VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƯƠNG ANH QUYẾT

ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CHẤP HÀNH VIÊN THI

HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và luật hành chính

Mã số: 8.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. Đặng Thị Phượng

HÀ NỘI, 2021 2

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỘI NGŨ CHẤP HÀNH VIÊN THI HÀNH

ÁN DÂN SỰ

I. Khái niệm, đặc điểm về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi hành án

dân sự

II. Nội dung của đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự

III. Các yếu tố ảnh hưởng đến đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi

hành án dân sự

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ

CHẤP HÀNH VIÊN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

I. Khái quát đội ngũ Chấp hành viên thi hành án dân sự

II.Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Chấp hành viên thi hành án

dân sự ở Việt Nam hiện nay

III. Đánh giá thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Chấp hành viên thi

hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO

TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CHẤP HÀNH VIÊN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

I. Quan điểm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Chấp hành viên thi

hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay

II. Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Chấp hành viên thi

hành án dân sự trong thời gian tới

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

3

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

1. THA Thi hành án

2. THADS Thi hành án dân sự

3. TA Tòa án

4. XHCN Xã hội chủ nghĩa

5. CQTHA Cơ quan thi hành án

6. CQTHADS Cơ quan thi hành án dân sự

7. CHV Chấp hành viên

8. BA, QĐ Bản án, quyết định

9. TAND Tòa án nhân dân

10. PL Pháp luật

11. CQQLNN Cơ quan quản lý nhà nước

12. VKSND Viện kiểm sát nhân dân

13. CBCC Cán bộ công chức

14. CCHC Cải cách hành chính

4

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của luận văn

Trong thời gian qua, trên cơ sở các nghị quyết của Đảng, Nhà nước đã thực

hiện những biện pháp cải cách nền hành chính quốc gia trên nhiều lĩnh vực, trong

đó, vấn đề cải cách chế độ công vụ, công chức luôn được xác định là yếu tố quan

trọng. Các biện pháp cải cách đó đã mang lại những kết quả nhất định: nền hành

chính phục vụ đã bắt đầu hình thành thay thế cho nền hành chính quan liêu, bao cấp;

công tác tuyển chọn, quản lý cán bộ, công chức ngày càng công khai, minh bạch, có

sự phân cấp rõ hơn về thẩm quyền; đội ngũ cán bộ, công chức được đào tạo cơ bản,

tăng về số lượng và chất lượng, bước đầu đã có sự chuẩn hoá; một số cơ quan của

Nhà nước, của Đảng đã được sắp xếp lại theo hướng tinh giảm… Tuy nhiên, kết quả

đạt được chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu của nhân

dân cũng như mong muốn của Đảng và Nhà nước. Tình trạng nhũng nhiễu, cửa

quyền, thiếu trách nhiệm ở một bộ phận cán bộ, công chức, nhất là ở các cơ quan

trực tiếp giải quyết công việc của nhân dân và doanh nghiệp chậm được khắc phục;

tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra

nghiêm trọng; chế độ tiền lương chưa phản ánh đúng giá trị sức lao động và chưa

đáp ứng được nhu cầu đời sống của cán bộ, công chức; các quy định về tuyển dụng,

đào tạo, bồi dưỡng và đánh giá cán bộ, công chức còn nhiều bất cập; chưa có chính

sách phù hợp để thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao phục vụ cho nền công vụ;

v.v...1

Đội ngũ chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự cũng không nằm ngoài tình

trạng nói trên. Ngoài ra, xuất phát từ đặc thù nghề nghiệp, đội ngũ chấp hành viên ở

nước ta còn tồn tại những điểm khiếm khuyết như: chấp hành viên còn lúng túng về

các kỹ năng nghiệp vụ cơ bản của hoạt động thi hành án dân sự, việc đào tạo Chấp

hành viên còn mang tính chắp vá, thiếu đồng bộ, việc đào tạo chuẩn hoá trình độ

5

chấp hành viên còn chậm và chưa được quan tâm đúng mức… Những vấn đề này

ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công tác thi hành án.

Trong bối cảnh Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn

thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân do dân vì dân, vai trò

và ý nghĩa của công tác thi hành án dân sự ngày càng được nhận thức đầy đủ hơn,

có vị trí xứng đáng trong hệ thống tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp

Việt Nam. Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động thi hành án dân sự cũng

được ban hành và hoàn thiện đảm bảo khung pháp lý về tổ chức hoạt động và việc

thực thi các phán quyết dân sự của Toà án. Hoạt động thi hành án trong thời gian

qua đã có những bước chuyển biến đáng ghi nhận, tổ chức và hoạt động của cơ quan

thi hành án được hoàn thiện dần, đội ngũ chấp hành viên được tăng cường về số

lượng và đào tạo về kỹ năng nghiệp vụ. Trong thời gian qua, để thực hiện Nghị

quyết số 08/NQ-TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị, năm 2003, Cục

Thi hành án dân sự (nay là Tổng cục Thi hành án dân sự) cũng đã tiến hành rà soát

từng bước đội ngũ Chấp hành viên. Năm 2005, thực hiện yêu cầu của Bộ Nội vụ,

Cục Thi hành án dân sự cũng đã tiến hành tổng điều tra, khảo sát đội ngũ cán bộ

công chức các cơ quan thi hành án dân sự trong phạm vi toàn quốc.

Bên cạnh những thành quả đã đạt được, hoạt động của cơ quan thi hành án nói

chung và đội ngũ chấp hành viên nói riêng vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Một trong

số các khiếm khuyết nổi cộm đó là số vụ việc ngày càng tăng sẽ đặt ra những yêu

cầu hết sức khó khăn cho các cơ quan thi hành án dân sự, do vậy:

Cần có bao nhiêu Chấp hành viên để có thể hoàn thành nhiệm vụ được giao? và

làm thế nào để tăng cường năng lực của chấp hành viên để thực hiện công việc thật

năng suất, hiệu quả? vẫn đang là những câu hỏi lớn chưa có lời giải đáp một cách

thoả đáng. Số lượng chấp hành viên theo đánh giá thì vẫn còn thiếu và yếu, vậy thiếu

đến đâu và yếu như thế nào thì cho đến nay vẫn chưa có phân tích, đánh giá, lý giải

một cách khoa học và hệ thống.

6

Trong những năm qua, mặc dù các cơ quan chức năng đã có nhiều cố gắng,

song vẫn chưa có được một giải pháp hữu hiệu cho việc đào tạo đối với đội ngũ

Chấp hành viên. Trên thực tế, lâu nay việc đào tạo Chấp hành viên còn mang tính

chắp vá, thiếu đồng bộ. Việc đào tạo chuẩn hoá trình độ chấp hành viên còn chậm và

chưa được quan tâm đúng mức. Công tác đào tạo nghiệp vụ Chấp hành viên tại Học

viện tư pháp còn có những hạn chế như: chỉ tiêu được phân bổ hàng năm chưa cao

(chỉ 300 Chấp hành viên/năm), đội ngũ giảng viên tuy có kinh nghiệm thực tiễn

nhưng lại ít kinh nghiệm về công tác sư phạm, lịch học chưa thực sự phù hợp với các

chấp hành viên ở các tỉnh xa, nội dung chương trình đào tạo mới dừng lại ở việc vừa

đào tạo, vừa rút kinh nghiệm...

Một bộ phận Chấp hành viên sau khi được bổ nhiệm còn gặp rất nhiều lúng

túng về các kỹ năng nghiệp vụ cơ bản của hoạt động thi hành án dân sự như: các yêu

cầu của việc tống đạt giấy tờ, yêu cầu của quá trình xác minh, kỹ năng lập biên bản,

yêu cầu của việc cưỡng chế... Các kỹ năng nghề nghiệp là điều kiện hết sức quan

trọng để Chấp hành viên có thể hoàn thành nhiệm vụ. Việc thi hành án không chỉ

thực hiện đúng các thủ tục thi hành án mà đòi hỏi chấp hành viên phải hiểu biết pháp

luật dân sự, hôn nhân gia đình, đất đai, doanh nghiệp... Chưa kể, pháp luật ở nước ta

thường xuyên thay đổi, nhiều quy định quá chung chung, thiếu rõ ràng, trong khi đó

Chấp hành viên không được đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn một cách thường xuyên,

kịp thời. Điều này đã dẫn đến một thực tế là Chấp hành viên áp dụng không đúng,

thiếu thống nhất, thậm chí sai các quy định của pháp luật. Mãi đến năm 2002, chúng

ta mới mở được khóa đào tạo nguồn Chấp hành viên đầu tiên, song công tác đào tạo

nghề của Chấp hành viên mới chỉ ở bước đầu vừa làm vừa học hỏi và rút kinh

nghiệm, nên hiệu quả chưa thực sự như mong muốn;

Đặc biệt, hiện nay trước yêu cầu thực hiện chiến lược cải cách tư pháp trong

lĩnh vực thi hành án đã được đặt ra trong hai Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị

đó là Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn

thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và 7

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020 với các định hướng lớn về cải cách, đổi mới trong lĩnh vực thi hành án cần

phải được nghiên cứu để luận giải một cách thấu đáo, như: Tăng thời hạn bổ nhiệm

chức danh tư pháp hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm không kỳ hạn; Nghiên cứu thực

hiện cơ chế thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào chức danh chấp hành viên; Có cơ

chế thu hút, tuyển chọn người có tâm huyết, đủ đức, đủ tài vào làm việc tại các cơ

quan thi hành án; Mở rộng nguồn để bổ nhiệm vào chức danh chấp hành viên không

chỉ là cán bộ trong các cơ quan tư pháp, mà còn là các luật gia, luật sư; Đào tạo, bồi

dưỡng nâng cao năng lực về ngoại ngữ, tin học cho đội ngũ chấp hành viên để có

thể thi hành tốt các vụ án có yếu tố nước ngoài, v.v...

Trong quá trình thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2025, Bộ Tư

pháp đã xác định công tác thi hành án dân sự là một trong những nhiệm vụ trọng tâm

trước mắt cũng như lâu dài, đồng thời chuẩn bị các điều kiện cần thiết để giúp Chính

phủ quản lý thống nhất công tác thi hành án nói chung. Vì vậy, việc xây dựng đội

ngũ chấp hành viên đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có năng lực

vững vàng về chuyên môn, nghiệp vụ được coi là điều kiện tiên quyết để đảm bảo

thực hiện thắng lợi nhiệm vụ thi hành án.

Tuy nhiên, hiện nay đội ngũ chấp hành viên nói riêng, cán bộ cơ quan thi

hành án dân sự nói chung còn thiếu về số lượng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ

chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, kết quả đào tạo bồi dưỡng chưa đạt

được nhiều hiệu quả như mong muốn, chưa có các chuyên đề kế hoạch đào tạo lâu

dài mang tính chiến lược từ đó giải quyết được các yêu cầu trước mắt và lâu dài

trong việc xắp xếp và bố trí các nhiệm vụ đào tạo bồi dưỡng cho cả hệ thống cơ

quan thi hành án dân sự nói chung và Chấp hành viên nói riêng. Kết quả đào tạo

và những chương trình trọng tâm thể hiện tại Học viện tư pháp chỉ mang vóc dáng

đào tạo về nghiệp vụ mang tính bổ trợ kiến thức pháp lý chưa khái quát một cách

có hệ thống cho việc đào tạo, bồi dưỡng mang tính chất lâu dài, vì thế việc nâng

cao hơn nữa kết quả đào tạo một cách toàn diện về chuyên môn, đạo đức cho đội 8

ngũ Chấp hành viên là nhiệm vụ giải pháp trước mắt và lâu dài mang tính chiến

lược của cả hệ thống đặc biệt là Học viện tư pháp trong giai đoạn trước mắt và lâu

dài mang tính chiến lược đây là cơ sở để dần hoàn thiện hơn nữa hệ thống cơ quan

thi hành án dân sự và đội ngũ chấp hành viên đáp ứng sự mong đợi của nhà nước

và nhân dân. Như vậy công tác đào tạo, bồi dưỡng luôn là cái gốc rễ của cán bộ

quyết định cho việc thực hiện nhiệm vụ của cả hệ thống nghành nên việc đào tạo

bồi dưỡng làm sao cho trọng tâm, có hệ thống, chất lượng đào tạo bồi dưỡng đáp

ứng yêu cầu nhiệm vụ của đất nước là câu hỏi cần được giải đáp một cách khoa

học đối với tất cả các nghành các lĩnh vực, Công tác đào tạo Chấp hành viên còn

mới mẻ, kinh nghiệm chưa nhiều. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài luận văn “Đào tạo,

bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”

làm luận văn thạc sĩ luật học góp phần quan trọng trong quá trình nâng cao năng

lực thi hành án dân sự nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong thời gian tới.

Tình hình nghiên cứu của đề tài:

Ở Việt Nam, việc nghiên cứu vấn đề ĐTBD đội ngũ cán bộ tư pháp nói chung

trong đó có CHVTHADS nói riêng luôn được Đảng và nhà nước ta quan tâm, đặc

biệt kể từ khi triển khai thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ

Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, các chương trình kế hoạch

cải cách tư pháp của Ban Cải cách tư pháp Trung ương và của ngành Thi hành án

dân sự nói riêng và được cụ thể hóa bằng các chương trình đào tạo do Tổng cục thi

hành án dân sự và Học viện tư pháp tổ chức thực hiện, Kết quả đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ công chức trong hệ thống Nghành thi hành án nói chung và đào tạo, bồi

dưỡng Chấp hành viên nói riêng đã nang tính bài bản có hệ thống các chức danh

được quan tâm xây dựng trên cơ sở các điều kiện cần và đủ, chất lượng đào tạo đáp

ứng yêu cầu, số lượng đào tạo phù hợp với nhiệm vụ và yêu cầu đặt ra của xã hội,

công tác bồi dưỡng được thực hiện đình kỳ theo chuyên đề hàng năm cững như các

chuyên đề cụ thể được cập nhật đã tạo cho cán bộ, công chức và chấp hành viên linh

hoạt và đủ điều kiện cơ sở bắt kịp các quy định của pháp luật, nhiều sự quan tâm của

ngành trong đào tạo mở (đào tạo các chức danh thạc sĩ, tiến sĩ, cao cấp lý luận chính 9

trị......được quan tâm và xem, như nhiệm vụ trong tâm của nghành đối với một số

chức danh chủ chốt và dần mở rộng đối với toàn bộ hệ thống cán bộ nói chung. Đay

là những bức đệm quan trọng mang tính tích cực để dần hoàn thiện một cơ chế đào

tạo bồi dưỡng mang tính chát hệ thống và lâu dài khẳng định qua chất lượng của

chấp hành viên và kết quả thi hành án dân sự hàng năm của toàn hệ thống. Làm tốt

hơn nữa vấn đề này vai trò của tổng cục thi hành án, học viện tư pháp là rất quan

trọng song song với những kết quả đạt được vẫn còn nhiều những bất cấp về chất

lượng đội ngũ chấp hành viên mà nòng cốt là công tác đào tạo bồi dưỡng vẫn còn là

một trong những vấn đề cần được quan tâm cần xây dựng thành một đề án có tính

chiến lược đáp ứng được yêu cầu lâu dài và định hướng đúng đắn phù hợp trong

công tác đào tạo bồi dưỡng.

Bởi vậy, cũng có nhiều tác giả, nhiều công trình, Luận văn nghiên cứu, đánh

giá và đề cập chuyên sâu về vấn đề này. Một số công trình tiêu biểu có thể kể đến

như

- Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa của tác giả Đỗ

Thành Nam.

- Hoàn thiện địa vị pháp lý của chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt

Nam của tác giả Nguyễn Thị Phíp.

- Vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực Thi hành án dân sự qua thực tiễn tại

Thanh Hóa của tác giả Lê Trung Kiên.

- Chất lượng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Giang của

tác giả Nguyễn Thành Bắc.

- Chất lượng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở tỉnh Đồng Tháp của

tác giả Vũ Quang Hiện.

- Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Đồng Tháp của tácgiả Trần

Công Bằng.

- Mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự với cơ quan, tổchức

hữu quan trong Thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa của tác giả Vi Trọng Thụ .

10

- Quản lý nhà nước bằng pháp luật trong thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa

hiện nay của tác giả Lê Hùng Cường.

- Xây dựng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở thành phố Hà Nội của

tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân.

- Chất lượng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Giang hiện

nay của tác giả Hà Thị Thái.

- Công tác thi hành án dân sự ở huyện miền núi Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa của

tác giả Trương Anh Quyết.

- Góp phần hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự tại Việt Nam hiệnnay

của tác giả Lê Hùng Cường.Ngoài ra còn nhiều công trình, đề tài khoa học và các

bài viết nghiên cứu của các tác giả khác về một số vần đề lý luận và thực tiễn về thi

hành án dân sự và chấp hành viên; nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu

dưới góc độ lý luận và thực tiễn về: “Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Chấp hành viên

Thi hành án dân sự ở việt nam hiện nay”.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ

2.1. Mục tiêu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, phân tích quy định của pháp luật, đánh giá thực

trạng đội ngũ chấp hành viên hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất nhu cầu phát triển đội

ngũ chấp hành viên và chương trình khung về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành

viên thi hành án dân sự trong thời gian tới đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.

2.2. Nhiệm vụ

Để đạt được mục tiêu đề ra, Luận văn có những nhiệm vụ chính sau đây:

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về ĐTBD đội ngũ CHV, từ đó làm rõ khái

niệm, đặc thù nghề nghiệp chấp hành viên, các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng lao

động của chấp hành viên.

- Phân tích thực trạng quy định về ĐTBD đội ngũ CHV, theo đó nghiên cứu

khái niệm, nội dung và xác định rõ các tiêu chí đánh giá đội ngũ chấp hành viên.

11

- Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao chất lượng đào

tạo, bồi dưỡng chấp hành viên nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta

hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở Việt Nam

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý

luận, những quy định về ĐTBD đội ngũ CHVTHADS.

Phạm vi không gian: Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi hành án

dân sự ở Việt Nam

Phạm vi thời gian: Giai đoạn 2015-2020

5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Để thực hiện nhiệm vụ đặt ra, Luận văn xây dựng dựa trên quan điểm duy vật

biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chính Minh và

các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về ĐTBD cán bộ, công chức.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp lịch sử: Thực tiễn cho thấy, hoạt động tư pháp nói chung và

THADS nói riêng là một lĩnh vực có bề dày lịch sử. Vì vậy, trong quá trình nghiên

cứu, tác giả đã tập trung nghiên cứu cả những vấn đề chúng ta đã làm được, thậm chí

có những kinh nghiệm quý báu của cha ông ta đã được luật hóa có giá trị pháp lý.

Ngoài ra, trong thời gian qua, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học

liên quan đến công tác thi hành án. Vì vậy, việc sử dụng phương pháp nghiên cứu

lịch sử sẽ giúp tác giả sử dụng kết quả đã được nghiên cứu nay vẫn còn có giá trị

thực tiễn, giá trị chứng minh để làm phong phú thêm nội dung nghiên cứu của Luận

văn, đồng thời đảm bảo tránh sự trùng lắp.

12

- Phương pháp phân tích: Phân tích các định hướng phát triển nhất là

địnhhướng cải cách tư pháp, các điều kiện khách quan, chủ quan, vấn đề kinh tế, xã

hội của Việt nam; phân tích thực trạng đội ngũ CHV và phân tích các quy định PL

có liên quan để làm rõ cơ sở thực tiễn và khoa học lý luận về phát triển đội ngũ CHV

mà cụ thể là vấn đề đào tạo đội ngũ CHV.

- Phương pháp so sánh: Để việc nghiên cứu có hiệu quả, mỗi vấn đề được đưa

ra đều có sự so sánh, đối chiếu, kể cả so sánh đối chiếu với kinh nghiệm của một số

nước, làm cơ sở cho việc vận dụng linh hoạt những nội dung đã được kiểm nghiệm

có hiệu quả của nước ngoài phù hợp với tình hình của nước ta. Tránh sự sao chép

máy móc kinh nghiệm của nước ngoài.

- Phương pháp tổng hợp: Trên cơ sở những nghiên cứu lý luận và thực tế, tổng

hợp các kết quả thu được, đưa ra phương hướng, giải pháp về nhu cầu phát triển

đội ngũ chấp hành viên và xây dựng chương trình đào tạo theo yêu cầu cải cách tư

pháp ở Việt Nam hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Luận văn nghiên cứu làm rõ một số nội dung sau:

- Làm rõ khái niệm, đặc điểm, nội dung của ĐTBD đội ngũ CHVTHADS của

Việt Nam hiện nay

- Đánh giá những kết quả, hạn chế và nguyên nhân những hạn chế trong công tác

ĐTBD đội ngũ đội ngũ CHVTHADS của Việt Nam hiện nay

-Từ đó đề ra những giải pháp có tính khoa học và phù hợp với thực tế nhằm

nâng cao hiệu quả ĐTBD các chức danh tư pháp và đội ngũ đội ngũ CHVTHADS của

Việt Nam trong thời gian tới.

Kết quả của Luận văn được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng

chiến lược ĐTBD đội ngũ CHVTHADS của Việt Nam. Đồng thời, kết quả đó cũng

được sử dụng vào việc đổi mới các nội dung có liên quan trong thực tiễn thực hiện

ĐTBD đội ngũ đội ngũ CHVTHADS của Việt Nam hiện nay.

7. Kết cấu của Luận văn

13

Ngoài phần lời nói đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3

chương.

Chương 1. Cơ sở lý luận về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ đội ngũ CHVTHADS.

Chương 2. Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ đội ngũ CHVTHADS ở Việt

Nam hiện nay.

Chương 3. Quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng

đội ngũ đội ngũ CHVTHADS ở Việt Nam hiện nay.

14

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CHẤP HÀNH

VIÊN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

I. Khái niệm, đặc điểm về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi

hành án dân sự.

1. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng.

1.1. Khái niệm về đào tạo.

Đào tạo là quá trình truyền thụ tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo

quy định của từng cấp học, bậc học từ đó tạo ra một đội ngũ có kiến thức bằng cấp cơ

bản tương ứng với các nghạch, bậc và trình độ chuyên môn được đào tạo (Trích nội dung

Quyết định số 273/QĐ-BTP năm 2008)

Đào tạo được hiểu là một quá trình hoạt động có tổ chức và mục đích hình thành và

phát triển hệ thống các tri thức, kỹ xảo,…để hoàn thiện một cá nhân, với mục tiêu để cho

họ có thể thực hiện công việc một cách có năng suất và hiệu quả. Theo Từ điển Bách

khoa Việt Nam, đào tạo là: Quá trình tác động đến một con người nhằm làm cho con

người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách có hệ

thống, nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng một sự

phân công lao động nhất định, góp phần của mình vào việc phát triển xã hội. Duy trì

và phát triển nền văn minh loài người, về cơ bản đào tạo là giảng dạy và học tập ở

nhà trường gắn với việc giáo dục đạo đức và nhân cách.

Theo Đại Từ điển tiếng Việt: “Đào tạo là dạy dỗ, rèn luyện để trở nên người có

hiểu biết, có nghề nghiệp: Đào tạo thành người có tri thức, đào tạo chuyên môn nghiệp

vụ”. Theo các văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam “đào tạo” như Nghị định

18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2010 của Chính phủ về ĐT,BD cán bộ, công chức đã đưa

ra cách hiểu về ĐTBD:“Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống

những tri thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp học, bậc học”

15

Từ các quan niệm trên trong phạm vi nghiên cứu của luận văn “đào tạo” có thể

được hiểu là quá trình trang bị kiến thức nghề nghiệp chuyên môn và kinh nghiệm

cho một chủ thể để họ có thể thực hiện công việc một cách độc lập trong một điều

kiện nhất định. Đào tạo là một quá trình hoạt động có tổ chức và mục đích nhằm

trang bị những kiến thức, kỹ năng một cách có hệ thống nhằm làm hình thành và

những tri thức thông qua giảng dạy, học tập, rèn luyện của chủ thể. Đào tạo có thể

được thực hiện ở các cơ sở đào tạo như: Trường Đại học, Cao đẳng, Trung học

chuyên nghiệp, Trường dạy nghề…. Đào tạo cũng có thể được thực hiện qua việc tự

rèn luyện, hoặc có thể được thực hiện thông qua. Đào tạo còn có được hiểu l một quá

trình truyền thụ những kiến thức mới, cơ bản một cách có hệ thống để chủ thể được đào

tạo qua đó có kiến thức, trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao hơn. Ví dụ: Đào tạo nâng

cao trình độ chuyên môn cho CHVTHADS (đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ).

Trong nội dung luận văn này đào tạo được hiểu là: Đào tạo là quá trình trang bị

tri thức và kỹ năngmột cách toàn diện cho con người qua sự học tập và rèn luyện

tích cực, chủ động của người đó.

1.2. Khái niệm về bồi dưỡng.

Bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật nâng cao kiến thức kỹ năng làm việc

bổ sung các quy định mới trong lĩnh vực công tác hoặc các lĩnh vực khác có liên

quan cho cán bộ, công chức hoặc người được bồi dưỡng, việc bồi dưỡng mang

tính chất ngắn hạn hoặc bổ sung thêm các kiến thức, các quy định mới ở một giai

đoạn một thời gian cụ thể.

Bên cạnh đó theo Đại từ điển tiếng Việt: bồi dưỡng là làm khoẻ thêm, mạnh

thêm. Làm cho tốt hơn, giỏi hơn. Nghị định 18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2010 của

Chính phủ về ĐTBD cán bộ, công chức, viên chức định nghĩa bồi dưỡng, “bồi

dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc”.

Như vậy, bồi dưỡng là công việc thường được thực hiện sau đào tạo hoặc trong

quá trình đào tạo, với mục đích bổ sung kiến thức hoặc trang bị thêm những kiến 16

thức mới cho một bộ phận một hệ thống đã được thông qua việc đào tạo về chuyên

nghành và đang thực hiện nhiệm vụ được giao liên quan đến các kiến thức cần được

cập nhật tại các chương trình bồi dưỡng đòi hỏi việc bồi dưỡng phải mang tính chất

linh động phù hợp đáp ứng kịp thời yêu cầu về mặt thời gian chất lượng trọng tâm

trong công tác bồi dưỡng tạo sự gắn kết giữa người được bồi dưỡng và kiến thức

được bồi dưỡng từ đó trang bị cho họ có đủ điều kiện, phẩm chất đạo đức, trình độ,

năng lực để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Kết quả của các khoá bồi dưỡng là

người học nhận được những chứng chỉ kết quả khóa bồi dưỡng. Qua những luận giải

ở trên, có thể đưa ra khái niệm: Bồi dưỡng là việc bổ sung kiến thức cho người đang

thực hiện những công việc trong những lĩnh vực nhất định với mục đích cho họ có được

kỹ năng và trình độ cao hơn để đáp ứng tốt hơn các yêu cầu, tiêu chuẩn của công việc.

Theo quy định mới của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 sửa đổi bổ sung

năm 2019 thì khái niệm công chức được hiểu là công dân Việt Nam, được tuyển

dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản

Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;

trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân

chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân

dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo,

quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ

chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên

chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh

đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương

của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.

1.3. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng chấp hành viên thi hành án dân sự Theo quy định của Đảng và nhà nước cũng như cụ thể hóa tại Luật thi hành án

dân sự (Điều 17 Luật thi hành án dân sự sủa đổi, bổ sung năm 2014)

17

Chấp hành viên thi hành án dân sự trước hết là công chức. Đồng thời cũng là

người được nhà nước giao nhiệm vụ thi hành những bản án, quyết định đã có hiệu

lực pháp luật giữ vai trò trung tâm trong các hoạt động thi hành án dân sự. Theo Từ

điển Luật học thì: Chấp hành viên thi hành án dân sự là công chức ngành tư pháp.

Người được Nhà nước giao trách nhiệm tổ chức thi hành bản án, quyết định về dân

sự của Toà án Việt Nam và bản án, quyết định về dân sự của Toà án nước ngoài đã

được Toà án Việt Nam công nhận [2].

Theo quy định tại Điều 17 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ sung

năm 2014 thì: Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các

bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật đồng thời quy định Chấp hành

viên có ba ngạch là Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành

viên cao cấp.

Tuy nhiên, Chấp hành viên là chức danh gì và có đặc thù ra sao thì hiện nay

đang có nhiều ý kiến khác nhau.

Liên quan đến vấn đề này, đa số ý kiến cho rằng, Chấp hành viên là chức danh

tư pháp, được pháp luật quy định nhiều nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng (tương tự

như chức danh Kiểm sát viên và Thẩm phán). Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng

Chấp hành viên là công chức hành chính - tư pháp vì xuất phát từ đặc thù của hoạt

động thi hành án là hoạt động mang tính chất hành chính - tư pháp.

Về vấn đề này qua nghiên cứu cho thấy, Chấp hành viên là một chức danh tư

pháp, được pháp luật quy định nhiều nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng. Bởi vì, khác

với hoạt động của các cơ quan hành chính, hoạt động của cơ quan thi hành án phần

lớn thông qua vai trò hoạt động của các cá nhân những người được Nhà nước giao

trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Toà án là Chấp hành viên. Mỗi

quyết định của CHV có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của các bên có liên

quan, đồng thời liên quan trực tiếp đến hiệu lực của bản án, quyết định nhân danh

Nhà nước của Toà án. Ngoài sự vô tư, khách quan của CHV, một trong những yêu

cầu không thể thiếu đó là khi thực thi nhiệm vụ, CHV độc lập, tuân theo bản án, 18

quyết định của Toà án và theo quy định của PL. Tính độc lập được hiểu là trong quá

trình thi hành án, dựa vào niềm tin nội tâm của mình, CHV chỉ tuân theo PL và bản

án, quyết định của Toà án, chịu trách nhiệm trước PL và được PL bảo vệ. Các cơ

quan Nhà nước, tổ chức xã hội, công dân… nếu không được PL cho phép, không

được can thiệp làm cho việc thi hành án không đúng với nội dung bản án, quyết định

của Toà án hoặc làm chậm tiến độ thi hành án, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của các

bên có liên quan. Báo cáo số 164/BC-UBTVQH12 ngày 22/10/2008 của Ủy ban

Thường vụ Quốc hội khóa 12 về việc giải trình tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật Thi

hành án dân sự cũng cho rằng: “Chấp hành viên là một chức danh tư pháp gắn với

việc thực hiện nghiệp vụ chuyên môn về thi hành án dân sự, việc bổ nhiệm không

theo nhiệm kỳ sẽ tạo ra sự yên tâm để Chấp hành viên làm tốt công tác thi hành án,

điều này cũng không làm hạn chế đến việc xử lý kỷ luật nếu Chấp hành viên có vi

phạm, hoặc miễn nhiệm nếu không đủ năng lực, điều kiện làm Chấp hành viên. Vì

vậy, dự thảo Luật đã được chỉnh lý theo hướng quy định việc bổ nhiệm Chấp hành

viên thông qua thi tuyển và không có nhiệm kỳ là phù hợp với định hướng của Nghị

quyết 49-NQ/TW của Bộ chính trị: “Nghiên cứu thực hiện cơ chế thi tuyển để chọn

người bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp. Tăng thời hạn bổ nhiệm chức danh tư

pháp hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm không có kỳ hạn”. Chấp hành viên có 3

nghạch là Chấp hành viên sơ cấp. Chấp hành viên trung cấp, Chấp hành viên cao

cấp. Việc bổ nhiệm Chấp hành viên thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ tư pháp,

công tác đào tạo bồi dưỡng Chấp hành viên được cụ thể hóa tại Luật thi hành án dân

sự và các văn bản hướng dẫn.

Chấp hành viên là chức danh tư pháp, được nhà nước giao trách nhiệm thi

hành các bản án, quyết định của Toà án, độc lập, tuân theo pháp luật, chịu trách

nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ

CHVTHADS là việc tổ chức thực hiện hoạt động ĐTBD cho đội ngũ CHVTHADS,

trong đó đào tạo là trang bị những kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ cần thiết cho

CHVTHADS nhằm đáp ứng điều kiện tiêu chuẩn của ngạch bậc; bồi dưỡng là việc 19

tổ chức thực hiện hoạt động bổ sung, cập nhật kiến thức mới hoặc rèn luyện thêm

các kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ CHVTHADS nhằm giúp họ nâng cao năng lực

trong thực hiện nhiệm vụ được giao.

Như vậy đào tạo Chấp hành viên là việc Tổng cục Thi hành án, Bộ Tư pháp

xây dựng chương trình kế hoạch, chọn lọc trên hệ thống thi hành án dân sự toàn

quốc các cán bộ công chức đủ điều kiện về mặt trình độ, thời gian, năng lực tham gia

lớp đào tạo Chấp hành viên (Sơ cấp, trung cấp, cao cấp) tại Học viện Tư pháp bằng

hình thức tập trung có thời hạn tối thiểu từ 06 tháng trở lên. Sau khóa đào tạo người

được đào tạo được trang bị những kiến thức cơ bản và đủ các điều kiện về mặt tiêu

trí để tham gia thi tuyển vào các ngạch chấp hành viên theo quy định.

Song song trong công tác đào tạo chuyên nghành hiện nay Bộ tư pháp, tổng

cục thi hành án đặc biệt quan tâm đến công tác đào tạo thêm kiến thức pháp luật nói

chung, và trang bị nhận thức lý luận chính trị cho đội ngũ chấp hành viên và cán bộ,

công chức bằng các hình thức khuyến khích tham gia các khóa đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ

và cao hơn cử cán bộ chủ chốt đủ điều kiện học các lớp cao cấp lý luận chính trị và

dần mở rộng đến tác đối tượng trong nguồn quy hoạch đây được đánh giá là những

bước tiến quan trọng trong công tác đào tạo để có đội ngũ cán bộ chấp hành viên

mang tính chiến lược lau dài.

Về công tác bồi dưỡng chấp hành viên được hiểu là việc xây dựng các chương

trình để bổ trợ kiến thức pháp luật đạo đức nghề nghiệp nhằm đáp ứng một mục tiêu

quan trọng đó là nâng cao kỹ năng thực thi nhiệm vụ, việc bồi dưỡng có thể mang

tính toàn diện trên cả hệ thống cũng có thể mang tính chọn lọc từng vùng từng đơn

vị với các chuyên đề phù hợp. Hiện nay công tác bồi dưỡng đã cơ bản được thực

hieenj thường xuyên đúng với các mục tiêu và đối tượng nhắm đến nhưng chất

lượng sau bồi dưỡng vẫn còn hạn chế bất cập cần được xem xét để có giải pháp phù

hợp.

2. Đặc điểm của đào tạo, bồi dưỡng Chấp hành viên thi hành án dân sự

20

Một là, ĐTBD đội ngũ CHVTHADS là việc tổ chức thực hiện hoạt động ĐTBD

gắn liền với vị trí và nhiệm vụ của CHVTHADS và theo tiêu chuẩn của từng ngạch

bậc CHVTHADS và từng lĩnh vực công tác.

Bộ Tư pháp trên cơ sở của việc quy định chức năng nhiệm vụ cụ thể của

CHVTHADS cần phải xác định năng lực cần thiết, từ đó thực hiện công tác tuyển

dụng, bố trí, sử dụng đội ngũ CHVTHADS. Điều đó đòi hỏi hoạt động đào tạo phải

xác định được nội dung, hình thức, mô hình và phương pháp ĐTBD phù hợp với

từng ngạch CHVTHADS. Cụ thể là, đối với để thi nâng ngạch phải qua bồi dưỡng

trung cấp lý luận chính trị; Đối với bồi dưỡng nghiệp vụ cho CHVTHADS, về nội

dung, cần bồi dưỡng chuyên sâu về chuyên môn theo từng khâu nghiệp vụ.

CHVTHADS thực hiện ở khâu công tác nghiệp vụ nào thì sẽ được bồi dưỡng nghiệp

vụ ở khâu công tác đó, nhằm nâng cao chất lượng, kỹ năng thực nhiệm vụ theo hướng

chuyên môn hoá.

Hai là, ĐTBD đội ngũ CHVTHADS là việc ĐTBD kỹ năng hành nghề cho người

làm nghề, nhưng là loại hình nghề nghiệp đặc thù, vì thế nội dung, phương pháp, chủ thể

thực hiện việc ĐTBD cũng có những đòi hỏi khác biệt

Nội dung ĐTBD không chỉ có trang bị, cập nhật kiến thức mà còn trang bị, rèn

luyện kỹ năng nghề nghiệp, trong đó đề cao việc ĐTBD kỹ năng nghề nghiệp.

Phương pháp ĐTBD đòi hỏi sự kết hợp linh hoạt giữa thuyết trình với các phương

pháp có sự tham gia của người học, trong đó các phương pháp có sự tham gia của

người học giữ vai trò chủ đạo. Chủ thể đào tạo là những giảng viên không chỉ là đội

ngũ giảng viên cơ hữu của cơ sở ĐTBD mà bao gồm được sự tham gia của đội ngũ

giảng viên kiêm chức là các CHVTHADS có kinh nghiệm, có chuyên môn cao, trong

đó coi trọng phát triển đội ngũ giảng viên kiêm chức bên cạnh việc chăm lo bồi

dưỡng nghiệp vụ thực tiễn cho đội ngũ giảng viên cơ hữu.

Ba là, ĐTBD đội ngũ CHVTHADS gắn với quy hoạch, kế hoạch bố trí, sử dụng

cán bộ, công chức của ngành thi hành án

21

Thực hiện việc tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo điều hành trong việc phân

công, phân nhiệm trong tập thể lãnh đạo và đảm bảo “không có vùng trống cán bộ

chuyên trách” trong thực hiện các nhiệm vụ công tác.

Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CHVTHADS là ĐTBD kỹ năng nghề nghiệp nhưng

là loại hình nghề nghiệp đặc thù, nghề nghiệp thực thi pháp luật. Vì vậy, công tác

ĐTBD không chỉ chú trọng trang bị, rèn luyện kiến thức, kỹ năng mà còn quan tâm

đến việc hình thành và trau dồi đạo đức nghề nghiệp, truyền thụ những đường lối,

quan điểm chỉ đạo chung, trên cơ sở đó người học có được thái độ, cách thức ứng xử

trong thực tiễn thực hiện nhiệm vụ.

Bốn là, ĐTBD đội ngũ CHVTHADS là một hoạt động đặc thù

Có thể nói, CHV là một nghề nghiệp đặc thù, các thao tác nghiệp vụ của chấp

hành viên liên quan đến nhiều lĩnh vực ngành nghề khác nhau như Tài chính, Địa

chính, Xây dựn…và liên quan đến nhiều cơ quan khác nhau cùng phối hợp thực

hiện. Điều này đòi hỏi Chấp hành viên phải không những nắm vững pháp luật về

quy trình, thủ tục thi hành án, pháp luật chuyên ngành khác nhau mà còn phải am

hiểu các nghiệp vụ chuyên ngành khác, phải có khả năng chỉ đạo, tiến hành phối hợp

thực hiện nhiệm vụ nên công tác đào tạo, bồi dưỡng CHVTHADS cũng mang tính

đặc thù.

II. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự

Nhằm cụ thể hóa về quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước

về ĐTBD như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hành Trung ương khóa XI

(Nghị quyết số 29 – NQ/TW) với nội dung đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào

tạo giai đoạn 2006-2020, Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 6/9/2014 của Chính phủ về

đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo và các Nghị quyết của Đảng, Quốc

hội, Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu: Giáo dục nghề nghiệp,

tập trung đào tạo nhân lực có kiến thức, kỹ năng và trách nhiệm nghề nghiệp; giáo

dục đại học tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển

phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học..., các 22

cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về ĐTBD, cụ

thể là:

Luật Cán bộ, công chức năm 2008; Luật Viên chức năm 2008 và Luật sửa đổi,

bổ sung một số điều của Luật cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019 (có

hiệu lực thi hành ngày 01/7/2020); Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017

về ĐTBD cán bộ, công chức, viên chức... đã xác định mục tiêu của công tác ĐTBD

cán bộ, công chức, viên chức là: Trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện

nhiệm vụ trong hoạt động công vụ của cán bộ, công chức và hoạt động nghề nghiệp

của viên chức, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên

nghiệp, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị và năng lực, đáp ứng yêu

cầu phục vụ nhân dân, sự nghiệp phát triển của đất nước.

Để tiếp tục hoàn thiện và nâng cao năng lực về chuyên môn, nghiệp vụ của đội

ngũ cán bộ tư pháp, trong đó có đội ngũ chấp hành viên, Nghị quyết số 26-NQ/TW

ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản

Việt Nam khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp đã khẳng định:

“Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp… đào tạo cán bộ nguồn của các chức

danh tư pháp, bổ trợ tư pháp; bồi dưỡng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp theo hướng

cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề

nghiệp và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất, đạo đức trong sạch, dũng cảm đấu

tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”.

Quyết định 2707/QĐ-BTP ngày 29/12/2017 và Quyết định số 302/QĐ-BTP ngày

26/02/2018 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công

chức viên chức Bộ Tư pháp năm 2017-2018

Quyết định số 334/QĐ-BTP ngày 20/01/2019 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Phê

duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức viên chức Bộ Tư pháp năm 2019

Quyết định số 3179/QĐ-BTP ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Bộ Tư pháp về

Phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức viên chức Bộ Tư pháp năm 2020

23

Trong các kế hoạch xây dựng đội ngũ CHV có chất lượng cao, có trình độ

đào tạo phù hợp với lĩnh vực công tác; có kỹ năng nghiệp vụ thành thạo, tạo nguồn

nhân lực chất lượng cao hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ công tác được giao.

1. Về chủ thể đào tạo, bồi dưỡng

Chủ thể thực hiện hoạt động ĐTBD đội ngũ CHVTHADS chủ yếu của Học

Viện Tư pháp và một số cơ sở đào tạo Luật: Trường Đại học Luật, Khoa Luật Đại học

Quốc gia, Học viện Cảnh sát, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam…

Để thực hiện các hoạt động ĐTBD, các cơ sở ĐTBD phải tổ chức bộ máy

tương ứng với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, bao gồm các khoa chuyên môn

và các phòng chức năng. Trong đó, tham gia trực tiếp vào hoạt động ĐTBD là các

khoa chuyên môn có liên quan đến các lĩnh vực nghiệp vụ của ngành thi hành án và

phòng/khoa quản lý hoạt động ĐTBD, trong đó đặc biệt nổi bật là vai trò của đội

ngũ giảng viên - cỗ “máy cái” của quá trình ĐTBD cán bộ.

Thực hiện nhiệm vụ ĐTBD đội ngũ CHVTHADS, giảng viên có một vị trí,

vai trò vừa đặc biệt quan trọng lại vừa mang những nét đặc thù như sau:

- Giảng viên các cơ sở đào tạo trong ngành THA chính là những người trực tiếp

thực hiện và quyết định chất lượng ĐTBD; trực tiếp cung cấp các kiến thức pháp lý; kỹ

năng liên quan đến các công tác thực hiện chức năng của CHV mà trọng tâm là các kỹ

năng điều tra, thi hành án,... cho toàn bộ cán bộ trong ngành thi hành án. Vì vậy, mỗi cơ

sở đào tạo chỉ có thể đáp ứng được nhanh nhạy các yêu cầu đó nếu có một đội ngũ

giảng viên đủ mạnh, luôn sẵn sàng điều chỉnh thích ứng trong điều kiện mới.

- Đội ngũ giảng viên vừa có kiến thức lý luận và kinh nghiệm thực tiễn, bằng

năng lực thực sự, lòng yêu nghề, say mê nghiên cứu khoa học, mới có thể cung cấp

cho các ngành THA và xã hội những sản phẩm có giá trị nhất, quyết định sự phát

triển bằng việc ĐTBD nguồn nhân lực có chất lượng cao.

Giảng viên ĐTBD đội ngũ THA phải có phẩm chất chính trị vững vàng, chấp

hành nghiêm chỉnh đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thường

xuyên học tập nâng cao nhận thức chính trị, có ý thức tổ chức kỷ luật; đấu tranh, ngăn 24

chặn những hành vi vi phạm pháp luật và các quy định nghề nghiệp; gương mẫu thực

hiện nghĩa vụ công dân, tích cực tham gia các hoạt động chính trị, xã hội.

- Tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp

Giảng viên ĐTBD đội ngũ THA phải có đạo đức lối sống lành mạnh, thực

hiện trau dồi kiến thức kỹ năng luôn đi cùng với trau dồi đạo đức nghề nghiệp; Có

trình độ, có kinh nghiệm nghề nghiệp. Giảng viên phải thực sự gương mẫu, trách

nhiệm, yêu nghề, tâm huyết với nghề; có ý thức giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín,

lương tâm nhà giáo.

- Đạt chuẩn về trình độ đào tạo chuyên môn theo quy định

Giảng viên ĐTBD đội ngũ THA phải đạt chuẩn về trình độ đào tạo chuyên

môn, theo đó, phải có bằng cử nhân luật hoặc đại học khác trở lên, chuyên ngành

phù hợp với nghề giảng dạy, nắm vững kiến thức của môn học hay nội dung được

phân công giảng dạy.

Giảng viên ĐTBD đội ngũ THA phải có tiêu chuẩn về kỹ năng hành nghề luật.

Giảng viên cũng phải có khả năng thực hiện thành thạo các kỹ năng của nghề được

phân công giảng dạy; có khả năng áp dụng pháp luật và giải quyết tốt các tình huống áp

dụng pháp luật phát sinh trong thực tiễn công tác của nghề tương ứng mà mình có

nhiệm vụ ĐTBD.

- Có trình độ lý luận chính trị, quản lý nhà nước, tin học, ngoại ngữ và nghiệp

vụ sư phạm.

Giảng viên cơ hữu phải có chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm, có kinh nghiệm giảng

dạy đủ đáp ứng yêu cầu của công tác ĐTBD.

Ngoài ra, về công tác chuẩn bị và thực hiện hoạt động giảng dạy: giảng viên

tham gia hoạt động ĐTBD phải lập được kế hoạch giảng dạy môn học, cả khoá học;

soạn được giáo án theo quy định; lựa chọn được phương pháp dạy học phù hợp; chuẩn

bị đầy đủ các phương tiện dạy học, đảm bảo chất lượng dạy kỹ năng hành nghề luật;

ứng dụng được công nghệ thông tin trong giảng dạy.

- Tiêu chuẩn về kinh nghiệm thực tiễn: tiêu chuẩn về kinh nghiệm thực tiễn

25

nghề nghiệp cũng là nội dung quan trọng trong tiêu chuẩn giảng viên.

Tóm lại, đội ngũ giảng viên ĐTBD cần vừa phải giỏi chuyên môn, có nhiều

kinh nghiệm thực tiễn và kỹ năng nghề nghiệp.

2. Về đối tượng đào tạo, bồi dưỡng

Đối tượng của hoạt động ĐTBD là đội ngũ CHVTHADS là cán bộ đã được

tuyển dụng vào ngành, có trình độ cử nhân luật đã được đào tạo về nghiệp vụ THA và

được bổ nhiệm là CHVTHADS. Tuy nhiên, không phải mọi CHVTHADS đều được

đi ĐTBD mà tùy theo từng loại hình đào tạo hay bồi dưỡng, tùy thuộc vào vị trí,

nhiệm vụ mà được cử đi ĐBBD, cụ thể:

Về cử CHVTHADS đi bồi dưỡng, đối tượng bồi dưỡng chính là đội ngũ

CHVTHADS đã có kỹ năng, kinh nghiệm nghề nhất định, nhưng cần phải được bồi

dưỡng nâng cao, chuyên sâu để hoàn thiện tiêu chuẩn theo ngạch, bậc, chức vụ...

Chính tiêu chí này là căn cứ để xác định các điều kiện về nội dung chương trình bồi

dưỡng, phương pháp ĐTBD và giảng viên đảm bảo tính phù hợp và hiệu quả thực sự.

3. Về hình thức và nội dung ĐTBD

Hình thức bồi dưỡng công chức, viên chức trong đó có CHVTHADS gồm: Tập

sự; Bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp

viên chức; bồi dưỡng trước khi bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý; bồi dưỡng theo

yêu cầu của vị trí việc làm; bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên ngành.

Về nội dung bồi dưỡng

Nội dung bồi dưỡng đội ngũ CHVTHADS gồm: bồi dưỡng về lý luận chính

trị; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh; bồi dưỡng kỹ năng, kiến thức quản

lý nhà nước; bồi dưỡng kiến thức quản lý chuyên ngành, nghiệp vụ; đạo đức công

vụ, đạo đức nghề nghiệp; tin học, ngoại ngữ .

Nhóm nội dung bồi dưỡng gồm: Một là, bồi dưỡng lý luận chính trị cho

CHVTHADS gồm trung cấp lý luận chính trị và cao cấp lý luận chính trị; hai là,

chương trình bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh; ba là, chương trình bồi

dưỡng kiến thức quản lý nhà nước theo tiêu chuẩn ngạch công chức; bốn là, chương 26

trình bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước trước khi bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo,

quản lý; năm là, bồi dưỡng theo yêu cầu của vị trí việc làm, kỹ năng chuyên ngành.

4. Về quản lý đào tạo, bồi dưỡng

Hoạt động quản lý ĐTBD thực hiện theo các văn bản quy định như Nghị định

101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức, viên chức đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Bộ Nội vụ, Bộ Tài

chính, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, của bộ, cơ quan

ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và trách nhiệm của đơn vị sử dụng cán bộ, công

chức, viên chức phải thực hiện các quy định về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức, viên chức; quy định chế độ báo cáo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức, viên chức tại Điều 44.

III. Các yếu tố ảnh hưởng đến đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi

hành án dân sự

1. Yếu tố quản lý, điều hành của Lãnh đạo

Công tác tổ chức quản lý, chỉ đạo của Lãnh đạo các cơ sở đào tạo cũng ảnh

hưởng không nhỏ đến chất lượng ĐTBD đội ngũ CHVTHADS. Hệ thống tổ chức trong

nhà trường hình thành nên các bộ phận, quan hệ công việc giữa các bộ phận (phối hợp

và tương trợ); mối quan hệ như thế nào sẽ liên quan đến thời gian và hiệu quả hoạt động

ĐTBD. Công tác quản lý người học bao gồm nhiều vấn đề: Tổ chức kế hoạch ĐTBD

cho từng khoá học, năm học, học kỳ, hàng tuần; giải quyết những vướng mắc của người

học... Đây là công việc vừa ảnh hưởng trực tiếp đến thời gian, tiền bạc của người học,

vừa góp phần hình thành phong thái, đạo đức nghề nghiệp của CHVTHADS, đồng thời

góp phần nâng cao chất lượng ĐTBD.

Để góp phần kích thích người học tự giác, nhiệt tình học tập, cùng với những

chính sách khuyến khích của Nhà nước. Các biện pháp khuyến khích vật chất như

tiền thưởng, học bổng là rất quan trọng. Mối quan hệ giữa người học với giảng viên,

cán bộ quản lý, có ảnh hưởng rất lớn đến tin tâm lý người học.

2. Chương trình đào tạo, bồi dưỡng

27

Chương trình ĐTBD là hệ thống kiến thức lý thuyết và thực hành được thiết

kế đồng bộ với phương pháp giảng dạy và đánh giá kết quả học tập để đảm bảo

người học phải tích lũy được kiến thức và đạt được năng lực cần thiết đối với mỗi

trình độ của giáo dục đại học. Xây dựng Chương trình ĐTBD là cung cấp cho người

học thông tin về mục tiêu, nội dung môn học.

Chương trình ĐTBD quyết định tới nội dung, phương pháp ĐTBD. Chất

lượng ĐTBD là vấn đề cốt lõi của chương trình ĐTBD nó biểu hiện rõ nét qua năng

lực, khả năng vận dụng các kiến thức của người học sau khi học xong chương trình

ĐTBD đó.

3. Chất lượng của đội ngũ giảng viên

Chất lượng giảng viên tham gia ĐTBD cũng ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động

ĐTBD. Kiến thức của các môn học khác có liên quan, kiến thức về tâm lý, giao tiếp,

xử lý các tình huống sư phạm... Chất lượng của giảng viên trước hết phải xem xét tới

yếu tố: Đạt chuẩn về trình độ chuyên môn. Giảng viên phải có kiến thức thực tế, có

những kỹ năng nhất định ở từng khâu, từng giai đoạn của quá trình thực hiện chức

năng thi hành án dân sự thì mới đáp ứng được yêu cầu của hoạt động ĐTBD.

4. Yếu tố người học

Một trong những yếu tố quan trong tác động đến chất lượng nội dung, phương

pháp ĐTBD chính là người học. Người học có trình độ, năng lực ở mức nào, ý thức

học tập, ý thức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm của người học như thế nào sẽ quyết

định nội dung, chương trình ĐTBD và phương pháp ĐTBD khác nhau phù hợp với

từng đối tượng. Bên cạnh đó, khi người học xây dựng được cho mình động cơ học

tập đúng đắn thì người học sẽ hứng thú, say mê và việc dạy và học sẽ thu được

những kết quả tích cực.

5. Về điều kiện đảm bảo

Cơ sở vật chất và các phương tiện phục vụ giảng dạy, học tập là điều kiện tối

thiểu, đầu tiên của quá trình đào tạo.

Cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ, trang bị cho giáo dục đào tạo

28

những phương tiện, thiết bị giảng dạy rất hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng

đào tạo.

- Thư viện, phòng đọc, nguồn tài liệu phục vụ giảng dạy cần đa dạng

Với phương pháp ĐTBD hiện đại, người học tiếp cận tri thức dưới phương

pháp tự học, tự nghiên cứu.

IV. Yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự

Để tiếp tục hoàn thiện và nâng cao năng lực về chuyên môn, nghiệp vụ của đội

ngũ cán bộ tư pháp, trong đó có đội ngũ chấp hành viên, Nghị quyết số 26-NQ/TW

ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản

Việt Nam khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp đã khẳng định:

“Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp… đào tạo cán bộ nguồn của các chức

danh tư pháp, bổ trợ tư pháp; bồi dưỡng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp theo hướng

cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề

nghiệp và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất, đạo đức trong sạch, dũng cảm đấu

tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Đối với lĩnh vực thi hành án

dân sự, yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự phải

đảm bảo các yêu cầu Chấp hành viên có thể khái quát trên các khía cạnh:

1. Yêu cầu về trình độ chuyên môn

Xuất phát từ vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên nên việc

xác định yêu cầu về chuyên môn đôi với đội ngũ nãy giữ vai trò đặc biệt quan trọng.

Liên quan đến vấn đề này có quan điểm cho rằng: thời gian qua, tình trạng thiếu

Chấp hành viên diễn ra khá phổ biến, nhưng đến nay vẫn chưa thể khắc phục xong.

Nguồn cán bộ có trình độ cử nhân luật để bổ sung và thu hút vào các cơ quan thi

hành án dân sự gặp rất nhiều khó khăn (nhất là ở những đơn vị miền núi, vùng sâu,

vùng xa). Trong khi đó, hoạt động thi hành án dân sự có những loại việc tương đối

đơn giản, rõ ràng, lượng tiền, tài sản phải thi hành không lớn chỉ cần những người có

trình độ pháp lý ở mức độ vừa phải cũng có thể thực hiện được. Tuy nhiên, do pháp

luật hiện hành quy định cứng tiêu chuẩn bổ nhiệm Chấp hành viên phải có trình độ 29

"cử nhân luật trở lên" nên cơ quan thi hành án không thể tuyển những người có trình

độ trung cấp luật. Vì vậy, chưa tạo ra chính sách thu hút nguồn cán bộ vào làm

việc tại cơ quan thi hành án, kể cả việc thu hút những người có nhiều kinh nghiệm

về công tác dân vận, hiểu biết địa bàn và cơ sở như Chủ tịch, Phó chủ tịch, cán bộ tư

pháp - hộ tịch cấp xã đã được đào tạo trình độ trung cấp luật11. Tuy nhiên, đa số ý

kiến cho rằng, Chấp hành viên là chức danh tư pháp, được pháp luật quy định nhiều

nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng nên cần giữ nguyên tiêu chuẩn bổ nhiệm chấp hành

viên là cử nhân luật theo quy định của pháp luật hiện hành. Quy định như vậy cũng

phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp như Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày

02/01/2002 của Bộ Chính trị đã xác định: “Cán bộ có chức danh tư pháp phải có

trình độ đại học luật và được đào tạo về kỹ năng nghề nghiệ tư pháp theo chức

danh”. Do đó, Luật thi hành án dân sự đã giữ nguyên tiêu chuẩn bổ nhiệm chấp hành

viên là phải có trình độ cử nhân luật.

Qua nghiên cứu cho thấy, Chấp hành viên là chức danh tư pháp, được quy định

nhiều nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng nên Luật thi hành án dân sự quy định chấp

hành viên phải có trình độ cử nhân luật trở lên là phù hợp.

2. Yêu cầu về trình độ lý luận chính trị

Lý luận là hệ thống những tri thức đã được khái quát, tạo ra một quan niệm

hoàn chỉnh về các quy luật và về mối liên hệ cơ bản của hiện thực. Lý luận là sự

phản ánh và tái hiện hiện thực khách quan. Mọi lý luận đều quy định bởi hoàn cảnh

lịch sử trong đó nó hình thành từ điều kiện cụ thể của lịch sử sản xuất, kỹ thuật và

thực nghiệm. Còn chính trị là toàn bộ những hoạt động có liên quan đến mối quan

hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, các tầng lớp xã hội, mà cốt lõi của nó là vấn

đề giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực nhà nước, sự tham gia vào công

việc của nhà nước, sự xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của

nhà nước. Bất kỳ vấn đề chính trị nào cũng đều liên quan đến quyền lợi của các giai

cấp và nhà nước. Chính trị thuộc cấu trúc thượng tầng bao gồm (hệ tư tưởng chính

trị, nhà nước, các đảng phái) xuất hiện khi xã hội phân chia thành các giai cấp dựa 30

trên cơ sở hạ tầng kinh tế. Lê-nin khẳng định: "Không có một lập trường chính trị

đúng thì một giai cấp nhất định nào đó không thể giữ vững được sự thống trị của

mình, và do đó, cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực

sản xuất" (Lê-nin). Lý luận chính trị của Đảng và nhận thức lý luận chính trị của

cán bộ, đảng viên có tầm quan trọng đặc biệt, quyết định năng lực lãnh đạo, cầm

quyền của Đảng và sự thành bại của cách mạng. Lê-nin cho rằng, trước hết và trên

hết "lý luận là kim chỉ nam cho hành động", là điều kiện tiên quyết để đưa những

nghị quyết của đảng vào thực tiễn cuộc sống có hiệu quả. Còn theo Chủ tịch Hồ Chí

Minh thì không có lý luận cách mạng thì không có "cách mạng vận động". Sự

nghiệp đổi mới càng đòi hỏi cao sự lãnh đạo của Đảng, vai trò tiên phong, gương

mẫu, hiểu biết của cán bộ, đảng viên. Vì vậy, việc tăng cường nhận thức cho cán bộ,

đảng viên về lý luận chính trị trong tình hình hiện nay có ý nghĩa to lớn.

Đối với Chấp hành viên, người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành bản án,

quyết định của Tòa án. Các quyết định của Chấp hành viên có liên quan đến quyền

cơ bản của công dân (như quyền tài sản, quyền chỗ ở, quyền nhân thân...), liên quan

trực tiếp đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội nên ngoài sự hiểu biết về pháp

luật thì những kiến thức về lý luận chính trị đóng vai trò quan trọng trong quá trình

thực thi nhiệm vụ được giao. Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương

Đảng Khóa XII đã xác định: “cấp ủy địa phương có trách nhiệm lãnh đạo, thường

xuyên kiểm tra công tác kiểm sát và xét xử, công tác thi hành án bảo đảm đúng

đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước”. Ban Thường vụ Tỉnh

ủy, Thành ủy có trách nhiệm “giới thiệu nhân sự cấp trưởng, cấp phó Viện kiểm sát

nhân dân, Tòa án nhân dân, Thường trực cấp ủy giới thiệu nhân sự Thẩm phán và

Kiểm sát viên, Chấp hành viên để ngành dọc cấp trên bổ nhiệm”. Vì vậy, việc nâng

cao trình độ lý luận chính trị của Chấp hành viên là yêu cầu cần thiết.

3. Yêu cầu về ngoại ngữ, tin học

Ngoài các yêu cầu về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, chính trị, phẩm chất đạo

đức đối với chấp hành viên thì yêu cầu về ngoại ngữ, tin học cũng hết sức cần thiết. 31

Có thể nói một trong những khâu yếu nhất và chưa được quan tâm đào tạo một cách

có chất lượng đó là về kiến thức ngoại ngữ và tin học. Phần lớn sinh viên khi đã vào

học đại học họ chỉ mới quan tâm đầu tư nhiều nhất cho việc học chuyên môn của

chuyên ngành đào tạo, ví dụ học đại học luật thì mới chỉ quan tâm chủ yếu đến các

môn học về luật. Trong khi đó trước yêu cầu của bối cảnh hội nhập và sự phát triển

như vũ bão của công nghệ khoa học như hiện nay thì nếu thiếu một trong hai hoặc cả

hai yếu tố này đều làm cho công chức nói chung và đội ngũ chấp hành viên nói riêng

rất bị động trong xử lý công việc, ví dụ khi yêu cầu báo cáo thống kê gấp số lượng

việc, tiền và cần phải được trao đổi nhanh bằng thư điện tử giữa Tổng cục Thi hành

án dân sự với Chấp hành viên ở địa phương, nếu Chấp hành viên không thông thạo

các thao tác về vi tính và mạng thì việc giải quyết công việc rất chậm trễ và khó

khăn.

4. Yêu cầu về thời gian làm công tác pháp luật

Theo quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thì tiêu chuẩn về

thời gian công tác pháp luật của Chấp hành viên được xác định như sau: Đối với

Chấp hành viên cấp huyện: người có đủ tiêu chuẩn chung, có thời gian làm công tác

pháp luật từ bốn năm trở lên, có năng lực thi hành những vụ việc thuộc thẩm quyền

của cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện.

Đối với Chấp hành viên cấp tỉnh: người có đủ tiêu chuẩn chung nêu trên và đã

làm Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện từ năm năm trở lên, có

năng lực thi hành những vụ việc thuộc thẩm quyền của cơ quan thi hành án dân sự

cấp tỉnh. Trong trường hợp do nhu cầu cán bộ của cơ quan thi hành án, người có đủ

tiêu chuẩn chung nêu trên và đã có thời gian làm công tác pháp luật từ mười năm trở

lên, có năng lực thi hành những vụ việc thuộc thẩm quyền của cơ quan thi hành án

dân sự cấp tỉnh thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Chấp hành viên cơ quan

thi hành án dân sự cấp tỉnh.

Cũng về vấn đề trên, Luật Thi hành án dân sự đã quy định tương đối cụ thể thời

gian làm công tác pháp luật, coi đây như là một trong những điều kiện bắt buộc để 32

được bổ nhiệm làm Chấp hành viên. Theo đó, tuỳ vào từng chức danh chấp hành

viên mà thời gian công tác pháp luật để được xem xét bổ nhiệm chấp hành viên cũng

khác nhau, cụ thể đối với chấp hành viên sơ cấp thì phải có thời gian công tác pháp

luật từ ba năm trở lên, đối với chấp hành viên trung cấp thì phải có thời gian làm

chấp hành viên sơ cấp từ năm năm trở lên, đối với chấp hành viên cao cấp thì phải

có thời gian làm chấp hành viên trung cấp từ năm năm trở lên.

5. Yêu cầu về kiến thức pháp luật

Hệ thống pháp luật của nước ta là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên

hệ nội tại thống nhất với nhau, thể hiện trong các văn bản do các cơ quan có thẩm

quyền ban hành. Trong khi đó, hoạt động thi hành án dân sự có liên quan trực tiếp

đến nhiều lĩnh vực khác nhau, chịu sự điều chỉnh của nhiều quan hệ pháp luật. Vì

vậy, trong quá trình thực thi nhiệm vụ một mặt đòi hỏi Chấp hành viên phải nắm

vững nội dung cơ bản của hệ thống pháp luật, mặt khác cần xác định rõ những văn

bản đang có hiệu lực thi hành, những văn bản hết hiệu lực thi hành. Mối tương quan

giữa hệ thống pháp luật chung với các quy định của pháp luật thi hành án dân sự.

Bên cạnh đó, trong quá trình tổ chức thi hành án, việc Chấp hành viên nắm

vững các văn bản pháp luật về thi hành án là hoàn toàn chưa đủ mà còn phải thấm

nhuần các văn bản pháp luật khác có liên quan. Ví dụ: việc thi hành án rất nhiều

trường hợp là có liên quan đến chế độ tài sản. Từ đó, phát sinh những tình huống rất

đa dạng. Người phải thi hành án là tổ chức, từ đó phải phân biệt tổ chức đó là doanh

nghiệp hay cơ quan nhà nước; doanh nghiệp thì thuộc loại hình nào; công ty cổ phần

hay doanh nghiệp tư nhân hay công ty trách nhiệm hữu hạn... Mỗi loại hình doanh

nghiệp có chế độ tài sản, chế độ trách nhiệm khác nhau. Nếu không nắm vững quy

định của pháp luật doanh nghiệp, dân sự về các vấn đề trên, chắc chắn việc thi hành

án sẽ không tránh khỏi những sai sót, thậm chí vi phạm. Tương tự như vậy, khi tổ

chức việc thi hành án đối với người phải thi hành án là cá nhân, Chấp hành viên cần

nắm được nghĩa vụ thi hành án là do cá nhân đó chịu trách nhiệm hay là các thành

viên của gia đình người phải thi hành án trên cơ sở phân biệt trách nhiệm giám hộ, 33

phân biệt trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm liên đới theo pháp luật dân sự; kê biên tài

sản theo thứ tự động sản kê biên trước, bất động sản kê biên sau, do đó, phải phân

biệt được động sản với bất động sản; kê biên tài sản riêng của người phải thi hành án

phải được kê biên trước, tài sản chung kê biên sau; Chấp hành viên được quyền kê

biên tài sản của người phải thi hành án chung với người khác nhưng khi kê biên tài

sản chung cần phải đảm bảo cho đồng sở hữu chung được biết, được thực hiện

quyền ưu tiên mua tài sản; việc mua bán tài sản phải tuân theo quy định về hợp đồng

mua bán tài sản theo quy định của pháp luật dân sự; người phải thi hành án có hành

vi chống đối việc thi hành án thì có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định

của về tội danh của pháp luật hình sự và theo thủ tục của pháp luật tố tụng hình sự;

Như vậy, bên cạnh pháp luật về thi hành án dân sự, chấp hành viên phải tìm

hiểu và nắm chắc các quy định của pháp luật dân sự, tố tụng dân sự, hình sự. tố tụng

hình sự, pháp luật về doanh nghiệp…thì mới tổ chức thi hành án đúng pháp luật

được.

* Pháp luật thi hành án dân sự là tổng thể các quy phạm điều chỉnh các quan hệ

xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định dân sự, hình

phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài

sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong

bản án, quyết định hành chính của Toà án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có

liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh

và quyết định của Trọng tài thương mại, bao gồm các quy định về quyền, nghĩa vụ

của người được THA, người phải THA, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; các

tổ chức, cá nhân có liên quan đến THA; quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quản lý, tổ chức việc THA; nhiệm

vụ, quyền hạn, trách nhiệm của CHV và trình tự, thủ tục THADS. Vì vậy, Chấp

hành viên có nghĩa vụ phải nắm vững, hiểu sâu các quy định của pháp luật về thi ành

án dân sự. Điều này thể hiện trên các khía cạnh như:

34

- Nắm vững các quy định về tổ chức, hoạt động của các CQQLNN về THADS;

Mối quan hệ trong tổ chức và hoạt động của các CQTHADS; Mối quan hệ giữa cơ

quan quản lý THADS và CQTHADS; Mối quan hệ giữa CQTHADS và CHV, cán

bộ THA; Mối quan hệ giữa CQTHADS và cơ quan được uỷ thác THA; Mối quan hệ

giữa CQTHADS và người phải THA, người được THA, người có quyền lợi liên

quan đến việc THA.

- Nắm vững các quy định về mối quan hệ giữa CQTHADS và các cơ quan tiến

hành tố tụng; Mối quan hệ giữa CQTHADS và VKSND thực hiện kiểm sát THADS;

Mối quan hệ giữa CQTHADS và chính quyền địa phương, các cơ quan, tổ chức, cá

nhân liên quan trong việc THADS.

- Nắm vững các quy định liên quan đến nội dung việc thi hành và chấp hành các

BA, QĐ của TA về dân sự, phát sinh ngay sau khi BA, QĐ về dân sự có hiệu lực

pháp luật như quan hệ giữa CQTHADS và người phải THA, người được THA và

những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Từ những quan hệ chủ yếu này sẽ

phát sinh nhiều mối quan hệ khác trong quá trình THA nhằm bảo đảm việc thực hiện

nghiêm chỉnh quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quá trình thực thi các BA,

QĐ về dân sự của TA.

- Nắm vững các quy định liên quan đến trình tự, thủ tục thi hành án dân sự như:

quan hệ phát sinh trong bước chuyển từ thủ tục tố tụng (giai đoạn xét xử) sang thủ

tục THA, chủ yếu là trong việc chuyển giao BA, QĐ đã có hiệu lực của TA. Tiếp đó

là trình tự, các bước tiếp theo của quá trình THA như: thụ lý THA, ra quyết định thi

hành, tự nguyện thỏa thuận THA, cưỡng chế THA... Đặc biệt là việc áp dụng các

biện pháp cưỡng chế như: kê biên tài sản, trừ vào thu nhập hợp pháp của người phải

THA, kê biên phần tài sản của người phải THA trong khối tài sản chung, cưỡng chế

giao đồ vật, cưỡng chế thi hành nghĩa vụ giao vật hoặc trả nhà, chuyển quyền sử

dụng đất, cưỡng chế thi hành nghĩa vụ buộc làm hoặc không được làm một công

việc nhất định...

35

6. Yêu cầu về năng lực áp dụng pháp luật

Chấp hành viên là người tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án

nên đòi hỏi phái có năng lực áp dụng pháp luật. Năng lực này thể hiện từ việc tuân

thủ pháp luật, thi hành pháp luật và đặc biệt là việc sử dụng pháp luật của Chấp hành

viên có ý nghĩa quyết định đối với hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Năng lực áp

dụng pháp luật của Chấp hành viên thể hiện trên các khía cạnh sau đây:

Thứ nhất, xác định rõ giới hạn về thẩm quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ được pháp

luật giao trong quá trình thi hành án.

Thứ hai, chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục

thi hành án dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Hoạt động THADS góp phần quan trọng trong việc bảo đảm tính nghiêm minh

của PL; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; góp phần giữ vững

ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước và

pháp chế XHCN. Việc cơ quan THADS và CHV thực hiện nghiêm chỉnh PL có ý

nghĩa quyết định đến việc bảo đảm pháp chế XHCN trong lĩnh vực này. Yêu cầu của

pháp chế XHCN đối với CHV đó là phải tự giác tuân thủ thực hiện đầy đủ các nhiệm

vụ, quyền hạn của Chấp hành viên; Tôn trọng quyền thoả thuận của các đương sự về

việc thi hành án nếu thoả thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và không

trái đạo đức xã hội; thực hiện nghiêm các quy định về những trường hợp loại trừ

hoặc được miễn cưỡng chế THADS.

Thứ ba, áp dụng đúng, đầy đủ các quy định của pháp luật trong từng điều kiện

và vụ việc cụ thể:

- Lựa chọn quy phạm pháp luật: Đó là việc mà sau khi đã xác định xong điều

kiện thi hành án của người phải thi hành án, làm xong các thủ tục cần thiết như hòa

giải, định thời gian tự nguyện thi hành án, Chấp hành viên phải nghiên cứu toàn

diện các tình tiết, các yếu tố ảnh hưởng đến việc thi hành án... và lựa chọn trong số

các quy phạm pháp luật quy định các biện pháp thi hành án để xác định biện pháp thi

36

hành án phù hợp và đạt hiệu quả cao, đồng thời phải áp dụng các quy phạm pháp

luật khác một cách đồng bộ, có hiệu quả.

- Lựa chọn biện pháp thi hành án: sau khi đã nắm chắc được thái độ, điều kiện,

đối tượng về tài sản, nghĩa vụ mà người phải thi hành án phải thực hiện, Chấp hành

viên phải nghiên cứu, xem xét để lựa chọn và ra quyết định áp dụng các biện pháp

thi hành, đảm bảo đúng với tính chất, nội dung của vụ việc và không trái với quy

định của pháp luật.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Trong nội dung Chương 1, tác giả đã trình bày những vấn đề lý luận về

ĐTBD, đội ngũ CHVTHADS, những quy định về ĐTBD cán bộ, công chức, viên

chức nói chung và ĐTBD đội ngũ CHVTHADS.

Nghiên cứu về lý luận ĐTBD, đội ngũ CHVTHADS, Chương 1 đã đưa ra khái

niệm, đặc điểm và vai trò của việc ĐTBD đội ngũ CHVTHADS.

Phân tích về những quy định về ĐTBD cán bộ, công chức, viên chức nói

chung và ĐTBD đội ngũ CHVTHADS nói riêng, tác giả đã lần lượt trình bày nội

dung về chủ thể ĐTBD, đối tượng ĐTBD, cách thức tổ chức tiến hành ĐTBD, nội

dung, hình thức ĐTBD và công tác quản lý ĐTBD đội ngũ CHVTHADS theo quy

định của pháp luật hiện hành.

Luận văn cũng nêu và đánh giá những yếu tố ảnh hưởng đến ĐTBD đội ngũ

CHVTHADS như: yếu tố quản lý của Lãnh đạo, chương trình ĐTBD, chất lượng

của đội ngũ giảng viên, yếu tố người học và cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ

công tác ĐTBD.

Những cơ sở lý luận và pháp lý kể trên là căn cứ quan trọng để các cán bộ,

CHVTHADS có thể thực hiện tốt nhiệm vụ tham gia vào việc ĐTBD của mình,

đồng thời giúp cho các cấp trong Ngành có kế hoạch ĐTBD đội ngũ CHVTHADS

phù hợp với tình hình mới. Đây là cơ sở nền tảng để tác giả có thể triển khai các nội

dung có liên quan tại Chương 2 và Chương 3.

37

Chương 2

THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CHẤP HÀNH

VIÊN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

I. Khái quát đội ngũ Chấp hành viên hành án dân sự

Nhận thức tầm quan trọng của đội ngũ Chấp hành viên trong hoạt động thi hành

án dân sự nên trong những năm qua, các cơ quan chức năng (đặc biệt là Bộ Tư pháp)

đã đưa ra nhiều giải pháp để không ngừng củng cố tăng cường cả về số lượng và

chất lượng đối với đội ngũ cán bộ này.

Tại thời điểm bàn giao công tác thi hành án từ Toà án sang cho các cơ quan

trong quản lý nhà nước giữa Bộ Tư pháp với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Sở Tư

pháp về công tác thi hành án dân sự thuộc Chính phủ quản lý cả nước có 53 phòng

Thi hành án dân sự cấp tỉnh, 547 Đội thi hành án cấp huyện với biên chế 1.126

người, trong đó có 700 Chấp hành viên cấp tỉnh, cấp huyện và 426 cán bộ.

Đến thời điểm năm 2004, năm triển khai thực hiện những quy định mới của

Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 và thực hiện việc bổ nhiệm Chấp hành viên

theo nhiệm kỳ thì cả nước có 2.105 Chấp hành viên, trong đó Chấp hành viên cấp

tỉnh là 324, cấp huyện là 1781. Từ năm 2005, sau khi các văn bản về tổ chức cán bộ

và hướng dẫn việc bổ nhiệm Chấp hành viên được ban hành như Nghị định số

50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 của Chính phủ quy định về cơ quan quản lý thi

hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và cán bộ, công chức làm công tác thi

hành án dân sự; Thông tư số 06/2005/TT-BTP ngày 24/6/2005 của Bộ Tư pháp

hướng dẫn tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức chức danh Chấp hành

viên; …thì việc bổ nhiệm lại, bổ nhiệm mới Chấp hành viên theo nhiệm kỳ đã bắt

đầu được triển khai thực hiện. Đây là đợt tổng rà soát lớn về tất cả các trường hợp đã

được bổ nhiệm Chấp hành viên trước đó đã đến thời hạn 5 năm phải làm thủ tục

trình ra Bộ Tư pháp để bổ nhiệm lại. Qua đợt tổng rà soát đó đã giúp các cơ quan thi

hành án dân sự địa phương cũng như Bộ Tư pháp, Cục Thi hành án dân sự và bản

thân mỗi Chấp hành viên phải tự kiểm điểm, đánh giá lại kết quả thi hành nhiệm vụ

38

của Chấp hành viên thời gian qua và kể cả việc rèn luyện phẩm chất đạo đức Chấp

hành viên. Qua kết quả đánh giá đó mà một số Chấp hành viên đã không được bổ

nhiệm lại với các nguyên nhân khác nhau như vì không hoàn thành nhiệm vụ được

giao, kết quả thi hành về việc và về tiền thấp; vì lý do sức khoẻ; vi phạm kỷ luật,

hoặc không đủ tuổi để tiếp tục tái bổ nhiệm Chấp hành viên thêm một nhiệm kỳ 5

năm …

Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2019, tổng số Chấp hành viên cả nước có 3.223

người, trong đó có 451 Chấp hành viên cấp tỉnh, 40 Chấp hành viên cấp quân khu,

2.732 Chấp hành viên cấp huyện [22]. Số lượng Chấp hành viên chiếm tỷ lệ 36% so

với biên chế hiện có và chiếm 33% so với tổng biên chế phân bổ, trung bình mỗi

tỉnh có 6 Chấp hành viên cấp tỉnh và mỗi huyện có 3 Chấp hành viên cấp huyện,

riêng Thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh có 26 Chấp hành viên cấp thành

phố và 145 Chấp hành viên cấp quận, huyện; Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội

có 33 Chấp hành viên cấp thành phố và 153 Chấp hành viên cấp quận, huyện. Có

một số đơn vị Thi hành án dân sự cấp tỉnh có số lượng Chấp hành viên ít như Thi

hành án dân sự tỉnh Hậu Giang, tỉnh Đắc Nông có 2 Chấp hành viên, Thi hành án

dân sự tỉnh Lai Châu, Sóc Trăng, Điện Biên có 3 Chấp hành viên. So với thời điểm

năm 1993, số Chấp hành viên đến nay đã tăng lên 04 lần.

Về số lượng: Tính đến nay hiện cả nước có 63 cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh và

693 cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện. Do có sự tăng về số lượng các cơ quan

thi hành án, so với năm 1993 tăng lên 132 cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện

cũng như số lượng việc thi hành án tăng lên ngày càng nhiều, tính chất phức tạp hơn

nên số lượng Chấp hành viên cũng tăng lên theo từng năm. Nhìn chung trong những

năm qua, Chính phủ, Bộ Tư pháp đã có nhiều quan tâm đến việc tăng cường bổ sung

biên chế cho các cơ quan THADS. Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra thì đội

ngũ CHV và cán bộ thi hành án vẫn còn thiếu so với khối lượng công việc được

giao. Theo số liệu thống kê án trong ba năm gần nhất tính từ năm 2017 đến nay thì

mỗi năm lượng án lại tăng lên một cách đáng kể. Theo thống kê của Cục Thi hành

39

án dân sự thì năm 2015 thụ lý 561.180 vụ việc; năm 2016 thụ lý 602.059 vụ việc;

năm 2017 thụ lý 648.266 vụ việc... (tăng 0,8% so với năm 2016), năm 2018 thụ lý

661.494 việc (tăng 0,3 % so với cùng kỳ năm 2017). Tổng số tiền phải thu năm 2017

là 21.350 tỷ 827 triệu 968 nghìn đồng, nhưng đến năm 2018, tổng số tiền phải thu là

22.696 tỷ 520 triệu 431 nghìn đồng, chỉ trong 6 tháng đầu năm 2019 thụ lý 472.989

việc, tổng số tiền phải thi hành là 21.162 tỷ 522 triệu 241 nghìn đồng. Con số này

cho thấy khối lượng công việc cũng như số tiền phải thi hành của các cơ quan thi

hành án dân sự trong cả nước ngày càng tăng lên một cách đáng kể. Trong khi đó số

lượng biên chế của các cơ quan thi hành án dân sự lại chưa đáp ứng được yêu cầu

nhiệm vụ được giao.

Năm 2019, nhiều cơ quan thi hành án dân sự số vụ việc phải thi hành án dân sự

ngày càng tăng như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Thái Nguyên,

Quảng Ninh, Khánh Hoà, Đăk Lăk, Bình Dương, Đồng Nai, Tiền Giang, Kiên

Giang, Thanh Hóa ...

Trước tình trạng số lượng việc thi hành án có xu hướng ngày càng tăng cùng

với tính chất và mức độ ngày càng phức tạp hơn. Trong khi đó yêu cầu và mục tiêu

của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, của hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải

tích cục và thực hiện có hiệu quả chiến lược của cách tư pháp, cải cách hành chính.

Một trong những nội dung của cải cách tư pháp, cải cách hành chính đó là phải nâng

cao hiệu quả của công tác thi hành án nói chung, của công tác thi hành án dân sự nói

riêng. Nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án dân sự không chỉ đơn thuần là

nâng cao số lượng việc được thi hành mang tính chất số học mà còn đòi hỏi từng vụ

việc phải được thi hành đúng đắn trong từng giai đoạn, từng quy trình, từng hành vi

thi hành của Chấp hành viên đảm bảo thực thi tối đa quyền lợi của các bên trong

quan hệ thi hành án. Do yêu cầu ngày càng cao, khắt khe đó trong từng tác nghiệp

của Chấp hành viên đối với từng vụ việc mà mặc dù số lượng Chấp hành viên có

được tăng cường về cơ bản nhưng vẫn chưa đủ đáp ứng yêu cầu, vẫn có tình trang

quá tải đối với Chấp hành viên.

40

Theo đó, sẽ có ba ngạch chấp hành viên là chấp hành viên sơ cấp, chấp hành

viên trung cấp, chấp hành viên cao cấp thay vì chỉ có hai ngạch chấp hành viên là

chấp hành viên cấp tỉnh, chấp hành viên cấp huyện như quy định của pháp luật hiện

hành, nên sẽ thuận lợi hơn trong công tác điều động, luân chuyển chấp hành viên khi

cần thiết.

II. Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Chấp hành viên thi

hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay

1. Về chủ thể thực hiện đào tạo, bồi dưỡng

Trên cơ sở Quy chế công tác ĐTBD cán bộ, công chức, viên chức ngành THADS

và Kế hoạch ĐTBD cán bộ, công chức, viên chức của BTP xây dựng kế hoạch cử

đội ngũ cán bộ, CHV đi ĐTBD theo các chương trình đào tạo. Trong thời gian vừa

qua đã có hàng trăm lượt cán bộ, công chức được cử đi ĐTBD về quản lý nhà nước,

tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng quản lý. Chủ thể thực hiện đào

tạo được thực hiện, cụ thể:

- Các cơ sở đào tạo của Ngành: Học viện Tư pháp là cơ sở đào tạo chức danh tư

pháp thuộc Bộ Tư pháp, gồm các giảng viên có nhiều kinh nghiệm của Nhà Trường,

các đồng chí là lãnh đạo các Vụ nghiệp vụ của Bộ Tư pháp và các chuyên gia trong

lĩnh vực thi hành án dân sự để mở các lớp đào tạo chuyên sâu, bồi dưỡng về kỹ năng

thi hành án, giải quyết các vụ, việc dân sự.

- Liên kết với các cơ sở đào tạo ngoài Ngành: ĐTBD CHVTHADS có vai trò

đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, cập nhật

những kiến thức cần thiết để phục vụ yêu cầu công tác ngày càng tốt hơn. Thông qua đó

giúp đội ngũ cán bộ, CHV nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách

nhiệm được giao, đồng thời hoàn thiện các tiêu chuẩn theo ngạch và vị trí chức danh

đang đảm nhiệm. Trong những năm qua BTP đã liên kết với các cơ sở ĐTBD của các

Ngành như: liên kết với Học viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh, Đại học Luật Hà

Nội, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Mở Hà Nội, Học viện khoa học xã hội để đào

tạo thạc sỹ; với Học viện Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Hành chính Nhà nước... để

41

bồi dưỡng trình độ lý luận chính trị, quản lý nhà nước, kiến thức quốc phòng, an ninh..

Đối tượng cử CHV đi đào tạo

Theo quy định hiện hành, các CHV sẽ được cử đi đào tạo sau đại học, song đối tượng

của hoạt động đào tạo sau đại học là các CHV phải đảm bảo các tiêu chí sau:

- Có thời gian công tác từ đủ 03 năm trở lên (không kể thời gian tập sự);

- Có cam kết thực hiện nhiệm vụ, công vụ tại cơ quan, đơn vị sau khi hoàn thành

chương trình đào tạo trong thời gian ít nhất gấp 03 lần thời gian đào tạo;

- Chuyên ngành đào tạo phù hợp với vị trí việc làm.

2. Về nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng

Một là, về nội dung đào tạo nghề Chấp hành viên

Vấn đề đào tạo nghề đối với Chấp hành viên giữ vai trò quan trọng trong việc

từng bước nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ Chấp hành viên.

Tuy nhiên, đến năm 2011- 2012 thì công tác đào tạo nghề Chấp hành viên mới

thực sự được quan tâm, kể cả về cơ sở đào tạo đến vấn đề tuyển chọn người tham gia

các khoá học đào tạo chấp hành viên với khoảng 1.800 học viên. Qua khảo sát từ

người học và các giảng viên tham gia giảng dạy, cơ quan quản lý và các đơn vị chức

năng thuộc Bộ Tư pháp, từ phía cơ quan sử dụng người lao động là cơ quan thi hành

án cho thấy chương trình đào tạo Chấp hành viên được chỉnh sửa, bổ sung, cập nhật

hàng năm nên từng bước đã đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của tình hình mới, có

thể kể đến một số vấn đề sau:

Về chương trình đào tạo Chấp hành viên

Trước hết, về cấu trúc chương trình đào tạo: Qua nghiên cứu cho thấy, trong

những khóa học đầu, chương trình đào tạo chấp hành viên được thiết kế với cấu trúc

tương tự như cấu trúc chương trình của các chức danh tư pháp khác như thẩm phán,

kiểm sát viên. Cụ thể, trong các khóa học I và II, các học viên đã được trang bị các

kiến thức chung về thi hành án dân sự; các kiến thức pháp luật chuyên sâu liên quan

đến hoạt động thi hành án dân sự; các kiến thức về kỹ năng thi hành án (kỹ năng

chung và kỹ năng thi hành án một số loại án cụ thể). Mỗi kỹ năng học viên được học

42

từ 6 đến 12 tiết lý thuyết, sau đó áp dụng vào giải quyết các tình huống cụ thể là các

hồ sơ thực tế được Học viện khai thác, sưu tầm từ các Phòng và đội thi hành án. Bên

cạnh đó, chương trình còn được thiết kế những kiến thức bổ trợ cho hoạt động thi

hành án và các buổi tọa đàm giữa các giảng viên là những người có kinh nghiệm

trong hoạt động nghề nghiệp với học viên. Với thời lượng 9 tháng đào tạo, trong đó

có 7 tháng thực học và 2 tháng đi thực tập, chương trình đào tạo nghiệp vụ thi hành

án khóa I và khóa II được thiết kế như sau:

Phần 1: Những vấn đề chung về thi hành án dân sự và chấp hành viên (chiếm

11% chương trình);

Phần II: Các vấn đề pháp luật chuyên sâu liên quan đến thi hành án dân sự

(chiếm 12% chương trình);

Phần III: Kỹ năng (chiếm 52% chương trình), trong đó:

+ Kỹ năng chung (chiếm 33% chương trình),

+ Kỹ năng thi hành một số loại án cụ thể (chiếm 19% Chương trình); Phần IV:

Chuyên đề mở rộng (chiếm 5% chương trình);

Phần V: Kiến thức bổ trợ (chiếm 13% chương trình): có bao gồm cả phần đào

tạo kiến thức tin học văn phòng.

Tuy nhiên, do cấu trúc của chương trình đào tạo của khóa I và II nhiều chuyên

đề bị trùng lặp và không cần thiết; quá trình thực tập không thu được kết quả như

mong muốn; thời gian đào tạo quá dài… nên đến Chương trình khóa III được thiết

kế thành hai phần cụ thể như sau:

Phần I: Phần chung: 180 tiết (chiếm 25% chương trình), gồm có:

+ Phần thi hành án dân sự và chấp hành viên: 114 tiết (chiếm 16%): tại phần

này, hầu như phần I của chương trình đào tạo khóa II được kế thừa, có bổ sung thêm

phần quá trình xây dựng pháp lệnh THADS năm 2004 và những điểm mới trong

Pháp lệnh do Pháp lệnh này vừa mới được ra đời thay thế cho Pháp lệnh cũ; và

chuyển một số chuyên đề thuộc phần chuyên đề mở rộng và kiến thức bổ trợ vào

phần này;

43

+ Phần các vấn đề pháp luật chuyên sâu liên quan đến thi hành án dân sự: 66

tiết (chiếm 9%): về cơ bản phần này cũng giữ nguyên các chuyên đề có trong phần II

của Chương trình khóa II, có bỏ đi một số chuyên đề để tránh sự trùng lặp;

Phần II: Kỹ năng: 450 tiết (chiếm 61% chương trình): được chia làm hai phần

nhỏ là:

+ Phần kỹ năng chung: 246 tiết (34%): được thiết kế lại theo trình tự tiến hành

công việc thi hành án trên thực tế.

+ Phần kỹ năng cưỡng chế thi hành án: được thiết kế lại theo quy định của Pháp

lệnh thi hành án dân sự năm 2004.

Thi và kiến tập: 96 tiết (13%)

Chương trình đào tạo nghiệp vụ thi hành án khóa III được các học viên đánh

giá cao. Trong phiếu thăm dò ý kiến của học viên vào cuối khóa học về tổng thể

khóa đào tạo, nhiều ý kiến học viên đánh giá cao về tính phù hợp và khoa học của

chương trình đào tạo được thiết kế. Phần lớn các ý kiến đều cho rằng các chuyên đề

trong chương trình về cơ bản là phù hợp. Tuy nhiên, để phù hợp với chương trình cải

cách tư pháp nên cấu trúc Chương trình đào tạo chấp hành viên hiện nay đã có điều

chỉnh lại cho phù hợp.

Phần I: Phần chung: 114 tiết (chiếm 17,4% chương trình), gồm có:

+ Phần cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên: 60 tiết

+ Phần các chuyên đề pháp luật liên quan đến thi hành án dân sự: 54 tiết. Phần

II: Kỹ năng: 414 tiết (63,3% chương trình), được chia làm hai phần là:

+ Phần kỹ năng chung: được thiết kế theo trình tự tiến hành công việc thi hành

án trên thực tế.

+ Phần kỹ năng cưỡng chế thi hành án: xây dựng trên cơ sở các biện pháp

cưỡng chế được quy định trong Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 và các việc

thi hành án trong các loại vụ án đặc thù (tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hành chính,

lao động, kinh tế, hôn nhân và gia đình, thừa kế…)

Thi, viết tiểu luận, báo cáo hồ sơ, kiến tập: 126 tiết (19,2% chương trình).

44

- Chương trình đào tạo chấp hành viên khóa VI:

Đối với chương trình đào tạo nghiệp vụ thi hành án khóa VI, phần các vấn đề

pháp luật liên quan đến thi hành án dân sự đã bị loại bỏ, số tiết này được bổ sung

cho phần kỹ năng. Cụ thể chương trình đào tạo nghiệp vụ thi hành án được thiết kế

như sau:

Phần I: Phần chung (cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên): 66 tiết

(10% chương trình)

Phần II: Phần kỹ năng: 486 tiết (74,3% chương trình)

+ Phần kỹ năng chung: được thiết kế theo trình tự tiến hành công việc thi hành

án trên thực tế.

+ Phần kỹ năng cưỡng chế thi hành án: xây dựng trên cơ sở các biện pháp

cưỡng chế được quy định trong Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 và các việc

thi hành án trong các loại vụ án đặc thù (tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hành chính,

lao động, kinh tế, hôn nhân và gia đình, thừa kế…)

Thi, viết tiểu luận, báo cáo hồ sơ, kiến tập: 102 tiết (15,5% chương trình)

Rõ ràng, chương trình đào tạo chấp hành viên thường xuyên được cải tiến trên

cơ sở góp ý của người học và các giảng viên tham gia giảng dạy đồng thời là những

người thực tế hành nghề chấp hành viên. Cấu trúc chương trình là tương đối phù hợp

với mục tiêu đào tạo nghề, đó là tập trung chủ yếu rèn luyện kỹ năng cho học viên.

Về phương pháp đào tạo Chấp hành viên

Phương pháp đào tạo có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm và nâng cao chất

lượng đào tạo. Để chương trình đào tạo được triển khai trên thực tế một cách hiệu

quả, lựa chọn phương pháp đào tạo phù hợp là hết sức cần thiết và quan trọng.

Phương pháp đào tạo có nội hàm rộng hơn phương pháp giảng dạy. Nếu phương

pháp giảng dạy chỉ đơn thuần là các cách thức, phương pháp truyền đạt kiến thức

cho học viên, thì phương pháp đào tạo là tổng hợp những cách thức, phương thức,

biện pháp nhằm truyền đạt kiến thức và rèn luyện kỹ năng, tạo cho học viên những

môi trường và điều kiện để hình thành ý tưởng, xây dựng quan điểm và rèn luyện kỹ

45

năng nghề nghiệp. Có quan điểm còn cho rằng, phương pháp đào tạo chính là việc tổ

chức hoạt động học tập của học viên nhằm đạt được các mục tiêu đào tạo. Đồng ý

với quan điểm này, trình bày của tác giả hướng tới phân tích, đánh giá thực trạng áp

dụng các phương pháp đào tạo đối với chức danh Chấp hành viên, đồng thời đưa ra

hướng hoàn thiện, cải cách toàn diện các thành tố của phương pháp đào tạo từ

phương pháp giảng, phương pháp quản lý đến phương pháp đánh giá chất lượng

đào tạo đối với chức danh này:

Thứ nhất, phương pháp thuyết trình: Qua nghiên cứu cho thấy, trong chương

trình đào tạo Chấp hành viên, phương pháp này chủ yếu được các giảng viên sử

dụng để giảng dạy các bài trong phần chuyên đề chung và phần lý thuyết kỹ năng.

Với việc áp dụng phương pháp này, trong quá trình giảng dạy các giảng viên Chấp

hành viên đã truyền đạt được những kiến thức mang tính hệ thống cho học viên. Tuy

nhiên, việc chỉ ngồi nghe giảng đã dẫn tới tình trạng học viên tiếp nhận kiến thức

một cách thụ động, làm hạn chế khả năng tích cực, chủ động trong buổi học của học

viên. Để khắc phục những hạn chế của phương pháp này, trong quá trình giảng dạy

các chuyên đề này, các giảng viên không thuần tuý áp dụng theo truyền thống mà có

sự kết hợp với các biện pháp khác. Trên cơ sở phương pháp thuyết trình, giảng viên

nêu các tình huống thực tiễn để cho học viên phân tích, đánh giá, bình luận và áp

dụng các kiến thức lý thuyết vừa được giảng viên trang bị để giải quyết các vấn đề

mà tình huống đặt ra. Sau đó giảng viên kết luận tình huống để củng cố kiến thức lý

thuyết cho học viên.

Mặc dù đã có những đổi mới và hạn chế nhược điểm của phương pháp thuyết

trình nhưng việc áp dụng phương pháp này trong đào tạo Chấp hành viên cũng vẫn

còn những hạn chế nhất định. Đó là việc vẫn còn tình trạng giảng viên khi giảng dạy

theo phương pháp này độc thoại quá nhiều, dẫn đến tình trạng giảng viên không nắm

được những phản hồi từ phía học viên, không phát hiện được những lỗ hổng trong

kiến thức của học viên để có giải pháp kịp thời. Từ đó dẫn đến tình trạng học viên

thiếu sự chủ động, sáng tạo trong quá trình học.

46

Để phương pháp này được sử dụng một cách có hiệu quả, các giảng viên trong

quá trình giảng dạy cần chuẩn bị nhiều tình huống, ví dụ thực tiễn để học viên có thể

thảo luận, tránh tình trạng giáo viên độc thoại trên lớp. Hơn nữa, việc lựa chọn giảng

viên để giảng dạy những chuyên đề này cũng hết sức quan trọng. Đây là những

chuyên đề mang tính chất lý thuyết và là nền tảng cho quá trình giảng dạy phần kỹ

năng sau này, chính vì vậy, cần lựa chọn những giảng viên có nhiều kinh nghiệm

trong quá trình giảng dạy, đồng thời phải có kiến thức pháp luật uyên thâm. Hơn

nữa, để phương pháp này phát huy hiệu quả thì cần phải kết hợp với việc sử dụng

các phương pháp giảng dạy khác như thảo luận, giải quyết tình huống...

Thứ hai, phương pháp song giảng: Đây là phương pháp không chỉ được sử

dụng trong đào tạo Chấp hành viên mà còn được sử dụng rộng rãi trong đào tạo các

chức danh tư pháp khác. Phương pháp này là sự kết hợp giữa giảng viên đang trực

tiếp hành nghề trong thực tế với giáo viên lý thuyết là cán bộ giảng dạy, nghiên cứu

của các cơ sở đào tạo, viện nghiên cứu và các cơ quan quản lý nhà nước. Trong

chương trình đào tạo Chấp hành viên, phương pháp song giảng được áp dụng để

giảng các bài lý thuyết kỹ năng và bài tình huống. Việc áp dụng phương pháp này

trong các khóa đào tạo Chấp hành viên đã mang lại những hiệu quả đáng kể. Sau

khóa học, học viên không những được trang bị kỹ năng nghề nghiệp mà còn được

trang bị cả kiến thức lý luận cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của mình. Đồng

thời, phương pháp song giảng cũng giúp các giảng viên trong quá trình giảng dạy

học tập được kinh nghiệm và bổ sung kiến thức cho nhau.

Tuy nhiên, việc áp dụng phương pháp song giảng trong đào tạo Chấp hành viên

trong thời gian qua cũng thể hiện một số hạn chế nhất định. Đó là việc chưa có sự

kết hợp nhuần nhuyễn giữa các giảng viên trong quá trình giảng dạy, vẫn còn có tình

trạng bất đồng quan điểm của các giảng viên khi lên lớp. Điều này xuất phát từ nhiều

nguyên nhân khác nhau. Trước hết đó là do giảng viên lý thuyết và giảng viên thực

hành thường không có thời gian để trao đổi trước với nhau về nội dung bài giảng

cũng như thống nhất về chuyên môn, về cách thức tiến hành bài giảng. Chính vì vậy,

47

mà việc áp dụng phương pháp song giảng thời gian qua chưa thực sự mang lại hiệu

quả như mong muốn.

Xuất phát từ những lý do trên, để phương pháp song giảng phát huy hiệu quả

thì các giảng viên cần dành thời gian trao đổi trước với nhau về một số vấn đề của

bài giảng như nội dung bài giảng, cách thức tiến hành bài giảng, phân công người

dẫn dắt, cách thức giải quyết những bất đồng… Thông thường, các giảng viên được

mời để song giảng là một giảng viên lý thuyết của Học viện Tư pháp, Đại học Luật,

Cục Thi hành án dân sự và một giảng viên thực tế là Chấp hành viên đang công tác

tại các cơ quan thi hành án. Vì vậy, việc các giảng viên gặp nhau để trực tiếp trao

đổi về bài giảng là hết sức khó khăn, do đó, các giảng viên nên dành thời gian trao

đổi với nhau qua điện thoại, Email…

Thứ ba, phương pháp giảng thông qua tình huống: Như đã phân tích ở trên, đối

tượng đào tạo Chấp hành viên chủ yếu là những người mới chỉ được đào tạo qua

chương trình đại học luật. Về cơ bản, họ mới chỉ được đào tạo các kiến thức lý

thuyết, thậm chí kiến thức về thi hành án dân sự là rất ít. Mặc dù đã được làm việc

trong cơ quan thi hành án nhưng họ mới chỉ là những cán bộ giúp việc, có những

trường hợp làm các công việc khác không liên quan đến nghiệp vụ thi hành án như

kế toán, thủ kho... Và nếu có được làm cán bộ giúp việc cho Chấp hành viên thì họ

cũng mới chỉ dựa vào những kinh nghiệm của bản thân trong quá trình làm việc để

giải quyết. Vì vậy, khi đứng trước những công việc cần tới những kiến thức cơ bản

về luật thì họ lại lúng túng, đôi khi dù đã giải quyết xong công việc họ cũng không

khẳng định được cách giải quyết của mình đúng hay sai... Hơn nữa, có thể nói, họ

mới chỉ là những người giúp việc cho Chấp hành viên nên những công việc họ thực

hiện chỉ là những công việc của cán bộ như tống đạt thông báo, viết biên bản...;

không phải là những kỹ năng nghề nghiệp cơ bản của Chấp hành viên. Do đó, có thể

khẳng định cái thiếu cơ bản nhất của đối tượng đào tạo Chấp hành viên chính là

những kiến thức về thực tiễn, kinh nghiệm trong việc giải quyết các tình huống xảy

ra trong thực tế khi thực hiện các công việc chuyên môn của mình. Vì vậy, việc áp

48

dụng phương pháp giảng thông qua tình huống phải là phương pháp đào tạo chiếm

ưu thế hơn so với các phương pháp khác.

Cụ thể, các hồ sơ tình huống trong đào tạo Chấp hành viên phải được biên tập

theo từng kỹ năng trong quy trình thi hành án khép kín như kỹ năng nhận và phân

tích bản án, quyết định của Tòa án; kỹ năng ra quyết định thi hành án; kỹ năng thông

báo thi hành án; kỹ năng thuyết phục đương sự tự nguyện thi hành án; kỹ năng tổ

chức cưỡng chế thi hành án; kỹ năng kết thúc việc thi hành án. Bên cạnh đó, cũng

cần phải sưu tầm những hồ sơ tình huống tương ứng với những kỹ năng khác như:

hoãn thi hành án, tạm đình chỉ thi hành án, đình chỉ thi hành án... Và cuối cùng, cần

sưu tầm những hồ sơ tình huống để học viên nghiên cứu những kỹ năng cưỡng chế

thi hành án như cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền bằng việc kê biên, khấu trừ tài

khoản, trừ vào thu nhập của người phải thi hành án... và kỹ năng thi hành những vụ

án cụ thể như kỹ năng thi hành án kinh doanh, thương mại; kỹ năng thi hành phần tài

sản trong bản án hành chính; kỹ năng thi hành phần dân sự trong bản án hình sự; kỹ

năng thi hành án hôn nhân gia đình...

Bước tiếp theo trong việc áp dụng phương pháp giảng thông qua tình huống đó

là triển khai hồ sơ tình huống tại buổi học. Học viên được phát trước hồ sơ thực tế

trong một thời gian hợp lý trước mỗi buổi học tình huống và học viên phải nghiên

cứu trước hồ sơ, đồng thời phải viết thu hoạch. Tại buổi học, các học viên trao đổi,

thảo luận với nhau, trao đổi, thảo luận với giảng viên và việc trao đổi diễn ra liên tục

cho đến khi thống nhất được việc giải quyết tình huống đặt ra. Thông qua việc giải

quyết các vấn đề mà tình huống đặt ra, giảng viên khái quát hoá thành các kinh

nghiệm nghề nghiệp, làm cơ sở cho các thao tác nghề nghiệp chuẩn sau này của học

viên. Đồng thời với việc giải quyết các tình huống phát sinh trong hồ sơ, giảng viên

có thể khai thác thêm một số tình huống thường xảy ra trong thực tế mà liên quan

đến bài học để học viên giải quyết. Bên cạnh việc thảo luận giải quyết những tình

huống trong hồ sơ, với những bài tình huống, một số giảng viên đã áp dụng cách

thức cho học viên được thực hành nghề nghiệp ngay tại buổi học bằng việc đóng vai

49

Chấp hành viên, cán bộ thi hành án để trực tiếp giải quyết những công việc đó. Hơn

nữa, trong buổi học tình huống, học viên còn được rèn luyện cả kỹ năng soạn thảo

các văn bản giải quyết thi hành án trong từng trường hợp cụ thể.

Đào tạo nghề nghiệp Chấp hành viên là việc trang bị cho học viên những kỹ

năng thực hành pháp luật mà trong thực tế hành nghề họ phải áp dụng. Nếu người ta

không biết cách thực hiện một việc gì như thế nào, thì họ không thể thực hiện được

công việc đó. Nếu không có kỹ năng làm việc thì không thể thực hiện được công

việc. Những kỹ năng không đơn thuần phát triển từ sự lắng nghe người khác giảng

giải cách thực hiện công việc như thế nào. Kỹ năng được phát triển và củng cố thông

qua thực hành, thông qua sự bắt tay thực sự vào công việc. Kỹ năng được phát triển

chủ yếu thông qua thực hành và thông qua sự tiếp nhận thông tin kịp thời về chất

lượng công việc thực hành. Chính vì vậy, để phương pháp giảng thông qua tình

huống thực sự hiệu quả thì với các bài học tình huống giảng viên cần đi sâu vào việc

hướng dẫn kỹ năng thực hành nghề nghiệp cho học viên. Hay nói cách khác, giảng

viên nên áp dụng phương pháp thực hành hồ sơ tình huống để giảng đối với những

hồ sơ tình huống.

Hơn nữa, bản chất của việc thực hành hồ sơ tình huống chính là thực tập tại

chỗ. Thực hành hồ sơ tình huống chính là việc học viên được trực tiếp đóng vai

Chấp hành viên, cán bộ thi hành án trong chính hồ sơ tình huống đó để giải quyết

công việc. Do vậy, nếu áp dụng phương pháp này trong buổi học tình huống một

mặt sẽ giúp học viên được thực hành nghề nghiệp ngay tại lớp học, mặt khác khắc

phục được những khó khăn phát sinh trong quá trình học viên Chấp hành viên đi

thực tế trước đây.

Ngoài ra, việc áp dụng phương pháp thực hành hồ sơ tình huống đặt người học

vào vai trò chủ động tiến hành giờ học. Điều này không những tạo hứng thú cho

người học, mà còn nâng cao việc ứng dụng của phương pháp học theo nhóm của các

học viên. Hơn nữa, việc các học viên là người chủ động trong giờ học sẽ giúp các

học viên rèn luyện tính chủ động, sáng tạo và độc lập trong công việc.

50

Mặt khác, việc học viên được thực hành hồ sơ tình huống sẽ tạo điều kiện cho

học viên tiếp cận nhanh với công việc phải giải quyết sau này.

Thông qua thực hành hồ sơ tình huống học viên được tự mình thực hiện các

công việc, tự mình giải quyết tình huống một cách độc lập, đây là bước quan trọng

giúp học viên tự tạo cho mình khả năng độc lập, sáng tạo, khẳng định và rèn luyện

bản lĩnh nghề nghiệp trong quá trình thực thi nhiệm vụ sau này.

* Về cách thức biên tập hồ sơ tình huống:

Trong chương trình đào tạo Chấp hành viên, sau những buổi học kỹ năng là

một hoặc một số buổi học tình huống. Trong các buổi học tình huống này, giảng

viên và học viên sẽ cùng tìm hiểu các hồ sơ tình huống có thật trên thực tế. Tuy

nhiên, qua nghiên cứu cho thấy, trong nhiều khoá đào tạo Chấp hành viên, đa phần

các hồ sơ chỉ được rút bỏ rất ít bút lục, đối với mọi tình huống đều có gần như đầy

đủ một hồ sơ thực tế. Điều này đã làm cho các giảng viên và học viên khi tiến hành

giờ tình huống đều phụ thuộc vào hồ sơ tình huống, nhiều giáo viên dành quá nhiều

thời gian để nhận xét hồ sơ tình huống, thậm chí, có những giáo viên còn phê phán

cả chấp hành viên đã thực hiện việc thi hành án trong hồ sơ. Kết quả là, sau khi

nghiên cứu hồ sơ tình huống, cái mà học viên nhận được chưa phải là kỹ năng để

thực hiện công việc thi hành án thực tế.

Đối với đào tạo Chấp hành viên thi hành án dân sự, để phục vụ cho việc triển

khai phương pháp thực hành tình huống, hồ sơ tình huống đã có điều chỉnh, biên tập

theo hướng chỉ giữ lại những bút lục đủ để học viên và giảng viên giải quyết được

kỹ năng yêu cầu, hay nói cách khác những bút lục nào thể hiện công việc của chấp

hành viên trong giai đoạn đó sẽ bị rút ra để giảng viên và học viên phải thực hiện

công việc của chấp hành viên thực thụ để ra được văn bản trong giai đoạn đó. Ví dụ,

đối với tình huống Ra quyết định thi hành án, hồ sơ tình huống cung cấp cho học

viên chỉ là bản án và đơn yêu cầu thi hành án. Tóm lại, học viên và giảng viên sẽ

phải làm những chấp hành viên để thực hiện công việc chứ không đơn thuần chỉ

nhận xét về việc làm của các chấp hành viên phụ trách hồ sơ.

51

Mỗi hồ sơ tình huống sẽ được kèm theo yêu cầu của hồ sơ tình huống. Với mỗi

tình huống khác nhau sẽ có những yêu cầu khác nhau. Đây là những nội dung mà

giảng viên và học viên sẽ phải tuân thủ để giải quyết trong quá trình học ở nhà và

học trên lớp.

* Tổ chức buổi thực hành tình huống trên lớp:

- Phương pháp tiến hành: Với ý tưởng là để học viên phải được thực hành công

việc của một chấp hành viên thực thụ nên phương pháp tiến hành các buổi thực hành

tình huống được xây dựng theo hướng học viên sẽ là người nói, nghe, làm và nhận

xét. Giảng viên chỉ là người hướng dẫn, điều hành để buổi thực hành tình huống đi

đúng quỹ đạo nên thay vì giảng viên là người nói chủ yếu, thì theo phương pháp này,

giảng viên nói rất ít, công việc chủ yếu của giảng viên là nghe và kết luận.

- Cơ cấu tổ chức buổi thực hành tình huống: Thực tế, mỗi lớp Chấp hành viên

có số lượng học viên tương đối đông, khoảng 60-70 học viên/1 lớp. Căn cứ vào số

lượng các buổi thực hành tình huống, việc tổ chức buổi học tình huống được thực

hiện theo các nhóm, mỗi nhóm có khoảng 8-9 học viên. Các nhóm này sẽ được phân

công cố định trong toàn khóa học. Điều này để tạo ra sự ổn định của nhóm học nói

riêng và lớp học nói chung. Việc phân nhóm cố định cũng tạo điều kiện cho các học

viên trong nhóm hiểu về cách làm việc của nhau và cùng nhau tạo nên buổi làm việc

nhóm hiệu quả. Nhiệm vụ của các nhóm là phải chuẩn bị toàn bộ các yêu cầu của

tình huống đã được cung cấp ở nhà, đối với tình huống không đóng vai thì phải làm

việc theo nhóm và chuẩn bị báo cáo để một học viên thay mặt nhóm báo cáo kết quả

nghiên cứu hồ sơ trên lớp, đối với tình huống đóng vai thì mỗi nhóm phải tự tập

đóng vai theo yêu cầu của tình huống. Mỗi tình huống sẽ có rất nhiều yêu cầu khác

nhau, tuy nhiên, nhiệm vụ của các nhóm là chuẩn bị toàn bộ các yêu cầu đó, chứ

không chỉ là chuẩn bị một hoặc một số các yêu cầu.

- Quy trình thực hiện bài thực hành tình huống: Trong cơ cấu chương trình đào

tạo Chấp hành viên, trên cơ sở các kỹ năng mà Chấp hành viên phải thực hiện có thể

chia thành hai loại thực hành tình huống khác nhau, một loại thực hành tình huống

52

đóng vai và một loại thực hành tình huống không đóng vai. Đối với mỗi loại thực

hành tình huống này thì quy trình thực hiện có những điểm khác nhau, cụ thể:

+ Đối với buổi thực hành tình huống không đóng vai:

Với những buổi thực hành tình huống này, không đòi hỏi học viên phải đóng

vai mà giảng viên chỉ yêu cầu học viên báo cáo về kết quả nghiên cứu đã thực hiện ở

nhà. Bắt đầu buổi học, giảng viên yêu cầu một nhóm học viên báo cáo kết quả

nghiên cứu ở nhà và nội dung soạn thảo các quyết định, công văn (nếu có). Đồng

thời, yêu cầu các học viên ở các nhóm khác theo dõi, nhận xét. Sau đó, giảng viên có

thể cho các nhóm khác lên báo cáo kết quả và yêu cầu các học viên khác nhận xét.

Cuối cùng, giảng viên phải kết luận vấn đề, khái quát và đưa ra những kinh nghiệm

nghề nghiệp đối với tình huống đó, đồng thời đưa ra những lưu ý và chỉ ra những sai

sót để học viên rút kinh nghiệm.

Sau khi đã giải quyết xong tình huống, giảng viên triển khai cho các học viên

thảo luận các tình huống có liên quan hoặc mở rộng thành những tình huống khác

nhau để học viên giải quyết và giảng viên kết luận vấn đề.

* Đối với buổi thực hành tình huống đóng vai: Bắt đầu buổi học, giảng viên yêu

cầu một nhóm học viên lên đóng các vai theo yêu cầu của hồ sơ tình huống. Tùy

thuộc vào từng buổi học tình huống khác nhau mà nhóm đó phải đóng những vai

khác nhau. Sau đó, giảng viên chủ động phân công các vai diễn cho học viên. Sau

khi nhóm được chỉ định hoàn thành việc đóng vai, giảng viên yêu cầu các học viên

khác nhận xét. Tiếp theo, giảng viên có thể chỉ định các nhóm khác thực hành đóng

vai và cuối cùng giảng viên phải đưa ra những kết luận hoặc những kinh nghiệm

nghề nghiệp cho học viên. Sau khi đã hoàn thành việc đóng vai theo yêu cầu của hồ

sơ tình huống, thời gian còn lại của buổi học giảng viên cho các học viên thảo luận

các vấn đề xung quanh tình huống hoặc giải đáp các thắc mắc của học viên.

Từ thực tế nêu trên, qua nghiên cứu cho thấy việc áp dụng phương pháp thực

hành tình huống trong đào tạo Chấp hành viên khóa VI đã mang lại những hiệu quả

nhất định, nhất là tăng cường vai trò chủ động trong học tập của học viên. Điều này

53

thể hiện ở chỗ, trước các buổi thực hành tình huống mỗi nhóm học viên phải tự

nghiên cứu ở nhà, tự tập đóng vai trước theo yêu cầu hồ sơ tình huống... đồng thời

trên lớp các học viên chủ động vào vai để thực hiện công việc của Chấp hành viên,

tự giải quyết các tình huống phát sinh tạo cho học viên quen dần với công việc sau

này cũng như cách thức tổ chức công việc. Hơn nữa, phương pháp này đã tăng

cường và khuyến khích khả năng làm việc theo nhóm, tạo hứng thú trong học tập

của các học viên. Bên cạnh đó, phương pháp thực hành tình huống còn tăng cường

vai trò và trách nhiệm của các giảng viên trong giờ học. Đối với buổi học tình

huống này, giảng viên phải quan sát hết sức tỉ mỉ việc làm của học viên để trên cơ sở

đó đưa ra những nhận xét, kết luận xác đáng, chỉ ra những sai sót cũng như những

kinh nghiệm nghề nghiệp cho học viên áp dụng vào thực tế sau này.

Tuy nhiên, phương pháp thực hành tình huống là một phương pháp đòi hỏi phải

dành nhiều thời gian, công sức. Giảng viên cũng như học viên cần phải có sự chuẩn

bị tốt thì mới có thể đạt được kết quả cao. Mặt khác, phương pháp này không những

đòi hỏi sự cố gắng của mỗi một cá nhân mà còn đòi hỏi yếu tố tập thể để tạo hào

hứng trong học tập, đồng thời đòi hỏi sự chuẩn bị nội dung của từng hồ sơ phải hết

sức công phu thì mới có thể thành công. Chính vì vậy, bên cạnh những kết quả đạt

được thì việc áp dụng phương pháp thực hành tình huống đã thể hiện một số bất cập.

Cụ thể đó là:

Một là, việc đưa ra phương pháp thực hành tình huống là giúp cho các học viên

được tự mình đóng vai Chấp hành viên để giải quyết các công việc liên quan đến kỹ

năng nghề nghiệp sau này. Chính vì vậy, nếu trong khóa học các học viên được đóng

vai Chấp hành viên để thực hành tất cả các kỹ năng thì sẽ rất tốt. Tuy nhiên, với số

lượng học viên trên một lớp quá đông từ 60 - 70 học viên dẫn đến tình trạng mỗi học

viên chỉ được đóng vai Chấp hành viên từ một đến hai lần. Hơn nữa, một số giảng

viên không phân vai cho học viên mà để cho học viên tự phân vai nên có những học

viên cả khóa học không được đóng vai Chấp hành viên lần nào. Điều này phần nào

đã làm giảm hiệu quả của phương pháp thực hành tình huống.

54

Hai là, trong khóa đào tạo Chấp hành viên vừa qua, thông thường các giảng

viên gọi một nhóm lên đóng vai và các thành viên của nhóm đó đóng tất cả các vai

theo yêu cầu của hồ sơ. Điều này đã tạo nên sự nhàm chán, kém hứng thú cho các

học viên.

Ba là, trong các buổi thực hành tình huống có một số giảng viên gọi nhóm thứ

nhất lên thực hành, sau đó cho nhóm thứ hai thực hành đúng tình huống đó mà

không có sự mở rộng tình huống điều này cũng là nguyên nhân dẫn đến sự nhàm

chán cho các học viên trong buổi học.

Bốn là, theo kịch bản, đối với mỗi buổi thực hành tình huống sau khi tiến hành

cho các học viên đóng vai thì giảng viên cần dành một khoảng thời gian nhất định để

giải đáp các thắc mắc và mở rộng các tình huống phát sinh xung quanh buổi học để

các học viên trao đổi, thảo luận. Mục đích của việc trao đổi tình huống là để rèn

luyện kỹ năng xử lý tình huống, khả năng chủ động, sáng tạo của học viên. Tuy

nhiên, việc giải quyết tình huống phát sinh trên lớp chưa thực sự tốt và đạt hiệu quả

như mong muốn.

Thứ tư, phương pháp kiến tập tại cơ quan thi hành án: Đây là phương pháp đào

tạo giúp học viên làm quen với các vụ việc trong thực tế, để từ đó có cách nhìn vụ

việc từ nhiều góc độ khác nhau. Qua buổi kiến tập học viên sẽ có điều kiện học tập ở

Chấp hành viên trong cách xử sự và cách giải quyết đối với tình huống cụ thể. Trong

chương trình đào tạo Chấp hành viên dành 01 buổi để các học viên được đi kiến tập

tại các cơ quan thi hành án. Với buổi kiến tập này, các học viên được chứng kiến

Chấp hành viên tiến hành những việc thi hành án cụ thể như: xác minh, làm việc với

đương sự, tổ chức cưỡng chế thi hành án… Thông thường, việc kiến tập của học

viên được chia theo nhóm từ 10 - 15 người. Trước khi đi kiến tập, giảng viên hướng

dẫn buổi kiến tập sẽ liên hệ với Chấp hành viên của cơ quan thi hành án, chấp hành

viên phụ trách vụ việc có thể lên lớp hoặc giáo viên hướng dẫn buổi kiến tập nắm

bắt nội dung vụ việc thi hành án để giới thiệu với học viên. Sau buổi kiến tập, các

học viên sẽ phải viết báo cáo thu hoạch nhận xét về việc thi hành án của Chấp hành

55

viên mà học viên đã được chứng kiến và đưa ra những kinh nghiệm của bản thân sau

buổi thực tế.

Phương pháp này đã mang lại hiệu quả nhất định góp phần nâng cao chất lượng

đào tạo Chấp hành viên trong thời gian qua. Tuy nhiên, để việc áp dụng phương

pháp này trong thời gian tới đạt kết quả cao hơn thì ngoài việc bố trí cho học viên

một buổi thực tế tại cơ quan thi hành án, cần bố trí thời gian để các học viên được

trực tiếp xem việc giải quyết thi hành án thông qua băng, đĩa… Sau khi xem, các học

viên có thể thảo luận, đưa ra những nhận xét đối với việc làm của Chấp hành viên,

đồng thời giảng viên sẽ tổng kết lại và đưa ra cách làm đúng với việc thi hành án đó.

Phương pháp đánh giá kết quả đào tạo

Phương pháp đánh giá kết quả đào tạo Chấp hành viên cũng không kém phần

quan trọng trong việc góp phần nâng cao chất lượng đào tạo Chấp hành viên nói

riêng và các chức danh tư pháp nói chung. Tuy nhiên, muốn làm sáng tỏ vấn đề này

thiết nghĩ cần phải đề cập qua đến vấn đề nội dung và phương pháp giảng dạy đối

với chức danh Chấp hành viên. Đây là cơ sở, căn cứ để xác định phương pháp đánh

giá kết quả học tập của học viên Chấp hành viên.

Đánh giá kết quả của các học viên trong việc tiếp thu các kỹ năng nghề nghiệp

không phải chỉ thông qua việc kiểm tra, thi cử vào cuối kỳ của khoá học. Việc đánh

giá phải được tiến hành thường xuyên, định kỳ và trong cả quá trình đào tạo nghề

Chấp hành viên. Nội dung, phương pháp giảng dạy khác nhau thì phương pháp đánh

giá kết quả của học viên Chấp hành viên cũng khác nhau. Nội dung khoá đào tạo

nghề nghiệp Chấp hành viên bao gồm hai phần chính: Phần đào tạo lý thuyết, cung

cấp các kiến thức cơ bản cho học viên và phần đào tạo kỹ năng nghề nghiệp của học

viên. Vì vậy đối với học phần này cũng phải có phương pháp đánh giá kết quả đào

tạo khác nhau.

Đối với những nội dung giảng dạy nhằm cung cấp các kiến thức pháp luật cơ

bản cho học viên, thông thường giảng viên sẽ sử dụng phương pháp thuyết trình. Để

đánh giá kết quả học tập của học viên hay đánh giá học viên tiếp thu bài giảng đến

56

mức độ nào? Học viên có nắm được kiến thức mà giảng viên truyền đạt không?

Thông thường giảng viên Chấp hành viên cho học viên làm bài kiểm tra sau khi kết

thúc một bài giảng. Ngoài ra, cũng có những giảng viên cho phép các học viên đặt

các câu hỏi vào cuối buổi giảng hoặc có thể cắt ngang để hỏi trong lúc giảng bài.

Các câu hỏi đặt ra này sẽ mang lại sự phản hồi tới giảng viên về sự hiểu biết, sự tiếp

thu của học viên đối với bài giảng của giảng viên.

Đối với những nội dung giảng dạy nhằm cung cấp kỹ năng nghề nghiệp cho các

học viên trong các giờ thảo luận, giải quyết tình huống việc đánh giá kết quả đào tạo

thông qua việc học viên trình bày ý kiến của mình để giải quyết tình huống thực tế

như thế nào, sau đó để những học viên khác có ý kiến bình luận hoặc thông qua việc

thực hành của học viên. Qua đó giảng viên nắm được là học viên đã vận dụng kiến

thức cơ bản đã được học vào giải quyết các tình huống cụ thể như thế nào hoặc các

kỹ năng mà học viên sử dụng khi thực hành ra sao. Như vậy, đối với nội dung giảng

dạy này, việc đánh giá kết quả đào tạo của học viên cần đánh giá thông qua việc thực

hành của học viên.

Tuy nhiên, trên đây mới là phương pháp, biện pháp đánh giá sự tiếp thu của học

viên được sử dụng trong quá trình giảng dạy, đào tạo của giảng viên, của người

hướng dẫn. Để có sự đánh giá đúng đắn đối với kết quả của học viên, qua nghiên

cứu cho thấy trong đào tạo Chấp hành viên các khóa học trước của Học viện Tư

pháp đã sử dụng phương pháp đánh giá bằng hình thức kiểm tra và thi trong suốt quá

trình học của học viên. Cụ thể, chương trình đào tạo Chấp hành viên được thiết kế

sau hai hoặc ba bài sẽ có một bài đối thoại - kiểm tra và sau một số tiết nhất định sẽ

có một bài thi kết thúc học phần và được sử dụng hình thức thi viết để giải quyết các

tình huống cụ thể. Việc các học viên tham gia các kỳ kiểm tra định kỳ sau các bài lý

thuyết, thực hành và các bài thi học phần bên cạnh mục đích rèn luyện kỹ năng viết

bài thi còn có mục đích quan trọng đó là rèn luyện kỹ năng trình bày cách giải quyết

vấn đề cụ thể để chuẩn bị cho kỳ thi kết thúc khoá học. Cụ thể, kết thúc khóa học

học viên Chấp hành viên còn phải tham gia kỳ thi tốt nghiệp. Kết quả của kỳ thi tốt

57

nghiệp sẽ góp phần vào việc đánh giá một cách toàn diện về kết quả của học viên nói

riêng và kết quả đào tạo nói chung. Tuy nhiên, để đào tạo Chấp hành viên khóa VI,

việc đánh giá kết quả học tập của học viên cũng có những thay đổi đáng kể. Chương

trình đào tạo Chấp hành viên được thiết kế với 09 học phần, trong đó có 02 học phần

kết thúc bằng hình thức hoàn thành báo cáo, 03 học phần kết thúc bằng hình thức

tính điểm thực hành và 04 học phần kết thúc bằng hình thức thi viết. Việc đánh giá

kết quả học tập của học viên không chỉ bằng hình thức thi viết như trước đây mà còn

bằng cả việc viết báo cáo và thực hành tình huống trên lớp.

Đến năm 2007, trên cơ sở quy định của Quyết định số 80/QĐ-HVTP ngày

17/8/2007 của Giám đốc Học viện Tư pháp thì kết quả học tập của học viên Chấp

hành viên được đánh giá tại tất cả các buổi học trên lớp và điểm kết thúc học phần.

Mỗi học phần được đánh giá bằng 04 loại điểm, đó là: điểm nhận thức, điểm chuyên

cần, điểm thường xuyên và điểm kết thúc học phần. Trong đó:

- Điểm nhận thức chiếm trọng số 10%: Do giảng viên đang dạy cho điểm kết

quả tham gia xây dựng bài, nội dung phát biểu có chất lượng đáp ứng yêu cầu bài

học của học viên.

- Điểm chuyên cần chiếm trọng số 20%: Do cán bộ quản lý khóa, lớp cho điểm

dựa trên sự theo dõi, quản lý thường xuyên thời gian lên lớp của học viên và căn cứ

vào ý thức chấp hành kỷ luật học đường của từng học viên sau khi có ý kiến của Tổ

trưởng Tổ Giáo vụ.

Điểm chuyên cần được tính như sau: Nếu thời gian học viên vắng mặt trên lớp

từ 20% trở lên đối với học phần đó thì phải nhận điểm 0; từ 17%-19% nhận điểm 1;

từ 15%-16% nhận điểm 2; từ 13%-14% nhận điểm 3; từ 11%-12% nhận điểm 4;

10% nhận điểm 5; từ 8%-9% nhận điểm 6; từ 6%-7% nhận điểm 7; từ 4%- 5% nhận

điểm 8; từ 2%-3% nhận điểm 9 (Thời gian có mặt trên lớp được tính bằng số lần

điểm danh xác suất cho mỗi học phần đó).

58

- Điểm thường xuyên chiếm trọng số 15%: Thường là điểm bài đối thoại - kiểm

tra do giảng viên lên lớp tổ chức kiểm tra, thu và chuyển bài cho Tổ Bộ môn chấm,

lên điểm.

- Điểm kết thúc học phần: Là điểm bài thi viết hoặc hoàn thành báo cáo hoặc

điểm thực hành.

Với việc đánh giá kết quả học tập của học viên theo cách thức mới này, đã phát

huy được tính chủ động, sáng tạo, sôi nổi trong học tập của học viên. Điều này cũng

là một trong những yếu tố góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và kết quả học tập

của học viên.

Cũng với những điểm tích cực, kích thích được người dạy và người học tính

cực tham gia vào giờ học trên lớp, quyết định số 80/QĐ-HVTP ngày 17/8/2007 cũng

bộc lộ những hạn chế nhất định. Đó là điểm chuyên cần, thực chất là điểm điểm

danh chiếm tối đa 2/10 điểm trong một học phần của học viên làm cho việc đánh giá

kiến thức của người học thiếu tính chính xác. Khắc phục tình trạng này, theo Quyết

định số 80/QĐ-HVTP ngày 31/3/2018 của Giám đốc Học viện Tư pháp thì phương

pháp đánh giá kết quả học tập của học viên có một số thay đổi. Điểm học phần bao

gồm hai loại điểm. Loại điểm chiếm trọng số 20% gồm điểm nhận thức chiếm trọng

số 10% và điểm thường xuyên chiếm trọng số 10%.

Điểm nhận thức là điểm do giảng viên đang dạy cho điểm học viên tham gia

xây dựng bài, nọi dung phát biểu của học viện.

Điểm thường xuyên thường là điểm bài đối thoại, kiểm tra do giảng viên lên

lớp tổ chức.

Loại điểm chiếm trọng số 80% là điểm bài thi viết hoặc các hình thức thi khác

bắt buộc học viên phải tham gia, được tổ chức vào cuối mỗi học phần do Hội đồng

quản lý thi học phần tổ chức thi và chấm thi theo quy định.

Với phương pháp đánh giá điểm theo bản hướng dẫn mới, người học được đánh

giá đúng, thực chất hơn về kết quả học tập của mình. Về cho người thày hoàn thành

tốt buổi giảng trên lớp theo phương pháp tích cực, lấy người học làm trung tâm.

59

Hai là, về nội dung đào tạo lý luận - hành chính

Như đã phân tích tại tiểu mục 1.3.3 của Báo cáo phúc trình, đối với Chấp hành

viên, người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án.

Các quyết định của Chấp hành viên có liên quan đến quyền cơ bản của công dân

(như quyền tài sản, quyền chỗ ở, quyền nhân thân...) và liên quan trực tiếp đến an

ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội nên ngoài sự hiểu biết về pháp luật thì những

kiến thức về lý luận chính trị đóng vai trò quan trọng trong quá trình thực thi nhiệm

vụ được giao. Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa X đã

xác định: “cấp ủy địa phương có trách nhiệm lãnh đạo, thường xuyên kiểm tra công

tác kiểm sát và xét xử, công tác thi hành án bảo đảm đúng đường lối, chính sách của

Đảng và pháp luật của Nhà nước”. Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy có trách

nhiệm “giới thiệu nhân sự cấp trưởng, cấp phó Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân

dân, Thường trực cấp ủy giới thiệu nhân sự Thẩm phán và Kiểm sát viên, Chấp hành

viên để ngành dọc cấp trên bổ nhiệm”. Vì vậy, việc nâng cao trình độ lý luận chính

trị của Chấp hành viên là yêu cầu cần thiết. Tuy nhiên, thực tế công tác đào tạo về lý

luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước cho đội ngũ Chấp hành viên trong thời

gian qua còn nhiều bất cập, những hạn chế này có những nguyên nhân chủ quan và

khách quan, điển hình như:

Thứ nhất, số lượng Chấp hành viên được đào tạo về lý luận chính trị, quản lý

hành chính nhà nước là chưa nhiều, chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc thi

hành án. Điều này xuất phát từ nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về cơ chế tổ

chức bộ máy và việc phân bổ chỉ tiêu đi học. Nhiều địa phương không thể cử người

đi học các lớp bồi dưỡng quản lý nhà nước chương trình chuyên viên và bồi dưỡng

kiến thức lý luận chính trị trung cấp, cao cấp vì không có chỉ tiêu (cơ quan THADS

thuộc biên chế theo ngành dọc), trong khi đó lượng cán bộ dự kiến cử đi học tại mỗi

địa phương lại không nhiều nên không thể mở lớp riêng cho cơ quan THADS từng

tỉnh, dẫn đến tình trạng việc đào tạo quản lý nhà nước chương trình chuyên viên và

bồi dưỡng lý luận chính trị gặp nhiều khó khăn. Tại một số địa phương, Sở Tư pháp

60

và Trưởng THADS tỉnh (nay là Cục trưởng) đã phối hợp với cơ quan chức năng ở

địa phương để tạo điều kiện cho cán bộ thi hành án được đi học, nhưng số lượng rất

ít, nhìn chung việc đào tạo quản lý nhà nước cũng như lý luận chính trị tại địa

phương không đồng bộ, số cán bộ chưa được chuyển ngạch còn tồn đọng nhiều vì

thiếu tiêu chuẩn. Việc chưa được nâng ngạch, chuyển ngạch của cán bộ thi hành án

có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cán bộ cũng như việc xem xét bổ nhiệm Chấp

hành viên, Thẩm tra viên. Việc đào tạo cao cấp lý luận chính trị cũng tương tự như

vậy. Theo quy định thì các đối tượng là Cục trưởng, Phó cục trưởng Cục THADS,

Chi cục trưởng, Phó chi cục trưởng Chi cục THADS và những người trong diện quy

hoạch lãnh đạo cơ quan THADS địa phương rất cần thiết phải được trang bị kiến

thức cao cấp lý luận chính trị. Nhìn chung, qua khảo sát địa phương cho thấy Sở Tư

pháp và Cục THADS một số địa phương cũng đã phối hợp với các cơ quan chức

năng cử các đối tượng này đi học, nhưng số lượng còn hạn chế. Các đối tượng trong

diện quy hoạch lãnh đạo cơ quan THADS hầu như chưa được cử đi học.

Thứ hai, có những cơ quan thi hành án dân sự, có những thời điểm mặc dù có

chỉ tiêu đi đào tạo lý luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước nhưng lại không có

người cử đi học vì thiếu người, số lượng việc thi hành án nhiều, quá tải về công việc.

Hiện nay, trung bình mỗi cơ quan THADS cấp tỉnh có từ 5 đến 8 Chấp hành viên,

mỗi cơ quan THADS cấp huyện có từ 2 đến 3 Chấp hành viên, trong đó bao gồm cả

Thủ trưởng, Phó thủ trưởng và Chấp hành viên. Phần lớn các cơ quan thi hành án

dân sự hiện đang nằm trong tình trạng quá tải công việc, thiếu chấp hành viên làm

nhiệm vụ thi hành án, do đó nếu cử Chấp hành viên đi học các khóa đào tạo về lý

luận chính trị, hành chính nhà nước thì sẽ không có người tổ chức thi hành án. Do

vậy, dẫn đến tình trạng khi cần cơ cấu chấp hành viên vào nguồn bổ nhiệm lãnh đạo

hoặc bổ nhiệm chức danh thẩm tra viên thì có những chấp hành viên mặc dù năng

lực trình độ chuyên môn rất vững, có kinh nghiệm công tác thi hành án nhưng lại

thiếu các chứng chỉ này nên không đủ điều kiện để bổ nhiệm, đã gây không ít khó

khăn cho công tác bổ nhiệm, kiện toàn và chuẩn bị nguồn cho đội ngũ lãnh đạo.

61

Hiện nay có những cơ quan THADS vẫn chưa đề nghị bổ nhiệm thẩm tra viên vì

không có người đủ điều kiện, trong đó đặc biệt là điều kiện về chứng chỉ quản lý

hành chính nhà nước, trong khi văn bản quy định chức danh thẩm tra viên đã được

ban hành và có hiệu lực từ năm 2007.

Thứ ba, chất lượng đào tạo lý luận chính trị, hành chính nhà nước cũng đang

còn nhiều bất cập, chưa thật sự đem lại hiệu quả thiết thực. Đa số người được bổ

nhiệm Chấp hành viên là những người đã được đào tạo có bằng cử nhân luật, trong

khi đó các môn học về hành chính nhà nước lại áp dụng chung cho tất cả các đối

tượng nên rất nhiều môn học, nội dung Chấp hành viên đã được đào tạo cơ bản ở

chương trình đại học Luật. Do vậy, việc học lại những môn này là hoàn toàn không

cần thiết. Tương tự như vậy, đối với môn lý luận chính trị nhiều môn ở chương trình

cử nhân luật có nội dung đề cập đến vấn đề này như môn lịch sử đảng, tư tưởng Hồ

Chí Minh, Triết học, Lý luận Nhà nước và Pháp luật, v.v... mà chấp hành viên đã

được học. Chính vì đã được trang bị về cơ bản kiến thức này nên tâm lý đi học của

họ thường mang tính chất đối phó, chưa thật sự hấp dẫn đối với họ. Trong khi đó còn

nhiều nội dung liên quan đến công việc thi hành án thì chấp hành viên lại không

được đi học, ví dụ như học lên cao hơn như thạc sỹ, tiến sỹ hoặc trang bị thêm kiến

thức về tin học, ngoại ngữ, bổ sung kiến thức mới ở những lĩnh vực pháp luật

chuyên ngành khác, v.v...

3. Về quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng

Công tác quản lý hoạt động ĐTBD của BTP trong những năm qua đã làm tốt vai

trò của mình, thường xuyên phối hợp chặt chẽ với Học Viện Tư pháp, Học viện chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Hành chính, Học Viện Khoa học xã hội và một số

cơ sở đào tạo khác để cử CHVTHADS đi đào tạo sau đại học và tích cực triển khai có

hiệu quả kế hoạch ĐTBD cán bộ, công chức, viên chức của Ngành. Quan hệ phối hợp

được thực hiện từ khâu khảo sát và đề xuất nhu cầu ĐTBD, chương trình, kế hoạch đến

triển khai thực hiện các hoạt động cụ thể.

* Đánh giá hoạt động đào tạo, bồi dưỡng

62

Qua số liệu của Cục thi hành án dân sự cho thấy, trong số hơn 3000 Chấp hành

viên thì có đến hơn 90% đáp ứng được yêu cầu tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ

(có trình độ cử nhân luật), đã qua đào tạo nghiệp vụ thi hành án, song một số cán bộ

trẻ tuy đã được đào tạo nghề nhưng ít kinh nghiệm thực tiễn, một số cán bộ có kinh

nghiệm thực tiễn lại chưa được đào tạo chuyên sâu về thi hành án, trong khi đó hoạt

động thi hành án hết sức phức tạp, hệ thống PL còn có nhiều bất cập (nhất là PL thi

hành án vẫn còn tản mạn, thiếu đồng bộ), cơ chế quản lý thi hành án chưa thống nhất

và cũng chưa có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa THADS với thi hành án hình sự"[24]

Cho đến nay Học viện Tư pháp đã đào tạo được mười bảy khóa lớp nguồn bổ

nhiệm chấp hành viên (mỗi năm một khóa), hiện đang đào tạo khóa thứ XVIII. Từ

khóa I năm 2002 đến khóa VI, trung bình mỗi khóa đào tạo được 300 chấp hành

viên. Sau khi kết thúc khóa XVIII tổng số Chấp hành viên được đào tạo qua lớp

nguồn để bổ nhiệm chấp hành viên là khoảng 2.600 chấp hành viên. Như vậy, so với

tổng số 3.223 chấp hành viên của cả nước tính đến 01/1/2020 thì phần lớn số lượng

chấp hành viên đã được đào tạo qua lớp nguồn chấp hành viên. Trong số 2.600 chấp

hành viên được đào tạo có khoảng 35% là được đào tạo cử nhân luật chính quy, tức

là khoảng 910 chấp hành viên; 60% là được đào tạo tại chức luật, tức là khoảng

1.560 chấp hành viên, còn lại 5% là được đào tạo từ xa chiếm khoảng 130 chấp hành

viên.

Trong những năm qua, được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của Lãnh đạo BTP,

hoạt động ĐTBD CHVTHADS đã thu được nhiều kết quả tích cực.

Số lượng học viên tăng là chỉ số đầu tiên phản ánh kết quả ĐTBD đội ngũ

CHVTHADS. Từ năm 2015 đến năm 2020, đã ĐTBD được 1389 lượt CHVTHADS.

Trong đó, năm 2015 là 160 học viên, năm 2016 là 228 học viên, năm 2017 là 232

học viên, năm 2018 là 240 học viên, năm 2019 là 249 học viên, năm 2020 là 300

học viên.

Chất lượng đào tạo nâng lên rõ rệt, CHVTHADS sau khi tham gia các khóa

ĐTBD đã được trau dồi, củng cố và nâng cao kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề

63

nghiệp và đặc biệt là đã biết vận dụng những kiến thức, kỹ năng đã được truyền thụ

vào thực hiện nhiệm vụ và hàng năm, luôn luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ

được giao.

Như vậy, về cơ bản hoạt động ĐTBD đội ngũ CHVTHADS đã bám sát vào

nhiệm vụ chính trị của ngành, vào tiêu chuẩn CHVTHADS để hướng tới nhiệm vụ

trọng tâm là đẩy nhanh tiến độ chuẩn hoá và nâng cao trình độ về lý luận chính trị, kiến

thức quản lý nhà nước, kỹ năng nghiệp vụ chuyên ngành, kiến thức hội nhập kinh tế

quốc tế, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra đối với đội ngũ CHVTHADS.

III. Tồn tại, hạn chế trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi

hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay

1. Tồn tại, hạn chế

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động ĐTBD đội ngũ CHVTHADS

vẫn còn tồn tại những vấn đề cần phải khắc phục sau đây:

Một là: Hệ thống cơ quan thi hành án dân sự chưa tập trung xây dựng được đề

án nhằm nghiên cứu một cách triệt để có hệ thống đối với nhu cầu, năng lực đào tạo

các nghạch Chấp hành viên một mặt đảm bảo yêu cầu phát triển và đặt ra của xã hội,

mặt khác đảm bảo cân bằng số lượng việc tiền được phân bổ cho Chấp hành viên

trên toàn quốc.

Hai là: Việc phân bổ số lượng Chấp hành viên trên toàn quốc thiếu sự đồng

bộ, thống nhất vẫn để xảy ra tình trạng mất cân bằng trong chỉ tiêu đầu việc phải giải

quyết hằng năm giữa các Chấp hành viên trên toàn quốc.

Hệ thống cơ quan thi hành án dân sự chưa chú trọng đến vấn đề công tác khảo

sát có ý nghĩa hết sức quan trọng để hệ thống cơ quan thi hành án đối phó với các

vấn đề thừa thiếu Chấp hành viên một cách cục bộ cũng như hoạch định được chính

sách đào tạo bồi dưỡng một cách linh hoạt, chủ động trong từng giai đoạn từng địa

phương cụ thể.

Ba là: Việc đào tạo, bồi dưỡng Chấp hành viên đang dựa vào nhu cầu thực tế

của cơ quan thi hành án dân sự địa phương trong khi đó để giải quyết dứt điểm vấn

64

đề đào tạo bồi dưỡng có hiệu quả thì việc xây dựng một kế hoạch mang tính chất

tổng thể lâu dài có chiến lược là yêu cầu đặt ra cho hệ thống cơ quan thi hành án dân

sự.

Bốn là, về đào tạo thạc sỹ, hiện nay việc cử CHV đi đào tạo thạc sỹ chủ yếu là

ở các cơ sở đào tạo ngoài Ngành nên việc tiếp thu những kiến thức nền tảng về chức

năng, nhiệm vụ của ngành, về các lĩnh vực có liên quan, đặc biệt là khối kiến thức về

kỹ năng THADA theo hướng đáp ứng những đòi hỏi đặc thù của nghề nghiệp là chưa

đạt yêu cầu.

Năm là, các chương trình bồi dưỡng chưa phong phú, đa dạng, chưa đáp ứng

được đòi hỏi của thực tiễn

Hiện nay, các chương trình bồi dưỡng chủ yếu được xây dựng gắn với các lĩnh

vực công tác thực hiện chức năng của ngành, trong khi đó qua khảo sát ý kiến của

các học viên là CHVTHADS, hơn 80% ý kiến cho rằng, họ mong muốn được bồi

dưỡng chuyên sâu theo từng kỹ năng của mỗi chức danh. Ví dụ: trong lĩnh vực hình

sự, CHVTHADS mong muốn được bồi dưỡng chuyên sâu các kỹ năng THA,... tuy

nhiên các chương trình bồi dưỡng được xây dựng hầu như tích hợp chung các kỹ

năng. Chính vì vậy, nội dung giữa các chương trình trong nhiều trường hợp không

có sự khác biệt rõ nét. Ví dụ: trong lĩnh vực hình sự, các chương trình bồi dưỡng chủ

yếu được xây dựng theo các nhóm tội phạm cụ thể, vì vậy nội dung dễ bị trùng lắp.

Bên cạnh đó, các chương trình bồi dưỡng gắn với những cải cách pháp luật, đáp ứng

yêu cầu hội nhập quốc tế hầu như không được xây dựng trong 05 năm gần đây,

Sáu là, nội dung các chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn chưa sâu

sắc, chưa đáp ứng yêu cầu của người học

Với thời lượng thông thường từ 05 đến 10 ngày, các chương trình bồi dưỡng

kiến thức, kỹ năng chuyên ngành bắt buộc hàng năm hầu như chỉ trình bày được một

cách khái quát nhất lĩnh vực mà phạm vi bồi dưỡng đề cập, không có điều kiện đi

sâu hoặc tổng hợp, khái quát tất cả các vấn đề thực tiễn có liên quan để đúc kết thành

lý luận, kinh nghiệm. Người học cũng không có cơ hội thực hành nhiều với các hồ

65

sơ, tình huống mà chủ yếu nghe giảng lý thuyết kết hợp với hỏi đáp, thảo luận. Nội

dung chương trình đào tạo chưa bao quát hết các vấn đề, kỹ năng cần đào tạo, đặc

biệt, thiếu các chuyên đề về giải quyết án có yếu tố nước ngoài trong chương trình

đào tạo.

Bên cạnh đó, nội dung ĐTBD còn nặng về lý thuyết, ít tính thực tiễn. Nội

dung giảng dạy còn thiên về giải thích pháp luật thực định, chưa có sự tổng kết kinh

nghiệm thành lý luận. Tài liệu ĐTBD tuy được biên soạn chủ yếu bởi các nhà lý

luận và các chuyên gia thực tiễn có liên quan đến lĩnh vực ĐTBD, tuy nhiên khó có

thể kết hợp hài hòa được hai yếu tố lý luận và thực tiễn trong cùng một sản phẩm.

Các giảng viên cơ hữu của Nhà trường, việc biên soạn một bài giảng có tính lý

luận là thế mạnh của họ tuy nhiên lại ít yếu tố thực tiễn, trong khi đó với các chuyên

gia thực tiễn lại gặp khó khăn trong việc khái quát những vấn đề thực tế để đúc rút

thành lý luận, kinh nghiệm, những hướng dẫn nghề nghiệp mang tính cẩm nang.

Bảy là, phương pháp ĐTBD còn mang nặng tính áp đặt, truyền thụ, chưa đề

cao tính chủ động, sáng tạo và tư duy của người học

Đa số giảng viên vẫn sử dụng phương pháp giảng dạy truyền thống, chậm đổi

mới và đa dạng hóa các phương pháp ĐTBD. Vẫn còn những giảng viên ngại sự

thay đổi, giảng dạy theo cách thuyết trình, chưa thường xuyên cập nhật kiến thức

mới và thông tin nên chưa gây được sự hứng thú cho người học. Phương pháp được

sử dụng chủ yếu là thuyết trình, chưa có sự kết hợp với các phương pháp giảng dạy

khác như: hỏi đáp, giải quyết tình huống, giải quyết trực tiếp các vụ việc có thật trên

cơ sở hồ sơ. Việc rèn luyện các kĩ năng mềm đối với học viên chưa thực sự được

chú trọng, đặc biệt là kỹ năng tranh luận, thuyết trình và kĩ năng giải quyết vấn đề.

Riêng các khóa bồi dưỡng được mở trong thời gian quá ngắn, số lượng học

viên nhiều, vì thế khó áp dụng các phương pháp giảng dạy hiện đại, phương pháp đi

thực tế. Các chuyên đề chủ yếu nặng về nội dung lý thuyết, mặc dù trong quá trình

giảng dạy giảng viên có đưa ra các tình huống hoặc trình bày kinh nghiệm thực tiễn

nhưng về cơ bản vẫn sử dụng phương pháp thuyết trình. Hệ thống hồ sơ vụ việc thực

66

tế đưa vào giảng dạy trong các lớp bồi dưỡng chưa nhiều, nhiều chương trình không

có sự sử dụng hồ sơ tình huống để giảng dạy, tài liệu học tập chủ yếu chỉ có tập bài

giảng và các văn bản pháp luật.

Tám là, về đối tượng ĐTBD cử chưa đúng đối tượng, chưa vận dụng kết quả

ĐTBD vào thực hiện nhiệm vụ.

Số lượng biên chế CHV hai cấp chưa bảo đảm đáp ứng yêu cầu theo cơ cấu tổ

chức, bộ máy, nhiệm vụ, quyền, việc cử CHVTHADS đi ĐTBD đôi khi còn chưa

thực sự đúng đối tượng. Bên cạnh đó, một bộ phận CHVTHADS mặc dù đã được cử

đi ĐTBD, nhưng do chưa vận dụng được những kiến thức, kỹ năng đã được lĩnh hội

trong quá trình ĐTBD vào thực hiện nhiệm vụ nên năng lực thực hiện nhiệm vụ còn

hạn chế chưa tương xứng với trình độ được đào tạo ở bậc sau đại học.

Chín là, công tác quản lý về ĐTBD chưa thực sự hiệu quả, chưa xây dựng vị trí

việc làm, việc lập kế hoạch, chiến lược ĐTBD cho đội ngũ CHVTHADS còn chưa chủ

động, thiếu tầm nhìn chiến lược, không ít trường hợp là để giải quyết tình thế trước mắt.

Ngoài ra, công tác quản lý còn một số bất cập như việc khảo sát nhu cầu ĐTBD

để đề xuất xây dựng, ban hành kế hoạch ĐTBD hàng năm còn chậm; việc cử người

tham dự các lớp bồi dưỡng đôi khi chưa đúng đối tượng, nhu cầu nên ảnh hưởng không

nhỏ đến hiệu quả bồi dưỡng; công tác kiểm tra, đôn đốc báo cáo kết quả sau ĐTBD

chưa được thường xuyên, sâu sát. Ngoài ra, kinh phí đầu tư cho ĐTBD chưa thực sự

đáp ứng yêu cầu, việc tăng cường nguồn lực đầu tư từ bên ngoài (đầu tư, hợp tác, dự

án, tài trợ) còn nhiều hạn chế.

2. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế

Còn có những tồn tại, hạn chế trên là do những nguyên nhân sau đây:

Một là, quy định về ĐTBD đội ngũ CHVTHADS chưa hoàn thiện

Mặc dù trong thời gian qua, Nhà nước và Bộ Tư pháp đã có nhiều văn bản về

công tác ĐTBD nói chung và ĐTBD cho đội ngũ CHVTHADS nói riêng trong đó

quán triệt sâu sắc và triệt để những vấn đề phải ĐTBD, phát huy các phương pháp

ĐTBD cụ thể, song, trong thời gian qua, các văn bản pháp luật của Nhà nước về

67

công tác ĐTBD cũng như về nội dung đào tạo kỹ năng đã có sự thay đổi, nhưng

Ngành vẫn chậm ban hành các văn bản hướng dẫn nên chưa kịp thời đáp ứng yêu

cầu của công tác ĐTBD cho đội ngũ CHVTHADS. Bên cạnh đó hệ thống cơ quan

thi hành án dân sự, Tổng cục Thi hành án, Học viện Tư pháp chưa xây dựng được

một kế hoạch, đề án khoa học mang tính chất thực tiễn nhằm đánh giá yêu cầu đặt ra

trước mắt và lâu dài đối với đội ngũ Chấp hành viên. Từ đó chủ động trong công tác

đào tạo bồi dưỡng và phân bổ để đảm bảo tính phù hợp, năng lực sở trường và khối

lượng công việc cho từng đơn vị và cá nhân Chấp hành viên.

Việc đào tạo chỉ mới đáp ứng được nhu cầu trước mắt chưa có hoạch định

được cho nhu cầu phát triển trong tương lai dẫn đến bị động trong công tác đào tạo,

bồi dưỡng.

Hai là, chất lượng giảng viên còn có những hạn chế nhất định

Về giảng viên cơ hữu, đội ngũ này đa số có phương pháp sư phạm, có trình độ

lý luận và kiến thức chuyên môn nhưng kiến thức thực tiễn còn hạn chế. Trong đội

ngũ giảng viên cơ hữu, số giảng viên đạt trình độ tiến sỹ còn rất ít, số lượng giảng

viên thạc sỹ tuy chiếm tỉ lệ cao so với tổng số giảng viên nhưng khả năng sư phạm

và kinh nghiệm thực tế còn nhiều hạn chế. Cơ cấu tuổi đời, tuổi nghề của đội ngũ

giảng viên có sự khác biệt lớn gây nên tình trạng đứt đoạn trong chuyển giao giữa

các thế hệ và chuẩn bị đội ngũ kế cận. Việc thu hút và duy trì một đội ngũ giảng viên

cơ hữu đủ mạnh để tham gia giảng dạy các lớp đào tạo ĐTBD gặp không ít khó

khăn. Nhiều giảng viên giảng viên trẻ tuy năng động, sáng tạo, nhanh nhạy trong

tiếp cận kiến thức nhưng kỹ năng nghề và khả năng sư phạm còn hạn chế. Một bộ

phận nhỏ giảng viên của trường chậm đổi mới, có tư tưởng trung bình chủ nghĩa,

chậm đổi mới nội dung, phương pháp dạy học. Số giảng viên vừa có trình độ lý luận,

phương pháp sư phạm vừa có kiến thức thực tiễn còn tương đối hiếm. Trình độ đội

ngũ giảng viên đã được nâng cao song lại chưa đồng đều giữa các đơn vị khoa, bộ môn

trong trường, thậm chí có khoa, phòng chưa có giảng viên có trình độ Tiến sỹ. Trình độ

tin học, ngoại ngữ của đội ngũ giảng viên nhà trường cũng là vấn đề cần phải quan

68

tâm, nhất là khi đứng trước yêu cầu tăng cường hội nhập quốc tế.

Về đội ngũ giảng viên thỉnh giảng, đây là lực lượng góp phần đáng kể vào kết

quả thực hiện công tác ĐTBD đội ngũ CHVTHADS. Đội ngũ giảng viên này có thế

mạnh về kinh nghiệm thực tiễn nghề nghiệp, tuy nhiên do đa số họ ít có kinh nghiệm

thuyết trình, kinh nghiệm đào tạo và kỹ năng sư phạm nên hiệu quả giảng dạy không

cao. Điều này cũng đặt ra giống như khi họ được mời tham gia biên soạn tài liệu bồi

dưỡng.

Ba là, nguyên nhân từ phía người học - các CHVTHADS được cử đi ĐTBD

Một số CHVTHADS tinh thần trách nhiệm chưa cao, chưa chịu khó nghiên

cứu, học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Một số CHVTHADS còn

ngại đi ĐTBD, chưa nhìn nhận đúng tầm quan trọng của công tác ĐTBD đối với việc

nâng cao trình độ, kỹ năng nghiệp vụ, còn có tư tưởng coi ĐTBD chỉ là điều kiện để

bổ nhiệm, nâng ngạch mà chưa coi ĐTBD nâng cao kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp

là điều kiện cần thiết của CHVTHADS đối với sự phát triển của ngành. Bên cạnh đó,

do thói quen ngại tư duy trong quá trình học, do phần nhiều ảnh hưởng lớn của

phương pháp dạy học cũ, vẫn là trong giờ học, thầy giảng trò nghe và ghi chép. Sự

thiếu tích cực trong học tập của người học cũng làm giảm sự nhiệt tình của giảng viên

và như vậy việc dạy và học trở nên nhàm chán, mang tính đối phó. Mặt khác, không

coi trọng kết quả ĐTBD, không biết kết hợp kiến thức, kỹ năng đã được truyền thụ

với thực tiễn nghề nghiệp nên hiệu quả công tác chưa cao.

Bốn là, thiếu các nguồn lực vật chất cần thiết để đổi mới nội dung, cải tiến

phương pháp ĐTBD theo hướng tích cực, hiện đại

Để có thể áp dụng triệt để học theo tín chỉ, đòi hỏi cấp bách của một cơ sở đào

tạo là phải có một thư viện hiện đại, dễ tiếp cận với nguồn học liệu phong phú. Lãnh

đạo các cơ sở đào tạo đã rất quan tâm đầu tư cho thư viện cũng như liên kết với

nhiều đối tác khác nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người

học.

- Chưa áp dụng được công nghệ thông tin mạnh mẽ vào ĐTBD

69

Để tổ chức lớp học theo quy mô các lớp nhỏ, cần phải có hệ thống máy móc

trang thiết bị đủ để đáp ứng yêu cầu, hệ thống học liệu phong phú, nhất là các hồ sơ

vụ việc thu thập được từ thực tiễn phải là những hồ sơ điển hình, đa dạng, có sai lầm

nghiêm trọng trong áp dụng luật nội dung hoặc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng

để, từ đó giúp học viên phân tích, đánh giá, rút kinh nghiệm, nhưng do chưa hình

thành được hệ thống cơ sở dữ liệu án mẫu đầy đủ hay các thiết bị mô phỏng kỹ thuật

điều tra hình sự hiện đại phục vụ công tác ĐTBD để phục vụ phương pháp ĐTBD

tích cực. Trong khi đó, phải có đầy đủ những yếu tố này thì mới có thể áp dụng được

các phương pháp giảng dạy hiện đại, phát huy được sự chủ động của người học. Với

việc Đ

Năm là, về phương pháp giảng dạy mặc dù Học viện Tư pháp là một trong

những cơ sở đầu tiên áp dụng phương pháp giảng dạy tiên tiến sử dụng công nghệ

tin học trong giảng dạy, áp dụng phương pháp song giảng, đưa tình huống hướng tới

người học là trung tâm, tuy nhiên việc áp dụng phương pháp này vẫn còn có những

hạn chế nhất định.

Sáu là, đội ngũ giảng viên về cơ bản là đáp ứng yêu cầu, tuy nhiên do đặc thù

công tác thi hành án dân sự nên đối tượng tham gia giảng dạy vẫn phải kiêm nhiệm,

chủ yếu là những người làm công tác thực tiễn trong ngành thi hành án là những

người có kinh nghiệp thực tiễn nhưng lại thiếu phương pháp nghiệp vụ sư phạm

hoặc những giáo viên chuyên trách của Học viện Tư pháp là không có nhiều kinh

nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực thi hành án dân sự nên có những tình huống phát

sinh trong thực tiễn mà chưa có sự điều chỉnh của pháp luật thì giáo viên gặp lúng

túng trong việc giải quyết vấn đề.

Bảy là, thực trạng công tác đào tạo lý luận – hành chính còn nhiều bất cập, còn

nhiều chấp hành viên vẫn chưa được trang bị kiến thức lý luận, hành chính, do đó

phần nào đã gây khó khăn cho công việc thi hành án, bổ nhiệm lãnh đạo, chấp hành

viên và thẩm tra viên, v.v...

70

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên, song có thể kể đến một

nguyên nhân khá cơ bản đó là do đầu vào của đội ngũ cán bộ các cơ quan thi hành

án dân sự tuy ngày càng được nâng cao (nhất là những năm gần đây) nhưng so với

yêu cầu chung còn thấp. Vẫn còn có một số chấp hành viên chỉ qua đào tạo tại chức

hệ vừa học vừa làm, luân huấn pháp lý hoặc chưa qua đào tạo nghiệp vụ thi hành án

nhưng vẫn phải bổ nhiệm vì những nơi đó thiếu nguồn bổ nhiệm chấp hành viên

(nếu không bổ nhiệm thì sẽ không có người làm nhiệm vụ thi hành án, đặc biệt là ở

những địa phương vùng núi, vùng sâu, vùng xa). Trong khi đó chất lượng đào tạo tại

chức luật ở Việt Nam mặc dù đã được từng bước cải thiện, nâng cao, nhưng do yêu

cầu vừa học vừa làm nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng đào tạo. Đây cũng là

một trong số những nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong việc giải quyết công việc về

thi hành án của chấp hành viên trước đòi hỏi kỹ năng áp dụng pháp luật nói chung,

pháp luật về thi hành án dân sự ngày càng cao. Chưa kể đến yêu cầu về tin học,

ngoại ngữ hoặc tiếng dân tộc phục vụ cho công tác thi hành án dân sự đối với đội

ngũ chấp hành viên nhìn chung vẫn còn nhiều hạn chế. Đây cũng là một trong những

yếu tố cần quan tâm khi xây dựng, đổi mới khung chương trình đào tạo chấp hành

viên trong tương lai. Ngoài ra, qua khảo sát cho thấy, số Chấp hành viên được qua

đào tạo về lý luận chính trị - hành chính vẫn còn chiếm tỷ lệ thấp (chỉ có từ 10 đến

15% đã qua các lớp đào tạo cao cấp Chính trị - hành chính và tập trung chủ yếu ở

đội ngũ cán bộ lãnh đạo), nhất là ở các địa bàn miền núi, vùng sâu vùng xa thì tỷ lệ

này càng giảm đáng kể.

Tám là, chưa có quy hoạch, chiến lược đào tạo chấp hành viên kể cả lâu dài và

trước mắt. Chưa có một sự đánh giá và dự báo mang tính tổng thể, tòan diện về thực

trạng số lượng chấp hành viên và nhu cầu số lượng chấp hành viên cũng như nhu

cầu cần đào tạo đội ngũ chấp hành viên để từ đó định ra kế hoạch đào tạo chấp hành

viên cho từng năm và cho lâu dài. Đây là những hạn chế về công tác quản trị nguồn

nhân lực vận dụng vào công tác quy hoạch đào tạo đội ngũ chấp hành viên trong thời

gian qua.

71

Chín là, các chuyên đề trong chương trình đào tạo chấp hành viên thường quá

bám sát vào các quy định của luật thực định mà cụ thề là các quy định của pháp luật

thi hành án dân sự nên cấu trúc chương trình đào tạo thường bị động khi luật thực

định thay đổi, trong khi đó yêu cầu của một chương trình đào tạo phải bảo đảm tính

ổn định, lâu dài, các khóa đào tạo cũng được thực hiện liên tục. Trong chương trình

đào tạo chấp hành viên chưa xác định được những vấn đề mang tính nguyên tắc về

các kỹ năng thi hành án dân sự, do đó tính ổn định của chương trình không cao.

Mười là, về thành phần tham gia xây dựng chương trình đào tạo. Thực tế cho

thấy những người tham gia xây dựng chương trình đào tạo đã nỗ lực và tâm huyết để

xây dựng, sửa đổi, bổ sung chương trình đào tạo. Tuy nhiên, việc xây dựng chương

trình đào tạo chấp hành viên là một công việc mang tính đặc thù nhưng còn mới mẻ,

chưa có tiền lệ. Để việc xây dựng chương trình có chất lượng thực sự bên cạnh việc

phải đáp ứng đòi hỏi về trình độ của người xây dựng chương trình, còn phải đáp ứng

yêu cầu của thực tế hành nghề. Trong nhóm xây dựng, sửa đổi, bổ sung chương trình

đào tạo chấp hành viên từ khóa I đến nay ít có sự tham gia của những người đã

thông qua thực tế hành nghề chấp hành viên. Đơn vị phụ trách công tác đào tạo chấp

hành viên đã cố gắng khắc phục thực tế đó bằng cách, thay vì mời một hay nhiều

người làm thực tế vào nhóm xây dựng chương trình đào tạo thì hỏi luôn ý kiến của

họ. Tuy khi đó, mời người làm thực tế tham gia là một việc làm khác so với việc hỏi

ý kiến của họ về chương trình đào tạo. Bởi lẽ, việc trực tiếp tham gia xây dựng

chương trình sẽ ràng buộc trách nhiệm của các thành viên, buộc họ phải hết sức cân

nhắc trong những đề xuất hay quyết định của mình.

Mười một là, thiếu kinh phí cho việc xây dựng, sửa đổi bổ sung chương trình

đào tạo: Từ trước tới nay không có khoản chi cho việc sửa đổi, bổ sung chương trình

đào tạo, mà chỉ có khoản chi cho việc biên soạn chương trình đào tạo cho các lớp

mới. Lớp Đào tạo chấp hành viên, không được coi là lớp mới vì lớp này được tổ

chức từ năm 2012. Việc sửa đổi, bổ sung chương trình đào tạo chấp hành viên chủ

yếu dựa vào tâm huyết mà không có thù lao, kể cả kinh phí để tiến hành khảo sát.

72

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Trong chương 2 Luận văn đã tập trung khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động

ĐTBD đội ngũ CHVTHADS. Theo đó, tác giả đã khái quát chung về đội ngũ chấp

hành viên; tổng hợp số liệu và đánh giá kết quả thực hiện hoạt động ĐTBD đội ngũ

CHVTHADS trong thời gian từ năm 2015 đến 2020, đồng thời chỉ ra những tồn tại,

hạn chế trong việc ĐTBD đội ngũ CHVTHADS, đặc biệt, Chương 2 của Luận văn

cũng xác định rõ những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế như: do quy định về

ĐTBD đội ngũ CHVTHADS chưa được hoàn thiện, do chất lượng đội ngũ giảng

viên, do nội dung, chương trình ĐTBD chưa đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của

Ngành THADS trong tình hình mới; cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật đầu tư cho

ĐTBD chưa được quan tâm đúng mức…

Trên cơ sở những khảo sát và đánh giá thực trạng ĐTBD đội ngũ

CHVTHADS Chương 2 của Luận văn sẽ định hướng cho những giải pháp nhằm

nâng cao hiệu quả hoạt động ĐTBD đội ngũ CHVTHADS trong thời gian tới.

73

Chương 3

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI

NGŨ CHẤP HÀNH VIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

I. Quan điểm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Chấp hành viên

ở nước ta hiện nay

1. Phải quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật Nhà nước và

quy định của Ngành

ĐTBD đội ngũ CHV phải quán triệt sâu sắc các quan điểm, đường lối, chính

sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của ngành theo từng

giai đoạn cách mạng để cụ thể hóa và vận dụng đúng đắn, sát hợp vào công tác

cán bộ và ĐTBD đội ngũ CHV trong những năm tiếp theo.

Theo đó, phải coi đổi mới sâu sắc công tác ĐTBD đội ngũ CHV và luôn phải đặt

ngang tầm nhiệm vụ chính trị trong công tác xây dựng ngành. Trong quá trình đổi

mới công tác ĐTBD cần phải có các phương án, hệ thống các giải pháp đồng bộ, đổi

mới thực sự về chất nhằm đáp ứng các yêu cầu trước mắt, có tính ổn định và lâu dài.

Đây là yếu tố bảo đảm cho việc xác định chính xác mục tiêu ĐTBD và các chính

sách đầu tư thích đáng cho xây dựng và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật cho ĐTBD

CHV trước yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ mới.

Đồng thời, trong quá trình tổ chức ĐTBD đội ngũ CHV cần chú trọng tăng

cường năng lực thực hành, chú trọng tới phương pháp, kỹ năng nghiệp vụ chuyên

sâu về thi hành án để hoàn thành nhiệm vụ được giao đáp ứng yêu cầu cải cách tư

pháp và hội nhập quốc tế.

2. Đảm bảo tính toàn diện về kế hoạch và nội dung chương trình đào tạo,

bồi dưỡng

Kế hoạch, nội dung chương trình ĐTBD đội ngũ CHV ngoài việc phải đảm bảo

trang bị một cách có hệ thống kiến thức đồng bộ và nâng cao trình độ khoa học nghiệp

vụ, khoa học pháp lý, năng lực chuyên môn còn phải chú trọng công tác giáo dục

chính trị tư tưởng và đạo đức với CHV “Công minh, chính trực, khách quan, thận

74

trọng, khiêm tốn”. Mục tiêu xây dựng chiến lược ĐTBD đội ngũ CHV là nhằm xây

dựng đội ngũ cán bộ tuyệt đối trung thành với Đảng, tận tụy với công vụ, có bản lĩnh

chính trị vững vàng, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, tích cực đấu tranh

chống tham nhũng, có trình độ chuyên môn cao, có năng lực quản lý chỉ đạo điều

hành và khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn hoạt động công tác thi hành án. Luôn

coi chất lượng, hiệu quả công tác ĐTBD đội ngũ CHV là mục tiêu và nhiệm vụ trọng

tâm trong quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành theo yêu cầu cải cách tư

pháp và hội nhập quốc tế.

3. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng gắn liền với

việc đẩy mạnh thực hiện cải cách chế độ công vụ, công chức.

Phát triển năng lực các cơ sở đào tạo, mở rộng liên kết, hợp tác quốc tế và tăng

cường công tác quản lý về ĐTBD. Kiện toàn và đổi mới tổ chức bộ máy và hoạt động

của cơ sở đào tạo phù hợp với xu thế phát triển chung trên cơ sở nâng cao địa vị pháp lý

của các Trường. Thường xuyên chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và kiện toàn đội

ngũ cán bộ, giảng viên. Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất, khu nhà ở ký túc xá, giảng

đường, khu thực hành khám nghiệm và trang thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập và

nghiên cứu nhằm tạo những điều kiện tốt để nâng cao chất lượng giảng dạy và điều kiện

thuận lợi cho CHV được về ĐTBD tại cơ sở ĐTBD.

4. Đa dạng hóa các hình thức đào tạo, bồi dưỡng

Tranh thủ sự giúp đỡ nguồn kinh phí của các tổ chức, dự án quốc tế để mở

rộng lĩnh vực và đối tượng ĐTBD đội ngũ CHV; khuyến khích công chức, viên chức

trong ngành và học viên tích cực học tập, nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm công tác,

góp phần xây dựng đội ngũ công chức, viên chức có chất lượng cao, đáp ứng yêu

cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.

5. Đảm bảo tính kế thừa truyền thống, tính thực tiễn và tính hiện đại

Quan điểm này chỉ rõ công tác ĐTBD đội ngũ CHV phải tìm kiếm, gìn giữ

những nhân tố hợp lý, có giá trị, những bài học kinh nghiệm của ĐTBD đội ngũ CHV

trước đây để vận dụng vào công tác ĐTBD đội ngũ CHV hiện nay. Đồng thời yêu cầu

75

nội dung chương trình, hình thức và phương pháp ĐTBD phải phù hợp với điều kiện

thực tiễn hiện nay. Mặt khác, trong điều kiện hiện nay công tác ĐTBD phải tiếp thu

những bài học kinh nghiệm ĐTBD của các nước trên thế giới.

Những quan điểm trên có tính nguyên tắc và định hướng quan trọng, xuyên

suốt trong xây dựng chiến lược ĐTBD đội ngũ CHV đáp ứng yêu cầu cải cách tư

pháp và hội nhập quốc tế, đồng thời là cơ sở để đề ra các giải pháp đúng đắn nhằm

nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác ĐTBD đội ngũ CHV.

6. Đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay

Trong những năm qua, chất lượng hoạt động tư pháp đã được nâng lên mọt

bước, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn

định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy

nhiên, kết quả đó mới là bước đầu và mới tập trung vào giải quyết những vấn đề bức

xúc nhất. Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Chính sách hình sự, chế định

PL dân sự và PL tố tụng về tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi bổ sung.

Tổ chức bộ máy, chức năng nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn

bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và

bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút

về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong

điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ

quan tư pháp cón thiếu thốn, lạc hậu. Cùng với những mặt hạn chế nêu trên, nhiệm

vụ cải cách tư pháp đang đứng trước nhiều thách thức. Tình hình phạm tội diễn biến

phức tạp, với tính chất và hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Các khiếu kiện hành

chính; các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, các loại khiếu kiện và tranh chấp có

yếu tố nước ngoài có chiều hướng tăng về số lượng và phức tạp, đa dạng hơn. Đòi

hỏi của công dân và xã hội đối với các cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan

tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con

người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ PL và pháp chế XHCN, đấu tranh

có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm29.

76

Chưa kể, hoạt động điều tra, truy tố, xét xử là những hoạt động vất vả, phức tạp

và tốn kém, song những hoạt động đó có thể chỉ là con số không nếu như bản án,

quyết định của Toà án chỉ tồn tại trên giấy mà không được thi hành trên thực tế.

Chính vì vậy, hoạt động thi hành án nói chung và THADS nói riêng là hoạt động

không thể thiếu nhằm biến kết quả hoạt động các cơ quan tố tụng trước đó trở thành

hiện thực, thiết lập lại trật tự PL. Vì vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CHV phải

gắn với yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động thi hành án dân sự của đội ngũ Chấp

hành viên ở nước ta hiện nay.

7. Phù hợp với chủ trương xã hội hoá một số hoạt động thi hành án dân sự

Xã hội hoá đối với các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội là một chủ

trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm "Khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức hoạt

động không vì lợi nhuận mà vì nhu cầu và lợi ích của nhân dân; tạo điều kiện thuận

lợi cho các tổ chức thực hiện một số dịch vụ công với sự giám sát của cộng đồng".

Đối với lĩnh vực tư pháp nói chung và hoạt động thi hành án dân sự nói riêng, Nghị

quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020 thể hiện: “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên

cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía Nhà nước để tạo điều kiện

cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của mình … từng bước thực hiện việc xã hội hoá và quy định những hình

thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số

công việc thi hành án”; "Nghiên cứu chế định Thừa phát lại (thừa hành viên); trước

mắt có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết,

đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo”.

Thực hiện chủ trương trên, ngày 14/11/2008, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá

XII đã nhất trí thông qua Luật thi hành án dân sự, đồng thời Quốc hội cũng đã thông

qua Nghị quyết số 24/2008/QH12 về việc thi hành Luật thi hành án dân sự. Tại kỳ

họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2019, Luật thi hành án dân sự được Quốc

hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, 41/2019/QH14. Tại Nghị

77

quyết này đã quy định: "Để triển khai thực hiện chủ trương xã hội hoá một số công

việc có liên quan đến thi hành án dân sự, giao Chính phủ quy định và tổ chức thực

hiện thí điểm chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên) tại một số địa phương. Trong

bối cảnh đó, việc xác định hợp lý đội ngũ Chấp hành viên trong tương quan với việc

thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại và chủ trương xã hội hoá một số hoạt động

thi hành án dân sự là yêu cầu cần thiết hiện nay.

8. Đặt trong tổng thể phát triển đội ngũ cán bộ công chức nhà nước

Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng

định chủ trương “xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công

chức phải thật sự là công bộc của nhân dân. Thực hiện các giải pháp nhằm chấn

chỉnh bộ máy và quy chế hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức. Cơ cấu lại đội

ngũ cán bộ, công chức”.

Một trong những mục tiêu mà Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn

2011-2020 và định hướng giai đoạn 2021-2030 đề ra là, đến năm 2030, đội ngũ cán

bộ, công chức có số lượng, cơ cấu hợp lý, chuyên nghiệp và hiện đại. Thiết nghĩ, để

hoàn thành mục tiêu này, ngay từ bây giờ, nội dung của các cụm từ "số lượng cán

bộ, công chức và cơ cấu hợp lý" cần được định hình sớm và nhiều nội dung khác của

Chương trình cũng cần được lượng hoá.

Nằm trong lộ trình cải cách chế độ công vụ, phát triển đội ngũ công chức của

Nhà nước nói chung, việc dự kiến nhu cầu tăng cường số lượng đội ngũ chấp hành

viên cũng phải trên cơ sở cân đối giữa việc tăng cường về số lượng chấp hành viên

với việc bổ sung tăng biên chế cho khối cơ quan thi hành án dân sự nói riêng và

tăng biên chế cho khối các cơ quan nhà nước nói chung; việc tăng số lượng chấp

hành viên phải trên cơ sở thực hiện tinh giản biên chế đối với những đối tượng là

chấp hành viên không còn đáp ứng đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định mới đồng

thời tăng cường đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng chấp hành viên.

9. Phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của đất nước

78

Trong những năm gần đây, điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước đã có những

bước phát triển vượt bậc. Đóng góp vào những thành tích phát triển kinh tế của đất

nước là nhờ sự cố gắng của cả hệ thống chính trị, trong đó có đóng góp rất quan

trọng của ngành tư pháp. Công tác thi hành án dân sự thông qua việc trực tiếp thi

hành các bản án đã thu vào cho ngân sách nhà nước hàng năm hàng ngàn tỉ đồng, ví

dụ, riêng trong năm 2009, thu hơn 15 ngàn 600 tỉ đồng; năm 2019 thi hành xong 52

ngàn 808 tỉ đồng. Tuy nhiên, hàng năm ngân sách nhà nước vẫn phải trả và đầu tư

ngày càng tăng cho việc trả lương cho đội ngũ chấp hành viên nói riêng, của toàn bộ

đội ngũ công chức thi hành án dân sự nói riêng cũng như việc chi xây dựng trụ sở,

trang thiết bị làm việc cho cơ quan thi hành án dân sự. Do đó, phát triển đội ngũ

chấp hành viên phải bảo đảm hài hòa vừa đủ số lượng chấp hành viên làm nhiệm vụ

thi hành án vừa phù hợp với khả năng chi trả của ngân sách nhà nước.

III. Giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ

Chấp hành viên thi hành án dân sự trong thời gian tới

1. Hoàn thiện các quy định về đào tạo, bồi dưỡng CHVTHADS

Chất lượng và hiệu quả việc triển khai hoạt động đào tạo bồi dưỡng đội ngũ

CHVgắn kết chặt chẽ với công tác xây dựng và ban hành các quy chế của ngành

liên quan đến công tác ĐTBD. Để đảm bảo việc gắn công tác ĐTBD với công tác

tuyển dụng, sử dụng công chức và viên chức về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức, viên chức và tập trung vào các nội dung cụ thể sau đây:

Thứ nhất, tiến hành đánh giá, lựa chọn, phân loại cán bộ trên cơ sở tiêu chuẩn của

CHV các cấp và hiệu quả công tác thực tế, cũng như sự tín nhiệm của họ trong đơn

vị làm thước đo chủ yếu để tuyển chọn cử đi ĐTBD nhằm mục đích tạo nguồn là

một trong những yếu tố tác động không nhỏ đến việc nâng cao chất lượng ĐTBD

tại các cơ sở của ngành.

Thứ hai, quy định cụ thể hơn về chế độ ĐTBD bắt buộc đối với cán bộ, công

chức trong toàn ngành, về nhiệm vụ thường xuyên rà soát việc thực hiện nghĩa vụ

này đối với từng cán bộ, công chức; về giá trị và hiệu lực của các chứng chỉ bồi

79

dưỡng. Qua đó, tạo ra động lực, sự hứng khởi cho cán bộ, khi được cử tham dự

các khóa bồi dưỡng, cũng như góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của họ khi

tham gia các chương trình bồi dưỡng.

2. Tiếp tục xây dựng đội ngũ giảng viên về số lượng và chất lượng

Đội ngũ giảng viên là chủ thể quyết định chất lượng và hiệu quả các mặt hoạt

động của nhà trường, phát triển đội ngũ giảng viên phải được xem là nhiệm vụ

trọng tâm. Chú trọng cơ cấu hợp lý số lượng, chất lượng, cơ cấu, trình độ của đội

ngũ giảng viên, đảm bảo sự phát triển cân đối và bền vững của đội ngũ giảng viên

trong tương lai. Cần quan tâm cải thiện điều kiện làm việc và chế độ đãi ngộ cho

các giảng viên nhằm thu hút và giữ lại những người có năng lực, tâm huyết công

tác tại nhà trường.

Xây dựng đội ngũ giảng viên cơ hữu đủ về số lượng và mạnh về chất lượng.

Hàng năm tổ chức thi tuyển giảng viên để đáp ứng đủ số lượng giảng viên theo

nhu cầu của nhà trường. Có cơ chế khuyến khích cạnh tranh lành mạnh trong đội

ngũ cán bộ, giảng viên; tăng cường ĐTBD chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán

bộ, giảng viên cơ hữu. Khuyến khích và tạo điều kiện cho các giảng viên trẻ đi học

thạc sĩ, tiến sĩ ở trong nước và nước ngoài. Có chính sách hỗ trợ hợp lý đối với

những người đi học thạc sĩ hoặc nghiên cứu sinh; khuyến khích giảng viên, nhất là

các giảng viên trẻ tham gia vào hoạt động thực tiễn của ngành để có thêm kiến thức

thực tiễn phục vụ công tác giảng dạy. Chú trọng công tác ĐTBD lý luận chính trị và

nghiệp vụ cho giảng viên. Thường xuyên mở các khoá học về phương pháp giảng

dạy, ngoại ngữ, tin học tại trường để nâng cao trình độ cho giảng viên. Khuyến

khích các giảng viên, nhất là các giảng viên trẻ, ứng dụng công nghệ thông tin vào

việc thiết kế các chương trình, sản phẩm giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Đảm

bảo đủ diện tích và phương tiện làm việc tại nhà trường cho các giảng viên. Xây

dựng định mức lương và chế độ đãi ngộ phù hợp để giảng viên yên tâm công tác,

phát huy trí tuệ và năng lực đóng góp cho sự nghiệp xây dựng, phát triển nhà

trường.

80

3. Đổi mới về chương trình, nội dung chương trình, hình thức và phương

pháp đào tạo, bồi dưỡng CHVTHADS

Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng công tác xây dựng nội dung chương trình

ĐTBD cán bộ, đội ngũ CHVTHADS phải xác định những vấn đề cần đổi mới về

nội dung, chương trình ĐTBD cụ thể như sau:

Về đổi mới chương trình, nội dung ĐTBD

Việc đổi mới nội dung chương trình ĐTBD đội ngũ CHV phải xuất phát từ quy

định của pháp luật về hình thức bồi dưỡng và căn cứ vào thực tiễn thực hiện chức

năng, nhiệm vụ của ngành và phải được xây dựng trên cở sở quan điểm, đường lối

chính trị của Đảng nhằm tăng cường nhận thức chính trị trong công tác đấu tranh

phòng chống vi phạm và tội phạm, trong điều kiện hội tế quốc tế hiện nay và xây

dựng bản lĩnh chính trị, ý thức giai cấp nhằm góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ

nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể,

quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nội dung chương trình ĐTBD phải gắn

với vị trí việc làm và gắn với công tác quy hoạch và sử dụng cán bộ của ngành.

Nội dung chương trình phải chú trọng các chuyên đề về nghiệp vụ thực hành thi

hành án, tập trung rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp đảm bảo cho đội đội ngũ CHV

có đủ năng lực và trình độ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, rèn luyện và nâng

cao ý thức, trách nhiệm, đạo đức và bản lĩnh nghề nghiệp.

Về đổi mới hình thức ĐTBD

Bên cạnh việc nghiên cứu để cử CHV tham gia các đợt tuyển sinh thạc sỹ để

gắn với việc nâng cao kiến thức nghiệp vụ chuyên môn và lý luận về ngành; cần

nghiên cứu để chuyển các đợt tập huấn nghiệp vụ ngắn hạn

Về đổi mới phương pháp ĐTBD

Xuất phát từ tình hình thực tế trong những năm vừa qua, phương pháp ĐTBD

chủ yếu thực hiện là phương pháp truyền thống là học viên đọc tài liệu và giảng

viên truyền đạt bằng thuyết trình, vấn đề này đã ảnh hưởng nhất định đến chất

lượng ĐTBD, vì vậy cần nghiên cứu bổ sung nguồn kinh phí đầu tư cơ sở vật chất,

81

mua sắm trang thiết bị phục vụ dạy và học tập.

4. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại cho đào tạo, bồi

dưỡng đội ngũ CHV

Đổi mới chương trình, tài liệu giảng dạy, học liệu và phương pháp giảng dạy -

học tập

Cần thường xuyên rà soát và tiến hành khảo sát nắm bắt nhu cầu để sửa đổi, bổ

sung, hoàn thiện, xây dựng mới hệ thống chương trình, giáo trình, tài liệu, bảo

đảm nâng cao chất lượng hệ thống giáo trình, tài liệu; bổ sung các tài liệu tham

khảo, sát với yêu cầu thực tiễn. Đồng thời, cần từng bước xây dựng và đưa vào

vận hành hệ thống giáo trình điện tử.

Hoàn thiện và hiện đại hoá công nghệ thông tin, thư viện của nhà trường

Công nghệ thông tin, thư viện là yếu tố thiết yếu phục vụ công tác giảng dạy và

học tập của nhà trường. Đầu tư nâng cấp thư viện; tăng cường nguồn nhân lực cho

thư viện; bổ sung số đầu sách và tài liệu tham khảo vào kho tài liệu; xây dựng và

phát triển nguồn tài liệu điện tử; xây dựng cơ sở hạ tầng viễn thông, Internet hiện đại;

ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học

và sinh hoạt chuyên môn.

5. Tăng cường công tác quản lý đào tạo, bồi dưỡng

Tăng cường công tác quản lý ĐTBD, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về

ĐTBD đội ngũ CHV. Thông qua những thông tin nắm được nhà quản lý sẽ có

những giải pháp tháo gỡ những khó khăn cho các đơn vị. Cũng thông qua quản lý

ĐTBD mà nắm vững tình hình ĐTBD của các cơ sở ĐTBD qua đó có những sự chỉ

đạo cho cơ sở đào tạo phát triển hợp lý.

Ngoài ra, phải tiếp tục hoàn thiện đề án vị trí, việc làm, xây dựng khung năng lực

gắn liền với từng vị trí để làm căn cứ khoa học, cho hoạt động ĐTBD. Xác định vị

trí, việc làm đóng vai trò quan trọng đối với ĐTBD.

Tăng cường đánh giá công tác ĐTBD, gắn ĐTBD với sử dụng đội ngũ CHV.

Đánh giá ĐTBD là quá trình kiểm tra lại xem người học đạt được những gì, kỹ năng

82

nào đã được chuyển tải vào quá trình thực thi công vụ. Đánh giá ĐTBD để xác định

mức độ hiệu quả của các khóa học bằng nguồn ngân sách nhà nước.

6. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên

- Thi hành án là giai đoạn tiếp theo hoạt động xét xử của Toà án, là một giai

đoạn quan trọng của quá trình tố tụng. Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là làm

cho những phán quyết của các cơ quan tài phán từ chỗ chỉ là trên văn bản, giấy tờ trở

thành hiện thực. Việc thi hành án có thể được thực hiện bởi sự tự nguyện, thoả thuận

của các bên đương sự hoặc có thể bằng việc sử dụng sức mạnh cưỡng chế của nhà

nước. Tuy nhiên, dù là tự nguyện hay cưỡng chế thì hoạt động thi hành án cũng

thường xuyên phải đụng chạm đến các quyền và lợi ích thiết thân của các bên từ

quyền lợi về vật chất như phải chuyển giao tài sản vốn đang thuộc quyền sở hữu, sử

dụng hợp pháp của mình cho người khác hoặc liên quan đến các quyền về tự do thân

thể, dân chủ cho đến việc tước đoạt quyền sống của con người. Hơn nữa, hoạt động

thi hành án không những tác động đến các chủ thể là cá nhân, tổ chức, cơ quan,

doanh nghiệp trong nước mà còn liên quan đến các tổ chức, cá nhân thậm chí là nhà

nước nước ngoài thông qua việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của

toà án nước ngoài, phán quyết của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Do vậy, hoạt

động thi hành án có thể tiềm ẩn nguy cơ xâm phạm tới các quyền cơ bản của con

người đã được pháp luật bảo vệ. Thực trạng này đòi hỏi yêu cầu bảo đảm quyền con

người phải luôn luôn được đặt ra trong suốt quá trình thi hành án. Điều này càng trở

nên đặc biệt quan trọng hơn trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn Đảng và Nhà nước

ta đang ra sức xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ

nghĩa. Mà một trong những đặc điểm, yêu cầu rất quan trọng của bất kỳ một kiểu

nhà nước pháp quyền nào trên thế giới cũng như ở nhà nước pháp quyền Việt Nam

đó là phải bảo đảm và thực thi một cách tốt nhất các quyền của con người trên cơ sở

các quy định của pháp luật quốc tế, pháp luật trong nước về nhân quyền.

Vì vậy, việc phát triển đội ngũ Chấp hành viên không thể tách rời yêu cầu bảo

vệ tốt hơn quyền của người được thi hành án, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,

83

tổ chức và Nhà nước theo bản án, quyết định của Toà án, quyết định xử lý vụ việc

cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài

thương mại.

- Đào tạo đội ngũ CHVTHADS đảm bảo điều kiện ngạch CHV

Bộ trưởng Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ Nội vụ xây dựng

tiêu chuẩn nghiệp vụ, mã số các ngạch Chấp hành viên để Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban

hành

Việc thi tuyển, bổ nhiệm mới chấp hành viên phải trên cơ sở quy định của Luật

Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014 và Nghị định số

62/2015/NĐ-CP bảo đảm đúng tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định để từ đó từng

bước chuẩn hóa đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự.

- Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CHV cũng góp phần khắc

phục tình trạng yếu kém của Chấp hành viên

Thực tế cho thấy, trong thời gian qua, các cơ quan chức năng đề cập khá nhiều

đến tình trạng CHV yếu (trong đó chủ yếu là CHV còn yếu về chuyên môn nghiệp

vụ). Điều này đúng nhưng chưa đủ. Qua nghiên cứu cho thấy, có rất nhiều yếu tố hội

tụ để khẳng định chất lượng đội ngũ CHV, trong đó không chỉ có yếu tố chuyên môn

nghiệp vụ mà còn bao gồm cả yếu tố tinh thần và vị trí xã hội. Thực tế cho thấy, có

trường hợp CHV tuy nắm vững chuyên môn nghiệp vụ nhưng không dám quyết định

tổ chức cưỡng chế thi hành án. Trong trường hợp này có thể xem là CHV yếu về bản

lĩnh kinh nghiệm nghề nghiệp. Ngược lại có trường hợp do non kém về nghiệp vụ

nên đã thi hành án trái PL. Hay có trường hợp, tuy nội dung vụ việc khá rõ ràng và

thuộc thẩm quyền quyết định của mình nhưng do sợ trách nhiệm hoặc vì một lý do

nào đó nên đã tìm kiếm sự hỗ trợ, đồng thuận từ phía các cơ quan cấp trên hoặc các

cơ quan ban ngành có liên quan (ví dụ cấp huyện xin ý kiến chỉ đạo của cấp tỉnh,

hoặc cơ xin ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch ủy ban nhân dân, trao đổi thỏa thuận với

Viện kiểm sát nhân dân…).

- Nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị, hành chính cho đội ngũ CHV

84

Để nâng cao hiệu quả công tác thi hành án trong thời gian tới thì việc nâng cao

năng lực, trình độ cho chấp hành viên, trong đó có yêu cầu về trang bị kiến thức lý

luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước cho đội ngũ chấp hành viên là yêu cầu

bức thiết đặt ra trong giai đoạn hiện nay.

Trên tinh thần mới của Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014,

Nghị định số 62/NĐ-CP, hiện nay hệ thống tổ chức thi hành án dân sự đã có một vị

thế mới, được quản lý tập trung, thống nhất từ trung ương xuống địa phương. Đây

vừa là cơ hội vừa là thách thức đặt ra đối với hệ thống tổ chức thi hành án dân sự.

Hiện nay, các phòng, ban, tổ chức ở các Cục THADS cấp tỉnh đã lần lượt được

thành lập, công tác tổ chức cán bộ đã được bàn giao từ Sở Tư pháp sang Cục Thi

hành án dân sự. Cục THADS sẽ là cơ quan có trách nhiệm chủ động trong việc đào

tạo, bồi dưỡng công chức, trong đó có việc đào tạo lý luận chính trị, hành chính nhà

nước. Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ tập trung phối hợp các Tỉnh ủy, các cơ sở

đào tạo lý luận chính trị, hành chính nhà nước các tỉnh về việc thống nhất nội dung

chương trình, số lượng đào tạo các lĩnh vực này cho đội ngũ lãnh đạo, chấp hành

viên các cơ quan thi hành án dân sự.

7. Nâng cao chất lượng chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghề Chấp hành

viên theo yêu cầu cải cách tư pháp

Xây dựng chương trình khung về đào tạo chấp hành viên đáp ứng yêu cầu cải

cách tư pháp trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Nội dung chương trình khung

đào tạo chấp hành viên này dự kiến gồm các vấn đề lớn như:

Một là, về chương trình đào tạo chấp hành viên

Thứ nhất, cần phải chỉnh sửa, tiến tới áp dụng một quy trình xây dựng chương

trình đào tạo thống nhất và khoa học

Thứ hai, khảo sát nhu cầu đào tạo và trình độ học viên cần được đặt ở vị trí

trọng tâm. Việc khảo sát này phải được tiến hành một cách chuyên nghiệp, theo đó

kết quả khảo sát phải là một nguồn tài liệu có độ tin tưởng cao.

85

Thứ ba, về đội ngũ tham gia xây dựng chương trình đào tạo, cần có sự tham gia

của những người làm thực tế. Tuy nhiên, đây không phải là giải pháp mang tính hiệu

quả cao. Về lâu dài, cần có kế hoạch đào tạo kiến thức thực tế cho đội ngũ giảng

viên cơ hữu theo hướng cử đội ngũ giảng viên của Học viện Tư pháp tới các cơ quan

thi hành án để làm công việc của chấp hành viên. Đội ngũ giảng viên này sẽ là nòng

cốt để xây dựng chương trình đào tạo chấp hành viên.

Thứ tư, việc xây dựng chương trình đào tạo chấp hành viên phải bảo đảm tính

nguyên tắc là có sự ổn định cao, xây dựng được những nguyên tắc đào tạo chấp hành

viên, các yêu cầu về kỹ năng hành nghề chấp hành viên, với mục đích bảo đảm

chương trình đào tạo chấp hành viên có tính ổn định cao, tránh tình trạng bị động,

thường xuyên thay đổi khi luật thực định thay đổi, bảo đảm khi luật thực định thay

đổi chỉ cần chỉnh sửa, bổ sung những vấn đề mang tính chất nghiệp vụ, thủ tục trong

chương trình đào tạo. Giải pháp này cũng nhằm khắc phục tình trạng việc đào tạo

chấp hành viên bị chậm do phải chờ thay đổi chương trình đào tạo vì có sự thay đổi

luật thực định như hiện nay.

Hai là, dự kiến nội dung khung chương trình đào tạo chấp hành viên đáp ứng

được yêu cầu cải cách tư pháp

Phần I: Phần chung - Cơ quan Thi hành án dân sự và Chấp hành viên

Phần II: Kỹ năng chung và kỹ năng cưỡng chế

Phần III: Kỹ năng chuyên sâu

Ba là, hoàn thiện phương pháp đào tạo Chấp hành viên

Việc đào tạo các chức danh tư pháp nói chung và đào tạo Chấp hành viên nói

riêng là đào tạo nghề. Đối với bất kỳ hoạt động đào tạo nghề nghiệp nào, việc rèn

luyện kỹ năng cho học viên vẫn là nhiệm vụ trọng tâm, cơ bản của cơ sở đào tạo.

Phương pháp đào tạo có vai trò rất quan trọng đối với chất lượng đào tạo. Do đó,

việc đổi mới phương pháp đào tạo, ứng dụng các phương pháp đào tạo hiện đại vào

hoạt động đào tạo là hết sức cần thiết. Để đổi mới, hoàn thiện phương pháp đào tạo

Chấp hành viên trong thời gian tới tác giả xin đưa ra một số kiến nghị sau:

86

8. Tiếp tục triển khai và hoàn thiện phương pháp thực hành tình huống

cho đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự

Như trên đã phân tích trong chương 2, phương pháp thực hành tình huống đã

mang lại những kết quả bước đầu. Các giảng viên tham gia giảng dạy và các học

viên tiếp nhận phương pháp hết sức nồng nhiệt và đã đánh giá rất cao phương pháp

này. Vì vậy, trong các khóa học tới cần tiếp tục triển khai phương pháp thực hành

tình huống trong các giờ học tình huống. Tuy nhiên, để phương pháp này đạt được

hiệu quả như mong muốn thì cần phải hoàn thiện và khắc phục một số bất cập, cụ

thể:

Thứ nhất, cần cần nhắc để bố trí từ 25 -30 học viên để tất cả các học viên được

đóng vai Chấp hành viên và đóng vai nhiều lần trong một khóa học.

Thứ hai, trong các giờ thực hành tình huống giảng viên không chỉ gọi một

nhóm lên đóng vai mà có thể gọi hai nhóm lên đóng vai để có sự đối trọng giữa các

nhóm tạo sự hứng thú trong học tập cho các học viên.

Thứ ba, để tránh việc nhàm chán, lặp lại đồng thời tạo tính chủ động, sáng tạo

trong việc đóng vai của các học viên, sau khi nhóm thứ nhất đóng vai xong thì giảng

viên cần mở rộng hoặc đưa ra những tình huống phát sinh để nhóm đóng vai thứ hai

đóng thay vì cho nhóm thứ hai đóng vai giống như nhóm thứ nhất.

Thứ tư, trong các giờ thực hành tình huống giảng viên cần tăng cường đưa ra

nhiều tình huống phát sinh để học viên trao đổi thảo luận, trên cơ sở đó giảng viên sẽ

khái quát thành những kinh nghiệm nghề nghiệp cũng như cách thức giải quyết tình

huống phát sinh cho các học viên.

9. Tăng cường triển khai phương pháp quan sát và bình luận cho đội ngũ

chấp hành viên thi hành án dân sự

Như trên đã phân tích, trong các khóa đào tạo Chấp hành viên tại Học viện Tư

pháp cũng đã áp dụng phương pháp này bằng việc cho học viên đi kiến tập tại các cơ

quan thi hành án. Qua buổi kiến tập tại cơ quan thi hành án học viên được tổ chức

xem xét các hoạt động nghiệp vụ thực tế và đưa ra ý kiến bình luận. Nhờ đó, học

87

viên có thể quan sát những kiến thức lý thuyết kỹ năng trên thực tế được vận dụng

như thế nào, các thao tác nghiệp vụ được tiến hành ra sao. Từ đó, học viên có thể tập

làm theo một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất. Theo các chuyên gia tâm lý giáo dục,

những kiến thức thu lượm được thông qua hoạt động nhìn, qua thị giác bao giờ cũng

được bộ não ghi nhận nhanh hơn và lưu trữ lâu hơn việc thông qua hoạt động nghe,

qua thính giác. Ngoài ra, sau khi quan sát thực tế, học viên sẽ có những nhận xét,

bình luận về các nội dung đã được quan sát, nhờ vậy học viên không chỉ dừng lại ở

mức độ nhìn mà còn biết phân tích, đánh giá và đưa ra các cách làm riêng của mình.

Tuy nhiên, trong toàn bộ chương trình đào tạo Chấp hành viên mỗi học viên chỉ

được đi kiến tập một buổi, số lượng như vậy có thể nói là quá ít. Chính vì vậy, để

tăng cường việc áp dụng phương pháp quan sát và bình luận, trong các khóa học tới

cần có những thay đổi. Theo tác giả, ngoài việc cho học viên đi kiến tập trực tiếp tại

các cơ quan thi hành án thì có thể cho các học viên theo dõi hoạt động thực tế thông

qua các băng, đĩa… Tuy nhiên, để thực hiện được điều này thì cần phải có kinh phí,

nhân sự và sự phối hợp hết sức chặt chẽ của các cơ quan thi hành án thực hiện việc

thu hình.

10. Quy hoạch đội ngũ chấp hành viên mang tính chất lâu dài.

Để đảm bảo cho hoạt động thi hành án dân sự mang tính chủ động, đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ đặt ra trước mắt và lâu dài thì công tác quy hoạch đội ngũ chấp hành

viên được xem và đánh giá là giải pháp vô cùng quan trọng để đề ra các chiến lược

đào tạo mang tính lâu dài và bổ sung nguồn nhân lực, kế cận cho tương lai khắc

phục tình trạng thiếu cục bộ tại các địa phương và nó được đánh giá vô cùng quan

trọng để xác định và dự báo chất lượng, số lượng nguồn nhân lực (Chấp hành viên)

hiện có và những biến động nhu cầu cho những năm tiếp theo.

Yêu cầu quy hoạch còn tác động một cách mạnh mẽ đến việc dự báo tình hình

phát triển của xã hội, số lượng công việc cần thực hiện hàng năm của hệ thống thi

hành án từ đó chủ động đi trước trong việc xây dựng nguồn nhân lực và tổ chức các

88

giải pháp phù hợp trong đào tạo bồi dưỡng nói chung và đào tạo bồi dưỡng Chấp

hành viên nói riêng.

Với quy định của pháp luật thì Chấp hành viên xác định gồm có 3 ngạch ( Chấp

hành viên cao cấp, chấp hành viên trung cấp, chấp hành viên sơ cấp) vậy thì việc

phân bổ đào tạo bồi dưỡng các nghạch chấp hành viên thế nào cho phù hợp đến nay

chưa có giải pháp đồng bộ nên quy hoạch chấp hành viên sẽ giải quyết vấn đề phân

bổ và đào tạo các ngạch chấp hành viên trên toàn hệ thống từ đó có những quy định

mang tính lâu dài.chính vì vậy cần xác định rõ số lượng các ngạch chấp hành viên

nhu cầu hiện tại và trong những năm tiếp theo theo một pháp đồ đánh giá được khảo

sát một cách thực tiễn và khoa học đây là tiền đề điều kiện quan trọng để xác định

chúng ta làm gì, đào tạo bồi dưỡng ra sao và số lượng Chấp hành viên cần thiết như

thế nào cho toàn hệ thống thi hành án dân sự.

89

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CHVTHADS đóng một vai trò hết sức quan trọng

trong quá trình việc xây dựng và phát triển ngành thi hành án. Tuy nhiên, thực trạng

quy định về ĐTBD đội ngũ CHVTHADS còn nhiều bấp cập, thiếu tính nhất quán và

nhiều quy định chưa cụ thể rõ ràng. Vì vậy, vấn đề hoàn thiện các quy định về

ĐTBD đội ngũ CHVTHADS có ý nghĩa quan trọng và cần thiết.

Bên cạnh việc hoàn thiện các quy định về nội dung này, hoạt động ĐTBD đội

ngũ CHVTHADS cũng cần có sự nâng cao chất lượng và hiệu quả. Muốn vậy,

ngành thi hành án cần chú trọng công tác ĐTBD, nâng cao năng lực của giảng viên

tham gia ĐTBD; đồng thời cần tăng cường cơ sở vật chất, đầu tư kinh phí cho

ĐTBD đội ngũ CHVTHADS trong thời gian tới. Tác giả cũng đưa ra những giải

pháp khác nhằm góp phần nâng cao hiệu quả ĐTBD đội ngũ CHVTHADS trong

thời gian tới.

90

KẾT LUẬN

ĐTBD đội ngũ CHVTHADS là vấn đề có ý nghĩa quan trọng nhằm góp

phần tạo ra một đội ngũ CHVTHADS có đủ năng lực chuyên môn, phẩm chất

chính trị và kỹ năng nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của ngành.

Trong những năm qua đã chú trọng hoạt động ĐTBD đội ngũ CHVTHADS.

Hiện nay, công tác này tuy đã đạt được nhiều thành quả đáng khích lệ nhưng vẫn

còn một số tồn tại cần khắc phục. Vì vậy, Luận văn đã nghiên cứu làm rõ một

cách cụ thể và toàn diện những kết quả, những tồn tại hạn chế cần khắc phục

trong thực tiễn thực hiện công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ CHVTHADS

những năm gần đây.

Hiện nay, trong tiến trình đổi mới, công tác ĐTBD đội ngũ CHVTHADS

không chỉ thực hiện nhiệm vụ phải từng bước chuẩn hóa đội ngũ CHVTHADS

mà còn góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả việc thực hiện chức năng thi

hành án. Vì vậy, kết quả nghiên cứu của Luận văn đã đề xuất những quan điểm

mang tính chỉ đạo trong công tác ĐTBD đồng thời đề ra những giải pháp mang

tính khoa học, tính thực tiễn và có tính ứng dụng trong việc đổi mới công tác

ĐTBD đội ngũ CHVTHADS trong những năm tiếp theo.

91

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bình luận Pháp lệnh THA dân sự năm 2004 (2006), Nxb Tư pháp, Hà Nội

2. Luật thi hành án dân sự năm 2008 và luật sửa đổi bổ sung năm 2014.

3. GS.Sakaii thuộc khoa sau Đại học Luật, trường Đại học Ritsumeikan, Nhật

Bản (2015), Cấu trúc cơ bản của cơ chế THADS của Nhật Bản, Hội thảo tại Bộ Tư

pháp ngày 28 tháng 7 năm 2015, nguồn Vụ PL dân sự kinh tế - Bộ Tư pháp, Hà Nội

4. Lê Tuấn Sơn - Nghề Chấp hành viên, báo nhân dân số 12283 ngày

05/4/2016.

5.Quốc Triều hình luật (2009), Nxb Pháp lý, Hà Nội.

6. GS.Claude Brenner, Đại học Panthéon - Assas Cộng hòa Pháp (2006),

Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc lựa chọn mô hình tổ chức thi hành án

phù hợp với mỗi Quốc gia của tại Hội thảo Quốc tế các mô hình tổ chức thi hành án

trên thế giới, Hà Nội ngày 17 và 18 tháng 4 năm 2006, Kỷ yếu Hội thảo Nhà PL Việt

Pháp, Hà Nội

7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ 26 Ban chấp hành

Trung ương Khoá XII năm 2019, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

8. Học Viện tư pháp (2015), Giáo trình Kỹ năng THADS, Nxb Tư pháp, Hà

Nội, tr.796.

9. Học Viện tư pháp (2015), Giáo trình Kỹ năng THADS, Nxb Tư pháp, Hà

Nội, tr.895.

10.Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành

Trung ương Khoá XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2020, tr.188

11. Chính phủ: Tờ trình số 31/TTr-CP ngày 04 tháng 4 năm 2008 về Dự án

Luật Thi hành án dân sự

12. Đào Ngọc Tuấn (2012), Tính phổ biến và tính đặc thù trong xây dựng nhà

nước pháp quyền Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội, tr.86.

13. V.I.Lênin (1970), Toàn tập, tập 32, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.270

14. XYZ (1959), Sửa đổi lề lối làm việc, Nxb Sự thật, Hà Nội

92

15. Viện ngôn ngữ học (2016), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội,2017

tr.996

16. Viện ngôn ngữ học (2016), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr.233

17. V.I.Lênin (2015), Toàn tập, tập 36, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.36

18. Nghị định ngày 16/3/1910 của Toàn quyền Đông Dương

19. Các cơ quan thi hành án dân sự bao gồm: Cơ quan thi hành án dân sự cấp

tỉnh; Cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện và Cơ quan thi hành án trong quân đội

(Thi hành án quân khu).

20. Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2015),

Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2015 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020, Hà Nội

21. Thu Hằng (2019), Báo pháp luật số 144 ngày 16/6/2018 của tác giả, Hà Nội

22. Nguồn Cục Thi hành án dân sự

23. Lê Tuấn Sơn - Nghề Chấp hành viên, báo nhân dân số 12283 ngày

05/4/2020.

24. Bộ Tư pháp (2020), Báo cáo số 10/BC-THA về một số tồn tại trong công

tác thi hành án dân sự và giải pháp, kiến nghị, Hà Nội

25. Trường cán bộ TA, TANDTC, "Những vấn đề pháp lý cơ bản về hội nhập

quốc tế", Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2015

26. Bộ Tư pháp (2007), Nghiên cứu thực trạng, nhu cầu phát triển đội ngũ Chấp

hành viên và xây dựng chương trình đào tạo theo yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài

khoa học cấp Bộ, Hà Nội.

27. Bộ Tư pháp (2012), Quyết định số 2659/QĐ-BTP, ngày 03/10/2012 về việc

ban hành Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức ngành

Tư pháp, Hà Nội.

28. C.Brenner (2006), Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc lựa chọn

mô hình tổ chức thi hành án phù hợp với mỗi quốc gia tại Hội thảo quốc tế các mô

93

hình tổ chức thi hành án trên thế giới, Hà Nội ngày 17 và 18/4/2006, Kỷ yếu Hội

thảo Nhà Pháp luật Việt Pháp, Hà Nội.

29. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Nghị định số

61/2009/NĐ-CP, ngày 24/7/2009 quy định về tổ chức và hoạt động của Thừa phát

lại thực hiện thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội.

30. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Nghị định số

74/2009/NĐ-CP ngày 09/92009 quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật

Thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân

sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự, Hà Nội.

31. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Nghị định số

18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2010 về đào tạo, bồi dưỡng công chức, Hà Nội.

32. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Nghị định số

21/2010/NĐ-CP ngày 08/2/2010 về quản lý biên chế công chức, Hà Nội.

33. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Nghị định số

24/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 và Nghị định số 93/2010/NĐ-CP ngày 31/8/2010

về tuyển dụng và quản lý công chức, Hà Nội.

34. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Báo cáo công

tác Thi hành án dân sự 5 năm (từ năm 2010 đến 2014), Hà Nội.

35. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Nghị định số 108/2014/NĐ-CP về chính sách tinh giản biên chế, Hà Nội.

37. Trần Văn Quảng (1996), Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động thi hành án

dân sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật, Hà Nội.6.

Số liệu báo cáo của Cục thi hành án dân sự, tính đến 30/9/2020.

94

95