ĐẠI HỌC QUỐC GIA TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LÊ THỊ HUỆ

ĐỀ TÀI GIA ĐÌNH TRONG TRUYỆN NGẮN

TRẦN THÙY MAI, Y BAN VÀ NGUYỄN THỊ THU HUỆ

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI – 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LÊ THỊ HUỆ

ĐỀ TÀI GIA ĐÌNH TRONG TRUYỆN NGẮN

TRẦN THÙY MAI, Y BAN VÀ NGUYỄN THỊ THU HUỆ

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 01 21

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

PGS - TS Lƣu Khánh Thơ

HÀ NỘI – 2014

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân và sâu sắc nhất của mình tới PGS – TS

Lƣu Khánh Thơ, ngƣời đã tận tình giúp đỡ, hƣớng dẫn tôi hoàn thành luận

văn trong suốt thời gian vừa qua.

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Văn học Trƣờng Đại

học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện

thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.

Xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên giúp đỡ tôi hoàn thành luận

văn này.

Hà Nội, tháng 8 năm 2014

Tác giả luận văn

Lê Thị Huệ

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 3

2.1. Nghiên cứu về đề tài gia đình ............................................................... 3

2.2. Nghiên cứu về truyện ngắn của ba tác giả ........................................... 4

2.2.1. Trần Thùy Mai ................................................................................ 4

2.2.2. Y Ban ................................................................................................ 5

2.2.3. Nguyễn Thị Thu Huệ ...................................................................... 6

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 7

3.1. Đối tượng: Các truyện ngắn của ba tác giả ......................................... 7

3.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 7

4. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................ 7

5. Cấu trúc của luận văn ................................................................................. 7

PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................... 9

CHƢƠNG 1: TRUYỆN NGẮN BA TÁC GIẢ (TRẦN THÙY MAI, Y

BAN VÀ NGUYỄN THỊ THU HUỆ) TRONG DÒNG CHẢY TRUYỆN

NGẮN THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ SỰ THỂ HIỆN ĐỀ TÀI GIA ĐÌNH

TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI .......................................... 9

1.1. Truyện ngắn ba tác giả trong dòng chảy truyện ngắn thời kỳ

Đổi mới ......................................................................................................... 9

1.1.1. Diện mạo truyện ngắn thời kỳ Đổi mới .......................................... 9

1.1.2. Khái quát về ba tác giả Trần Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị

Thu Huệ .................................................................................................. 12

1.2. Sự thể hiện đề tài gia đình trong văn học Việt Nam đƣơng đại .... 20

1.2.1.Gia đình và mối quan hệ gia đình - xã hội ................................... 20

1.2.2. Đề tài gia đình trong văn học Việt Nam ....................................... 25

CHƢƠNG 2: GIA ĐÌNH HIỆN ĐẠI QUA CÁI NHÌN MANG MÀU SẮC

NỮ QUYỀN TRONG TRUYỆN NGẮN BA TÁC GIẢ ............................ 36

2.1. Vấn đề nữ quyền và ý thức nữ quyền trong sáng tác của Trần Thùy

Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ ....................................................... 36

2.1.1. Vấn đề nữ quyền và văn học nữ quyền ........................................ 36

2.1.2. Ý thức nữ quyền trong quan niệm sáng tác của Trần Thùy Mai,

Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ .............................................................. 41

2.2. Các cấp độ biểu hiện đề tài gia đình trong truyện ngắn của Trần

Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ ............................................. 48

2.2.1. Nhân vật người phụ nữ trong truyện ngắn ba tác giả ................ 48

2.2.2. Nhân vật nam trong truyện ngắn ba tác giả ................................ 73

2.2.3. Nhân vật trẻ em trong truyện ngắn ba tác giả ............................. 78

Chƣơng 3: MỘT SỐ PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN ................................ 85

3.1. Nghệ thuật miêu tả tâm lý .................................................................. 85

3.2. Ngôn ngữ .............................................................................................. 88

3.2.1. Ngôn ngữ đời sống ........................................................................ 88

3.2.2. Ngôn ngữ độc thoại ....................................................................... 91

3.2.3. Ngôn ngữ đối thoại ........................................................................ 96

3.3. Giọng điệu ............................................................................................ 99

3.3.1. Giọng trữ tình sâu lắng ............................................................... 100

3.3.2. Giọng xót xa, ngậm ngùi ............................................................. 104

3.3.3. Giọng mỉa mai, châm biếm ......................................................... 106

PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................... 109

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 111

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài Đại thắng mùa xuân 1975 mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc, là

mốc son đánh dấu những bƣớc chuyển mình sâu sắc của nền văn học Việt

Nam. Với vai trò là tấm gƣơng phản ánh cuộc sống, là ngƣời thƣ ký trung

thành của thời đại, từ đây, văn học không ngừng vận động và phát triển trong

mối liên hệ tƣơng tác vô cùng phức tạp với muôn vàn hiện tƣợng xã hội khác.

Đặc điểm nổi bật trong văn học Việt Nam sau 1975 là sự đổi mới về tƣ duy.

Nếu trong 5 năm đầu tiên (thời kỳ từ 1975 đến đầu những năm 1980) cảm

hứng sử thi vẫn giữ một vai trò quan trọng thì từ những năm 1980 tƣ duy tiểu

thuyết lại chiếm ƣu thế với khuynh hƣớng thế sự, đời tƣ. Bên cạnh đề tài

chiến tranh, văn học đi sâu phản ánh đời sống của cái tôi cá nhân. Con ngƣời

đƣợc văn học khám phá, soi chiếu ở nhiều bình diện và nhiều tầng bậc: ý thức

và vô thức, đời sống tƣ tƣởng, tình cảm và đời sống tự nhiên, bản năng, khát

vọng cao cả và dục vọng tầm thƣờng, con ngƣời cụ thể, cá biệt và con ngƣời

trong tính nhân loại phổ quát. Con ngƣời đƣợc nhìn nhận ở góc độ có tính

cách, có cá tính và có số phận riêng tƣ. Trong làn gió chung ấy, đời sống, cảm

xúc và những khát vọng của ngƣời phụ nữ cũng đƣợc văn học đề cập một

cách đa dạng và phong phú.

Hơn nữa, trong nền văn học hiện đại Việt Nam, nhất là sau năm 1986,

truyện ngắn có sự bùng nổ cả về số lƣợng lẫn chất lƣợng. Bên cạnh những

gƣơng mặt kỳ cựu nhƣ Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng...

phải kể đến sự góp mặt của các nhà văn trẻ, đặc biệt là các nữ nhà văn nhƣ:

Trần Thùy Mai, Võ Thị Hảo, Y Ban, Lê Minh Khuê, Nguyễn Thị Thu Huệ,

Phan Thị Vàng Anh... Chƣa bao giờ ngƣời ta thấy sự xuất hiện của nhiều nhà

văn nữ đến vậy. Những sáng tác của họ đã góp phần đem lại diện mạo tƣơi

1

mới cho nền văn học Việt Nam đƣơng đại. Các nhà văn nữ, với sự tinh tế,

nhạy cảm của mình, đã nhận ra những biến đổi của bản thân mình cũng nhƣ

của gia đình trƣớc tác động từ xã hội. Họ đã nói lên đƣợc những tâm tƣ tình

cảm của chính mình đồng thời thể hiện niềm thƣơng cảm sâu sắc với những

khát vọng rất thực của những ngƣời đồng giới.

Chọn hƣớng nghiên cứu tiếp cận truyện ngắn của ba tác giả nữ tiêu biểu

của văn học đƣơng đại, ngƣời viết hy vọng có thể hiểu hơn về phong cách của

các nhà văn nữ, đánh giá những đóng góp của họ để từ đó có cái nhìn đa diện

hơn về văn học đƣơng đại Việt Nam.

Gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng trong cảm thức của mỗi ngƣời

dân đất Việt. Bởi vậy, nó trở thành mảnh đất màu mỡ để các nhà văn gửi gắm

những quan niệm nhân sinh. Ngay từ những năm ba mƣơi của thế kỉ XX các

nhà văn của Tự lực Văn đoàn đã chú ý đến đề tài này. Gia đình đƣợc nhìn

nhận ở khía cạnh là cuộc đấu tranh giải phóng cái tôi cá nhân, đấu tranh cho

tự do hôn nhân để giành quyền sống cho ngƣời phụ nữ, chống lại sự ràng

buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến. Sang đến giai đoạn 1945 -1975 vận

mệnh dân tộc trở thành mối quan tâm đặc biệt nên những vấn đề về gia đình

lại lắng xuống. Sau năm 1986, bên cạnh đề tài lịch sử, gia đình lại trở thành

mối quan tâm của các văn nghệ sĩ. Đằng sau câu chữ lạnh lùng dửng dƣng,

ngƣời đọc cảm nhận sâu sắc sự xót xa ngậm ngùi của các nhà văn trƣớc

những biến đổi của gia đình. Đặc biệt trong những năm gần đây, gia đình và

những đổi thay của nó trƣớc làn gió của thời đại trở thành vấn đề đƣợc quan

tâm hơn hết trong xã hội.

Xây dựng luận văn với nhan đề : Đề tài gia đình trong truyện ngắn Trần

Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ; ngƣời viết hy vọng đi sâu tìm hiểu

những biến đổi trong gia đình hiện đại qua cái nhìn mang mầu sắc nữ quyền

trong truyện ngắn ba tác giả. Chúng ta có thể nhận thấy những nét tƣơng đồng

2

cũng nhƣ riêng biệt trong việc phản ánh về cùng một đề tài của ba nữ nhà văn.

Những tƣơng đồng chính là sự gặp gỡ của những tƣ tƣởng gần gũi nhau, nét

khác biệt chính là sự đóng góp làm nên cái tôi rất riêng trong phong cách của

họ. Đặc biệt trong luận văn này, ngƣời viết muốn tập trung vào những tâm tƣ,

cảm xúc, khát vọng... của ngƣời phụ nữ để thấy đƣợc đóng góp của các nhà

văn trong việc bảo vệ nữ quyền. Đây cũng là vấn đề bức thiết trong xã hội

hiện nay.

2. Lịch sử vấn đề

Thập niên 90 của thế kỷ trƣớc ghi nhận sự đóng góp quan trọng của

những gƣơng mặt nữ trong làng văn Việt Nam. Họ đã đem đến cho văn học

“một sinh khí mới rất cần thiết để thể hiện chiều sâu, bề sau của cuộc sống

con ngƣời hôm nay” [33]. Trong những bộn bề của cuộc sống hiện đại, với

ngƣời phụ nữ, gia đình và những biến đổi của nó trƣớc cuộc sống kinh tế

thị trƣờng luôn là vấn đề mà họ quan tâm và dành nhiều suy tƣ nhất. Điểm

nổi bật đó đã nhận đƣợc sự quan tâm của nhiều bạn đọc, nhà phê bình và

các học giả...

2.1. Nghiên cứu về đề tài gia đình

Đối với mỗi con ngƣời, mỗi xã hội, nhất là xã hội phƣơng Đông, gia

đình có vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Tuy nhiên ngƣời ta cũng xót xa

khi chứng kiến những đổi thay không mong muốn của nó trong cuộc sống

kinh tế thị trƣờng. Đã có không ít những bài báo, tạp chí, các bài nghiên cứu

đề cập về vấn đề này. Trong số đó có thể kể đến những bài: Gia đình việt

Nam hiện nay: Truyền thống hay hiện đại (Tamvocviet.vn), Gia đình Việt

Nam trong cơn bão của thời đại (Nguyễn Hồng Mai – Tạp chí nghiên cứu văn

hóa Đại học Văn Hóa Hà Nội), Cấu trúc gia đình Việt Nam: Thay đổi chưa

từng có (Tuổi trẻ online), Sự biến động của cuộc sống trong gia đình hiện

đại, Điều đáng lo ngại trong nhiều gia đình hiện nay ở thành thị (Trƣờng

3

Giang – Khoa học và phát triển), Mái nhà giữa cơn giông thời hiện đại

(Nguyễn Hoàng Đức – Vietnamnet)… Mùa lá rụng trong vườn và những vấn

đề của đời sống gia đình hôm nay (Nguyễn Bảo Hƣng –

Vietnamthuquan.net)…

2.2. Nghiên cứu về truyện ngắn của ba tác giả

Xuất hiện ở những giai đoạn khác nhau và mỗi ngƣời một phong cách

nhƣng Trần Thùy Mai, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ là ba tác giả có những

đóng góp đáng kể cho nền văn học đƣơng đại. Trong số các sáng tác của họ

có nhiều truyện ngắn đƣợc chuyển thành phim và tạo đƣợc dấu ấn sâu đậm

trong lòng độc giả không chỉ Việt Nam mà cả ở thế giới. Đã có nhiều bài viết,

luận văn tìm hiểu về truyện ngắn của ba tác giả, tuy nhiên mới chỉ khai thác

trên các phƣơng diện: thế giới nhân vật nữ, thế giới nghệ thuật… Cho đến nay

chƣa có công trình khoa học nào nghiên cứu về đề tài gia đình trong truyện

ngắn cả ba tác giả. Cụ thể:

2.2.1. Trần Thùy Mai

Vƣợt qua ranh giới của thời gian, không gian, truyện Trần Thùy Mai đi

vào lòng ngƣời nhẹ nhàng mà sâu sắc. Trên các tạp chí, các báo có nhiều cảm

nhận và kiến giải về các vấn đề đƣợc đặt ra trong sáng tác của chị.

Bùi Việt Thắng trong Truyện ngắn hôm nay đã đánh giá Trần Thùy Mai

là “cây bút có sức bền với thể loại truyện ngắn”. Lê Mỹ Ý trong một bài báo

đăng trên Người đương thời số tháng 5-2007 khẳng định: “Từ tập truyện đầu

tiên cho tới bây giờ, chị Mai bao giờ cũng giữ đƣợc cho mình một giọng văn,

ngôn ngữ, phong cách trong sáng. Trong sáng đến mức luôn có cảm giác nhƣ

chị là ngƣời luôn đam mê, đắm đuối và đuổi theo một thứ ánh sáng kỳ ảo giữa

cuộc đời”. Đi tìm sức hấp dẫn của truyện Trần Thùy Mai, Hoàng Nguyên Vũ

cho rằng: “Những trang viết của Trần Thùy Mai chứa đựng những cuộc đời

nhỏ, có cuộc đời thoáng qua, có cuộc đời gặp một lần rồi hun hút, có cuộc đời

4

trong những giấc mơ miên viễn”. Tác giả Lý Hạnh trong bài đăng trên báo

Công an nhân dân số tháng 3-2008 lại quan tâm đến tình yêu trong truyện

Trần Thùy Mai. Theo Lý Hạnh: Trần Thùy Mai viết về tình yêu không phải

để câu khách. Ngoài ra còn nhiều bài viết trên các báo điện tử. Có thể kể đến

nhƣ: Trần Thùy Mai nối dài cuộc sống từ các nhân vật (Vnexpress), Trần

Thùy Mai lặng lẽ với văn chương (Vnexpress), Trần Thùy Mai viết văn là một

cách thương yêu (Tuổi trẻ online), Trần Thùy Mai viết về tình yêu (Lý Hạnh –

Công an nhân dân), Truyện ngắn Trần Thùy Mai – hành trình đi tìm hạnh

phúc ảo (Lê Thị Hƣờng – Văn nghệ Đà Nẵng), Nhà văn Trần Thùy Mai: Lánh

cuộc đua “hàng hót” (Mai Hoàng – An ninh Thủ đô), Nhà văn Trần Thùy

Mai: “Tôi chẳng làm được gì nếu không được yêu”, (Tạp chí Ngƣời đẹp Việt

Nam, 2004), Trần Thùy Mai và những bi kịch của người phụ nữ (Tạp chí

Kiến thức gia đình, 2002).

Các nhận xét đã ít nhiều đề cập đến thế giới nội dung và nghệ thuật

của truyện Trần Thùy Mai nhƣng chƣa chú ý đến những biểu hiện của đề

tài gia đình.

2.2.2. Y Ban

Y Ban đƣợc bạn đọc và giới phê bình chú ý từ khi Bức thư gửi mẹ Âu Cơ

đoạt giải cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ quân đội (1989 – 1990).

Đã có nhiều bài viết về văn của chị, thậm chí có những ý kiến trái chiều nhau.

Đáng lƣu ý là nhận xét của tác giả Hoàng Tố Mai trong Y Ban – Hành trình

đến tận cùng thế tục: “Tác phẩm của Y Ban tràn ngập những chi tiết cực kì ấn

tƣợng thể hiện một số vốn sống vô cùng phong phú và đặc biệt”, “Gu thẩm mĩ

của Y Ban cũng khác lạ. Có lẽ với tác giả này cái Đẹp không chỉ là cái mĩ

miều, đôi khi nó là sự khơi gợi, ám ảnh khiến con ngƣời ta hƣng phấn, lặng

im sững sờ thậm chí là sốc nữa”. Trên diễn đàn văn hóa học

(www.vanhoahoc.edu.vn) tác giả Mỹ Linh có viết: “Yếu tố tình dục, những

5

câu chuyện tình dục nhƣ Y Ban miêu tả cũng có thể hiện hữu trong mỗi

ngƣời, chỉ có điều lâu nay phủ lên mình bộ mặt đạo đức giả nên cho rằng nó

xấu, hoặc lâu nay không quen nói ra”. Ngoài ra còn nhiều bài báo và tạp chí

viết về Y Ban. Có thể kể đến: Khi người ta trẻ (Bùi Việt Thắng), Báo cáo kết

quả cuộc thi văn xuôi về đề tài Hà Nội (Hoàng Ngọc Hà), Một giọng nữ trầm

trong văn chương (Bùi Việt Thắng), Y Ban và những thân phận đàn bà (Xuân

Cang), Đọc truyện ngắn Y Ban. Y Ban - hành trình đến tận cùng thế tục

(Hoàng Tố Mai - www. vietimes. vietnamnet.vn), Y Ban: Bốp chát và nữ tính

(Hòa Bình – tienphong.vn), Y Ban không thấy nhục cảm là phi đạo đức ( Tú

Cầu – Giadinh.net.vn), Y Ban “Cũng có lúc khóc rú lên một mình” (Hà

Linh – Vnexpress.net), Nhà văn Y Ban: “Chỉ cầu mong hai chữ bình an”

(Vân Quế - Phapluattp.vn)… Ngoài ra tại hội thảo khoa học Mười truyện

ngắn hay báo Văn nghệ 1998 do Trƣờng đại học Hồng Đức tổ chức,

truyện ngắn Sau chớp là dông bão của Y Ban đƣợc nhiều nhà giáo và sinh

viên quan tâm đƣa ra ý kiến đánh giá.

Có những ý kiến trái chiều về truyện của Y Ban song chiếm ƣu thế vẫn

là xu hƣớng nhìn nhận về tác phẩm của Y Ban một cách khách quan, tìm thấy

ở đó nhiều tầng giá trị tốt đẹp. Phần ít còn lại là những phê phán nhiều khi

mang tính phiến diện, chủ quan .

2.2.3. Nguyễn Thị Thu Huệ

Tạo ấn tƣợng và có sức hấp dẫn với ngƣời đọc ở giọng văn lạnh lùng

nhƣng chất chứa bao niềm cảm thƣơng cho những thân phận ngƣời, Nguyễn

Thị Thu Huệ trở thành hiện tƣợng văn học đƣợc yêu mến. Đã có nhiều ý kiến

về truyện ngắn của chị. Bùi Việt Thắng trong Năm truyện ngắn dự thi của một

cây bút trẻ thật tinh tế khi đƣa ra cảm nhận: “Truyện ngắn Thu Huệ hấp dẫn

rộng rãi ngƣời đọc trƣớc hết vì giàu chất đời” và “Những truyện hay của Thu

Huệ là nhờ ngƣời viết bứt lên đƣợc trên cái có thực đến tận cùng, để tìm tới

6

cái gì đó cao hơn của con ngƣời, đó là đời sống tâm hồn vốn rất không rõ

ràng, mạch lạc, vốn bí ẩn khó giải thích rạch ròi bằng lí trí”. Đặc biệt, tác giả

đã nhận ra “Thu Huệ quan tâm đến gia đình trong xã hội hiện đại đang tồn tại

và tan rã nhƣ thế nào, bởi những nguyên nhân nào”. Ngoài ra còn nhiều bài

viết về truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ trên các báo, tạp chí: Nguyễn Thị

Thu Huệ - Người tốt đang co ro (Nguyễn Xuân Thủy – Vnexpress), Nguyễn

Thị Thu Huệ - Nhà văn của nồng ấm tình yêu ( Nguyên Hƣơng – Quân đội

nhân dân), Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ: Lạnh lùng câu chữ, xa xót tâm can

(Dƣơng Thị Thùy Chi)…Nhìn chung, các bài viết đều đánh giá cao Nguyễn

Thị Thu Huệ, đặc biệt ở khả năng nắm bắt và phản ánh hiện thực nhạy bén,

sâu sắc, có giọng điệu riêng.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng: Các truyện ngắn của ba tác giả

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Ngƣời viết tập trung khai thác các truyện ngắn thể hiện nổi bật, độc đáo

đề tài gia đình (qua cái nhìn mang mầu sắc nữ quyền) trong các tập truyện

ngắn của ba tác giả.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng nhiều phƣơng pháp nghiên cứu: lịch sử - xã hội, so

sánh đối chiếu, thống kê phân loại, phân tích tổng hợp.

5. Cấu trúc của luận văn

Luận văn gồm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung phần kết luận và tài

liệu tham khảo.

Phần nội dung đƣợc triển khai trong ba chƣơng:

Chƣơng 1: Truyện ngắn ba tác giả (Trần Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn

Thị Thu Huệ) trong dòng chảy truyện ngắn thời kỳ đổi mới và sự thể hiện đề

7

tài gia đình trong văn học Việt Nam đƣơng đại.

Chƣơng 2: Gia đình hiện đại qua cái nhìn mang mầu sắc nữ quyền trong

truyện ngắn ba tác giả

8

Chƣơng 3: Một số phƣơng thức biểu hiện đặc sắc

PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG 1: TRUYỆN NGẮN BA TÁC GIẢ (TRẦN THÙY MAI,

Y BAN VÀ NGUYỄN THỊ THU HUỆ) TRONG DÒNG CHẢY

TRUYỆN NGẮN THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ SỰ THỂ HIỆN ĐỀ TÀI GIA

ĐÌNH TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI

1.1. Truyện ngắn ba tác giả trong dòng chảy truyện ngắn thời kỳ

đổi mới

1.1.1. Diện mạo truyện ngắn thời kỳ Đổi mới

1.1.1.1. Những vấn đề chung của văn học thời kỳ Đổi mới

Đại hội Đảng VI năm 1986 đã chỉ ra đƣờng lối đổi mới cả về chính trị

lẫn văn hóa xã hội. Nhờ thực hiện chủ trƣơng đó, xã hội ta có những chuyển

biến sâu sắc trên mọi phƣơng diện: sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đã và đang đƣơc đẩy nhanh tốc độ phát triển, việc giao lƣu mở rộng hội nhập

với các nƣớc trong khu vực cũng nhƣ trên thế giới đƣợc đặc biệt chú ý. Xã

hội đổi thay có nhiều tác động đến văn học. Đó là sự thay đổi về nhu cầu, thị

hiếu của ngƣời đọc cũng nhƣ ngƣời sáng tác.

Có thể nói từ sau năm 1986, văn học đã thật sự bƣớc vào công cuộc “cởi

trói”, “lột xác” để phù hợp hoàn cảnh mới. Đó là sự mở rộng về đề tài. Bên

cạnh cảm hứng sử thi, văn học đã xuất hiện và chứng kiến sự lên ngôi của

cảm hứng đời tƣ – thế sự. Cuộc sống đƣợc nhìn nhận ở nhiều chiều, nhiều

phƣơng diện khác nhau. Cuộc sống không giản đơn mầu hồng nhƣ cách nhìn

trƣớc đây nữa. Những góc khuất trong tâm hồn con ngƣời đƣợc soi chiếu ở

nhiều góc độ. Con ngƣời đƣợc văn học khám phá, soi chiếu ở nhiều bình diện

và nhiều tầng bậc: ý thức và vô thức, đời sống tƣ tƣởng, tình cảm và đời sống

tự nhiên, bản năng, khát vọng cao cả và dục vọng tầm thƣờng. Nếu trƣớc đây

9

cách nhìn của các nhà văn trƣớc các vấn đề thƣờng là đơn chiều rạch ròi:

thiện - ác, địch - ta, cao cả - thấp hèn... thì bây giờ cái nhìn đa chiều, đa diện,

phức tạp hơn.

1.1.1.2. Đội ngũ các cây bút nữ thời kỳ Đổi mới

Giai đoạn này có khá nhiều bài phỏng vấn, những bài đánh giá, bình luận

về các cây bút nữ (Văn xuôi phái đẹp - Bích Thu; Khi ngƣời ta trẻ I, khi ngƣời

ta trẻ II - Bùi Việt Thắng; Suy nghĩ về đặc điểm của nữ văn sĩ - Phƣơng Lựu;

Điểm qua sự vận động của truyện ngắn các cây bút nữ - Lê Thị Hƣơng Thủy;

Văn chƣơng nữ giới- một cách thể hiện ở đời - Huỳnh Nhƣ Phƣơng…) và còn

rất nhiều những bài báo nhận định riêng về mỗi tác giả.

Sự thay đổi trong quan niệm xã hội khiến ngƣời phụ nữ ngày càng có vị

thế. Có thể nhận thấy một điều trong văn học Việt Nam, sự xuất hiện và

những đóng góp của các nữ văn sĩ đã khiến cho bức tranh văn học phong phú

sắc mầu. Nếu trong văn học trung đại và văn học hiện đại những năm 1930-

1945 chỉ có vài gƣơng mặt thì đến giai đoạn 1945-1975 số lƣợng các nữ văn

sĩ tăng lên đáng kể. Đặc biệt, những năm sau đổi mới (1986) đến nay có 75%

ngƣời viết truyện ngắn là nữ (nhƣ thống kê của tác giả Bùi Việt Thắng) với sự

góp mặt của những tên tuổi quen thuộc: Trần Thùy Mai, Y Ban, Phạm Thị

Hoài, Võ Thị Hảo, Võ Thị Xuân Hà, Nguyễn Thị Ấm, Dạ Ngân, Nguyễn Thị

Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Đỗ Bích Thúy, Trầm Nguyên Ý Anh, Nguyễn

Thị Diệp Mai, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tƣ… Bởi vậy nhà nghiên cứu

Bùi Việt Thắng đã rất có lý khi gọi văn học đƣơng đại là nền văn học “mang

gƣơng mặt nữ”. Hầu hết trong số họ dù xuất hiện trên văn đàn từ những năm

80, 90 của thế kỷ trƣớc hay mới xuất hiện đầu thế kỷ này thì điểm chung dễ

nhận thấy đều là sự bền bỉ, dẻo dai, nhiệt huyết say mê khám phá cuộc sống.

Chính vì vậy, đời sống và những cung bậc cảm xúc, những góc khuất trong

tâm hồn con ngƣời, nhất là của ngƣời phụ nữ hiện lên đa sắc và gợi lên cho

10

ngƣời đọc nhiều suy ngẫm. Với lợi thế về giới của mình, các nhà văn nữ đã

mạnh dạn viết về những vấn đề nhạy cảm của riêng mình, đi sâu vào thế giới

tâm hồn đầy bí ẩn của ngƣời phụ nữ, nhƣ nhà nghiên cứu Vƣơng Trí Nhàn

viết: “Hình nhƣ do sự nhạy cảm của riêng mình, ngƣời phụ nữ bắt mạch với

thời đại nhanh hơn nam giới. Họ luôn gần với cái lỉnh kỉnh dở dang của đời

sống. Mặt khác, với cái cực đoan sẵn có: tốt, dịu dàng, rộng lƣợng thì không

ai bằng, mà nhỏ nhen chấp nhặt, dữ dằn cũng không ai bằng – từng cây bút nữ

tìm ra mặt mạnh của mình khá sớm, định hình khá sớm” [34].

Họ viết nhiều. Nổi lên trong sáng tác của các nhà văn nữ thời kỳ này là

những vang hƣởng của cuộc sống thời đại. Những chuyện tƣởng chừng vặt vãnh

của cuộc sống đi vào văn chƣơng tự nhiên mà không kém phần sâu sắc. Đó là

những vật lộn mƣu sinh của con ngƣời, sự tráo trở của lòng ngƣời, sức mạnh

của đồng tiền, guồng quay chóng mặt của cuộc sống thời kinh tế thị trƣờng

khiến cha mẹ không còn thời gian quan tâm đến con cái… Ngồn ngộn chất

liệu của hiện thực không thiếu những cái chao chát, nhƣng dƣờng nhƣ cái bản

chất nữ tính đa cảm khiến những trang viết về tình yêu đằm sâu, nhƣ làn nƣớc tƣới

mát tâm hồn kéo con ngƣời khỏi sa mạc của sự cằn cỗi. Trong thế giới nhân vật

phong phú, dƣờng nhƣ nữ nhân vật nhận đƣợc sự ƣu ái đặc biệt của các nhà

văn. Họ với những hoàn cảnh, những thân phận và tính cách cá biệt nhƣng hầu

hết đều là những ngƣời đàn bà bất hạnh. Có khi họ là những ngƣời phụ nữ

quyết liệt đầy bản lĩnh dám sống thật với những rung cảm của lòng mình, là

những ngƣời muốn trốn chạy khỏi cô đơn của hiện tại bằng những hoài niệm

và tiếc nuối quá khứ… Một tình yêu trọn vẹn, một hạnh phúc gia đình luôn là

niềm khát vọng và mong mỏi cháy bỏng trong lòng. Mặc dù vậy, trong sáng

tác của các nữ nhà văn hôm nay vẫn còn những hạn chế nhất định về nội dung

lẫn hình thức: họ quan tâm chuyện nhiều hơn văn, có nguy cơ lặp lại chính

mình… Tuy nhiên, không thể không ghi nhận những nỗ lực, những thành

11

công và vị trí của họ trên văn đàn.

1.1.2. Khái quát về ba tác giả Trần Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn

Thị Thu Huệ

1.1.2.1. Trần Thùy Mai

Khi nghĩ đến Trần Thùy Mai, nhìn những bức ảnh và đọc những truyện

ngắn của chị, bên tai tôi nhƣ văng vẳng câu thơ “ngƣời thơ phong vận nhƣ thơ

ấy”, dù chị là cây bút chuyên về truyện ngắn. Có lẽ nụ cƣời hồn hậu, gƣơng

mặt thanh tú với lúm đồng tiền duyên duyên là điều tạo nên ấn tƣợng đẹp của

bất cứ ai gặp hay thậm chí chỉ nhìn qua ảnh của chị. Sự nhẹ nhàng, tinh tế

thấm đƣợm trong những trang văn ấy có lẽ phần nào chịu ảnh hƣởng của

mảnh đất mà chị sinh ra và lớn lên.

Trần Thùy Mai tuổi Giáp Ngọ (sinh ngày 8 tháng 9 năm 1954), quê ở

Huế, nhƣng sinh ra ở Hội An, về Huế khi tròn một tuổi. Chị học Trung học

Đồng Khánh, tốt ngiệp Khoa Văn Đại học Sƣ phạm Huế và đựợc giữ lại

trƣờng làm giảng viên, sau đó làm biên tập viên Nhà Xuất bản Thuận Hóa tại

Huế. Với lối rẽ này, chị đã chọn nghiệp viết làm con đƣờng đi cho riêng

mình. Dù chỉ gắn bó trong khoảng thời gian ngắn hay sống gần hết cuộc đời,

mảnh đất cố đô và phố cổ Hội An đã lƣu dấu ấn trong những trang văn của

chị. Có lần Trần Thùy Mai chia sẻ: “Dù đã rời xa Hội An khi còn quá nhỏ

nhƣng tôi luôn gửi về đấy nhiều mộng tƣởng huyễn hoặc lung linh, đẹp nhƣ

cổ tích. Còn Huế là nơi để lại dấu ấn đậm nét nhất trong tác phẩm của tôi, bởi

đó là nơi tôi sống hầu hết cuộc đời mình”. Hội An và Huế trở thành vùng đất

thơ ƣơm mầm cho những trang viết của chị.

Ngoài ra, những điệu hò mái nhì Huế u uẩn thầm kín; những điệu hò

Quảng Nam mãnh liệt, nồng nàn… tự bao giờ đã đi vào lòng ngƣời và góp

phần làm nên vẻ đẹp dịu dàng tinh tế song cũng không kém phần mãnh liệt

12

quyết đoán trong những trang văn của chị.

Trần Thùy Mai có làm thơ, thỉnh thoảng viết phê bình giới thiệu sách

nhƣng độc giả biết đến chị là nhà văn viết truyện ngắn xuất sắc và tiêu biểu

cho bản sắc văn xuôi xứ Huế. Xem chuyện viết nhƣ là lẽ sống, là khí trời, là

tình yêu đích thực; trong gần ba mƣơi năm cầm bút, Trần Thùy Mai đã cho ra

đời gần chục tập truyện ngắn: Bài thơ về biển khơi (1983), Cỏ hát (1983),

Thị trấn hoa quỳ vàng (1994), Trò chơi cấm (1998), Quỷ trong trăng (2001),

Thập tự hoa (2003), Mưa đời sau (2005), Mưa ở Strasbourg (2007), Trăng

nơi đáy giếng (2008), Một mình ở Tokyo (2008), Onkel yêu dấu (2010) …

Nhiều tác phẩm đã chuyển thể thành kịch bản phim, trong đó có Thập tự hoa,

Gió thiên đường, Trăng nơi đáy giếng.

Chị nhận đƣợc nhiều giải thƣởng của Trung ƣơng và địa phƣơng, cả

trong nƣớc và quốc tế: Giải B giải thƣởng Văn học Nghệ thuật Cố đô lần thứ

hai (1998) cho Tập truyện ngắn Thị trấn hoa quỳ vàng, Giải C giải thƣởng

Văn học thiếu nhi "Vì tƣơng lai đất nƣớc" của Nhà xuất bản Trẻ (2002) cho

truyện dài thiếu nhi Người khổng lồ núi Bạc, Giải B Hội Nhà văn Việt Nam (2002, không có giải A), Giải A giải thƣởng Văn học Cố đô lần thứ ba (2005)

cho tập truyện ngắn Quỷ trong trăng, Giải thƣởng Ủy ban Toàn quốc Liên

hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam (2003), Giải A giải thƣởng Văn

học Nghệ thuật Cố đô lần thứ tƣ (2008) cho tập truyện ngắn Thập tự hoa, Giải

thƣởng của Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên - Huế (2008) cho

tập truyện ngắn Một mình ở Tokyo, Giải cống hiến vì cộng đồng năm 2011 do

Ủy ban kết nghĩa thành phố San Francisco - TP Hồ Chí Minh trao tặng.

Là ngƣời có thái độ làm việc nghiêm túc, say mê, Trần Thùy Mai có

những quan niệm khá rõ ràng về nghề văn, về con ngƣời, cuộc sống. Điều này

đƣợc thể hiện qua các tác phẩm, qua những bài trả lời phỏng vấn của chị.

Nhà văn của xứ Huế cho rằng: “Tôi nhƣ một mảnh nam châm hút về mình

13

những đau khổ”. Dƣờng nhƣ trái tim đa cảm và sự dịu dàng tinh tế của chị

luôn nhạy cảm trƣớc những khổ đau của con ngƣời, nhất là của ngƣời phụ nữ.

Những mảnh đời, những tình cảnh trong truyện của chị phảng phất cuộc đời

đa đoan của nhà văn và của biết bao phụ nữ Việt Nam. Những trang văn của

chị thấm đẫm niềm cảm thƣơng với những thân phận quanh mình; những góc

khuất trong tâm hồn, những khát khao thầm kín, chân thành của con ngƣời

đƣợc chị diễn tả thật sâu sắc. Có lẽ điều này xuất phát từ quan niệm: “viết văn

là một cách thƣơng yêu chính mình và những ngƣời xung quanh”, “viết phải có lợi cho nhân loại”.

Cuộc sống không phải lúc nào cũng nhƣ mong muốn, trái tim nhỏ bé

nhƣng khát vọng thì mênh mông, chị tìm đến với văn chƣơng nhƣ một thứ

tiên dƣợc cho nỗi cô đơn của mình. Mƣời tập truyện ngắn với những hoàn

cảnh khác nhau chính là sự chiêm nghiệm cuộc sống, là sự đồng cảm và

thƣơng yêu những con ngƣời bất hạnh. Bởi nhƣ chị nói: “Tôi thích viết để

đƣợc tồn tại trong nhiều cảnh đời khác nhau, đƣợc sống những gì tôi mơ ƣớc,

đƣợc nói những điều không nói giữa đời thƣờng. Viết, nhƣ vậy là một cách để

vƣợt thoát ra ngoài những giới hạn của một đời ngƣời nhỏ bé”.

Coi văn chƣơng là một công việc nghiêm túc vất vả, thậm chí cực nhọc

nhƣng “đây không phải là công việc khiến tôi mệt mỏi vì đó là niềm yêu thích

của tôi. Hạnh phúc của ngƣời phụ nữ viết văn giống nhƣ niềm vui của cái cây

đƣợc mọc lên trong đất và khí trời để sống. Niềm hạnh phúc ấy giúp tôi sống

và vƣợt qua những năm tháng khó khăn nhất trong cuộc đời”.

1.1.2.2. Y Ban

Nếu ở Trần Thùy Mai ngƣời tiếp xúc ấn tƣợng với vẻ dịu dàng, nhẹ

nhàng toát ra từ gƣơng mặt đến giọng nói thì Y Ban lại là sự cá tính, sắc sảo

và “bốp chát”. Đúng nhƣ nhà báo Hòa Bình đã từng nhận xét “Ai mới gặp Y

Ban cũng rất choáng bởi vẻ ngoài hầm hố và phản ứng cực nhanh. Càng bị

14

dồn đến những tình huống khó khăn, chị lại càng đốp chát sắc sảo. Kể cả bình

thƣờng thì cái giọng thỏ thẻ nhƣng thƣa bẩm đến điều cũng khiến ngƣời ta

ớn” [43]. Tuy nhiên ẩn đằng sau vẻ bề ngoài ấy lại là một trái tim giàu lòng

thƣơng yêu và nhân hậu.

Y Ban tên đầy đủ là Phạm Thị Xuân Ban, sinh ngày 1 tháng 7 năm 1961

tại Nam Định. Chị từng trải qua một tuổi thơ nhọc nhằn, bố đi bộ đội, mẹ quá

vất vả với công việc tại bệnh viện, một mình chị chăm lo cho ba đứa em nhỏ.

Lớn lên, đi học và tốt nghiệp Khoa Sinh Đại học Tổng hợp năm 1982, chị về

làm giáo viên Cao đẳng Y Nam Định và rất hài lòng với công việc của mình.

Vốn mê sách từ nhỏ, những quyển sách hay ở thƣ viện trƣờng đã tiếp thêm

niềm say mê văn học của chị. Chị bắt tay vào viết một vài truyện ngắn và gửi

đăng ở tạp chí địa phƣơng. Những Người đàn bà có ma lực, Thư gửi mẹ Âu

Cơ... ra đời với bút danh Y Ban ( Ban ở trƣờng Y). Rồi vì đam mê văn

chƣơng, vì tiếng gọi tình yêu với một nhà điêu khắc trẻ, chị bỏ dạy về Hà

Nội học Trƣờng viết văn Nguyễn Du. Từ 1989 – 1992 học Trƣờng viết

văn Nguyễn Du, từ 1994 đến nay là phóng viên, biên tập viên tại báo Giáo

dục và Thời đại.

Với sự từng trải, sâu sắc và sức sáng tạo dồi dào, Y Ban đã cho ra

đời hàng chục tập từ truyện ngắn, truyện vừa đến tiểu thuyết. Có thể kể

tên các tác phẩm của chị: Người đàn bà có ma lực (1993), Đàn bà sinh ra

từ bóng đêm (1995), Vùng sáng kí ức (1996), Truyện ngắn Y Ban (1998),

Miếu hoang (2000), Cẩm cù (2001), Người đàn bà dưới gốc dâu cổ thụ

(2003), Cưới chợ (2004), Cuộc phiêu lưu trên dòng nước lũ (2000), Đàn

bà xấu thì không có quà (tiểu thuyết 2004), Thần cây đa và tôi (tập truyện

vừa), I am đàn bà (2006), Xuân từ chiều (tiểu thuyết 2008), Trò chơi hủy

diệt cảm xúc (tiểu thuyết 2012).

Thành công của Y Ban không chỉ đƣợc ghi nhận ở sự yêu mến của độc

15

giả mà còn qua các giải thƣởng văn học. Đó là Giải nhất cuộc thi Truyện và

Thơ của Tạp chí Văn nghệ quân đội (1989-1990), Giải B cuộc thi viết về Hà

Nội do Nhà xuất bản Hà Nội tổ chức (1993), Giải C giải thƣởng của Ủy ban

toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam (2000), Giải nhất

cuộc thi viết truyện ngắn giáo dục đạo đức cho thiếu niên nhi đồng do Nhà

xuất bản Giáo dục tổ chức (2001).

Nghiệp văn vận vào chị nhƣ một định mệnh, Y Ban có thái độ làm việc

rất nghiêm túc. Chị quan niệm: “Quan điểm sáng tác của tôi là trăm bó đuốc

bắt đƣợc một con ếch chứ không mơ con gà đẻ trứng vàng”. Và chị khẳng

định lối viết của mình là "Truyện của tôi, lúc đọc ngƣời ta có thể tức giận,

khóc, cƣời... nhƣng đọc xong thì chẳng cần suy tƣ tìm hiểu thêm những ẩn ý

phía sau vì có gì thì tôi đã viết hết ra rồi. Tôi gieo chữ nhƣ cầm một nắm thóc

trên tay rồi tung ra”, “Điều làm tác phẩm đọng lại đƣợc với thời gian chính là

tính nhân bản. Thế mạnh của tôi là viết về nỗi đau, thân phận ngƣời đàn bà,

về nông thôn và ký ức. Cách hành văn, các chi tiết nhiều khi rất bạo liệt,

nhƣng cái đọng lại là sự nhân ái. Tôi viết về cái xấu, cái ác là để ngƣời ta căm

ghét nó và muốn sống đẹp hơn, thiện hơn, viết về sự đổ vỡ là để gợi lại niềm

tin yêu cuộc sống...”. Truyện Y Ban giàu chất đời. Những câu chuyện vặt vãnh

của cuộc sống qua ngòi bút của chị trở nên sống động và hấp dẫn. Chị từng đề

cập trong một bài trả lời phỏng vấn: “Nhiều ngƣời phê văn tôi toàn chuyện vụn

vặt, yêu đƣơng với dƣa cà mắm muối, chẳng có ý tƣởng cao siêu gì. Tôi nghĩ,

ý tƣởng cao siêu bằng giời mà không ai muốn đọc thì tay trắng. Tôi viết văn

cho độc giả, không viết riêng cho các nhà phê bình, tôi không thích loại văn

chƣơng cầu kỳ, hình thức”. Song có thể nhận thấy thế mạnh của Y Ban là viết

về nỗi đau, thân phận của ngƣời đàn bà và ký ức. Dù viết về đề tài nào, với chị

điều quan trọng nhất đọng lại sau mỗi tác phẩm là một trái tim yêu thƣơng và

16

thiết tha với cuộc sống, với con ngƣời.

Một điều dễ nhận thấy trong các sáng tác của chị là bên cạnh những dƣa

cà mắm muối và những điều vụn vặt trong cuộc sống, còn có sự xuất hiện của

những yếu tố sex. Nhƣ chị quan niệm: “Đây là phƣơng tiện giải trí và văn

hóa. Văn chƣơng cần tôn trọng sex ở khía cạnh đủ”. Viết sex cũng là cách gắn

kết bạn đọc với con chữ. Nhƣng viết sex không dễ. Nó có tục hay không tục

là do câu chữ. “Nếu tác giả khéo léo, thay thế những khái niệm về các bộ

phận các hành vi của con ngƣời bằng nhiều cách diễn đạt văn chƣơng hơn…

đƣa trí tƣởng tƣợng của độc giả đến các vấn đề nhân văn thì ngƣời đọc sẽ

không lăn tăn đến chuyện đề tài nữa”.

1.1.2.3. Nguyễn Thị Thu Huệ

Giữa những năm 80 của thế kỷ trƣớc trở lại đây, truyện ngắn bắt đầu

đƣợc coi là những "ông hoàng bà chúa" trong làng văn chƣơng bởi sức hút

chân thực và sâu sắc của nó. Truyện ngắn còn chứng tỏ sự lên ngôi và nở rộ

của phái đẹp. Nguyễn Thị Thu Huệ là một trong số đó với phong cách sáng

tạo táo bạo và độc đáo.

Hầu hết mọi ngƣời đều nhận thấy rằng Nguyễn Thị Thu Huệ là một nữ

nhà văn tài sắc vẹn toàn. Chị ngoài đời là một phụ nữ xinh đẹp, cởi mở và

nhiệt tình, khác hẳn với một Thu Huệ cay nghiệt, "khắt khe" trong những

Nước mắt đàn ông, Hậu thiên đường, Cầu thang…

Quê quán Thạnh Phú, Bến Tre nhƣng Nguyễn Thị Thu Huệ sinh tại Khe

Hùm, phƣờng Hà Phong, TP Hạ Long (ngày 12 tháng 8 năm 1966) khi đất

nƣớc còn chiến tranh. Trong ký ức của chị vẫn nguyên vẹn những kỷ niệm:

“Rồi mẹ mang tôi trong lòng, đêm sinh tôi trong núi. Bom Mỹ đánh ầm ầm

bên ngoài. Bố bế tôi cuộn trong cái chăn dạ mỏng chạy sang hang khác để

tránh bom. Và bố lỡ tay làm rơi tôi xuống đất vì chƣa quen bế một đứa bé

con...”. Huệ là tên mà mẹ chị - nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú - đặt cho theo

17

nhân vật chính trong tác phẩm Cô giáo Huệ của bà. Sinh ra trong một gia đình

có truyền thống văn học, cái tài văn chƣơng của chị có lẽ bắt nguồn từ gen

của ngƣời mẹ là nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú nổi tiếng một thời và cha là

nhà báo Nguyễn Ngọc Chánh. Chị đã đƣợc tiếp xúc với những áng văn hay

của mẹ và đam mê nó từ thời thơ ấu, khi hằng ngày đánh bản thảo cho mẹ

trên chiếc máy chữ cũ kỹ. Vì thế, ngay từ nhỏ chị đã có một trái tim đa cảm

và một cái nhìn tinh tế. Chị đã từng tâm sự: Cho đến bây giờ ở tuổi 37 chị vẫn

còn đầy mộng mơ và không kém những ngƣời mộng mơ nhất. Rất hay buồn,

hay bị xốn xang. Dẫu bây giờ đã có hai con trai rồi vậy mà cứ hôm nào trăng

sáng mà chị không đi ra đƣờng lang thang đƣợc một lúc, không ra ban công

ngắm trăng đƣợc một lúc là cứ nhƣ bị mất cắp một cái gì đấy .

Nguyễn Thị Thu Huệ có năng khiếu văn chƣơng từ nhỏ nhƣng lại mê hội

họa hơn và thích trở thành họa sĩ. Chị kể: "Mình không nghĩ sau này sẽ là nhà

văn, thế hệ bọn mình lúc đó hồn nhiên lắm, không bao giờ có ƣớc mơ phải trở

thành ngƣời nổi tiếng, giàu sang gì đâu". Vừa tốt nghiệp Khoa Văn Đại học

Tổng hợp, chị giấu bố mẹ đăng hai truyện ngắn Mưa trái mùa và Mùa hoa

sấu rụng trên báo Văn Nghệ và tạo đƣợc dấu ấn mạnh mẽ trong lòng độc giả

cũng nhƣ giới phê bình. Nhƣng con đƣờng trở thành nhà văn bị ngắt quãng

bởi đám cƣới sớm hơn dự định khi còn quá trẻ. Sau hai năm ở nhà trông con,

chị làm biên tập viên sân khấu tại tạp chí Văn hóa nghệ thuật. Thế rồi chị đã

ngậm ngùi khi thấy mẹ tủi thân vì nhiều ngƣời bằng tuổi con mình đã có tiếng

tăm, còn chị dƣờng nhƣ quên hẳn văn chƣơng. Vậy là chị viết: "Lúc đó tôi đã

viết nhƣ lên đồng, ý tƣởng tuôn trào nhƣ không kịp nghĩ". Cứ mỗi chiều, sau

khi cơm nƣớc xong, chị đạp xe lên cơ quan, mƣợn chiếc máy chữ và lạch

cạch gõ đến tận khuya. Những con ngƣời, những kỷ niệm (đặc biệt về bố mẹ

và tình yêu của họ), những đổi thay trong cuộc sống mà chị từng trải nghiệm

… đã thấm sâu vào tâm hồn để rồi thắp sáng những trang viết. Văn chị giàu

18

chất đời, thấm đƣợm tinh thần nhân văn sâu sắc.

Rồi chị chuyển sang làm tại hãng Phim Truyền hình Việt Nam. Dù công

việc bận rộn nhƣng chị vẫn dành nhiều thời gian cho gia đình. Chị bảo: "Khi

đã về đến nhà, mình nhƣ trở thành một con ngƣời khác, cũng xắn tay áo vào

bếp, lau nhà, bơm nƣớc, sửa điện… và chăm chút cho cậu con trai sáu tuổi".

Dƣờng nhƣ tình mẫu tử lấn át tính ngang ngạnh của ngƣời phụ nữ này.

Chị yêu tha thiết mảnh đất Quảng Ninh - “là quê hƣơng, là máu thịt” của

đời mình và Bến Tre – “nơi sinh ra bố và những ngƣời ruột thịt bên bố....”.

Chị có nhiều trải nghiệm ở các vùng miền khác nhau trong và ngoài nƣớc.

Cùng với những trải nghiệm ấy, một ký ức thiêng liêng quý giá những kỉ niệm

ăm ắp về quê hƣơng về tình yêu của bố mẹ …Đó là những vốn sống quý báu

cho chị trong những trang văn.

Hơn 20 năm cầm bút, Nguyễn Thị Thu Huệ đã tạo dựng đƣợc phong

cách riêng. Nét hấp dẫn của những trang văn Thu Huệ đến từ những chất liệu

rất đời thƣờng, tƣởng chừng những thứ vụn vặt của cuộc sống khó có thể vào

văn đựợc thì qua ngòi bút tài tình của chị, nó trở nên hấp dẫn một cách kỳ lạ.

Nhƣ nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng là “Truyện ngắn Thu Huệ hấp dẫn rộng

rãi ngƣời dọc trƣớc hết vì giàu chất đời”, “Những truyện hay của Thu Huệ là

nhờ ngƣời viết bứt lên đƣợc cái có thực đến tận cùng để tìm tới cái gì đó cao

hơn của con ngƣời, đó là đời sống tâm hồn vốn rất không rõ ràng mạch

lạc, vốn bí ẩn khó giải thích rạch ròi bằng lí trí (35). Chúng ta có thể thấy

rõ đặc điểm này trong những sáng tác của chị với các tập: Cát đợi (1992),

Hậu thiên đường (1993), Phù thủy (1995), Nào ta cùng lãng quên (2003),

37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ (2010) và gần đây nhất là Thành phố

đi vắng (2012).

Bƣớc ra từ cái nôi văn chƣơng của trƣờng Đại học Tổng hợp, Nguyễn

Thị Thu Huệ đã có một "vốn liếng" đáng nể trong làng văn: Giải B báo Ngƣời

19

Hà Nội với tác phẩm Những khoảng trời chờ đợi năm 1985, Giải B Tác phẩm

tuổi xanh báo Tiền Phong năm 1990 với tác phẩm Những đêm thắp nắng, Giải

nhất cuộc thi Hội Nhà văn Việt Nam với tác phẩm Hậu thiên đường, Giải nhất

cuộc thi của báo Văn nghệ quân đội năm 1994 với Hậu thiên đường và Biển

ấm, tặng thƣởng của Hội Nhà văn với tập truyện "Hậu thiên đƣờng" năm

1995, giải 3 cuộc thi viết kịch bản điện ảnh của báo Điện ảnh - Cục Điện ảnh

năm 1999 với Thiếu phụ chưa chồng, mới đây nhất tập truyện ngắn Thành

phố đi vắng đã đƣợc trao Giải thƣởng Hội Nhà văn năm 2012. Truyện ngắn

Của để dành, Nước mắt đàn ông của chị đã đƣợc chuyển thể thành phim.

Mặc dù quay trở lại với nghiệp văn chƣơng là một sự ngẫu nhiên bị thôi

thúc bởi chữ “hiếu” song không phải vì thế mà chị có thể dễ dãi với công việc

của mình. Chị từng quan niệm: “Tôi luôn coi văn chƣơng là ngƣời bạn chung

thủy của mình”, “Trong sáng tác, tôi không tự thần thánh mình dù đã có

những thành tựu nhất định. Tôi viết theo hứng bất chợt, không bao giờ cố ép

mình để viết. Tôi sẽ cố gắng viết một cái gì đó nếu có hứng. Nếu không thì

đành gác bút vậy”.

1.2. Sự thể hiện đề tài gia đình trong văn học Việt Nam đƣơng đại

1.2.1.Gia đình và mối quan hệ gia đình - xã hội

Theo Từ điển Tiếng Việt: “Gia đình là tập hợp ngƣời cùng sống chung

thành một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn

Nhƣ vậy, gia đình là một hình ảnh thu nhỏ cơ bản nhất của xã hội, một

nhân và dòng máu, thƣờng gồm có vợ chồng, cha mẹ và con cái” [42, 383].

tổ chức đời sống cộng đồng của con ngƣời, một thiết chế văn hóa – xã hội đặc

thù, đƣợc hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân,

quan hệ huyết thống, qua hệ nuôi dƣỡng và giáo dục... giữa các thành viên.

Gia đình là một thể chế xã hội có tính chất toàn cầu, dù rằng ở quốc gia

này, lãnh thổ kia vẫn có sự khác biệt. Ai cũng có một gia đình, thuộc về một

20

gia đình. Trong lịch sử nhân loại, gia đình hình thành từ rất sớm và trải qua

một quá trình phát triển lâu dài với các hình thức gia đình: một thế hệ, hai thế

hệ và nhiều thế hệ. Đó là nơi ta ra đi và cũng là chốn ta sẽ quay về. Hạnh

phúc hay bất hạnh lớn nhất của đời ngƣời thƣờng bắt nguồn từ đấy. Đặc biệt,

trong nền văn hoá phƣơng Đông, vai trò của gia đình đối với mỗi cá nhân vô

cùng quan trọng.

Đặc điểm nổi bật dễ thấy là gia đình không phải một cấu trúc khép kín.

Nó có mối liên hệ chặt chẽ, có mối tƣơng tác biện chứng với xã hội.

Truớc hết, cần ghi nhận sự tác động của gia đình đối với sự phát triển

của xã hội. Gia đình có vai trò rất quan trọng, là nhân tố cho sự tồn tại và phát

triển của xã hội. Gia đình nhƣ một tế bào tự nhiên, là đơn vị nhỏ nhất để tạo

nên xã hội. Vì vậy, muốn xã hội tốt thì phải xây dựng gia đình tốt. Gia đình là

cầu nối giữa cá nhân và xã hội. Mỗi cá nhân chỉ có thể sinh ra trong gia đình.

Không thể có con ngƣời sinh ra từ bên ngoài gia đình. Gia đình là trƣờng học

đầu tiên nên có ảnh hƣởng quan trọng đến sự hình thành và phát triển tính

cách của mỗi cá nhân. Và cũng chính trong gia đình, mỗi cá nhân sẽ học đƣợc

cách cƣ xử với ngƣời chung quanh và xã hội. Gia đình là tổ ấm, mang lại các

giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống mỗi thành viên, mỗi công dân của

xã hội. Gia đình là nơi nuôi dƣỡng chăm sóc những công dân tốt cho xã hội ;

giúp con ngƣời hiểu đƣợc các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống của

mỗi thành viên, mỗi công dân của xã hội. Sự hạnh phúc của gia đình là tiền đề

hình thành nên nhân cách tốt cho những thành viên của xã hội. Nhƣ vậy, gia

đình trực tiếp hoặc gián tiếp có những tác động đến xã hội.

Mặt khác, xã hội cũng có những phản hồi ngƣợc trở lại, nhất là trong

cuộc sống đƣơng đại. Gia đình không phải một thế giới khép kín. Nó chịu sự

tác động lớn của xã hội, đặc biệt trong xã hội đƣơng đại. Chúng ta biết rằng

các cá nhân không chỉ sống trong quan hệ gia đình mà còn có những quan hệ

21

xã hội. Mỗi cá nhân không chỉ là thành viên của gia đình mà còn là thành viên

của xã hội. Không thể có con ngƣời bên ngoài xã hội. Bất cứ xã hội nào cũng

thông qua gia đình để tác động đến mỗi cá nhân. Mặc khác, nhiều hiện tƣợng

của xã hội cũng thông qua gia đình mà có ảnh hƣởng tích cực hoặc tiêu cực

đối với sự phát triển của mỗi cá nhân (về tƣ tƣởng, đạo đức, lối sống).

Xã hội đƣơng đại có những bƣớc chuyển toàn diện. Xu thế công bằng,

dân chủ mà xã hội khởi xƣớng đã từng bƣớc thẩm thấu vào các quan hệ gia

đình. Phụ nữ và trẻ em, những nhân vật lâu nay vốn chịu thua thiệt đã bắt đầu

ý thức đƣợc quyền lợi của mình và đòi hỏi đƣợc tôn trọng. Hơn nữa, sự hình

thành một xã hội công dân (mọi ngƣời đều bình đẳng trƣớc pháp luật) đã cho

phép con ngƣời khi đến tuổi trƣởng thành có quyền độc lập trong giao tiếp xã

hội cũng nhƣ các giao dịch nhân sự. Ngƣời gia trƣởng (ông chủ gia đình)

không còn địa vị “đại diện duy nhất, quyền uy quyết định, sai khiến bị suy

giảm. Sự nghiệp công nghiệp hoá, đô thị hoá, hiện đại hoá đã làm thay đổi xã

hội có cơ sở là nền kinh tế tiểu nông, tự cung tự cấp. Mô hình gia đình truyền

thống đƣợc thay thế bằng gia đình hiện đại đa khuôn mẫu: gia đình nông dân -

công nhân, gia đình viên chức, gia đình doanh nhân v.v... Những lũy tre xanh,

những cổng làng cổ kính rêu phong chỉ còn là hồi ức. Trong nền kinh tế mới

phát huy chủ yếu các năng lực trí tuệ, ngƣời phụ nữ bé nhỏ của mỗi gia đình

đã tự tin hơn nhiều vì họ đã có thể có sự nghiệp riêng, có địa vị xã hội. Rõ

ràng, trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế xã hội, cùng với nam giới, ngƣời phụ

nữ Việt Nam đã vƣơn ra ngoài gia đình, có nhiều điều kiện thuận lợi để khẳng

định và phát huy tiềm năng sáng tạo, xác lập địa vị bình đẳng thực sự trong

gia đình. Có thể nói xã hội đã có những bƣớc chuyển nhƣ vũ bão.

Những cơn bão của thời đại tấn công vào từng gia đình và chúng ta đang

phải dũng cảm đối diện với nó. Nhiều điều tốt đẹp đã đƣợc nảy sinh bên cạnh

22

bao nhiêu thách thức.

Trƣớc những thay đổi của xã hội, gia đình Việt Nam đã và đang có nhiều

chuyển biến. Nhiều giá trị truyền thống có nguy cơ bị mai một, trong quan

niệm và lối sống của con ngƣời có sự biến đổi sâu sắc. Một trong số đó là sự

thay đổi mô hình từ gia đình truỳên thống tam, tứ đại đồng đƣờng sang gia

đình hiện đại hai thế hệ. Con cái có thể chủ động hơn trong công việc và các

mối quan hệ của mình, những mâu thuẫn gia đình theo kiểu gia đình truyền

thống đã ít hơn. Trong gia đình truyền thống, vai trò của nam giới đƣợc đề

cao, nhất là trong xã hội phong kiến với tƣ tƣởng “nhất nam viết hữu, thập nữ

viết vô”, ngƣời phụ nữ thƣờng bị lệ thuộc và gần nhƣ không có quyền quyết

định mọi chuyện trong gia đình. Nay xã hội hiện đại đã nâng cao vị thế của

ngƣời phụ nữ. Điều này có nhiều mặt tích cực. Ngƣời phụ nữ tích cực tham

gia các hoạt động xã hội và đƣợc ghi nhận. Tiếng nói của ngƣời phụ nữ đƣợc

cải thiện nhiều…

Bên cạnh những ƣu điểm trên, những thay đổi của gia đình hiện đại đã

đem đến nhiều hệ lụy không mong muốn. Nền kinh tế mới một mặt tạo cơ hội

cho mọi ngƣời cống hiến sáng tạo, nhƣng mặt khác lại cuốn họ vào vòng xoáy

của thị trƣờng cạnh tranh khốc liệt. Con ngƣời buộc phải bƣơn chải cật lực,

vắt kiệt sức cho cuộc mƣu sinh nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất, thời gian

họ dành cho ngôi nhà ngày càng ít ỏi. Trong cuộc chạy đua ấy, có ngƣời

nhanh kẻ chậm, ngƣời tận dụng đƣợc nhiều cơ hội bên cạnh kẻ bỏ lỡ thời cơ.

Nền văn hoá Việt Nam hiện nay đa sắc mầu, vẫn gần gũi với tâm lý, cốt cách

dân tộc nhƣng lại tiến gần hơn tới bạn bè thế giới. Văn hoá nhân loại, trƣớc

hết là văn hoá tiến bộ phƣơng Tây đã có công thức tỉnh ý thức về vai trò và

quyền lợi của cá nhân trong cộng đồng, về tính hiệu quả và lợi ích thực tế

của công việc nhƣ bình đẳng giới, quyền trẻ em, chống bạo lực gia đình…

Sự xuất hiện của những yếu tố này làm lay động xã hội gia trƣởng phụ

23

quyền từng tồn tại hàng ngàn năm trong dải đất hình chữ S. Cá tính, sự

khác biệt đã bắt đầu đƣợc tôn trọng, tiềm năng sáng tạo của mỗi con ngƣời

đƣợc giải phóng.

Bên cạnh những dấu cộng, dấu nhân quý giá lại có bao nhiêu dấu trừ,

dấu chia đầy tiếc nuối. Đôi khi sự tiếp thu văn hoá nhân loại còn ồ ạt, vội vã,

không lựa chọn. Cơn bão thời đại đã không dừng lại trƣớc cánh cửa và phía

sau kia là những lớp sóng ngầm. Có những dấu hiệu dễ nhận nhƣ quy mô, cấu

trúc, mức sống hay nề nếp sinh hoạt gia đình… nhƣng cũng có những yếu tố

rất tinh tế nhƣ văn hoá ứng xử mà không phải ai cũng thấy. Những bữa ăn

quây quần trở nên ít đi và nếu có, cũng diễn ra vội vàng vì ai cũng muốn

nhanh quay về thế giới riêng của mình với máy tính, tivi, máy nghe nhạc, điện

thoại thông minh... Gia đình đông đúc tam tứ đại đồng đƣờng dần bị thay thế

bằng những gia đình hạt nhân ít con. Mô hình gia đình ít con đã nâng cao mức

sống và điều kiện nuôi dạy trẻ song có những đứa trẻ tuy đầy đủ vật chất

nhƣng lại hụt hẫng về tinh thần. Rồi nhiều gia đình cả bố lẫn mẹ bận công

việc đã khiến họ không có nhiều thời gian dành cho con. Họ phó mặc con cái

cho ngƣời giúp việc hoặc ông bà và bù đắp cho con bằng vật chất mà không

hiểu hết hoặc có thể hiểu hết nhƣng không thể làm khác đƣợc rằng với mỗi

đứa con, tình cảm yêu thƣơng, sự chăm chút của cha mẹ đối với chúng là vô

cùng quý giá và không ai có thể thay thế đƣợc. Cũng vì không có nhiều thời

gian dành cho nhau nên khoảng cách giữa con cái và bố mẹ ngày càng xa,

những cuộc nói chuyện trở nên vội vàng, chóng vánh.

Không chỉ có vậy, xã hội còn tác động đến gia đình qua sự thay đổi ở vai

trò của từng giới. Ngƣời đàn ông phải mang những trọng trách lớn lao theo

chuẩn xƣa đồng thời lại phải bắt kịp theo những yêu cầu mới. Bởi vậy, họ vừa

phải là ngƣời “xuống Đông - Đông tĩnh, lên Đoài - Đoài yên” vừa phải mang

những chuẩn mực nam tính, nhƣ mạnh mẽ quyết đoán và nhất là đủ sức làm

24

trụ cột kinh tế... Còn ngƣời phụ nữ bên cạnh việc thực hiện nghĩa vụ giữ lửa

cho ngôi nhà vẫn phải đảm đƣơng công việc ngoài xã hội. Họ đƣợc cởi bỏ

những rào cản, có nhiều cơ hội thể hiện tài năng, thậm chí làm chủ kinh tế gia

đình và nhờ đó nâng cao địa vị bình đẳng với chồng. Ngƣời phụ nữ kém cỏi

có thể bị chồng chê nhƣng định kiến giới cũng khiến bao nhiêu ngƣời phụ nữ

thành đạt không có hạnh phúc. Có thể thấy, mọi quan hệ trong gia đình hiện

đại đều đang biến đổi theo hƣớng cá tính hoá ngày càng sâu sắc.

Xã hội còn tác động đến gia đình qua sự thay đổi trong mối quan hệ

vợ chồng. Xƣa kia ngƣời ta thƣờng phân biệt: tình yêu trai gái, tình nghĩa

vợ chồng. Khi đã lấy nhau, chữ nghĩa gắn với trách nhiệm đƣợc đề cao

hơn chữ tình vốn gắn với cảm xúc... Ngƣời ta, nhất là phụ nữ - tìm kiếm

hạnh phúc trong sự hy sinh vì ngƣời khác, đặc biệt vì con cái. Còn ngày

nay, tình yêu đôi lứa đƣợc đề cao. Dù biết con trẻ sẽ bị thiệt thòi khi gia

đình tan vỡ, nhƣng khi hạnh phúc lứa đôi không còn, nhiều ngƣời vẫn sẽ

quyết liệt chia tay. Thật xót xa khi nhìn thấy sự xuất hiện ngày càng nhiều

những vụ ly hôn. Gia đình là chỗ dựa về tinh thần và vật chất cho mỗi

thành viên, là tổ ấm nơi các em bé đƣợc chăm sóc, nuôi dƣỡng. Nhƣng

khi nó bị đổ vỡ thì những con chim non biết tránh vào đâu trong cơn mƣa

bão? Những đứa trẻ lẽ ra phải đƣợc học hành, đƣợc vui chơi, đƣợc yêu

thƣơng âu yếm đƣợc vỗ về với đôi bàn tay thân thƣơng của cha mẹ thì

lang thang không chỗ dựa, không tình thƣơng, phải nếm trải những lo

toan nhọc nhằn của cuộc sống hoặc đủ đầy về vật chất nhƣng bơ vơ, lạc

lõng thiếu sự quan tâm. Gia đình là bức tƣờng vững chắc nhƣng gia đình

không hoàn thiện đã tạo ra những số phận éo le. Nhƣ vậy, trƣớc biến động

của xã hội bão đã không dừng lại trƣớc cánh cửa của những ngôi nhà...

1.2.2. Đề tài gia đình trong văn học Việt Nam

Văn học chân chính luôn hƣớng ngƣời ta đến những giá trị Chân, Thiện,

25

Mĩ. Và để đạt đƣợc điều ấy, dƣờng nhƣ nó phải xuất phát từ những rung động

của trái tim thiết tha với con ngƣời, với cuộc đời. Chính vì vậy, không có gì

ngạc nhiên khi gia đình trở thành đề tài quan trọng trong văn chƣơng, đặc biệt

là văn chƣơng đƣơng đại. Thực ra, không phải đến cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ

XXI văn học mới đề cập đến gia đình mà đề tài này đã đƣợc nhắc đến trong

văn học xƣa.

1.2.2.1. Đề tài gia đình trong văn học dân gian (qua ca dao và

truyện cổ tích)

Từ xa xƣa trong những bài ca dao, những câu chuyện cổ tích, đề tài gia

đình đã đƣợc nhắc đến khá nhiều. Những tình cảm gần gũi thân thƣơng về gia

đình hiện lên thật đẹp trong những câu hát ngọt ngào sâu lắng bà của mẹ. Đó

là sự ngợi ca, đề cao tình cha - con, mẹ - con:

- Công cha nhƣ núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ nhƣ nƣớc trong nguồn chảy ra

- Ơn cha nặng lắm ai ơi

Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cƣu mang

Nghĩa vợ - chồng:

Chồng em áo rách em thƣơng

Chồng ngƣời áo gấm xông hƣơng mặc ngƣời

Sự hiếu lễ, ghi nhớ công lao của cháu con với ông bà, cha mẹ:

Ngó lên nuộc lạt mái nhà

Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu

Viết về các chủ đề khác nhau với nội dung phong phú song các sáng tác

dân gian quan tâm đến nhiều đối tƣợng trong gia đình từ trẻ em đến ngƣời lớn

(nhân vật nam lẫn ngƣời phụ nữ) với những mức độ và cách thức khác nhau.

Có lẽ, ngƣời phụ nữ là đối tƣợng đƣợc phản ánh nhiều nhất trong các

26

sáng tác văn học dân gian.

Trong truyện cổ tích, ngƣời phụ nữ cũng đƣợc nhắc đến nhƣ cô Tấm

(Tấm Cám), cô Út (Sọ Dừa), ngƣời vợ của anh học trò nghèo (Lấy vợ cóc)…

Tuy nhiên, với đặc trƣng là giấc mơ đẹp của ngƣời xƣa về công bằng, hạnh

phúc cho những ngƣời bất hạnh; truyện cổ tích có những nhân vật chức năng

với sự phân tuyến rạch ròi giữa Thiện và Ác, Tốt và Xấu. Nhân vật nữ đại

diện cho lý tƣởng tốt đẹp của nhân dân thƣờng có số phận bi thảm, tiêu biểu

cho ngƣời dân “thấp cổ bé họng”. Đó là những kẻ mồ côi, bị tƣớc đoạt các

quyền lợi, thậm chí phải chết đi sống lại nhiều lần. Mặc dầu vậy, ở họ vẫn

sáng ngời những phẩm chất truyền thống tốt đẹp: nhân hậu, thƣơng ngƣời,

chăm chỉ, hiền dịu, nết na… Họ phải trải qua nhiều khó khăn thử thách nhƣng

cuối cùng bao giờ cũng đƣợc hạnh phúc mỉm cƣời. Sau bao lần bị hãm hại, cô

Tấm hồi sinh xinh đẹp hơn xƣa (Tấm Cám); cô Út nhờ những vật dụng Sọ

Dừa tặng đã chui ra khỏi đƣợc bụng cá và đoàn tụ với chồng (Sọ Dừa); ngƣời

vợ của anh học trò nghèo trở nên xinh đẹp muôn phần sau khi trút bỏ lốt cóc

xấu xí…Nhƣ vậy, mặc dù có nhắc đến các nhân vật nữ nhƣng truyện cổ tích

không đi sâu vào phản ánh tâm sự, nỗi niềm của họ mà chỉ sử dụng nhƣ

những nhân vật chức năng trong việc thể hiện khát vọng công bằng và lý

tƣởng chính nghĩa.

Hình ảnh ngƣời phụ nữ trong ca dao đã trở nên sinh động và phong phú

hơn nhiều. Tác giả dân gian đã đặc biệt quan tâm đến thân phận ngƣời phụ nữ

với tiếng nói khẳng định, cảm thông và bênh vực. Trƣớc hết, đó là tiếng nói

của sự đề cao, ngợi ca vẻ đẹp bề ngoài lẫn phẩm chất bên trong. Ngƣời phụ

nữ trong ca dao xƣa hiện lên với vẻ đẹp truyền thống kín đáo, ý nhị:

Miệng cƣời nhƣ thể hoa ngâu

Cái khăn đội đầu nhƣ thể hoa sen

Không chỉ vậy, họ còn có tình yêu say đắm, thủy chung son sắt:

- Thuyền về có nhớ bến chăng

27

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền

- Em nghe anh đau đầu chƣa khá

Em băng đồng chỉ sá hái ngọn lá cho anh xông

Ƣớc chi nên đạo vợ chồng

Đổ mồ hôi thì em quạt, ngọn gió lồng thì em che

Lẽ ra với những phẩm chất tốt đẹp ấy, ngƣời phụ nữ xứng đáng có

một cuộc sống hạnh phúc, ấm êm. Nhƣng thật trớ trêu, xã hội phong kiến

lại vùi dập, đẩy họ đến những tình cảnh bi thƣơng, những nỗi niềm không

thể chia sẻ cùng ai:

Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều

Đặc biệt, hầu hết các bài ca dao than thân có mô típ mở đầu bằng từ

“thân em” là tiếng nói cảm thƣơng cho những ngƣời phụ nữ bị lệ thuộc,

không có quyền quyết định cuộc sống của mình:

- Thân em nhƣ trái bần trôi

Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu

- Thân em nhƣ tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

- Thân em nhƣ giếng nƣớc giữa đàng

Ngƣời khôn rửa mặt ngƣời phàm rửa chân

- Thân em nhƣ hạt mƣa sa

Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày

Nhƣ vậy, ca dao là tiếng lòng của ngƣời xƣa bênh vực ngƣời phụ nữ.

Tuy nhiên, nó mới chỉ dừng lại ở sự giãi bày nỗi niềm để thể hiện sự đồng

cảm sẻ chia. Ngƣời phụ nữ hiện lên thật nhỏ bé, yếu đuối trƣớc những lễ giáo,

trƣớc tƣ tƣởng nam quyền của xã hội phong kiến.

Ở những mức độ khác nhau, văn học dân gian đã phản ánh những tâm tƣ

28

xúc cảm của con ngƣời, chú trọng đề cao gia đình và những mối quan hệ tốt

đẹp trong gia đình. Các tác giả dân gian cũng quan tâm đến thế giới tinh thần

của mọi ngƣời, đặc biệt là ngƣời phụ nữ với niềm cảm thƣơng sâu sắc. Điều

này càng khẳng định vai trò và ý nghĩa to lớn không thể thay thế đƣợc của gia

đình trong cuộc sống của mỗi con ngƣời. Tuy nhiên, trong văn học dân gian,

gia đình chƣa phải là vấn đề mang tính chủ đạo, xuyên suốt.

1.2.2.2. Đề tài gia đình trong văn học trung đại Việt Nam

Văn học là một bộ phận không thể tách rời của văn hóa. Bất kì một tác

phẩm văn học nào cũng thể hiện con ngƣời và hoạt động của nó trong không

gian và thời gian xác định. Chiến thắng Bạch Đằng (938) chấm dứt hơn nghìn

năm Bắc thuộc, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc. Văn học viết Việt Nam

chính thức đƣợc ghi nhận. Là ngƣời thƣ ký trung thành của thời đại, văn học

luôn là sự phản ánh hiện thực cuộc sống. Tùy đặc điểm lịch sử - xã hội của

từng giai đoạn mà văn học có những đối tƣợng thẩm mĩ phù hợp nhƣng nhìn

chung, đề tài gia đình là một trong những nội dung đƣợc quan tâm của văn

học viết. Nó xuất hiện manh nha từ giai đoạn trung đại và nở rộ ở cuối thế kỉ

XX đầu thế kỉ XXI.

Trƣớc hết ở văn học trung đại. Yêu nƣớc và nhân đạo là hai sợi chỉ đỏ

xuyên suốt trong văn học trung đại Việt Nam nói riêng và văn học Việt Nam

nói chung. Qua từng giai đoạn lịch sử vai trò của các yếu tố này có những

thay đổi phù hợp. Văn ho ̣c Lý – Trần (từ thế kỉ X đến thế kỉ XV) là thời kỳ văn ho ̣c chính thức mở đầu , có nhiệm vụ khai phá , mở đƣờ ng cho văn ho ̣c Viê ̣t Nam kể tƣ̀ sau khi nƣớ c nhà giành la ̣i đô ̣c lâ ̣p . Nền văn ho ̣c này kế thƣ̀ a nhƣ̃ng gì đã có tuy chƣa nhiều củ a văn ho ̣c thai nghé n trong thờ i Bắc thuô ̣c . Tƣ̀ bƣớ c mở đầu này , nó tự xác định cho mình một trách nhiệm cao cả mà

lịch sử đã giao phó là góp phần tích cực vào sự nghiệp dựng nƣớc và giữ

29

nƣớ c. Do ảnh hƣởng của tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo, thơ thời Lý còn đƣợc gọi là thơ Thiền. Theo đó, các tăng lữ là lực lƣợng sáng tác chủ yếu thời bấy

giờ. Chất liệu hiện thực đƣợc miêu tả trong thơ là một cách trình bày triết lí.

Những bài kệ của các thiền sƣ không chỉ đơn thuần là những lời thuyết pháp

mà còn là cách nhìn nhận tích cực với cuộc sống. Văn học thời Trần lại là sự

khẳng định của Nho giáo mang cảm hứng hào hùng trƣớc thời đại cũng nhƣ

những nỗi niềm, tâm sự của cá nhân (Văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí). Nó

mang những hoài bão chí hƣớng lập thân lập nghiệp của các nho sĩ trên con

đƣờng công danh. Cảm hứng chủ đạo trong văn học thời Trần là yêu nƣớc với

âm hƣởng hào hùng, với hào khí Đông A sục sôi. Giai đoạn này, gia đình với

những vai trò và ý nghĩa của nó chƣa phải là đối tƣợng của văn học.

Phải sang đến giai đoạn nửa đầu XVIII, những nỗi niềm, cảm xúc, thân

phận của con ngƣời (đặc biệt là ngƣời phụ nữ) mới đƣợc văn học thật sự chú

ý. Văn học là phƣơng tiện để bênh vực con ngƣời và những khát vọng hạnh

phúc chính đáng. Nguyễn Gia Thiều trong Cung oán ngâm khúc đã cảm

thƣơng cho thân phận những ngƣời phụ nữ tài sắc lúc đầu đƣợc nhà vua yêu

chuộng, ái ân hết sức nồng nàn thắm thiết nhƣng chẳng bao lâu đã bị ruồng

bỏ. Ở trong cung, xót thƣơng cho thân phận mình và oán trách nhà vua phụ

bạc, nàng khát khao muốn "đạp tiêu phòng mà ra" để trở về với cảnh đời "cục

mịch nhà quê", nhƣng chung quanh nàng vẫn là bức tƣờng lạnh lẽo với sự đợi

chờ trong tuyệt vọng. Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm

là nỗi khổ, sự cô đơn buồn tủi tâm sự của một ngƣời vợ có chồng tham gia

cuộc chiến do triều đình phong kiến chủ xƣớng. Nữ sĩ Xuân Hƣơng là tiếng

nói phản kháng mạnh mẽ khẳng định cái tôi và khát vọng đổi phận “Ví đây

đổi phận làm trai đƣợc – Thì sự anh hùng há bấy nhiêu”… Và đặc biệt, bằng

trái tim yêu thƣơng và cảm thông sâu sắc, đại thi hào Nguyễn Du đã lớn tiếng

bênh vực cho ngƣời phụ nữ qua Truyện Kiều, Văn tế thập loại chúng sinh,

Độc Tiểu Thanh kí, Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu… Nhƣ vậy, cái tôi cá

30

nhân, nhất là của ngƣời phụ nữ với thế giới cảm xúc phức tạp đã đƣợc văn

học trung đại chú ý hơn. Tuy nhiên, các mối quan hệ giữa những thành viên

trong gia đình, số phận của gia đình trong dòng chảy xã hội vẫn còn là khoảng

trống văn học thời bấy giờ.

1.2.2.3. Đề tài gia đình trong văn học hiện đại Việt Nam

Những năm ba mƣơi của thế kỷ XX, các nhà văn Tự lực Văn đoàn đã

khai thác rất thành công đề tài gia đình. Những tác phẩm hay nhất, có nhiều

đóng góp nhất cho nền văn học nƣớc nhà của họ là những tác phẩm đấu tranh

giải phóng cá nhân, đấu tranh cho tự do hôn nhân, cho quyền sống của ngƣời

phụ nữ chống lại sự ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến. Có thể kể tên

một số tác phẩm nhƣ: Hồn bướm mơ tiên (1933), Nửa chừng xuân (1934),

Thoát ly (1937), Đoạn tuyệt (1934), Lạnh lùng (1936)... Qua tác phẩm của

mình, các nhà văn Tự lực văn đoàn muốn bày tỏ tiếng nói khẳng định khát

vọng cá nhân, đề cao tự do yêu đƣơng, tự do kết hôn, đề cao tự do, bình

đẳng và dân chủ. Trong Nửa chừng xuân, Khái Hƣng cổ súy cho tự do cá

nhân trong yêu đƣơng nam nữ. Tình yêu là “không gian” điển hình của tự

do. Thiên truyện đã mạnh mẽ nêu lên tính chất phi nhân của những mƣu

toan và hành động xâm phạm tự do cá nhân con ngƣời. Quyền tự do của

con ngƣời, mà ở đây là đƣợc yêu và kết hôn với ngƣời mình yêu, đã bị xâm

phạm bởi bà Án, ngƣời nhân danh là mẹ, có quyền định đoạt số phận của

Lộc, con trai bà. Bà cũng đã nhân danh một dòng họ để đòi Mai phải trả

đứa cháu nối dõi tông đƣờng, tƣớc quyền làm mẹ của một ngƣời phụ nữ. Ở

Đoạn tuyệt, Nhất Linh mạnh mẽ lên án lề thói cổ hủ: hôn nhân không có

tình yêu (cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, gả cƣới theo môn đăng hộ đối), địa

vị thấp kém của ngƣời phụ nữ trong gia đình nhà chồng (mẹ chồng hà khắc

nàng dâu; sinh con cho nhà chồng có kẻ nối dõi tông đƣờng) và đề cao

31

quyền tự do yêu đƣơng của con ngƣời.

Nhƣ vậy đề tài gia đình đã đƣợc đề cập ở khía cạnh lên tiếng bênh vực

cho ngƣời phụ nữ và quyền tự do dân chủ. Song với khía cạnh này, đề tài

gia đình chƣa mang tính hệ thống, mới chỉ xuất hiện ở một bộ phận sáng

tác mà thôi.

Sau Cách mạng Tháng Tám, đất nƣớc trải qua hai cuộc chiến chống thực

dân Pháp và đế quốc Mỹ giải phóng dân tộc. Lúc này những vấn đề riêng tƣ

tạm thời gác lại, vận mệnh đất nƣớc đƣợc đặt lên hàng đầu. Nhiệm vụ chủ yếu

của văn học nghệ thuật là phục vụ công cuộc kháng chiến kiến quốc, cổ vũ

chiến đấu. Các nhà văn trở thành ngƣời chiến sĩ sử dụng vũ khí văn chƣơng

phục vụ cách mạng. Họ không ngần ngại hoà mình vào cuộc sống công - nông

- binh, ca ngợi nhân dân, ca ngợi anh bộ đội, ca ngợi những chiến công vang

dội của dân tộc... Đề tài tình yêu - hôn nhân- gia đình đƣợc gác lại. Bởi vậy,

những vấn đề - hôn nhân - gia đình dƣờng nhƣ không đƣợc đề cập nhƣ một

mảng lớn trong văn học cách mạng Việt Nam 1945 – 1975.

Sau đại thắng mùa xuân 1975, đất nƣớc hoàn toàn độc lập, thống nhất là

bƣớc ngoặt lớn đối với dân tộc nói chung và văn học nói riêng. Văn học mang

cảm hứng ngợi ca chiến tranh cách mạng. Sau Đại hội Đảng VI (1986), trong

làn gió đổi mới, các văn nghệ sĩ đã “cởi trói” và tự do sáng tác. Lúc này,

khuynh hƣớng sử thi, cảm hứng lãng mạn đƣợc thay thế bằng cảm hứng đạo

đức - thế sự. Con ngƣời sử thi trong văn học trƣớc năm 1975 đƣợc thay thế

bằng con ngƣời nếm trải. Đề tài, chủ đề không còn bó hẹp, thiên về khai thác

các vấn đề liên quan đến những nhiệm vụ chính trị mà đƣợc mở rộng từ đề tài

gia đình, thân phận tình yêu, số phận con ngƣời đến chiến tranh cách mạng,

sản xuất xây dựng... Các mặt trái, góc khuất, phần chìm của hiện thực cuộc

sống đƣợc các nhà văn thể hiện một cách sinh động và thuyết phục. Chƣa bao

giờ đề tài gia đình lại nhận đƣợc sự quan tâm của đông đảo giới cầm bút nhƣ

32

vậy. Từ các thế hệ nhà văn đã thành danh trong văn học cách mạng Việt Nam

trƣớc 1975 đến các thế hệ cầm bút trƣởng thành sau 1975, thậm chí có những

ngƣời còn rất trẻ, tuổi mới ngoài hai mƣơi đều có tác phẩm viết về đề tài gia

đình. Hơn nữa, đề tài gia đình không chỉ xuất hiện trong tiểu thuyết, truyện

ngắn mà còn xuất hiện cả trong tản văn. Văn học thời kỳ này xuất hiện với

mật độ dày đặc tác phẩm viết về đề tài gia đình hoặc có liên quan đến vấn đề

gia đình nhƣ Mùa lá rụng trong vườn, Nợ đời, Nhan sắc đàn bà, Cỏ dại... (Ma

Văn Kháng); Cha và con và..., Một cõi nhân gian bé tí (Nguyễn Khải); Thời

xa vắng, Hai nhà, Sóng ở đáy sông (Lê Lựu); Bến không chồng (Dƣơng

Hƣớng); Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh); Tướng về hưu, Tâm hồn mẹ

(Nguyễn Huy Thiệp); Phố, Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Một nửa cuộc đời, Mi-

nu xinh đẹp, Nước mắt đàn ông, Hậu thiên đường (Nguyễn Thị Thu Huệ)...

Trong đó có nhiều tác phẩm xuất sắc, đạt các giải thƣởng cao của Hội Nhà

văn và để lại nhiều dƣ âm trong lòng độc giả.

Các tác phẩm viết về đề tài gia đình trong văn học Việt Nam sau 1975 đã

đi sâu khai thác các mối quan hệ phức tạp, đa chiều của gia đình Việt Nam

trong thời mở cửa. Cuộc sống cá nhân trong mối quan hệ với gia đình và xã

hội trở thành mối quan tâm hàng đầu của các nhà văn. Một trong những vấn

đề đƣợc khá nhiều nhà văn quan tâm là gia đình Việt Nam trƣớc thách thức

của nền kinh tế thị trƣờng. Quan niệm “một túp lều tranh hai trái tim vàng”

một thời đƣợc coi là lý tƣởng trở nên chông chênh trƣớc lối sống thực dụng,

chạy theo đồng tiền, coi trọng vật chất. Trong Phố, Chu Lai đƣa ngƣời đọc

đến với tình cảnh của Thảo và Nam. Tình yêu của họ đƣợc thử thách nơi hòn

tên mũi đạn và ngàn ngày đằng đẵng xa nhau. Hạnh phúc tƣởng nhƣ ở trong

tầm tay khi Thảo “nguyên vẹn” trở về, tiền bạc dồi dào, nhà cao cửa rộng, đời

sống sung túc. Nhƣng sóng gió lại xuất hiện. Bi kịch đã giáng xuống gia đình

họ khi Thảo bỏ mạng nơi biển Sầm Sơn một ngày dông gió trong chuyến

33

“pích níc” với tình nhân, Nam điên loạn, phẫn uất khi nhận ra mình bị phản

bội, bé Niên Thảo quặn nỗi đau mất mẹ và hứng chịu những cơn thịnh nộ của

bố. Hạnh phúc gia đình tan vỡ. Những tháng ngày ở trời Tây cho Thảo tiếp

xúc với cuộc sống mới. Trong chị đã có nhiều đổi thay: quan niệm về thẩm

mỹ, về hạnh phúc, về giá trị cuộc sống... trong khi Nam vẫn khƣ khƣ giữ nếp

xƣa. Nhƣ vậy, giữa họ đã có độ chênh. Những điều tƣởng chừng nhỏ nhặt ấy

đã bào mòn, phá hủy hạnh phúc gia đình.

Trong sáng tác của Lê Lựu, những tác phẩm viết về đề tài gia đình hoặc

có liên quan đến vấn đề gia đình thƣờng kết thúc bằng những bi kịch, những

đổ vỡ. Nguyên nhân chủ yếu do sự cách biệt về quan niệm sống, về cách ứng

xử, các mối quan hệ trong giao tiếp và đặc biệt hôn nhân không xuất phát từ

tình yêu giữa ngƣời vợ và ngƣời chồng. Có thể thấy rõ điều này ở Thời xa

vắng. Dƣới góc độ hôn nhân - gia đình, vấn đề tình yêu và hạnh phúc gia đình

luôn là nỗi trăn trở, day dứt khôn nguôi. Cuộc đời Giang Minh Sài là một

chuỗi ngày đắng cay, chua xót với những bi kịch và sự đổ vỡ đau đớn của hôn

nhân. Ở tác phẩm khác (Hai nhà), Lê Lựu còn khám phá những góc khuất

khác của gia định hiện đại, giúp ngƣời đọc thấy con ngƣời không đơn giản

nhƣ những gì biểu hiện ở vẻ bề ngoài. Các nhân vật nữ (Linh Anh, Mỹ Nhân)

là những con ngƣời hai mặt. Bề ngoài là những ngƣời duyên dáng, lịch thiệp,

tế nhị, mẫu mực, hết lòng yêu chồng, thƣơng con nhƣng bên trong lại chứa

đựng bản chất ích kỷ, giả dối, lăng loàn. Còn những ông chồng là những kẻ

nhu nhƣợc thiếu bản lĩnh, tận tuỵ phục vụ vợ con nhƣng lại bị coi thƣờng. Gia

đình vì thế chỉ là sự “gá buộc”, chỉ thật sự tồn tại trên giấy tờ mà thôi.

Nói về tình yêu – gia đình, khát vọng hạnh phúc, nhiều tác phẩm văn học

Việt Nam sau 1975 đã mạnh dạn đề cập đến vấn đề tình yêu - tình dục. Ta có

thể thấy điều này trong các sáng tác của Y Ban, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn

Ngọc Tƣ… Trong Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tƣ, cuộc đời nổi

34

nênh với đàn vịt thả trên những cánh đồng bất tận đã giúp ngƣời đàn ông

“nhặt” đƣợc cô gái xinh đẹp “có cái cƣời lấp lánh cả khúc sông” về làm vợ

nhƣng rồi chính cuộc đời nghèo đói, túng thiếu đó đã không giữ đƣợc ngƣời

đàn bà xinh đẹp ở lại với ông. Vì muốn khoác “những khúc vải rực rỡ lên

ngƣời” chị bỏ chồng, bỏ con dứt áo ra đi. Quả thật, lấy chồng, có con đối với

ngƣời đàn bà này “chỉ quá giang một khúc đời rồi đi” chứ chẳng phải yêu

đƣơng, ăn đời ở kiếp. Khi mất vợ, ngƣời đàn ông nhƣ điên dại thiêu trụi ngôi

nhà, lang thang trên những cánh đồng bất tận để trả thù đời. Nạn nhân của

ông là hai đứa trẻ và những ngƣời đàn bà vô tội. Ông trút hận lên đầu những

ngƣời phụ nữ nhẹ dạ, cả tin vì họ là đàn bà.

Nhƣ vậy, càng về gần đây, gia đình trở thành mối quan tâm đặc biệt

của văn học. Những mối quan hệ phức tạp, những tâm tƣ tình cảm của các

thành viên trong gia đình trở thành đối tƣợng quan tâm của văn học, nhất là

35

truyện ngắn.

CHƢƠNG 2: GIA ĐÌNH HIỆN ĐẠI QUA CÁI NHÌN MANG

MÀU SẮC NỮ QUYỀN TRONG TRUYỆN NGẮN BA TÁC GIẢ

2.1. Vấn đề nữ quyền và ý thức nữ quyền trong sáng tác của Trần

Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ

2.1.1. Vấn đề nữ quyền và văn học nữ quyền

Từ những thập niên đầu thế kỷ XX, ở phƣơng Tây, nữ quyền đã nhận

đƣợc sự quan tâm của xã hội. Trong văn học nghệ thuật, việc nghiên cứu, phê

bình nữ quyền bắt đầu thịnh hành từ cuối thập niên 60 của thế kỷ trƣớc và trở

thành một trong những khuynh hƣớng chính, phát triển mạnh mẽ từ nửa cuối

thế kỷ XX. Phê bình nữ quyền luận, một mặt, nhƣ một nỗ lực lý thuyết hoá

các phong trào tranh đấu cho nữ quyền rầm rộ trong xã hội Tây phƣơng lúc

bấy giờ; mặt khác, nhƣ một bƣớc phát triển mới những phát hiện táo bạo của

hai nhà văn nữ nổi tiếng khá lâu trƣớc đó: Virginia Woolf và Simone de

Beauvoir. Kế thừa và phát huy những lý thuyết của họ, các nhà nữ quyền luận

sau này đã có những quan điểm chung. Thứ nhất, tất cả những cái gọi là chủ

thể tính, bản ngã và bản sắc, bao gồm cả bản sắc của nữ giới – thƣờng đƣợc

gọi là nữ tính – không phải là những gì tất định và bất biến, hay nói nhƣ

Beauvoir, “ngƣời ta không sinh ra là phụ nữ, ngƣời ta trở thành phụ nữ.” Thứ

hai, cơ chế tiêu biểu nhất trong việc đàn áp phụ nữ chính là nền văn hoá phụ

quyền. Thứ ba, nhiệm vụ của các cây bút nữ không phải chỉ là chống lại mọi

hình thức áp chế của nam giới mà còn phải cố gắng xác định một thứ mỹ học

riêng của nữ giới, từ đó, thiết lập nên những điển phạm riêng, và cuối cùng,

xây dựng những tiêu chí riêng trong việc cảm thụ và đánh giá các hiện tƣợng

văn học. Từ cuối thế kỉ XX, ở những nƣớc phƣơng Tây phê bình nữ quyền đã

hình thành một hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh, bao gồm nhiều nhánh nghiên

36

cứu theo các khuynh hƣớng khác nhau.

Trong vài thập kỉ trở lại đây, nữ quyền đƣợc giới thiệu ở Việt Nam đã

tác động mạnh mẽ đến nhận thức cũng nhƣ hệ tƣ tƣởng của các nhà văn,

đƣa đến sự chuyển động mạnh mẽ của dòng văn học nữ và đƣợc đánh dấu

bằng sự xuất hiện ồ ạt, rầm rộ và đồng loạt của các cây bút nữ. “Văn học

đang mang gƣơng mặt nữ ngày càng trắc ẩn và khoan dung, ngày càng tinh

tế và đằm thắm”

Tuy nhiên, mầm mống văn học nữ quyền đã xuất hiện từ xƣa trong văn

học trung đại. Bị chi phối bởi ý thức hệ tƣ tƣởng phong kiến trọng nam khinh

nữ, văn học trung đại chủ yếu là tiếng nói yêu nƣớc thiết tha, là phƣơng tiện

để chuyển tải ý chí, quan niệm về cuộc sống… của các trang nam nhi. Tuy

nhiên, ngay trong xã hội nam quyền ấy ngƣời ta đã ghi nhận sự trỗi dậy của

văn học nữ quyền, đặc biệt trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế

kỷ XIX. Đó là sự xuất hiện của những nữ sĩ tài danh: Đoàn Thị Điểm, Bà

Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hƣơng với tiếng thơ lay động lòng ngƣời. Đó

còn là sự lên tiếng của những trang nam nhi cảm thông thƣơng xót cho nỗi

niềm của ngƣời phụ nữ: Nguyễn Gia Thiều (Cung oán ngâm khúc), Nguyễn

Du (Truyện Kiều). Có lẽ mầu sắc nữ quyền đƣợc thể hiện rõ nhất trong những

sáng tác của bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hƣơng. Nhắc đến Hồ Xuân Hƣơng,

ta nghĩ đến một cá tính độc đáo, một bản lĩnh khác thƣờng, một "kỳ nữ" (theo

cách gọi của Xuân Diệu). Ở thời mà giang sơn của những phụ nữ Việt chỉ

quẩn quanh nơi buồng the, bếp núc thì Hồ Xuân Hƣơng lại muốn là con ngƣời

của trời đất bốn phƣơng, lui tới biết bao thắng cảnh Bắc Việt. Bà là ngƣời

thông minh, ham thích giao lƣu bạn bè, song đƣờng tình duyên gặp nhiều éo

le, ngang trái. Thế giới nội tâm trong thơ nữ sĩ khởi nguồn từ thân phận hai

lần lấy chồng thì cả hai đều phải làm lẽ và chịu cảnh goá bụa của bà. Có lẽ vì

thế mà những nỗi buồn, sự đơn côi và tấn bi kịch, những khát khao không

37

đƣợc thoả nguyện, những cảnh ngộ trớ trêu, thậm chí đắng cay chua chát…

đƣợc Hồ Xuân Hƣơng thể hiện một cách thấm thía và đầy cá tính. Đặc biệt,

nữ sĩ khẳng định mạnh mẽ cái "tôi", thể hiện niềm cảm thông sâu sắc với nỗi

khổ của những ngƣời đàn bà phải lấy lẽ, phải chịu cảnh goá bụa, cô đơn. Vì lẽ

đó, Xuân Hƣơng quyết đứng ra minh oan chiêu tuyết cho những cô gái

"không chồng mà có chửa", đồng thời lên án nghiêm khắc những kẻ bạc tình,

những tên sở khanh, những hạng vũ phu thô bỉ. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ Việt

Nam trong thơ Hồ Xuân Hƣơng không những đƣợc đặt ngang hàng mà đặt lên

trên cả đấng mày râu.

Mảnh đất ƣơm mầm cho văn học nữ tính phát triển màu mỡ hơn phải kể

đến những sóng gió lịch sử cùng bão táp cách mạng suốt thế kỷ XX. Làn gió

phƣơng Tây tràn đến và len lỏi vào mọi ngóc ngách của xã hội và văn hóa

Việt Nam. Một số ngƣời đã bắt đầu bàn đến vai trò của phụ nữ và đòi sự bình

quyền cho họ. Với hàng loạt tác phẩm của mình, các nhà văn Tự lực Văn

đoàn đã có nhiều đóng góp cho phong trào đấu tranh giải phóng, đấu tranh

cho tự do hôn nhân, cho quyền sống của ngƣời phụ nữ chống lại sự ràng buộc

khắt khe của lễ giáo phong kiến; lên án mạnh mẽ hôn nhân không có tình yêu,

địa vị thấp kém của ngƣời phụ nữ trong gia đình nhà chồng và đề cao quyền

tự do yêu đƣơng của con ngƣời… Vẻ đẹp thể chất và những khát khao thân

xác cũng bắt đầu đƣợc các nhà văn lãng mạn chú ý miêu tả. Ở góc nhìn khác,

các cây bút hiện thực phê phán lại chú ý nhiều hơn đến khía cạnh đấu tranh xã

hội. Nhân vật nữ trong các tác phẩm này hiện lên thật khổ sở, đáng thƣơng.

Đó thƣờng là những nạn nhân, là hậu quả sự nghèo đói và dốt nát. Họ hoặc là

bị đẩy vào thế cùng quẫn và suýt bị làm nhục (chị Dậu - Tắt đèn), bị dụ dỗ để

hãm hiếp (Thị Mịch - Giông tố); hoặc sống trong cảnh chịu ơn nhƣ “con chó

trung thành với chủ nuôi” (Từ – Đời thừa). Tuy nhiên, vì với mục đích thể

hiện xung đột giai cấp, văn học hiện thực phê phán tập trung miêu tả sự tha

38

hóa và méo mó của nhân cách nhiều hơn là vấn đề phái tính.

Sau năm 1945, với sự ra đời của Hội Phụ nữ Việt Nam, vai trò của phụ

nữ đặc biệt đƣợc đề cao. Đây là tiền đề thuận lợi để “văn học nữ tính” có cơ

hội phát triển. Đội ngũ các nhà văn nữ cầm bút đông đảo hơn. Nhiều tác phẩm

của họ có tiếng vang và nhận đƣợc nhiều tình cảm của độc giả. Điều này thể

hiện sự thay đổi rất lớn về ý thức phái tính và thái độ đề cao vai trò của nữ

giới. Ngƣời đọc bắt gặp trong các sáng tác văn học những hình ảnh phụ nữ

thật đẹp. Họ là những anh hùng tiêu biểu cho vẻ đẹp của thời đại nhƣ chị Út

Tịch (Người mẹ cầm súng - Nguyễn Thi), chị Sứ (Hòn đất- Anh Đức), Nguyệt

(Mảnh trăng cuối rừng - Nguyễn Minh Châu), chị Trần Thị Lý (Người con

gái Việt Nam - Tố Hữu)… Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu của lịch sử lúc bấy

giờ, đời sống tinh thần của nữ giới mới đƣợc khai thác nhiều ở khía cạnh xã

hội mà chƣa đƣợc chú ý nhiều đến đặc trƣng về giới. Những suy nghĩ cảm

xúc thầm kín chƣa đƣợc chú ý thể hiện. Nhƣ vậy, vấn đề phái tính và âm

hƣởng nữ quyền trong giai đoạn 1945 -1975 đã đƣợc chú ý nhƣng chƣa trở

thành mối quan tâm thật sự của nhà văn với tƣ cách là ngƣời thiết tạo nên

những tƣ tƣởng nghệ thuật riêng.

Xã hội đạt đến một trình độ dân chủ thực sự, thoát khỏi hệ quy chiếu giá

trị và quan điểm nam quyền đã khiến nền văn học nữ tính xuất hiện đầy đủ

với đúng nghĩa của nó. Ngƣời phụ nữ đã tham gia nhiều hơn vào các hoạt

động xã hội. Nhƣng quan trọng hơn, ý thức về giới một cách tự giác đã ăn sâu

vào tâm thức của đội ngũ cầm bút và tạo nên âm hƣởng nữ quyền trong văn

học, gọi là “văn học nữ tính”.

Văn học Việt Nam sau năm 1986 chứng kiến sự trỗi dậy mạnh mẽ và

mang dấu ấn riêng biệt của văn học nữ quyền đến mức có nhà nghiên cứu cho

rằng đây là thời kì “âm thịnh dƣơng suy”. Có thể kể đến sự góp mặt của

39

những gƣơng mặt nữ sắc sảo, bản lĩnh, đầy cá tính nhƣ Phạm Thị Hoài, Lê

Minh Khuê, Võ Thị Hảo, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ… và gần

đây là Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thƣ, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Thị Ngọc

Tƣ… Họ, với sức sống và nội lực sáng tạo mạnh mẽ, đã làm nên những đột

phá chƣa từng thấy trong nền văn học dân tộc. Những cây bút này đã đem đến

cho văn đàn những tiếng nói mới mẻ, buộc các nhà văn và các nhà phê bình

nam giới phải thừa nhận tài năng của họ. Ngƣời phụ nữ với thế giới cảm xúc

phức tạp, những cuộc đấu tranh giằng xé… trong nội tâm đƣợc miêu tả sống

động và chân thực. Không chỉ có vậy, nhiều nhà văn nam giới cũng lên tiếng

ủng hộ sự bình đẳng giới và thừa nhận nữ giới là chủ thể tƣ duy, chủ thể trải

nghiệm và chủ thể thẩm mĩ thông qua những tác phẩm xuất sắc của họ.

Khát vọng bình đẳng giới không đồng nghĩa với việc đòi hỏi thay đổi

chức năng giới tính mà nhằm tạo một môi trƣờng thuận lợi nhất để các giới

thực hiện tốt nhất thiên chức của giới mình theo tinh thần hiện đại. Trong quá

trình giải phóng cá nhân và khẳng định bản ngã của nữ giới, nhà văn có thể

miêu tả những khoái cảm tình dục nhƣng giải phóng cá nhân không chỉ có con

đƣờng duy nhất là giải phóng tình dục. Trong văn học, sex phải hiện lên nhƣ

một yếu tố văn hoá, là phƣơng tiện để nhà văn gửi gắm những quan niệm

nhân sinh một cách có nghệ thuật. Cần có sự tỉnh táo nhất định khi nhìn nhận

những vấn đề giới, nhất là ở những cây bút trẻ. Có những truyện ngắn cho

thấy rất rõ trạng thái cô đơn và nổi loạn của giới trẻ hiện nay, có hiện tƣợng

nhà văn lặp lại chính mình.

Tóm lại, từ xa xƣa, hình tƣợng ngƣời phụ nữ đã xuất hiện trong văn học

nhƣng phẩm chất, giá trị cũng nhƣ đời sống tinh thần… của họ đƣợc nhìn

bằng đôi mắt của nam quyền. Cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI nữ quyền trở

40

thành mối quan tâm đặc biệt của xã hội, của văn hóa văn nghệ.

2.1.2. Ý thức nữ quyền trong quan niệm sáng tác của Trần Thùy Mai,

Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ

Không còn tập trung quan tâm đến số phận, hạnh phúc của cả cộng

đồng, cả dân tộc nhƣ trƣớc, các tác phẩm văn học sau năm 1975 (đặc biệt là

sau năm 1986) hƣớng tới những con ngƣời đời thƣờng trong cuộc sống,

những số phận cá nhân hết sức phức tạp. Qua lăng kính của văn học, cuộc

sống không giản đơn một chiều mà lung linh đa sắc. Con ngƣời không chỉ

giản đơn rạch ròi thiện - ác, địch - ta, cao cả - thấp hèn mà là một tiểu vũ trụ

vô cùng phức tạp: cái xấu, cái tốt đan xen lẫn lộn. Các nhà văn trăn trở về

những vấn đề gay gắt, gai góc nhất của cuộc sống, đặc biệt là các vấn đề gia

đình, tình yêu, đạo đức cá nhân, sự biến đổi trong từng cá nhân… Lúc này,

văn học "thực hơn" và "đời hơn".

Hiện thực cuộc sống phong phú phức tạp đƣợc khúc xạ qua lăng kính

của nhà văn, phản ánh cảm nhận cuộc sống của họ. Với trái tim đa cảm, họ

xúc động trƣớc những cảnh đời cảnh ngƣời và thƣờng mỗi nhà văn sẽ đặc biệt

quan tâm đến những đề tài nhất định. Các nữ nhà văn luôn ấp ủ và canh cánh

trong lòng những tác phẩm về gia đình, về số phận, giá trị của ngƣời phụ nữ

trong gia đình và xã hội.

Là những nhà văn nữ xuất hiện từ những năm 80, 90 của thế kỷ trƣớc,

Trần Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ đã có nhiều đóng góp về

đề tài gia đình. Hầu hết các trong các tác phẩm của họ chúng ta đều thấy có

bóng dáng của gia đình, đặc biệt là gia đình hiện đại trƣớc những đổi thay

của xã hội.

Văn của họ ngồn ngộn sự sống. Những sự việc vặt vãnh hằng ngày trong

cuộc sống gia đình đƣợc khai thác khéo léo qua đó thể hiện niềm thiết tha với

cuộc đời của các nữ nhà văn. Viết về gia đình và những đổi thay của nó, ba

41

nhà văn quan tâm đến tác động của vật chất trong cuộc sống con ngƣời. Vật

chất làm thay đổi những mối quan hệ căn bản khiến cha mẹ với con cái, vợ

với chồng không tìm đƣợc tiếng nói chung.

Ngƣời đọc bị ám ảnh về không khí gia đình trong “Nước mắt đàn ông”

của Nguyễn Thị Thu Huệ. Một gia đình tƣởng chừng là niềm mơ ƣớc của

nhiều ngƣời với vật chất đủ đầy “tất cả các phòng đều lắp điều hoà nhiệt độ”,

bàn ghế, đồ đạc trong nhà “đều là đồ cổ hoặc giả cổ đắt tiền. Các phòng đều

có tivi, hai phòng có một tủ lạnh và dàn cát-xét” nhƣng thực chất lại không

có tình yêu, niềm tin và sự cảm thông sẻ chia. Tình ngƣời nhạt nhẽo và lạnh

lùng đến đáng sợ. Sống trong sự giàu có về vật chất, vợ con đề huề nhƣng

ngƣời đàn ông lại thấy cô độc và bất hạnh. Ông chua chát tâm sự: “Tiền của,

ăn mặc, tất cả mọi nhu cầu vật chất đến một lúc nào cũng sẽ chán ngấy. Ai

nhìn cậu cũng thấy cậu sung sƣớng. Còn bản thân cậu, cậu thấy cô độc”. Tâm

trạng ấy thật dễ hiểu khi vợ chồng là hai thế giới bên ngoài nhau, “con cái

không ai theo nghề và hiểu cậu, chúng không có nổi mƣời lăm phút tâm sự

với cậu ngoài câu chuyện tiền bạc. Cậu mang vật chất cho chúng dƣ thừa,

chúng chẳng cần làm ăn vất vả cũng đủ sống”. Còn điều duy nhất thắp niềm

hy vọng trong trái tim ông là ngƣời phụ nữ ông yêu. Song “nhìn thấy nhau

nhƣng không đến đƣợc với nhau”, thậm chí đến con Lu – kỉ vật của ngƣời yêu

cũng bị vợ ông làm thịt. Dƣờng nhƣ nỗi cô đơn, sự ngao ngán, chán chƣờng

của con ngƣời đƣợc đẩy lên đến tột cùng. Không thể làm gì thay đổi số phận,

ngƣời đàn ông ấy đành xót xa, cam chịu: “vợ chồng là số phận, chống cũng

chẳng đƣợc”, “không ai chọn đƣợc bố mẹ và con cái, thậm chí cả vợ”. Không

khí gia đình ngột ngạt ấy không phải là nỗi bất hạnh của riêng ngƣời chồng.

Ngay cả bà vợ nanh nọc, chao chát, hả hê khi biết tỏng chồng đi đâu làm gì dù

không nói với mình, hả hê khi giết thịt con chó của tình địch... cũng thật bất

hạnh, thật đáng thƣơng. Ẩn đằng sau sự chao chát ấy là nỗi đau đớn, thất bại

42

thảm hại nhƣ một con thú bị thƣơng lồng lộn bên ngoài mà không sao đặt nổi

chân vào thế giới yêu thƣơng của chồng… Gia đình với ý nghĩa là bến đỗ

bình yên, là nơi con ngƣời nghỉ ngơi thƣ thái còn đâu nữa? Tình yêu, hạnh

phúc tỷ lệ nghịch với vật chất. Sự thiếu thốn về tinh thần có thể đẩy con ngƣời

ra khỏi quỹ đạo của gia đình hoặc sẽ chết mòn trong nỗi tuyệt vọng.

Không chỉ ảnh hƣởng đến cuộc sống của các gia đình, vật chất còn len

lỏi và bào mòn cuộc tình của những cặp uyên ƣơng. Bao mộng ƣớc bỗng trở

thành mây khói trƣớc bƣớc chân của những cám dỗ vật chất. Điều này đƣợc

thể hiện rõ trong Người bán linh hồn của Trần Thùy Mai. Truyện kể về cuộc

tình thật đẹp, thật lãng mạn của hai họa sĩ trẻ Na và Tuấn. Na yêu và thần

tƣợng Tuấn. Cô nhận về mình những hy sinh chăm lo cơm áo hằng ngày để

Tuấn tập trung vẽ. Nàng muốn gánh chịu cái phần tục lụy để tâm hồn anh

khỏi bị tổn thƣơng. Nàng sẵn sàng van xin chủ gallery để tranh của Tuấn

đƣợc giới thiệu. Thậm chí, vì khoản tiền thuê nhà, Na đã đau đớn đồng ý bán

mình. Ấy vậy mà Tuấn đã dễ dàng bị gục ngã trƣớc những hào nhoáng mà bà

chủ gallery đƣa ra. Bao tình yêu, bao ƣớc hẹn và sự hy sinh của Na nhƣ bong

bóng vỡ tan … Trƣờng hợp khác trong Lên phố của Trần Thùy Mai. Câu

chuyện khiến ngƣời ta xót xa trƣớc sức công phá của đời sống vật chất đến

một tình yêu đẹp nhƣ thơ. Tý là cô gái mới lớn lên thành phố bán bánh tiêu

kiếm sống. Dũng là cậu sinh viên cùng quê, thƣ sinh hiền lành, sống có tình

có nghĩa. Tình yêu đến hồn nhiên và trong trẻo, vƣợt qua mọi rào cản. Họ hứa

hẹn một tƣơng lai hạnh phúc bên nhau. Nhƣng rồi khi sắp ra trƣờng, đứng

trƣớc ngã rẽ, Dũng đã chọn Kiều Nga – cô gái thành thị khá giả. Tình yêu tan

vỡ do lòng ngƣời đổi thay. Nhƣng gián tiếp tạo nên sự đổi thay ấy là những

cám dỗ vật chất, danh vọng…

Các nhà văn còn tinh tế phát hiện sự đảo lộn trong những quan hệ gia

đình hiện đại. Đó là sự suy thoái về đạo đức lối sống. Con ngƣời đánh mất

43

mình và trở nên tàn nhẫn lạnh lùng. Bất chấp luân thƣờng đạo lí, em gái (nhân

vật Mi) sẵn sàng cƣớp chồng của chị với ƣớc mơ thoát khỏi cuộc sống nghèo

khó (Thiếu phụ chưa chồng - Nguyễn Thị Thu Huệ). Đó còn là sự ích kỉ đi

tìm niềm vui của riêng mình bên ngoài gia đình - ngoại tình. Nhiều sáng tác

của ba nhà văn đã đề cập về hiện tƣợng này. Trong gia đình hiện đại cả đàn

ông lẫn đàn bà đều ngoại tình với vô vàn nguyên nhân khác nhau. Hành động

của họ đã gây ra nhiều hậu quả đáng buồn cho các thành viên khác trong gia

đình. Đứa con trong Một trăm linh tám cây bằng lăng vốn là một chàng trai

hiền lành, nhân hậu, biết quan tâm đến những ngƣời chung quanh nhƣng

chứng kiến cảnh ngƣời cha ngoại tình về nhà chửi mắng vợ con thậm tệ, anh

đã đấm và cầm dao đuổi bố ra khỏi nhà… Thầy Phƣơng tìm đƣợc tình yêu

khác đã lập kế hoạch ruồng bỏ khiến ngƣời vợ hết lòng vì mình sống trong cô

đơn (Trăng nơi đáy giếng - Trần Thùy Mai).

Rõ ràng, với sự nhạy cảm và thiết tha với cuộc sống, các nhà văn đã nêu

ra những thách thức mà gia đình hiện đại gặp phải với mục đích cảnh tỉnh.

Viết về gia đình, ba nhà văn đã dành nhiều ƣu ái cho những nữ nhân vật.

Họ đặc biệt đi sâu phản ánh thế giới nội tâm, những thay đổi trong suy nghĩ

cảm xúc của các nhân vật với niềm cảm thƣơng, trân trọng sâu sắc. Nhà

nghiên cứu Đặng Anh Đào thật tinh tế khi nhận định: “Phụ nữ thƣờng mạnh ở

chỗ đƣa tất cả cuộc đời và tâm hồn họ vào trong sách, hoặc nói nhƣ phƣơng

Tây… họ tự ăn mình”. Quả thật, họ phân mảnh, hóa thân trên từng trang viết.

Giống nhƣ Trần Thùy Mai từng tự bạch: “Viết mãi thì cũng không ra khỏi

thân phận ngƣời nữ nhƣ chạy trời không khỏi nắng”. Hay: “Cho đến nay mình

vẫn thích viết về những mảnh đời gần gũi quanh mình, của bạn bè, của

những ngƣời cùng sống, viết nhƣ một cách trao đổi tâm tƣ với ngƣời cùng

thời và mở rộng cuộc sống nội tâm của chính mình”. Bằng những kinh

44

nghiệm của bản thân, bằng sự quan sát và sẻ chia với những ngƣời chung

quanh, họ đã đem đến cho văn học những trải nghiệm mới, những hiểu biết

mới về ngƣời phụ nữ.

Nhân vật nữ trong truyện ngắn ba tác giả xuất hiện với nhiều đối tƣợng,

nhiều tầng lớp; từ những nữ trí thức đến nữ nông dân, công nhân… và thậm

chí cả những cô gái làm nghề buôn phấn bán hƣơng. Ngƣời ta thấy xuất hiện

trong những trang văn ngƣời đàn bà từng trải, bao dung với con cháu; ngƣời

vợ ngƣời mẹ lo toan cho gia đình và phấn đấu cho sự nghiệp; ngƣời phụ nữ

khát khao hạnh phúc, kiếm tìm tình yêu trong xã hội hiện đại…

Trong văn Trần Thùy Mai nhân vật chủ yếu là nữ trí thức. Họ là những

ngƣời có nhan sắc, tâm hồn, tình yêu say đắm, đam mê, khát vọng. Đó là

Hạnh (Trăng nơi đáy giếng), là Hằng (Chờ nhau ở cuối đường), Lý (Chú và

anh), Na (Người bán linh hồn), tôi (Hoa sứ trắng)… Nhƣng họ luôn cầu toàn

và không mấy khi vừa lòng với cuộc sống của mình. Họ khao khát đuổi tìm

hạnh phúc để rồi hạnh phúc với họ nhƣ chiếc cầu vồng mờ ảo cuối chân trời,

nhƣ cánh cửa thứ chín của mỗi đời ngƣời, đầy hứa hẹn nhƣng không thể mở

ra. Hạnh phúc là cái gì vừa nhƣ sờ mó đƣợc, lại vừa xa xôi, hƣ ảo, cứ chấp

chới ở phía trƣớc. Thế giới nhân vật nữ trong truyện ngắn Trần Thùy Mai

không chỉ là trí thức mà còn có cả những mảnh đời bất hạnh. Ngòi bút giàu

suy tƣ của Trần Thùy Mai còn thể hiện niềm cảm thông sâu sắc đối với những

Vy ngây (Chuyện ở phố hoa xoan), Thúy câm (Am bà cô), Nguyệt cà nhắc

(Quỷ trong trăng), Hà "gái bán hoa" (Nốt ruồi son)... Nhân vật nữ của Trần

Thùy Mai có độ xào xạc, phức điệu trong tâm hồn; tốt và xấu, hoàn thiện và

chƣa hoàn thiện xáo động, chuyển hoán lẫn nhau. Và, dù ở hoàn cảnh nào, dù

"khát vọng vô bờ mà thực tế lại khắt khe". Họ vẫn da diết khát vọng về tình

yêu, hạnh phúc. Dù viết về những mảnh vỡ đời ngƣời cay cực, những khuất

lấp trong tâm hồn, Trần Thùy Mai đều hƣớng đến cái đẹp. Mỗi nhân vật một

45

phúc phận, cuối cùng vẫn sáng ngời khát vọng hoàn thiện.

Truyện Nguyễn Thị Thu Huệ chú ý miêu tả những trạng thái xúc cảm

của những thiếu nữ vừa bƣớc chân vào tình yêu: Tôi (Mùa đông ấm áp), Sánh

(Bảy ngày trong đời), tôi (Một trăm linh tám cây bằng lăng)... Dù là ở kiểu

nhân vật nào, chị cũng khám phá họ từ nhiều góc độ: trạng thái và tình cảm;

niềm vui và nỗi buồn, những khát khao đam mê và cả những “gót chân Asin”

của họ. Chị diễn tả tinh tế những tâm sự của giới đàn bà, với những điều giản

dị, gần gũi: “Tôi mệt mỏi và thèm nói với anh những chuyện con con nhƣ em

Thuý tập lẫy, chuyện nó đi tƣớt mọc răng” (Hình bóng cuộc đời)... nỗi lo về

tuổi tác và nhan sắc: “Sao đến bên gƣơng và nhìn thấy mình trong đó. Mí mắt

sùm sụp, dƣới mắt mòng mọng sƣng, hai vành môi đã bắt đầu đen và lỗ chân

lông trên mặt to ra nhƣ những đầu tăm” (Giai nhân), khát vọng về tình mẫu tử

“thèm có con. Thèm đƣợc làm mẹ” (Người đàn bà ám khói); nỗi đau của

ngƣời mẹ “phải xa những gì lâu nay là máu thịt của chị. Xa đứa con trai bé

bỏng thơm tho nhƣ một chiếc bánh ga tô vừa mới ra lò” (Tân cảng), nỗi lòng

của những bà mẹ có con gái lớn “Mẹ bảo: lắm khi đang ngủ, tao giật mình

không hiểu mày có lấy đƣợc chồng không. Nằm ngẩn một lúc, nhớ ra là mày

đã có chồng, có con tao mừng không thể tƣởng đƣợc” (Biển ấm)…

Đến với truyện ngắn Y Ban, ngƣời đọc tìm thấy một thế giới nhân vật

phong phú với nhiều tầng lớp nhiều đối tƣợng. Đó là những ngƣời phụ nữ trí

thức nơi phố thị (Tự, Sau chớp là giông bão, Người đàn bà và những giấc mơ,

Người đàn bà đứng trước gương) cho đến những ngƣời phụ nữ thôn quê

(ngƣời phụ nữ trong I am đàn bà, bà trong Vùng sáng kí ức, Quê nội; ngƣời

mẹ trong Chú Ngoẹo; chị Tũn trong Ước mơ của chị Tũn; chị bán hàng rong

trong Ước mơ cô bán hàng rong)… Đó là những cô gái lỡ dại, những ngƣời

đàn bà luôn khát khao sự dịu dàng, mải mê kiếm tìm mẫu đàn ông lý tƣởng.

Họ có một bề ngoài gai góc, chấp nhận cuộc sống, nhƣng kì thực đó lại chỉ là

46

sự gồng mình lên của những tâm hồn thèm muốn đƣợc nâng niu, chiều

chuộng. Chị nhặt nhạnh những mẩu đối thoại hay hay chợt nghe đƣợc, những

truyền thuyết đƣợc kể lại thành cốt truyện. Truyện của chị thƣờng kết thúc có

hậu nhƣ chuyện cổ tích. Chị để trí tƣởng tƣợng bay bổng đến tận cùng và giải

thoát mọi ƣu phiền của cuộc đời bằng trang viết.

Các nhà văn đề cập đến nỗi khổ vật chất và đặc biệt chú ý nỗi khổ tinh

thần của các nhân vật. Sự thiếu thốn về vật chất là điều một số nữ nhân vật

gặp phải. Đó là Thị trong I am đàn bà, chị bán hàng rong trong Ước mơ cô

bán hàng rong (Y Ban); là Na trong Người bán linh hồn (Trần Thùy Mai); là

nhân vật chị trong Chị tôi, Sánh trong Bảy ngày trong đời (Nguyễn Thị Thu

Huệ)… Tuy nhiên, hầu hết các nhân vật gặp nhau ở những nỗi khổ về tinh

thần. Đó là niềm khổ đau của hôn nhân không tình yêu, của cuộc sống bình

lặng đến nhàm chán (Lan trong Một nửa cuộc đời, ngƣời mẹ trong Một trăm

linh tám cây bằng lăng của Nguyễn Thị Thu Huệ; Tàu ngầm xuyên đại dương

của Trần Thùy Mai) hay nỗi khổ của sự phụ bạc, phản bội; nỗi xót xa của sự

hoài nghi… (Trăng nơi đáy giếng, Người bán linh hồn, Tháng tư trở lại của

Trần Thùy Mai; Hai bảy bước chân là lên thiên đàng, Biển và người đàn bà

của Y Ban; Mùa đông ấm áp, Bảy ngày trong đời, Cát đợi, Cầu thang, Một

nửa cuộc đời của Nguyễn Thị Thu Hụê).

Các nhân vật nữ dù ở những hoàn cảnh và địa vị khác nhau nhƣng luôn

có sự giằng xé, đấu tranh giữa trách nhiệm, bổn phận và khao khát bản năng.

Con ngƣời của trách nhiệm níu giữ họ ở lại với gia đình với vai trò của một

ngƣời vợ ngƣời mẹ nhƣng khát khao bản năng lại kéo tuột họ ra khỏi khuôn

khổ gia đình. Rồi sau những giây phút ngoài gia đình ấy họ lại đau khổ, dằn

vặt. Dù mạnh mẽ đến đâu thì họ vẫn là phái yếu, vẫn có sự mỏng manh yếu

đuối cần đƣợc chở che. Họ sống hết mình, hy sinh hết mình nhƣng nhận lại là

sự đau đớn, mất mát, thiệt thòi. Nhƣng dù thế nào đi nữa, trong họ vẫn rực

47

cháy ngọn lửa khát khao tình yêu, hạnh phúc.

Cùng viết về gia đình trƣớc những thách thức trong cuộc sống hiện đại,

ba nhà văn đã có những gặp gỡ tƣơng đồng. Trong tiếng nói chung ấy, mỗi

nhà văn lại có những kiến giải, những cảm nhận rất riêng. Điều này tạo nên

bức tranh đa mầu sắc trong nền văn học Việt Nam đƣơng đại.

2.2. Các cấp độ biểu hiện đề tài gia đình trong truyện ngắn của Trần

Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ

2.2.1. Hình ảnh người phụ nữ trong truyện ngắn ba tác giả

2.2.1.1. Gia đình và những khát vọng của người phụ nữ

Khát vọng tình yêu, hạnh phúc

Dù sống trong hoàn cảnh nào ngƣời phụ nữ cũng luôn thƣờng trực khát

vọng tình yêu, khát vọng hạnh phúc. Trong quan niệm hôn nhân xƣa, cha mẹ

đặt đâu con ngồi đấy và hôn nhân không nhất thiết bắt nguồn từ tình yêu. Còn

trong xã hội đƣơng đại, hôn nhân thƣờng xây dựng trên tình yêu, là hôn nhân

tự nguyện, tự do. Chính vì vậy, trong mỗi gia đình tình yêu là sợi dây vô hình

nhƣng có sức kết nối chắc chắn và bền bỉ. Tình yêu có thể giúp con ngƣời

vƣợt qua mọi bão tố, sóng gió trong cuộc đời. Nằm trong quỹ đạo ấy, thật dễ

hiểu khi ngƣời phụ nữ luôn khao khát tình yêu, khao khát hạnh phúc và sống

hết mình cho khao khát ấy. Đề tài tình yêu trong văn học đã, đang và sẽ đƣợc

các nhà văn khai thác, thể hiện dƣới nhiều góc độ. Tình yêu và mục đích cao

đẹp của nó muôn đời vẫn là đề tài mới mẻ, không có câu trả lời kết thúc và

lặp lại cho từng con ngƣời và từng mối tình trên cõi nhân gian. Vì vậy, sự thể

hiện các cung bậc tình yêu vẫn còn đặt ra cho nhà văn những thử thách và thể

nghiệm mới. Nhân vật nữ của ba nhà văn mỗi ngƣời có một "khuôn mặt"

riêng, một số phận riêng nhƣng đều sống hết mình, yêu hết mình.

Trong những trang truyện viết về tình yêu, Trần Thùy Mai thƣờng mang

lại cho ngƣời đọc cảm nhận thú vị về văn hóa tình yêu. Ở đó có đam mê,

48

cuồng nhiệt nhƣng cũng chất chứa bao dại khờ, nông nổi; có ngọt ngào, hạnh

phúc nhƣng cũng lắm đắng cay. Câu thơ của Xuân Diệu thuở nào: “Làm sao

sống đƣợc mà không yêu - Không nhớ không thƣơng một kẻ nào” dƣờng nhƣ

đúng với hầu khắp các nhân vật của Trần Thùy Mai. Với lối văn nhẹ nhàng,

tác giả thiên về miêu tả những cảm nhận, những suy tƣ trong tình yêu của các

nhân vật. Có lúc chạm tới trái cấm, có những phút xao lòng, nhƣng họ vẫn

nén lòng trong những trạng thái tâm hồn phức hợp. Mọi ranh giới trở nên

mong manh.

Niềm khát khao hạnh phúc đôi khi đẩy nữ nhân vật của chị vƣợt ra khỏi

khuôn khổ của gia đình. Trong Tàu ngầm xuyên đại dương sự lạnh lùng khô

khan của chồng đã vô tình giết chết tình yêu và hạnh phúc trong ngƣời vợ,

khiến cô lạc bƣớc trong cuộc tình với chàng nhà văn có “khuôn mặt gầy, mái

tóc dợn sóng bồng bềnh, đôi mắt khinh bạc”. Cô thừa nhận “cái tôi thiếu là sự

dịu dàng âu yếm”. Ngƣời đàn ông lạ đã đến với cô đem theo sự dịu ngọt “Anh

sờ trán tôi, tay anh mềm và âu yếm”, trƣớc con mắt ngạc nhiên của cậu bé

phục vụ quán, anh “lấy từng chiếc khăn lau bàn chân tôi”. Những cử chỉ ngọt

ngào ấy nhƣ dòng nƣớc mát tƣới vào tâm hồn khô cằn, chai lì làm hồi sinh

những tình cảm bị quên lãng bấy nay trong ngƣời vợ. Nó đã kéo tuột cô ra

khỏi con ngƣời của gia đình, của trách nhiệm. Cô hạnh phúc vì đƣợc đắm

mình trong tình yêu, đƣợc vỗ về, chăm sóc, thƣơng yêu. Nhƣng tình yêu và

hạnh phúc ấy không vĩnh viễn ở lại cùng cô. Trong một chiều hai chín Tết, cô

chết lặng khi nhận đƣợc mail của chàng “Những hẹn hò từ nay khép lại…

Còn một hôm nữa anh đã bƣớc vào tuổi sáu mƣơi. Anh rất hạnh phúc vì bắt

đầu với tình yêu đầu tiên ở Huế và nay lại quay về có mối tình cuối cùng ở

Huế. Vĩnh biệt em”.

Không chỉ xuất hiện ở Tàu ngầm xuyên đại dương, sự cô đơn và khao

khát tình yêu của ngƣời phụ nữ còn đƣợc Trần Thùy Mai thể hiện trong Cánh

49

cửa thứ chín. Cuộc sống của tôi gắn với “những ngày rất dài trong khu vƣờn

lặng lẽ” khi đứa con đã cho làm con nuôi của em chồng cô. Những ngày lặng

lẽ chiến đấu với căn bệnh thống kinh giữa chung quanh là bốn bức tƣờng ngột

ngạt và một cuộc điện thoại nhầm số đã đƣa tôi đến với anh. Là ngƣời phụ nữ

của gia đình nhƣng trong nhân vật tôi đã có những lúc cháy lòng khao khát

“Tôi sẽ nói rằng tôi không thể tiếp tục sống trong bốn bức tƣờng lạnh lẽo. Tôi

sẽ nói muốn cùng anh đi vớt mặt trời trên biển tây. Tôi sẽ chịu bỏng, chịu

cháy, để đƣợc đau đớn, đƣợc yêu thƣơng. Tôi muốn chịu đựng mọi thứ trên

đời, ngoại trừ sự tẻ lạnh”.

Đôi khi, họ phải trả giá cho sự khát khao ấy. Niết trong “Lửa của hoàng

cung” lấy chồng là một viên chức ở thị trấn nhỏ. Ngƣời ngoài nhìn vào có thể

thấy nàng thật may mắn và hạnh phúc. Nhƣng chồng nàng mỗi lần về thƣờng

đi thăm hỏi anh em họ hàng đủ lƣợt, chỉ đêm đến mới tìm đến vợ để thực hiện

công việc của một ngƣời chồng. Giữa họ không hề có sự đồng điệu về tâm

hồn mà là hai thế giới hoàn toàn khác nhau. Nàng cam chịu và nhẫn nhịn

trong cái ao đời bình lặng tẻ nhạt. Thế rồi Dõng – một tráng đinh đƣợc nhà

chồng nàng nuôi để giúp việc làm ruộng và đi săn – là một thanh âm khuấy

động cái ao đời phẳng lặng của đời nàng. Nàng đã có con với Dõng. Dám

vƣợt qua rào cản của định kiến của những lễ nghi để thỏa những khát khao

nhƣng rồi Niết lại day dứt ân hận suốt đời.

Trong truyện Trần Thùy Mai, tình yêu vƣợt qua mọi rào cản, mọi biên

giới. Có lẽ điều này xuất phát từ quan niệm “Trong tình yêu hạnh phúc thật

ngọt ngào mà khổ đau cũng đầy thi vị. Chỉ có sự chán chƣờng của kẻ không

yêu mới thật sự là khủng khiếp” (Gió thiên đường). Các nữ nhân vật của chị

nhƣ con chim lao mình vào bụi mận gai dẫu phải chịu đau khổ để cất tiếng

hót đẹp nhất ngợi ca tình yêu.

Tình yêu kéo ngƣời ta vƣợt qua ranh giới giữa trần tục và tu hành. Vấn

50

đề này không chỉ đƣợc đề cập một lần mà là sự trở đi trở lại trong truyện ngắn

của nữ nhà văn xứ Huế. Đó là mối tình giữa cha và mẹ Đăng Ninh, giữa Lan

và chú tiểu Đăng Ninh trong Thương nhớ hoàng lan, là Dung với chú tiểu

Phƣớc Tuệ trong Hoa phù dung dưới núi. Lan với vẻ đẹp trong trẻo, tinh khôi

là niềm mơ ƣớc của bao chàng trai nhƣng nàng chỉ yêu chú tiểu Đăng Ninh.

Bất chấp chú tiểu quyết tâm quy y cửa phật nàng vẫn yêu say đắm và nguyện

hi sinh vì chàng. Rồi chính tình yêu chân thành và sự hi sinh của Lan đã lay

động trái tim chú tiểu.

Tình yêu vƣợt qua ranh giới tuổi tác và định kiến. Đó là mối tình “chị

- em” giữa chị Trúc và Hiệp trong Chị Hai ơi. Họ hơn kém nhau sáu tuổi.

Tình yêu nảy nở rồi lớn dần trong họ khi Trúc đƣợc mẹ Hiệp cƣu mang.

Mối tình thầm lặng mà đẹp đẽ, trong sáng, thánh thiện là khoảng sáng ấm

áp quét qua đời Trúc, làm hồi sinh trái tim khô cằn, u uẩn. Tình yêu cho

Hiệp sức mạnh và quyết tâm vƣợt qua định kiến “rồi đây mình cũng sẽ

cƣới nhau”. Họ đã dám vƣợt qua nhiều ranh giới để yêu và đƣợc yêu.

Nhƣng rồi hạnh phúc đã không mỉm cƣời với họ khi mẹ Hiệp đuổi Trúc ra

khỏi nhà vì cô “đã dám quyến rũ Hiệp”. Mặc dù vậy, Hiệp vẫn kiên tâm đi

tìm Trúc với lập trƣờng “Tôi còn chƣa vợ, Trúc không có chồng, vậy tại

sao chúng tôi không đƣợc sống với nhau?”. Câu hỏi vang lên gần cuối tác

phẩm tạo khoảng lặng gieo vào lòng độc giả những băn khoăn. Phải chăng

nhà văn muốn xòa nhòa những ranh giới, những quan niệm khắt khe để

những trái tim yêu đƣợc hạnh phúc bên nhau ?

Không chỉ vƣợt qua ranh giới tuổi tác, tình yêu còn xóa nhòa khoảng

cách của không gian và thời gian. Đó là tình yêu mà cô bé Uma dành cho

nhân vật tôi trong Onkel yêu dấu. Tình yêu thầm lặng dành cho ngƣời bạn của

bố mẹ đƣợc cô giữ cho riêng mình. Dù khi nhân vật tôi về nƣớc, khoảng cách

địa lý giữa họ tính bằng hàng trăm ngàn cây số và thời gian đằng đẵng mƣời

51

lăm năm, tình yêu ấy vẫn nhƣ ngọn lửa âm ỉ cháy. Vƣợt qua mọi ranh giới,

Uma vẫn không thôi thƣơng nhớ và khát khao hạnh phúc đƣợc ở bên Onkel

của cô.

Nhƣ vậy, trong truyện ngắn Trần Thùy Mai ngƣời đọc bắt gặp một cái

tôi phụ nữ nhiều khát vọng nhƣng họ không ồn ào táo bạo mà dịu dàng,

điềm đạm.

Điều này rất khác so với truyện của Nguyễn Thị Thu Huệ và Y Ban.

Niềm khao khát tình yêu hạnh phúc trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu

Huệ thật mãnh liệt, dữ dội. Nhân vật nữ của chị thƣờng ở vai trò chủ động,

sẵn sàng làm mọi cách vì tình yêu. Có nhân vật đã đƣa ra quan điểm “Tôi

không muốn sống trong cuộc sống gia đình tù túng thì tôi sống một mình với

con. Nhƣng tôi sợ sự cô đơn thì tôi phải có bạn tình. Tôi yêu một ngƣời đàn

ông đã có vợ. Tôi chấp nhận sự sẻ chia đó” (Nhân tình).

Cũng vì khát khao hạnh phúc và tình yêu nên khi không tìm thấy tình

yêu với ngƣời chồng, Lan trong Một nửa đời người đã tìm đến với Thắng.

Chồng Lan – Hải – là một ngƣời đàn ông yêu thƣơng vợ con, chu đáo và tận

tụy với gia đình. Lẽ ra với một ngƣời nhƣ thế, Lan phải cảm thấy hạnh phúc.

Nhƣng với cô, tốt thôi, yêu thƣơng tận tình thôi dƣờng nhƣ chƣa đủ mà còn

cần sự rung động của cả hai trái tim. Cuộc hôn nhân của cô không xuất phát

từ tình yêu. Cô lấy Hải chỉ vì “sự ngộ nhận về tình yêu. Em lấy Hải vì hiếu

thắng. Khi ấy, Hải là ƣớc muốn của nhiều cô. Em lấy Hải trƣớc những ánh

mắt ghen tị và những giọt nƣớc mắt thất tình của một lũ con gái”. Rồi tình yêu

cũng chẳng nảy nở sau hôn nhân vì trong mắt Lan “Hải là ngƣời đơn giản, tốt

bụng đến phát ghét. Anh ấy bình lặng sống nhƣ một dòng nƣớc, lúc nào cũng

trong vắt ở giữa khe núi. Chẳng làm ai đỡ khát”. Lan rơi vào bế tắc. Giải pháp

chống lại cuộc sống nhạt nhẽo bên cạnh ngƣời chồng tròn trịa đến đơn điệu là

ngoại tình. Khát khao một tình yêu trọn vẹn nhƣng Lan lại bƣớc vào mê cung

52

tình ái với một con ngƣời tỉnh táo khôn ngoan lạnh lùng là Thắng. Rồi mọi

thứ sụp đổ, Lan lại xót xa nhận ra Thắng và tình yêu của anh không phải điều

cô đang cần. Thắng không sẵn sàng từ bỏ mọi thứ vì cô, vì tình yêu của cô.

Tình yêu khiến con ngƣời vƣợt qua sự sợ hãi và sẵn sàng lăn xả vì ngƣời

mình yêu. Đi theo tiếng gọi của tình yêu, tôi trong Mùa đông ấm áp đã một

mình vƣợt qua hàng trăm cây số đến gặp ngƣời thƣơng, mặc cho bố mẹ ở nhà

lo lắng. Lụa trong Bảy ngày trong đời vẫn yêu Sánh, dù anh đi biền biệt

không tin tức còn đứa con trong bụng cô ngày càng lớn. Tình yêu tiếp thêm

sức mạnh cho cô vƣợt qua mọi điều tiếng để sinh và nuôi con. Rồi hạnh phúc

đã mỉm cƣời với cô “Ngƣời đàn ông cao cao bế đứa trẻ trong tay. Ngƣời đàn

bà xách túi quần áo, tay kia dắt ngƣời đàn ông hỏng mắt, liêu xiêu trên

đƣờng. Bóng họ ngả vào nhau ở cuối đƣờng”. Dẫu tƣơng lai ẩn chứa những

vất vả song cuối cùng họ cũng đƣợc bên nhau.

Nhân vật của Nguyễn Thị Thu Huệ rất cá tính và hiện đại. Tôi trong Cát

đợi đƣa ra quan điểm: “Trong tình yêu, có lúc phải giành lấy cái để gọi nhƣ

chơi bạc ấy, đƣợc thì phất, hỏng thì thôi, nhƣng cứ phải cƣớp cáí. Chuyện tình

yêu bây giờ thật cũ. Hầu nhƣ trong đời ai cũng đã xếp xó vài cuộc tình”. Với

khát vọng mãnh liệt, cô tƣởng tìm thấy hạnh phúc ở mối tình đầu nhƣng tình

yêu ấy vuột qua tay. Song cô không nguôi ảo vọng về nó “tôi không xếp xó

tình yêu của mình, tình yêu của tôi không bị mạng nhện chăng bởi tôi đem nó

đặt lên ban thờ, và siêng năng thờ cúng. Tôi cúng vái nó mỗi khi chiều đến

sƣơng giăng khói tỏa vào đông. Những vòm sấu ran ran tiếng ve ngày hè và

khi một cơn mƣa rào đổ vội, cả mặt đƣờng trắng ly ty hoa. Vài bận hƣơng

khói khi ban thờ hiện lên con đƣờng đầy ắp kỷ niệm tôi có với ngƣời ấy. Từ

chiếc lá khô chợt sa vào lòng đến bông sấu ngai ngái rơi rắc hƣơng. Rồi tôi

thờ tình yêu của mình bằng những bản nhạc dĩ vãng”. Ngay cả khi biết ngƣời

yêu xƣa đã thuộc thế giới khác, cô vẫn chờ đợi, vẫn nhớ thƣơng “tôi chờ

53

ngƣời ấy hàng ngày, dù tôi biết họ vẫn chỉnh chu chở nhau đi làm mỗi sáng.

Họ - bộ ba ấy nghễu nghện trên đƣờng bằng một chiếc xe cúp đỏ. Đầu tiên là

rổ xe muôn năm chở áo mƣa, túi lƣới. Đến một thằng cu kháu khỉnh. Rồi

ngƣời ấy với một nền độc tài êm ái sau cùng”. Rồi cô đến với tình yêu thứ

hai. Tƣởng chừng hạnh phúc sẽ mỉm cƣời, ngƣời đàn ông ấy sẽ thuộc về cô.

Nhƣng thật trớ trêu, sau cuộc tình, chàng trai lại trở về với tổ ấm còn cô lại

lập một ban thờ cho tình yêu mới. “Dù biết rằng đến phút ấy, tôi vẫn chƣa

đƣợc gì trọn vẹn ở cuộc đời”, miễn là “tôi yêu và tôi đƣợc yêu”. Nhƣ vậy,

nhân vật của Nguyễn Thị Thu Huệ vẫn mải miết kiếm tìm tình yêu, hạnh phúc

dù nhận đƣợc không ít khổ đau, vụn vỡ.

Tình yêu cũng là một đề tài thƣờng xuyên trong những trang văn của

Y Ban. Chị có lối viết táo bạo, “bứt phá”. Các nhân vật của chị khá mạnh mẽ,

khát vọng tình yêu trong truyện ngắn Y Ban còn gắn với sự vƣợt rào, với sex.

Tình yêu là sự đam mê về tâm hồn và thể xác. Nếu Trần Thùy Mai tập

trung khai thác sự đồng điệu của hai tâm hồn thì Y Ban bên cạnh nội dung đó

còn cho thấy sự gắn bó của những khát vọng bản năng. Điều này thể hiện ở

khá nhiều tác phẩm: Hai bảy bước chân là lên thiên đàng, Người đàn bà có

ma lực, Mỗi người đàn ông là của riêng một người đàn bà, Sau chớp là giông

bão, Đàn bà sinh ra từ bóng đêm, Bây giờ con mới hiểu, Tự, I am đàn bà…

Tình yêu của Tôi trong Hai bảy bước chân là lên thiên đàng bắt đầu từ

sự ngƣỡng mộ và thần tƣợng ngƣời đàn ông “đang trên bệ phóng của danh

vọng”, hằng đêm xuất hiện trên ti vi “em yêu và ngƣỡng mộ anh. Em đã rất

ngƣỡng mộ anh và khao khát một tình yêu”. Rồi lí trí mách bảo cô cảnh giác

nhƣng cô đã để những cảm xúc của mình chạy theo tiếng gọi của con tim

“Thực ra em đã muốn làm điều này với anh từ lâu rồi. Ngay sau cái lần anh

nhìn rất lâu vào em trong cái đám đông ngƣời ấy và nói em đẹp. Nhƣng em lại

muốn cả tình yêu nữa”. Rõ ràng, cô khao khát một tình yêu vẹn nguyên.

54

Nhƣng chỉ hai bốn giờ sau, cô đau khổ nhận ra chân tƣớng của ngƣời đàn ông

mà mình tôn thờ ngƣỡng mộ để rồi “Nỗi buồn làm em đổ sụp xuống. Khi

em đến chỗ hẹn cùng anh, em cũng đã nghĩ đến điều này nhƣ là một sự rủi

ro. Nhƣng em đã gạt nó đi bằng niềm tin và hy vọng”. Mọi ảo vọng vỡ vụn

nhƣ bong bóng.

Ngay với những phụ nữ một thời từng làm điêu đứng bao nhiêu trái tim

thì hạnh phúc với họ vẫn xa vợi. Tôi của Người đàn bà có ma lực và Mỗi

người đàn ông là của riêng một người đàn bà dù vẻ bề ngoài không thật xinh

đẹp nhƣng họ đã làm say đắm bao nhiêu trái tim yêu nhƣng họ vẫn cô đơn, lạc

lõng. Cô gái trong Mỗi người đàn ông là của riêng một người đàn bà gặp lại

tình yêu đầu mà cô đã tự tay dứt bỏ. Cô chua xót nhận ra dù Sơn vẫn còn có

gì đấy dành cho mình nhƣng anh đã vĩnh viễn thuộc về ngƣời phụ nữ khác.

Tôi trong Người đàn bà có ma lực khi đã ở dốc bên kia của cuộc đời lại sống

với khát khao những toan lo bình dị của một ngƣời phụ nữ. Quá khứ huy

hoàng và thực tại tẻ nhạt là những mảng mầu đối lập làm sâu sắc thêm nỗi cô

đơn của cô. Hạnh phúc và tình yêu vẫn chỉ là niềm khát khao.

Đôi khi khát vọng tình yêu đƣa ngƣời ta đến những ranh giới mỏng

manh nhƣ sợi tóc. Sau chớp là giông bão kể về một ngƣời phụ nữ có gia

đình khá đầm ấm “Nàng rất đỗi yên tâm trong hạnh phúc, bất hạnh, sung

sƣớng và khổ đau của mình”. Nhƣng cuộc sống không hề giản đơn. Vẫn

còn những yêu thƣơng nhƣng tình cảm với chồng trong cô dƣờng nhƣ đã

bão hòa, đã “xơ hóa”. Rồi chỉ vỏn vẹn bốn mƣơi giờ đi công tác nàng đã

muốn ngả đầu vào vai ngƣời đàn ông lạ. Phải chăng nàng tìm thấy sự hồi

sinh của những cảm xúc, của những yêu thƣơng nơi ngƣời ấy? Những dịu

ngọt từ chàng trai khiến cô thấy cực kỳ khoan khoái và tràn đầy sức lực.

Nhƣ vậy, trong con ngƣời tƣởng chừng đã an phận với những gì mình có

55

ấy, tình yêu và khát khao vẫn âm ỉ cháy.

Các nữ nhân vật trong truyện ngắn ba tác giả luôn khao khát đuổi tìm

hạnh phúc. Hạnh phúc là cái gì vừa nhƣ sờ mó đƣợc, lại vừa xa xôi, hƣ ảo, cứ

chấp chới ở phía trƣớc.

Khát vọng tình yêu còn gắn với tình dục, gắn với sex. Tình dục xƣa nay

gần nhƣ là điều tối kị trong văn chƣơng Việt Nam truyền thống. Nếu có chăng

thì sự xuất hiện rất thoáng qua và mờ nhạt bằng những mĩ từ xa xôi. Tuy

nhiên, sang đến cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI, công cuộc đổi mới của xã hội

và văn hóa văn nghệ dẫn đến cách nhìn thoáng hơn, tình dục không còn là

điều gì xa lạ với văn học nữa. Nó đƣợc khai thác ở nhiều góc độ, cấp độ khác

nhau. Tuy nhiên mỗi nhà văn lại có một cách nhìn nhận khác nhau về vấn đề

này. Với bản tính mạnh mẽ, quyết liệt, các nhân vật nữ của Y Ban và Nguyễn

Thị Thu Huệ có cái nhìn khá mới mẻ về tình yêu. Không chỉ dừng lại ở những

âu yếm, tình yêu với họ còn là đi đến tận cùng những cảm xúc, là sự hòa hợp

của hai con ngƣời. Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ lên tiếng bênh vực cho

nhân vật của mình qua tiếng nói mạnh dạn về khát vọng thể xác. Vấn đề này

đƣợc đề cập đến khá nhiều trong tác phẩm của hai nhà văn. Lụa của Bảy ngày

trong đời yêu Sánh. Tình yêu ấy đƣa họ đến tận cùng của cảm xúc mà giữa họ

không còn bất kì một khoảng cách nào “Sánh vòng tay ôm cô chặt hơn. Cả hai

ngã dúi xuống bãi cỏ. Bên họ, vỏ hộp bia, Coca-Cola và những vỏ bao thuốc

ngoại vƣơng vãi”, “cả hai lại chìm đi.Trăng lên. Cong vút và kiêu bạc ở góc

trời”. Trong Cát đợi cô gái trải qua hai mối tình. Mối tình đầu “đã mang đời

con gái của tôi đi không hoàn lại một câu xin lỗi”. Sau bao ngày tƣởng chừng

tình yêu đã ngủ quên trong những hoài niệm, cô đã tìm đƣợc tình yêu mới.

Mối tình ấy cũng đƣa cô đến tận cùng của xúc cảm “Tôi hồi hộp chờ mong sẽ

thấy cái hõm nơi tôi nằm xuống”, “Tôi mê đi trên chiếc giƣờng hạnh phúc,

56

chiếc giƣờng có một không hai trên thế gian này. Tôi yêu và tôi đƣợc yêu”.

Có thể nói Y Ban là ngƣời khá mạnh tay khi viết về sex, về tình yêu gắn

với sex. Truyện Y Ban vì thế tạo nên những ý kiến trái chiều gay gắt. Sẽ là

không thỏa đáng nếu chỉ nhìn vào hình thức để quy kết về văn Y Ban. Với

chị, đó chỉ đơn giản là phƣơng tiện nghệ thuật để chuyển tải thông điệp về

khát vọng sống, khát vọng đƣợc hƣởng hạnh phúc, những khát vọng rất trần

tục, rất con ngƣời. Hàng loạt tác phẩm của Y Ban cho thấy rõ điều đó: Hai

bảy bước chân là lên thiên đường, Đàn bà sinh ra từ bóng đêm, Bây giờ con

mới hiểu, Tự, I am đàn bà… Đa số trong các tác phẩm của Y Ban tình yêu là

ngọn nguồn dẫn đến sự hòa hợp về thể xác. Có những trƣờng hợp là do đòi

hỏi chính đáng của bản năng sinh lý trƣớc vòng kiềm tỏa của luân thƣờng đạo

lý, của những ngang trái cuộc đời. Qua đó, tác giả muốn gửi đến ngƣời đọc

thông điệp sex là bản năng nhƣng nó cũng xuất phát từ tình yêu, từ văn hóa.

Cần nhìn nhận nó dƣới góc độ khoa học và nhân văn để nó đƣợc đối xử một

cách xứng đáng nhƣ cái tự nhiên vốn có. Đừng bao giờ lạm dụng tùy tiện và

đừng đè nén, ép buộc nó.

Trần Thùy Mai quan tâm đến những khao khát bản năng nhƣng nhẹ

nhàng, thoáng qua. Tuy nhiên, thoáng qua mà không hời hợt, thoáng qua mà

vẫn sâu sắc, nồng nàn.

Tình yêu lãng mạn giữa Ng. và ngƣời đàn ông nọ trong Thị trấn hoa quỳ

vàng đƣa họ đến những giây phút “tràn ngập niềm tin mãnh liệt rằng tình yêu

của mình có thể biến mọi xó xỉnh nghèo hèn thành thiên đƣờng trên mặt đất”.

Trần Thùy Mai đã có những trang văn thật nhẹ nhàng, thật đẹp miêu tả tình

yêu và sự gắn bó giữa hai nhân vật: “Họ hôn nhau lần đầu, hệt nhƣ trong giấc

mơ. Sóng gầm lên trong bóng tối, và biển cũng rối tung theo gió”, “Gió biển

thổi lồng lộng qua cửa sổ, tấm drap trải giƣờng đƣợc phủ sơ sài bồng bềnh

những đợt sóng. Trăng cũng vào theo cửa sổ. Có vị mặn của biển và có vị

57

mặn của da thịt; có cái dịu ngọt của trăng, và nỗi dịu ngọt của vuốt ve”.

Ở mức độ mạnh dạn, táo bạo hơn là tình yêu của Diễm và tôi trong Cố

nhân: “Ông nhắm mắt, cảm thấy phía trong cơ thể nàng, nóng ấm và trơn

ƣớt, ông trƣợt lòng bàn tay trên hai bắp vế mịn nhƣ lụa. Rồi bất chợt tƣ thế

nằm dƣới làm ông cảm thấy bất ổn, ông lật nàng xuống….”. Hoặc những

cử chỉ âu yếm của tôi và anh trong Tàu ngầm xuyên đại dƣơng “Anh ấn tôi

xuống giƣờng. Cử chỉ anh thành thạo và quen thuộc”, “Tôi nhắm mắt, ôm

chặt anh, lần đầu tiên tôi không có ý nghĩ mình là cái nệm thịt, tôi với anh

là hai thịt da sinh động đang chực gắn vào nhau để phát ra những tia lửa

sống”. Nhƣ vậy, cũng là viết về giao cảm của hai cá thể trong tình yêu của

họ, Trần Thùy Mai chỉ điểm xuyết qua những đoạn khá ngắn, thƣờng gợi

chứ không tập trung tả thực.

Tóm lại, ba nhà văn coi sex là một phần (có khi là phần tất yếu) của tình

yêu. Nhìn ở góc độ khoa học, đó là nhu cầu không chỉ của giới nào. Tuy

nhiên, quan niệm xƣa “trai năm thê bảy thiếp” đã gián tiếp chấp nhận và

khẳng định những nhu cầu của riêng nam giới. Các nữ nhà văn với giọng điệu

khác nhau thông qua nhân vật nổi loạn đã lên tiếng bênh vực cho giới nữ. Bên

cạnh đó, họ cũng gửi đến độc giả những lời cảnh tỉnh. Trong mỗi ngƣời đều

có những khát vọng bản năng nhƣng điều quan trọng là phải ứng xử với nó

thế nào cho phù hợp. Để xây dựng gia đình hạnh phúc, thực sự là tổ ấm của

mỗi ngƣời, từng cá nhân cần biết điều tiết mình. Có những thứ ranh giới

mỏng manh nhƣ sợi tóc, chỉ cần nghiêng sang bên này là mọi thứ sụp đổ.

Khao khát tình mẫu tử

Không chỉ khát khao hạnh phúc lứa đôi, các nữ nhân vật còn khao khát

tình mẫu tử thiêng liêng cao đẹp.

Đọc truyện ngắn Trần Thùy Mai, sự khao khát tình mẫu tử của Hạnh

trong Trăng nơi đáy giếng để lại trong tôi ám ảnh sâu sắc. Là một ngƣời phụ

58

nữ dịu dàng đằm thắm, hết lòng hi sinh vì gia đình nhƣng trớ trêu thay, cuộc

đời không mỉm cƣời với Hạnh. Khát khao có con nhƣng không thành hiện

thực, cô đã nuốt nƣớc mắt vào trong tìm ngƣời sinh con cho chồng – Thắm.

Sự khát khao đƣợc ôm ấp hình hài thƣơng yêu của chồng khiến Hạnh chăm

sóc Thắm từng li từng tí: “từng chục trứng gà, từng chai mật ong đƣợc chuyển

về làng để tẩm bổ cái thai mới thành hình”. Rồi đến ngày cô đƣợc đền bù:

“Đứa con trai ra đời, cô Hạnh bế lấy nó, đỏ hỏn trong lớp tã. Ông Phƣơng

quàng vai cô, vỗ về: Con của em đó. Nghe chồng nói, cô ứa nƣớc mắt vì sung

sƣớng...”. Với niềm khát khao tình mẫu tử mãnh liệt, cô coi cu Nhứt là niềm

vui, là một phần lẽ sống của mình và làm tất cả vì nó. “Những ngày thằng bé

ở với cô là những ngày căn nhà ngập tràn niềm vui”. Khi ốm, cô mong muốn

“cho thằng cu sang đây với tôi là đủ. Có nó là tôi sống đƣợc” và “Căn nhà

tƣng bừng lên vì tiếng trẻ con cƣời, tiếng chó gâu ăng ẳng. Tôi nhƣ ngƣời

sống lại. Thằng bé gọi tôi là mẹ Cả. Tiếng gọi thật ngọt ngào. Tôi rất muốn

thằng bé gọi tôi chỉ là "Mẹ" thôi”, “Mặc thằng bé gọi tôi bằng gì đi nữa, nó

vẫn là con tôi. Tôi lại trồng khoai, lại nuôi gà, lại để dành từng quả trứng.

Thằng bé ăn, tôi thấy ngon. Đêm nó ngủ dụi đầu vào lòng tôi. Tôi đã có con,

tạ ơn trời, giờ đây tôi không cần gì hơn nữa”. Dù không phải đứa con mang

nặng đẻ đau nhƣng Hạnh yêu cu Nhứt bằng tình yêu của một ngƣời mẹ. Sự

chăm chút chu đáo, ân cần; sự hi sinh ngọt ngào… Chỉ cần nghe tiếng bi bô

của cu cậu là Hạnh thấy nhƣ đất trời nở hoa, thấy nhƣ mình đƣợc tiếp thêm

sinh khí. Có chồng rồi lại phải nhƣờng chồng cho kẻ khác, tƣởng rằng sự hiện

diện của cu Nhứt là niềm an ủi cho Hạnh nhƣng rồi cũng bị tƣớc mất khi

Thắm đón cu Nhứt về, rồi cu Nhứt chuyển từ gọi “mẹ” sang “bác”. Niềm khát

khao trở thành đau đáu, khắc khoải “Nhiều hôm, nghe tiếng thằng Tèo nhà

bên cạnh gọi: "Mẹ ơi!" giọng trẻ con sao mà giống nhau, tƣởng con về, đang

làm gì tôi cũng vứt hết chạy ra. Chỉ thấy sân hiên vắng lặng, không một bóng

59

ngƣời”. Tất cả tuột khỏi tay cô. Nhƣng niềm khao khát làm mẹ không mất đi

trong cô. Hiện thực quay lƣng với cô thì cô tìm đến thế giới tâm linh, thế giới

mộng tƣởng. Theo quẻ bói của bà đồng Thơi, “số cô Hạnh không theo ông

Phƣơng đƣợc trọn đời vì ngƣời âm ƣng, mà ngƣời âm này vai vế lớn lắm, con

thứ bảy của Đức Mẫu, quyền sinh sát cả một giang sơn. Lâu nay, ông với cô

Hạnh đã đƣợc một con trai ở cõi vô hình, mà cô Hạnh đâu có hay”. Vậy là cô

đã có con trai. Dù là không hữu hình nhƣng nó là của cô. Cô hạnh phúc với

điều ấy. Rằm mồng một cô không quên chất hƣơng hoa đầy thánh điện và còn

chuẩn bị quần áo cho con “Rồi trƣớc hiên nhà lại xuất hiện những cái áo nho

nhỏ màu đỏ, màu xanh phơi trên dây. Ai đi ngang hỏi, cô cƣời hiền lành: Áo

thằng cu. May cho cu mặc Tết". Tƣởng chừng với ngƣời phụ nữ, niềm hạnh

phúc làm mẹ là điều có thể nhƣng sao với Hạnh lại khó khăn, nghiệt ngã đến

vậy. Tuy nhiên, thế giới tâm linh đã cho cô niềm hạnh phúc mà đời thực

không có.

Đó là khát vọng tình mẫu tử ở ngƣời phụ nữ của gia đình nhƣng gặp bất

hạnh. Với ngƣời suốt đời rong ruổi trên đƣờng tình để ngạo nghễ kiêu hãnh

với ma lực hấp dẫn đàn ông của mình trong Người đàn bà có ma lực của Y

Ban thì sao? Sau bao nhiêu cuộc tình, ngƣời phụ nữ khát khao một cuộc sống

gia đình với những đứa con. Những thanh âm cuộc sống thƣờng nhật của gia

đình bên cạnh vọng sang rõ mồn một làm bùng cháy trong cô những khao

khát: "Nếu nhƣ mình là ngƣời chủ căn nhà bên kia nhỉ”, “Mấy đứa con xăng

xái chạy bên cạnh, mình sẽ sai chúng”, “bên hàng xóm lại vẳng sang tiếng trẻ

con thánh thót: "Con mời ba mẹ ăn cơm ạ". Ngƣời đàn bà bê nguyên chiếc bát

lắng nghe tiếp. Chỉ có tiếng bát đũa va vào nhau, tiếng va chạm của một cuộc

sống bình thƣờng khiến ngƣời đàn bà không còn cảm giác muốn ăn nữa”.

Tình mẫu tử dƣờng nhƣ là một bản năng nên không chỉ ngƣời thật sự

trƣởng thành mà ngay cả những thiếu nữ cũng ý thức rất sâu sắc. Cô gái trong

60

Bức thư gửi mẹ Âu Cơ vì ăn trái cấm khi tuổi chƣa thể bƣớc vào cuộc sống

gia đình cô đành phải bỏ đứa con ngoài ý muốn. Cô gái đã trải qua nỗi đau

đớn về tinh thần và thân xác. Và đặc biệt thiên chức ngƣời mẹ khiến cô day

dứt, ân hận vì mình đã lỡ bỏ mất đứa con. Nó nhƣ vết thƣơng mạn tính khiến

“Ngày hôm nay con đƣợc chứng kiến nỗi đau những ngƣời mẹ. Nỗi đau của

con lại bùng lên”.

Nhƣ vậy, tình yêu hạnh phúc không chỉ là khát vọng của riêng ai. Dù trải

qua sóng gió thăng trầm, điều mà các nữ nhân vật trong truyện ngắn ba tác giả

hƣớng đến là tình yêu chân thành, hạnh phúc vẹn nguyên.

Khát vọng về vật chất, danh vọng.

Nữ nhân vật trong truyện ngắn ba nhà văn còn có khát vọng về vật chất,

danh vọng. Mong muốn thành đạt và một cuộc sống đủ đầy là ƣớc mơ chính

đáng của ngƣời phụ nữ. Tuy nhiên, các nhân vật lại có những cách thức khác

nhau để đạt đƣợc mục đích ấy. Dƣờng nhƣ, khát vọng ấy dữ dội và mãnh liệt

hơn cả trong những trang văn của Nguyễn Thị Thu Huệ.

Có thể nói, trong các vấn đề của gia đình hiện đại, trong cuộc sống của

ngƣời phụ nữ, Nguyễn Thị Thu Huệ dành sự quan tâm lớn đối với những cám

dỗ vật chất. Vì tham vọng vật chất, vì muốn đổi đời mà nhiều nữ nhân vật của

Nguyễn Thị Thu Huệ sẵn sàng chấp nhận cuộc hôn nhân không tình yêu. Đó

là Thảo trong Người đi tìm giấc mơ. Cô sinh ra trong một gia đình vốn không

giàu có, phải tự bƣơn chải kiếm sống. Thƣờng trực trong cô là khát vọng có

một gia đình hạnh phúc lấy chồng có con. Nhƣng để ƣớc mơ nhỏ nhoi ấy trở

thành hiện thực cô đã phải chấp nhận làm vợ một ngƣời chồng tàn tật nhƣng

gia đình giàu có. Chấp nhận đánh đổi, cô không chỉ mong muốn mình có chỗ

dựa vững chắc mà còn mong đem đến hạnh phúc cho bà mình. Nhƣng số

phận thật trớ trêu khi cuộc hôn nhân không tình yêu lại còn không con cái. Cô

61

bị đuổi ra khỏi nhà chồng.

Vì tham vọng vật chất, có nhân vật còn chà đạp lên luân thƣờng đạo lý.

My trong Thiếu phụ chưa chồng vì muốn thoát khỏi cuộc sống nghèo khó lạc

hậu ở nông thôn, đã nhẫn tâm cƣớp chồng của chị gái. Không dừng lại ở anh

rể, cô còn tìm đến với ngƣời đàn ông khác mà không cần biết sau hành động

của mình có biết bao ngƣời chịu khổ đau. Nhƣ vậy, vật chất có sự cám dỗ ghê

gớm. Nếu con ngƣời không biết điểm dừng, không ứng xử nhƣ một con ngƣời

văn minh thì sẽ phải trả giá cho những toan tính của mình.

Nhƣng cũng có nhân vật, vì thiếu thốn vật chất mà chấp nhận hy sinh

hạnh phúc của mình cho gia đình. Nhân cách ấy đáng trân trọng biết bao! Đó

là ngƣời chị trong Chị tôi. Gia đình nghèo, để có tiền nuôi em ăn học và trang

trải cuộc sống cho gia đình nhân vật chị phải lang thang trên bến tàu Sài Gòn

bán hàng “Ngƣời đàn bà thật nhỏ bé, nhếch nhác. Dƣới chân là mẹt thuốc lá,

bên cạnh là cái làn nhựa. Bà đứng nhƣ bức tƣợng nghiêm lạnh giữa khung

cảnh huyên náo bậc nhất này”. Cô chấp nhận cuộc sống phiêu bạt, thiếu thốn

tình cảm gia đình, hy sinh khát vọng của mình vì những ngƣời thân yêu. Giữa

sự ồn ào, xô bồ, bon chen và đầy cạm bẫy của bến tàu, số phận của ngƣời phụ

nữ bé nhỏ ấy sẽ ra sao?

Cũng đề cập đến cám dỗ vật chất nhƣng trong những trang truyện của Y

Ban và Trần Thùy Mai sự xuất hiện có phần ít hơn. Thắm trong Trăng nơi

đáy giếng, Diễm trong Cố nhân, Na trong Người bán linh hồn (Trần Thùy

Mai); thị trong I am đàn bà (Y Ban) phần nào cho ta thấy đƣợc điều đó. Vì

cám dỗ vật chất, vì muốn đƣợc đổi đời, Thắm đã quay lƣng lại, hơn thế còn

đánh cắp tất cả của ngƣời đàn bà nhân hậu đáng thƣơng từng đối đãi ân cần

với mình là Hạnh. Diễm - một cô gái “chân dài, đẹp cỡ hoa hậu”- là niềm mơ

ƣớc của nhiều chàng trai và sẽ chẳng mấy khó khăn để có thể yêu và lấy một

tấm chồng tử tế. Nhƣng khát vọng vật chất, danh vọng đã đƣa bƣớc chân cô

62

đến con đƣờng gập ghềnh. Đó là trở thành ngƣời tình của các quan chức. Na -

một nữ họa sĩ trẻ có cuộc sống vật chất thiếu thốn - xây mộng ƣớc về một gia

đình hạnh phúc với Tuấn. Cô tôn thờ anh và chịu nhận về mình những toan lo

thƣờng nhật. Cô gửi gắm nơi Tuấn không phải chỉ tình yêu mà cả khát vọng

tiền tài và danh vọng. Cô có quyền mơ về một tƣơng lại tƣơi đẹp khi Tuấn nổi

tiếng. Không phải ngƣời chạy theo vật chất nhƣng cuối cùng cô đã đau đớn

chấp nhận bán mình cho ngƣời đàn ông chủ gallery Kình Dƣơng. Song thật

may, bản chất của Tuấn đã bộc lộ trƣớc ma lực của đồng tiền và danh vọng.

Vì thế cô giữ đƣợc mình. Thị có cuộc sống khốn khó một nhà sáu miệng ăn,

chăm chỉ nhƣng nghèo vẫn hoàn nghèo. Trong xu thế chung “ngƣời trong

làng trong xóm tiễn đƣa nhau đi máy bay, rồi lại đƣa nhau ra bƣu điện lĩnh

tiền. Có tiền thì xây nhà, mua tivi”, thị cũng dứt áo ra đi với mộng ƣớc đổi

đời. Nhƣng đó là mơ ƣớc chân chính, thị muốn đổi đời bằng chính sức lao

động của mình…

Rõ ràng, các nữ nhân vật trong truyện của Trần Thùy Mai cũng bị vật

chất và danh vọng cám dỗ. Tuy nhiên, đó không phải là mục đích duy nhất

trong cuộc sống của họ.

Cuộc sống hữu hạn nhƣng khát vọng của con ngƣời lại vô hạn, đặc

biệt trƣớc những cám dỗ của đời sống kinh tế thị trƣờng. Ngƣời phụ nữ

cũng không nằm ngoài guồng quay ấy. Viết về những khát vọng chân

chính, ba nhà văn đã thể hiện niềm cảm thƣơng sâu sắc đối với những

mảnh đời, những con ngƣời.

2.2.1.2. Bi kịch của người phụ nữ trên hành trình đi tìm hạnh phúc

Mang trong mình nhiều khát vọng, đã có những nữ nhân vật hạnh phúc

và mãn nguyện với những thứ mình có. Lụa của Bảy ngày trong đời chịu bao

nhiêu cay đắng tủi nhục khi một mình bụng mang dạ chửa khi ngƣời yêu ra đi

nhƣng lời hẹn ƣớc mông lung. Tuy nhiên, cuối cùng nàng cũng tìm thấy Sánh.

63

Và rồi dù tƣơng lai của ba ngƣời không hứa hẹn những đủ đầy thì họ cuối

cùng đã trở về bên nhau. Song trƣờng hợp may mắn nhƣ Lụa không nhiều.

Tràn ngập trên những trang truyện của ba nữ nhà văn là các bi kịch. Mỗi nhân

vật một hoàn cảnh, một bi kịch… không ai giống ai nhƣng đều gợi lên trong

ngƣời đọc nhiều suy ngẫm.

Bi kịch của sự cô đơn

Trần Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ lúc đằm sâu da diết, khi

mạnh mẽ dữ dội nhƣng thể hiện rất tinh tế và sâu sắc nỗi cô đơn của các nữ

nhân vật. Có thể nói nỗi cô đơn là bi kịch lớn của họ. Đó là sự cô đơn trong

những ngổn ngang đời thƣờng.

Sự cô đơn đến từ những nhân vật chƣa lập gia đình lẫn những ngƣời có

một gia đình đủ đầy; từ ngƣời mới biết yêu đến ngƣời đã đến dốc bên kia của

cuộc đời; từ ngƣời mỏng manh yếu đuối đến ngƣời mạnh mẽ, bản lĩnh…

Những cô gái mới lớn, mới bƣớc vào tình yêu đã tìm thấy sự cô đơn lạc

lõng. Đó là cô gái trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ (Y Ban) với “nỗi cô đơn con

không thể chia sẻ cùng ai”. Chỉ vì lầm lỡ, cô đã phải bỏ đi giọt máu của mình.

Kể từ đó, cuộc sống trong cô là chuỗi ngày ám ảnh và giằng xé. Nỗi đau và sự

cô đơn trở đi trở lại với cô bởi “sau tất cả những cuộc vui, con càng cô đơn

hơn. Con mong muốn tình yêu. Con đã có đầy đủ một tình yêu đầu tiên ấy rồi.

Hoặc là bằng, hoặc là hơn. Mẹ và lý trí không cho con buông thả. Giá nhƣ

ngày ấy mặc dù tội lỗi, mẹ cứ cho chúng con lấy nhau thì con đã trở thành

ngƣời phụ nữ bình thƣờng chứ không phải mang cảnh góa bụa trong cô thiếu

nữ kén chồng thế này”.

Đó còn là Trân trong Cầu thang (Nguyễn Thị Thu Huệ) với nỗi cô đơn,

lạc lõng trong tình yêu. Cô có ngƣời yêu dƣờng nhƣ cô và anh là hai thế giới

khác biệt. Cô chẳng bao giờ đoán chính xác đƣợc anh làm gì. Đó là một thói

quen thì đúng hơn là một tình yêu. Trân cô đơn ngay khi ở bên cạnh ngƣời

64

yêu, ngay khi vừa từ nhà ngƣời yêu về. Đồng nghiệp cô đã nhận ra “Có lần,

anh thấy em khóc từ nơi đó ra. Rồi hôm sau, anh lại thấy em đến. Lúc về, có

khóc nữa hay không thì anh không biết. Đúng không?". Nhƣ vậy, khát khao

yêu thƣơng nhƣng khi yêu, Trân lại thấm thía sâu sắc nỗi cô đơn.

Sự cô đơn trong cuộc sống khiến các nhân vật tìm đến tình yêu mới.

Nhƣng tình yêu ấy càng làm họ thấm thía sâu sắc hơn nỗi cô đơn của mình.

Nhân vật Em trong Hai bảy bước chân là lên thiên đàng (Y Ban) từ bỏ hạnh

phúc bên cạnh ngƣời thƣơng yêu cô hết lòng để chạy theo ngƣời đàn ông mà

cô ngƣỡng mộ. Nhƣng sau hai mƣơi tƣ giờ đồng hồ sống trên mây với những

cảm giác ngọt ngào, cô nhƣ ngƣời rơi vào địa ngục của sự cô đơn. Cô gặm

nhấm nỗi cô đơn khi bị rũ bỏ một cách không thƣơng tiếc. Biển và người đàn

bà (Y Ban) đề cập đến nỗi cô đơn của một ngƣời phụ nữ có vẻ ngoài không

xinh đẹp nhƣng bù lại nàng có một trái tim nhân hậu và bao dung. Nàng đã

cứu sống và khơi dậy những tiềm năng nơi một nhà khoa học bị vợ con từ

chối. Hạnh phúc tƣởng đã mỉm cƣời với nàng và nàng tự vấn: “Hạnh phúc đã

đến với ta rồi chăng? Nàng soi mình xuống biển, biển trả lại nàng một khuôn

mặt xấu xí, già nua với đôi mắt ngời lên hạnh phúc”. Nhƣng đúng lúc con

ngƣời đƣợc nàng cƣu mang và giúp đỡ đứng trên đỉnh vinh quanh ấy thì cuộc

đời lại quay lƣng với nàng. Nàng “khóc thầm trong lòng và thầm nhủ - Ta

biết, đã đến lúc rồi. Một ngƣời đàn bà xấu xí không thể nào giữ đƣợc một

ngƣời đàn ông cho trọn vẹn cả đâu. Cho dù có phải là một ngƣời đàn ông do

mình tạo ra đi nữa, cũng thế thôi". Khi anh đoàn tụ cùng gia đình cũng là lúc

nàng ra đi mang theo khối cô đơn trong lòng.

Nỗi cô đơn không chỉ xuất hiện ở những ngƣời trẻ tuổi mà có ngay cả ở

những ngƣời đã từng trải qua bao nhiêu mối tình, đƣợc bao nhiêu chàng trai

theo đuổi nhƣ nhân vật chính của Người đàn bà có ma lực (Y Ban). Những

thanh âm cuộc sống thƣờng nhật “với tiếng than thở, tiếng lao xao, tiếng dao,

65

thớt lách cách bên hàng xóm vọng sang”, đánh thức phần bản năng thầm kín

trong nhân vật. Quá khứ ùa về nhƣ thƣớc phim sống động, nó càng rực rỡ huy

hoàng bao nhiêu thì cô càng thấm thía nỗi cô đơn của hiện tại. Sự cô đơn đó

càng đáng sợ khi tuổi già đã ập đến. Câu hỏi nhƣ xoáy sâu vào tâm can cô

không lời đáp "Ta là một ngƣời đàn bà, một ngƣời đàn bà rất hoàn hảo nhƣng

tại sao ta lại không có đƣợc cái kết quả của sự hoàn hảo ấy". Ngƣời đàn bà

nhƣ bị bủa vây trong nỗi cô đơn mà càng quên đi nó càng hiện lên rõ nét.

Không chỉ ghé thăm những ngƣời phụ nữ chƣa có gia đình, sự cô đơn

còn len lỏi vào cuộc sống của những ngƣời bề ngoài tƣởng chừng hạnh phúc

đủ đầy. Họ cô đơn khi sống trong gia đình mà vợ chồng là hai thế giới đứng

riêng lẻ cạnh nhau. Ngƣời vợ không phải mối bận tâm của chồng. Một cô

Quyên trong Cánh cửa thứ chín (Trần Thùy Mai) thầm lặng từng ngày dài

trong khu vƣờn lặng lẽ chống lại chứng bệnh thống kinh, chống lại cuộc sống

nhàm chán tẻ nhạt và tù túng. Thế rồi một ngƣời đàn ông ngoài chồng đã đƣa

cô đến với cuộc sống tƣơi đẹp đầy hoa trái bên ngoài. Nhƣng rồi dù “muốn

cùng anh đi vớt mặt trời trên biển tây. Tôi sẽ chịu bỏng, chịu cháy, để đƣợc

đau đớn, đƣợc yêu thƣơng. Tôi muốn chịu đựng mọi thứ trên đời, ngoại trừ sự

tẻ lạnh” cô vẫn phải dừng lại trƣớc cánh cửa thứ chín để tai họa không ập đến

với ai. Cô lại trở về với hiện thực của trƣớc kia.

Thậm chí, khi có đƣợc ngƣời chồng yêu thƣơng, hết lòng vì gia đình họ

cũng cô đơn. Cũng có một cuộc đời bình lặng nhƣ Quyên, Lan của Một nửa

cuộc đời (Nguyễn Thị Thu Huệ) không yêu chồng. Chính vì vậy, cô tìm đến

với Thắng để mong đƣợc sƣởi ấm, đƣợc yêu thƣơng. Nhƣng thật trớ trêu,

càng khao khát cô càng không đạt đƣợc ƣớc mơ. Thắng tỉnh táo đến lạnh

lùng, chỉ coi tình yêu với cô nhƣ một thứ gia vị trong cuộc sống, không bao

giờ bỏ vợ để đến với cô.

Đem theo những háo hức mong chờ và một tình yêu tha thiết, mong

66

mỏi đƣợc gặp tri kỷ sau ba trăm sáu lăm ngày xa cách. Nhƣng càng háo

hức bao nhiêu càng hụt hẫng bấy nhiêu. Với niềm tin mãnh liệt “tình yêu

của mình có thể biến mọi xó xỉnh nghèo hèn thành thiên đƣờng trên mặt

đất”, Ng. trong Thị trấn hoa quỳ vàng (Trần Thùy Mai) rất háo hức và sống

hết mình cho tình yêu. Chỉ một ngày đƣợc gặp nhau thôi nhƣng Ng. và

ngƣời yêu “đến với nhau, kể cho nhau nghe tất cả những cuộc phiêu lƣu

trong một năm ròng. Chỉ một đêm thôi họ đã sống đủ cho ba trăm sáu lăm

ngày”. Vẫn theo lời hẹn xƣa, Ng. đến với thị trấn thơ mộng thân thƣơng.

Nhƣng nhà trọ Hƣớng Dƣơng, những con đƣờng, những ngôi nhà đã có

nhiều đổi thay. Và chàng trai cũng không xuất hiện. Ngập tràn trong nỗi cô

đơn, thất vọng, kí ức về lời sấm của những dân chài năm nào nhƣ lời an ủi

Ng. “Lời sấm tiên báo rằng cái thị trấn nhỏ đáng thƣơng này đƣợc thành

lập trên một doi cát phù du đang bị xói lở dần dần và trong thời gian ngắn

sẽ hoàn toàn sụp đổ”. Lời sấm về thị trấn nhỏ hay về chính tình yêu của

Ng. với ngƣời đàn ông nọ? Nàng ra về với trĩu nặng nỗi buồn.

Mỗi nhân vật một hoàn cảnh nhƣng họ đều mang trong mình nỗi cô đơn

không ngƣời sẻ chia. Và rất nhiều trong số họ đã tìm đến ngoại tình nhƣ một

sự cứu rỗi. Song ngoại tình cũng không giúp họ trở nên hạnh phúc hơn mà nỗi

cô đơn càng sâu sắc và thấm thía hơn.

Nỗi cô đơn còn là tình cảnh của những ngƣời phụ nữ nhẫn nhịn, hi sinh.

Các nhân vật trong tuyện Trần Thùy Mai : Mợ (vợ của cha Ái Duy) trong

Nàng công chúa lạc loài, ngƣời vợ trong Em Dung, ngƣời vợ trong Suối bạc,

mẹ của Mi trong Gió thiên đường, tôi trong Bức tranh cuối cùng… là những

phụ nữ hết lòng và yêu chồng con tha thiết. Nhƣng thật trớ trêu, hạnh phúc

không mỉm cƣời với họ. Mợ trong Nàng công chúa lạc loài là ngƣời phụ nữ

tốt song lại phải ngậm ngùi cam chịu sống cùng ngƣời chồng trăng hoa. Cô

sống trong sự đủ đầy của vật chất nhƣng lại cô đơn, cay đắng kiếp chồng

67

chung. Có lần, cô đã phải đứng ra làm chứng cho chồng trƣớc lời tố cáo của

cô thứ kí mà nát tan cõi lòng “Bất giác em nhận ra giọng nói bình thản kia, đã

từ rất lâu rồi chính mợ đã hiểu hơn ai hết, ba em là ngƣời nhƣ thế nào... em

rùng mình, chới với nhƣ vừa thụt chân xuống vực sâu”. Ngƣời phụ nữ trong

Suối bạc phải đối diện với nỗi cô đơn đến hết đời. Nàng mồ côi mẹ từ nhỏ và

lúc nào mẹ cũng nằm quay lƣng vào vách để yên tâm ngủ say”. Bởi “bà ngoại

mất sớm, từ nhỏ mẹ ngủ một mình. Mẹ rất sợ ma, lúc ngủ mẹ tựa lƣng vào

tƣờng. Lúc ấy mẹ cứ nghĩ nếu có gì nguy hiểm hiện ra thì nó sẽ đến từ phía

bên ngoài, và mẹ quay về phía đó bởi vì ít nhất sau lƣng cũng đã có bức tƣờng

che chắn”. Một thói quen kỳ lạ xuất phát từ sự yếu đuối, mong manh đã đƣa

đến sự hiểu nhầm cho ngƣời chồng. Khi nằm bên chồng, nàng luôn quay mặt

vào vách, coi chồng là chỗ dựa, là một chỗ che chắn. Điều ấy đã khiến ngƣời

đàn ông tự ái, rời bỏ vợ để đi tìm một cuộc sống mới. Mẹ của Mi dù chỉ là

nhân vật xuất hiện rất ít trong truyện nhƣng vẫn hiện lên là ngƣời phụ nữ cô

đơn khi sống bên chồng ngƣời chồng với đôi mắt “lúc nào cũng u uẩn đầy kỷ

niệm” mang trong mình hình ảnh của một ngƣời phụ nữ khác.

Họ không chỉ cô đơn ngay trong căn nhà của mình, ngay bên cạnh một

nửa của cuộc đời mình mà còn cay đắng phải nuôi con riêng của chồng.

Ngƣời vợ trong Em Dung là ngƣời phụ nữ “mảnh khảnh, nhỏ nhẹ, tối ngày cố

xếp đặt căn nhà, khu vƣờn thật chỉn chu, ngăn nắp” yêu chồng, hy sinh suốt

đời vì chồng, nhẫn nhịn dù chồng có nóng tính đến đâu. Mỗi ngƣời “một thế

giới riêng đầy bí ẩn. Ngoài giờ ăn, ngủ, hầu hết thời gian ba tôi giam mình

trong đó. Rồi ít lâu sau, ngƣời ngủ luôn ở đấy, hầu nhƣ không quay về phòng

nữa. Cuộc sống gia đình vẫn lặng thầm trôi đi trong êm ấm”. Nhƣ vậy, ngƣời

phụ nữ không thể chia sẻ niềm vui nỗi buồn, những toan lo của cuộc sống

hằng ngày với chồng. Ngƣời chồng lặng lẽ trong gia đình và hƣớng ra thế giới

bên ngoài. Ở đây không chỉ là cô đơn mà còn là tủi cực, đắng cay. Đặc biệt

68

“một đời khổ hạnh, âm thầm, nhẫn nhục chỉ để đƣợc danh chính ngôn thuận

đứng ở đầu quan tài cha tôi khi đƣa ngƣời đến mộ” thì “đằng xa, ngƣời đàn bà

ôm đứa bé đứng co ro, khép nép, cái nón che nghiêng nửa mặt. Nhiều ngƣời

ném về phía ấy những cái nhìn khinh rẻ, những cái nguýt, cái háy đầy vẻ lạnh

nhạt. Cô ta xin một chiếc khăn tang”. Sự xuất hiện của ngƣời đàn bà và đứa

trẻ xa lạ kia nhƣ vết dao cứa vào lòng tự trọng, vào sự sĩ diện và vào trái tim

cô đơn vốn đã rỉ máu của ngƣời đàn bà bất hạnh. Đây cũng là nỗi đau mà

ngƣời vợ trong Bức tranh cuối cùng phải gánh chịu.

Ngòi bút cảm thƣơng của các nhà văn còn chú ý đến nỗi cô đơn của

những cô gái bán hoa nhƣ Lan, Hồng, Thơm… trong Nhân tình của Y Ban.

Nhƣ vậy mang trong mình những khát khao cháy bỏng, con ngƣời tìm

đến tình yêu. Nhƣng rồi đa số bị thất vọng. Họ ôm trong mình nỗi cô đơn

không ngƣời sẻ chia. Có thể nói nỗi cô đơn ám ảnh các nữ nhân vật trong

truyện ba tác giả. Có khi nó đƣợc biểu hiện qua các tình huống, có khi là sự

thốt lên thành lời: “Tôi cô đơn quá rồi”, “sao ngƣời mỗi ngày một đông nhƣ

kiến mà tôi cô đơn thế này” (Giai nhân – Nguyễn Thị Thu Huệ); “Tôi luôn cô

đơn, khát khao một cái gì cụ thể nên chẳng bao giờ có” (Cát đợi – Nguyễn

Thị Thu Huệ).

Qua những nỗi đau của quá khứ và sự trống rỗng giằng xé của hiện tại ở

các nhân vật, các tác giả đã đi vào tận cùng của nỗi cô đơn để khám phá vẻ

đẹp thẳm sâu trong tâm hồn con ngƣời. Những con ngƣời cô đơn ấy vẫn đau

đáu những hoài vọng và khát khao về tình yêu, hạnh phúc.

Bi kịch bị lừa dối, bị phản bội

Nếu cô đơn là bi kịch chung của những ngƣời phụ nữ trong truyện của cả

ba nhà văn thì bị lừa dối, bị phản bội lại là bi kịch trở đi trở lại ở nhiều truyện

ngắn Trần Thùy Mai.

Đó là tình cảnh của những ngƣời vợ trong Em Dung hay Nàng công

69

chúa lạc loài… Họ đều hết lòng yêu chồng, hy sinh vì gia đình nhƣng cuối

cùng thì ngƣời chồng lại tìm hạnh phúc bên ngoài và không ít lần làm cho

họ tổn thƣơng.

Không phải chỉ có những ngƣời hiền hậu, nhẫn nhịn mới lâm vào bi kịch

này mà ngay cả những ngƣời sắc sảo, thông minh cũng cay đắng trƣớc tình

huống dở khóc dở cƣời mà chồng mình đƣa đến. Đó là trƣờng hợp bà Hải

trong Tháng tư trở lại. Vốn là một phụ nữ thông minh, sắc sảo và có tài thu

vén, gần hết cuộc đời ông Hải không thoát khỏi vòng kiềm tỏa của bà. Bà sắp

đặt không chỉ việc gia đình mà cả việc cơ quan của ông đâu vào đấy. Với gia

đình nhà chồng bà là ngƣời chu đáo, tận tình. Ấy vậy mà chỉ có vài lần về quê

ăn giỗ, ông đã vụng trộm với một cô gái quê và có con. Khi biết đƣợc tin ấy,

bà “tƣởng nhƣ sét nổ ngay trƣớc mặt”, “ Bà ngã ngồi xuống bộ ván, trời đất

tối sầm”, “Suốt đêm bà Hải không ngủ đƣợc, lắng nghe tâm tƣ mình bà thấy

hình nhƣ không phải nỗi đau đớn, mà là nỗi căm hận và kinh ngạc”.

Nhƣng có lẽ bi kịch bị phản bội, bị lừa dối đƣợc thể hiện sâu sắc nhất

phải kể đến là bi kịch của Hạnh trong Trăng nơi đáy giếng. Hạnh yêu và

chăm sóc Phƣơng cẩn thận, tỉ mỉ “Bữa ăn không cần thịt cá, đôi khi chỉ cần

đĩa bông bí chấm nƣớc tôm kho đánh, nhƣng nƣớc tôm phải thật sánh, thật

thơm, đỏ rực. Thịt bò thì nhất định phải nấu canh với hoa thiên lý, tô canh dìu

dịu mùi hƣơng ngọt ngào. Đêm khuya ngồi đọc sách, chỉ cần ăn củ khoai bồi

dƣỡng, nhƣng khoai phải ngọt, dẻo, hấp với lá dứa. Chiều thì vài lóng mía

tiện thật sạch sẽ, ửng màu đỏ cầm rƣợu. Căn nhà nhỏ không có đồ đạc gì xa

hoa, nhƣng sạch nhƣ lau nhƣ li. Tính thầy Phƣơng rất sợ bẩn. Trong bếp,

phòng tắm, những cái chậu đủ màu đƣợc cô Hạnh đặt đúng vị trí của chúng,

tất cả đều khô ráo, sạch sẽ”. Hạnh đã nén nỗi đau để tìm một ngƣời sinh con

cho chồng chỉ vì không chịu đƣợc nét buồn vƣơng vất trên mặt Phƣơng.

Nhƣng thật xót xa, đáp lại tình yêu chân thành sâu sắc và sự tận tụy của Hạnh

70

là sự lừa dối và phản bội đến trơ tráo của Phƣơng. Phƣơng đã dựng nên một

kịch bản hoàn hảo để chính thức đến với Thắm và ruồng rẫy Hạnh. Màn kịch

chỉ đƣợc hạ khi trong một lần tình cờ đến nhà Bà Thu – Thƣ ký công đoàn,

Hạnh ngỡ ngàng vì sự hi sinh và tình yêu bấy lâu mình đặt nhầm ngƣời: “Vào

đến cửa, tôi chững lại khi nghe tiếng anh Phƣơng, rồi tiếng Thắm. Một giỏ

quà, ý chừng đồ đi Tết, đang nằm trên ghế. Bà Thu cƣời: Không có tôi thì anh

chị còn mỗi ngƣời một nơi đến bao giờ? Nhƣng mà nói vậy chứ không nhận

quà này nhé. Bày vẽ làm gì, cái tình với nhau là chính". "Ấy, chút quà xin chị

nhận cho, của thảo lòng thành”, “Bà Thu ngọt ngào: "Cái cô Thắm này khéo

thật, chả trách bà Hạnh cất công tìm tòi chọn lựa mãi". Tiếng Thắm cƣời:

"Chị ấy tƣởng thế thôi chứ thực ra trƣớc khi bà thím giới thiệu với chị thì anh

Phƣơng đã gặp em mấy lần khi về quê ăn giỗ". "Quả là chồng khéo vợ khéo,

trách gì chẳng thành đôi". Họ cƣời, tiếng cƣời vui vẻ râm ran trong đêm yên

ả...”. Tất cả mọi thứ nhƣ sụp đổ trƣớc mắt. Cô bị chính những ngƣời mà mình

tin yêu hết lòng phản bội. Bƣớc chân vô định đƣa Hạnh đến với thế giới tâm

linh. Tƣởng nhƣ Hạnh có thể gục ngã trƣớc hiện thực trớ trêu nhƣng bà đồng

Thơi và thế giới tâm linh là liều tiên dƣợc đã cứu rỗi cô. Hạnh phúc của cô

giống nhƣ Trăng nơi đáy giếng – thứ hạnh phúc hƣ ảo. Hóa ra lâu nay thứ tình

yêu và sự chân thành mà cô cảm nhận không hề tồn tại. Bị phản bội, niềm tin

vào thế giới thực bị sụp đổ, Hạnh tìm đến cõi âm. Thế giới ấy đem đến cho

Hạnh sự ấm áp của niềm tin.

Bi kịch bị phản bội cũng đƣợc đề cập trong truyện Y Ban (Ai chọn dùm

tôi) và Nguyễn Thị Thu Huệ (Một trăm linh tám cây bằng lăng, Nước mắt

đàn ông…). Sự phản bội của những ngƣời đàn ông đã đẩy ngƣời phụ nữ vào

trạng thái hoang mang, cô đơn đến tột độ. Lời tự vấn của cô gái trong Ai chọn

dùm tôi nhƣ xoáy sâu vào lòng ngƣời nỗi xót xa, chua chát “Tôi đã sống thành

71

mà có nhận đƣợc quả phúc đâu”.

Nhƣ vậy dù ở địa vị nào trong xã hội, dù là cá tính ra sao thì nhân vật

nữ trong truyện ngắn ba tác giả cũng ít nhiều rơi vào bi kịch bị phản bội, bị

lừa dối.

Bi kịch ngộ nhận, ảo tưởng (Thần tượng bị sụp đổ)

Ngƣời phụ nữ yêu và sống hết mình vì tình yêu ấy, thậm chí còn hi sinh

bản thân cho ngƣời mình yêu. Và với họ, ngƣời đàn ông trở thành thần tƣợng

với bao nhiêu điều tốt đẹp. Nhƣng rồi thời gian là thứ thuốc nhiệm màu đã

phủi đi lớp bụi của hào nhoáng lung linh, đƣa hình ảnh những ngƣời đàn ông

trở về với đúng bản chất. Ngƣời phụ nữ đã ngỡ ngàng, đau đớn và tiếc nuối

trƣớc sự sụp đổ của thần tƣợng trong họ. Tâm trạng ấy có sự gần gũi với cô

gái trong bài ca dao thuở nào:

Em tƣởng giếng sâu em nối sợi dây dài

Ai ngờ giếng cạn em tiếc hoài sợi dây

Đó là tình cảnh của khá nhiều nữ nhân vật kể cả những cô gái mới bƣớc

vào tình yêu cho đến những ngƣời từng trải.

Ngƣời đọc đồng cảm với nỗi đau, sự thất vọng của Tý (Lên phố), Na

(Người bán linh hồn), Tôi (Hai bảy bước chân là lên thiên đàng)... Với tình

yêu trong sáng, mãnh liệt, họ tôn thờ ngƣời yêu và nhận về mình những toan

lo thƣờng nhật. Nhƣng rồi tình yêu của họ đã rũ bỏ tất cả để chạy theo cám dỗ

vật chất và danh vọng. Sau bốn năm đại học vất vả có Tý sẻ chia, Dũng đã

chọn Kiều Nga cho một tƣơng lai tƣơi sáng của mình. Tuấn đã bán linh hồn vì

tiền bạc và danh vọng. Là thần tƣợng của tôi (Hai bảy bước chân là lên thiên

đàng), ngƣời đàn ông quyền lực và địa vị xuất hiện hằng đêm trên chƣơng

trình thời sự cũng chỉ là con ngƣời trăng hoa, đớn hèn. Hạnh phúc vì nhận

đƣợc tình yêu của ngƣời mình tôn thờ, ngƣỡng mộ cô gái tƣởng chừng vỡ òa

trong niềm hạnh phúc. Nhƣng chỉ qua hai tƣ giờ, thần tƣợng ấy sụp đổ nát tan.

72

Cô háo hức, hồi hộp khi gọi cho anh, chờ đợi những yêu thƣơng từ anh:

“Đúng cái khoảnh khắc ấy, tim em lại đập loạn lên. Em chờ điện thoại của

anh”, “Tim em muốn nổ tung ra. Em không thể chờ đƣợc nữa. Em run rẩy

bấm số điện thoại của anh”. Song đáp lại chỉ là sự thờ ơ dửng dƣng, lạnh lùng

nhƣ những ngƣời xa lạ “Đúng là giọng nói của anh hay nói với em rồi. Nhƣng

là giọng của công việc chứ không phải là giọng của nồng nàn”. Vậy là càng

trông mong, hy vọng bao nhiêu; nỗi thất vọng càng lớn lao, ê chề bấy nhiêu.

Bi kịch ngộ nhận ảo tƣởng đƣợc thể hiện rõ nhất trong Trăng nơi đáy

giếng. Phƣơng – vị thánh sống trong Hạnh cũng chỉ là kẻ hèn nhát, tầm

thƣờng, đạo đức giả mà thôi. “Thần tƣợng của tôi, vị thánh sống của tôi ngồi

chò hỏ giặt đồ bên bể nƣớc. Những bọt trắng xà phòng bay, bay tấp tới, nhận

chìm tôi, tức tƣởi, mê man...”. Phƣơng không nho nhã, không đẹp đẽ ,lung

linh nhƣ Hạnh vẫn tƣởng. Yêu đến tận cùng, tin đến tận cùng nên nỗi đau của

sự thất vọng cũng là vô biên. Nỗi đau, sự cô đơn trƣớc sự thật phũ phàng

tƣởng chừng có thể làm Hạnh gục ngã.

Trần Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ đều quan tâm đến ngƣời

phụ nữ của gia đình với những dằn vặt, suy tƣ. Họ mang trong mình những

xúc cảm phức tạp với nhiều khát khao. Yêu hết mình và có ƣớc mơ cháy bỏng

về một tình yêu trọn vẹn, một mái nhà hạnh phúc. Tuy nhiên, trong gia đình ít

nhiều có những vết rạn, các mối quan hệ không nhƣ họ mong muốn. Ngƣời

phụ nữ chịu nhiều giằng xé và tìm điểm tựa ở thế giới bên ngoài song họ cũng

không tìm đƣợc sự bình yên.

2.2.2. Nhân vật nam trong truyện ngắn ba tác giả

Hầu hết trong các tác phẩm của ba nhà văn, nhân vật chính là ngƣời phụ

nữ. Chính vì vậy nam giữ vai trò thứ yếu. Tuy nhiên, đây lại là yếu tố có vai

trò quan trọng góp phần khắc họa hình ảnh ngƣời phụ nữ. Họ giúp nhân vật

nữ bộc lộ những khát vọng và bi kịch đồng thời cho thấy những bƣớc chuyển

73

của gia đình trong xã hội đƣơng đại.

Những trang viết về nam giới cũng thật sâu sắc. Các nhà văn đã diễn tả

một cách chân thành, tinh tế thế giới cảm xúc, những biến đổi của nhân cách

trƣớc cám dỗ của cuộc sống. Xây dựng ngƣời đàn ông dù là đớn hèn, ích kỉ

hay độ lƣợng bao dung thì ẩn đằng sau là cái nhìn cảm thông và sự bao dung

độ lƣợng, là khát vọng về những đấng mày râu “làm trai cho đáng nên trai”.

Đƣợc xây dựng tƣơng đối phong phú với nhiều độ tuổi, nhiều tính cách,

nhiều nghề nghiệp khác nhau, nhân vật nam dù xuất hiện ít hay nhiều cũng

đều đƣợc miêu tả rất sinh động. Họ xuất hiện với vai trò trụ cột của gia đình.

Không ít ngƣời trong số họ yêu hết mình, chân thành, hết lòng vì tổ ấm yêu

thƣơng. Đó là những phẩm chất tốt đẹp của không chỉ những ngƣời đàn ông

đã bƣớc vào cuộc sống gia đình mà ngay cả với những chàng thanh niên mới

biết yêu. Ngƣời đọc dành sự yêu mến cho Măng trong Biển đời người của

Trần Thùy Mai. Măng yêu và chăm sóc Bim từ những điều nhỏ nhặt nhất. Có

thể nói anh là ân nhân của Bim. Tình yêu trở thành động lực để anh vƣợt qua

bao gian khổ, là lá chắn vững vàng cho Bim. Nhƣng rồi tình yêu ấy bỗng trở

thành hoài niệm khi Bim chọn chồng giàu có. Chàng trai chung tình ấy ôm

niềm đau bị phụ bạc với mối tình dang dở. Nhƣng khi gặp lại ngƣời từng phản

bội mình, thấy Bim gầy hơn, cuộc sống chật vật cực khổ thì lòng Măng lại

nhƣ chùng xuống. Ngƣời đọc xúc động trƣớc tình yêu sâu nặng, chân thành;

một nhân cách cao thƣợng, độ lƣợng bao dung nơi Măng. Ngay cả chàng trai

trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ của Y Ban, dù có điều đáng trách song cũng

không thể phủ nhận tình yêu chân thành và dám đƣơng đầu với hậu quả của

cậu. Chỉ xuất hiện ít trong tác phẩm và có điều đáng giận song chàng trai ấy

vẫn rất đàng hoàng. Khi ngƣời yêu phải nằm viện để giải quyết hậu quả của

tình yêu gữa hai ngƣời, chàng trai dù hoang mang, sợ sệt và xấu hổ nhƣng vẫn

ở bên cạnh, hằng ngày vẫn mang cơm vào cho ngƣời yêu. Sánh của Bảy ngày

74

trong đời là bộ đội phục viên mang trong mình những chứng tích của chiến

tranh. Anh đã yêu và gắn bó với Lụa. Tuy nhiên, vì vấn đề sức khỏe, anh phải

tạm biệt cô. Nhƣng trƣớc khi đi anh còn để lại địa chỉ để cô có thể tìm anh.

Cuối cùng hạnh phúc đã mỉm cƣời với anh khi Lụa cùng đứa con đến tìm.

Với những ngƣời đàn ông đã thật sự bƣớc vào cuộc sống gia đình nhƣ

Hải (Một nửa cuộc đời – Nguyễn Thị Thu Huệ), tôi (Onkel yêu dấu – Trần

Thùy Mai), họ luôn chăm lo cho tổ ấm thân yêu của mình. Họ yêu thƣơng và

chăm sóc vợ con, thật sự là chỗ dựa vững chắc cho vợ con. Đôi khi họ rơi vào

những tình huống khó khăn phải giằng xé đấu tranh giữa con ngƣời bản năng

và con ngƣời lý trí. Sợi dây ngăn cách mỏng manh nhƣ sợi tóc nhƣng cuối

cùng con ngƣời lý trí, con ngƣời của gia đình trong họ đã chiến thắng. Vẻ đẹp

lung linh trong tâm hồn ấy rất cần thiết với mỗi con ngƣời, nhất là trong xã

hội đƣơng đại với biết bao cám dỗ. Hải là một ngƣời đàn ông cần mẫn, chăm

chỉ, chu đáo và yêu thƣơng vợ con hết lòng. Hãy xem sự tỉ mỉ, chu đáo mà

anh dành cho vợ khi chuẩn đồ cho vợ đi công tác “một túi ni lông đựng thuốc

các loại. Cuộn chỉ trắng, chỉ đen và những cái kim. Con dao và cái kéo con”.

Đây là ngƣời đàn ông đáng trân trọng với nhân cách, tình yêu và lòng nhân

hậu. Nếu Hải đƣợc ở gần vợ con để toàn tâm cho gia đình thì tôi trong Onkel

yêu dấu phải lƣu lạc nơi đất khách quê ngƣời, làm nghiên cứu sinh ở Đông

Đức. Những khát vọng rất đời thƣờng đôi khi cũng phải kìm nén và không ít

lần anh phải đứng trƣớc những cám dỗ “cảm giác chạm khẽ gờn gợn ấy

không khỏi để lại cho tôi vài giây xôn xao ngoài ý muốn. Nhƣ thế cũng đủ

làm cho tôi sợ hãi không dám đến gần Eva trong suốt buổi tối ấm áp đó”,

“chợt nhìn lên bờ, tôi thấy cô Eva mặc bikini ngồi trên xích đu, đôi chân thon

dài duỗi ra mịn màng dƣới nắng”, “Tôi bỗng rùng mình ôm chầm lấy cô bé,

nhƣng một phút thôi, tôi kịp nghĩ lại, buông ngay”… Vƣợt qua những giây

phút ấy, hình ảnh vợ con và quê hƣơng là điểm tựa đƣa tôi trở về với thực tại,

75

giúp tôi làm chủ đƣợc bản thân. Có ai đó đã nói rằng chiến thắng bản thân là

thứ chiến thắng vinh quang nhất. Có lẽ điều ấy đúng trong trƣờng hợp này.

Nó góp phần làm hình ảnh ngƣời đàn ông trong truyện ngắn ba tác giả trở

nên đẹp đẽ, lung linh. Đó cũng là niềm mong ƣớc, là khát vọng của nửa thế

giới còn lại.

Bên cạnh đó, chúng ta còn bắt gặp những ngƣời đàn ông sống theo

những cảm xúc nhất thời, yêu hết mình nhƣng khi hết yêu lại đi tìm tình yêu

mới nhƣ ngƣời đàn ông trong Cát đợi, Cầu thang của Nguyễn Thị Thu Huệ.

Và đặc biệt là Hiếu trong Gió thiên đường của Trần Thùy Mai. Cậu quan

niệm “ngƣời ta có thể cố gắng học, cố gắng làm, không ai có thể cố gắng

yêu”. Bởi thế, khi yêu một cô gái nhƣng bị cấm Hiếu có thể trèo tƣờng ba lần

để vào nhà gặp ngƣời yêu song khi gặp Mi thì “thƣơng Mi lắm, có thể đội Mi

lên đầu đi khắp phố cũng chẳng sao”. Hoặc ngƣời đàn ông của Thập tự hoa

(Trần Thùy Mai) đã đem tình yêu cùng cả thế giới đặt vào trái tim ngƣời phụ

nữ nhƣng ra đi lặng lẽ để laị cho ngƣời mình yêu một khoảng trống mênh

mang bởi “trong tình yêu, đàn ông rất khác đàn bà. Đàn ông khởi đầu một

cách điên cuồng rồi dịu đi trong hèn nhát, còn đàn bà càng lúc càng giam

mình trong kỷ niệm, ngu dại và xót xa”.

Đôi khi vì những tự ái vẩn vơ hay vì những rào cản mà hạnh phúc tuột

khỏi tay để rồi họ phải ân hận day dứt. Đó là ngƣời đàn ông trong Suối bạc

hay Thương nhớ hoàng lan (Trần Thùy Mai).

Hoặc họ mải mê quá với công việc, không để ý nhiều đến gia đình. Giữa

họ với ngƣời vợ có những khoảng cách. Rồi khoảng cách ấy ngày càng rộng

ra đã đẩy ngƣời phụ nữ của họ phạm phải những sai lầm. Ngƣời chồng trong

Tàu ngầm xuyên đại dương của Trần Thùy Mai bị cuốn vào những cuộc tiếp

khách thâu đêm để rồi trở về khi mọi ngƣời đã say giấc. Anh và vợ gần nhƣ là

76

hai thế giới hoàn toàn khác nhau.

Xuất hiện trong truyện ngắn ba tác giả là những ngƣời đàn ông tham

lam, ti tiện, hám danh, ham vật chất trong Trăng nơi đáy giếng, Lên phố,

Người bán linh hồn, Ai chọn dùm tôi… Khi có cơ hội đổi đời, họ sẵn sàng rũ

bỏ những ân tình, hy sinh của ngƣời mình yêu. Sự phũ phàng bội bạc của

những ngƣời đàn ông ấy đã khiến cho nữ nhân vật rơi vào trạng thái bế tắc,

đau đớn, xót xa.

Đó là những ngƣời đàn ông tỉnh táo, tính toán, nhƣng lại vô trách

nhiệm. Họ đã có gia đình yên ấm với ngƣời vợ đảm (vốn đến với nhau

bằng tình yêu ) và những đứa con ngoan. Tuy nhiên, để tăng gia vị của

cuộc sống, họ lại phiêu lƣu trong những cuộc tình bên ngoài. Đó là Thắng

của Một nửa cuộc đời tỉnh táo, khôn ngoan đến lạnh lùng trong truyện

Nguyễn Thị Thu Huệ. Thắng xác định với ngƣời tình“Anh cũng yêu em,

nhƣng anh không thể phá vỡ cuộc sống gia đình đƣợc” và coi chuyện giữa họ

“Chẳng qua nó là gia vị trong một bữa ăn. Tí cay, tí chua, tí ngọt cho dễ nuốt

chứ không phải cái ăn hằng ngày”. Thậm chí, trong số họ có những ngƣời bỏ

bê gia đình vợ con để đi theo những cảm xúc phiêu lƣu bên ngoài.

Nhiều ngƣời trong số họ đã bỏ bê vai trò trụ cột gia đình, điểm tựa vững

chắc của gia đình. Họ đánh đập, chửi mắng vợ con thậm tệ và hình ảnh ngƣời

cha bỗng trở nên méo mó trong mắt con trẻ. Đứa con trong Một trăm linh tám

cây bằng lăng vốn là một chàng trai ngoan hiền, hiếu thảo nhƣng đã bị chính

những lời nói và việc làm của ngƣời cha đẩy đến phải đấm bố và cầm dao

đuổi bố ra khỏi nhà. Ái Duy ở Nàng công chúa lạc loài vốn rất ngƣỡng mộ,

tôn thờ bố nhƣng sự lăng nhăng trong các mối quan hệ của ông đã khiến cô

sụy đổ “rùng mình chới với nhƣ vừa thụt chân xuống vực sâu”. Ngƣời cha từ

chỗ là tất cả niềm tin, điểm tựa bỗng chốc hóa bọt bèo.

Có lẽ điển hình cho ngƣời đàn ông bội bạc, hám danh, đạo đức giả

77

phải kể đến thầy giáo Phƣơng trong Trăng nơi đáy giếng. Không chỉ Hạnh

bị lừa dối mà ngay cả ngƣời đọc cũng bị lầm tƣởng về con ngƣời này. Ai

cũng nghĩ rằng Phƣơng là ngƣời yêu thƣơng Hạnh hết lòng, phải khổ sở

lắm khi bị vợ bắt phải lấy ngƣời đàn bà khác để kiếm mụn con. Con ngƣời

ấy còn là hiệu phó của một trƣờng trung học với chuyên môn vững vàng.

Quả là một con ngƣời đáng nể, thật xứng đáng với những hy sinh của

ngƣời vợ bé nhỏ. Tuy nhiên, màn kịch chỉ đƣợc hạ xuống và bản chất của

Phƣơng đuợc bộc lộ rõ lúc Hạnh nghe đƣợc cuộc trò chuyện giữa Phƣơng,

Thắm và bà Thu chủ tịch công đoàn. Hóa ra Phƣơng là kẻ ti tiện, đạo đức

giả, hám danh, tham lam. Phƣơng thản nhiên sống trên nỗi đau của vợ,

không chút bận tâm về vợ mà chỉ ung dung hƣởng thụ. Hạnh chăm chút cẩn

thận tỉ mỉ, nhận về mình những hi sinh còn Phƣơng lại cho phép mình lừa

dối cô để đến với Thắm. Phƣơng ung dung cuộc sống hạnh phúc bên vợ

con mới để mặc Hạnh với nỗi cô đơn ngập tràn.

Nhƣ vậy, nhiều nhân vật nam là thần tƣợng bị sụp đổ. Họ là trụ cột của

gia đình, lẽ ra có thể đem đến cho ngƣời phụ nữ và những đứa con hạnh phúc

nhƣng ngƣợc lại, rất nhiều ngƣời trong số họ khiến ngƣời trong gia đình phải

đau khổ, dằn vặt…

Rõ ràng, viết về nhân vật nam, ba nhà văn đã đề cập đến khá nhiều kiểu

ngƣời khác nhau. Ở họ có những cao thƣợng lẫn thấp hèn. Cho dù viết về cái

cao thƣợng hay thấp hèn cũng đều là cách để các nhà văn gửi niềm mong mỏi

của mình về những ngƣời đàn ông yêu và hết lòng vì gia đình.

2.2.3. Nhân vật trẻ em trong truyện ngắn ba tác giả

Trẻ em xuất hiện thấp thoáng trong các tác phẩm của ba nhà văn. Rất ít

truyện ngắn chỉ tập trung bàn về vấn đề trẻ em. Tuy nhiên, dù ít hay nhiều các

nhà văn đều dành cho trẻ em tình yêu thƣơng, sự cảm thông sâu sắc và lời

78

cảnh tỉnh đối với xã hội.

Có thể nhận thấy điểm nổi bật trong truyện ngắn ba nhà văn là những

đứa trẻ đáng thƣơng, nhỏ bé, cần đƣợc chở che, cần tình yêu thƣơng và mái

ấm gia đình. Nhân vật thị trong I am đàn bà (Y Ban) với bản tính ngƣời mẹ

đã không cầm đƣợc xúc động khi nhìn thấy đứa trẻ mới đƣợc sinh “còn

nguyên cả dây rốn nối với bánh rau bị bỏ vào một cái dành lót rơm treo lên

nhành cây trong rừng” và đem về nuôi khi thấy nó còn sống. Mặc dù nhà

đông con và nghèo nhƣng gia đình thị đã không hắt hủi đối với đứa bé mà

nuôi và coi nó nhƣ con đẻ… Ngay cả khi đứa trẻ là kết quả của mối tình

vụng trộm giữa chồng với ngƣời phụ nữ khác thì những ngƣời phụ nữ với

thiên chức làm mẹ vẫn không nỡ từ bỏ việc nuôi nấng mặc dù sự xuất hiện

của đứa trẻ nhƣ vết dao làm sâu sắc hơn nỗi đau của ngƣời phụ nữ (Em

Dung - Trần Thùy Mai).

Đôi khi vì hoàn cảnh gia đình nghèo khó, những đứa trẻ phải hy sinh để

mƣu cầu kiếm sống, lo lắng cho gia đình. Chị tôi của Nguyễn Thị Thu Huệ là

một thí dụ. Sinh ra trong một gia đình nghèo, bố mẹ không hạnh phúc, ngƣời

chị phải vào Sài Gòn làm để có tiền nuôi em học và trang trải nhà cửa. Vậy là

gánh nặng kinh tế lẽ ra do cha mẹ đảm đƣơng nay bỗng chốc đổ hết lên tấm

vai gầy bé nhỏ của ngƣời con gái. Không mấy khi đƣợc gặp ngƣời nhà, cô

phải lang thang nơi bến tàu nhếch nhác…

Nhu cầu đƣợc sống trong mái ấm gia đình với tình yêu thƣơng từ bố mẹ

và những ngƣời thân là nhu cầu hoàn toàn chính đáng nhƣng vì những lý do

khác nhau, trẻ em trong truyện ngắn ba nhà văn phải chịu những thiệt thòi về

cả vật chất lẫn tinh thần.

Bố mẹ bận rộn mải mê với công việc khiến các em không có ngƣời

hƣớng dẫn, tự mình tìm bƣớc cho cuộc đời của mình. Và đã có những đứa trẻ

lạc đƣờng. Là một đứa trẻ nhạy cảm, giàu tình yêu và khát khao đƣợc yêu

79

thƣơng chăm sóc, đứa con trong Hậu thiên đường (Nguyễn Thị Thu Huệ) đã

không đƣợc biết đến tình yêu và sự hiện diện của ngƣời bố từ khi em xuất

hiện. Còn ngƣời mẹ, vì sự thất bại trong tình yêu, đã đắm chìm trong những

cuộc vui của riêng mình. Em đối mặt với những cô đơn, tự dò dẫm con đƣờng

cho cuộc đời mình để rồi lại dẫm chính vết xe đổ của ngƣời mẹ cách đó mƣời

sáu năm. Nơi cô tƣởng là thiên đƣờng, ngƣời tƣởng là tình yêu đích thực cứu

cô thoát khỏi những cô đơn lại là một kẻ ti tiện, bủn xỉn… Nếu ngƣời mẹ tỉnh

táo hơn sau lần đổ vỡ của mình, nghĩ cho đứa con và dành cho con sự quan

tâm có lẽ cô bé đã không gặp phải ngƣời đàn ông kia với một tƣơng lai hậu

thiên đƣờng đầy những trắc trở. Và những lỗi lầm của con trẻ trở thành niềm

ám ảnh, day dứt đến hết cuộc đời chúng. Những đứa trẻ vừa đáng giận vừa

đáng thƣơng. Chàng trai và cô gái trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ (Y Ban) đã đi

quá giới hạn trong tình yêu. Để bảo đảm tƣơng lai cho cả hai, bà mẹ đã yêu

cầu con gái đến bệnh viện giải quyết hậu quả. Nỗi đau về tinh thần và thể xác

khiến cô gái day dứt ám ảnh không nguôi. Hằng đêm trở về với căn phòng, cô

lại đối mặt với nỗi cô đơn, dằn vặt “Ngày ngày con vẫn cứ nhập cuộc: con đi

xem, đi vũ hội, đi du lịch... nhƣng sau tất cả những cuộc vui, con càng cô đơn

hơn. Con mong muốn tình yêu. Con đã có đầy đủ một tình yêu đầu tiên ấy rồi.

Hoặc là bằng, hoặc là hơn. Mẹ và lý trí không cho con buông thả. Giá nhƣ

ngày ấy mặc dù tội lỗi, mẹ cứ cho chúng con lấy nhau thì con đã trở thành

ngƣời phụ nữ bình thƣờng chứ không phải mang cảnh góa bụa trong cô thiếu

nữ kén chồng thế này”.

Đa số trẻ em thƣờng là những nạn nhân của sự đổ vỡ, rạn nứt từ gia

đình. Các em bé bỏng, đáng thƣơng, côi cút không nơi nƣơng tựa. Gia đình

không còn là mái ấm. Đó là những đứa trẻ sống trong cảnh thiếu thốn nhƣ Rô

đa (Khói trên sông Hương) hoặc Bi (Suối bạc) của Trần Thùy Mai. Ngƣời đọc

không khỏi xúc động trƣớc sự trong sáng, hồn nhiên của Bi (Suối bạc). Có gia

80

đình, đƣợc sống trong mái ấm và tình cảm yêu thƣơng của bố mẹ là điều rất

bình thƣờng song cô bé lại quá quen với cuộc sống thiếu vắng tình cảm của

cha khi mẹ mất. "Mợ Minh và em Huy có khỏe không ba?", đằng sau câu hỏi

ấy là một sự hồn nhiên và cam chịu đến đáng thƣơng.

Không phải gánh chịu nỗi đau chia cắt nhƣng khi bố mẹ sống với hai

khoảng trời riêng, những đứa con cũng không thể vô tƣ hồn nhiên nhƣ vốn dĩ

chúng cần đƣợc hƣởng. Tôi và Dung (Em Dung – Trần Thùy Mai) không dám

đùa nghịch thoải mái mà phải dò xét và nhiều khi là nín thở trƣớc những cuộc

cãi vã, những cơn giận và những nỗi niềm của bố mẹ… Chứng kiến sự rạn

nứt của gia đình, trái tim non nớt trẻ thơ cũng bị khuyết thiếu hoặc sai lệch.

Trong gia đình bố mẹ thƣờng giao tiếp với nhau bằng những từ ngữ chát

chúa, lạnh lùng và đôi khi cay nghiệt khiến con trẻ không nhận thức đầy đủ,

trọn vẹn, đúng nghĩa về tình yêu. Sẵn đƣợc nuông chiều về vật chất, chúng

học đòi bắt chƣớc (Nước mắt đàn ông – Nguyễn Thị Thu Huệ). Đôi khi vì bất

bình với thực tại, chán ghét thực tại, các em đi tìm cho mình một hình mẫu

đối lập. Nhƣng khát vọng chính đáng ấy lại không đƣợc cha mẹ dìu dắt, các

em tự lần tìm đƣờng đi để rồi lại rơi vào những sai lầm (Hậu thiên đường –

Nguyễn Thị Thu Huệ).

Không nhận đƣợc sự quan tâm từ phía gia đình, những đứa trẻ trở thành

nạn nhân của nhiều tệ nạn xã hội.

Có khi là những “đệ tử” của các trò game trực tuyến nhƣ Dung, Phƣớc

Tuệ (Hoa phù dung dưới núi – Trần Thùy Mai). Dung sống với bố và mẹ kế

nhƣng mẹ kế thì không quan tâm, cha em hầu hết thời gian vắng nhà. Ông bù

lại cho em về vật chất, cƣng chiều. Nhƣng với em, cuộc sống đâu chỉ cần có

thế. Em cần thế giới tinh thần, cần đƣợc bảo bọc chở che. Vậy nên, em suốt

ngày đóng cửa ngồi trong phòng, vào vai Dung muội phiêu lƣu cùng Lăng

Hoa Tử trong những trận chiến. Có thể nói đời sống vật chất đủ đầy nhƣng

81

thế giới tinh thần lại nghèo nàn và kiệt quệ. Việc Dung chìm đắm trong thế

giới game ảo không có gì ngạc nhiên bởi nếu không có thế giới ấy em sẽ

không biết tìm điểm tựa ở đâu. Dƣờng nhƣ những đứa trẻ ấy đang tồn tại chứ

không phải sống “Nàng gầy mảnh, ẻo lả nhƣ hoa phù dung, da trắng xanh nhƣ

chƣa hề gặp nắng trời. Trong bộ quần áo rất mốt nhƣng nhàu nát, nàng bƣớc

đi ngập ngừng nhƣ đang lạc vào một thế giới xa lạ, mắt ngơ ngác nhìn quanh

với vẻ ngu ngơ xao xuyến đến não lòng”. Sự gặp gỡ và gắn bó giữa Dung và

Phƣớc Tuệ ở cuối câu chuyện là cái kết có hậu dành cho những mảnh đời bất

hạnh, làm sáng lên vẻ đẹp của tình ngƣời.

Có khi các em trở thành món hàng của những gã trăng hoa nhƣ Ái Duy

(Nàng công chúa lạc loài – Trần Thùy Mai). Mẹ mất sớm, bố thì “luôn luôn

bận rộn với công việc và thƣờng xuyên vắng nhà”, Ái Duy sống trong “căn

nhà rộng, u nhã, lạnh lẽo” cùng “một bà cô nghễnh ngãng” và sau đó là sự

xuất hiện của ngƣời mẹ kế tốt bụng. Điều níu giữ em với cuộc đời, là điểm

tựa cho em chính là tình yêu và sự tôn thờ ngƣời cha “Cô bé yêu bố một cách

kì lạ và đã quen nghĩ về bố nhƣ một phẩm chất siêu việt. Ái thèm biểu lộ tình

thƣơng hết sức, và vì bố luôn vắng mặt, cái tình cảm trẻ con sôi trào chan

chứa ấy đƣợc san sẻ qua tôi. Ái Duy đã vẽ bao nhiêu bức tranh”. Tuy nhiên,

hình tƣợng ngƣời cha trong em sụp đổ khi em biết đƣợc thật sự về cha “bất

giác em nhận ra giọng nói bình thản kia, đã từ lâu rồi chính mợ đã hiểu hơn ai

hết, ba em là ngƣời thế nào… Em rùng mình, chới với nhƣ vừa thụt chân

xuống vực sâu”, “ em gập ngƣời lại, lảo đảo muốn nôn mà không nôn đƣợc”.

Nơi nƣơng náu, điểm tựa bình yên duy nhất trong cuộc đời em đã sụy đổ. Mất

phƣơng hƣớng, em bƣớc ra khỏi ngôi nhà, “những con đƣờng nhảy múa trƣớc

mắt”. Và em đã vƣớng vào cạm bẫy khi lên xe của một ngƣời đàn ông xa lạ.

Trăn trở của ngƣời đàn ông đã từng là thầy dạy kèm của cô bé cũng chính là

82

nỗi lo của ngƣời đọc về tƣơng lai của Ái Duy: “Thế giới của tuổi thơ tan biến:

một thế giới khác nham nhở, ti tiện hiện ra. Hôm nay cô bé ngạt thở, vùng

vẫy. Ngày mai cô sẽ thở quen không khí ấy, thậm chí không thể thiếu nó”.

Có khi các em còn bị lôi kéo vào cái chết trắng. Mắt nhân sư của Trần

Thùy Mai đƣa ngƣời đọc đến ngôi nhà ba tầng “có những đƣờng nét cổ xƣa,

hiện ra trong ánh vàng ủ ê của chiếc trụ đèn trƣớc sân” hoang vắng lặng lẽ

đứng bên dốc vắng là nơi tụ tập của những đứa trẻ thiếu vắng sự quan tâm của

gia đình. Ngọc là cô gái xinh xắn, đáng yêu, mẹ cô lấy chồng nƣớc ngoài với

lời hứa “sẽ về, đem em qua bên đó. Em sẽ đƣợc đi học ở trƣờng Đại học

Dresden”. Ngôi nhà là nơi tụ tập của “một lũ vong vị đang trở về từ các quán

nhậu, chúng rôm rả hào hứng với nhau một lúc rồi chia nhau ngả lƣng trên

những tấm nệm cũ”. Đó là nơi “không có những lời đay nghiến, những bài rao

giảng, không có sự chịu đựng lẫn nhau. Chỉ có những bài học về thú vui và tự

do tuyệt đối”. Đó cũng là nơi tôi và “tất cả những thằng cùng cảnh ngộ đã bị

nàng thu hút về ngôi nhà đó - ngôi nhà mà Rôn ngự trị, nơi hắn dùng nàng

nhƣ một con mồi để bắt giữ những gã trai mới lớn về cho hắn ôm ấp và mớm

cho chất bột trắng”, thậm chí “có những ngày tôi chỉ ăn một bữa mà không hề

thấy đói, không hề thấy mệt, chỉ nhìn thấy Ngọc, ngửi mùi khói thuốc quanh

nàng là tim tôi nhảy múa nhƣ ngày hội”. Rõ ràng, nếu thiếu vắng sự quan tâm

của gia đình, những cạm bẫy luôn rình rập ở mọi nơi và đe dọa tƣơng lai của

những đứa trẻ. Riêng nhân vật tôi có may mắn “một hôm ba tôi bỗng có một

buổi tối rảnh rang, phòng mạch của ông hôm đó không hiểu vì sao vắng

khách”, “hôm đó tình cờ cũng là một buổi tối hiếm hoi tôi có mặt ở nhà. Ba

tôi phát hiện ra hai bàn tay tôi một bên ƣớt đẫm mồ hôi còn một bên khô ráo.

"Con có dùng ma túy không?". Nhờ lần vô tình ấy ngƣời cha đã cứu đứa con

trai của mình ra khỏi bàn tay ghớm ghiếc của cái chết trắng. Nhƣng còn đó

biết bao đứa trẻ thiếu vắng tình yêu và sự quan tâm đang vật vã trƣớc nỗi đau

83

thèm thuốc „trong đời có những lúc toàn thân nhƣ bị đè dƣới nghìn cân đá.

Lúc đó mình có thể làm bất cứ điều gì. Biết hít là chết nhƣng cũng còn lâu

mới chết, còn hơn là đứt phựt dây thần kinh chết ngay”. Thậm chí các em

phải đánh đổi bằng chính mạng sống của mình (nhƣ Ngọc).

Rõ ràng, cuộc sống bên ngoài gia đình có bao nhiêu cạm bẫy mà bản

thân các em quá nhỏ bé, đơn côi để có thể chống lại những điều ấy. Viết về

trẻ em, dù đáng giận hay đáng thƣơng thì các nhà văn đều thể hiện tình yêu,

niềm cảm thông sâu sắc. Họ còn đƣa ra những lời cảnh tỉnh dành cho ngƣời

làm cha mẹ. Hãy dành thời gian và tình yêu cho con, hãy suy nghĩ nhiều hơn

cho con trẻ bởi đôi khi chỉ là những hành động nhỏ nhƣng lại là bƣớc ngoặt

lớn trong cuộc đời các em. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo nhờ đó trở

84

thành điểm nổi bật trong truyện ngắn ba tác giả.

Chƣơng 3: MỘT SỐ PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN

3.1. Nghệ thuật miêu tả tâm lý

Theo Từ điển Tiếng Việt: “Tâm lý là toàn bộ nói chung sự phản ánh

của hiện thực khách quan vào ý thức con ngƣời, bao gồm nhận thức ý chí

tình cảm… biểu hiện trong hoạt động và cử chỉ của mỗi ngƣời” [42,881].

Nhƣ vậy khi nhắc đến tâm lý nhân vật là nhắc đến những biểu hiện của con

ngƣời bên trong nhân vật. Đó là những trạng thái cảm xúc suy nghĩ, là tâm

trạng, là những phản ứng của nhân vật trong các tình huống của cuộc sống.

Có thể thấy trong các tác phẩm văn học hiện đại, nghệ thuật phân tích tâm

lý khắc họa tính cách nhân vật là yếu tố vô cùng quan trọng giúp nhân vật

trở nên có hồn và mang dấu ấn riêng, nhất là với những nhân vật cá tính và

có đời sống nội tâm phong phú. Nhờ đó, nhân vật hiện lên sinh động với

diễn biến tâm lý phù hợp. Cái tài của nhà văn chính là thể hiện đƣợc quá

trình diễn biến tâm lý phức tạp của nhân vật theo logic cuộc sống, khiến

độc giả nhƣ đang gặp một con ngƣời ngoài đời chứ không phải là sản phẩm

của sự tƣởng tƣợng.

Viết về những khát vọng của ngƣời phụ nữ, các nhà văn chú ý đi sâu

khám phá diễn biến tâm lý ở họ. Đó là quá trình đấu tranh giằng xé giữa

con ngƣời của trách nhiệm, bổn phận và những khát vọng cá nhân. Đôi khi

vẻ bề ngoài lặng thầm, cam chịu nhƣng bên trong lại là bão nổi. Đó là tình

cảnh của Quyên (Cánh cửa thứ chín), của tôi (Tàu ngầm xuyên đại dương,

Sau chớp là giông bão), của Lan (Một nửa cuộc đời)… Họ cô đơn khi sống

trong gia đình mà vợ chồng là hai thế giới riêng lẻ đứng cạnh nhau. Bởi vậy,

cuộc sống của họ nhàm chán, tẻ nhạt và tù túng. Để chống lại điều ấy, họ đã

hƣớng tới ngƣời đàn ông bên ngoài gia đình. Đã có những giây phút ngọt

85

ngào hạnh phúc, thậm chí “muốn cùng anh đi vớt mặt trời trên biển tây. Tôi

sẽ chịu bỏng, chịu cháy, để đƣợc đau đớn, đƣợc yêu thƣơng. Tôi muốn chịu

đựng mọi thứ trên đời, ngoại trừ sự tẻ lạnh” (Cánh cửa thứ chín) nhƣng rồi họ

vẫn không thể phá vỡ mọi thứ. Bƣớc ra khỏi giấc mơ, ngƣời phụ nữ lại lặng lẽ

trở về với cuộc sống thực tại.

Các nhà văn rất tài tình khi miêu tả những biến đổi trong tính cách,

một ngƣời phụ nữ vừa kiêu kì vừa cô đơn đáng thƣơng (Người đàn bà có ma

lực), một cô gái vừa ngang tàng, phá phách vừa dịu dàng, nhu mì (Xin hãy tin

em)… Và đặc biệt, là một bà mẹ chồng vừa cay nghiệt vừa bao dung

(Chuyện cũ ở quê nhà). Phải sống trong cảnh góa bụa nuôi con từ khi trẻ (hai

mƣơi tuổi) lại phải chứng kiến nỗi đau mất con nên ngƣời phụ nữ trong

Chuyện cũ ở quê nhà vô cùng khe khắt với con dâu. Bà không có dù chỉ nửa

lời khen đối với cô con dâu hiếu thảo đảm đang. Ngƣợc lại luôn là sự xét nét,

chê bai: “Việc chi thì hắn nhớ, việc của con mệ già ni thì hắn quên”, “Hôm

nào mẹ mua thức ăn không vừa ý, bà tôi lại vừa móm mém nhai vừa nỉ non:

Du hời, du hỡi là du! Mi cho tau ăn con cá lù đù, có sạn đằng đuôi! - giọng bà

gay gay, khô khô”. Đặc biệt, khi cô con dâu có mang với ngƣời khác, nỗi đau

đớn nhƣ dâng lên tột độ “Khuôn mặt nhăn nheo co rúm lại : một nỗi đau lặng

lẽ, tê tái. Tƣởng chừng cha tôi vừa chết lần thứ hai : quả thực, suốt đờ i tôi chỉ thấy khuôn mặt bà co thắt nhƣ thế là vào cái ngày cha tôi mất”. Nhƣng khi

con cháu sắp rơi vào cảnh tan đàn xé nghé, tính mạng con dâu nguy kịch,

ngƣời phụ nữ ấy bất chấp những phép tắc của dòng họ, đứng lên bảo vệ cháu

con, cứu mạng sống của cô con dâu. Rõ ràng, ẩn đằng sau vẻ cay nghiệt, khe

khắt là một trái tim phụ nữ độ lƣợng bao dung.

Trong quá trình miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật, các nhà văn đã sử

dụng độc thoại nội tâm nhƣ một phƣơng tiện hữu hiệu giúp nhân vật bộc lộ

86

tính cách chân thực, sâu sắc nhất. Đó là những khoảnh khắc nhân vật tự đối

diện với lòng mình, trăn trở băn khoăn về tình yêu, về gia đình, về hạnh

phúc… Từ đó, nhân vật hiện lên sinh động và có sức hấp dẫn kì lạ.

Các nhân vật trong truyện ngắn ba nhà văn hiện lên với thế giới cảm xúc

phức tạp nhƣng ở truyện của Nguyễn Thị Thu Huệ có nhiều nhân vật tự nhận

thức, nhân vật suy tƣ. Tôi trong Biển ấm “Sau hai mƣơi năm, tôi mới nhận ra

rằng chuyện xảy ra giữa anh và tôi là hợp quy luật”. Tôi trong Cát đợi “Còn

tôi chợt nhận ra anh là tất cả những gì lâu nay tôi thờ cúng, khấn vái”. Sự tan

vỡ của hạnh phúc trong giây lát đã khiến Hoài của Xin hãy tin em nhận ra

“Cái gì qua đi thì không lấy lại đƣợc”. Bên cạnh đó, còn có những kiểu nhân

vật nhận thức về sai lầm (Một nửa cuộc đời, Người xưa, Hình bóng cuộc đời),

nhận thức nỗi cô đơn (Hậu thiên đường, Tình nhân). Sự suy tƣ và day dứt của

nhân vật không chỉ là một lúc mà là cả quá trình, có khi đến hết cuộc đời

(Hậu thiên đường).

Thế giới tâm lý phức tạp của con ngƣời không chỉ đƣợc nhìn nhận qua

nhận thức của con ngƣời về cuộc đời, về bản thân mà còn cả những cảm xúc,

những linh cảm. Truyện Y Ban, tràn ngập những câu văn tả cảm giác, linh

cảm của nhân vật. “Tôi linh cảm điều gì đó sẽ bùng nổ” (Con quỷ nhỏ trong

tôi); Anh hôn nàng dịu dàng và nàng có cảm giác sắp ngã”, “Mỗi lần đến với

ngƣời đàn ông ấy về, nàng cảm thấy mình đầy tội lỗi” (Thượng đế bảo rằng

mỗi người đàn ông thuộc về một người đàn bà); “Nàng chỉ có mong manh

một cảm giác là nàng đang bay lên nhè nhẹ”, “Ngƣời đàn bà cảm thấy một nỗi

buồn không sao tả xiết” (Đôi găng tay da màu nâu), ngƣời phụ nữ ngất ngây

trong những cảm giác về “sự dịu ngọt” (Sau chớp là giông bão).

Bằng ngòi bút nhạy cảm, tinh tế của mình, Trần Thùy Mai, Y Ban và

Nguyễn Thị Thu Huệ đã đi sâu phản ánh những trạng thái cảm xúc để qua đó

thấy đƣợc bản chất của con ngƣời, của những khát vọng trong con ngƣời. Con

87

ngƣời không giản đơn nhƣ những gì thấy ở vẻ bề ngoài mà trong thế giới tâm

tƣ có khi là những con sóng ngầm, những cơn bão tố… Viết về những điều

ấy, các nhà văn thể hiện niềm cảm thông sâu sắc cũng nhƣ mở ra những

hƣớng chiếm lĩnh hiện thực của riêng mình.

3.2. Ngôn ngữ

Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học. Nhà văn M. Gorki

đã từng khẳng định: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Nó đóng vai

trò quan trọng giúp nhà văn thể hiện tƣ tƣởng, cảm xúc của mình. Theo Từ

điển thuật ngữ văn học: “Trong tác phẩm, ngôn ngữ văn học là một trong

những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của

nhà văn. Mỗi nhà văn lớn bao giờ cũng là tấm gƣơng sáng về mặt hiểu biết

sâu sắc về ngôn ngữ” [24,186]. Nhƣ vậy, ngôn ngữ trần thuật chính là sự sáng

tạo, mang dấu ấn cá nhân của nhà văn. Nó không chỉ dừng lại ở một mà có

thể chứa đựng nhiều lớp nghĩa khác nhau, nhiều cách giải thích khác nhau.

Điều này tạo nên vẻ đẹp đa thanh cho ngôn ngữ. Có thể khẳng định ngôn ngữ

văn xuôi là sự tác động qua lại phức hợp của tiếng nói tác giả, ngƣời kể

chuyện và nhân vật.

Các nhà văn nói chung và Trần Thùy Mai, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ

nói riêng không ngừng thể hiện sự sáng tạo trong việc xây dựng nhân vật, cốt

truyện và đặc biệt trong lời văn. Có thể nhận thấy những đặc điểm nổi bật về

ngôn ngữ của họ nhƣ sau:

3.2.1. Ngôn ngữ đời sống

Tƣ duy nghệ thuật trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 có nhiều đổi

mới. Một trong số đó là ngôn ngữ gần gũi với cuộc sống. Để đƣa tác phẩm

đến gần với bạn đọc, các nhà văn đã sử dụng tiếng nói của đời sống hằng

ngày. Trong lời ngƣời dẫn truyện và lời nói của nhân vật, các nhà văn giúp

ngƣời đọc tiếp cận gần nhất với cuộc sống qua nội dung mang tính hiện thực,

88

với sự dung nạp của nhiều khẩu ngữ.

Đó là sự xuất hiện của những lời nói bỗ bã, suồng sã của lời ăn tiếng nói

hằng ngày. Thứ ngôn ngữ này dƣờng nhƣ thô nhám, mộc mạc chứ không phải

là sự trau chuốt mƣợt mà. Bởi vậy, nó mang đậm hơi thở của đời sống.

Lối nói suồng sã xuất hiện nhiều trong truyện ngắn Y Ban và Nguyễn

Thị Thu Huệ: “Mày lừa bà hơi bị ngoạn mục đấy con nhỉ” (Hành trình của tờ

tiền giả); “Đấy cô đã nghe rõ câu chuyện chƣa hử? “ (Ai chọn dùm tôi); “Mặt

mũi những thằng đàn ông suốt đời bị mất trộm” (Tình yêu ơi ở đâu); “Bố cho

con gỡ một tý, chiều nay thằng Quảng nó xơi của con "hai băng" rồi”, “Chó

má, nó lôi thợ nó đến, thợ của cậu chết đói à” (Nước mắt đàn ông); “Con ranh

con khốn nạn này, mày đi đâu mà để tao tìm đứt cả hơi. Sao mày không bị

bom nó vùi đi cho rồi”, “Tao chịu rồi con ngu dốt ạ, để mai cô giáo mày dạy

cho mày”, "Về lấy mũ tao cho đi chơi" (Con mang cuộc đời của mẹ); “Cha

tiên nhân con nhà thằng Lân nhá” (Quê nội); “Mày nói gì? - Du khách nam

nóng tính lại hét lên - Mày định giở trò ăn chặn lƣu manh tống tiền hả?” (Đi

câu mực ở biển Sầm Sơn); “Lên đây sống thế chó nào đƣợc. Trông cậu nhếch

nhác bán quán nƣớc thế này, có mà nhìn đã uất”, “Hôm nào tôi quên mất mà

xìa bát đến lần thứ ba liền bị bà ấy lấy đũa cả gõ vào đầu và mắng: hốc gì mà

hốc lắm thế”, “Thì bác bảo đã ghi đề bố thằng nào không đánh đề, có, chỉ là

thằng ra dại. Bác nghe tôi đi, hôm nay đánh bốn con: 03, 30, 53, 35. Đánh

đậm con 53. Nào bác chết con gì nữa không” (Tôi và gã); “Cút ngay trƣớc khi

tao bóp vụn mày thành cám” (Cái điềm con thỏ trắng); “Vàng cộc đuôi lại

bên Mực xí xớn” (Trong khu vườn nghệ sĩ) …

Ở truyện Trần Thùy Mai lời nói bỗ bã, suồng sã đƣợc sử dụng nhƣng

xuất hiện không nhiều, không chát chúa: “Chết chửa, gì mà nghiêm trọng thế

mình” (Tháng tư trở lại); “Ừ, nhớ để phần anh nghe”, “Sáng hôm qua mình

tập cái môn dƣỡng sinh quỷ quái gì mà cứ rền rĩ y nhƣ có ai chết không

89

bằng” (Cánh cửa thứ chín); “Khổ thân chị, tôi tìm mọi cách trấn an dƣ luận để

bảo vệ chị, nhƣng mà ngƣời ta không thể thông cảm nhƣ tôi. Nói chị đừng

buồn, hoàn cảnh chị rất gay” (Trăng nơi đáy giếng); “Con Lan sữa tƣơi trông

xinh vậy chứ nó mắc bệnh, bệnh sợ đàn ông. Đếch thằng nào đến gần đƣợc,

nó tránh nhƣ tránh tà” (Thương nhớ hoàng lan); “Mệ ơi! mệ! Con không có

chi ăn hết nì. Đói bụng bắt chết nì!” (Chuyện cũ ở quê nhà).

Cũng có khi thứ ngôn ngữ này đƣợc diễn tả theo một chiều hƣớng khác

bằng lối nói dân gian - những câu nói từ thành ngữ: “Nó ăn ốc, mình đổ vỏ. Ở

đời chuyện ấy thƣờng lắm”, “Xì, cát với chả đất, đừng lấy vải thƣa che mắt

thánh. Giấu ai chứ giấu thế chó nào đƣợc con già. Tao thì đẻ ra những trò đó”

(Nước mắt đàn ông); “Cái đòng thì ngọt, cái vọt thì đau, bọn học trò chúng

mày nhớ chƣa” (Một phần ba cuộc đời), “Sinh con ai dễ sinh lòng, rồi sƣớng

khổ thế nào lại oán trách cha mẹ” (Quê nội); “Anh ấy sẽ nghi ngờ. Già néo

đứt dây. Con ngƣời ta hơn nhau ở chỗ biết đến đâu thì dừng lại” (Một nửa

cuộc đời); “Lọt sàng thì xuống đất rồi chôn luôn, không có nia nào cả” (Thời

gian của mỗi người); „Đã thƣơng thì thƣơng cho trót, đã vót thì vót cho tròn”

(Trăng nơi đáy giếng)…

Lời nói gần với đời thƣờng đƣợc thể hiện rõ trong những dòng đối thoại

lẫn độc thoại nội tâm. Nó thể hiện sự suy tƣ, chiêm nghiệm về cuộc đời và

con ngƣời, thể hiện cách nghĩ của nhân vật về thời cuộc, về chính mình, về

khát vọng và hạnh phúc của cuộc đời mình, về ƣớc mơ về một tình yêu sâu

sắc mãnh liệt. Những dòng độc thoại nội tâm bằng lối nói dân gian khi suồng

sã, có lúc bỗ bã đến không ngờ làm cho các nhân vật nhƣ gai góc hơn, thực tế

hơn, đôi khi là thực dụng về đời với một tâm trạng buồn xa xôi và chua xót.

Nếu cách nói suồng sã, bỗ bã tạo cho ngƣời đọc cảm giác gần gũi, xóa

nhòa ranh giới của tƣởng tƣợng và hiện thực thì những câu văn gần với thành

90

ngữ đem đến cho lời văn sự mƣợt mà, mềm mại. Với lối viết ấy, các nhà văn

đã góp phần tái hiện chân thực bức tranh của đời sống, đặc biệt là đời sống

gia đình Việt Nam đƣơng đại đa dạng và sống động.

3.2.2. Ngôn ngữ độc thoại

Độc thoại nội tâm là phƣơng tiện nghệ thuật đóng vai trò quan trọng

trong các sáng tác văn học. Đó là phƣơng tiện để các nhà văn khám phá, miêu

tả những trạng thái tâm lý của nhân vật. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm còn cho

phép nhà văn đi sâu khám phá và biểu đạt những phần sâu thẳm trong đời

sống tinh thần của con ngƣời. Ở độc thoại nội tâm, điều quan trọng là tác giả

nắm đƣợc những quy luật tâm lí của nhân vật và diễn đạt nó một cách tƣờng

tận, tỉ mỉ, sâu sắc. Trần Thùy Mai, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ đã xây dựng

các nhân vật với những cung bậc cảm xúc, diễn biến tâm lý của đời thƣờng

nhƣng đƣợc phát hiện ở những góc độ hết sức tinh tế, độc đáo, giàu triết lý.

Nhân vật của Trần Thuỳ Mai có khi là một cô gái đang bƣớc vào tình yêu với

đủ các cung bậc cảm xúc vui, buồn, nhớ nhung, hờn giận (My - Gió thiên

đường), là ngƣời phụ nữ giàu đức hy sinh nhƣng bất hạnh (Hạnh - Trăng nơi

đáy giếng), là ngƣời phụ nữ khát khao tình yêu và sự dịu dàng từ chồng

nhƣng thực tế thì giữa họ và chồng mình là hai thế giới tồn tại ngoài nhau

(Tàu ngầm xuyên đại dương và Cánh cửa thứ chín); hoặc là chàng trai yêu

chân thành, bao dung, nhân ái (Tuấn - Biển đời người)… Những suy nghĩ,

tình cảm đó ở các nhân vật đƣợc Thùy Mai thể hiện qua các đoạn độc thoại

nội tâm đã để lại những cảm xúc sâu lắng trong độc giả.

Thế giới nhân vật của Y Ban cũng không ít những khoảng lặng đối diện

với lòng để tự vấn, để băn khoăn. Đó là trăn trở của ngƣời phụ nữ “có ma lực”

nhƣng đi gần hết cuộc đời vẫn cô đơn “Ta là một ngƣời đàn bà, một ngƣời

đàn bà rất hoàn hảo nhƣng tại sao ta lại không có đƣợc cái kết quả của sự

hoàn hảo ấy" (Người đàn bà có ma lực); đó là phút đấu tranh tƣ tƣởng của

91

ngƣời phụ nữ trót xao lòng trƣớc ngƣời đàn ông không phải chồng mình và

“Sau một tháng vật vã với chính những cảm xúc trái ngƣợc, nàng dần cân

bằng trở lại bằng chính sự chăm sóc của chồng” (Sau chớp là giông bão)…

So với Trần Thùy Mai và Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ với phong cách

khá ấn tƣợng, luôn có hai mặt bụi bặm và trữ tình đằm thắm, Nguyễn Thị Thu

Huệ lôi cuốn độc giả bằng lối văn vừa táo tợn lại vừa thanh khiết. Đặc biệt

với cách thể hiện linh hoạt, phong phú các đoạn độc thoại nội tâm, các nhân

vật của Nguyễn Thị Thu Huệ đã thật sự gây ấn tƣợng với ngƣời đọc bởi sự

sinh động, đa dạng của các nét trong nhân cách: Lúc bạo liệt, khi thật thà, khi

thâm trầm triết lý, khi đỏng đảnh và có khi dịu dàng đến bất ngờ. Điều này

chúng ta có thể tìm thấy trong rất nhiều tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ,

tiêu biểu nhƣ: Thiếu phụ chưa chồng, Tân Cảng, Xin hãy tin em…

Cả ba nhà văn đều sử dụng ngôn ngữ độc thoại nhƣ một vũ khí quyền

năng nhằm đƣa đến cho ngƣời đọc những mảnh đời, những con ngƣời rất thật.

Nó đƣợc thể hiện qua nhiều hình thức khác nhau: Độc thoại nội tâm dƣới

dạng tự bạch tự vấn, dƣới dạng nhật ký, đối thoại với ngƣời vắng mặt, những

hồi tƣởng và sự thức tỉnh…

Độc thoại nội tâm dƣới dạng tự bạch thƣờng gặp ở truyện kể ngôi thứ

nhất. Biểu hiện rõ của tự bạch là nhân vật xƣng tôi kể chuyện về mình, bộc

bạch những suy nghĩ cảm xúc của mình. Nhân vật kể về những trải nghiệm

mà mình tham gia hay chứng kiến. Ở đó, ngôn ngữ kể chuyện đồng thời là

ngôn ngữ nhân vật. Có thể nhận thấy trong truyện ngắn cả ba nhà văn, dạng

truyện tự vấn tự bạch và ngôi kể thứ nhất chiếm khá nhiều: Biển đời người,

Cánh cửa thứ chín, Mắt nhân sư, Nàng công chúa lạc loài, Thương nhớ

hoàng lan, Chị Hai ơi... (Trần Thùy Mai); Sau chớp là giông bão, Bây giờ

con mới hiểu, Cưới chợ, Mỗi người đàn ông chỉ của riêng một người đàn bà...

(Y Ban); Cát đợi, Chị tôi, Nước mắt đàn ông... (Nguyễn Thị Thu Huệ). Ngay

92

cả những truyện đƣợc viết ở ngôi thứ ba cũng mang nhiều mầu sắc tự bạch

nhƣ Tình yêu ơi, ở đâu? Hình bóng cuộc đời, Một nửa cuộc đời… Ở những

truyện ngắn này, nhân vật thƣờng tự bạch về những nỗi niềm của con ngƣời,

nhất là ngƣời phụ nữ; về cả niềm vui lẫn nỗi buồn, hy vọng và thất vọng, đam

mê và tỉnh táo, hiện thực và lãng mạn... Những xúc cảm ấy đều gắn với tình

yêu, hạnh phúc gia đình. Ngƣời phụ nữ tự bạch để thể hiện nhu cầu giãi bày,

hơn hết để mong nhận đƣợc sự đồng cảm.

Độc thoại nội tâm còn là sự đối thoại với ngƣời vắng mặt. Chúng ta

bắt gặp kiểu độc thoại này trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ (Y Ban). Câu

chuyện là bức thông điệp đƣợc viết từ nỗi đau, sự trăn trở, day dứt của đứa

con gửi đến mẹ mình. Ở đó ngƣời con gái giãi bày những suy nghĩ, nỗi

niềm của mình và của bao thiếu nữ đồng cảnh ngộ. Cô xót xa vì nỗi đau

mất con; trăn trở về tình yêu, hôn nhân, hạnh phúc. Tác phẩm còn là sự

chất vấn của thế hệ trẻ, là tiếng nói của những con ngƣời sống thực với

mình bằng cả ý thức và vô thức, lí trí và bản năng, hiện thực và tâm linh.

Những dòng cảm xúc gieo vào lòng ngƣời đọc sự thức tỉnh và niềm cảm

thƣơng. Kiểu đối thoại với ngƣời vắng mặt còn có ở Vùng sáng kí ức, Hậu

thiên đường... Có thể nói, việc đối thoại với ngƣời vắng mặt (thƣờng diễn

ra trong suy nghĩ) chính là cách nhân vật sống thật với những cảm xúc của

mình. Đó là những giây phút xúc cảm trào dâng mãnh liệt, những suy tƣ

trăn trở ngổn ngang chất chồng; đôi khi là sự bế tắc. Với lối trò chuyện này

dƣờng nhƣ nỗi khổ của nhân vật đƣợc vợi đi phần nào.

Nhiều truyện ngắn còn lựa chọn lối viết nhật kí để khám phá thế giới

tâm hồn phong phú của con ngƣời. Đó là Hậu thiên đường, Người đàn bà

có ma lực... Là cô bé khát khao tình yêu và sự quan tâm nhƣng cô bé trong

Hậu thiên đường lại thƣờng đối diện với sự cô đơn. Bởi mẹ cô còn mải mê

với những cuộc tình chóng vánh, những quán bar ồn ã. Vì thế, nhật ký

93

chính là ngƣời bạn tri kỷ để cô gửi gắm những ý nghĩ, cảm xúc; từ chuyện

vụn vặt đến những quan niệm về tình yêu về cuộc đời: “Ngày - Hôm đang

ngồi trong lớp đợi mƣa tạnh, chợt thấy cuối đƣờng có một chị che cái ô đỏ.

Đẹp thế không biết. Trong mƣa màu đỏ là màu đẹp nhất. Giá mình có một

chiếc nhỉ?”, “Ngày - Sao mẹ hay về khuya thế? Mình mà nhƣ mẹ, mình sẽ

lấy chồng. Chọn ngƣời nào hiền lành và hơi ngu một tý để lấy mà không

cần đi làm nhà nƣớc, chỉ cần biết một nghề gia công nào đó nhƣ ông Chiu

hàn nhôm đằng trƣớc - mẹ sẽ sƣớng hơn là ở thế này. Mình thích những

ngƣời thông minh nhƣng ở với họ thì sợ lắm. Những buổi chiều chủ nhật,

vợ chồng ngƣời ta đi chơi, mẹ thì ở nhà, còn đi chơi nhƣ mẹ, mình chẳng

thích”... Và cũng chính nhờ những trang nhật kí này, ngƣời mẹ đã biết

đƣợc những điều xảy ra với con mình để rồi “có cảm giác mình bỗng hóa

thành đá” vì đau đớn, xót xa và ân hận.

Nhật ký còn là những tình huống những cảm xúc cho con ngƣời thấm

thía sâu sắc nỗi cô đơn của hiện tại (Người đàn bà có ma lực). Những trang

nhật ký ghi lại tuổi trẻ huy hoàng, rực rỡ của cô gái với sự theo đuổi của bao

nhiêu chàng trai không làm vơi bớt nỗi buồn cô lẻ của hiện tại mà ngƣợc lại,

nhân vật càng chìm trong sự tái tê:

“Ngày...

Mƣời bảy tuổi bƣớc vào trƣờng đại học, ta là một cô gái không xinh

đẹp, cũng không có duyên. Để bù lại, ta thông minh và học giỏi. Tạo hóa

đã rất công bằng khi ban cho cô gái này sắc đẹp nhƣng lại ít thông minh.

Cô gái kia thông minh nhƣng ít xinh đẹp. Nhƣng tạo hóa lại không có cách

nào để cho ngƣời ta hiểu ngay đƣợc rằng ngƣời ta chỉ có một hoặc vài khả

năng nào đó thôi. Bởi thế ngƣời xinh đẹp cứ ngỡ mình là ngƣời thông

minh. Và kẻ thông minh lại tƣởng lầm mình là xinh đẹp. Điều này đôi khi

94

cũng đúng. Bởi vì ngƣời xinh đẹp thƣờng chinh phục điều họ muốn bằng

sắc đẹp. Ngƣời thông minh dĩ nhiên là bằng trí tuệ. Nhƣng, có lẽ điều này

chỉ đúng với đàn bà mà thôi”;

“Ngày 1-7

Trên chuyến tàu hôm ấy ta và cô bạn gái, một cô bé xinh xắn, dịu dàng

thoạt trông rất đáng yêu đi về nhà nghỉ hè. Cô bạn gái bình thản ngồi nhìn qua

cửa sổ toa tàu. Còn ta, trong lòng rộn ràng bao sắp đặt cho kỳ nghỉ hè đầu tiên

trong đời sinh viên. Tuy thế ta cũng đã nhận thấy một cái nhìn nào đó. Ta cố

tạo một bộ mặt phớt và lạnh bằng cách nhìn trân trối lên trần toa tàu. Rồi sau

đó ta có vẻ khó chịu”.

Khám phá về con ngƣời, các nhà văn còn sử dụng đối thoại trong độc

thoại. Đây là dạng đối thoại độc đáo. Nhân vật ở trạng thái tự vấn. Xuất hiện

nhiều câu đối thoại ngầm. Những câu hỏi (có khi không cần trả lời) cứ ngổn

ngang trong lòng thể hiện những trăn trở suy tƣ của nhân vật. Có khi đó sự

ngỡ ngàng, ngạc nhiên về những xao lòng của ngƣời phụ nữ “Sao nhỉ, ngƣời

ấy đã ôm lấy mặt nàng. Nhƣng thực ra từ trƣớc đó mấy phút nàng đã rất muốn

ngả đầu vào vai ngƣời ta. Nhƣng tại sao nàng lại muốn thế nhỉ?”, “Nhƣng tại

sao nàng lại muốn ngả đầu vào vai ngƣời ta kia chứ?”. Có lúc lại là sự trống

vắng đau khổ của cô gái khi nhận đƣợc tin bố mẹ chia tay nhau “Thế nào là

sống cho mình và sống cho mình thì khác sống cho ngƣời nhỉ? Bao năm nay

cứ cho là bố mẹ sống cho tôi, bố mẹ cũng có mất gì đâu?”...

Tái hiện hiện thực tâm lý qua độc thoại nội tâm bằng ngôn ngữ trực giác

và linh cảm, các cây bút đã bộc lộ khả năng nắm bắt những biến thái của tâm

hồn con ngƣời, đặc biệt là ngƣời phụ nữ. Đọc truyện ngắn của Trần Thùy

Mai, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ ngƣời đọc cảm nhận đó là tiếng lòng của

ngƣời phụ nữ từ những trải nghiệm thƣờng nhật. Dù là lời lẽ góc cạnh hay

95

những khẩu ngữ đời thƣờng gần gũi, hay ngôn ngữ mang sắc thái nữ, thì ẩn

sau những câu chữ vẫn luôn là tiếng lòng, là những dự cảm thân phận đƣợc

viết ra từ sự dẫn dắt tuyệt diệu của mẫn cảm bản năng.

3.2.3. Ngôn ngữ đối thoại

Ngôn ngữ đối thoại cũng là một yếu tố không kém phần quan trọng giúp

nhà văn khắc họa nhân vật và thể hiện nội dung. Đối thoại là dạng lời phát

ngôn trực tiếp, mang tính cá thể hóa cao của nhân vật khi tham gia giao tiếp.

Có kiểu đối thoại theo hình thức phân vai, có kiểu lời thoại đƣợc nhấn mạnh

nhờ chỉ dẫn của ngƣời dẫn truyện; đôi khi có lời thoại là sự kết hợp lời của

nhân vật và lời trần thuật. Đây là những phát ngôn đặc biệt thể hiện tính đa

thanh trong ngôn ngữ truyện ngắn đƣơng đại.

Trong một số truyện ngắn của cả ba tác giả, xen giữa những lời thoại là

lời ngƣời trần thuật. Lối kể chuyện này đã khiến tâm trạng của nhân vật đằng

sau lời thoại, hoàn cảnh đối thoại đƣợc cụ thể hơn. Ví nhƣ:

“- Nhƣng tôi là con trai mà.

- Có gì khác nhau nào?

- Bạn chẳng hiểu gì hết, vì tôi muốn gọi bạn bằng em và tôi yêu em mà.

- Ờ, cái gì vậy?

- Thật đấy mà…” (Mỗi người đàn ông chỉ của riêng một người đàn bà).

Hoặc: “Tôi nhận thấy điều ấy rõ ràng trong mâm cơm khi bà nội tôi

sụt sịt:

- Nó lại còn họ hàng gần với nhà mình kia đấy.

Thím tôi chen vào:

- Cụ Chùa đói khát mấy hôm nay” (Quê nội).

Hay: “Dù trong mƣa, dù ngấm nƣớc mấy tiếng đồng hồ nhƣng ngƣời chị

chợt bốc nóng, hai má bừng bừng: "Em nặng lắm. Anh dắt làm sao đƣợc?".

Anh cƣời: "Nƣớc sẽ giúp anh" (Một trăm linh tám cây bằng lăng).

96

Và: “Cha tôi đang nằm chống tay ngồi dậy, hắng giọng:

- Khôi!

Tôi nín im, dựa lƣng vào vách. Mƣời ngón tay dính bùn dán chặt vào

bức nứa.

- Khôi!

Tôi tƣ̀ tƣ̀ lại gần, tim đập thình thình trong ngực. Cha tôi nạt tớ i: - Khôi! Đi mô chừ mớ i về ? Sƣớng dữ há! Hải, lấy cho tao cây roi!”

(Chuyện cũ ở quê nhà).

Chiếm số lƣợng lớn là những truyện có ngƣời kể xƣng tôi vừa kể chuyện

vừa tham gia giao tiếp nhƣ Tàu ngầm xuyên đại dương, Onkel yêu dấu, Phù

dung dưới núi, Chờ nhau ở cuối đường, Cánh cửa thứ chín, Chuyện cũ ở quê

nhà, Ai chọn dùm tôi, Cõi thù hận, Cưới chợ, Con mang cuộc đời của mẹ, Bây

giờ con mới hiểu, Cát đợi, Chị tôi, Huyền thoại, Nước mắt đàn ông, Hậu thiên

đường... Ẩn trong một vai giao tiếp, ngƣời trần thuật không chỉ trực tiếp trao

đổi với nhân vật mà còn dễ dàng kể chuyện. Kiểu lời thoại này tạo chiều sâu,

độ lắng cho tâm trạng và cảm xúc của nhân vật.

Truyện Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ có sự xuất hiện đậm đặc những

lời thoại nối tiếp lời thoại với nhịp độ nhanh, gấp gáp. Nó diễn tả mạch cảm

xúc trào dâng mãnh liệt và thể hiện cá tính của nhân vật. Hơn thế, kiểu lời

thoại ấy còn phảng phất hơi thở gấp gáp của cuộc sống đƣơng đại.

“- Có thật không hở cha? Nhƣng bố con vẫn tỉnh táo để tránh đạn của

quân thù chứ cha?

- Con nói sao?

- Mẹ con dặn, không đƣợc nhắc đến bố, nhớ bố cũng không đƣợc khóc,

vì bố chƣa chết, để bố tỉnh táo mà tránh hòn đạn mũi tên. Nhắc nhiều đến bố,

bố rối ruột lên.

- Mẹ con dặn thế à?

97

- Đúng không cha?

- Thế con kể đi, vì sao mà con gào khóc dữ thế? ” (Con mang cuộc đời

của mẹ).

Hay: “- Chị đã gửi cái lọ đi chƣa?

- Chị gửi rồi.

- Nó có trả lời gì không?

- Không em ạ.

- Chị đã gửi cái lọ đi chƣa?

- Rồi em ạ.

- Có trả lời gì không?

- Không thấy.

- Gửi đi chƣa?

- Rồi.

- Trả lời gì không?

- Không” (Cõi thù hận)

Hoặc:

“- Cháu nghĩ là mình đi đâu đó, cậu sẽ đỡ buồn.

- Chả có chỗ nào đỡ buồn hơn chỗ nào. Thế cả.

- Cháu không hiểu một ngƣời nhƣ cậu mà không có đâu để đến?

- Nhiều chỗ lắm, nhƣng đến để làm gì?” (Nước mắt đàn ông).

Nếu truyện Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ có sự xuất hiện đậm đặc

những lời thoại nối tiếp lời thoại, nhịp độ nhanh gấp gáp, thì trong văn Trần

Thùy Mai lời thoại thƣờng đi kèm lời dẫn nêu rõ tâm trạng, hành động, thái

độ của nhân vật:

“Chờ mãi không nghe nói gì, bà Thu phát cáu: Chuyện đến thế, chị tính

sao? Chị phải có thái độ đi chứ? Hay chị là Phật đất? Cô Hạnh thở dài: Hoàn

98

cảnh em không có con, dù anh ấy có thế, em cũng chẳng oán trách.

- Nói thế nghĩa là chị biết anh ấy phản bội chị mà cố tình giấu giếm

tổ chức?

Anh ấy không phản bội tôi - cô Hạnh ngẩng phắt lên. Vâng, dù rằng ông

Phƣơng đã có một ngƣời đàn bà khác, có một đứa con không do cô sinh ra,

ông vẫn là vị Thánh sống đối với cô. Cô không cho phép ai nặng lời khi nói

về ông ấy. Bởi tất cả những chuyện này là do cô: cô đã tự tay sắp đặt, chỉ vì

không chịu nổi vẻ buồn thầm lặng trên khuôn mặt ông.

"Không phải dễ dàng mà thuyết phục đƣợc anh ấy - Bởi vì anh ấy quá

thƣơng tôi. Hơn nữa, là ngƣời có chức trách, anh không dám. Tôi phải năn nỉ,

ép uổng, hứa giữ bí mật cho anh ấy..." Bà Thu cau mày: "Sao chị lại làm thế?

Chị có biết nhƣ vậy là phong kiến cổ hủ không? Chính chị đã đẩy anh ấy vào

con đƣờng hủ hoá!". (Trăng nơi đáy giếng).

Và: “Khá lâu sau, tôi mới nghe tiếng chị Trúc khẽ khàng:

- Hiệp ơi, ra uống thuốc.

Tôi lặng im không ƣ hử. Chị Trúc lại gọi, tiếng chị hơi run run. Mãi

không thấy tôi ra, chị đành bƣng bát thuốc vào. Chỉ chờ có thế, tôi vùng lên

ôm đại lấy chị. Chị hốt hoảng, thuốc đổ tung toé xuống giƣờng:

- Hiệp, buông ra không chị la lên cho má đánh chết” (Chị Hai ơi).

Nhƣ vậy, lời thoại đƣợc sử dụng làm phƣơng tiện xây dựng nhân vật

đồng thời là cách phản ánh hiện thực của các nhà văn.

3.3. Giọng điệu

Trong tác phẩm văn học, giọng điệu là một trong những yếu tố quan

trọng nhằm thể hiện tƣ tƣởng tình cảm của tác giả. “Giọng điệu là thái độ, tình

cảm, lập trƣờng tƣ tƣởng đƣợc miêu tả, thể hiện trong lời văn quy định cách

xƣng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thô sơ hay

thành kính, suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [22, tr.112]. Bởi vậy, có thể

99

khẳng định giọng điệu là một trong những “tín hiệu” giúp ngƣời đọc nhận ra

văn phong của từng tác giả. Nói cách khác, giọng điệu là yếu tố quan trọng

giúp các nhà văn khẳng định phong cách của mình. Tuy nhiên, chúng ta cần

phân biệt giọng điệu trong lời nói và giọng điệu trong các tác phẩm văn học.

Đề cập về vấn đề này, nhà nghiên cứu Nguyễn Thái Hòa đã đƣa ra cách hiểu

về giọng điệu trong văn học: “Cấu trúc bất biến của một nhà văn có phong

cách riêng đánh dấu đặc trƣng sử dụng ngôn ngữ, trong đó phản ánh mối quan

hệ giữa nhà văn với hiện thực cuộc sống, với ngôn ngữ đang dùng và không

phụ thuộc vào thể loại và đối tƣợng đƣợc nói đến” [24,160]. Nhƣ vậy giọng

văn là sự thống nhất bất biến trong các tác phẩm của từng nhà văn. Trong văn

chƣơng, nhắc đến giọng điệu là nhắc đến hình thức nói nhƣng giữa hình thức

ấy lại có mối liên hệ mật thiết với nội dung đƣợc gửi gắm. Bởi giọng điệu

luôn gắn liền với việc dùng hình tƣợng để miêu tả đối tƣợng của sáng tác.

Trong văn học ta bắt gặp nhiều giọng điệu khác nhau. Ứng với mỗi trạng

thái tâm lý của nhân vật, các nhà văn sẽ lựa chọn giọng điệu thích hợp. Tìm

đƣợc giọng điệu phù hợp là cách để câu chuyện chân thật và đi vào lòng

ngƣời dễ dàng hơn. Trần Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ đã sử

dụng giọng điệu của riêng mình khi nói về đề tài gia đình nhƣng có những lúc

họ lại có sự đồng điệu.

3.3.1. Giọng trữ tình sâu lắng

Trữ tình là sự bộc lộ trực tiếp những suy nghĩ, cảm xúc của con ngƣời

với thế giới. Dù là giọng văn giàu nữ tính với sự dịu dàng trong những câu

chữ hay là sự sắc sảo, chao chát thì ẩn sâu bên trong đều là giọng điệu trữ

tình thiết tha với khát vọng và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống.

Chất giọng trữ tình đƣợc thể hiện thông qua lối kể theo ngôi thứ nhất.

Các nhân vật xƣng “tôi”, “con”, “ta”… và tự kể về cuộc đời mình. Ngoài ra,

giọng điệu trữ tình còn là cách gọi tên nhẹ nhàng tình cảm: “chàng”, “nàng”,

100

“anh chị”, “cô bé”… Nhờ đó, thế giới xúc cảm phong phú của nhân vật nhƣ

đƣợc tãi ra trên từng trang giấy. Đó có thể là nỗi dằn vặt, day dứt của cô gái

đã phải vứt bỏ đứa con của mình và đêm đêm ôm nỗi cô đơn khi tuổi đời vẫn

còn quá trẻ trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ: “Nỗi đau đớn của ngƣời mẹ đã

không bảo vệ nổi con mình, những nỗi đau nhƣ thế của con chắc mẹ đã hiểu.

Còn một nỗi đau này nữa mẹ ơi, là nỗi cô đơn con không thể chia sẻ cùng ai.

Sau ngày ấy tình yêu của con chết đi theo nó. Sau ngày ấy con đã là một

ngƣời đàn bà từng trải, nhƣng bên ngoài con vẫn là một thiếu nữ trong sáng, e

ấp con chờ một tình yêu mới đến với con, tình yêu mới đến - đâu có thể dễ

dàng nhƣ lời nói ấy”. Đó còn là trăn trở suy tƣ của ngƣời phụ nữ (Sau chớp là

giông bão) vốn có những suy nghĩ nghiêm túc về tình yêu, đã vƣợt qua bao

cám dỗ nhƣng lại phải lòng ngƣời đàn ông chỉ gặp chớp nhoáng trong chuyến

đi công tác. Đó là nỗi đau đớn xót xa của một ngƣời phụ nữ bỏ bê con gái

khiến nó đi vào ngõ cụt với một tƣơng lai hậu thiên đàng đầy u ám (Hậu thiên

đường). Đó còn là những khắc khoải ƣớc mong hạnh phúc vẹn nguyên tròn

đầy của những ngƣời phụ nữ không tìm đƣợc sự đồng điệu nơi chồng ở Cánh

cửa thứ chín, Một nửa cuộc đời … Đó cũng là nỗi đắng cay, trống rỗng của

ngƣời phụ nữ yêu và hy sinh bản thân nhƣng nhận lại chỉ là sự bội bạc trong

Ai chọn dùm tôi, Cố nhân, Người bán linh hồn, Trăng nơi đáy giếng, Tháng

tư trở lại… Có thể nói, việc lựa chọn ngôi kể thứ nhất đem đến chất giọng trữ

tình cho những trang viết. Ngƣời đọc có cảm giác đó là những lời tâm tình thủ

thỉ của ai đó chứ không phải thế giới của trí tƣởng tƣợng.

Giọng điệu trữ tình còn thể hiện qua những trang viết về thiên nhiên đẹp

đẽ, thơ mộng làm nền cho bức tranh tâm trạng con ngƣời: “Gió sông thổi rối

tung tóc. Dòng sông êm đềm chảy. Vạt ngô phía bên kia sông xanh tốt lạ

thƣờng”, “Mùi ngai ngái của đất, của tiêu, của gió sông say đến lạ” (Quê nội);

“Nắng lấp lóa và trời xanh ngắt. Con đƣờng về quê uốn lƣợn theo con sông”,

101

“Dải nắng làm bừng dậy màu xanh ngút ngát của cánh đồng. Dải nắng làm

trong veo khoảng trời trong veo. Và dải nắng làm sáng bừng gƣơng mặt của

bà tôi đã đứng đợi trên đê đón cháu từ bao giờ” (Chạy xuyên qua cơn mưa

trên dải đê); “Tôi xuống các miệt vƣờn, với những đƣờng phố nhỏ nhắn,

những vƣờn dừa xanh um toả bóng”, “Đƣờng phố mát rƣợi, yên bình một

màu xanh” (Nước mắt đàn ông), “Mƣa đã tạnh. Bên dƣới là một dòng sông

nhỏ sóng sánh ánh trăng. Trăng mƣời sáu - tròn, rõ ràng, tách bạch”, “Hai bên

đƣờng, những cây bằng lăng thấp xòe tán và hoa nở từng chùm. Mong manh

mầu tím dai dẳng. Chỗ thấm, chỗ nhạt. Có chùm hoa dày, bỗng nở tung gật gù

nhƣ những đuôi con sói. Ánh trăng lấp lóa sau những chùm lá. Trăng cao vời

vợi, sáng nhƣ ngà. Sau những trận mƣa to, trời thƣờng xanh hơn và mây bay

vùn vụt” (Một trăm linh tám cây bằng lăng)…

Đặc biệt, trong truyện Trần Thùy Mai, thiên nhiên đƣợc miêu tả khá

nhiều và đậm chất Huế. Ở đó có những khu nhà, những con đƣờng, những

ngôi chùa và đặc biệt là dòng Hƣơng giang trữ tình, trầm mặc. Không gian

Huế mộng mơ bàng bạc trong từng câu chữ, thấm đẫm vào hồn ngƣời và

cảnh: “Mùa xuân hồi đó hình nhƣ nhiều hoa đào hơn còn mùa thu thì tơ trời

cứ bay bay có lúc sà xuống vắt lên những ngọn cây trong vƣờn”, “Trên mặt

sông, những chiếc đèn hoa, sóng lăn tăn và khói”, “Đêm xuống, con đò từ từ

ra giữa dòng. Tiếng đàn, tiếng sênh phách rộn rã trong khoang. Một câu hò

ngân nga chầm chậm, đủng đỉnh lan dài trong đêm sƣơng. Hơ… ơ… Giữa

sông Hƣơng dậy sóng khuynh thành. Nửa đêm một chiếc thuyền tình ngửa

nghiêng” (Khói trên sông Hương); “Buổi chiều, khi nhá nhem tối, anh em tôi

dắt nhau ra bến đò trông mẹ. Trời đất xám lại một màu chàm lễnh loãng; cuối

dòng sông là một vệt đỏ bầm, dấu vết của mặt trời vừa lặn. Năm thì mƣời họa,

102

khi nào chuyến đò chót về sớm lắm, hai anh em tôi mớ i gặp mẹ . Trời chiều , nơi chỗ mái chèo khuấy lung linh tan ra từng mảnh tan tác trên mặt nƣớ c động. Tiếng ngƣời lao xao lên bến, tản dần đi trong hoàng hôn. Và mẹ thình

lình hiện ra trong cái tranh tối tranh sáng của buổi chiều tà, toàn thân chìm

trong màu áo đen và màu đêm, chỉ thấy rõ đôi mắt lấp lánh và khuôn mặt mờ

mờ trắng” (Chuyện cũ ở quê nhà); “Hoàng lan lớn lên năm này qua năm khác,

nở hoa vàng mong manh. Mong manh nhƣ tất cả những gì đẹp trên thế gian”

(Thương nhớ hoàng lan); “Trời mƣa đột ngột vào xế trƣa. Đến chiều, con

nƣớc dâng nhanh chẳng mấy chốc ngập lòng đƣờng, tiến vào nhà, trèo lên phủ

ngập chiếu giƣờng chiếu. Cả vùng thành nội ngập tràn nƣớc trắng xóa” (Biển

đời người).

Không chỉ dừng lại ở việc làm nền cho câu chuyện, bức tranh thiên

nhiên còn gắn với tâm trạng con ngƣời. Nói cách khác, trong truyện ngắn ba

tác giả thiên nhiên nhuốm mầu tâm trạng “Ngƣời buồn cảnh có vui đâu bao

giờ” (nhƣ lời đại thi hào Nguyễn Du). Trong nỗi bàng hoàng, đau đớn và xót

xa tột độ khi nhìn thấy đứa con gái lạc bƣớc trên đƣờng tình, ngƣời mẹ thấy

“Mùa đông năm nay lạ lắm. Ban ngày thì nắng hoe hoe vàng, tối đến thì gió

lồng lộng nhƣ mùa hè. Tôi cảm giác nhƣ mình đang bắt đầu đứng ở cuối con

đƣờng, nhìn thấy con mình đang dẫm chân lên những nơi mà tôi đã đi qua,

nhƣng không ngăn nó dừng lại đƣợc” (Hậu thiên đường). Cuộc hôn nhân

không hạnh phúc với ngƣời vợ lúc nào cũng đay nghiến, chì chiết và những

đứa con “không có nổi mƣời lăm phút tâm sự với cậu ngoài câu chuyện tiền

bạc” khiến ông cô đơn ngay khi sống trong gia đình, khi có đủ đầy về vật

chất. Thiên nhiên dƣờng nhƣ hiểu đƣợc những “sóng ngầm” nơi lòng ngƣời

“Cuối trời, mây xám vần vũ. Mặt hồ sóng sủi sùng sục”, “Gió đuổi sóng trên

hồ, tất cả tạo thành một không gian dại nhƣ ngựa phi trên đồng cỏ”, “Trời

mênh mông và bao la. Mây cuồn cuộn trên đầu nhƣ đám lốc xám xịt. Con

thuyền dập dờn” (Nước mắt đàn ông). Sự trống trải, hoang hoải trong lòng

ngƣời phụ nữ khát khao có ngƣời đàn ông của riêng mình nhƣng lại chọn thân

103

phận của một nhân tình khiến cô thấm thía khung cảnh “Thời tiết chuyển

mùa, cái nắng gắt gao chuyển sang trong veo. Cái thứ thời tiết gợi nhớ, làm

cho lòng ngƣời dễ sầu, dễ cảm” (Nhân tình)... Có thể nói các nhà văn chú ý

miêu tả trạng thái cảm xúc nhân vật qua những nét phác họa thiên nhiên. Nó

đã góp phần làm tăng vẻ đẹp trữ tình cho những trang văn.

Đặc biệt, giọng điệu trữ tình đƣợc thể hiện rõ nét trong những dòng suy

tƣởng, những dòng độc thoại của nhân vật. Dù là con ngƣời dịu dàng, nhẫn

nhịn hay cá tính sắc sảo; các nhân vật đều có những phút trải lòng với chính

mình để nghe những thổn thức từ sâu thẳm trái tim. Điều này đƣợc thể hiện

qua nhiều tác phẩm: Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, I am đàn bà, Sau chớp là giông

bão, Nhân tình, Hậu thiên đường, Cát đợi, Cầu thang, Nước mắt đàn ông,

Thập tự hoa, Biển đời người, Cố nhân, Onkel yêu dấu, Thương nhớ hoàng

lan, Nàng công chúa lạc loài…

3.3.2. Giọng xót xa, ngậm ngùi

Con ngƣời, đặc biệt là ngƣời phụ nữ vốn nhiều khát vọng. Họ theo đuổi

ƣớc mơ và khát vọng của mình. Tuy nhiên, không ít ngƣời trong số họ đã phải

ngậm ngùi nhận cái kết không nhƣ mong muốn. Họ thất vọng, đổ vỡ niềm tin.

Viết về những điều ấy, ba nhà văn đã sử dụng hiệu quả giọng điệu xót xa,

ngậm ngùi. Một trong những biểu hiện của giọng điệu ấy là việc sử dụng

nhiều câu cảm thán và câu hỏi, đặc biệt là câu hỏi tu từ. Những câu hỏi đặt ra

không cần câu trả lời mà là sự trăn trở, băn khoăn, day dứt của con ngƣời

trong những bế tắc, những vƣớng mắc của cuộc sống gia đình.

Có khi đó là câu hỏi lột tả tâm trạng thảng thốt, hốt hoảng và xót xa của

con ngƣời trƣớc thực tại bất nhƣ ý. Đó là tâm trạng của ngƣời mẹ thấy con

mình sắp rơi xuống “địa ngục trần gian” mà không sao cứu nổi “Sao lại thế hả

con? Con lú mất rồi. Tôi phải làm gì bây giờ hả trời? Không phải còn đang

chập chững ở miệng vực nữa mà con đang ở trong vực rồi. Bao giờ thì chìm

104

xuống đáy?”, “Mẹ ơi, ngày sau con có phải khổ nhƣ mẹ không? Mẹ có khổ

đâu? Có, mẹ có khổ, đêm nào con cũng thấy mẹ khóc? Ừ, mẹ buồn mẹ khóc?

Bố làm mẹ buồn à? Con đừng nhắc đến ngƣời đàn ông khốn nạn ấy nữa.

Không, đấy là bố con, lúc nào con cũng đợi bố về... Con ơi, con ở đâu. Sao

khổ thế hả con, ai cứu con tôi bây giờ, ai giúp tôi lôi nó ra khỏi cái thiên

đƣờng địa ngục đó bây giờ?” (Hậu thiên đường). Hay là câu hỏi đay nghiến

lặp đi lặp lại đầy xót xa của ngƣời mẹ có đứa con lỡ ăn trái cấm quá sớm “Ai

dạy mày nhƣ thế cơ chứ? ” và sự thổn thức của đứa con “Mẹ ơi, ai đã dạy con

ƣ?” (Bức thư gửi mẹ Âu Cơ).

Nhiều truyện đƣợc kết thúc bằng những câu hỏi xót xa, ngậm ngùi thể

hiện sự hoang mang, chới với của nhân vật. Câu chuyện đã kết thúc nhƣng

dƣ âm còn đọng mãi. Sau bao nhiêu tình yêu, hy sinh và chăm chút cho

chàng học trò nghèo, ngƣời con gái trong Ai chọn dùm tôi bị phản bội.

Chàng ra đi đem theo tình yêu, hy vọng, niềm tin và cả những vật chất mà

nàng miệt mài ngày đêm để có. Câu hỏi kết thúc cho thấy sự trống rỗng,

hụt hẫng và đắng cay “Còn sông Hồng ƣ? Liệu có trôi đƣợc ra biển không?

Hay sẽ mắc vào một gờ đá nào đó rồi vật vờ theo sóng nhƣ cái chết của

nàng tiên cá”. Hay sự thảng thốt của ngƣời đàn ông khi ngày mai hứa hẹn

những hạnh phúc bỗng tuột mất mãi mãi ở Phút dành cho tình yêu “Ít ỏi

quá! Cô hiểu không?”, “Cô hiểu không?”. Hoặc sự mong mỏi hạnh phúc

cho ngƣời cậu trong Nước mắt đàn ông “Tôi lên xe, chậm chạp về tự hỏi:

Không biết đến bao giờ nữa sẽ có một cánh buồm đỏ trên mặt hồ đầy sóng

kia? Cánh buồm của cậu tôi”. Có khi lại là những giây phút tự vấn của cô

gái trong Cưới chợ “Tiền, lại tiền. Tiền bây giờ còn có ích gì nữa không?”,

và sự hoang mang của con ngƣời lạc lõng giữa quê hƣơng “Trời ơi, sao ông

ác thế. Cuộc đời ai cũng có một bệ thờ, một điều thiêng. Sao ông nỡ đập bể

105

bệ thờ của tôi nhƣ thế. Tôi sẽ sống tiếp thế nào đây?”.

Ngoài ra, giọng xót xa ngậm ngùi còn đƣợc thể hiện ở việc kết hợp

những câu hỏi và câu cảm thán để tăng giá trị biểu đạt cho tâm trạng. Gặp lại

ngƣời học trò xƣa trong một tình huống éo le, nhân vật tôi trong Nàng công

chúa lạc loài không thể làm gì cứu rỗi đƣợc cô bé. Sự ám ảnh về Ái Duy với

lối sống buông xuôi của hiện tại và Ái Duy thánh thiện của quá khứ luôn trở

đi trở lại trong suy nghĩ của nhân vật tôi. Anh xót xa khi không thể làm gì để

cứu cô bé ra khỏi vũng bùn và luôn khắc khoải: “Không, mãi mãi Ái Duy vẫn

là Ái Duy! Mãi mãi em vẫn là em của đêm ấy, chính em đã ra đi với niềm tin

của mình bất chấp những lời tôi khuyên nhủ. Ở con ngƣời mảnh khảnh nhỏ

nhoi ấy là sức sống mãnh liệt không tàn lụi… Ái Duy ngọn lửa nhỏ của tôi,

bây giờ em ở đâu?” (Nàng công chúa lạc loài). Để diễn tả nỗi đau bị phản bội

của một ngƣời luôn tự tin điều khiển đƣợc chồng, các câu hỏi và câu cảm thán

đã đƣợc kết hợp với nhau “ Cái gì? Ai có mang? Ai tha thứ? Trời đất ơi! Bà

ngã ngồi xuống bộ ván, trời đất tối sầm”. “Chỉ là khóc thôi sao! Cứ làm bậy,

làm đổ vỡ hết rồi khóc nhƣ trẻ con là xong thôi sao? Nghĩ vậy bà uất lên tận

cổ, chợt vô tình gào lên một tiếng: „Khốn nạn, ông không biết xấu hổ sao?”

(Tháng tư trở lại).

3.3.3. Giọng mỉa mai, châm biếm

Khai thác đề tài gia đình, bên cạnh nét đằm thắm trữ tình, truyện ngắn ba

nhà văn còn có giọng điệu châm biếm mỉa mai khi phê phán những yếu tố tiêu

cực của xã hội lẫn con ngƣời. Giọng điệu này xuất hiện nhiều trong truyện Y

Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ.

Trong ánh nhìn của những ngƣời chung quanh có sự dè bỉu đối với

những hành động theo họ là chƣa đẹp của giới trẻ trong tình yêu “Ôi dào,

bệnh tim, bệnh dài tim ấy thì có. Trời ơi, sao trời không có mắt? Ngƣời chính

106

chuyên hẳn hoi thì trời không ban cho lấy một mụn, kẻ lả lơi thì lại mau

mắn”. (Bức thư gửi mẹ Âu Cơ). Hay: “Gớm, trời chƣa mƣa mà ếch ộp đã bò

ra lắm thế” (Mỗi người đàn ông chỉ của riêng một người đàn bà).

Đôi khi là sự mỉa mai tự trào “Lúc tớ mặc váy hoa ngồi lên xe đẩy vào

cầu thang máy tớ đã nhìn thấy họ hàng đến tiễn biệt tớ” (Tôi và gã); “Này cậu

dặn, mai kia cậu chết đi, khi cho cậu vào áo quan, mày nhớ đục hai lỗ to ở hai

bên ra nhé”, “Đục hai cái lỗ để tao chìa tay ra ngoài”, “Cậu thò hai tay để mọi

ngƣời thấy rằng cậu đi vào cõi chết bằng hai bàn tay trắng. Cậu không mang

theo ngƣời lấy một xu bởi lúc ấy tất cả thành vô nghĩa” (Nước mắt đàn

ông); “Giời đánh ùm vào số phận tôi. Không bắt tôi chết, không cho tôi giàu

sang. Giời bắt tôi làm văn chƣơng” (Tôi và gã).

Kể về những hiện tƣợng tiêu cực trong xã hội – những thứ con ngƣời của

gia đình phải đối mặt, giọng văn mỉa mai châm biếm phát huy hiệu quả thật

đắc lực “Mỗi khi tôi về quê, mặc dù chỉ là cán bộ quèn, đều có quan tỉnh quan

huyện tình cờ đến thăm. Rồi trong câu chuyện thăm hỏi đó thế nào các ông

cũng tình cờ nhờ vả”, “Thế mới xảy ra cơ sự. Giáo sƣ đầu ngành một mặt đã

nhiều tuổi, mặt khác lý thuyết giỏi hơn thục hành, cắt dạ dày tớ đã đành còn

cắt luôn cả mật tớ nữa” (Tôi và gã).

Đặc biệt, khi xây dựng nhân vật, nhất là nhân vật nam, các nhà văn sử

dụng khá hiệu quả lối nói mỉa mai châm biếm. Bên cạnh những con ngƣời cao

thƣợng, yêu hết mình và sẵn sàng hy sinh vì ngƣời mình yêu vì gia đình còn

có những con ngƣời ti tiện, bủn xỉn, cơ hội, đạo đức giả… Qua ngòi bút sắc

sảo của các nhà văn, những con ngƣời với bản chất xấu xa đã bị lên án kịch

liệt. Đó là những kẻ làng chơi trăng hoa “Tiên sƣ nó chứ. Nó bảo nó thuê nhà

rồi. Nào ngờ nó dẫn mình ra bãi sông. Nó sợ bệnh nó đi những ba cái o ke. Nó

đã chơi quỵt nó lại còn vơ hết cả áo quần của mình nữa chứ” (Nhân tình);

“Không, tôi có một tập phong bì trong đó có năm mƣơi nghìn. Cứ tối nào tôi

đi em út, tôi phải thả một cái để đem về còn đƣa cho mụ béo, bảo là đi họp

107

đƣợc tiền". Nói rồi ông ta cun cút chạy lên cầu thang với đầy niềm phấn chấn.

Thế mới hiểu, sau những giờ mà ngƣời ta buộc phải tỏ ra công chức, họ dịu

dàng tâm sự những điều thầm kín với nhau hơn. Và lần đầu tiên Trân thấy ông

ta không phải là ông ấy trong vẻ trịnh trọng, đạo mạo và đứng đắn” (Cầu

thang). Đó còn là những ngƣời đàn ông vẻ bề ngoài hào nhoáng, trịnh trọng,

đạo mạo nhƣng thực chất lại là kẻ bần tiện “Ngƣời đàn ông tên Hoành chạy

vụt vào trong phòng, thoáng cái mang ra một chiếc biến thế nhỏ, dứ dứ:

"Quên cái này. Tôi mua nó hơn triệu bạc để giảm điện đấy. Mọi đƣờng điện

qua đây coi nhƣ tắc luôn. Không có nó, mỗi tháng hai, ba trăm nghìn thì ốm.

Dùng dăm tháng coi nhƣ hòa vốn". Rồi lút cút chạy xuống đầy vẻ hớn hở,

sung sƣớng nhƣ cả thế giới thu lại trong chiếc biến thế dùng để ăn cắp điện”

(Cầu thang).

Giọng điệu mỉa mai châm biếm đã giúp ngƣời đọc hình dung cụ thể hơn

về những biến đổi của cuộc sống gia đình trong đời sống hiện đại.

Tùy vào trạng thái tâm lý của nhân vật, các nhà văn sẽ lựa chọn giọng

điệu thích hợp và mỗi truyện ngắn thƣờng có một giọng điệu chủ đạo. Tuy

nhiên, hầu hết các tác phẩm của Trần Thùy Mai, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ

là sự hòa trộn, đan xen các giọng điệu: Thị trấn hoa quỳ vàng, Thập tự hoa,

Chuyện cũ ở quê nhà, Thương nhớ hoàng lan, Chị Hai ơi, Nàng công chúa

lạc loài; Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Sau chớp là giông bão, Người đàn bà có ma

lực, Mỗi người đàn ông chỉ của riêng một người đàn bà; Hậu thiên đường,

Một trăm linh tám cây bằng lăng, Cát đợi... Nếu giọng điệu trữ tình đem đến

nét dịu dàng, đằm thắm cho những trang văn thì giọng xót xa ngậm ngùi lại là

niềm cảm thƣơng cho những thân phận, những mảnh đời; giọng mỉa mai

châm biếm lại là cái nhìn dƣới góc độ khác....Nhờ đó, hiện thực cuộc sống

108

đƣợc phản ánh trong những trang truyện trở nên phong phú và sinh động hơn.

PHẦN KẾT LUẬN

Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, đặc biệt là văn học sau 1986,

truyện ngắn có sự bùng nổ cả về số lƣợng lẫn chất lƣợng. Văn học giai đoạn

này chứng kiến sự góp mặt của các nhà văn trẻ, đặc biệt là các nữ nhà văn

trong đó có Trần Thùy Mai, Y Ban, và Nguyễn Thị Thu Huệ.

Khảo sát các truyện ngắn đề cập đến đề tài gia đình trong truyện ngắn ba

nhà văn; ngƣời viết đi sâu tìm hiểu những biến đổi trong gia đình hiện đại qua

cái nhìn mang màu sắc nữ quyền. Tức là cái nhìn về gia đình, về các vấn đề

gia đình trong cảm quan của ngƣời phụ nữ. Qua đó phần nào đánh giá tài

năng và những đóng góp của các nhà văn.

Với con ngƣời, nhất là ngƣời phƣơng Đông, gia đình có vai trò vô

cùng quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh đất nƣớc và thế giới đang có

những đổi thay diện mạo về mọi mặt. Khi bàn về đề tài gia đình, ba nhà

văn có những điểm chung thống nhất song mỗi ngƣời lại có những nét

duyên đặc biệt. Trần Thùy Mai với văn phong nhẹ nhàng, trầm lắng, sâu

sắc. Y Ban lúc dịu dàng khi riết róng, suy tƣ. Và Nguyễn Thị Thu Huệ lại

già dặn, từng trải. Các vấn đề về gia đình đƣợc ba nhà văn đặt ra rất thiết

thực và sâu sắc. Trong đó, họ đi sâu phản ánh thế giới nội tâm của từng đối

tƣợng trong gia đình, đặc biệt là ngƣời phụ nữ. Những hiện trạng của cuộc

sống đƣơng đại đầy phức tạp nhƣ đƣợc trải ra trên từng trang giấy. Họ viết

về những khát vọng chính đáng, những con ngƣời có nhân cách tốt đẹp để

ngợi ca và đem đến cho độc giả niềm tin vào cuộc sống. Bên cạnh đó, ba

nhà văn còn đƣa vào trang viết của mình những mặt trái của những cá nhân

trong gia đình trƣớc sự biến đổi của xã hội. Viết về cái xấu là để mọi ngƣời

109

lên án và xây dựng những điều tốt đẹp.

Qua những trang viết của họ, ngƣời phụ nữ hiện lên với thế giới xúc cảm

phức tạp, mang trong mình những khát vọng mãnh liệt. Tuy nhiên, trên hành

trình đi tìm khát vọng ấy, họ lại lâm vào những bi kịch, đôi khi là bi kịch chất

chồng bi kịch. Hạnh phúc đối với họ chỉ là điều hƣ ảo, mãi mãi không thể

chạm tới. Thế giới của những nữ nhân vật trong truyện ngắn ba tác giả là thế

giới bí ẩn, đầy yêu thƣơng và đức hy sinh nhƣng cũng chông chênh, trắc trở.

Những trang viết về nam giới cũng thật sâu sắc. Xây dựng ngƣời đàn

ông dù là đớn hèn, ích kỉ hay độ lƣợng bao dung thì ẩn đằng sau là cái nhìn

cảm thông, là khát vọng về những đấng mày râu “làm trai cho đáng nên trai”.

Với thiên chức của những ngƣời mẹ, Trần Thùy Mai, Y Ban, Nguyễn

Thị Thu Huệ đã có những trang viết thấm đƣợm yêu thƣơng dành cho những

đứa trẻ. Đó đều là những đứa trẻ đáng thƣơng vì những hoàn cảnh khác nhau

mà không đƣợc sống trong hạnh phúc của những mái ấm gia đình. Viết về

những mảnh đời bất hạnh, các nhà văn không chỉ thể hiện sự cảm thông sâu

sắc mà còn gửi tới mọi ngƣời lời cảnh tỉnh chân thành, tha thiết.

Để thể hiện nội dung ấy, các nhà văn đã sử dụng những phƣơng tiện

nghệ thuật phù hợp. Đó là nghệ thuật miêu tả tâm lý; nghệ thuật sử dụng ngôn

ngữ giản dị nhƣng giàu sức biểu đạt, đặc biệt là ngôn ngữ độc thoại; giọng

điệu trần thuật đa dạng.

Với các truyện ngắn đề cập đến đề tài gia đình, Trần Thùy Mai, Y Ban

và Nguyễn Thị Thu Huệ đã góp tiếng nói quan trọng trong nền văn học đƣơng

110

đại, kế thừa và phát triển những giá trị của văn học dân tộc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tác phẩm:

1. Y Ban (1993), Ngƣời đàn bà có ma lực, Nxb Hà Nội

2. Y Ban (1995), Ngƣời đàn bà sinh ra trong bóng đêm, Nxb Hội Nhà văn

3. Y Ban (2006), I am đàn bà, Nxb Phụ nữ

4. Y Ban (2009), Hành trình tờ tiền giả, Nxb Hội Nhà văn

5. Nguyễn Thị Thu Huệ (1992), Cát đợi, Nxb Hà Hội

6. Nguyễn Thị Thu Huệ - Hậu thiên đƣờng

7. Nguyễn Thị Thu Huệ (2003), Nào ta cùng lãng quên, Nxb Hội Nhà văn

8. Nguyễn Thị Thu Huệ (2006), 37 truyện ngắn, Nxb Văn học

9. Nguyễn Thị Thu Huệ (2012) - Thành phố đi vắng, Nxb Trẻ

10. Trần Thùy Mai (1984), Cỏ hát (in chung với Lý Lan), Nxb Tác phẩm mới

11. Trần Thùy Mai (1994), Thị trấn hoa quỳ vàng, Nxb Hội Nhà văn

12. Trần Thùy Mai (1998), Trò chơi cấm, Nxb Trẻ

13. Trần Thùy Mai (2001), Quỷ trong trăng, Nxb Trẻ

14. Trần Thùy Mai (2002), Biển đời ngƣời, Nxb Thuận Hóa

15. Trần Thùy Mai (2003), Thập tự hoa, Nxb Thuận Hóa

16. Trần Thùy Mai (2004), Đêm tái sinh, Nxb Thuận Hóa

17. Trần Thùy Mai (2005), Mƣa đời sau, Nxb Văn nghệ Thành phố

Hồ Chí Minh

18. Trần Thùy Mai (2007), Mƣa ở Strasburg, Nxb Phụ nữ

19. Trần Thùy Mai (2008), Một mình ở Tokyo, Nxb Văn nghệ Thành

phố Hồ Chí Minh

20. Trần Thùy Mai (2010), Onkel yêu dấu, NxbVăn nghệ

111

21. Trần Thùy Mai (2010), Trăng nơi đáy giếng, Nxb Thanh niên

II. Các công trình nghiên cứu đã đƣợc in thành sách hoặc công bố

trên các tạp chí, báo in

22. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội

23. Nguyễn Đăng Điệp (2004), Vọng từ con chữ, Nxb Văn học

24. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật

ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội

25. Đỗ Hạnh - Nhà văn Trần Thùy Mai (2004) “Tôi chẳng làm đƣợc gì

nếu không đƣợc yêu”. Tạp chí Ngƣời đẹp Việt Nam, (129)

26. Diệu Hiền (2002), Trần Thùy Mai và những bi kịch của ngƣời phụ

nữ. Tạp chí Kiến thức gia đình, (11)

27. Nguyễn Thái Hòa ( 2000), Những thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục

28. Mai Văn Hoan(2009), Trần Thùy Mai và những giấc mơ hoang

tƣởng. Tạp chí Nhà văn, (9)

29. Phong Lê (2006), Ngƣời trong văn, Nxb Văn hóa Sài Gòn

30. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới,

Nxb Giáo dục

31. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2006), Văn học Việt Nam sau

1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục

32. Phƣơng Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà - Lí

luận văn học, Nxb Giáo dục

33. Phạm Xuân Nguyên - Tuyển tác giả nữ Việt Nam 1975-2007,

Nxb Phụ nữ

34. Vƣơng Trí Nhàn (1996), Phụ nữ và sáng tác văn chƣơng, Tạp chí

Văn học, (6)

35. Lƣu Oanh (2002), Thời hiện tại chƣa hoàn thành của truyện ngắn

112

hiện đại, Tạp chí Văn nghệ Quân đội

36. Việt Thắng (1993), Khi ngƣời ta trẻ (Tản mạn về những cây bút nữ

trẻ), Báo Văn nghệ, (43)

37. Bùi Việt Thắng (1997), Một giọng nữ trầm trong văn chƣơng, Tạp

chí văn hóa, (397)

38. Bùi Việt Thắng (1999), Truyện ngắn, những vấn đề lý thuyết và thực

tiễn thể loại, Nxb Đại học Quốc gia

39. Bùi Việt Thắng (2000), Một bƣớc đi của truyện ngắn, Tạp chí Nhà văn, (3)

40. Bích Thu (2001), Văn xuôi phái đẹp, Tạp chí Sông Hƣơng, (145)

41. Trần Thị Trƣờng (2003), Trần Thùy Mai và những truyện ngắn hay,

Báo Sức khỏe và Đời sống, (24)

42. Viện Ngôn ngữ (1992), Từ điển Tiếng Việt

III. Những bài viết trên báo điện tử

43. Hòa Bình - Y Ban: Bốp chát và nữ tính

http://www.tienphong.vn/van-nghe/y-ban-bop-chat-nu-tinh-506348.tpo

44. Dương Thị Thùy Chi - Nguyễn Thị Thu Huệ lạnh lùng câu chữ xót

xa tâm can http://www.baomoi.com/Nha-van-Nguyen-Thi-Thu-Hue-Lanh-

lung-cau-chu-xa-xot-tam-can/152/11450953.epi

45. Lý Hạnh – Nhà văn Trần Thùy Mai viết về tình yêu không phải để

câu khách http://vnca.cand.com.vn/vi-VN/doisongvanhoa/2008/3/52614.cand

46. Mai Hoàng – Y Ban: Hành trình đến tận cùng thế tục

http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c152/n1685/Hanh-trinh-den-tan-cung-

the-tuc.html

47. Nguyên Hương - Nguyễn Thị Thu Huệ , nhà văn của nồng ấm tình

yêu http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/van-hoa-the-thao-giai-

113

tri/nguyen-thi-thu-hue-nha-van-cua-nong-am-tinh-yeu/207612.html

48. Thu Hƣơng - Nhà văn Y Ban và những giấc mơ về hạnh phúc

http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/nha-van-y-ban-va-

nhung-giac-mo-ve-hanh-phuc-1876270.html

49. Trần Nho Thìn. Nho giáo và nữ quyền. www.khoavanhoc-

ngonngu.edu.vn

50. Linh Thoại - Trần Thùy Mai nối dài cuộc sống từ các nhân vật

http://chuyentrang.tuoitre.vn/TTC/Index.aspx?ArticleID=98542&ChannelID=3

51. Bình Nguyên Trang – Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ gọi lại niềm

tin đã mất http://vnca.cand.com.vn/vi-vn/diendan/2011/11/56546.cand

52. Anh Vân - Lý Lan muốn góp ý với Y Ban về “I am đàn bà”

http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/ly-lan-muon-gop-y-

voi-y-ban-ve-i-am-dan-ba-1895961.html

53. Theo Sinh viên - Nhà văn Y Ban và quan niệm về cuộc sống

http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/nha-van-y-ban-quan-

niem-ve-cuoc-song-1873996.html

54. Theo Lao động - Nhà văn Y Ban và quan niệm sáng tác

http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/nha-van-y-ban-va-

114

quan-niem-sang-tac-1878229.html