HỌC VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THỊ THUẬN HÒA
ĐẤU GIÁ TÀI SẢN LÀ NHÀ, QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO
PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Hà Nội, năm 2019
HỌC VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THỊ THUẬN HÒA
ĐẤU GIÁ TÀI SẢN LÀ NHÀ, QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO
PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS LÊ MAI THANH
Hà Nội, năm 2019
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1:LÝ LUẬN VỀ ĐẤU GIÁ TÀI SẢN LÀ NHÀ, QUYỀN SỬ
DỤNG ĐẤT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ......................................... 6
1.1. Khái quát thi hành án dân sự và vai trò đấu giá tài sản là nhà, quyền sử
dụng đất ........................................................................................................................................... 6
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm thi hành án dân sự ........................................ 6
1.1.2. Đấu giá tài sản là nhà, quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự
..................................................................................................................... 9
1.2. Tài sản đấu giá, trình tự và hình thức bán đấu giá nhà, quyền sử dụng
đất trong thi hành án dân sự .................................................................................................16
1.2.1. Tài sản đấu giá là nhà, quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự
................................................................................................................... 16
1.2.2. Trình tự thủ tục đấu giá nhà, quyền sử dụng đất trong thi hành án
dân sự ........................................................................................................ 18
1.2.3. Hình thức, phương thức của đấu giá tài sản là nhà, quyền sử dụng
đất trong thi hành án ................................................................................. 20
1.3. Cơ sở pháp luật điều chỉnh đấu giá nhà, quyền sử dụng đất trong thi hành
án dân sự ........................................................................................................................................21
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐẤU GIÁ TÀI SẢN LÀ NHÀ,
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT QUA THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TẠI TP. HỒ CHÍ MINH .............................................................................. 23
2.1.1. Mật độ dân cư và điều kiện nhà ở ................................................... 24
2.1.2. Sự tăng trưởng kinh tế và gia tăng giá trị nhà ở đất đai ................ 26
2.1.3. Năng lực thi hành án ....................................................................... 27
2.2. Thực trạng pháp luật về chủ thể, đối tượng và giá trị tài sản trong đấu
giá tài sản trong thi hành án dân sự qua thực tiễn TP. Hồ Chí Minh ...............29
2.2.1. Chủ thể ............................................................................................ 29
2.2.2. Đối tượng ........................................................................................ 31
2.2.3. Giá trị .............................................................................................. 33
2.3.Thực trạng pháp luật về trình tự, thủ tục, hình thức tổ chức đấu giá tài sản
là nhà, quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự qua thực tiễn Thành phố
Hồ Chí Minh 36
2.3.1. Thực trạng pháp luật về kê biên, thẩm định giá tài sản là nhà, quyền
sử dụng đất ................................................................................................ 35
2.3.2. Thực trạng pháp luật hình thức tổ chức đấu giá tài sản là nhà, quyền
sử dụng đất trong thi hành án ................................................................... 36
2.4. Thực trạng hiệu lực kết quả đấu giá và bảo vệ quyền của bên mua trong
bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự qua thực tiễn TP. Hồ Chí Minh
........................................................................................................................................................... 41
2.4.1. Chủ sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất không tự nguyện bàn giao
hoặc miễn cưỡng bàn giao nhưng không giao giấy tờ ............................. 40
2.4.2. Khó khăn trong cưỡng chế thi hành án .......................................... 41
2.4.3. Kháng nghị giám đốc thẩm ảnh hưởng quyền lợi người mua ........ 41
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐẤU GIÁ
TÀI SẢN LÀ NHÀ, QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRONG THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ TẠI TP. HỒ CHÍ MINH .............................................................. 45
3.1. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về đấu giá tài sản là
nhà, quyền sử dụng đất ......................................................................................................... 47
3.2. Đảm bảo tính công khai, minh bạch, thuận lợi, bình đẳng, chính xác
trong áp dụng pháp luật về đấu giá tài sản thi hành án là nhà, quyền sử dụng
đất trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh ..................................................................................... 49
3.3. Nâng cao hiệu quả tổ chức đấu giá tài sản thi hành án là nhà, quyền sử
dụng đất trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh ......................................................................... 52
KẾT LUẬN .................................................................................................... 59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ĐGTS Đấu giá tài sản
THADS Thi hành án dân sự
TP. Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh
VKSND TC Viện kiểm sát nhân dân tối cao
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài nghiên cứu
Phán quyết của Tòa án hoặc quyết định giải quyết vụ việc tranh chấp chỉ
có giá trị pháp lý và thực tiễn nếu có được một hệ thống thực thi phán quyết
thực hiện được đúng chức năng của mình. Từ đó, hoạt động thi hành án dân sự
mang một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo kỷ cương phép nước;
củng cố pháp chế và pháp quyền, đảm bảo quyền tư pháp được thực thi. Điều
106 Hiến pháp hiện hành năm 2013 đã quy định rằng “Bản án, quyết định của
Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan, tổ chức, cá nhân
tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Nhận thức được vai trò của công tác thi hành án dân sự, nhiều năm qua,
Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực thi
hành án dân sự, trong đó Luật thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn
được coi là khung pháp lý quan trọng nhằm thể chế hóa hoạt động này trong
đời sống. Tuy vậy, kết quả thi hành án qua các năm mặc dù có khởi sắc nhưng
tình trạng án dân sự tồn đọng, khó giải quyết vẫn còn khá nhức nhối, đặc biệt
ở những địa bàn trọng điểm như Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh. Lĩnh vực khó
khăn nhất trong hoạt động thi hành án dân sự lại nằm ở các giao dịch liên quan
tới nhà ở, quyền sử dụng đất…
Theo thống kê của Tổng cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp, đến ngày
30/9/2018 (chỉ tính riêng các vụ việc bán đấu giá từ 3 lần trở lên), trên phạm vi
toàn quốc còn 2.961 việc bán đấu giá không thành với tổng giá trị tài sản hơn
7,46 nghìn tỷ đồng. Trong năm 2018 (từ ngày 1/10/2017 đến ngày 30/9/2018),
số việc bán đấu giá thành tài sản là 2.846 việc và hơn 11,1 nghìn tỷ đồng. Trong
đó, đã giao 2.110 việc, tương ứng với số tiền gần 9,6 nghìn tỷ đồng (đạt 74,2%
về việc và 86,34 % về tiền); hủy kết quả bán đấu giá là 69 việc, tương ứng với
số tiền gần 93 tỷ đồng; chưa giao được tài sản là 667 vụ, tương ứng với số tiền
1
hơn 1,4 nghìn tỷ đồng. So với năm 2017 thì năm 2018 số vụ việc cũng như giá
trị bán đấu giá thành đều tăng. Cụ thể, tăng 701 việc và hơn 7,7 nghìn tỷ đồng.
Kết quả giải quyết giao tài sản trong năm 2018 cũng tăng vượt bậc so với năm
2017, đặc biệt là về giá trị (tăng hơn 5 nghìn tỷ đồng).
Để đẩy nhanh hoạt động thi hành án dân sự liên quan tới nhà, quyền sử
dụng đất, giải pháp đấu giá tài sản được đưa vào áp dụng được coi là một trong
những phương án hữu hiệu. Nhưng Luật Đấu giá tài sản năm 2016, Luật thi
hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn chưa đầy đủ khiến hoạt động đấu giá
tài sản là nhà, quyền sử dụng đất ở nhiều nơi còn chậm, chưa tạo được động
lực.
Với những lí do kể trên, tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu “Đấu giá tài
sản là nhà, quyền sử dụng đất theo pháp luật thi hành án dân sự từ thực tiễn
Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Thi hành án dân sự nói chung và bán đấu giá tài sản trong thi hành án
dân sự nói riêng là những lĩnh vực phức tạp và nhạy cảm. Qua tổng hợp, có thể
ghi nhận một số công trình nghiên cứu nổi bật như:
- Nguyễn Thị Kim Tuyến (2010), Thực hiện pháp luật về thi hành án dân
sự ở thành phố Hà Nội, Luận án luật học;
- Nguyễn Thanh Phong (2011), Biện pháp cưỡng chế, kê biên tài sản
trong thi hành án dân sự, Luận văn luật học.
- Đặng Đình Quyền (2012), Hiệu quả áp dụng pháp luật trong thi hành
án dân sự ở Việt Nam, Luận án luật học;
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu này đã nghiên cứu khá kỹ lưỡng
và đầy đủ về thi hành án dân sự cả về lý luận và thực tiễn, tuy nhiên, hiện chưa
có công trình nào nghiên cứu vấn đề thi hành án dân sự đối với các tài sản là
2
bất động sản và địa bàn nghiên cứu chính là TP Hồ Chí Minh – đô thị lớn nhất
cả nước, nơi tập trung chính các giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà và tài sản gắn liền với đất.
Ngoài các nghiên cứu nói trên còn có một số nghiên cứu dưới dạng bài
viết, tạp chí như:
- Lê Minh Tâm (2001), Thử bàn mấy vấn đề lí luận về thi hành án, Tạp
chí Luật học số 2/2001.
- Trương Hồng Quang (2015), Về bản chất của hoạt động thi hành án,
Cổng thông tin Bộ Tư pháp
Mặc dù các công trình nghiên cứu đã giải mã nhiều vấn đề lý luận và
thực tiễn liên quan nhưng việc đấu giá nhà và quyền sử dụng đất tại Thành phố
Hồ Chí Minh với tài sản giá trị lớn, tác động xã hộ không nhỏ luôn là vấn đề
đáng quan tâm nhưng chưa được nghiên cứu thấu đáo. Đó chính là nhiệm vụ
nghiên cứu của luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn hệ thống hoá và phân tích cơ sở lý luận, pháp lý về đấu giá tài
sản là nhà, quyền sử dụng đất thi hành án dân sự; Trên cơ sở đó đánh giá thực
trạng đấu giá tài sản là nhà, quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự trên địa
bàn TP Hồ Chí Minh nhằm đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu tổng quan các quy định về đấu giá tài sản là nhà, quyền sử
dụng đất thi hành án dân sự; Tìm hiểu các chính sách, văn bản liên quan, đánh
giá vai trò của công tác đấu giá quyền sử dụng đất và tầm quan trọng của việc
hoàn thiện các quy định của pháp luật về đấu giá tài sản là nhà, quyền sử dụng
đất thi hành án dân sự. Tìm hiểu các quy định pháp luật về đấu giá tài sản là
nhà, quyền sử dụng đất thi hành án dân sự trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
3
Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định đó trên địa bàn Thành phố để nêu ra
được những mặt tích cực và hạn chế trong quá trình thực thi pháp luật.Tập trung
phân tích những tồn tại, vướng mắc để tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất giải
pháp phù hợp.
Đưa ra một số kiến nghị, giải pháp góp phần hoàn thiện quy định của
pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác đấu giá tài sản là nhà, quyền sử dụng
đất thi hành án dân sự tại Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đấu giá nhà, quyền sử dụng đất như một
trong biện pháp thi hành án dân sự căn cứ theo pháp luật thi hành án dân sự với
thực tiễn nghiên cứu từ địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu đấu giá nhà, quyền sử dụng
đất trong hoạt động thi hành án dân sự mà không mở rộng đến các biện pháp
thi hành án khác.
- Về không gian: Luận văn chỉ đánh giá thực tiễn trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng bán đấu giá nhà ở, quyền
sử dụng đất trong thi hành án dân sự từ năm 2014 đến nay (thời điểm Luật thi
hành án dân sự 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014).
5. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở vận dụng các phương pháp luận
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê nin và quan điểm
của Đảng cộng sản Việt Nam. Luận văn cũng sử dụng những phương pháp
nghiên cứu luật học truyền thống như phương pháp phân tích, phương pháp
tổng hợp, pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử, tư duy
4
logic, phương pháp quy nạp, diễn giải… nhằm làm sáng tỏ nội dung và phạm
vi nghiên cứu của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn:
Luận văn nghiên cứu về đấu giá tài sản là nhà, quyền sử dụng đất theo
pháp luật thi hành án dân sự nhằm phân tích, đánh giá thực trạng của hoạt động
này từ thực tiễn thi hành tại Thành phố Hồ Chí Minh. Thông qua luận văn cho
thấy được những ưu, nhược điểm của vấn đề nghiên cứu. Từ đó tác giả có những
đề xuất kiến nghị, nêu ra những giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những tồn
tại, hạn chế để có thể tạo ra hành lang pháp lý vững chắc hơn trong việc ban
hành pháp luật và thực thi pháp luật sau này. Bên cạnh đó, Luận văn cũng có
thể là tài liệu tham khảo có giá trị cho hoạt động nghiên cứu, giảng dạy và ít
nhiều cũng là nguồn kiến thức cho những ai hoạt động ở lĩnh vực đấu giá tài
sản trong thi hành án dân sự.
7. Kết cầu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về đấu giá tài sản là nhà, quyền sử dụng đất trong thi
hành án dân sự
Chương 2: Thực trạng pháp luật đấu giá tài sản là nhà, quyền sử dụng
đất qua thực tiễn thi hành án dân sự tại TP Hồ Chí Minh
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đấu giá tài sản là nhà,
quyền sử dụng đất qua thực tiễn thi hành án dân sự tại TP Hồ Chí Minh
5
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ ĐẤU GIÁ TÀI SẢN LÀ NHÀ, QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái quát thi hành án dân sự và vai trò đấu giá tài sản là nhà,
quyền sử dụng đất
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự là hoạt động đưa các phán quyết giải quyết tranh chấp
của cơ quan có thẩm quyền được thực thi trên thực tế. Các phán quyết này sau
khi được ban hành tuy có tính quyết định, nhưng việc thi hành trên thực tế
thường bị bên có nghĩa vụ né tránh thực hiện, do vậy để bảo đảm quyền lợi của
bên có quyền, hoạt động thi hành án dân sự sẽ tổ chức thực hiện các phán quyết
này trên thực tế.
Thi hành án dân sự là hoạt động của nhiều tổ chức và cá nhân được thực
hiện theo nguyên tắc và trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật THADS
và pháp luật có liên quan trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết
định của Tòa án, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Trọng tài thương mại.
Theo quy định tại Điều 1 và 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa
đổi bổ sung năm 2014), THADS là hoạt động của nhiều tổ chức và cá nhân,
bao gồm cả cơ quan THADS trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết
định của Tòa án, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Trọng tài thương mại.
Các bản án, quyết định được THADS bao gồm: bản án, quyết định về dân sự,
hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật
chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự,
phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định của
Tòa án giải quyết phá sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng
xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành và phán
quyết, quyết định của Trọng tài thương mại hoặc những bản án, quyết định của
6
Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành án ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng
nghị. Hoạt động THADS được thực hiện theo nguyên tắc và trình tự, thủ tục
theo quy định của Luật THADS, các văn bản hướng dẫn thi hành và các văn
bản quy phạm phát luật có liên quan.
Như vậy, THADS là một trong những hoạt động quan trọng của bộ máy
nhà nước nhằm đảm bảo cho các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án,
Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh được thi hành trên
thực tế. Hoạt động THADS có hiệu quả góp phần bảo đảm tính nghiêm minh
của pháp luật; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và lợi ích
của Nhà nước. Qua đó góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự xã hội, tăng
cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ và
bảo đảm quyền con người.
Về đặc điểm:
Thứ nhất, thi hành án dân sự là hoạt động được thực hiện theo quy định
của pháp luật về thi hành án dân sự. Là hoạt động bảo đảm cho các phán quyết
được thực thi trên thực tế, bảo đảm công bằng xã hội nên việc thực thi các phán
quyết phải được thực hiện theo những trình tự, thủ tục chung, do pháp luật quy
định. Quá trình phát triển, quy định pháp luật về thi hành án dân sự đến nay đã
chính thức xây dựng thành hệ thống văn bản, trong đó Luật Thi hành án dân sự
2008 sửa đổi bổ sung 2014 là văn bản quy định cơ bản nhất, bên cạnh đó là hệ
thống các văn bản hướng dẫn thi hành, gồm các Nghị định, Thông tư, …
Thứ hai, thi hành án dân sự là hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc tổ
chức được nhà nước trao quyền. Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ
sung 2014 quy định cơ quan có thẩm quyền tổ chức thi hành án là cơ quan thi
hành án dân sự cấp tỉnh, cấp quân khu, cấp huyện; là những cơ quan thuộc bộ
máy hành chính nhà nước Việt Nam, thực hiện chức năng quản lý nhà nước
trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Ngoài ra, Nghị định 61/2009/NĐ-CP ngày
7
24/7/2009 của Chính phủ quy định thì việc tổ chức thi hành án không chỉ được
thực hiện bởi cơ quan nhà nước mà đã được mở rộng, xã hội hóa hoạt động thi
hành án, có sự tham gia của các tổ chức dân sự là các văn phòng thừa phát lại.
Chủ thể THADS bao gồm nhóm cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong
hoạt động THADS, nhóm chủ thể tham gia, nhóm chủ thể có liên quan tới hoạt
động THADS.
Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động thi hành án dân sự, bao gồm:
Cơ quan có thẩm quyền tổ chức thi hành án và cơ quan có thẩm quyền kiểm sát
quá trình tổ chức thi hành án. Theo quy định tại Chương II Luật Thi hành án
dân sự 2008 sửa đổi bổ sung 2014, cơ quan có thẩm quyền tổ chức thi hành án
là hệ thống cơ quan thi hành án dân sự bao gồm cơ quan thi hành án dân sự
thuộc Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng và hệ thống cơ quan thi hành án dân sự các
cấp. Theo quy định tại Điều 28 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014,
Viện kiểm sát nhân dân các cấp là cơ quan có thẩm quyền kiểm sát các hoạt
động thi hành án.
Nhóm chủ thể tham gia hoạt động thi hành án, bao gồm: Đương sự
(người được thi hành án, người phải thi hành án) và người có quyền và nghĩa
vụ liên quan đến quá trình thi hành án. Theo quy định tại Điều 3 Luật Thi hành
án dân sự 2008 sửa đổi bổ sung 2014 quy định: Người được thi hành là cá nhân,
cơ quan, tổ chức được hưởng quyền, lợi ích trong bản án, quyết định được thi
hành; Người phải thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa
vụ trong bản án, quyết định được thi hành; Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trực tiếp
đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án của đương sự.
Ngoài ra còn có nhóm chủ thể liên quan đến hoạt động thi hành án như
các tổ chức bán đấu giá tài sản, các cơ quan chức năng có nghĩa vụ cung cấp
thông tin về điều kiện thi hành…
8
Cưỡng chế thi hành án dân sự được hiểu là biện pháp thi hành án dân sự
dùng quyền lực nhà nước, nhằm buộc người phải thi hành án dân sự thực hiện
những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định của Tòa án.
Cưỡng chế thi hành án dân sự do chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự
quyết định áp dụng theo thẩm quyền trong trường hợp người phải thi hành có
điều kiện thi hành án, đã được thông báo hợp lệ, đã hết thời gian tự nguyện thi
hành án mà không tự nguyện thi hành; hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn
người phải thi hành án dân sự tẩu tán, hủy hoại tài sản.
Nếu người phải thi hành án không tự nguyện, cơ quan thi hành án tiến
hành xác minh điều kiện thi hành án, áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành
án và thực hiện cưỡng chế thi hành án. Hoạt động bán đấu giá tài sản thi hành
án được thực hiện sau khi cơ quan thi hành án kê biên, thẩm định giá tài sản để
thi hành án (một trong các biện pháp cưỡng chế THADS).
1.1.2.Đấu giá tài sản là nhà, quyền sử dụng đất trong thi hành án dân
sự
- Khái niệm đấu giá tài sản là nhà, quyền sử dụng đất trong thi hành án
dân sự
Trong kinh tế học hiện đại, nhà kinh tế học người Anh – David W.Pearce
đã đưa ra định nghĩa: “Đấu giá là một thị trường trong đó người mua tiềm tàng
đặt giá cho tài sản chứ không phải đơn thuần trả giá theo giá công bố của
người bán” và thị trường đấu giá là “một thị trường có tổ chức, tại đó giá cả
được điều chỉnh liên tục theo biến đổi của cung cầu”
Theo Từ điển Luật học thì “Bán đấu giá tài sản là hình thức bán công
khai một tài sản, một khối tài sản; theo đó có nhiều người muốn mua tham gia
trả giá, người trả giá cao nhất nhưng không thấp hơn giá khởi điểm là người
mua được tài sản”
9
Theo Đại từ điển Bách khoa Việt Nam “Đấu giá là hình thức bán những
tài sản hoặc tài sản thường thuộc loại đắt tiền, hàng quý hiếm. Người bán đặt
mức giá chuẩn, những người mua trả giá từ thấp đến cao, tài sản được bán cho
người mua trả cao nhất”.
Bán đấu giá tài sản là một dịch vụ ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng
trong đời sống kinh tế - xã hội. Đây là một trong những phương thức minh bạch
để chuyển quyền sở hữu tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác góp phần thúc
đẩy hoạt động kinh tế nói chung, hoạt động mua bán trao đổi tài sản nói riêng
phát triển một cách đa dạng. Trong những năm qua, hoạt động bán đấu giá tài
sản ở nước ta đã từng bước phát triển, hỗ trợ đắc lực cho công tác thi hành pháp
luật, cụ thể như: thi hành án dân sự, xử lý tài sản bảo đảm thu hồi nợ vay cho
các tổ chức tín dụng, xử lý vi phạm hành chính, nhà nước giao đất có thu tiền
sử dụng đất hoặc cho thuê đất qua hình thức đấu giá... Công tác xã hội hóa hoạt
động BĐGTS đã và đang thực hiện theo lộ trình trong việc triển khai Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách
tư pháp đến 2020.
Khái niệm đấu giá tài sản là nhà, quyền sử dụng đất trong thi hành án:
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 5 Luật Đấu giá tài sản 2016: “Đấu giá
tài sản là hình thức bán tài sản có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo
nguyên tắc, trình tự và thủ tục được quy định tại Luật này, trừ trường hợp quy
định tại Điều 49 của Luật này”
Tài sản là nhà, quyền sử dụng đất để thi hành án dân sự là tài sản bắt
buộc phải bán thông qua đấu giá nếu các bên đương sự không tự thỏa thuận
được về thi hành án được quy định tại Khoản 1 Điều 4 Luật Đấu giá tài sản
2016. Quá trình bán đấu giá tài sản thi hành án được bắt đầu kể từ khi Chấp
hành viên kê biên tài sản, định giá tài sản và kết thúc khi tài sản đem bán đấu
giá được bàn giao cho người thắng cuộc trong phiên đấu giá. Cơ quan thi hành
10
án dân sự sau khi hoàn tất thủ tục kê biên, thẩm định giá tài sản sẽ ký kết hợp
đồng bán đấu giá với tổ chức, doanh nghiệp có chức năng tổ chức bán đấu giá
tài sản (sau đây gọi là tổ chức bán đấu giá). Quá trình bán đấu giá thành, tài sản
sẽ được giao cho người mua trúng đấu giá, số tiền thu được do trúng đấu giá
sau khi khấu trừ hết các chi phí cần thiết cơ quan thi hành án dân sự sẽ sử dụng
để thanh toán nghĩa vụ thi hành án theo phần nội dung của bản án, quyết định.
Như vậy, bán đấu giá tài sản là nhà, quyền sử dụng đất trong thi hành án
dân sự là hình thức mua bán đặc biệt, công khai đối với tài sản bị kê biên để thi
hành án. Hợp đồng dịch vụ đấu giá được ký kết giữa cơ quan THADS và tổ
chức bán đấu giá tài sản, được thực hiện theo nguyên tắc và trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định, người mua trả giá dựa trên khởi điểm do cơ quan thi hành
án xác định, người nào trả giá cao nhất sẽ được quyền mua tài sản đấu giá.
Chủ thể tham gia bán đấu giá tài sản là nhà, quyền dụng đất trong thi
hành án dân sự trong thi hành án dân sự bao gồm:
Người tham gia đấu giá: Khoản 7 Điều 5 Luật đấu giá tài sản quy định
người tham gia đấu giá là cá nhân, tổ chức có đủ điều kiện tham gia đấu giá để
mua là nhà, quyền dụng đất trong thi hành án dân sự đấu giá theo quy định của
Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan như Luật nhà ở, Luật đất
đai, Bộ luật dân sự.
Người có nhà ở, quyền dụng đất đem ra đấu giá theo pháp luật đấu giá
tài sản và pháp luật thi hành án dân sự gồm:
Theo khoản 5 Điều 5 và và khoản 1 Điều 33 Luật Đấu giá tài sản thì
người có tài sản đấu giá là cá nhân, tổ chức sở hữu tài sản, người được chủ sở
hữu tài sản uỷ quyền bán đấu giá tài sản hoặc người có quyền đưa tài sản ra đấu
giá theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Người có tài sản đấu giá
ký kết hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản với tổ chức đấu giá tài sản để thực hiện
việc đấu giá tài sản.
11
Theo Khoản 2 Điều 101 Luật Thi hành án thì người có tài sản đấu giá là
cơ quan thi hành án dân sự (Chấp hành viên). Với quy định này thì đương sự
có quyền thoả thuận về tổ chức bán đấu giá. Chấp hành viên ký hợp đồng dịch
vụ bán đấu giá tài sản với tổ chức bán đấu giá do đương sự thoả thuận. Trường
hợp đương sự không thoả thuận được thì Chấp hành viên lựa chọn tổ chức bán
đấu giá để ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản.
Tổ chức đấu giá tài sản: Luật đấu giá tài sản quy định tổ chức đấu giá
tài sản bao gồm doanh nghiệp đấu giá tài sản và Trung tâm dịch vụ đấu giá tài
sản. Tuy nhiên, khác với Nghị định 17/2010/NĐ-CP thì doanh nghiệp đấu giá
tài sản chỉ được thành lập dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân; Công ty hợp
danh và phải đăng ký với Sở Tư pháp.
Theo Báo cáo của Sở Tư pháp TP Hồ Chí Minh, tính đến thời điểm ngày
01 tháng 7 năm 2019, trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có 118 tổ chức đấu
giá tài sản đăng ký danh sách đấu giá viên và đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp,
bao gồm: 01 Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản và 117 doanh nghiệp, chi
nhánh doanh nghiệp đấu giá tài sản (sau đây gọi chung là doanh nghiệp đấu giá
tài sản).
Về tài sản đấu giá: Tài sản là quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất có
giá trị đặc biệt, nó không phải là tài sản thông thường, cũng không phải là tài
sản nhân tạo, nó được hình thành và sản sinh một cách tự nhiên (sau đó được
con người sử dụng sức lao động để cải tạo, tu bổ…). Do vậy, khi xác định giá
trị của nhà ở, quyền sử dụng đất không thể dùng các cách thức thông thường
để xác định mà phải thông qua các cách thức đặc biệt, cách cách thức này có
sự tham gia của tổ chức bán đấu giá, cơ quan thi hành án (đại diện chủ sở hữu)
và bên tham gia mua tài sản.
Quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất là một loại quyền tài sản và
được khẳng định là một loại tài sản trong giao dịch dân sự, theo quy định của
12
Bộ luật dân sự năm 2015 thì: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền,
bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng
đất và các quyền tài sản khác” (Điều 115) và “Quyền sử dụng là quyền khai
thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Quyền sử dụng có thể được
chuyển giao cho người khác theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật”
(Điều 189). Theo quan hệ dân sự thông thường, người chủ sở hữu tài sản có
quyền tự thực hiện đầy đủ quyền năng của mình thông qua nhiều hình thức
khác nhau như bán, tặng cho, cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản theo đúng quy
định của pháp luật. Tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất được đưa ra bán đấu
giá để đảm bảo thi hành án nên có sự tham gia của nhiều chủ thể và được tổ
chức bán theo trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Giá trị tài sản do người
tham gia mua quyết định và tài sản sẽ thuộc về người trả giá cao nhất.
Về trình tự thủ tục bán đấu giá: Nếu các bên không tự thỏa thuận được
về thi hành án hoặc về đấu giá tài sản, Cơ quan THADS sau khi xác minh tài
sản sẽ kê biên hoặc duy trì lệnh kê biên theo quyết định của Tòa án, làm rõ sự
không trùng khớp thông tin của tài sản giữa giấy tờ pháp lý và thông tin thực
tế, ký hợp đồng thẩm định giá tài sản. Giá trị tài sản trên chứng thư thẩm định
giá sẽ được sử dụng làm giá khởi điểm của tài sản trong bán đấu giá. Quá trình
bán đấu giá, tính công khai thông tin phải được đảm bảo. Kết quả đấu giá thành,
tài sản được giao cho người mua trúng đấu giá, số tiền thu được sau khi thanh
toán các nghĩa vụ, chi phí cho cuộc đấu giá được chuyển trả cơ quan THADS
để thanh toán nghĩa vụ của người phải thi hành án.
13
- Đặc trưng đấu giá nhà, quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự
Ngoài những đặc điểm chung của quan hệ đấu giá thông thường, bán đấu
giá tài sản là nhà, quyền sử dụng đất trong thi hành án có một số đặc trưng sau:
Thứ nhất, về chủ thể: Hợp đồng đấu giá tài sản là nhà, quyền sử dụng đất
trong thi hành án được ký kết giữa cơ quan THADS và tổ chức bán đấu giá tài
sản. Khác với đấu giá tài sản thông thường, việc đấu giá tài sản trong thi hành
án dân sự mang tính đặc thù riêng, người ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản
với tổ chức đấu giá không phải là chủ sở hữu, chủ sử dụng mà là cơ quan thi
hành án dân sự, quyền sở hữu, sử dụng đó thuộc về người phải thi hành án,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Thứ hai, mục đích của việc bán đấu giá tài sản: Nhà ở, quyền sử dụng
đất đất được đem ra bán công khai, thu hút nhiều người mua nhằm thu được
khoản tiền lớn nhất. Khoản tiền thu được từ việc bán đấu giá tài sản là nhà,
quyền sử dụng đất sau khi khấu trừ các chi phí phát sinh sẽ được cơ quan
THADS sử dụng để chi trả các nghĩa vụ của người phải thi hành án theo nội
dung án tuyên. Sau khi thanh toán hết các nghĩa vụ trên, số tiền còn dư mới
chuyển trả cho chủ sở hữu tài sản.
Thứ ba, tính chất của quan hệ bán đấu giá tài sản: Xuất phát từ mục
đích, chủ thể của hoạt động này, tính chất của hợp đồng bán đấu giá tài sản là
nhà, quyền sử dụng đất trong thi hành án có những nét riêng biệt. Nếu như hợp
đồng đấu giá tài sản thông thường, chủ sở hữu không bị chi phối bởi bất cứ yếu
tố nào, luôn mong muốn tài sản của mình được bán với giá cao nhất để thu lợi
một cách tối đa, thì hợp đồng đấu giá tài sản trong thi hành án luôn bị chi phối
bởi rất nhiều yếu tố. Có thể kể đến như: Người phải thi hành án hoặc người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chủ sở hữu tài sản luôn mong muốn tài sản bán
được giá cao, hoặc luôn tìm cách để trì hoãn không giao tài sản để thực hiện
14
đấu giá, người được thi hành án luôn mong muốn nghĩa vụ được thi hành nhanh
chóng nên luôn có tác động tới cơ quan THADS để bán tài sản nhanh nhất mà
không quan tâm tới giá của tài sản, cơ quan THADS về thực tế không phải chủ
sở hữu của tài sản này… Từ những yếu tố trên có thể dẫn tính khách quan của
hợp đồng bán đấu giá tài sản sẽ bị ảnh hưởng
Thứ tư, do tính chất đặc biệt của tài sản đấu giá nên hệ quả tác động đến
việc giao tài sản cho người mua trúng đấu giá: Nhà ở, quyền sử dụng đất là tài
sản có giá trị lớn, không phổ biến và khó có thể thay thế như những tài sản
khác. Giá trị nhà, đất phần lớn đều tăng lên theo thời gian (có khi trong vòng
01 tháng, giá tài sản đã tăng lên gấp đôi). Chính giá trị tăng nên tác động đến
những chủ thể tham gia đấu giá, người được thi hành án và đặc biệt là người
phải thi hành án (người có quyền sở hữu, sử dụng). Với tâm lý tiếc rẻ, bị ép
buộc phải bán tài sản nên thường tìm mọi cách để hủy kết quả bán đấu giá tài
sản với mong muốn chuộc lại tài sản để họ tự bán với giá trị cao hơn hoặc do
vi phạm pháp luật của cơ quan THADS hoặc tổ chức bán đấu giá dẫn tới chủ
sở hữu tài sản khiếu nại, kiện cáo. Do đó, việc giao loại tài sản này sau khi có
kết quả bán đấu giá tài sản thường bị trì hoãn, kéo dài, làm ảnh hưởng đến
quyền lợi ích hợp pháp của người mua được tài sản. Đây là đặc trưng cơ bản
của hoạt động này.
- Vai trò của đấu giá nhà, quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự
Qua thực tiễn của hoạt động bán đấu giá tài sản là nhà, quyền sử dụng
đất trong THADS có thể nhìn nhận vai trò của hoạt động này dưới nhiều góc
độ.
Vai trò đối với quá trình thi hành án: Đấu giá là giai đoạn cuối cùng của
xử lý tài sản, là yếu tố quyết định việc có thi hành được bản án, quyết định của
cơ quan tài phán hay không. Có thể nói giữa hoạt động bán đấu giá tài sản là
nhà, quyền sử dụng đất trong thi hành án và kết quả của việc tổ chức thi hành
15
án có mối quan hệ nhân quả. Thực hiện tốt, nhanh chóng khâu đấu giá tài sản
sẽ trực tiếp giúp cho bản án, quyết định của cơ quan tài phán được thi hành một
cách nhanh chóng, đúng pháp luật, đảm bảo tính pháp chế.
Vai trò đối với hoạt động của cơ quan THADS và tổ chức bán đấu giá:
Do hoạt động này thông thường giá trị tài sản lớn, các vụ án, vụ việc thi hành
án được dư luận quan tâm. Quá trình bán đấu giá tài sản diễn ra nhanh chóng,
hiệu quả sẽ tác động tích cực đến vị thế, vai trò của cơ quan THADS và uy tín
của tổ chức bán đấu giá.
Vai trò đối với lĩnh vực tư pháp: Với đặc thù tư pháp trên địa bàn TP.Hồ
Chí Minh, các vụ án lớn, nghiêm trọng về kinh kinh tế, tham nhũng, tài sản thi
hành án chủ yếu là bất động sản và có giá trị rất lớn, người phải thi hành án
nắm bắt pháp luật rất chắc vì vậy tình hình THADS trên địa bàn thành phố vô
cùng phức tạp. Thông thường vụ việc thường xuyên bị kéo dài, gặp vướng mắc
không xử lý được tài sản đặc biệt là việc bán đấu giá những tài sản này để thi
hành án. Chính vì vậy việc làm tốt hoạt động bán đấu giá tài sản là nhà, quyền
sử dụng đất để thi hành án sẽ giúp bản án, quyết định của cơ quan tài phán được
nhanh chóng được thi hành xong. Đảm bảo tính nghiêm minh của bản án, quyết
định của cơ quan tài phán, đồng thời cũng nâng cao trách nhiệm, ý thức, nhận
thức của người dân trên địa bàn thành phố trong việc tuân thủ pháp luật.
1.2. Tài sản đấu giá, trình tự và hình thức bán đấu giá nhà, quyền sử
dụng đất trong thi hành án dân sự
1.2.1. Tài sản đấu giá là nhà, quyền sử dụng đất trong thi hành án dân
sự
Khái niệm “nhà” quy định tại Luật Nhà ở năm 2014 bao gồm:
- Nhà ở riêng lẻ là nhà ở được xây dựng trên thửa đất ở riêng biệt thuộc
quyền sử dụng hợp pháp của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, bao gồm nhà biệt
thự, nhà ở liền kề và nhà ở độc lập.
16
- Nhà chung cư là nhà có từ 2 tầng trở lên, có nhiều căn hộ, có lối đi, cầu
thang chung, có phần sở hữu riêng, phần sở hữu chung và hệ thống công trình
hạ tầng sử dụng chung cho các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức, bao gồm nhà
chung cư được xây dựng với mục đích để ở và nhà chung cư được xây dựng có
mục đích sử dụng hỗn hợp để ở và kinh doanh.
- Nhà ở thương mại là nhà ở được đầu tư xây dựng để bán, cho thuê, cho
thuê mua theo cơ chế thị trường.
- Nhà ở công vụ là nhà ở được dùng để cho các đối tượng thuộc diện
được ở nhà công vụ theo quy định của Luật này thuê trong thời gian đảm nhận
chức vụ, công tác.
- Nhà ở để phục vụ tái định cư là nhà ở để bố trí cho các hộ gia đình, cá
nhân thuộc diện được tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở, bị giải tỏa nhà ở
theo quy định của pháp luật.
- Nhà ở xã hội là nhà ở có sự hỗ trợ của Nhà nước cho các đối tượng
được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở theo quy định của Luật này.
Với khái niệm “nhà” quy định như trên thì việc xác định đâu là nhà ở
phụ thuộc vào mục đích sử dụng của nó chứ không phụ thuộc vào thực tế sử
dụng.
Theo Điều 4 Luật đất đai 2013 định nghĩa thì đất đai thuộc quyền sở hữu
của toàn dân và do Nhà nước làm chủ sở hữu. Nhà nước theo đó trao quyền sử
dụng đất cho người dân thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất. Theo khoản
10, 20 Điều 3 Luật Đất đai có đề cập về chuyển quyền sử dụng đất: là việc
chuyển giao quyền sử dụng đất từ người này sang người khác thông qua các
hình thức chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất và
góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Giá trị quyền sử dụng đất là giá trị bằng tiền
của quyền sử dụng đất đối với một diện tích đất xác định trong thời hạn sử dụng
đất xác định.
17
Như vậy, quyền sử dụng đất là quyền tài sản của người sử dụng đất, nó
bao gồm hệ thống các quyền của người sử dụng đất, cho phép người sử dụng
đất có thể tiếp cận, nắm giữ, khai thác năng lực sinh lợi của đất trong thời hạn
sử dụng đất, tương ứng với phần diện diện tích đất và hình thức Nhà nước trao
quyền sử dụng đất cho các chủ thể.
Theo quy định tại Khoản 4, Điều 106 Luật Thi hành án dân sự đã được
sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì đối với trường hợp đăng ký, chuyển quyền sở
hữu, sử dụng tài sản, hồ sơ đăng ký chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản phải
có giấy tờ có liên quan đến tài sản, trường hợp tài sản là quyền sử dụng đất, nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất thì phải có Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Như vậy, tài sản bán đấu giá là nhà ở, quyền sử dụng đất trong THADS
là để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của bên phải thi hành án đối với bên được thi
hành án. Tài sản này được nhà nước công nhận quyền sở sở hữu, quyền sử dụng
(người có tài sản) và được phép giao dịch theo quy định của pháp luật.
1.2.2. Trình tự thủ tục đấu giá nhà, quyền sử dụng đất trong thi hành án
dân sự
Đấu giá nhà, quyền sử dụng đất trong trường hợp này gắn liền với thủ
tục thi hành án dân sự. Luật THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm
2014 quy định cụ thể trình tự, thủ tục thực hiện các bản án, quyết định dân sự
đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Các bước thực hiện quá trình THADS
được quy định tại Chương III Luật THADS năm 2008.
Thủ tục về xác minh tài sản: Căn cứ vào nội dung bản án, quyết định của
cơ quan tài phán và yêu cầu của người được thi hành án, cơ quan THADS ra
quyết định thi hành án bao gồm quyết định thi hành án chủ động và quyết định
thi hành án theo yêu cầu. Quá trình tổ chức thi hành án, trường hợp người phải
thi hành án không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên phải tiến hành xác
18
minh điều kiện thi hành án. Nếu xác định họ có tài sản là nhà ở, quyền sử dụng
đất thì chấp hành viên phải xác minh thông tin tài sản trực tiếp và xác minh tại
các cơ quan chức năng.
Thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế: Căn cứ vào kết quả trả lời của các
cơ quan chức năng đăng ký, quản lý về nhà ở, đất đai- chấp hành viên ra Quyết
định áp dụng các biện pháp ngăn chặn và xử lý tài sản để thi hành án. Quá trình
xử lý tài sản gồm các bước:
Kê biên tài sản: Chấp hành viên tiến hành kê biên tài sản hoặc duy trì
lệnh kê biên ở các giai đoạn tố tụng trước.
Thẩm định giá tài sản: Dựa trên kết quả kê biên, cơ quan THADS ký hợp
đồng với tổ chức thẩm định giá tài sản. Chứng thư thẩm định giá là cơ sở để
tiến hành bán đấu giá tài sản
Bán đấu giá tài sản: Cơ quan THADS ký kết hợp đồng với tổ chức bán
đấu giá tài sản. Việc lựa chọn tổ chức thẩm định giá và giá khởi điểm phụ thuộc
vào thỏa thuận của các bên đương sự. Nếu không thỏa thuận được cơ quan
THADS sẽ lựa chọn.
Thủ tục thanh toán nghĩa vụ thi hành án: Tiền thu được do bán đấu giá
tài sản thành, sau khi trừ các chi phí phát sinh, và các nghĩa vụ đối với Nhà
nước, được tổ chức bán đấu giá chuyển cho cơ quan THADS để tiến hành thanh
toán các nghĩa vụ của bên phải thi hành án theo nội dung các phán quyết của
cơ quan tài phán.
Bán đấu giá tài sản là một bước trong xử lý tài sản để thi hành án. Về thủ
tục bán đấu giá tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất theo Luật Đấu giá tài sản
năm 2016, gồm 7 bước được đề cập cụ thể ở Chương 2.
19
1.2.3. Hình thức, phương thức của đấu giá tài sản là nhà, quyền sử dụng
đất trong thi hành án
Về hình thức đấu giá: Theo quy định tại Điều 40 Luật Đấu giá tài sản
2016, các hình thức đấu giá bao gồm: Đấu giá trực tiếp bằng lời nói tại cuộc
đấu giá; Đấu giá bằng bỏ phiếu trực tiếp tại cuộc đấu giá; Đấu giá bằng bỏ phiếu
gián tiếp; Đấu giá trực tuyến.
Đấu giá trực tiếp bằng lời nói tại cuộc đấu giá: Là hình thức đấu giá mà
tại phiên đấu giá ngôn ngữ là lời nói của người điểu hành phiên đấu giá và
những người tham gia đấu giá nhằm xác định giá khởi điểm cũng như các mức
giá được trả.
Đấu giá bằng bỏ phiếu trực tiếp tại cuộc đấu giá: Là hình thức người
tham gia phiên đấu giá bỏ phiếu để đưa ra mức giá đối với hàng hóa. Đấu giá
bằng bỏ phiếu gián tiếp: Khi đăng ký tham gia đấu giá, người tham gia đấu giá
được nhận phiếu trả giá, hướng dẫn về cách ghi phiếu, thời hạn nộp phiếu trả
giá và buổi công bố giá. Phiếu trả giá được gửi qua đường bưu chính hoặc được
nộp trực tiếp và được tổ chức đấu giá tài sản bỏ vào thùng phiếu. Tại buổi công
bố giá đã trả của người tham gia đấu giá, đấu giá viên điều hành cuộc đấu giá
công bố kết quả phiếu trả giá cao nhất.
Ngoài ra Luật đấu giá tài sản 2016 cũng bổ sung quy định về đấu giá trực
tuyến.
Về phương thức đấu giá: Phương thức đấu giá tài sản được sử dụng bao
gồm phương thức trả giá lên và phương thức đặt giá xuống.
Phương thức trả giá lên: Là phương thức đấu giá theo đó người trả giá
cao nhất so với giá khởi điểm là người có quyền mua hàng.
Phương thức trả giá xuống: Là phương thức đấu giá, theo đó người đầu
tiên chấp nhận ngay mức giá khởi điểm hoặc mức giá được hạ thấp hơn giá
khởi điểm là người có quyền mua hàng.
20
Đấu giá tài sản là nhà, quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự với
đặc thù là tài sản đem bán đấu giá thường lớn tính chất phức tạp, cần đảm bảo
sự công khai, minh bạch và khách quan trong quá trình bán đấu giá, nên khi ký
kết hợp đồng dịch vụ bán đấu giá, cơ quan THADS và tổ chức bán đấu giá
thường thống nhất lựa chọn hình thức bán đấu giá là đấu giá trực tiếp bằng lời
nói theo phương thức trả giá lên. Hình thức, phương thức bán đấu giá này đảm
bảo đước các yêu cầu của việc xử lý tài sản để thi hành án.
1.3. Cơ sở pháp luật điều chỉnh đấu giá nhà, quyền sử dụng đất trong
thi hành án dân sự
Hiện nay, các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động bán đấu giá nhà,
quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự bao gồm:
- Các quy định về thi hành án dân sự: Luật thi hành án dân năm 2008
sửa đổi năm 2014 đề cập trình tự, thủ tục, thẩm quyền các cơ quan liên quan
trong hoạt động thi hành án dân sự; Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày
18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Thi hành án dân sự; Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-
TANDTC-VKSND ngày 01 tháng 8 năm 2016 quy định một số vấn đề về thủ
tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự đề cập
những hướng dẫn chi tiết hơn.
- Các quy định pháp luật về đất đai, nhà ở: Luật đất đai năm 2013; Luật
nhà ở năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành như: Nghị định số
43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật Đất đai; Thông tư số 23/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014
của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
- Các quy định về đấu giá tài sản: Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày
04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản; Thông tư số 23/2010/TT-BTP
21
ngày 16/12/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện; Luật
đấu giá tài sản năm 2016; Nghị định 62/2017/NĐ-CP ngày 15/6/2017 của
Chính phủ hướng dẫn Luật đấu giá tài sản.
Tiểu kết Chương 1
Chương lý luận chung làm rõ các khái niệm, đặc điểm, vai trò của bán
đấu giá tài sản là nhà, quyền sử dụng đất đối với quá trình thi hành án dân sự.
Bằng việc phân tích các đặc trưng cơ bản của đấu giá tài sản là nhà,
quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự so với quan hệ đấu giá thông thường
đã làm sáng tỏ được yêu cầu về khuôn khổ pháp lý chặt chẽ về đối tượng, chủ
thể, trình tự thủ tục là hình thứccủa quan hệ đấu giá này.
Cơ sở lý luận chung là căn cứ để đánh giá thực trạng hoạt động bán đấu
giá tài sản là nhà, quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự trên địa bàn Thành
phố Hồ Chi Minh.
22
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐẤU GIÁ TÀI SẢN LÀ NHÀ, QUYỀN
SỬ DỤNG ĐẤT QUA THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI
TP. HỒ CHÍ MINH
2.1. Các yếu tố tác động đến đấu giá nhà, quyền sử dụng đất trong
tại Thành phố Hồ Chí Minh
2.1.1. Mật độ dân cư và điều kiện nhà ở
Dân số của TP.Hồ Chí Minh đến thời điểm ngày 23/1/2019 là 8.859.688
người, tăng 64.823 người so với thời điểm 30/6/2018 (số liệu dân số của TP.
Hồ Chí Minh đến thời điểm 30/6/2018 là 8.794.865 người). Số liệu này chưa
tính lực lượng bộ đội và công an ở tại hộ. Như vậy trong thời kỳ 10 năm, từ
năm 2009-2019, tốc độ tăng dân số bình quân của TP. Hồ Chí Minh là
2,15%/năm. Bình quân mỗi năm thành phố tăng thêm khoảng 200.000 người,
gần bằng dân số của một quận có quy mô nhỏ ở thành phố, trong đó có hơn
130.000 dân nhập cư (Lê Văn Thành, 2012). Đô thị hóa do di cư và tăng dân
số tại các khu vực nội thị TP Hồ Chí Minh đã gây áp lực lên cơ sở hạ tầng và
dịch vụ xã hội hiện tại (Liu Wen Tao, 2015). Đô thị hóa nhanh chóng không
được quản lý và không có kế hoạch sẽ dẫn tới tăng áp lực dân số lên các dịch
vụ đô thị như nhà ở, giáo dục, chăm sóc y tế, nước sạch, vệ sinh và giao thông.
Các ước tính đáng báo động cho rằng 41% các hộ gia đình ở thành thị của Việt
Nam nói chung và TP. Hồ Chí Minh nói riêng thiếu một trong các chỉ số sau:
nhà kiên cố; đủ không gian sống; tiếp cận với nguồn nước sạch; tiếp cận với vệ
sinh tốt; quyền cư trú an toàn (Veronique Marx và Katherine Fleischer, 2010).
Kết quả khảo sát cho thấy chỉ có 7,1% dân nhập cư TP Hồ Chí Minh có
quyền chủ sở hữu nhà ở, phần còn lại là đi thuê mướn (92,6%) (Hình 1). Do
vậy, tương tự như các thành phố lớn khác như Bắc Kinh, hệ thống nhà trọ phục
23
vụ cho người nhập cư là một bộ phận không thể thiếu trong bức tranh hiện trạng
nhà ở của TP Hồ Chí Minh mà qua đó các bất cập về quyền sở hữu, vai trò và
trách nhiệm của người ở đối với căn nhà họ đang ở và đối với cơ sở hạ tầng kỹ
thuật cũng như các cơ sở hạ tầng xã hội tại khu vực cũng cần được nghiên cứu
và xây dựng biện pháp quản lý (Li Yu, 2013) [39].
Trong giai đoạn từ năm 2016 đến nay, diện tích bình quân nhà ở toàn TP
Hồ Chí Minh đã tăng lên đáng kể (từ mức 17,32m2 /người năm 2015, nâng lên
là 18,82m2 /người năm 2017). Qua đó cũng thúc đẩy phát triển hệ thống hạ
tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội của thành phố; tốc độ đô thị hóa diễn ra rất nhanh;
nhiều dự án phát triển đô thị, dự án khu nhà ở, bất động sản được đầu tư xây
dựng trên địa bàn Thành phố, trong đó 2 tập trung phát triển chính ở các hướng
Đông, Nam và Đông Nam, phù hợp với định hướng phát triển chung của thành
phố, tạo ra sự liên kết mạnh mẽ giữa các khu vực với nhau; hệ thống hạ tầng
kỹ thuật, hạ tầng xã hội từng bước được xây dựng đồng bộ, đảm bảo về chất
lượng; sản phẩm nhà ở đa dạng về chủng loại, không chỉ giải quyết khá tốt nhu
cầu chỗ ở, nâng cao điều kiện sống cho người dân, mà còn góp phần làm thay
24
đổi diện mạo đô thị, bộ mặt thành phố ngày càng thay đổi theo hướng văn minh,
hiện đại.
Điều này dẫn tới một thực tế việc bán đấu giá tài sản là nhà ở, quyền sử
dụng đất đối với dân cư TP.Hồ Chí Minh chỉ tập trung vào lực lượng dân cư tại
chỗ đã có chỗ ở ổn định, các trường hợp người nhập cư đòi hỏi việc kiểm tra
và giám sát tài sản nhà ở và quyền sử dụng đất hợp pháp trên địa bàn TP Hồ
Chí Minh.
2.1.2. Sự tăng trưởng kinh tế và gia tăng giá trị nhà ở đất đai
Theo Báo cáo của UBND TP Hồ Chí Minh trong năm 2018, Thành phố
tiếp tục chứng tỏ vị thế đầu tàu khi bước sang năm thứ 3 liên tiếp đạt mức tăng
trưởng hơn 8%. Đáng chú ý, lần đầu tiên, GRDP của TP Hồ Chí Minh đạt giá
trị 1,3 triệu tỷ đồng, tương đương 57 tỷ USD và chiếm hơn 23% quy mô nền
kinh tế cả nước. Trong cơ cấu các ngành kinh tế, dịch vụ chiếm 62,4%, công
nghiệp và xây dựng chiếm 22,9%, còn lại là nông nghiệp và các khu vực khác.
Tỷ trọng các ngành dịch vụ chất lượng cao, ngành có hàm lượng giá trị gia tăng
lớn, có lợi thế cạnh tranh liên tiếp tăng dần trong các năm qua.
Riêng chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 4,1%, trong đó 4 ngành công
nghiệp trọng yếu đạt mức tăng 9,2%. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) năm qua cũng đạt 7,07 tỷ USD, tăng hơn 7% so với năm 2017, chiếm
22% tổng thu hút FDI của cả nước. Tổng thu ngân sách đạt 378,5 nghìn tỷ đồng
(tăng 6% so với mức thực hiện năm 2017), hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách
được giao, đồng thời chiếm 27,2% tổng thu ngân sách cả nước. Thành phố Hồ
Chí Minh cũng khẳng định đã đạt và vượt 18/20 chỉ tiêu về kinh tế xã hội của
năm 2018. (Riêng chỉ tiêu cấp phép thành lập doanh nghiệp chỉ đạt 96% so với
kế hoạch đã đề ra) [37]. Thống kê của DKRA Vietnam cho thấy, thị trường nhà
ở căn hộ của TP Hồ Chí Minh rất phát triển, đã có khoảng 12 dự án cung cấp
ra thị trường 2.559 căn trong quý II/2019, bao gồm 3 dự án mới và 9 dự án
25
trước đó triển khai giai đoạn tiếp theo, giảm 5% so với quý trước, 71% so với
cùng kỳ năm 2018 và 78% so với cùng kỳ năm 2017.
Những bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế giúp người dân TP Hồ Chí
Minh có thu nhập cao hơn so với mặt bằng chung của cả nước và việc sở hữu
nhà ở, quyền sử dụng đất được coi như một loại tài sản bảo đảm bền vững. Đây
cũng là nguồn tài sản được áp dụng biện pháp bán đấu giá trong thi hành án
dân sự.
2.1.3. Năng lực thi hành án
Theo Báo cáo của Sở tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh về hoạt động đấu
giá tài sản trên địa bàn Thành phố từ khi triển khai thi hành luật đấu giá tài
sản:
Về tổ chức đấu giá tài sản: Trên địa bàn Thành phố hiện có 118 tổ chức
đấu giá tài sản, bao gồm: 01 Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản và 117 doanh
nghiệp, chi nhánh doanh nghiệp đấu giá tài sản. Tổng số đấu giá viên là 138
người, các đấu giá viên đều có trình độ từ cử nhân trở lên thuộc nhiều chuyên
ngành khác nhau.
Từ ngày 01/7/2017 đến 30/6/2018, các tổ chức đấu giá tài sản đã ký 1.662
hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản, tổ chức 1.991 cuộc đấu giá, trong đó có 1.683
cuộc đấu giá thành với tổng giá trị tài sản khởi điểm là 8.955.367.423.192 đồng,
tổng giá trị tài sản bán được là 9.800.602.179.704 đồng. Trong đó:
Trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản đã ký 189 hợp đồng dịch vụ đấu giá
tài sản, tổ chức 194/194 cuộc đấu giá thành với tổng giá trị tài sản khởi điểm là
4.020.568.400.743 đồng và tổng giá trị tài sản bán được là 4.746.045.650.877
đồng;
Các doanh nghiệp đấu giá tài sản đã ký 1.473 hợp đồng dịch vụ đấu giá
tài sản, tổ chức 1.797 cuộc bán đấu giá, trong đó có 1.489 cuộc đấu giá thành
26
với tổng giá trị tài sản khởi điểm là 4.934.799.022.449 đồng và tổng giá trị tài
sản bán được là 5.054.556.528.827 đồng.
Theo Báo cáo kết quả công tác thi hành án dân sự năm 2018 trong năm
2018 của Cục thi hành án dân sự:
Tại TP.Hồ Chí Minh, số việc và tiền thụ lý mới tăng cao trong nhiều năm
nhưng biên chế bị cắt giảm. Trong 03 năm gần đây, cơ quan thi hành án dân sự
TP.Hồ Chí Minh bị cắt giảm 20 biên chế (số việc chiếm 12%, số tiền phải thu
chiếm 34% số việc, số tiền của cả nước nhưng số biên chế được cấp chỉ có
6%của cả nước). Điều này dẫn đến tình trạng quá tải trong công việc. Trong
năm 2018, bình quân 01 chấp hành viên phải thụ lý 330 việc với số tiền trên
280 tỷ đồng, và bình quân 01 chấp hành viên phải giải quyết xong 241việc với
số tiền 66,83 tỷ đồng. Bên cạnh dó, cơ sở vật chất, kinh phí, trang thiết bị còn
thiếu. Những khó khăn này ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công việc.
Theo Kết quả đấu giá tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh của
Cục THADS TP.Hồ Chí Minh trong năm 2018:
Tổng số việc đấu giá tài sản là 262 việc trong đó đấu giá thành trong 09
tháng của năm 2018 trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh là 205 tài sản tương ứng với
1.264.091.460.000 đồng, trong đó:
Số việc đã giao được 129 việc trong số 205 việc đấu giá thành trong 09
tháng của năm 2018 tương ứng với số tiền 741.719.231.000 đồng, chiếm tỉ lệ
58,67% về giá trị tiền và 62,92% về việc; Số việc sau khi đấu giá thành nhưng
chưa giao là 73 việc.
Qua triển khai thực hiện Luật Đấu giá tài sản và các văn bản hướng dẫn
thi hành, qua các đợt tổ chức tập huấn trên địa bàn Thành phố, hoạt động đấu
giá tài sản trong thi hành án dân sự đã có những chuyển biến tích cực, góp phần
nâng cao chuyên môn của Chấp hành viên, tính chuyên nghiệp của đội ngũ đấu
giá viên và trách nhiệm của chấp hành viên cơ quan thi hành án, của tổ chức
27
bán đấu giá tài sản đối với Nhà nước cũng như khách hàng, hạn chế tình trạng
thông đồng, dìm giá; bảo đảm việc xử lý tài sản khách quan, minh bạch, bảo vệ
tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà nước.
Với quy định của Luật Đấu giá tài sản, việc xã hội hóa hoạt động bán
đấu giá tại TP.Hồ Chí Minh đã từng bước được củng cố và phát triển, người
dân, cơ quan, tổ chức đã có sự quan tâm, tìm hiểu nhiều hơn đối với hoạt động
bán đấu giá tài sản. Mặt khác, hoạt động bán đấu giá tài sản phục vụ ngày càng
tốt hơn nhu cầu của xã hội, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội
của địa phương. Các quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản cơ bản được
thực hiện nghiêm chỉnh, quyền và lợi ích của các bên tham gia hoạt động bán
đấu giá tài sản được bảo đảm, nhiều tài sản đã bán cao hơn nhiều so với giá
khởi điểm tạo được sự tin tưởng của các cấp chính quyền cũng như người dân
đối với hoạt động này.
2.2. Thực trạng pháp luật về chủ thể, đối tượng và giá trị tài sản
trong đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự qua thực tiễn TP. Hồ Chí
Minh
2.2.1. Chủ thể
Thứ nhất, người phải thi hành án (người có quyền sở hữu, quyền sử dụng
đối với tài sản) theo Luật đấu giá tài sản và Luật thi hành án dân sự chỉ có các
quyền như được nhận các thông báo, quyết định về thi hành án…; chưa có quy
định cho họ quyền để tiếp cận, được xem các tài liệu có trong hồ sơ liên quan
đến thẩm định giá, bán đấu giá tài sản. Vì vậy, đến khi biết kết quả họ lại không
đồng ý, cho rằng không khách quan dẫn đến khiếu nại tố cáo, kéo dài thời gian
giải quyết vụ việc.
Thứ hai, tại khoản 3 Điều 27 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính
phủ thì thời hạn giao tài sản không quá 30 ngày, trường hợp khó khăn, phức tạp
thì không quá 60 ngày, kể từ ngày người mua được tài sản nộp đủ tiền, cơ quan
28
thi hành án dân sự phải tổ chức việc giao tài sản cho người mua được tài sản,
trừ trường hợp có sự kiện bất khả kháng.
Nhưng trên thực tế quá 60 ngày kể từ ngày người mua được tài sản nộp
đủ tiền, cơ quan thi hành án dân sự chưa giao tài sản cho người trúng đấu giá
mà không nằm trong trường hợp có sự kiện bất khả kháng. Do không nhận được
tài sản như đã thỏa thuận khách hàng trúng đấu giá làm đơn khiếu nại đòi bồi
thường thiệt hại, doanh nghiệp bán đấu giá có văn bản đề nghị cơ quan thi hành
án dân sự giao tài sản cho người trúng đấu giá, nhưng không được giải quyết,
có những tài sản kéo dài 2 – 3 năm mới giao được.
Thứ ba, theo quy định tại Điều 101 Luật thi hành án dân sự sửa đổi năm
2014: Nếu đương sự không thỏa thuận được chọn tổ chức bán đấu giá thì Chấp
hành viên lựa chọn tổ chức bán đấu giá. Về vấn đề này, xét về mặt khách quan
thì chấp hành viên không phải là người chủ sở hữu tài sản nên việc bán tài sản
giá cao hay thấp không phải là mục đích chính của chấp hành viên mà chủ yếu
là bán được tài sản. Việc lựa chọn tổ chức bán đấu giá như vậy phụ thuộc vào
ý chí chủ quan của chấp hành viên nên dễ dẫn đến tiêu cực nảy sinh, các bên
có thể thông đồng để giữ, giảm giá tài sản…hiện chưa có hành lang pháp lý
điều chỉnh vấn đề này.
Hiện nay, nhiều đơn vị tổ chức bán đấu giá không có Hợp đồng lao động
làm cho mình mà chỉ ký Hợp đồng dịch vụ với đấu giá viên tham gia điều khiển
cuộc bán đấu giá. Do đó, Đấu giá viên chưa phát huy được hết năng lực, trách
nhiệm của mình. Đồng thời, khi có vi phạm xảy ra do lỗi chấp hành viên thì tổ
chức bán đấu giá cũng khó quy trách nhiệm, xử lý đối với những người này.
Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan Thi hành án với Trung tâm dịch vụ
bán đấu giá tài sản trong việc giao tài sản cho khách trúng đấu giá: chưa giải
quyết dứt điểm việc trước đây có một số tài sản là bất động sản đã tổ chức bán
đấu giá thành nhưng chưa giao nhà cho khách hàng trúng đấu giá được.
29
Thứ tư, theo quy định tại Điều 4, Điều 5, Điều 6, Điều 28 Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân 2014 và Luật THADS sửa đổi bổ sung 2014, hoạt động
của các cơ quan tổ chức và cá nhân có liên quan đến hoạt động thi hành án dân
sự - cho dù dưới hình thức ký hợp đồng dịch vụ giữa cơ quan, tổ chức và cá
nhân với Cơ quan THADS đều là đối tượng kiểm sát của VKSND trong công
tác kiểm sát thi hành án dân sự. Tuy nhiên, Bộ Tư pháp có văn bản số
6484/BTP-BTTP Ngày 01/02/2018 cho rằng “Hoạt động đấu giá tài sản thi
hành của các tổ chức đấu giá không thuộc đối tượng kiểm sát của Viện kiểm
sát nhân dân”. Qúa trình kiểm sát các đơn thư khiếu nại, hồ sơ thi hành có án
liên quan đến hoạt dộng bán đấu giá, Viện kiểm sát nhân dân TP.Hồ Chí Minh
yêu cầu tổ chức bán đấu giá cung cấp hồ sơ để kiểm sát nhưng các tổ chức đấu
giá dựa vào văn bản của Bộ tư pháp, không cung cấp hồ sơ, gây khó khăn trong
kiểm sát hoạt động bán đấu giá tài sản thi hành án. Hiện nay, Viện kiểm sát
phải thông qua cơ quan thi hành án dân sự để yêu cầu cung cấp hồ sơ đấu giá
kiểm sát nên không kịp thời, mất rất nhiều thời gian.
2.2.2. Đối tượng
Tại khoản 1 Điều 4 Luật Đấu giá tài sản năm 2016 quy định: Tài sản mà
pháp luật quy định phải bán thông qua đấu giá, bao gồm nhiều loại tài sản khác
nhau trong đó có tài sản thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án
dân sự.
Đối tượng đấu giá tài sản thi hành án dân sự trong phạm vi luận văn
nghiên cứu là nhà, quyền sử dụng đất được đem ra bán đấu giá. Tài sản này
được xác định thuộc một phần hoặc toàn bộ quyền sở hữu, sử dụng của người
phải thi hành án hoặc tài sản được bảo lãnh thế chấp.
Quá trình thực hiện kê biên, tổ chức bán đấu giá- Chấp hành viên phải
làm rõ thông tin pháp lý đối với nhà, đất tại các cơ quan có chức năng quản lý.
Tại khoản 6 Điều 44 Luật thi hành án dân sự 2014 quy định các cơ quan này
30
phải có trách nhiệm cung cấp thông tin trong thời hạn 05 ngày làm việc. Tuy
nhiên, các cơ quan này thường chậm trễ, có trường hợp chấp hành viên phải có
văn bản đến lần thứ 4 mới được trả lời hoặc trả lời chung chung gây khó khăn
cho việc thực hiện bán đấu giá.
Tài sản đã bán đấu giá không đúng với hiện trạng thực tế: Có rất nhiều
trường hợp Chấp hành viên khi kê biên không xem xét hiện trạng tài sản mà
chỉ căn cứ trên giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc là bản
đo vẽ hiện trạng của tổ chức đo vẽ. Do đó, nhiều khi hiện trạng tài sản là một
tài sản, tài sản ghi trong biên bản kê biên là một tài sản khác. Cũng có trường
hợp sau khi kê biên, thẩm định giá người phải thi hành án đã tự ý tháo dỡ, xây
thêm các công trình trên đất, trồng thêm cây….Hoặc là do việc bán đấu giá
được tổ chức nhiều lần mà vẫn không bán được tài sản, thời gian lâu làm tài
sản bị thay đổi, từ đó dẫn đến việc khi tài sản được giao không còn thống nhất
với tài sản được kê biên.
Hiện nay, có những việc khi tổ chức bán đấu giá thì quyền sử dụng đất
còn thời hạn sử dụng (đất nhà nước giao đất để trồng lúa, rừng hoặc cho thuê…)
nhưng khi đấu giá thành thì đất đã thời hạn sử dụng dẫn đến khó khăn cho tổ
chức đấu giá khi giao tài sản cho người mua.
2.2.3. Giá trị
Giá trị ở đây là nói đến giá trị về kinh tế (thể hiện bằng tiền) của tài sản
bán đấu giá là nhà, quyền sử dụng đất. Những yếu tố ảnh hưởng đến tài sản là
diện tích, loại đất, hình thức sử dụng đất, vị trí nhà đất…Đối với nhà đất bán
đấu giá thì yếu tố quyết định giá trị nhà đất chính là việc thẩm định giá tài sản.
Ngoài ra, còn có những vấn đề liên quan phát sinh theo giá trị tài sản. Cụ thể:
Thứ nhất, về thẩm định tài sản kê biên, bán đấu giá theo Điều 98 Luật
thi hành án dân sự sửa đổi năm 2014: Luật quy định Chấp hành viên phải kiểm
tra tính xác thực tác nghiệp của đơn vị thẩm định giá. Tuy nhiên, đây không
31
phải là chuyên môn của chấp hành viên nên không nắm được quy trình thẩm
định, giá mặt bằng chung tại khu vực có nhà đất, cũng không có quy định cho
cơ quan chức năng quản lý giá theo thị trường. Thực tế hiện nay, có một số đơn
vị thẩm định giá chỉ khảo sát một vài nhà đất liền kề với vị trí nhà đất được bán,
thậm chí gọi điện thoại cho các “cò đất” để làm giá cơ sở là không khách quan,
chưa đảm bảo theo quy định. Dẫn đến trường hợp, chỉ có một nhà đất đấu giá
mà phải đưa ra thẩm định nhiều lần, tại nhiều đơn vị khác nhau với giá khác
nhau, làm mất niềm tin của của người có tài sản hoặc giá khởi điểm quá cao,
mất nhiều thời gian để giảm giá mới được tổ chức lại và phải tổ chức đấu giá
nhiều lần mới thành công.
Thông thường việc đưa ra giá khởi điểm của tài sản để bán đấu giá là do
hai bên (bên ngân hàng và bên đi vay) thỏa thuận căn cứ vào hồ sơ pháp lý và
thực tế của tài sản tại thời điểm xử lý, tính khấu hao của tài sản, giá trị và giá
trị sử dụng của tài sản thời điểm hiện tại… và kết quả của việc thỏa thuận phải
được sự thống nhất nội bộ của các bên. Các bên có thể thỏa thuận về mức giảm
giá, nếu việc chào bán tài sản gặp khó khăn. Tuy nhiên, có một thực tế hiện nay
đó là các bên không thể thỏa thuận được giá khởi điểm để bán tài sản. Nguyên
nhân có thể xuất phát từ việc giá của tài sản tại thời điểm xử lý thấp hơn rất
nhiều so với tại thời điểm thế chấp. Do trước đây, tại thời điểm thế chấp, tài sản
đã được “thổi giá” hoặc thời điểm hiện tại tài sản không còn đảm bảo được giá
trị sử dụng cũng như chất lượng như ban đầu; tài sản mất giá trị… dẫn đến việc
tại thời điểm xử lý giá trị thực tế của tài sản rất thấp, nếu định giá thấp có thể
bán được tài sản thì doanh nghiệp lại không đồng ý, nhiều trường hợp ngân
hàng cũng không đồng ý bởi giá trị thu được từ việc xử lý tài sản này không
đáng kể so với giá trị của khoản vay trong khi đó, sau khi xử lý xong tài sản thì
phần còn lại của khoản vay sẽ trở thành khoản vay không có bảo đảm. Khi đó,
khả năng thu hồi sẽ khó hơn gấp nhiều lần hoặc trường hợp đại diện của các
32
bên đã đồng ý với giá khởi điểm nhưng khi đưa ra tập thể người có quyền
(chẳng hạn hội đồng quản trị của công ty trong trường hợp tài sản thế chấp bị
xử lý là tài sản của công ty hoặc các thành viên của hộ gia đình đối với tài sản
thế chấp của hộ gia đình…) thì lại không đồng ý.
Thứ hai, về xác định giá trị tài sản. Luật Thi hành án dân sự đã quy định
thời hạn ký hợp đồng, nhưng không giới hạn thời gian thực hiện thẩm định giá
và công bố kết quả thẩm định giá nên cũng dễ dẫn đến tình trạng cố tình kéo
dài thời gian xác định giá trị tài sản; Hợp đồng thẩm định giá giữa tổ chức thẩm
định giá và chấp hành viên cũng không quy định thời gian này. Do không có
sự ràng buộc về thời gian nên tổ chức thẩm định giá thường hay chậm trễ (có
trường hợp 05 tháng mới có được kết quả thẩm định giá).
Thứ ba, về quy định tiền đặt trước: Khoản 2 Điều 38 Luật Đấu giá tài
sản quy định tổ chức đấu giá tài sản tiếp nhận hồ sơ tham gia đấu giá trong giờ
hành chính, liên tục kể từ ngày niêm yết việc đấu giá tài sản cho đến trước ngày
mở cuộc đấu giá 02 ngày. Tuy nhiên, Khoản 2 Điều 39 Luật Đấu giá tài sản
quy định tổ chức đấu giá tài sản chỉ được thu tiền đặt trước của người tham gia
đấu giá trong thời hạn 03 ngày làm việc trước ngày mở cuộc đấu giá.
Với các quy định trên, khi hết hạn tiếp nhận hồ sơ đăng ký tham gia đấu
giá, người đăng ký vẫn có thể nộp tiền đặt trước vào 02 ngày sau đó vì vậy quá
trình triển khai thực hiện sẽ phát sinh tình trạng nhiều khách hàng đã đăng ký
tham gia đấu giá nhưng chưa nộp tiền đặt trước có thể thông đồng, thoả thuận
với nhau, sau đó chỉ có một hoặc vài người nộp tiền đặt trước để mua tài sản,
những người khác không nộp tiền đặt trước chỉ bị mất tiền mua hồ sơ tham gia
đấu giá.
Thứ tư, tại Khoản 1 Điều 39 Luật Bán đấu giá tài sản:
“1. Người tham gia đấu giá phải nộp tiền đặt trước. Khoản tiền đặt trước
do tổ chức đấu giá tài sản và người có tài sản đấu giá thỏa thuận, nhưng tối
33
thiểu là năm phần trăm và tối đa là hai mươi phần trăm giá khởi điểm của tài
sản đấu giá…”.
Quy định như trên sẽ tạo điều kiện cho tổ chức đấu giá và chấp hành viên
có thể thông đồng với nhau có thể giữ tài sản để bán cho một số đối tượng nào
nó với những tài sản có giá trị lớn thì việc số tiền đặt trước giá quá cao (tối đa
20%) sẽ hạn chế khách tham gia đấu giá.
“…Tiền đặt trước được gửi vào một tài khoản thanh toán riêng của tổ
chức đấu giá tài sản mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài tại Việt Nam. Trường hợp khoản tiền đặt trước có giá trị dưới năm triệu
đồng thì người tham gia đấu giá có thể nộp trực tiếp cho tổ chức đấu giá tài
sản. Người tham gia đấu giá và tổ chức đấu giá tài sản có thể thỏa thuận thay
thế tiền đặt trước bằng bảo lãnh ngân hàng…”
Thực tế, thông báo bán đấu giá tài sản ghi nhận việc kết thúc nộp tiền đặt
trước vào lúc 11 giờ 30 phút. Người tham gia đấu giá đã nộp tiền vào tài khoản
của tổ chức đấu giá tại Ngân hàng lúc 11 giờ nhưng đến 11 30’ chưa báo có
trong tài khoản tổ chức đấu giá nên tổ chức đấu giá không xem là đã nộp tiền
tiền đặt trước, gây khó khăn cho người tham gia.
Thứ 6, theo quy định tại Điều 102 Luật THADS thì chỉ có 2 đối tượng là
chấp hành viên và người mua trúng đấu giá tài sản mới có quyền yêu cầu Tòa
án xem xét hủy kết quả bán đấu giá. Tuy nhiên, trên thực tiễn Toà án nhân dân
các cấp vẫn thụ lý đơn khởi kiện của người phải thi hành án để giải quyết việc
yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá dẫn đến việc đương sự lợi dụng quy định này
để trốn tránh nghĩa vụ giao tài sản và kéo dài việc thi hành án.
2.3. Thực trạng pháp luật về trình tự, thủ tục, hình thức tổ chức đấu
giá tài sản là nhà, quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự qua thực
tiễn TP. Hồ Chí Minh
34
2.3.1. Thực trạng pháp luật về kê biên, thẩm định giá tài sản là nhà,
quyền sử dụng đất
Hoạt động kê biên, thẩm định giá có vai trò rất quan trọng để xác định
tài sản bán đấu giá có hợp pháp hay không hợp pháp, giá trị nhà, quyền sử dụng
đất cao hay thấp. Quá trình tổ chức thi hành án bán đấu giá tài sản, nếu chấp
hành viên, tổ chức thẩm định giá làm chặt chẽ, minh bạch và thực hiện theo
đúng quy định sẽ tránh các khiếu nại, khiếu kiện của các đương sự về sau. Hiện
nay, vẫn còn nhiều trường hợp, chấp hành viên không hiểu vì cố ý hay vô ý vẫn
để tình trạng sai phạm xảy ra. Cụ thể:
Quá trình tổ chức thi hành Bản án hình sự phúc thẩm năm 2000 của Tòa
phúc thẩm TAND tối cao tại TP.HCM liên quan đến diện tích 305.200 m2 huyện
X, tỉnh Y kéo dài đến nay Cục THADS Tp.HCM vẫn chưa thực hiện được việc
xử lý tài sản thế chấp ưu tiên thanh toán cho Ngân hàng.
Theo kết quả xác minh ngày 20/5/2005, thửa đất 305.200 m2 theo Giấy
chứng nhận QSD đất số 926 QSDĐ ngày 27/7/1994 do UBND huyện A , tỉnh B
(nay là huyện X, tỉnh Y) cấp cho ông Lê H để trồng cao su và cây ăn trái (thời
hạn 50 năm) đã được TAND Tp.HCM tiến hành kê biên ngày 15/6/2000 theo
quyết định kê biên tài sản số 188/QĐKB ngày 08/6/2000 của TAND Tp.HCM,
nhưng do ông D không trực tiếp sử dụng, nên UBND huyện X, tỉnh Y đã cấp
mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho một số hộ dân đang trực tiếp canh
tác trên phần diện tích đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên
trước khi TAND Tp.HCM tiến hành kê biên. Hiện nay, với tài sản giá trị quá
lớn như vậy nhưng khi tổ chức thi hành án không xác định được vị trí đất ở
đâu, hiện đã thuộc về ai. Chấp hành viên có văn bản hỏi các cơ quan có chức
năng quản lý thì họ cho rằng do có sự chia tách tỉnh nên hồ sơ không lưu trữ
và không thể họp liên ngành để có hướng giải quyết phù hợp.
35
Về việc này, cơ quan thi hành án chưa có văn bản kiến nghị Tòa án xem
xét kháng nghị tái thẩm do có tình tiết mới. Đồng thời, chấp hành viên bỏ hồ
sơ từ tháng 7/2005 đến tháng 5/2016 (gần 11 năm) không tiến hành hoạt động
thi hành án. Dẫn đến vụ việc kéo dài, không đảm bảo được lợi ích cho người
được thi hành án là Ngân hàng.
Bên cạnh đó, có những trường hợp Chấp hành viên kê biên, xử lý tài sản
là đất thuộc diện không được bán; không xác minh hoặc xác minh không đầy
đủ tại các cơ quan có chức năng quản lý nhà, đất đối với phần diện tích nhà, đất
đưa ra kê biên, xử lý dẫn đến không bán được tài sản (Nhà đất không có lối đi,
đất thuộc quy hoạch lộ giới, xây nhà trên đất nông nghiệp…)
Đối với chính quyền cơ sở (cấp phường, xã, thị trấn) ở các địa phương
còn thiếu sự phối hợp, thậm chí còn né tránh khi cơ quan thi hành án xác minh
tài sản kê biên, bán đấu giá hoặc trả lời chung chung; không thực hiện yêu cầu
của cơ quan thi hành án theo quy định của pháp luật, gây khó khăn, làm sai lệch
kết quả thi hành án.
2.3.2. Thực trạng pháp luật hình thức tổ chức đấu giá tài sản là nhà,
quyền sử dụng đất trong thi hành án
Về hoạt động đấu giá tài sản thi hành án, tại hầu hết các địa phương
không riêng TP Hồ Chí Minh, sau khi Luật đấu giá tài sản được ban hành, hoạt
động bán đấu giá tài sản đã đạt được những kết quả đáng kể, tạo cơ sở pháp lý
quan trọng đối với việc củng cố và phát triển các tổ chức bán đấu giá tài sản,
góp phần thống nhất pháp luật về trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản và đáp
ứng phần lớn nhu cầu của cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực này.
Tuy nhiên, để bán đấu giá thành công không phải là chuyện dễ dàng mà
phải trãi qua nhiều trình tự, thủ tục và thông qua nhiều tổ chức, cá nhân. Chính
vì thế mà việc tồ chức bán dấu giá tài sản vẫn còn một số khó khăn, bất cập như
sau:
36
Quyết định Thi hành án theo đơn yêu cầu số 292/QĐ-THA năm 2010 của
Chi cục thi hành án dân sự huyện G thi hành Quyết định công nhận sự thỏa
thuận số 14/2010/QĐST-DS ngày 14/5/2010 của TAND huyện G, nội dung:
“Bà Trần Thị Bích Nga đồng ý cho vợ chồng ông Nguyễn Văn An và bà Phạm
Thị Năm trả số tiền là 400.000.000 đồng (Bốn trăm triệu đồng)
Quá trình tổ chức thi hành án, ông An, bà Năm đã trả cho bà Nga được
97.338.285 đồng, nhưng sau đó không tiếp tục thi hành. Chi cục thi hành án
dân sự huyện G ra Quyết định số 24/QĐ-THA ngày 14/6/2010 v/v cưỡng chế
kê biên tài sản, xử lý tài sản là: Diện tích 241,94 m2 theo giấy CNQSDĐ số
H00450 ngày 21/01/2005 do UBND huyện G cấp cho hộ bà Phạm Thị N và
diện tích 202 m2 theo giấy CNQSDĐ số H00342 ngày 11/01/2005 do UBND
huyện Cần Giờ cấp cho hộ ông Nguyễn Văn A cùng toàn bộ tài sản trên đất và
đã tổ chức kê biên vào ngày 16/7/2010.
Ngày 20/7/2010, Chi Cục Thi hành án dân sự huyện G đã tổ chức bán
đấu giá tài đối với Quyền sử dụng đất 202m2 cùng toàn bộ tài sản trên đất (Nhà
chưa có giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà) nhưng không có người đăng ký
mua và tài sản này đang thế chấp tại Ngân hàng K từ ngày 07/4/2009 đến ngày
24/8/2015 còn nợ 833.737.367 đồng.
Ngày 09/03/2016, Chi cục THADS huyện G tiếp tục tổ chức bán đấu giá
tài sản là Quyền sử dụng đất, diện tích 241,94m2 để thi hành án nhưng không
có người mua đăng ký mua. Qua xác minh, thửa đất này thuộc dự án xây dựng
tuyến kè kiên cố chống sạt lở khu dân cư xã Y theo Quyết định thu hồi đất số
369/QĐ-UBND ngày 10/4/2018 của UBND huyện G với kinh phí hỗ trợ thiệt
hại cho hộ bà Phạm Thị Năm là 788.496.000 đồng. Ngày 01/01/2019, Ban bồi
thường giải phóng mặt bằng huyện G đã chuyển số tiền bồi thường là
656.000.000 đồng cho Chi cục THADS huyện G để thi hành án. Chi cục thi
37
hành án đã chi trả cho ông Định 116.823.511 đồng trong một vụ kiện khác mà
ông An và bà Năm phải trả nợ cho ông Định (Quyết định số 90/2007/QĐST-
DS ngày 27/8/2007). Số tiền còn lại Chi cục THADS huyện Cần Giờ đang xác
định phần giá trị mà ông An, bà Năm được hưởng trong tổng số tiền được đền
bù để tiến hành chi trả cho bà Nga theo quy định.
Chi cục thi hành án dân sự huyện G đã kê biên phát mãi và tổ chức bán
đấu giá đối với phần đất đã có quyết định thu hồi đấ và đã được đền bù theo
quy, dẫn đến quá trình xử lý tài sản thi hành án bị kéo dài gây bức xúc cho
người được thi hành án.
Thực tế hoạt động đấu giá tài sản thi hành án tại một số địa bàn TP Hồ
Chí Minh còn nhiều các sai phạm, cụ thể: còn tình trạng thực hiện niêm yết
việc đấu giá tài sản còn chưa đúng quy định về nơi niêm yết, thời hạn niêm yết,
nhất là việc không lưu tài liệu, hình ảnh về việc niêm yết đấu giá tài sản trong
hồ sơ đấu giá. Thực hiện bán hồ sơ tham gia đấu giá và tiếp nhận hồ sơ tham
gia đấu giá còn chưa theo Quy chế cuộc đấu giá, chưa đúng với quy định về
việc bán và tiếp nhận hồ sơ tham gia đấu giá trong giờ hành chính, liên tục kể
từ ngày niêm yết việc đấu giá tài sản cho đến trước ngày mở cuộc đấu giá 2
ngày; Thu, trả tiền đặt trước của người tham gia đấu giá không đúng về thời
hạn theo quy định; Tổ chức cuộc đấu giá còn chưa đúng với hình thức đấu giá,
phương thức đấu giá, bước giá đã được quy định trong Quy chế cuộc đấu giá,
việc lập biên bản đấu giá còn sơ sài, không đầy đủ nội dung theo quy
định…Những thực tế này khiến hoạt động đấu giá tài sản là nhà ở, quyền sử
dụng đất để thi hành án dân sự kém hiệu quả và không có được lòng tin của
nhân dân.
Bên cạnh thực tiễn thi hành, pháp luật còn có một số bất cập như sau:
38
Thứ nhất, theo Điều 56, khoản 1 Điều 57 Luật Đấu giá tài sản quy định:
“Người có tài sản đấu giá thông báo công khai trên trang thông tin điện tử của
mình và trang thông tin điện tử chuyên ngành về đấu giá tài sản …” hay Khoản
1 Điều 57 Luật Đấu giá tài sản thì: “đối với bất động sản thì tổ chức đấu giá tài
sản phải thông báo công khai ít nhất hai lần trên báo in hoặc báo hình của
trung ương hoặc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản đấu giá
…..”
Tuy nhiên, hiện nay Bộ Tư pháp chưa có trang thông tin điện tử chuyên
ngành để thực hiện. Một số tổ chức đấu giá tài sản nhằm thực hiện mục đích
riêng của mình, đã “lách luật” bằng cách đăng thông tin trên những loại báo in
có số lượng đọc giả không nhiều như Báo Nhân dân, Báo Đại Đoàn kết, Tạp
chí Tài chính...; Có tổ chức đấu giá tài sản “lách luật” bằng cách đăng thông tin
trên báo hình nhưng chọn khung giờ phát sóng vào lúc thấp điểm nhất, ít thu
hút lượng khán giả nhất. Điều đó làm giảm đáng kể sự tiếp cận của khách hàng
có nhu cầu mua tài sản đấu giá đối với thông tin bán đấu giá tài sản, tiếp tay
cho việc thông đồng, cấu kết để bán được tài sản một cách không minh bạch.
Điều này sẽ làm hạn chế việc biết đến tài sản đấu giá.
Thứ hai, tại Khoản 1 Điều 5 Luật đấu giá tài sản quy định: “Bước giá là
mức chênh lệch tối thiểu của lần trả giá sau so với lần trả giá trước liền kề
trong trường hợp đấu giá theo phương thức trả giá lên. Bước giá do người có
tài sản đấu giá quyết định và thông báo bằng văn bản cho tổ chức đấu giá tài
sản đối với từng cuộc đấu giá.”
Thực tiễn cho thấy còn chưa hợp lý, còn tùy tiện chưa theo một nguyên
tắc nào mà phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người đưa ra bước giá. Điều này
sẽ là kẽ hở làm phát sinh tình trạng "lách" luật, thông đồng, dìm giá để trục lợi.
39
Thứ ba, Luật Đấu giá tài sản không quy định tổ chức đấu giá tài sản và
người có tài sản đấu giá thỏa thuận thực hiện việc đấu giá theo thủ tục rút gọn
được quyền rút gọn bao nhiêu lần.
Thứ 4, về khoản tiền lãi khi chậm giao tài sản tại khoản 4 Điều 27 Nghị
định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy định:“Trường hợp không giao được
tài sản thì phần lãi tiền gửi thuộc về người mua được tài sản bán đấu giá, trừ
trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định khác ”. Nhiều trường hợp,
người đang quản lý, sử dụng và kinh doanh thu lợi từ tài sản trên đã tìm cách
chống đối, kéo dài thời gian giao tài sản. Trong khi người mua tài sản vừa bị
chậm nhận được tài sản, vừa mất tiền lãi do tiền mua tài sản phát sinh.
2.4. Thực trạng hiệu lực kết quả bán đấu giá và bảo vệ quyền của
bên mua trong bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự qua thực tiễn
TP. Hồ Chí Minh
Trước thời điểm Luật đấu giá tài sản có hiệu lực, các giao địch đấu giá
nhà, quyền sử dụng đất trên địa bàn TP Hồ Chí Minh gặp nhiều vướng mắc về
thực thi kết quả bán đấu giá và bảo vệ quyền của bên mua, dẫn tới nhiều hệ lụy:
2.4.1. Chủ sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất không tự nguyện bàn giao
hoặc miễn cưỡng bàn giao nhưng không giao giấy tờ
Luật thi hành án dân sự quy định khi tiến hành kê biên quyền sử dụng
đất, chấp hành viên có quyền yêu cầu người phải thi hành án, người đang quản
lý giấy tờ về quyền sử dụng đất phải nộp các giấy tờ đó cho cơ quan THADS.
Tuy nhiên thực tế, nhiều trường hợp những người phải thi hành án không tự
nguyên giao nộp lại, và cơ quan THADS cũng không thể có biện pháp cưỡng
chế hay chế tài nào với họ.
Mặt khác, theo quy định của Luật thi hành án dân sự và Nghị định
17/2010/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản thì người mua đấu giá sẽ được cấp Giấy
40
chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở đối với nhà đất đã mua
đấu giá. Tuy nhiên, việc chủ cũ giữ lại giấy tờ nhà đất đã gây nhiều khó khăn
cho người trúng đấu giá khi họ muốn cho thuê, chuyển nhượng…trong khi chủ
cũ đưa ra giấy tờ chủ quyền và gửi đơn đến UBND cấp xã/phường, huyện/quận,
tổ chức hành nghề công chứng yêu cầu dừng giao dịch vì nhà đất đang có tranh
chấp.
2.4.2. Khó khăn trong cưỡng chế thi hành án
Trong một số trường hợp, việc cưỡng chế thi hành án có thể không gặp
khó khăn từ phía chính quyền và cơ quan liên quan nhưng lại gặp khó khăn từ
sự chống đối với người phải thi hành án. Thực tế nhiều vụ việc cưỡng chế bàn
giao nhà đất cho người mua kéo dài nhiều năm trên địa bàn TP Hồ Chí Minh
vì người phải thi hành án dùng nhiều biện pháp để chống đối (đốt nhà; phá tài
sản…). Cũng theo quy định tại Nghị định 58/2009/NĐ-CP thì tài sản đã được
giao trên thực tế cho người được nhận tài sản và người đó ký vào biên bản giao
nhận tài sản thì cơ quan THADS không có trách nhiệm nữa. Do vậy, nếu ký
xong mà chủ cũ cố tình chiếm lại thì cơ quan THADS không có trách nhiệm
đòi lại cho người được tài sản. Điều này khiến người mua tài sản đấu giá gặp
nhiều rủi ro và phiền phức khi mua. Trong nhiều vụ việc, chủ cũ còn thuê “xã
hội đen” để đàn áp người mua khiến việc sở hữu tài sản trúng đấu giá không
còn ý nghĩa.
Việc yêu cầu UBND hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết đối với
người trúng đấu giá vừa tốn thời gian, và cũng thiếu trình tự, thủ tục để giải
quyết trong các trường hợp này.
2.4.3. Kháng nghị giám đốc thẩm ảnh hưởng quyền lợi người mua
Một số vụ việc tại TP Hồ Chí Minh cho thấy mặc dù nhà đất ở đã mua
đấu giá nhưng phát sinh quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
41
khiến quyền lợi người mua bị ảnh hưởng. Cụ thể, theo quy định của Bộ luật
TTDS, thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm là 03 năm kể từ ngày bản án, quyết
định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Trong khi đó, sau khi bản án có hiệu lực
pháp luật, cơ quan THADS sẽ tiến hành các thủ tục kê biên nhà đất để thi hành
án và tổ chức bán đấu giá. Bất cập ở chỗ, sau khi hoàn tất các thủ tục bán đấu
giá, thậm chí người mua đã được sang tên chính chủ nhà đất nhưng tài sản chưa
được bàn giao trên thực tế thì phát sinh quyết định kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm. Khi đó, tài sản mua đấu giá sẽ bị phong tỏa, không được bàn giao để
giải quyết theo trình tự giám đốc thẩm. Ví dụ:
Quyết định thi hành án số: 1053/QĐ-CTHADS ngày 22/01/2013 của Chi
cục thi hành án dân sự quận N thi hành Bản án số 42/KDTM-PT ngày
17/12/2012 của Tòa án phúc thẩm TAND Tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh.
“Buộc Công ty X thanh toán cho Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín số
tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng ngày 22/04/2011 và Phụ lục kèm theo là
97.866.989.298 đồng”
Quá trình tổ chức thi hành án, tài sản thế chấp là căn nhà đã được đưa ra
bán đấu giá. Kết quả bán đấu giá người mua trúng giá tài sản là 24.035.416.000
đồng.
Tuy nhiên, ngày 16/7/2018 Tòa án nhân dân cấp cao tại TP.Hồ Chí Minh
ban hành Quyết định giám đốc thẩm số 06/2018/KDTM-GĐT ngày 16/7/2018
về việc tranh chấp Hợp đồng tín dụng Hủy bản án kinh doanh, thương mại phúc
thẩm số 42/2012/KDTM-PT ngày 17/12/2012 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân
dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và Bản án kinh doanh, thương mại sơ
thẩm số 819/2012/KDTM-ST ngày 26/6/2012 của Tòa án nhân dân thành phố
Hồ Chí Minh về vụ án kinh doanh thương mại “Tranh chấp Hợp đồng tín dụng”
giữa nguyên đơn là Ngân hàng TMCP T với bị đơn là Công ty X.
42
Do Bản án bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nên Chi cục
THADS quận N ra quyết định đình chỉ thi hành án theo quy định tại Điều 50
Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014. Do đó, việc giao tài sản cho người
trúng đấu giá chưa được thực hiện, phải chờ kết quả giải quyết của Tòa án.
Có thể thấy rằng tình trạng không thể giao tài sản sau khi bán đấu giá
thành khá phổ biến, tình trạng này tồn tại bởi một số nguyên nhân sau:
Do đương sự chống đối, cản trở việc giao tài sản. Hầu hết các vụ việc thi
hành án có tài sản là bất động sản bị kê biên, đấu giá thành đều gặp nhiều khó
khăn trong việc giao tài sản cho người trúng đấu giá. Để ngăn cản việc giao tài
sản cho người mua được tài sản mà người phải thi hành án có thể khóa cửa bỏ
đi, không có mặt tại thời điểm giao tài sản hoặc là huy động lực lượng, vũ khí
để chống lại lực lượng cưỡng chế giao tài sản.
Tài sản đang bị tranh chấp, khởi kiện tại Tòa án. Mặc dù đã thông báo
hợp lệ nhiều lần về quyền khởi kiện chia tài sản hoặc khởi kiện giải quyết tranh
chấp về tài sản nhưng đến thời điểm bán đấu giá thành thì đương sự, người có
quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan mới thực hiện việc khởi kiện tranh chấp quyền
sở hữu, sử dụng tài sản hoặc khởi kiện chia tài sản được Tòa án thụ lý giải quyết
nên việc thi hành án phải hoãn theo quy định của pháp luật. Và việc tranh chấp
này có thể xảy ra lặp đi lặp lại nhiều lần, khiến Chấp hành viên phải hoãn thi
hành án hết lần này đến lần khác.
Trên đây là một số khó khăn, bất cập trong quá trình bảo đảm quyền lợi
hợp pháp của người mua đấu giá nhà đất trên địa bàn TP Hồ Chí Minh gặp phải.
Những hạn chế này tới nay sau khi Luật Đấu giá tài sản ra đời mặc dù đã khắc
phục được một phần nhưng những vấn đề thuộc về thái độ của bên bị thi hành
nhà đất bán đấu giá hiện chưa khắc phục được.
Tiểu kết Chương 2
43
TP Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế chính trị xã hội của cả nước có tốc
độ phát triển nhanh, lượng nhà ở và tài sản bất động sản của người dân TP khá
dồi dào và đây cũng là đối tượng được sử dụng để bảo đảm nghĩa vụ trong bán
đấu giá để thi hành án, bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của người được thi
hành án, của nhà nước.
Trước đây, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP của Chính phủ về đấu giá tài
sản cung cấp những cơ sở pháp lý cơ bản để ngăn chặn tình trạng thông đồng,
dìm giá, quân xanh quân đỏ nhằm giảm giá tài sản đấu giá. Tuy nhiên, thực tiễn
đấu giá tài sản thi hành án tại TP Hồ Chí Minh lại cho thấy những bất cập như
tình trạng chủ sở hữu nhà ở, người có quyền sử dụng đất không tự nguyện bàn
giao hoặc miễn cưỡng bàn giao nhưng không giao giấy tờ; Tình trạng khó khăn
trong cưỡng chế kê biên thi hành án; Tình trạng kháng nghị giám đốc thẩm ảnh
hưởng quyền lợi người mua.
Trước thực tế đó, những quy định mới của Luật đấu giá tài sản năm 2016
đã bổ sung một số quy định nhằm khắc phục tình trạng này. Tuy nhiên, thực
tiễn áp dụng quy định còn hạn chế, bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung hoặc có
văn bản hướng dẫn thi hành phù hợp với thực tiễn nhằm đạt hiệu quả tối ưu
nhất.
44
Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐẤU GIÁ TÀI
SẢN LÀ NHÀ, QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN
SỰ TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
3.1. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về đấu giá
tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất
Đấu giá tài sản là giai đoạn cuối cùng và quan trọng trong quá trình xử lý tài sản của người phải thi hành
án để bảo đảm việc thi hành án. Khác với đấu giá tài sản thông thường, việc đấu giá tài sản trong thi
hành án dân sự mang tính đặc thù riêng như người ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản với tổ chức đấu
giá không phải là chủ sở hữu, chủ sử dụng mà là cơ quan thi hành án dân sự, trong khi tài sản lại do
người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nắm giữ, quản lý. Trên thực tiễn bên
cạnh những kết quả đạt được, cơ quan thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh kê biên, thẩm định
giá và ký hợp đồng dịch vụ đấu giá nhiều vụ việc nhưng kết quả việc đấu giá tài sản thành công và kết
quả giao tài sản đã đưa ra đấu giá cho người mua chưa được cao, từ đó tiền thi hành án thu được từ
việc đấu giá tài sản cũng còn thấp, kết quả thi hành án không cao. Những thực trạng nêu trong luận văn
là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự việc như trên.
Qua nghiên cứu việc bán đấu giá tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất từ thực tiễn thi hành án dân sự
TP.Hồ Chí Minh tác giả mong muốn đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm làm cho hoạt động bán
đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự được hiệu quả, nhanh chóng, không trái với quy định pháp
luật, đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
Thứ nhất, pháp luật cần quy định quyền được xem các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ của tổ chức bán
cho các chủ thể khi tham gia hoạt động bán đấu giá tài sản. Việc tiếp cận, xem xét những tình tiết có
trong hồ sơ giúp cho đương sự giám sát được quá trình thực hiện các thủ tục bán đấu giá tài sản có
đảm bảo theo quy định hay chưa, kịp thời phát hiện những vi phạm để yêu cầu khắc phục, đảm bảo
quyền lợi hợp pháp của họ, hạn chế những khiếu nại, tranh chấp sau khi việc bán đấu giá đã hoàn thành.
Thứ hai, để tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức đấu giá nhằm không bỏ sót người đăng ký tham gia đấu
giá hợp lệ, đảm bảo việc thu, nộp tiền đặt trước và trình tự, thủ tục đấu giá phù hợp với quy định pháp
luật, căn cứ điều kiện hoạt động, tổ chức đấu giá tài sản có thể quy định thời gian nộp tiền đặt trước
trong Quy chế cuộc đấu giá. Về đề xuất của các Tổ chức đấu giá tài sản đề nghị sửa đổi Khoản 2 Điều 39
Luật Đấu giá tài sản (chỉ được thu tiền đặt trước của người tham gia đấu giá trong thời hạn 03 ngày
làm việc trước ngày mở cuộc đấu giá 02 ngày). Quy định đối với trường hợp tổ chức đấu giá tài sản tại
địa bàn (VD: Hóc Môn; Củ Chi; Nhà Bè) đi lại khó khăn thì người đăng ký tham gia đấu giá có thể nộp
45
trực tiếp tiền đặt trước cho tổ chức đấu giá tài sản. Điều này, mở rộng, thu hút rộng rãi các cá nhân, tổ
chức có thể dễ dàng được tham gia đấu giá tài sản theo ý muốn.
Thứ ba, về kê biên tài sản: Luật quy định trách nhiệm Chấp hành viên
yêu cầu các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm cung cấp thông tin về tài sản,
giao dịch đã đăng ký, nhưng chưa quy định những chế tài cụ thể trong việc
chậm trả lời hoặc không trả lời các yêu cầu của Chấp hành viên. Tuy nhiên, đối
với các tài sản đã thế chấp cho các tổ chức tín dụng đã rõ các thông tin về đăng
ký giao dịch bảo đảm, được ghi nhận kèm theo giấy tờ thể hiện quyền sở hữu,
quyền sử dụng tài sản mà các tổ chức tín dụng đang nắm giữ. Ngoài ra khi xử
lý tài sản có đăng ký giao dịch bảo đảm thì việc ưu tiên thanh toán cũng được
pháp luật thi hành án dân sự và đăng ký giao dịch bảo đảm xác định cụ thể. Do
vậy, không cần quy định việc chấp hành viên yêu cầu các cơ quan đăng ký giao
dịch bảo đảm cung cấp thông tin về tài sản, giao dịch đã đăng ký trước khi kê
biên tài sản, để giảm bớt thủ tục hành chính, giúp cho việc xử lý tài sản được
rút gọn.
Thứ tư, về xác định giá trị tài sản. Luật Thi hành án dân sự đã quy định
thời hạn ký hợp đồng, nhưng không giới hạn thời gian thực hiện thẩm định giá
và công bố kết quả thẩm định giá nên cũng dễ dẫn đến tình trạng cố tình kéo
dài thời gian xác định giá trị tài sản. Do đó, khi xác lập hợp đồng là thỏa thuận
của các bên, trường hợp này, chấp hành viên đại diện cho Nhà nước thực hiện
việc giao kết nên cũng mang tính chất hành chính, mệnh lệnh. Do vậy cần có
quy định thời hạn tối đa thực hiện việc thẩm định giá và công bố kết quả thẩm
định giá, để ràng buộc các bên khi thực hiện việc thẩm định giá tài sản, tránh
tình trạng kéo dài việc thi hành án. Bên cạnh đó, hợp đồng cũng nên ràng buộc
trách nhiệm của tổ chức thẩm định giá nếu vi phạm thời gian thực hiện hợp
đồng.
Thứ 5, về việc Tòa án thụ lý đơn khởi kiện hủy hợp đồng bán đấu giá:
Bộ Tư pháp cần tiếp tục phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
46
nhân dân tối cao để có biện pháp hướng dẫn thực hiện hoặc tham mưu cho cấp
có thẩm quyền sửa đổi các quy định cho đồng bộ, có tính liên thông để áp dụng.
3.2. Đảm bảo tính công khai, minh bạch, thuận lợi, bình đẳng, chính
xác trong áp dụng pháp luật về đấu giá tài sản thi hành án là nhà, quyền
sử dụng đất trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh
Như đã phân tích và bình luận ở trên, giá trỉ nhà ở, quyền sử dụng đất là
một loại quyền tài sản có giá trị lớn và mang lại hiệu quả kinh tế cao cho chủ
sở hữu cũng như chủ sử dụng và các cá nhân, tổ chức tham gia có liên quan
khác.
Đối với việc đăng báo bán đấu giá tài sản: Pháp luật cần quy định cụ thể
một số Báo Trung ương như Báo tuổi trẻ, Báo Thanh niên, Báo Pháp luật… là
những Báo thu hút được nhiều người xem. Như vậy, việc bán đấu giá tài sản
mới đảm bảo sự công khai, minh bạch và mang lại hiệu quả cao
Tính công khai, minh bạch trong đấu giá sẽ góp phần đẩy lùi các tình
trạng như: cò mồi về đất đai, bất động sản, cắt đứt các khâu trung gian không
cần thiết trong các giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án là nhà đất; giảm
thiểu tối đa các tình trạng nhũng nhiễu như: thông đồng, móc nối, không minh
bạch, dìm giá, thổi giá….tại các phiên đấu giá tài sản thi hành án là nhà, quyền
sử dụng đất trên địa bàn Thành phố.
Đảm bảo tính công khai, minh bạch trong áp dụng pháp luật về đấu giá
tài sản thi hành án là nhà đất ở TP.Hồ Chí Minh cần phải được thể hiện rõ ràng,
cụ thể thông qua việc cung cấp, làm rõ các thông tin liên quan đến nhà đất như
thông tin về: thửa đất, vị trị đất, chức năng, nguồn gốc sử dụng của đất, tình
trạng pháp lý của đất.....và các nội dung liên quan đến cách thức, thời gian, địa
điểm tổ chức đấu giá nhà, quyền sử dụng đất . Các thông tin này đều phải được
thông báo công khai trước và trong các phiên đấu giá. Mặt khác, cần thiết phải
niêm yết công khai, thông báo trước khi tổ chức đấu giá về thông tin của các
47
thửa đất đem ra đấu giá tài sản thi hành án là nhà, quyền sử dụng đất. Đây là
trách nhiệm quan trọng của tổ chức đấu giá khi tiến hành áp dụng pháp luật về
đấu giá nhằm đảm bảo hoạt động đấu giá được nhiều cá nhân, tổ chức biết đến
và tiếp nhận thông tin cũng như giải quyết các nhu cầu về thương mại thực tế
của các cá nhân, tổ chức đó.
Ngoài ra, công khai, minh bạch còn phải được thể hiện ngay cả ở việc
xác định cách thức, trình tự, thủ tục thực hiện hoạt động bán đấu giá tài sản thi
hành án là nhà ở, quyền sử dụng đất. Bất kể thông tin gì của hoạt động bán đấu
giá tài sản thi hành án là nhà ở, quyền sử dụng đất cũng nhất thiết phải được
công khai và minh bạch cho mọi người đều biết đến để đảm bảo bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của cả người mua và người bán trong giao dịch bán đấu giá,
đặc biệt bảo vệ được uy tín, danh dự của tổ chức có vai trò tổ chức thực hiện
hoạt động bán đấu giá tài sản thi hành án là nhà ở, quyền sử dụng đất và các
đấu giá viên trực tiếp tổ chức cho các phiên đấu giá đó.
Ngoài ra, hoàn thiện pháp luật và áp dụng pháp luật về bán đấu giá tài
sản thi hành án là nhà ở, quyền sử dụng đất tại TP.Hồ Chí Minh cũng cần phải
bảo đảm thuận lợi, bình đẳng, chính xác và đúng pháp luật đối với các vấn đề,
nội dung, hoạt động liên quan đến đấu giá. Bởi, đây là các yếu tố và nhu cầu
cần thiết để xây dựng môi trường cạnh tranh, mua bán lành mạnh, hiệu quả.
Đảm bảo thuận lợi, bình đẳng, chính xác và đúng pháp luật biểu hiện ở việc:
không phân biệt đối tượng tham gia vào hoạt động đấu giá ; thu hút đồng đều
và tăng dần số lượng cá nhân, tổ chức tham gia vào hoạt động bán đấu giá tài
sản thi hành án là nhà ở, quyền sử dụng đất; áp dụng các điều kiện chung, phù
hợp và bình đẳng cho các chủ thể khác nhau; loại bỏ những rào cản không thuận
lợi hoặc không cần thiết hoặc các thủ tục hành chính, văn bản, giấy tờ rườm rà
gây mất thời gian, tốn công sức, tiền bạc của các chủ thể tham gia vào hoạt
động bán đấu giá tài sản thi hành án là nhà ở, quyền sử dụng đất.
48
Các chủ thể có quyền điều hành các phiên đấu giá như Trung tâm dịch
vụ bán đấu giá tài sản hay các Doanh nghiệp bán đấu giá tài sản cũng cần được
bình đẳng trong việc tham gia điều hành đấu giá, có các quyền và nghĩa vụ
ngang nhau, không có sự thiện vị hay ưu tiên cho chủ thể nào. Cũng cần thiết
có những cơ chế mở rộng hơn cho sự tham gia của các tổ chức đấu giá ngoài
phạm vi và địa bàn của Thành phố để tăng cao khả năng cạnh tranh và tận dụng
tối đa những lợi thế sẵn có, vượt trội của các tổ chức đấu giá đó.
Bên cạnh đó, cũng nhất thiết phải quan tâm đến việc đảm bảo tính chính
xác và áp dụng đúng pháp luật hiện hành về bán đấu giá tài sản thi hành án là
nhà ở, quyền sử dụng đất. Quá trình thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật
về bán đấu giá tài sản thi hành án là nhà ở, quyền sử dụng đất trên địa bàn
TP.Hồ Chí Minh trước tiên phải chấp hành nghiêm túc các quy định của pháp
luật đất đai, pháp luật dân sự đặc biệt là pháp luật về bán đấu giá tài sản mà cụ
thể và trước tiên là Luật THADS năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 và các
văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan. Bên cạnh đó, cần ban hành các văn
bản hướng dẫn cụ thể để áp dụng phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội của địa
phương mình như Quy chế bán đấu giá tài sản thi hành án và các văn bản quy
phạm pháp luật khác tại TP.Hồ Chí Minh.
3.3. Nâng cao hiệu quả tổ chức bán đấu giá tài sản thi hành án là nhà
ở, quyền sử dụng đất trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh
Về hoạt động bán đấu giá tài sản thi hành án là nhà, quyền sử dụng đất
trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh hiện nay có rất nhiều cơ quan, ban ngành tham
gia. Để một tài sản nhà đất thi hành án bán đấu giá thành thì phải xuyên suốt
một quá trình khá phức tạp. Từ khâu xác minh tại cơ quan công an, cơ quan
thuế, Sở kế hoạch đầu tư, các cơ quan, phòng ban thuộc Ủy ban nhân dân các
cấp… Tuy nhiên cơ quan chính yếu nhất trong hoạt động này Sở tư pháp (quản
49
lý các tổ chức bán đấu giá tài sản) và các cơ quan thi hành án dân sự tại Thành
phố.
Hiện nay, tại địa bàn tỉnh TP.Hồ Chí Minh, lĩnh vực quản lý nhà nước
của các cơ quan liên quan của Thành phố về đấu giá tài sản vẫn đang bộc lộ
những yếu kém khuyết điểm cần khắc phục như: bộ máy tổ chức, thực hiện
hoạt động đấu giá vẫn còn cồng kềnh mà chưa phát huy được hết hiệu lực, chưa
phát huy được hết chức năng, nhiệm vụ, tình trạng luật ra đời những vẫn chưa
được xem xét áp dụng và cụ thể hóa vẫn còn tồn tại; trong bộ máy tham gia
trực tiếp vào hoạt động tổ chức, điều hành đấu giá tài sản, đấu giá vẫn còn tồn
tại tình trạng nhiều cá nhân sách nhiễu, quan liêu, vụ lợi cá nhân…Ngoài ra,
các tình trạng khác vẫn còn tồn tại cần được giải quyết kịp thời như tình trạng
buông lỏng quản lý, buông lỏng kỷ cương của nhà nước liên quan đến áp dụng
pháp luật về đấu giá tài sản là nhà đất trong thi hành án dân sự; chưa sử dụng
đúng đắn công cụ pháp luật trong quản lý nhà nước, quản lý kinh tế xã hội;
trình độ, năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ chưa tương xứng với yêu cầu
nhiệm vụ đặt ra. Việc quá tải trong công việc của các chấp hành viên làm giảm
hiệu quả giải quyết công việc. Trước yêu cầu khách quan đó cần thiết phải có
sự điều hành, tổ chức hiệu quả của Nhà nước ta và của các cơ quan hữu quan
của Thành phố trong việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật về đấu giá tài sản nhà đất trong thi hành án thì hoạt động này mới
phát huy tích cực được những lợi thế, những tác động hiệu quả đến nền kinh tế
- xã hội Thành phố. Qua đó, góp phần xây dựng môi trường cạnh tranh, thị
trường lành mạnh và nâng cao các giá trị của kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Cần nâng cao hiệu quả của các tổ chức liên quan đến hoạt động bán đấu
giá bán đấu giá tài sản thi hành án là nhà ở, quyền sử dụng đất
Đối với Bộ Tư pháp
50
Quan tâm, kiến nghị Chính phủ sớm sửa đổi, bổ sung Nghị định số
110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình,
thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã nhằm đảm bảo phù hợp
với các quy định mới của Luật Đấu giá tài sản.
Chỉ đạo các cơ quan thi hành án, cơ quan liên quan khẩn trương phối
hợp bàn giao dứt điểm tài sản thi hành án đã đấu giá thành cho người trúng đấu
giá theo thời hạn quy định, đặc biệt là những tài sản bị kiến nghị, khiếu nại kéo
dài.
Quan tâm, sớm xây dựng trang thông tin điện tử chuyên ngành về đấu
giá tài sản. Nghiên cứu, xây dựng các hệ tiêu chí đánh giá, khen thưởng cá
nhân, tổ chức nghiêm chỉnh chấp hành tốt quy định pháp luật, có sáng kiến,
thành tích đóng góp vào hoạt động đấu giá tài sản.
Bộ Tư pháp cần giao Tổng cục THADS tiếp tục tăng cường công tác
kiểm tra và sau kiểm tra đối với hoạt động bán đấu giá và giao tài sản bán đấu
giá để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và phòng ngừa các vi phạm. Cùng với đó,
có biện pháp xử lý đối với những tổ chức đấu giá và đấu giá viên vi phạm hoạt
động bán đấu giá tài sản.
Bộ tư pháp cần kịp thời tổ chức họp liên ngành với VKSND TC để có
quan điểm thống nhất với Viện kiểm sát trong hoạt động kiểm sát đối với các
tổ chức bán đấu giá nhằm hạn chế các sai phạm, nâng cao hiệu quả công tác
bán đấu giá tài sản thi hành án. Đồng thời, phối hợp với Viện KSNDTC chỉ đạo
các cơ quan THADS và VKSND các cấp trong việc kiểm tra, kiểm sát các hồ
sơ thi hành án chặt chẽ hơn nữa nhằm phát hiện, khắc phục những sai sót ngay
từ các giai đoạn thi hành án từ đầu để tránh trường hợp bán đấu giá thành nhưng
không tổ chức được việc giao tài sản cho người mua.
51
Đồng thời, thực hiện việc kiểm tra, rà soát đối với những vụ việc thi hành
án liên quan đến bán đấu giá tài sản để đảm bảo việc thi hành án nói chung và
việc bán đấu giá, giao tài sản đấu giá được thực hiện đúng quy định pháp luật.
Đối với Ủy ban nhân dân Thành phố
Quan tâm, thường xuyên quán triệt các sở, ngành trên địa bàn Thành phố,
Ủy ban nhân dân quận, huyện thực hiện nghiêm chỉnh quy định pháp luật về
đấu giá tài sản trong việc lựa chọn, giám sát quá trình tổ chức đấu giá đối với
tài sản của đơn vị mình và kịp thời phản ánh về Sở Tư pháp các khó khăn,
vướng mắc liên quan đến việc đấu giá tài sản.
Về thông tin nhà, đất: Các cơ quan quản lý nhà, đất tại TP.Hồ Chí Minh
nên có trang thông tin tình trạng pháp lý về tài sản là nhà đất của các tổ chức,
cá nhân mã hóa trong phần mềm để khi cần thiết các cơ quan khi xác minh về
tài sản có thể chủ động lấy thông tin và sau đó in thành văn bản để các cơ quan
có chức năng quản lý nhà, đất xác nhận, làm cơ sở cho việc thi hành án. Điều
này sẽ rút ngắn được thời gian, các cơ quan cung cấp thông tin không cần phải
lục tìm hồ sơ xem thông tin và cơ quan thi hành án, viện kiểm sát không phải
mất nhiều thời gian chờ đợi kết quả xác minh.
Đối với Sở - ngành, quận - huyện
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền về hoạt động đấu giá tài sản
đến các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn bằng nhiều hình thức cụ
thể và hiệu quả hơn. Kịp thời nắm bắt những khó khăn, vướng mắc của các tổ
chức đấu giá tài sản và các cá nhân, tổ chức có liên quan để giải quyết và đề
xuất kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan để thực hiện những nội
dung có liên quan đối với hoạt động đấu giá tài sản.
Đối với tổ chức đấu giá tài sản:
52
Nghiên cứu thực hiện đúng quy định pháp luật về đấu giá tài sản, pháp
luật về thi hành án dân sự thực hiện tốt công tác quản trị tại tổ chức mình.
Thường xuyên cập nhật kiến thức, bồi dưỡng kỹ năng, kinh nghiệm để
nâng cao chất lượng đội ngũ đấu giá viên nhằm tạo được niềm tin và uy tín đối
với khách hàng.
Phối hợp chặt chẽ với Sở Tư pháp, Cục Thi hành án dân sự và các cơ
quan có liên quan trong các hoạt động về đấu giá tài sản (trước bán, trong bán
và sau bán đấu giá tài sản)
Đối với Cục thi hành án dân sự Thành phố và các chi cục thi hành án
dân sự
Bên cạnh những khó khăn, vướng mắc trong công tác đấu giá, Cục Thi
hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh cần xác định rõ định hướng phát triển
hoạt động thi hành án dân sự phải gắn liền với yêu cầu xây dựng thể chế pháp
luật liên quan đồng bộ; chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan tiếp tục
thực hiện tốt công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự; tăng
cường công tác kiểm tra theo thẩm quyền, xử lý nghiêm các trường hợp tiêu
cực, tham nhũng, vi phạm pháp luật; đẩy nhanh tiến độ, giải quyết dứt điểm các
vụ việc khiếu nại, tố cáo bức xúc, kéo dài.
Tiếp tục thực hiện hiệu quả công tác phối hợp liên ngành, đặc biệt là phối
hợp với Tòa án các cấp, Viện kiểm sát nhân dân các cấp, Công an, Ngân
hàng,… trong hoạt động thi hành án dân sự; kịp thời giải quyết các khó khăn,
vướng mắc phát sinh. Tập trung triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong
quản lý, chỉ đạo điều hành và tổ chức thi hành án, coi đây là giải pháp đột phá
trong công tác thi hành án dân sự.
Tổ chức các buổi tọa đàm liên quan đến những vướng mắc trong quá
trình thực hiện bán đấu giá theo định kỳ tại các cơ quan Thi hành án theo địa
bàn đang thụ lý hồ sơ giải quyết.
53
Tăng cường chuyên môn, đạo đức hành nghề của chấp hành viên, đấu
giá viên chuyên nghiệp trong các tổ chức bán đấu giá tài sản thi hành án là nhà
ở, quyền sử dụng đất.
Tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đã khẳng
định phương hướng: “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là
cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp
lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên
môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ”;
Thường xuyên mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng về nghiệp vụ cho chấp
hành viên và kể cả cán bộ làm khâu công tác này nhằm nâng cao kỹ năng, trình
độ chuyên môn, đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn.
Nâng cao vai trò, trách nhiệm của đội ngũ chấp hành viên; phải có hình
thức khen thưởng nêu làm việc đạt hiệu quả cao và ngược lại có xử lý kỷ luật
đối với những vi phạm do chấp hành viên, đấu giá viên gây ra.
Cần tăng cường mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ giữa các cơ quan tổ chức
tiến hành đấu giá tài sản thi hành án là nhà ở, quyền sử dụng đất.
Hoạt động đấu giá tài sản thi hành án là nhà ở, quyền sử dụng đất chỉ có
thể phát triển hiệu quả, hợp lý và hợp pháp khi có sự tham gia tích cực, chuyên
nghiệp và kịp thời, nhanh chóng từ các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm
quyền, chức năng cụ thể về đấu giá tài sản. Thực tế, trong quan hệ pháp luật về
đấu giá tài sản là nhà, đất trong thi hành án dân sự, từ trước tới nay luôn luôn
có sự hiện diện, tham gia bởi các cơ quan đại diện của Nhà nước, đại diện cho
pháp luật để quản lý, điều hành, tổ chức, giám sát hoạt động này.
Muốn phát huy hiệu quả cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cao nhất từ Trung ương như Bộ Tư pháp, Bộ Tài
Chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường....đến các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền chuyên môn tương tự ở địa phương và các cơ quan ban ngành khác. Sự
54
phối kết hợp này là điều tất yếu và bắt buộc để tổ chức các phiên đấu giá, cuộc
đấu giá tài sản thành công.
Việc phối kết hợp giữa các cơ quan, ban ngành liên quan và có cơ chế
thống nhất, kết hợp bài bàn giữa các cơ quan ban ngành liên quan này sẽ có ý
nghĩa quan trọng trong việc khắc phục, giảm thiếu tối đã những hệ quả xấu
mang lại từ hoạt động đấu giá và áp dụng pháp luật về đấu giá.
Có thể nói, hoạt động phối hợp giữa các cơ quan chức năng và cơ quan
chuyên môn có ý nghĩa quan trọng trong việc tháo gỡ những khó khăn, bất cập
cũng như những tồn tại diễn ra trong nhiều năm của hoạt động đấu giá tài sản
thi hành án. Tuy nhiên, muốn hiệu quả thực tế của việc phối kết hợp này cũng
cần phải chú ý đến quy chế phối hợp, trong đó quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền
hạn các cơ quan, trách nhiệm cơ quan chủ trì và cơ quan phối hợp.
Tăng cường các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật về
đấu giá tài sản, pháp luật về thi hành án dân sự cho người dân tại TP.Hồ Chí
Minh.
Phổ biến, giáo dục pháp luật về đấu giá, về thi hành án có những ý nghĩa
quan trọng như: tác động vào ý thức của các đối tượng trong xã hội; tác động
vào hệ giáo dục chính trị tư tưởng cho người dân; giáo dục được ý thức pháp
luật và đạo đức của người dân; nâng cao hiệu quả cho hoạt động triển khai thực
hiện pháp luật về đấu giá tài sản, pháp luật thi hành án dân sự.
Trong tình hình hiện nay, nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật về đấu giá tài sản, pháp luật về thi hành án trên địa bàn tỉnh TP.Hồ
Chí Minh là cần thiết, phải có các phương thức tác động làm thay đổi cách nghĩ,
cách nhìn của người dân đối với pháp luật về đất đai, nhà ở nói chung và pháp
luật về đấu giá tài sản, luật thi hành án dân sự nói riêng. Thông thường, người
dân thường chỉ quan tâm tới các chế định pháp luật này khi bản thân họ phải
rơi vào tình thế sự việc miễn cưỡng, lợi ích bị xâm hại... dính líu tới pháp luật
55
(kiện cáo, tranh chấp, bị phạt, bị cưỡng chế...). Bởi vậy, khi tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật về đấu giá tài sản thi hành án cần giải tích, phân tích
cho người dân hiểu được rằng, pháp luật không chỉ bao gồm các quy định cưỡng
chế, thực thi pháp luật, biện pháp giải quyết tranh chấp mà pháp luật còn bao
gồm các quy định bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân khi tham gia
vào các giao dịch thương mại, mua bán, chuyển nhượng nhà đất. Bởi vậy, cần
khuyến khích các giao dịch lành mạnh giữa các người dân trên địa bàn Thành
phố nhằm thúc đẩy sự phát triển và bảo đảm trật tự ổn định. Pháp luật là môi
trường thuận lợi tạo điều kiện cho người giao dịch với nhau trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội, đảm bảo cho các thành viên trong xã hội phụ thuộc và gắn
bó với nhau một cách hợp lý.
Cán bộ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về đấu giá tài sản thi
hành án phải làm tốt vai trò tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương
trong việc triển khai thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, thường
xuyên tham mưu, hướng dẫn các ban ngành đoàn thể, các đơn vị triển khai các
kế hoạch, nội dung tuyên truyền phù hợp nội dung và tình hình mới. Thường
xuyên cung cấp tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ, tài liệu pháp luật cho đội ngũ
tuyên truyền viên pháp luật. Việc cung cấp thông tin pháp luật, tài liệu văn bản
pháp luật là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm tăng cường hiệu quả
của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về đấu giá tài sản thi hành án. Thường
xuyên đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
cho phù hợp với tình hình mới. Việc đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền,
phổ biến giáo dục pháp luật phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ, đặc điểm, tình
hình, nhận thức của các đối tượng được tuyên truyền. Trong đó cần tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật theo hướng làm thay đổi cách nghĩ, cách
nhìn của quần chúng nhân dân đối với pháp luật. Tuyên truyền cho quần chúng
nhân dân hiểu rõ vai trò của pháp luật về đấu giá tài sản thi hành án trong cuộc
56
sống để họ hiểu và tôn trọng pháp luật và chấp hành đúng pháp luật. Cần tăng
cường nâng cao hiệu quả của Tủ sách pháp luật ở cơ sở, thường xuyên cập nhật
các thông tin, nội dung mới của các văn bản quy phạm pháp luật về đấu giá tài
sản thi hành án để cán bộ và nhân dân thực hiện và áp dụng thống nhất các quy
định pháp luật trong đời sống xã hội.
Có thể thấy, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục phổ biến pháp luật
về đấu giá tài sản thi hành án trong quần chúng nhân dân là một biện pháp căn
cơ, mang lại hiệu quả lâu dài không chỉ trong việc thực hiện pháp luật về đấu
giá nhà đất là tài sản thi hành án mà còn trong nhiều lĩnh vực khác, hạn chế tối
đa những hành vi vi phạm pháp luật có thể phát sinh gây ra các rủi ro khó tranh
cho người dân, doanh nghiệp và các cá nhân, tổ chức có liên quan khác đến
hoạt động đấu giá tài sản thi hành án tại địa phương.
Tiểu kết Chương 3
Bán đấu giá tài sản là một trong những mắt xích cuối cùng của hoạt động
thi hành án dân sự. Bán đấu giá thành công để thu tiền cho người được thi hành
án là cả một qúa trình, phải qua rất nhiều trình tự thủ tục theo luật định, đặt biệt
đối với tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất. Nó không phải là hàng hóa thông
thường để ta có thể đem ra chào mời để bán đi nhanh chóng. Ở đây, đòi hỏi có
rất nhiều chủ thể tham gia có ý kiến và đưa ra quyết định nên mất rất nhiều thời
gian, chưa nói đến việc một số chủ thể cố tình chây ì, tìm mọi cách để trì hoãn.
Có thể nói, bán đấu giá tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất trong thi hành án
được thành công là một “kỳ tích” trong hoạt động thi hành án dân sự. Thực tế
mà nói thì việc yêu cầu thi hành tại Thành phố Hồ Chí Minh rất cao so với các
tỉnh thành khác nhưng số việc thi hành án bán đấu giá tài sản vẫn chiếm tỉ lệ
rất thấp so với các việc thi hành án khác.
57
Với các đặc điểm, nội dung, các yêu cầu và tiêu chí nêu trên, để nâng cao
hiệu quả của bán đấu giá tài sản nói chung và bán đấu giá tài sản thi hành án
dân sự là nhà, trong THADS nói riêng, cần phải tập trung thực hiện tốt các giải
pháp như hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản trong THADS theo hướng
hợp nhất quy định của pháp luật, làm sao phải đưa pháp luật đi vào thực tiễn,
đặc biệt là Luật đấu giá tài sản 2016; Đồng thời, kiện toàn tổ chức, nâng cao
năng lực của đội ngũ đấu giá viên, chấp hành viên, tăng cường sự phối hợp của
các cơ quan, tổ chức có liên quan trong quá trình bán đấu giá tài sản thi hành
án là nhà ở, quyền sử dụng đất. Và quan trọng là phải chú trọng công tác phổ
biến, tuyên truyền để pháp luật đấu giá tài sản đi vào cuộc sống.
58
KẾT LUẬN
Luận văn nghiên cứu lý luận và thực trạng bán đấu giá tài sản là nhà,
quyền sử dụng đất theo pháp luật thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Hồ
Chí Minh thông qua một số ví dụ cụ thể nhằm làm sáng tỏ những bất cập trong
pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật bán đấu giá tài sản là nhà ở, quyền sử
dụng đất trong thi hành án dân sự. Việc tổ chức bán đấu giá tài sản thi hành án
kịp thời, nhanh chóng cũng đồng nghĩa với pháp luật đã chặt chẽ cả về hình
thức cũng như nội dung và chế tài cũng đã đủ mạnh.
Có thể nói, Luật bán đấu giá, Luật thi hành án dân sự là công cụ hữu hựu
để cơ quan thi hành án sử dụng làm thước đo trong việc thực hiện các thủ tục
liên quan đến hoạt động bán đấu giá tài sản, mang lại kết quả tối ưu nhất. Tuy
nhiên, qua thực tiễn thi hành cho thấy một số quy định trong Luật bán đấu giá
tài sản, Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 vẫn còn hạn chế, bất
cập, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
Từ vận dụng kiến thức lý luận được tiếp thu trong quá trình học tập tại
Học viện Khoa học xã hội và kết hợp công tác chuyên môn, Luận văn đã phần
nào mô tả được thực trạng hiện nay để từ đó có những đề xuất kiến nghị, đưa
ra một số giải pháp với mong muốn pháp luật ngày càng hoàn thiện hơn, thuận
lợi hơn đối với các cá nhân, tổ chức tham gia, thực hiện, thi hành.
Với điều kiện nghiên cứu thực tế cũng có những khó khăn nhất định,
những giải pháp mà luận văn đưa ra cần có thời gian kiểm nghiệm. Do vậy,
luận văn không tránh khỏi những hạn chế thiếu sót, tác giả rất mong nhận được
những ý kiến góp ý của các nhà khoa học, thầy cô giáo và đồng nghiệp để tác
giả tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện đề tài hơn./.
59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 48-NQ/TW của của Bộ Chính trị về
chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020, ban hành ngày 24/5/2005, Hà Nội.
2. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, ban hành ngày 02/6/2005, Hà Nội.
3. Bộ Tư pháp (2004) Luật Bán đấu giá tài sản của Trung Quốc, Tài liệu
tham khảo.
4. Bộ Tư pháp (2006) Từ điển luật học, Nxb Tư pháp, Hà Nội
5. Bộ Tư pháp – Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối
cao (2016) Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC quy
định một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong
thi hành án dân sự, ban hành ngày 01/8/2016, Hà Nội.
6. Hồ Quân Chính (2012) “Một số vấn đề về định giá, định giá lại và bán
đấu giá tài sản kê biên để thi hành án”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên
đề 4, tr.26-32.
7. Chính phủ (2010) Nghị định số 17/2010/NĐ-CP của Chính phủ về bán
đấu giá tài sản, ban hành ngày 04/03/2010, Hà Nội.
8. Chính phủ (2009) Nghị định số 88/2009/NĐ-CP của Chính phủ về cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền
với đất, ban hành ngày 19/10/2009, Hà Nội.
9. Cục Thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh (2018) Báo cáo số
261/BC-CTHADS về kết quả công tác thi hành án dân sự năm 2018 – Phương
hướng nhiệm vụ công tác năm 2019, ban hành ngày 12/10/2018, Thành phố Hồ
Chí Minh.
10. Cục Thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh (2017) Tài liệu Hội
nghị triển khai công tác thi hành án dân sự năm 2017, TP Hồ Chí Minh.
11. David W.Pearce (1999) Từ điển kinh tế học hiện đại, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội .
12. Đỗ Văn Đại (2012) Luật nghĩa vụ và đảm bảo thực hiện nghĩa vụ -
Bản án và bình luận bản án, Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam.
13. Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh (2015) Văn kiện Đại hội Đại biểu
lần thứ X, ban hành tháng 10/2015, thành phố Hồ Chí Minh.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Nguyễn Hồng Hải (2012) Một số ý kiến về đấu giá tài sản theo quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành và một số đề xuất, Tài liệu hội nghị Vụ
Bổ trợ tư pháp - Bộ Tư pháp, Hà Nội.
17. Hồ Quang Huy (2017) “Suy nghĩ về khái niệm quyền sử dụng đất của
Việt Nam”, Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp,
doi.aspx?ItemID=2168>, (03/7/2017). 18. Huỳnh Minh Khánh (2013) “Trao đổi về một số vướng mắc trong công tác thi hành án dân sự”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 1, tr.46-51; 19. Nguyễn Văn Luyện, Nguyễn Thanh Thủy (2012) Sổ tay nghiệp vụ thi hành án dân sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội 20. Nguyễn Thanh Phong (2011) Biện pháp cưỡng chế, kê biên tài sản trong thi hành án dân sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội. 21. Trương Hồng Quang (2015) “Về bản chất của hoạt động thi hành án hành chính”, Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp, (15/6/2015). 22. Quốc hội (2015) Bộ Luật dân sự số 91/2015/QH13 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2017, ban hành ngày 24/11/2015,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 23. Quốc hội (2013) Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 2014, ban hành ngày 28/11/2013, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 24. Quốc hội (2013) Luật Đất đai số 45/2013/QH13 có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2014, ban hành ngày 29/11/2013, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 25. Quốc hội (2016) Luật Đấu giá tài sản số 01/2016/QH14 có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2017, ban hành ngày 17/11/2016, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 26. Quốc hội (2014) Luật Nhà ở số 65/2014/QH14 có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2015, ban hành ngày 25/11/2014, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 27. Quốc hội (2014) Luật Thi hành án dân sự số 64/2014/QH13 có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2015, ban hành ngày 25/11/2014, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 28. Đặng Đình Quyền (2012) Hiệu quả áp dụng pháp luật trong thi hành án dân sự ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. 29. Nguyễn Hồng Sinh (2012) “Những vướng mắc trong công tác kiểm sát hoạt động bán đấu giá tài sản thi hành án”, Tạp chí Kiểm sát, số 23, tr.17- 19,24. 30. Lê Văn Thành (2012) Dân số và đô thị hóa ở thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam với các chính sách mới về di cư và phát triển đô thị, Bài viết chuẩn bị cho Hội Nghị Dân số khu vực IUSSP, Siam City Hotel, Bangkok, Thailand, 10-13/6/2012 31. Nguyễn Thanh Thủy (2008) Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. 32. Tòa án nhân dân cấp cao tại TP.Hồ Chí Minh (2018) Quyết định giám đốc thẩm số 06/2018/KDTM-GĐT, ban hành ngày 16/7/2018, Thành phố Hồ Chí Minh. 33. Võ Đình Toàn (2012) “Một số vấn đề lý luận về bán đấu giá và pháp luật bán đấu giá”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề 2012. 34. Võ Đình Toàn (chủ nhiệm), Vũ Văn Cương, Nguyễn Mạnh Cường (2011) Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản nhằm thúc đẩy thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ - Bộ Tư pháp. 35. Trung tâm từ điển Bách Khoa (2014) Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ Điển Bách Khoa, Hà Nội. 36. Trường Đại học luật Hà Nội (2011) Giáo trình Luật Đất đai, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 37. UBND Thành phố Hồ Chí Minh (2019) Báo cáo của UBND TPHCM về Triển khai nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2019. 38. Liu Wen Tao (2015) The influence of housing characteristics on rural migrants’ living condition in Beijing Fengtai District. HBRC Journal 11, 252– 263 39. Li Yu và Haipeng Cai (2013) Challenges for housing rural-to-urban migrants in Beijing. Habitat International 40 (2013) 268-277