD để phục vụ phương pháp ĐTBD
tích cực. Trong khi đó, phải có đầy đủ những yếu tố này thì mới có thể áp dụng được
các phương pháp giảng dạy hiện đại, phát huy được sự chủ động của người học. Với
việc Đ
Năm là, về phương pháp giảng dạy mặc dù Học viện Tư pháp là một trong
những cơ sở đầu tiên áp dụng phương pháp giảng dạy tiên tiến sử dụng công nghệ
tin học trong giảng dạy, áp dụng phương pháp song giảng, đưa tình huống hướng tới
người học là trung tâm, tuy nhiên việc áp dụng phương pháp này vẫn còn có những
hạn chế nhất định.
Sáu là, đội ngũ giảng viên về cơ bản là đáp ứng yêu cầu, tuy nhiên do đặc thù
công tác thi hành án dân sự nên đối tượng tham gia giảng dạy vẫn phải kiêm nhiệm,
chủ yếu là những người làm công tác thực tiễn trong ngành thi hành án là những
người có kinh nghiệp thực tiễn nhưng lại thiếu phương pháp nghiệp vụ sư phạm
hoặc những giáo viên chuyên trách của Học viện Tư pháp là không có nhiều kinh
nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực thi hành án dân sự nên có những tình huống phát
sinh trong thực tiễn mà chưa có sự điều chỉnh của pháp luật thì giáo viên gặp lúng
túng trong việc giải quyết vấn đề.
Bảy là, thực trạng công tác đào tạo lý luận – hành chính còn nhiều bất cập, còn
nhiều chấp hành viên vẫn chưa được trang bị kiến thức lý luận, hành chính, do đó
phần nào đã gây khó khăn cho công việc thi hành án, bổ nhiệm lãnh đạo, chấp hành
viên và thẩm tra viên, v.v...
70
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên, song có thể kể đến một
nguyên nhân khá cơ bản đó là do đầu vào của đội ngũ cán bộ các cơ quan thi hành
án dân sự tuy ngày càng được nâng cao (nhất là những năm gần đây) nhưng so với
yêu cầu chung còn thấp. Vẫn còn có một số chấp hành viên chỉ qua đào tạo tại chức
hệ vừa học vừa làm, luân huấn pháp lý hoặc chưa qua đào tạo nghiệp vụ thi hành án
nhưng vẫn phải bổ nhiệm vì những nơi đó thiếu nguồn bổ nhiệm chấp hành viên
(nếu không bổ nhiệm thì sẽ không có người làm nhiệm vụ thi hành án, đặc biệt là ở
những địa phương vùng núi, vùng sâu, vùng xa). Trong khi đó chất lượng đào tạo tại
chức luật ở Việt Nam mặc dù đã được từng bước cải thiện, nâng cao, nhưng do yêu
cầu vừa học vừa làm nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng đào tạo. Đây cũng là
một trong số những nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong việc giải quyết công việc về
thi hành án của chấp hành viên trước đòi hỏi kỹ năng áp dụng pháp luật nói chung,
pháp luật về thi hành án dân sự ngày càng cao. Chưa kể đến yêu cầu về tin học,
ngoại ngữ hoặc tiếng dân tộc phục vụ cho công tác thi hành án dân sự đối với đội
ngũ chấp hành viên nhìn chung vẫn còn nhiều hạn chế. Đây cũng là một trong những
yếu tố cần quan tâm khi xây dựng, đổi mới khung chương trình đào tạo chấp hành
viên trong tương lai. Ngoài ra, qua khảo sát cho thấy, số Chấp hành viên được qua
đào tạo về lý luận chính trị - hành chính vẫn còn chiếm tỷ lệ thấp (chỉ có từ 10 đến
15% đã qua các lớp đào tạo cao cấp Chính trị - hành chính và tập trung chủ yếu ở
đội ngũ cán bộ lãnh đạo), nhất là ở các địa bàn miền núi, vùng sâu vùng xa thì tỷ lệ
này càng giảm đáng kể.
Tám là, chưa có quy hoạch, chiến lược đào tạo chấp hành viên kể cả lâu dài và
trước mắt. Chưa có một sự đánh giá và dự báo mang tính tổng thể, tòan diện về thực
trạng số lượng chấp hành viên và nhu cầu số lượng chấp hành viên cũng như nhu
cầu cần đào tạo đội ngũ chấp hành viên để từ đó định ra kế hoạch đào tạo chấp hành
viên cho từng năm và cho lâu dài. Đây là những hạn chế về công tác quản trị nguồn
nhân lực vận dụng vào công tác quy hoạch đào tạo đội ngũ chấp hành viên trong thời
gian qua.
71
Chín là, các chuyên đề trong chương trình đào tạo chấp hành viên thường quá
bám sát vào các quy định của luật thực định mà cụ thề là các quy định của pháp luật
thi hành án dân sự nên cấu trúc chương trình đào tạo thường bị động khi luật thực
định thay đổi, trong khi đó yêu cầu của một chương trình đào tạo phải bảo đảm tính
ổn định, lâu dài, các khóa đào tạo cũng được thực hiện liên tục. Trong chương trình
đào tạo chấp hành viên chưa xác định được những vấn đề mang tính nguyên tắc về
các kỹ năng thi hành án dân sự, do đó tính ổn định của chương trình không cao.
Mười là, về thành phần tham gia xây dựng chương trình đào tạo. Thực tế cho
thấy những người tham gia xây dựng chương trình đào tạo đã nỗ lực và tâm huyết để
xây dựng, sửa đổi, bổ sung chương trình đào tạo. Tuy nhiên, việc xây dựng chương
trình đào tạo chấp hành viên là một công việc mang tính đặc thù nhưng còn mới mẻ,
chưa có tiền lệ. Để việc xây dựng chương trình có chất lượng thực sự bên cạnh việc
phải đáp ứng đòi hỏi về trình độ của người xây dựng chương trình, còn phải đáp ứng
yêu cầu của thực tế hành nghề. Trong nhóm xây dựng, sửa đổi, bổ sung chương trình
đào tạo chấp hành viên từ khóa I đến nay ít có sự tham gia của những người đã
thông qua thực tế hành nghề chấp hành viên. Đơn vị phụ trách công tác đào tạo chấp
hành viên đã cố gắng khắc phục thực tế đó bằng cách, thay vì mời một hay nhiều
người làm thực tế vào nhóm xây dựng chương trình đào tạo thì hỏi luôn ý kiến của
họ. Tuy khi đó, mời người làm thực tế tham gia là một việc làm khác so với việc hỏi
ý kiến của họ về chương trình đào tạo. Bởi lẽ, việc trực tiếp tham gia xây dựng
chương trình sẽ ràng buộc trách nhiệm của các thành viên, buộc họ phải hết sức cân
nhắc trong những đề xuất hay quyết định của mình.
Mười một là, thiếu kinh phí cho việc xây dựng, sửa đổi bổ sung chương trình
đào tạo: Từ trước tới nay không có khoản chi cho việc sửa đổi, bổ sung chương trình
đào tạo, mà chỉ có khoản chi cho việc biên soạn chương trình đào tạo cho các lớp
mới. Lớp Đào tạo chấp hành viên, không được coi là lớp mới vì lớp này được tổ
chức từ năm 2012. Việc sửa đổi, bổ sung chương trình đào tạo chấp hành viên chủ
yếu dựa vào tâm huyết mà không có thù lao, kể cả kinh phí để tiến hành khảo sát.
72
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong chương 2 Luận văn đã tập trung khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động
ĐTBD đội ngũ CHVTHADS. Theo đó, tác giả đã khái quát chung về đội ngũ chấp
hành viên; tổng hợp số liệu và đánh giá kết quả thực hiện hoạt động ĐTBD đội ngũ
CHVTHADS trong thời gian từ năm 2015 đến 2020, đồng thời chỉ ra những tồn tại,
hạn chế trong việc ĐTBD đội ngũ CHVTHADS, đặc biệt, Chương 2 của Luận văn
cũng xác định rõ những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế như: do quy định về
ĐTBD đội ngũ CHVTHADS chưa được hoàn thiện, do chất lượng đội ngũ giảng
viên, do nội dung, chương trình ĐTBD chưa đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của
Ngành THADS trong tình hình mới; cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật đầu tư cho
ĐTBD chưa được quan tâm đúng mức…
Trên cơ sở những khảo sát và đánh giá thực trạng ĐTBD đội ngũ
CHVTHADS Chương 2 của Luận văn sẽ định hướng cho những giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động ĐTBD đội ngũ CHVTHADS trong thời gian tới.
73
Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI
NGŨ CHẤP HÀNH VIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
I. Quan điểm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Chấp hành viên
ở nước ta hiện nay
1. Phải quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật Nhà nước và
quy định của Ngành
ĐTBD đội ngũ CHV phải quán triệt sâu sắc các quan điểm, đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của ngành theo từng
giai đoạn cách mạng để cụ thể hóa và vận dụng đúng đắn, sát hợp vào công tác
cán bộ và ĐTBD đội ngũ CHV trong những năm tiếp theo.
Theo đó, phải coi đổi mới sâu sắc công tác ĐTBD đội ngũ CHV và luôn phải đặt
ngang tầm nhiệm vụ chính trị trong công tác xây dựng ngành. Trong quá trình đổi
mới công tác ĐTBD cần phải có các phương án, hệ thống các giải pháp đồng bộ, đổi
mới thực sự về chất nhằm đáp ứng các yêu cầu trước mắt, có tính ổn định và lâu dài.
Đây là yếu tố bảo đảm cho việc xác định chính xác mục tiêu ĐTBD và các chính
sách đầu tư thích đáng cho xây dựng và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật cho ĐTBD
CHV trước yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ mới.
Đồng thời, trong quá trình tổ chức ĐTBD đội ngũ CHV cần chú trọng tăng
cường năng lực thực hành, chú trọng tới phương pháp, kỹ năng nghiệp vụ chuyên
sâu về thi hành án để hoàn thành nhiệm vụ được giao đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp và hội nhập quốc tế.
2. Đảm bảo tính toàn diện về kế hoạch và nội dung chương trình đào tạo,
bồi dưỡng
Kế hoạch, nội dung chương trình ĐTBD đội ngũ CHV ngoài việc phải đảm bảo
trang bị một cách có hệ thống kiến thức đồng bộ và nâng cao trình độ khoa học nghiệp
vụ, khoa học pháp lý, năng lực chuyên môn còn phải chú trọng công tác giáo dục
chính trị tư tưởng và đạo đức với CHV “Công minh, chính trực, khách quan, thận
74
trọng, khiêm tốn”. Mục tiêu xây dựng chiến lược ĐTBD đội ngũ CHV là nhằm xây
dựng đội ngũ cán bộ tuyệt đối trung thành với Đảng, tận tụy với công vụ, có bản lĩnh
chính trị vững vàng, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, tích cực đấu tranh
chống tham nhũng, có trình độ chuyên môn cao, có năng lực quản lý chỉ đạo điều
hành và khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn hoạt động công tác thi hành án. Luôn
coi chất lượng, hiệu quả công tác ĐTBD đội ngũ CHV là mục tiêu và nhiệm vụ trọng
tâm trong quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành theo yêu cầu cải cách tư
pháp và hội nhập quốc tế.
3. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng gắn liền với
việc đẩy mạnh thực hiện cải cách chế độ công vụ, công chức.
Phát triển năng lực các cơ sở đào tạo, mở rộng liên kết, hợp tác quốc tế và tăng
cường công tác quản lý về ĐTBD. Kiện toàn và đổi mới tổ chức bộ máy và hoạt động
của cơ sở đào tạo phù hợp với xu thế phát triển chung trên cơ sở nâng cao địa vị pháp lý
của các Trường. Thường xuyên chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và kiện toàn đội
ngũ cán bộ, giảng viên. Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất, khu nhà ở ký túc xá, giảng
đường, khu thực hành khám nghiệm và trang thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập và
nghiên cứu nhằm tạo những điều kiện tốt để nâng cao chất lượng giảng dạy và điều kiện
thuận lợi cho CHV được về ĐTBD tại cơ sở ĐTBD.
4. Đa dạng hóa các hình thức đào tạo, bồi dưỡng
Tranh thủ sự giúp đỡ nguồn kinh phí của các tổ chức, dự án quốc tế để mở
rộng lĩnh vực và đối tượng ĐTBD đội ngũ CHV; khuyến khích công chức, viên chức
trong ngành và học viên tích cực học tập, nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm công tác,
góp phần xây dựng đội ngũ công chức, viên chức có chất lượng cao, đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.
5. Đảm bảo tính kế thừa truyền thống, tính thực tiễn và tính hiện đại
Quan điểm này chỉ rõ công tác ĐTBD đội ngũ CHV phải tìm kiếm, gìn giữ
những nhân tố hợp lý, có giá trị, những bài học kinh nghiệm của ĐTBD đội ngũ CHV
trước đây để vận dụng vào công tác ĐTBD đội ngũ CHV hiện nay. Đồng thời yêu cầu
75
nội dung chương trình, hình thức và phương pháp ĐTBD phải phù hợp với điều kiện
thực tiễn hiện nay. Mặt khác, trong điều kiện hiện nay công tác ĐTBD phải tiếp thu
những bài học kinh nghiệm ĐTBD của các nước trên thế giới.
Những quan điểm trên có tính nguyên tắc và định hướng quan trọng, xuyên
suốt trong xây dựng chiến lược ĐTBD đội ngũ CHV đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp và hội nhập quốc tế, đồng thời là cơ sở để đề ra các giải pháp đúng đắn nhằm
nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác ĐTBD đội ngũ CHV.
6. Đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay
Trong những năm qua, chất lượng hoạt động tư pháp đã được nâng lên mọt
bước, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn
định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy
nhiên, kết quả đó mới là bước đầu và mới tập trung vào giải quyết những vấn đề bức
xúc nhất. Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Chính sách hình sự, chế định
PL dân sự và PL tố tụng về tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi bổ sung.
Tổ chức bộ máy, chức năng nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn
bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và
bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút
về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong
điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ
quan tư pháp cón thiếu thốn, lạc hậu. Cùng với những mặt hạn chế nêu trên, nhiệm
vụ cải cách tư pháp đang đứng trước nhiều thách thức. Tình hình phạm tội diễn biến
phức tạp, với tính chất và hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Các khiếu kiện hành
chính; các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, các loại khiếu kiện và tranh chấp có
yếu tố nước ngoài có chiều hướng tăng về số lượng và phức tạp, đa dạng hơn. Đòi
hỏi của công dân và xã hội đối với các cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan
tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con
người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ PL và pháp chế XHCN, đấu tranh
có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm29.
76
Chưa kể, hoạt động điều tra, truy tố, xét xử là những hoạt động vất vả, phức tạp
và tốn kém, song những hoạt động đó có thể chỉ là con số không nếu như bản án,
quyết định của Toà án chỉ tồn tại trên giấy mà không được thi hành trên thực tế.
Chính vì vậy, hoạt động thi hành án nói chung và THADS nói riêng là hoạt động
không thể thiếu nhằm biến kết quả hoạt động các cơ quan tố tụng trước đó trở thành
hiện thực, thiết lập lại trật tự PL. Vì vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CHV phải
gắn với yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động thi hành án dân sự của đội ngũ Chấp
hành viên ở nước ta hiện nay.
7. Phù hợp với chủ trương xã hội hoá một số hoạt động thi hành án dân sự
Xã hội hoá đối với các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội là một chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm "Khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức hoạt
động không vì lợi nhuận mà vì nhu cầu và lợi ích của nhân dân; tạo điều kiện thuận
lợi cho các tổ chức thực hiện một số dịch vụ công với sự giám sát của cộng đồng".
Đối với lĩnh vực tư pháp nói chung và hoạt động thi hành án dân sự nói riêng, Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 thể hiện: “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên
cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía Nhà nước để tạo điều kiện
cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình … từng bước thực hiện việc xã hội hoá và quy định những hình
thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số
công việc thi hành án”; "Nghiên cứu chế định Thừa phát lại (thừa hành viên); trước
mắt có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết,
đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo”.
Thực hiện chủ trương trên, ngày 14/11/2008, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá
XII đã nhất trí thông qua Luật thi hành án dân sự, đồng thời Quốc hội cũng đã thông
qua Nghị quyết số 24/2008/QH12 về việc thi hành Luật thi hành án dân sự. Tại kỳ
họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2019, Luật thi hành án dân sự được Quốc
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, 41/2019/QH14. Tại Nghị
77
quyết này đã quy định: "Để triển khai thực hiện chủ trương xã hội hoá một số công
việc có liên quan đến thi hành án dân sự, giao Chính phủ quy định và tổ chức thực
hiện thí điểm chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên) tại một số địa phương. Trong
bối cảnh đó, việc xác định hợp lý đội ngũ Chấp hành viên trong tương quan với việc
thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại và chủ trương xã hội hoá một số hoạt động
thi hành án dân sự là yêu cầu cần thiết hiện nay.
8. Đặt trong tổng thể phát triển đội ngũ cán bộ công chức nhà nước
Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng
định chủ trương “xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công
chức phải thật sự là công bộc của nhân dân. Thực hiện các giải pháp nhằm chấn
chỉnh bộ máy và quy chế hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức. Cơ cấu lại đội
ngũ cán bộ, công chức”.
Một trong những mục tiêu mà Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn
2011-2020 và định hướng giai đoạn 2021-2030 đề ra là, đến năm 2030, đội ngũ cán
bộ, công chức có số lượng, cơ cấu hợp lý, chuyên nghiệp và hiện đại. Thiết nghĩ, để
hoàn thành mục tiêu này, ngay từ bây giờ, nội dung của các cụm từ "số lượng cán
bộ, công chức và cơ cấu hợp lý" cần được định hình sớm và nhiều nội dung khác của
Chương trình cũng cần được lượng hoá.
Nằm trong lộ trình cải cách chế độ công vụ, phát triển đội ngũ công chức của
Nhà nước nói chung, việc dự kiến nhu cầu tăng cường số lượng đội ngũ chấp hành
viên cũng phải trên cơ sở cân đối giữa việc tăng cường về số lượng chấp hành viên
với việc bổ sung tăng biên chế cho khối cơ quan thi hành án dân sự nói riêng và
tăng biên chế cho khối các cơ quan nhà nước nói chung; việc tăng số lượng chấp
hành viên phải trên cơ sở thực hiện tinh giản biên chế đối với những đối tượng là
chấp hành viên không còn đáp ứng đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định mới đồng
thời tăng cường đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng chấp hành viên.
9. Phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của đất nước
78
Trong những năm gần đây, điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước đã có những
bước phát triển vượt bậc. Đóng góp vào những thành tích phát triển kinh tế của đất
nước là nhờ sự cố gắng của cả hệ thống chính trị, trong đó có đóng góp rất quan
trọng của ngành tư pháp. Công tác thi hành án dân sự thông qua việc trực tiếp thi
hành các bản án đã thu vào cho ngân sách nhà nước hàng năm hàng ngàn tỉ đồng, ví
dụ, riêng trong năm 2009, thu hơn 15 ngàn 600 tỉ đồng; năm 2019 thi hành xong 52
ngàn 808 tỉ đồng. Tuy nhiên, hàng năm ngân sách nhà nước vẫn phải trả và đầu tư
ngày càng tăng cho việc trả lương cho đội ngũ chấp hành viên nói riêng, của toàn bộ
đội ngũ công chức thi hành án dân sự nói riêng cũng như việc chi xây dựng trụ sở,
trang thiết bị làm việc cho cơ quan thi hành án dân sự. Do đó, phát triển đội ngũ
chấp hành viên phải bảo đảm hài hòa vừa đủ số lượng chấp hành viên làm nhiệm vụ
thi hành án vừa phù hợp với khả năng chi trả của ngân sách nhà nước.
III. Giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
Chấp hành viên thi hành án dân sự trong thời gian tới
1. Hoàn thiện các quy định về đào tạo, bồi dưỡng CHVTHADS
Chất lượng và hiệu quả việc triển khai hoạt động đào tạo bồi dưỡng đội ngũ
CHVgắn kết chặt chẽ với công tác xây dựng và ban hành các quy chế của ngành
liên quan đến công tác ĐTBD. Để đảm bảo việc gắn công tác ĐTBD với công tác
tuyển dụng, sử dụng công chức và viên chức về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, viên chức và tập trung vào các nội dung cụ thể sau đây:
Thứ nhất, tiến hành đánh giá, lựa chọn, phân loại cán bộ trên cơ sở tiêu chuẩn của
CHV các cấp và hiệu quả công tác thực tế, cũng như sự tín nhiệm của họ trong đơn
vị làm thước đo chủ yếu để tuyển chọn cử đi ĐTBD nhằm mục đích tạo nguồn là
một trong những yếu tố tác động không nhỏ đến việc nâng cao chất lượng ĐTBD
tại các cơ sở của ngành.
Thứ hai, quy định cụ thể hơn về chế độ ĐTBD bắt buộc đối với cán bộ, công
chức trong toàn ngành, về nhiệm vụ thường xuyên rà soát việc thực hiện nghĩa vụ
này đối với từng cán bộ, công chức; về giá trị và hiệu lực của các chứng chỉ bồi
79
dưỡng. Qua đó, tạo ra động lực, sự hứng khởi cho cán bộ, khi được cử tham dự
các khóa bồi dưỡng, cũng như góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của họ khi
tham gia các chương trình bồi dưỡng.
2. Tiếp tục xây dựng đội ngũ giảng viên về số lượng và chất lượng
Đội ngũ giảng viên là chủ thể quyết định chất lượng và hiệu quả các mặt hoạt
động của nhà trường, phát triển đội ngũ giảng viên phải được xem là nhiệm vụ
trọng tâm. Chú trọng cơ cấu hợp lý số lượng, chất lượng, cơ cấu, trình độ của đội
ngũ giảng viên, đảm bảo sự phát triển cân đối và bền vững của đội ngũ giảng viên
trong tương lai. Cần quan tâm cải thiện điều kiện làm việc và chế độ đãi ngộ cho
các giảng viên nhằm thu hút và giữ lại những người có năng lực, tâm huyết công
tác tại nhà trường.
Xây dựng đội ngũ giảng viên cơ hữu đủ về số lượng và mạnh về chất lượng.
Hàng năm tổ chức thi tuyển giảng viên để đáp ứng đủ số lượng giảng viên theo
nhu cầu của nhà trường. Có cơ chế khuyến khích cạnh tranh lành mạnh trong đội
ngũ cán bộ, giảng viên; tăng cường ĐTBD chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán
bộ, giảng viên cơ hữu. Khuyến khích và tạo điều kiện cho các giảng viên trẻ đi học
thạc sĩ, tiến sĩ ở trong nước và nước ngoài. Có chính sách hỗ trợ hợp lý đối với
những người đi học thạc sĩ hoặc nghiên cứu sinh; khuyến khích giảng viên, nhất là
các giảng viên trẻ tham gia vào hoạt động thực tiễn của ngành để có thêm kiến thức
thực tiễn phục vụ công tác giảng dạy. Chú trọng công tác ĐTBD lý luận chính trị và
nghiệp vụ cho giảng viên. Thường xuyên mở các khoá học về phương pháp giảng
dạy, ngoại ngữ, tin học tại trường để nâng cao trình độ cho giảng viên. Khuyến
khích các giảng viên, nhất là các giảng viên trẻ, ứng dụng công nghệ thông tin vào
việc thiết kế các chương trình, sản phẩm giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Đảm
bảo đủ diện tích và phương tiện làm việc tại nhà trường cho các giảng viên. Xây
dựng định mức lương và chế độ đãi ngộ phù hợp để giảng viên yên tâm công tác,
phát huy trí tuệ và năng lực đóng góp cho sự nghiệp xây dựng, phát triển nhà
trường.
80
3. Đổi mới về chương trình, nội dung chương trình, hình thức và phương
pháp đào tạo, bồi dưỡng CHVTHADS
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng công tác xây dựng nội dung chương trình
ĐTBD cán bộ, đội ngũ CHVTHADS phải xác định những vấn đề cần đổi mới về
nội dung, chương trình ĐTBD cụ thể như sau:
Về đổi mới chương trình, nội dung ĐTBD
Việc đổi mới nội dung chương trình ĐTBD đội ngũ CHV phải xuất phát từ quy
định của pháp luật về hình thức bồi dưỡng và căn cứ vào thực tiễn thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của ngành và phải được xây dựng trên cở sở quan điểm, đường lối
chính trị của Đảng nhằm tăng cường nhận thức chính trị trong công tác đấu tranh
phòng chống vi phạm và tội phạm, trong điều kiện hội tế quốc tế hiện nay và xây
dựng bản lĩnh chính trị, ý thức giai cấp nhằm góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nội dung chương trình ĐTBD phải gắn
với vị trí việc làm và gắn với công tác quy hoạch và sử dụng cán bộ của ngành.
Nội dung chương trình phải chú trọng các chuyên đề về nghiệp vụ thực hành thi
hành án, tập trung rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp đảm bảo cho đội đội ngũ CHV
có đủ năng lực và trình độ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, rèn luyện và nâng
cao ý thức, trách nhiệm, đạo đức và bản lĩnh nghề nghiệp.
Về đổi mới hình thức ĐTBD
Bên cạnh việc nghiên cứu để cử CHV tham gia các đợt tuyển sinh thạc sỹ để
gắn với việc nâng cao kiến thức nghiệp vụ chuyên môn và lý luận về ngành; cần
nghiên cứu để chuyển các đợt tập huấn nghiệp vụ ngắn hạn
Về đổi mới phương pháp ĐTBD
Xuất phát từ tình hình thực tế trong những năm vừa qua, phương pháp ĐTBD
chủ yếu thực hiện là phương pháp truyền thống là học viên đọc tài liệu và giảng
viên truyền đạt bằng thuyết trình, vấn đề này đã ảnh hưởng nhất định đến chất
lượng ĐTBD, vì vậy cần nghiên cứu bổ sung nguồn kinh phí đầu tư cơ sở vật chất,
81
mua sắm trang thiết bị phục vụ dạy và học tập.
4. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại cho đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ CHV
Đổi mới chương trình, tài liệu giảng dạy, học liệu và phương pháp giảng dạy -
học tập
Cần thường xuyên rà soát và tiến hành khảo sát nắm bắt nhu cầu để sửa đổi, bổ
sung, hoàn thiện, xây dựng mới hệ thống chương trình, giáo trình, tài liệu, bảo
đảm nâng cao chất lượng hệ thống giáo trình, tài liệu; bổ sung các tài liệu tham
khảo, sát với yêu cầu thực tiễn. Đồng thời, cần từng bước xây dựng và đưa vào
vận hành hệ thống giáo trình điện tử.
Hoàn thiện và hiện đại hoá công nghệ thông tin, thư viện của nhà trường
Công nghệ thông tin, thư viện là yếu tố thiết yếu phục vụ công tác giảng dạy và
học tập của nhà trường. Đầu tư nâng cấp thư viện; tăng cường nguồn nhân lực cho
thư viện; bổ sung số đầu sách và tài liệu tham khảo vào kho tài liệu; xây dựng và
phát triển nguồn tài liệu điện tử; xây dựng cơ sở hạ tầng viễn thông, Internet hiện đại;
ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học
và sinh hoạt chuyên môn.
5. Tăng cường công tác quản lý đào tạo, bồi dưỡng
Tăng cường công tác quản lý ĐTBD, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về
ĐTBD đội ngũ CHV. Thông qua những thông tin nắm được nhà quản lý sẽ có
những giải pháp tháo gỡ những khó khăn cho các đơn vị. Cũng thông qua quản lý
ĐTBD mà nắm vững tình hình ĐTBD của các cơ sở ĐTBD qua đó có những sự chỉ
đạo cho cơ sở đào tạo phát triển hợp lý.
Ngoài ra, phải tiếp tục hoàn thiện đề án vị trí, việc làm, xây dựng khung năng lực
gắn liền với từng vị trí để làm căn cứ khoa học, cho hoạt động ĐTBD. Xác định vị
trí, việc làm đóng vai trò quan trọng đối với ĐTBD.
Tăng cường đánh giá công tác ĐTBD, gắn ĐTBD với sử dụng đội ngũ CHV.
Đánh giá ĐTBD là quá trình kiểm tra lại xem người học đạt được những gì, kỹ năng
82
nào đã được chuyển tải vào quá trình thực thi công vụ. Đánh giá ĐTBD để xác định
mức độ hiệu quả của các khóa học bằng nguồn ngân sách nhà nước.
6. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên
- Thi hành án là giai đoạn tiếp theo hoạt động xét xử của Toà án, là một giai
đoạn quan trọng của quá trình tố tụng. Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là làm
cho những phán quyết của các cơ quan tài phán từ chỗ chỉ là trên văn bản, giấy tờ trở
thành hiện thực. Việc thi hành án có thể được thực hiện bởi sự tự nguyện, thoả thuận
của các bên đương sự hoặc có thể bằng việc sử dụng sức mạnh cưỡng chế của nhà
nước. Tuy nhiên, dù là tự nguyện hay cưỡng chế thì hoạt động thi hành án cũng
thường xuyên phải đụng chạm đến các quyền và lợi ích thiết thân của các bên từ
quyền lợi về vật chất như phải chuyển giao tài sản vốn đang thuộc quyền sở hữu, sử
dụng hợp pháp của mình cho người khác hoặc liên quan đến các quyền về tự do thân
thể, dân chủ cho đến việc tước đoạt quyền sống của con người. Hơn nữa, hoạt động
thi hành án không những tác động đến các chủ thể là cá nhân, tổ chức, cơ quan,
doanh nghiệp trong nước mà còn liên quan đến các tổ chức, cá nhân thậm chí là nhà
nước nước ngoài thông qua việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của
toà án nước ngoài, phán quyết của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Do vậy, hoạt
động thi hành án có thể tiềm ẩn nguy cơ xâm phạm tới các quyền cơ bản của con
người đã được pháp luật bảo vệ. Thực trạng này đòi hỏi yêu cầu bảo đảm quyền con
người phải luôn luôn được đặt ra trong suốt quá trình thi hành án. Điều này càng trở
nên đặc biệt quan trọng hơn trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn Đảng và Nhà nước
ta đang ra sức xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Mà một trong những đặc điểm, yêu cầu rất quan trọng của bất kỳ một kiểu
nhà nước pháp quyền nào trên thế giới cũng như ở nhà nước pháp quyền Việt Nam
đó là phải bảo đảm và thực thi một cách tốt nhất các quyền của con người trên cơ sở
các quy định của pháp luật quốc tế, pháp luật trong nước về nhân quyền.
Vì vậy, việc phát triển đội ngũ Chấp hành viên không thể tách rời yêu cầu bảo
vệ tốt hơn quyền của người được thi hành án, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
83
tổ chức và Nhà nước theo bản án, quyết định của Toà án, quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài
thương mại.
- Đào tạo đội ngũ CHVTHADS đảm bảo điều kiện ngạch CHV
Bộ trưởng Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ Nội vụ xây dựng
tiêu chuẩn nghiệp vụ, mã số các ngạch Chấp hành viên để Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban
hành
Việc thi tuyển, bổ nhiệm mới chấp hành viên phải trên cơ sở quy định của Luật
Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014 và Nghị định số
62/2015/NĐ-CP bảo đảm đúng tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định để từ đó từng
bước chuẩn hóa đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự.
- Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CHV cũng góp phần khắc
phục tình trạng yếu kém của Chấp hành viên
Thực tế cho thấy, trong thời gian qua, các cơ quan chức năng đề cập khá nhiều
đến tình trạng CHV yếu (trong đó chủ yếu là CHV còn yếu về chuyên môn nghiệp
vụ). Điều này đúng nhưng chưa đủ. Qua nghiên cứu cho thấy, có rất nhiều yếu tố hội
tụ để khẳng định chất lượng đội ngũ CHV, trong đó không chỉ có yếu tố chuyên môn
nghiệp vụ mà còn bao gồm cả yếu tố tinh thần và vị trí xã hội. Thực tế cho thấy, có
trường hợp CHV tuy nắm vững chuyên môn nghiệp vụ nhưng không dám quyết định
tổ chức cưỡng chế thi hành án. Trong trường hợp này có thể xem là CHV yếu về bản
lĩnh kinh nghiệm nghề nghiệp. Ngược lại có trường hợp do non kém về nghiệp vụ
nên đã thi hành án trái PL. Hay có trường hợp, tuy nội dung vụ việc khá rõ ràng và
thuộc thẩm quyền quyết định của mình nhưng do sợ trách nhiệm hoặc vì một lý do
nào đó nên đã tìm kiếm sự hỗ trợ, đồng thuận từ phía các cơ quan cấp trên hoặc các
cơ quan ban ngành có liên quan (ví dụ cấp huyện xin ý kiến chỉ đạo của cấp tỉnh,
hoặc cơ xin ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch ủy ban nhân dân, trao đổi thỏa thuận với
Viện kiểm sát nhân dân…).
- Nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị, hành chính cho đội ngũ CHV
84
Để nâng cao hiệu quả công tác thi hành án trong thời gian tới thì việc nâng cao
năng lực, trình độ cho chấp hành viên, trong đó có yêu cầu về trang bị kiến thức lý
luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước cho đội ngũ chấp hành viên là yêu cầu
bức thiết đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
Trên tinh thần mới của Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014,
Nghị định số 62/NĐ-CP, hiện nay hệ thống tổ chức thi hành án dân sự đã có một vị
thế mới, được quản lý tập trung, thống nhất từ trung ương xuống địa phương. Đây
vừa là cơ hội vừa là thách thức đặt ra đối với hệ thống tổ chức thi hành án dân sự.
Hiện nay, các phòng, ban, tổ chức ở các Cục THADS cấp tỉnh đã lần lượt được
thành lập, công tác tổ chức cán bộ đã được bàn giao từ Sở Tư pháp sang Cục Thi
hành án dân sự. Cục THADS sẽ là cơ quan có trách nhiệm chủ động trong việc đào
tạo, bồi dưỡng công chức, trong đó có việc đào tạo lý luận chính trị, hành chính nhà
nước. Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ tập trung phối hợp các Tỉnh ủy, các cơ sở
đào tạo lý luận chính trị, hành chính nhà nước các tỉnh về việc thống nhất nội dung
chương trình, số lượng đào tạo các lĩnh vực này cho đội ngũ lãnh đạo, chấp hành
viên các cơ quan thi hành án dân sự.
7. Nâng cao chất lượng chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghề Chấp hành
viên theo yêu cầu cải cách tư pháp
Xây dựng chương trình khung về đào tạo chấp hành viên đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Nội dung chương trình khung
đào tạo chấp hành viên này dự kiến gồm các vấn đề lớn như:
Một là, về chương trình đào tạo chấp hành viên
Thứ nhất, cần phải chỉnh sửa, tiến tới áp dụng một quy trình xây dựng chương
trình đào tạo thống nhất và khoa học
Thứ hai, khảo sát nhu cầu đào tạo và trình độ học viên cần được đặt ở vị trí
trọng tâm. Việc khảo sát này phải được tiến hành một cách chuyên nghiệp, theo đó
kết quả khảo sát phải là một nguồn tài liệu có độ tin tưởng cao.
85
Thứ ba, về đội ngũ tham gia xây dựng chương trình đào tạo, cần có sự tham gia
của những người làm thực tế. Tuy nhiên, đây không phải là giải pháp mang tính hiệu
quả cao. Về lâu dài, cần có kế hoạch đào tạo kiến thức thực tế cho đội ngũ giảng
viên cơ hữu theo hướng cử đội ngũ giảng viên của Học viện Tư pháp tới các cơ quan
thi hành án để làm công việc của chấp hành viên. Đội ngũ giảng viên này sẽ là nòng
cốt để xây dựng chương trình đào tạo chấp hành viên.
Thứ tư, việc xây dựng chương trình đào tạo chấp hành viên phải bảo đảm tính
nguyên tắc là có sự ổn định cao, xây dựng được những nguyên tắc đào tạo chấp hành
viên, các yêu cầu về kỹ năng hành nghề chấp hành viên, với mục đích bảo đảm
chương trình đào tạo chấp hành viên có tính ổn định cao, tránh tình trạng bị động,
thường xuyên thay đổi khi luật thực định thay đổi, bảo đảm khi luật thực định thay
đổi chỉ cần chỉnh sửa, bổ sung những vấn đề mang tính chất nghiệp vụ, thủ tục trong
chương trình đào tạo. Giải pháp này cũng nhằm khắc phục tình trạng việc đào tạo
chấp hành viên bị chậm do phải chờ thay đổi chương trình đào tạo vì có sự thay đổi
luật thực định như hiện nay.
Hai là, dự kiến nội dung khung chương trình đào tạo chấp hành viên đáp ứng
được yêu cầu cải cách tư pháp
Phần I: Phần chung - Cơ quan Thi hành án dân sự và Chấp hành viên
Phần II: Kỹ năng chung và kỹ năng cưỡng chế
Phần III: Kỹ năng chuyên sâu
Ba là, hoàn thiện phương pháp đào tạo Chấp hành viên
Việc đào tạo các chức danh tư pháp nói chung và đào tạo Chấp hành viên nói
riêng là đào tạo nghề. Đối với bất kỳ hoạt động đào tạo nghề nghiệp nào, việc rèn
luyện kỹ năng cho học viên vẫn là nhiệm vụ trọng tâm, cơ bản của cơ sở đào tạo.
Phương pháp đào tạo có vai trò rất quan trọng đối với chất lượng đào tạo. Do đó,
việc đổi mới phương pháp đào tạo, ứng dụng các phương pháp đào tạo hiện đại vào
hoạt động đào tạo là hết sức cần thiết. Để đổi mới, hoàn thiện phương pháp đào tạo
Chấp hành viên trong thời gian tới tác giả xin đưa ra một số kiến nghị sau:
86
8. Tiếp tục triển khai và hoàn thiện phương pháp thực hành tình huống
cho đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự
Như trên đã phân tích trong chương 2, phương pháp thực hành tình huống đã
mang lại những kết quả bước đầu. Các giảng viên tham gia giảng dạy và các học
viên tiếp nhận phương pháp hết sức nồng nhiệt và đã đánh giá rất cao phương pháp
này. Vì vậy, trong các khóa học tới cần tiếp tục triển khai phương pháp thực hành
tình huống trong các giờ học tình huống. Tuy nhiên, để phương pháp này đạt được
hiệu quả như mong muốn thì cần phải hoàn thiện và khắc phục một số bất cập, cụ
thể:
Thứ nhất, cần cần nhắc để bố trí từ 25 -30 học viên để tất cả các học viên được
đóng vai Chấp hành viên và đóng vai nhiều lần trong một khóa học.
Thứ hai, trong các giờ thực hành tình huống giảng viên không chỉ gọi một
nhóm lên đóng vai mà có thể gọi hai nhóm lên đóng vai để có sự đối trọng giữa các
nhóm tạo sự hứng thú trong học tập cho các học viên.
Thứ ba, để tránh việc nhàm chán, lặp lại đồng thời tạo tính chủ động, sáng tạo
trong việc đóng vai của các học viên, sau khi nhóm thứ nhất đóng vai xong thì giảng
viên cần mở rộng hoặc đưa ra những tình huống phát sinh để nhóm đóng vai thứ hai
đóng thay vì cho nhóm thứ hai đóng vai giống như nhóm thứ nhất.
Thứ tư, trong các giờ thực hành tình huống giảng viên cần tăng cường đưa ra
nhiều tình huống phát sinh để học viên trao đổi thảo luận, trên cơ sở đó giảng viên sẽ
khái quát thành những kinh nghiệm nghề nghiệp cũng như cách thức giải quyết tình
huống phát sinh cho các học viên.
9. Tăng cường triển khai phương pháp quan sát và bình luận cho đội ngũ
chấp hành viên thi hành án dân sự
Như trên đã phân tích, trong các khóa đào tạo Chấp hành viên tại Học viện Tư
pháp cũng đã áp dụng phương pháp này bằng việc cho học viên đi kiến tập tại các cơ
quan thi hành án. Qua buổi kiến tập tại cơ quan thi hành án học viên được tổ chức
xem xét các hoạt động nghiệp vụ thực tế và đưa ra ý kiến bình luận. Nhờ đó, học
87
viên có thể quan sát những kiến thức lý thuyết kỹ năng trên thực tế được vận dụng
như thế nào, các thao tác nghiệp vụ được tiến hành ra sao. Từ đó, học viên có thể tập
làm theo một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất. Theo các chuyên gia tâm lý giáo dục,
những kiến thức thu lượm được thông qua hoạt động nhìn, qua thị giác bao giờ cũng
được bộ não ghi nhận nhanh hơn và lưu trữ lâu hơn việc thông qua hoạt động nghe,
qua thính giác. Ngoài ra, sau khi quan sát thực tế, học viên sẽ có những nhận xét,
bình luận về các nội dung đã được quan sát, nhờ vậy học viên không chỉ dừng lại ở
mức độ nhìn mà còn biết phân tích, đánh giá và đưa ra các cách làm riêng của mình.
Tuy nhiên, trong toàn bộ chương trình đào tạo Chấp hành viên mỗi học viên chỉ
được đi kiến tập một buổi, số lượng như vậy có thể nói là quá ít. Chính vì vậy, để
tăng cường việc áp dụng phương pháp quan sát và bình luận, trong các khóa học tới
cần có những thay đổi. Theo tác giả, ngoài việc cho học viên đi kiến tập trực tiếp tại
các cơ quan thi hành án thì có thể cho các học viên theo dõi hoạt động thực tế thông
qua các băng, đĩa… Tuy nhiên, để thực hiện được điều này thì cần phải có kinh phí,
nhân sự và sự phối hợp hết sức chặt chẽ của các cơ quan thi hành án thực hiện việc
thu hình.
10. Quy hoạch đội ngũ chấp hành viên mang tính chất lâu dài.
Để đảm bảo cho hoạt động thi hành án dân sự mang tính chủ động, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ đặt ra trước mắt và lâu dài thì công tác quy hoạch đội ngũ chấp hành
viên được xem và đánh giá là giải pháp vô cùng quan trọng để đề ra các chiến lược
đào tạo mang tính lâu dài và bổ sung nguồn nhân lực, kế cận cho tương lai khắc
phục tình trạng thiếu cục bộ tại các địa phương và nó được đánh giá vô cùng quan
trọng để xác định và dự báo chất lượng, số lượng nguồn nhân lực (Chấp hành viên)
hiện có và những biến động nhu cầu cho những năm tiếp theo.
Yêu cầu quy hoạch còn tác động một cách mạnh mẽ đến việc dự báo tình hình
phát triển của xã hội, số lượng công việc cần thực hiện hàng năm của hệ thống thi
hành án từ đó chủ động đi trước trong việc xây dựng nguồn nhân lực và tổ chức các
88
giải pháp phù hợp trong đào tạo bồi dưỡng nói chung và đào tạo bồi dưỡng Chấp
hành viên nói riêng.
Với quy định của pháp luật thì Chấp hành viên xác định gồm có 3 ngạch ( Chấp
hành viên cao cấp, chấp hành viên trung cấp, chấp hành viên sơ cấp) vậy thì việc
phân bổ đào tạo bồi dưỡng các nghạch chấp hành viên thế nào cho phù hợp đến nay
chưa có giải pháp đồng bộ nên quy hoạch chấp hành viên sẽ giải quyết vấn đề phân
bổ và đào tạo các ngạch chấp hành viên trên toàn hệ thống từ đó có những quy định
mang tính lâu dài.chính vì vậy cần xác định rõ số lượng các ngạch chấp hành viên
nhu cầu hiện tại và trong những năm tiếp theo theo một pháp đồ đánh giá được khảo
sát một cách thực tiễn và khoa học đây là tiền đề điều kiện quan trọng để xác định
chúng ta làm gì, đào tạo bồi dưỡng ra sao và số lượng Chấp hành viên cần thiết như
thế nào cho toàn hệ thống thi hành án dân sự.
89
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CHVTHADS đóng một vai trò hết sức quan trọng
trong quá trình việc xây dựng và phát triển ngành thi hành án. Tuy nhiên, thực trạng
quy định về ĐTBD đội ngũ CHVTHADS còn nhiều bấp cập, thiếu tính nhất quán và
nhiều quy định chưa cụ thể rõ ràng. Vì vậy, vấn đề hoàn thiện các quy định về
ĐTBD đội ngũ CHVTHADS có ý nghĩa quan trọng và cần thiết.
Bên cạnh việc hoàn thiện các quy định về nội dung này, hoạt động ĐTBD đội
ngũ CHVTHADS cũng cần có sự nâng cao chất lượng và hiệu quả. Muốn vậy,
ngành thi hành án cần chú trọng công tác ĐTBD, nâng cao năng lực của giảng viên
tham gia ĐTBD; đồng thời cần tăng cường cơ sở vật chất, đầu tư kinh phí cho
ĐTBD đội ngũ CHVTHADS trong thời gian tới. Tác giả cũng đưa ra những giải
pháp khác nhằm góp phần nâng cao hiệu quả ĐTBD đội ngũ CHVTHADS trong
thời gian tới.
90
KẾT LUẬN
ĐTBD đội ngũ CHVTHADS là vấn đề có ý nghĩa quan trọng nhằm góp
phần tạo ra một đội ngũ CHVTHADS có đủ năng lực chuyên môn, phẩm chất
chính trị và kỹ năng nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của ngành.
Trong những năm qua đã chú trọng hoạt động ĐTBD đội ngũ CHVTHADS.
Hiện nay, công tác này tuy đã đạt được nhiều thành quả đáng khích lệ nhưng vẫn
còn một số tồn tại cần khắc phục. Vì vậy, Luận văn đã nghiên cứu làm rõ một
cách cụ thể và toàn diện những kết quả, những tồn tại hạn chế cần khắc phục
trong thực tiễn thực hiện công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ CHVTHADS
những năm gần đây.
Hiện nay, trong tiến trình đổi mới, công tác ĐTBD đội ngũ CHVTHADS
không chỉ thực hiện nhiệm vụ phải từng bước chuẩn hóa đội ngũ CHVTHADS
mà còn góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả việc thực hiện chức năng thi
hành án. Vì vậy, kết quả nghiên cứu của Luận văn đã đề xuất những quan điểm
mang tính chỉ đạo trong công tác ĐTBD đồng thời đề ra những giải pháp mang
tính khoa học, tính thực tiễn và có tính ứng dụng trong việc đổi mới công tác
ĐTBD đội ngũ CHVTHADS trong những năm tiếp theo.
91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bình luận Pháp lệnh THA dân sự năm 2004 (2006), Nxb Tư pháp, Hà Nội
2. Luật thi hành án dân sự năm 2008 và luật sửa đổi bổ sung năm 2014.
3. GS.Sakaii thuộc khoa sau Đại học Luật, trường Đại học Ritsumeikan, Nhật
Bản (2015), Cấu trúc cơ bản của cơ chế THADS của Nhật Bản, Hội thảo tại Bộ Tư
pháp ngày 28 tháng 7 năm 2015, nguồn Vụ PL dân sự kinh tế - Bộ Tư pháp, Hà Nội
4. Lê Tuấn Sơn - Nghề Chấp hành viên, báo nhân dân số 12283 ngày
05/4/2016.
5.Quốc Triều hình luật (2009), Nxb Pháp lý, Hà Nội.
6. GS.Claude Brenner, Đại học Panthéon - Assas Cộng hòa Pháp (2006),
Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc lựa chọn mô hình tổ chức thi hành án
phù hợp với mỗi Quốc gia của tại Hội thảo Quốc tế các mô hình tổ chức thi hành án
trên thế giới, Hà Nội ngày 17 và 18 tháng 4 năm 2006, Kỷ yếu Hội thảo Nhà PL Việt
Pháp, Hà Nội
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ 26 Ban chấp hành
Trung ương Khoá XII năm 2019, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
8. Học Viện tư pháp (2015), Giáo trình Kỹ năng THADS, Nxb Tư pháp, Hà
Nội, tr.796.
9. Học Viện tư pháp (2015), Giáo trình Kỹ năng THADS, Nxb Tư pháp, Hà
Nội, tr.895.
10.Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành
Trung ương Khoá XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2020, tr.188
11. Chính phủ: Tờ trình số 31/TTr-CP ngày 04 tháng 4 năm 2008 về Dự án
Luật Thi hành án dân sự
12. Đào Ngọc Tuấn (2012), Tính phổ biến và tính đặc thù trong xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội, tr.86.
13. V.I.Lênin (1970), Toàn tập, tập 32, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.270
14. XYZ (1959), Sửa đổi lề lối làm việc, Nxb Sự thật, Hà Nội
92
15. Viện ngôn ngữ học (2016), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội,2017
tr.996
16. Viện ngôn ngữ học (2016), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr.233
17. V.I.Lênin (2015), Toàn tập, tập 36, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.36
18. Nghị định ngày 16/3/1910 của Toàn quyền Đông Dương
19. Các cơ quan thi hành án dân sự bao gồm: Cơ quan thi hành án dân sự cấp
tỉnh; Cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện và Cơ quan thi hành án trong quân đội
(Thi hành án quân khu).
20. Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2015),
Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2015 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, Hà Nội
21. Thu Hằng (2019), Báo pháp luật số 144 ngày 16/6/2018 của tác giả, Hà Nội
22. Nguồn Cục Thi hành án dân sự
23. Lê Tuấn Sơn - Nghề Chấp hành viên, báo nhân dân số 12283 ngày
05/4/2020.
24. Bộ Tư pháp (2020), Báo cáo số 10/BC-THA về một số tồn tại trong công
tác thi hành án dân sự và giải pháp, kiến nghị, Hà Nội
25. Trường cán bộ TA, TANDTC, "Những vấn đề pháp lý cơ bản về hội nhập
quốc tế", Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2015
26. Bộ Tư pháp (2007), Nghiên cứu thực trạng, nhu cầu phát triển đội ngũ Chấp
hành viên và xây dựng chương trình đào tạo theo yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài
khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
27. Bộ Tư pháp (2012), Quyết định số 2659/QĐ-BTP, ngày 03/10/2012 về việc
ban hành Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức ngành
Tư pháp, Hà Nội.
28. C.Brenner (2006), Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc lựa chọn
mô hình tổ chức thi hành án phù hợp với mỗi quốc gia tại Hội thảo quốc tế các mô
93
hình tổ chức thi hành án trên thế giới, Hà Nội ngày 17 và 18/4/2006, Kỷ yếu Hội
thảo Nhà Pháp luật Việt Pháp, Hà Nội.
29. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Nghị định số
61/2009/NĐ-CP, ngày 24/7/2009 quy định về tổ chức và hoạt động của Thừa phát
lại thực hiện thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội.
30. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Nghị định số
74/2009/NĐ-CP ngày 09/92009 quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật
Thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân
sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự, Hà Nội.
31. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Nghị định số
18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2010 về đào tạo, bồi dưỡng công chức, Hà Nội.
32. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Nghị định số
21/2010/NĐ-CP ngày 08/2/2010 về quản lý biên chế công chức, Hà Nội.
33. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Nghị định số
24/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 và Nghị định số 93/2010/NĐ-CP ngày 31/8/2010
về tuyển dụng và quản lý công chức, Hà Nội.
34. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Báo cáo công
tác Thi hành án dân sự 5 năm (từ năm 2010 đến 2014), Hà Nội.
35. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Nghị định số 108/2014/NĐ-CP về chính sách tinh giản biên chế, Hà Nội.
37. Trần Văn Quảng (1996), Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động thi hành án
dân sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật, Hà Nội.6.
Số liệu báo cáo của Cục thi hành án dân sự, tính đến 30/9/2020.