ĐẠI HỌC QUỐC GIA TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
LÊ THỊ HUỆ
ĐỀ TÀI GIA ĐÌNH TRONG TRUYỆN NGẮN
TRẦN THÙY MAI, Y BAN VÀ NGUYỄN THỊ THU HUỆ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
HÀ NỘI – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
LÊ THỊ HUỆ
ĐỀ TÀI GIA ĐÌNH TRONG TRUYỆN NGẮN
TRẦN THÙY MAI, Y BAN VÀ NGUYỄN THỊ THU HUỆ
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS - TS Lƣu Khánh Thơ
HÀ NỘI – 2014
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân và sâu sắc nhất của mình tới PGS – TS
Lƣu Khánh Thơ, ngƣời đã tận tình giúp đỡ, hƣớng dẫn tôi hoàn thành luận
văn trong suốt thời gian vừa qua.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Văn học Trƣờng Đại
học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên giúp đỡ tôi hoàn thành luận
văn này.
Hà Nội, tháng 8 năm 2014
Tác giả luận văn
Lê Thị Huệ
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 3
2.1. Nghiên cứu về đề tài gia đình ............................................................... 3
2.2. Nghiên cứu về truyện ngắn của ba tác giả ........................................... 4
2.2.1. Trần Thùy Mai ................................................................................ 4
2.2.2. Y Ban ................................................................................................ 5
2.2.3. Nguyễn Thị Thu Huệ ...................................................................... 6
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 7
3.1. Đối tượng: Các truyện ngắn của ba tác giả ......................................... 7
3.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 7
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................ 7
5. Cấu trúc của luận văn ................................................................................. 7
PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................... 9
CHƢƠNG 1: TRUYỆN NGẮN BA TÁC GIẢ (TRẦN THÙY MAI, Y
BAN VÀ NGUYỄN THỊ THU HUỆ) TRONG DÒNG CHẢY TRUYỆN
NGẮN THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ SỰ THỂ HIỆN ĐỀ TÀI GIA ĐÌNH
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI .......................................... 9
1.1. Truyện ngắn ba tác giả trong dòng chảy truyện ngắn thời kỳ
Đổi mới ......................................................................................................... 9
1.1.1. Diện mạo truyện ngắn thời kỳ Đổi mới .......................................... 9
1.1.2. Khái quát về ba tác giả Trần Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị
Thu Huệ .................................................................................................. 12
1.2. Sự thể hiện đề tài gia đình trong văn học Việt Nam đƣơng đại .... 20
1.2.1.Gia đình và mối quan hệ gia đình - xã hội ................................... 20
1.2.2. Đề tài gia đình trong văn học Việt Nam ....................................... 25
CHƢƠNG 2: GIA ĐÌNH HIỆN ĐẠI QUA CÁI NHÌN MANG MÀU SẮC
NỮ QUYỀN TRONG TRUYỆN NGẮN BA TÁC GIẢ ............................ 36
2.1. Vấn đề nữ quyền và ý thức nữ quyền trong sáng tác của Trần Thùy
Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ ....................................................... 36
2.1.1. Vấn đề nữ quyền và văn học nữ quyền ........................................ 36
2.1.2. Ý thức nữ quyền trong quan niệm sáng tác của Trần Thùy Mai,
Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ .............................................................. 41
2.2. Các cấp độ biểu hiện đề tài gia đình trong truyện ngắn của Trần
Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ ............................................. 48
2.2.1. Nhân vật người phụ nữ trong truyện ngắn ba tác giả ................ 48
2.2.2. Nhân vật nam trong truyện ngắn ba tác giả ................................ 73
2.2.3. Nhân vật trẻ em trong truyện ngắn ba tác giả ............................. 78
Chƣơng 3: MỘT SỐ PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN ................................ 85
3.1. Nghệ thuật miêu tả tâm lý .................................................................. 85
3.2. Ngôn ngữ .............................................................................................. 88
3.2.1. Ngôn ngữ đời sống ........................................................................ 88
3.2.2. Ngôn ngữ độc thoại ....................................................................... 91
3.2.3. Ngôn ngữ đối thoại ........................................................................ 96
3.3. Giọng điệu ............................................................................................ 99
3.3.1. Giọng trữ tình sâu lắng ............................................................... 100
3.3.2. Giọng xót xa, ngậm ngùi ............................................................. 104
3.3.3. Giọng mỉa mai, châm biếm ......................................................... 106
PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................... 109
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 111
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài Đại thắng mùa xuân 1975 mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc, là
mốc son đánh dấu những bƣớc chuyển mình sâu sắc của nền văn học Việt
Nam. Với vai trò là tấm gƣơng phản ánh cuộc sống, là ngƣời thƣ ký trung
thành của thời đại, từ đây, văn học không ngừng vận động và phát triển trong
mối liên hệ tƣơng tác vô cùng phức tạp với muôn vàn hiện tƣợng xã hội khác.
Đặc điểm nổi bật trong văn học Việt Nam sau 1975 là sự đổi mới về tƣ duy.
Nếu trong 5 năm đầu tiên (thời kỳ từ 1975 đến đầu những năm 1980) cảm
hứng sử thi vẫn giữ một vai trò quan trọng thì từ những năm 1980 tƣ duy tiểu
thuyết lại chiếm ƣu thế với khuynh hƣớng thế sự, đời tƣ. Bên cạnh đề tài
chiến tranh, văn học đi sâu phản ánh đời sống của cái tôi cá nhân. Con ngƣời
đƣợc văn học khám phá, soi chiếu ở nhiều bình diện và nhiều tầng bậc: ý thức
và vô thức, đời sống tƣ tƣởng, tình cảm và đời sống tự nhiên, bản năng, khát
vọng cao cả và dục vọng tầm thƣờng, con ngƣời cụ thể, cá biệt và con ngƣời
trong tính nhân loại phổ quát. Con ngƣời đƣợc nhìn nhận ở góc độ có tính
cách, có cá tính và có số phận riêng tƣ. Trong làn gió chung ấy, đời sống, cảm
xúc và những khát vọng của ngƣời phụ nữ cũng đƣợc văn học đề cập một
cách đa dạng và phong phú.
Hơn nữa, trong nền văn học hiện đại Việt Nam, nhất là sau năm 1986,
truyện ngắn có sự bùng nổ cả về số lƣợng lẫn chất lƣợng. Bên cạnh những
gƣơng mặt kỳ cựu nhƣ Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng...
phải kể đến sự góp mặt của các nhà văn trẻ, đặc biệt là các nữ nhà văn nhƣ:
Trần Thùy Mai, Võ Thị Hảo, Y Ban, Lê Minh Khuê, Nguyễn Thị Thu Huệ,
Phan Thị Vàng Anh... Chƣa bao giờ ngƣời ta thấy sự xuất hiện của nhiều nhà
văn nữ đến vậy. Những sáng tác của họ đã góp phần đem lại diện mạo tƣơi
1
mới cho nền văn học Việt Nam đƣơng đại. Các nhà văn nữ, với sự tinh tế,
nhạy cảm của mình, đã nhận ra những biến đổi của bản thân mình cũng nhƣ
của gia đình trƣớc tác động từ xã hội. Họ đã nói lên đƣợc những tâm tƣ tình
cảm của chính mình đồng thời thể hiện niềm thƣơng cảm sâu sắc với những
khát vọng rất thực của những ngƣời đồng giới.
Chọn hƣớng nghiên cứu tiếp cận truyện ngắn của ba tác giả nữ tiêu biểu
của văn học đƣơng đại, ngƣời viết hy vọng có thể hiểu hơn về phong cách của
các nhà văn nữ, đánh giá những đóng góp của họ để từ đó có cái nhìn đa diện
hơn về văn học đƣơng đại Việt Nam.
Gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng trong cảm thức của mỗi ngƣời
dân đất Việt. Bởi vậy, nó trở thành mảnh đất màu mỡ để các nhà văn gửi gắm
những quan niệm nhân sinh. Ngay từ những năm ba mƣơi của thế kỉ XX các
nhà văn của Tự lực Văn đoàn đã chú ý đến đề tài này. Gia đình đƣợc nhìn
nhận ở khía cạnh là cuộc đấu tranh giải phóng cái tôi cá nhân, đấu tranh cho
tự do hôn nhân để giành quyền sống cho ngƣời phụ nữ, chống lại sự ràng
buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến. Sang đến giai đoạn 1945 -1975 vận
mệnh dân tộc trở thành mối quan tâm đặc biệt nên những vấn đề về gia đình
lại lắng xuống. Sau năm 1986, bên cạnh đề tài lịch sử, gia đình lại trở thành
mối quan tâm của các văn nghệ sĩ. Đằng sau câu chữ lạnh lùng dửng dƣng,
ngƣời đọc cảm nhận sâu sắc sự xót xa ngậm ngùi của các nhà văn trƣớc
những biến đổi của gia đình. Đặc biệt trong những năm gần đây, gia đình và
những đổi thay của nó trƣớc làn gió của thời đại trở thành vấn đề đƣợc quan
tâm hơn hết trong xã hội.
Xây dựng luận văn với nhan đề : Đề tài gia đình trong truyện ngắn Trần
Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ; ngƣời viết hy vọng đi sâu tìm hiểu
những biến đổi trong gia đình hiện đại qua cái nhìn mang mầu sắc nữ quyền
trong truyện ngắn ba tác giả. Chúng ta có thể nhận thấy những nét tƣơng đồng
2
cũng nhƣ riêng biệt trong việc phản ánh về cùng một đề tài của ba nữ nhà văn.
Những tƣơng đồng chính là sự gặp gỡ của những tƣ tƣởng gần gũi nhau, nét
khác biệt chính là sự đóng góp làm nên cái tôi rất riêng trong phong cách của
họ. Đặc biệt trong luận văn này, ngƣời viết muốn tập trung vào những tâm tƣ,
cảm xúc, khát vọng... của ngƣời phụ nữ để thấy đƣợc đóng góp của các nhà
văn trong việc bảo vệ nữ quyền. Đây cũng là vấn đề bức thiết trong xã hội
hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
Thập niên 90 của thế kỷ trƣớc ghi nhận sự đóng góp quan trọng của
những gƣơng mặt nữ trong làng văn Việt Nam. Họ đã đem đến cho văn học
“một sinh khí mới rất cần thiết để thể hiện chiều sâu, bề sau của cuộc sống
con ngƣời hôm nay” [33]. Trong những bộn bề của cuộc sống hiện đại, với
ngƣời phụ nữ, gia đình và những biến đổi của nó trƣớc cuộc sống kinh tế
thị trƣờng luôn là vấn đề mà họ quan tâm và dành nhiều suy tƣ nhất. Điểm
nổi bật đó đã nhận đƣợc sự quan tâm của nhiều bạn đọc, nhà phê bình và
các học giả...
2.1. Nghiên cứu về đề tài gia đình
Đối với mỗi con ngƣời, mỗi xã hội, nhất là xã hội phƣơng Đông, gia
đình có vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Tuy nhiên ngƣời ta cũng xót xa
khi chứng kiến những đổi thay không mong muốn của nó trong cuộc sống
kinh tế thị trƣờng. Đã có không ít những bài báo, tạp chí, các bài nghiên cứu
đề cập về vấn đề này. Trong số đó có thể kể đến những bài: Gia đình việt
Nam hiện nay: Truyền thống hay hiện đại (Tamvocviet.vn), Gia đình Việt
Nam trong cơn bão của thời đại (Nguyễn Hồng Mai – Tạp chí nghiên cứu văn
hóa Đại học Văn Hóa Hà Nội), Cấu trúc gia đình Việt Nam: Thay đổi chưa
từng có (Tuổi trẻ online), Sự biến động của cuộc sống trong gia đình hiện
đại, Điều đáng lo ngại trong nhiều gia đình hiện nay ở thành thị (Trƣờng
3
Giang – Khoa học và phát triển), Mái nhà giữa cơn giông thời hiện đại
(Nguyễn Hoàng Đức – Vietnamnet)… Mùa lá rụng trong vườn và những vấn
đề của đời sống gia đình hôm nay (Nguyễn Bảo Hƣng –
Vietnamthuquan.net)…
2.2. Nghiên cứu về truyện ngắn của ba tác giả
Xuất hiện ở những giai đoạn khác nhau và mỗi ngƣời một phong cách
nhƣng Trần Thùy Mai, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ là ba tác giả có những
đóng góp đáng kể cho nền văn học đƣơng đại. Trong số các sáng tác của họ
có nhiều truyện ngắn đƣợc chuyển thành phim và tạo đƣợc dấu ấn sâu đậm
trong lòng độc giả không chỉ Việt Nam mà cả ở thế giới. Đã có nhiều bài viết,
luận văn tìm hiểu về truyện ngắn của ba tác giả, tuy nhiên mới chỉ khai thác
trên các phƣơng diện: thế giới nhân vật nữ, thế giới nghệ thuật… Cho đến nay
chƣa có công trình khoa học nào nghiên cứu về đề tài gia đình trong truyện
ngắn cả ba tác giả. Cụ thể:
2.2.1. Trần Thùy Mai
Vƣợt qua ranh giới của thời gian, không gian, truyện Trần Thùy Mai đi
vào lòng ngƣời nhẹ nhàng mà sâu sắc. Trên các tạp chí, các báo có nhiều cảm
nhận và kiến giải về các vấn đề đƣợc đặt ra trong sáng tác của chị.
Bùi Việt Thắng trong Truyện ngắn hôm nay đã đánh giá Trần Thùy Mai
là “cây bút có sức bền với thể loại truyện ngắn”. Lê Mỹ Ý trong một bài báo
đăng trên Người đương thời số tháng 5-2007 khẳng định: “Từ tập truyện đầu
tiên cho tới bây giờ, chị Mai bao giờ cũng giữ đƣợc cho mình một giọng văn,
ngôn ngữ, phong cách trong sáng. Trong sáng đến mức luôn có cảm giác nhƣ
chị là ngƣời luôn đam mê, đắm đuối và đuổi theo một thứ ánh sáng kỳ ảo giữa
cuộc đời”. Đi tìm sức hấp dẫn của truyện Trần Thùy Mai, Hoàng Nguyên Vũ
cho rằng: “Những trang viết của Trần Thùy Mai chứa đựng những cuộc đời
nhỏ, có cuộc đời thoáng qua, có cuộc đời gặp một lần rồi hun hút, có cuộc đời
4
trong những giấc mơ miên viễn”. Tác giả Lý Hạnh trong bài đăng trên báo
Công an nhân dân số tháng 3-2008 lại quan tâm đến tình yêu trong truyện
Trần Thùy Mai. Theo Lý Hạnh: Trần Thùy Mai viết về tình yêu không phải
để câu khách. Ngoài ra còn nhiều bài viết trên các báo điện tử. Có thể kể đến
nhƣ: Trần Thùy Mai nối dài cuộc sống từ các nhân vật (Vnexpress), Trần
Thùy Mai lặng lẽ với văn chương (Vnexpress), Trần Thùy Mai viết văn là một
cách thương yêu (Tuổi trẻ online), Trần Thùy Mai viết về tình yêu (Lý Hạnh –
Công an nhân dân), Truyện ngắn Trần Thùy Mai – hành trình đi tìm hạnh
phúc ảo (Lê Thị Hƣờng – Văn nghệ Đà Nẵng), Nhà văn Trần Thùy Mai: Lánh
cuộc đua “hàng hót” (Mai Hoàng – An ninh Thủ đô), Nhà văn Trần Thùy
Mai: “Tôi chẳng làm được gì nếu không được yêu”, (Tạp chí Ngƣời đẹp Việt
Nam, 2004), Trần Thùy Mai và những bi kịch của người phụ nữ (Tạp chí
Kiến thức gia đình, 2002).
Các nhận xét đã ít nhiều đề cập đến thế giới nội dung và nghệ thuật
của truyện Trần Thùy Mai nhƣng chƣa chú ý đến những biểu hiện của đề
tài gia đình.
2.2.2. Y Ban
Y Ban đƣợc bạn đọc và giới phê bình chú ý từ khi Bức thư gửi mẹ Âu Cơ
đoạt giải cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ quân đội (1989 – 1990).
Đã có nhiều bài viết về văn của chị, thậm chí có những ý kiến trái chiều nhau.
Đáng lƣu ý là nhận xét của tác giả Hoàng Tố Mai trong Y Ban – Hành trình
đến tận cùng thế tục: “Tác phẩm của Y Ban tràn ngập những chi tiết cực kì ấn
tƣợng thể hiện một số vốn sống vô cùng phong phú và đặc biệt”, “Gu thẩm mĩ
của Y Ban cũng khác lạ. Có lẽ với tác giả này cái Đẹp không chỉ là cái mĩ
miều, đôi khi nó là sự khơi gợi, ám ảnh khiến con ngƣời ta hƣng phấn, lặng
im sững sờ thậm chí là sốc nữa”. Trên diễn đàn văn hóa học
(www.vanhoahoc.edu.vn) tác giả Mỹ Linh có viết: “Yếu tố tình dục, những
5
câu chuyện tình dục nhƣ Y Ban miêu tả cũng có thể hiện hữu trong mỗi
ngƣời, chỉ có điều lâu nay phủ lên mình bộ mặt đạo đức giả nên cho rằng nó
xấu, hoặc lâu nay không quen nói ra”. Ngoài ra còn nhiều bài báo và tạp chí
viết về Y Ban. Có thể kể đến: Khi người ta trẻ (Bùi Việt Thắng), Báo cáo kết
quả cuộc thi văn xuôi về đề tài Hà Nội (Hoàng Ngọc Hà), Một giọng nữ trầm
trong văn chương (Bùi Việt Thắng), Y Ban và những thân phận đàn bà (Xuân
Cang), Đọc truyện ngắn Y Ban. Y Ban - hành trình đến tận cùng thế tục
(Hoàng Tố Mai - www. vietimes. vietnamnet.vn), Y Ban: Bốp chát và nữ tính
(Hòa Bình – tienphong.vn), Y Ban không thấy nhục cảm là phi đạo đức ( Tú
Cầu – Giadinh.net.vn), Y Ban “Cũng có lúc khóc rú lên một mình” (Hà
Linh – Vnexpress.net), Nhà văn Y Ban: “Chỉ cầu mong hai chữ bình an”
(Vân Quế - Phapluattp.vn)… Ngoài ra tại hội thảo khoa học Mười truyện
ngắn hay báo Văn nghệ 1998 do Trƣờng đại học Hồng Đức tổ chức,
truyện ngắn Sau chớp là dông bão của Y Ban đƣợc nhiều nhà giáo và sinh
viên quan tâm đƣa ra ý kiến đánh giá.
Có những ý kiến trái chiều về truyện của Y Ban song chiếm ƣu thế vẫn
là xu hƣớng nhìn nhận về tác phẩm của Y Ban một cách khách quan, tìm thấy
ở đó nhiều tầng giá trị tốt đẹp. Phần ít còn lại là những phê phán nhiều khi
mang tính phiến diện, chủ quan .
2.2.3. Nguyễn Thị Thu Huệ
Tạo ấn tƣợng và có sức hấp dẫn với ngƣời đọc ở giọng văn lạnh lùng
nhƣng chất chứa bao niềm cảm thƣơng cho những thân phận ngƣời, Nguyễn
Thị Thu Huệ trở thành hiện tƣợng văn học đƣợc yêu mến. Đã có nhiều ý kiến
về truyện ngắn của chị. Bùi Việt Thắng trong Năm truyện ngắn dự thi của một
cây bút trẻ thật tinh tế khi đƣa ra cảm nhận: “Truyện ngắn Thu Huệ hấp dẫn
rộng rãi ngƣời đọc trƣớc hết vì giàu chất đời” và “Những truyện hay của Thu
Huệ là nhờ ngƣời viết bứt lên đƣợc trên cái có thực đến tận cùng, để tìm tới
6
cái gì đó cao hơn của con ngƣời, đó là đời sống tâm hồn vốn rất không rõ
ràng, mạch lạc, vốn bí ẩn khó giải thích rạch ròi bằng lí trí”. Đặc biệt, tác giả
đã nhận ra “Thu Huệ quan tâm đến gia đình trong xã hội hiện đại đang tồn tại
và tan rã nhƣ thế nào, bởi những nguyên nhân nào”. Ngoài ra còn nhiều bài
viết về truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ trên các báo, tạp chí: Nguyễn Thị
Thu Huệ - Người tốt đang co ro (Nguyễn Xuân Thủy – Vnexpress), Nguyễn
Thị Thu Huệ - Nhà văn của nồng ấm tình yêu ( Nguyên Hƣơng – Quân đội
nhân dân), Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ: Lạnh lùng câu chữ, xa xót tâm can
(Dƣơng Thị Thùy Chi)…Nhìn chung, các bài viết đều đánh giá cao Nguyễn
Thị Thu Huệ, đặc biệt ở khả năng nắm bắt và phản ánh hiện thực nhạy bén,
sâu sắc, có giọng điệu riêng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng: Các truyện ngắn của ba tác giả
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Ngƣời viết tập trung khai thác các truyện ngắn thể hiện nổi bật, độc đáo
đề tài gia đình (qua cái nhìn mang mầu sắc nữ quyền) trong các tập truyện
ngắn của ba tác giả.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng nhiều phƣơng pháp nghiên cứu: lịch sử - xã hội, so
sánh đối chiếu, thống kê phân loại, phân tích tổng hợp.
5. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung phần kết luận và tài
liệu tham khảo.
Phần nội dung đƣợc triển khai trong ba chƣơng:
Chƣơng 1: Truyện ngắn ba tác giả (Trần Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn
Thị Thu Huệ) trong dòng chảy truyện ngắn thời kỳ đổi mới và sự thể hiện đề
7
tài gia đình trong văn học Việt Nam đƣơng đại.
Chƣơng 2: Gia đình hiện đại qua cái nhìn mang mầu sắc nữ quyền trong
truyện ngắn ba tác giả
8
Chƣơng 3: Một số phƣơng thức biểu hiện đặc sắc
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: TRUYỆN NGẮN BA TÁC GIẢ (TRẦN THÙY MAI,
Y BAN VÀ NGUYỄN THỊ THU HUỆ) TRONG DÒNG CHẢY
TRUYỆN NGẮN THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ SỰ THỂ HIỆN ĐỀ TÀI GIA
ĐÌNH TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
1.1. Truyện ngắn ba tác giả trong dòng chảy truyện ngắn thời kỳ
đổi mới
1.1.1. Diện mạo truyện ngắn thời kỳ Đổi mới
1.1.1.1. Những vấn đề chung của văn học thời kỳ Đổi mới
Đại hội Đảng VI năm 1986 đã chỉ ra đƣờng lối đổi mới cả về chính trị
lẫn văn hóa xã hội. Nhờ thực hiện chủ trƣơng đó, xã hội ta có những chuyển
biến sâu sắc trên mọi phƣơng diện: sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đã và đang đƣơc đẩy nhanh tốc độ phát triển, việc giao lƣu mở rộng hội nhập
với các nƣớc trong khu vực cũng nhƣ trên thế giới đƣợc đặc biệt chú ý. Xã
hội đổi thay có nhiều tác động đến văn học. Đó là sự thay đổi về nhu cầu, thị
hiếu của ngƣời đọc cũng nhƣ ngƣời sáng tác.
Có thể nói từ sau năm 1986, văn học đã thật sự bƣớc vào công cuộc “cởi
trói”, “lột xác” để phù hợp hoàn cảnh mới. Đó là sự mở rộng về đề tài. Bên
cạnh cảm hứng sử thi, văn học đã xuất hiện và chứng kiến sự lên ngôi của
cảm hứng đời tƣ – thế sự. Cuộc sống đƣợc nhìn nhận ở nhiều chiều, nhiều
phƣơng diện khác nhau. Cuộc sống không giản đơn mầu hồng nhƣ cách nhìn
trƣớc đây nữa. Những góc khuất trong tâm hồn con ngƣời đƣợc soi chiếu ở
nhiều góc độ. Con ngƣời đƣợc văn học khám phá, soi chiếu ở nhiều bình diện
và nhiều tầng bậc: ý thức và vô thức, đời sống tƣ tƣởng, tình cảm và đời sống
tự nhiên, bản năng, khát vọng cao cả và dục vọng tầm thƣờng. Nếu trƣớc đây
9
cách nhìn của các nhà văn trƣớc các vấn đề thƣờng là đơn chiều rạch ròi:
thiện - ác, địch - ta, cao cả - thấp hèn... thì bây giờ cái nhìn đa chiều, đa diện,
phức tạp hơn.
1.1.1.2. Đội ngũ các cây bút nữ thời kỳ Đổi mới
Giai đoạn này có khá nhiều bài phỏng vấn, những bài đánh giá, bình luận
về các cây bút nữ (Văn xuôi phái đẹp - Bích Thu; Khi ngƣời ta trẻ I, khi ngƣời
ta trẻ II - Bùi Việt Thắng; Suy nghĩ về đặc điểm của nữ văn sĩ - Phƣơng Lựu;
Điểm qua sự vận động của truyện ngắn các cây bút nữ - Lê Thị Hƣơng Thủy;
Văn chƣơng nữ giới- một cách thể hiện ở đời - Huỳnh Nhƣ Phƣơng…) và còn
rất nhiều những bài báo nhận định riêng về mỗi tác giả.
Sự thay đổi trong quan niệm xã hội khiến ngƣời phụ nữ ngày càng có vị
thế. Có thể nhận thấy một điều trong văn học Việt Nam, sự xuất hiện và
những đóng góp của các nữ văn sĩ đã khiến cho bức tranh văn học phong phú
sắc mầu. Nếu trong văn học trung đại và văn học hiện đại những năm 1930-
1945 chỉ có vài gƣơng mặt thì đến giai đoạn 1945-1975 số lƣợng các nữ văn
sĩ tăng lên đáng kể. Đặc biệt, những năm sau đổi mới (1986) đến nay có 75%
ngƣời viết truyện ngắn là nữ (nhƣ thống kê của tác giả Bùi Việt Thắng) với sự
góp mặt của những tên tuổi quen thuộc: Trần Thùy Mai, Y Ban, Phạm Thị
Hoài, Võ Thị Hảo, Võ Thị Xuân Hà, Nguyễn Thị Ấm, Dạ Ngân, Nguyễn Thị
Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Đỗ Bích Thúy, Trầm Nguyên Ý Anh, Nguyễn
Thị Diệp Mai, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tƣ… Bởi vậy nhà nghiên cứu
Bùi Việt Thắng đã rất có lý khi gọi văn học đƣơng đại là nền văn học “mang
gƣơng mặt nữ”. Hầu hết trong số họ dù xuất hiện trên văn đàn từ những năm
80, 90 của thế kỷ trƣớc hay mới xuất hiện đầu thế kỷ này thì điểm chung dễ
nhận thấy đều là sự bền bỉ, dẻo dai, nhiệt huyết say mê khám phá cuộc sống.
Chính vì vậy, đời sống và những cung bậc cảm xúc, những góc khuất trong
tâm hồn con ngƣời, nhất là của ngƣời phụ nữ hiện lên đa sắc và gợi lên cho
10
ngƣời đọc nhiều suy ngẫm. Với lợi thế về giới của mình, các nhà văn nữ đã
mạnh dạn viết về những vấn đề nhạy cảm của riêng mình, đi sâu vào thế giới
tâm hồn đầy bí ẩn của ngƣời phụ nữ, nhƣ nhà nghiên cứu Vƣơng Trí Nhàn
viết: “Hình nhƣ do sự nhạy cảm của riêng mình, ngƣời phụ nữ bắt mạch với
thời đại nhanh hơn nam giới. Họ luôn gần với cái lỉnh kỉnh dở dang của đời
sống. Mặt khác, với cái cực đoan sẵn có: tốt, dịu dàng, rộng lƣợng thì không
ai bằng, mà nhỏ nhen chấp nhặt, dữ dằn cũng không ai bằng – từng cây bút nữ
tìm ra mặt mạnh của mình khá sớm, định hình khá sớm” [34].
Họ viết nhiều. Nổi lên trong sáng tác của các nhà văn nữ thời kỳ này là
những vang hƣởng của cuộc sống thời đại. Những chuyện tƣởng chừng vặt vãnh
của cuộc sống đi vào văn chƣơng tự nhiên mà không kém phần sâu sắc. Đó là
những vật lộn mƣu sinh của con ngƣời, sự tráo trở của lòng ngƣời, sức mạnh
của đồng tiền, guồng quay chóng mặt của cuộc sống thời kinh tế thị trƣờng
khiến cha mẹ không còn thời gian quan tâm đến con cái… Ngồn ngộn chất
liệu của hiện thực không thiếu những cái chao chát, nhƣng dƣờng nhƣ cái bản
chất nữ tính đa cảm khiến những trang viết về tình yêu đằm sâu, nhƣ làn nƣớc tƣới
mát tâm hồn kéo con ngƣời khỏi sa mạc của sự cằn cỗi. Trong thế giới nhân vật
phong phú, dƣờng nhƣ nữ nhân vật nhận đƣợc sự ƣu ái đặc biệt của các nhà
văn. Họ với những hoàn cảnh, những thân phận và tính cách cá biệt nhƣng hầu
hết đều là những ngƣời đàn bà bất hạnh. Có khi họ là những ngƣời phụ nữ
quyết liệt đầy bản lĩnh dám sống thật với những rung cảm của lòng mình, là
những ngƣời muốn trốn chạy khỏi cô đơn của hiện tại bằng những hoài niệm
và tiếc nuối quá khứ… Một tình yêu trọn vẹn, một hạnh phúc gia đình luôn là
niềm khát vọng và mong mỏi cháy bỏng trong lòng. Mặc dù vậy, trong sáng
tác của các nữ nhà văn hôm nay vẫn còn những hạn chế nhất định về nội dung
lẫn hình thức: họ quan tâm chuyện nhiều hơn văn, có nguy cơ lặp lại chính
mình… Tuy nhiên, không thể không ghi nhận những nỗ lực, những thành
11
công và vị trí của họ trên văn đàn.
1.1.2. Khái quát về ba tác giả Trần Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn
Thị Thu Huệ
1.1.2.1. Trần Thùy Mai
Khi nghĩ đến Trần Thùy Mai, nhìn những bức ảnh và đọc những truyện
ngắn của chị, bên tai tôi nhƣ văng vẳng câu thơ “ngƣời thơ phong vận nhƣ thơ
ấy”, dù chị là cây bút chuyên về truyện ngắn. Có lẽ nụ cƣời hồn hậu, gƣơng
mặt thanh tú với lúm đồng tiền duyên duyên là điều tạo nên ấn tƣợng đẹp của
bất cứ ai gặp hay thậm chí chỉ nhìn qua ảnh của chị. Sự nhẹ nhàng, tinh tế
thấm đƣợm trong những trang văn ấy có lẽ phần nào chịu ảnh hƣởng của
mảnh đất mà chị sinh ra và lớn lên.
Trần Thùy Mai tuổi Giáp Ngọ (sinh ngày 8 tháng 9 năm 1954), quê ở
Huế, nhƣng sinh ra ở Hội An, về Huế khi tròn một tuổi. Chị học Trung học
Đồng Khánh, tốt ngiệp Khoa Văn Đại học Sƣ phạm Huế và đựợc giữ lại
trƣờng làm giảng viên, sau đó làm biên tập viên Nhà Xuất bản Thuận Hóa tại
Huế. Với lối rẽ này, chị đã chọn nghiệp viết làm con đƣờng đi cho riêng
mình. Dù chỉ gắn bó trong khoảng thời gian ngắn hay sống gần hết cuộc đời,
mảnh đất cố đô và phố cổ Hội An đã lƣu dấu ấn trong những trang văn của
chị. Có lần Trần Thùy Mai chia sẻ: “Dù đã rời xa Hội An khi còn quá nhỏ
nhƣng tôi luôn gửi về đấy nhiều mộng tƣởng huyễn hoặc lung linh, đẹp nhƣ
cổ tích. Còn Huế là nơi để lại dấu ấn đậm nét nhất trong tác phẩm của tôi, bởi
đó là nơi tôi sống hầu hết cuộc đời mình”. Hội An và Huế trở thành vùng đất
thơ ƣơm mầm cho những trang viết của chị.
Ngoài ra, những điệu hò mái nhì Huế u uẩn thầm kín; những điệu hò
Quảng Nam mãnh liệt, nồng nàn… tự bao giờ đã đi vào lòng ngƣời và góp
phần làm nên vẻ đẹp dịu dàng tinh tế song cũng không kém phần mãnh liệt
12
quyết đoán trong những trang văn của chị.
Trần Thùy Mai có làm thơ, thỉnh thoảng viết phê bình giới thiệu sách
nhƣng độc giả biết đến chị là nhà văn viết truyện ngắn xuất sắc và tiêu biểu
cho bản sắc văn xuôi xứ Huế. Xem chuyện viết nhƣ là lẽ sống, là khí trời, là
tình yêu đích thực; trong gần ba mƣơi năm cầm bút, Trần Thùy Mai đã cho ra
đời gần chục tập truyện ngắn: Bài thơ về biển khơi (1983), Cỏ hát (1983),
Thị trấn hoa quỳ vàng (1994), Trò chơi cấm (1998), Quỷ trong trăng (2001),
Thập tự hoa (2003), Mưa đời sau (2005), Mưa ở Strasbourg (2007), Trăng
nơi đáy giếng (2008), Một mình ở Tokyo (2008), Onkel yêu dấu (2010) …
Nhiều tác phẩm đã chuyển thể thành kịch bản phim, trong đó có Thập tự hoa,
Gió thiên đường, Trăng nơi đáy giếng.
Chị nhận đƣợc nhiều giải thƣởng của Trung ƣơng và địa phƣơng, cả
trong nƣớc và quốc tế: Giải B giải thƣởng Văn học Nghệ thuật Cố đô lần thứ
hai (1998) cho Tập truyện ngắn Thị trấn hoa quỳ vàng, Giải C giải thƣởng
Văn học thiếu nhi "Vì tƣơng lai đất nƣớc" của Nhà xuất bản Trẻ (2002) cho
truyện dài thiếu nhi Người khổng lồ núi Bạc, Giải B Hội Nhà văn Việt Nam (2002, không có giải A), Giải A giải thƣởng Văn học Cố đô lần thứ ba (2005)
cho tập truyện ngắn Quỷ trong trăng, Giải thƣởng Ủy ban Toàn quốc Liên
hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam (2003), Giải A giải thƣởng Văn
học Nghệ thuật Cố đô lần thứ tƣ (2008) cho tập truyện ngắn Thập tự hoa, Giải
thƣởng của Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên - Huế (2008) cho
tập truyện ngắn Một mình ở Tokyo, Giải cống hiến vì cộng đồng năm 2011 do
Ủy ban kết nghĩa thành phố San Francisco - TP Hồ Chí Minh trao tặng.
Là ngƣời có thái độ làm việc nghiêm túc, say mê, Trần Thùy Mai có
những quan niệm khá rõ ràng về nghề văn, về con ngƣời, cuộc sống. Điều này
đƣợc thể hiện qua các tác phẩm, qua những bài trả lời phỏng vấn của chị.
Nhà văn của xứ Huế cho rằng: “Tôi nhƣ một mảnh nam châm hút về mình
13
những đau khổ”. Dƣờng nhƣ trái tim đa cảm và sự dịu dàng tinh tế của chị
luôn nhạy cảm trƣớc những khổ đau của con ngƣời, nhất là của ngƣời phụ nữ.
Những mảnh đời, những tình cảnh trong truyện của chị phảng phất cuộc đời
đa đoan của nhà văn và của biết bao phụ nữ Việt Nam. Những trang văn của
chị thấm đẫm niềm cảm thƣơng với những thân phận quanh mình; những góc
khuất trong tâm hồn, những khát khao thầm kín, chân thành của con ngƣời
đƣợc chị diễn tả thật sâu sắc. Có lẽ điều này xuất phát từ quan niệm: “viết văn
là một cách thƣơng yêu chính mình và những ngƣời xung quanh”, “viết phải có lợi cho nhân loại”.
Cuộc sống không phải lúc nào cũng nhƣ mong muốn, trái tim nhỏ bé
nhƣng khát vọng thì mênh mông, chị tìm đến với văn chƣơng nhƣ một thứ
tiên dƣợc cho nỗi cô đơn của mình. Mƣời tập truyện ngắn với những hoàn
cảnh khác nhau chính là sự chiêm nghiệm cuộc sống, là sự đồng cảm và
thƣơng yêu những con ngƣời bất hạnh. Bởi nhƣ chị nói: “Tôi thích viết để
đƣợc tồn tại trong nhiều cảnh đời khác nhau, đƣợc sống những gì tôi mơ ƣớc,
đƣợc nói những điều không nói giữa đời thƣờng. Viết, nhƣ vậy là một cách để
vƣợt thoát ra ngoài những giới hạn của một đời ngƣời nhỏ bé”.
Coi văn chƣơng là một công việc nghiêm túc vất vả, thậm chí cực nhọc
nhƣng “đây không phải là công việc khiến tôi mệt mỏi vì đó là niềm yêu thích
của tôi. Hạnh phúc của ngƣời phụ nữ viết văn giống nhƣ niềm vui của cái cây
đƣợc mọc lên trong đất và khí trời để sống. Niềm hạnh phúc ấy giúp tôi sống
và vƣợt qua những năm tháng khó khăn nhất trong cuộc đời”.
1.1.2.2. Y Ban
Nếu ở Trần Thùy Mai ngƣời tiếp xúc ấn tƣợng với vẻ dịu dàng, nhẹ
nhàng toát ra từ gƣơng mặt đến giọng nói thì Y Ban lại là sự cá tính, sắc sảo
và “bốp chát”. Đúng nhƣ nhà báo Hòa Bình đã từng nhận xét “Ai mới gặp Y
Ban cũng rất choáng bởi vẻ ngoài hầm hố và phản ứng cực nhanh. Càng bị
14
dồn đến những tình huống khó khăn, chị lại càng đốp chát sắc sảo. Kể cả bình
thƣờng thì cái giọng thỏ thẻ nhƣng thƣa bẩm đến điều cũng khiến ngƣời ta
ớn” [43]. Tuy nhiên ẩn đằng sau vẻ bề ngoài ấy lại là một trái tim giàu lòng
thƣơng yêu và nhân hậu.
Y Ban tên đầy đủ là Phạm Thị Xuân Ban, sinh ngày 1 tháng 7 năm 1961
tại Nam Định. Chị từng trải qua một tuổi thơ nhọc nhằn, bố đi bộ đội, mẹ quá
vất vả với công việc tại bệnh viện, một mình chị chăm lo cho ba đứa em nhỏ.
Lớn lên, đi học và tốt nghiệp Khoa Sinh Đại học Tổng hợp năm 1982, chị về
làm giáo viên Cao đẳng Y Nam Định và rất hài lòng với công việc của mình.
Vốn mê sách từ nhỏ, những quyển sách hay ở thƣ viện trƣờng đã tiếp thêm
niềm say mê văn học của chị. Chị bắt tay vào viết một vài truyện ngắn và gửi
đăng ở tạp chí địa phƣơng. Những Người đàn bà có ma lực, Thư gửi mẹ Âu
Cơ... ra đời với bút danh Y Ban ( Ban ở trƣờng Y). Rồi vì đam mê văn
chƣơng, vì tiếng gọi tình yêu với một nhà điêu khắc trẻ, chị bỏ dạy về Hà
Nội học Trƣờng viết văn Nguyễn Du. Từ 1989 – 1992 học Trƣờng viết
văn Nguyễn Du, từ 1994 đến nay là phóng viên, biên tập viên tại báo Giáo
dục và Thời đại.
Với sự từng trải, sâu sắc và sức sáng tạo dồi dào, Y Ban đã cho ra
đời hàng chục tập từ truyện ngắn, truyện vừa đến tiểu thuyết. Có thể kể
tên các tác phẩm của chị: Người đàn bà có ma lực (1993), Đàn bà sinh ra
từ bóng đêm (1995), Vùng sáng kí ức (1996), Truyện ngắn Y Ban (1998),
Miếu hoang (2000), Cẩm cù (2001), Người đàn bà dưới gốc dâu cổ thụ
(2003), Cưới chợ (2004), Cuộc phiêu lưu trên dòng nước lũ (2000), Đàn
bà xấu thì không có quà (tiểu thuyết 2004), Thần cây đa và tôi (tập truyện
vừa), I am đàn bà (2006), Xuân từ chiều (tiểu thuyết 2008), Trò chơi hủy
diệt cảm xúc (tiểu thuyết 2012).
Thành công của Y Ban không chỉ đƣợc ghi nhận ở sự yêu mến của độc
15
giả mà còn qua các giải thƣởng văn học. Đó là Giải nhất cuộc thi Truyện và
Thơ của Tạp chí Văn nghệ quân đội (1989-1990), Giải B cuộc thi viết về Hà
Nội do Nhà xuất bản Hà Nội tổ chức (1993), Giải C giải thƣởng của Ủy ban
toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam (2000), Giải nhất
cuộc thi viết truyện ngắn giáo dục đạo đức cho thiếu niên nhi đồng do Nhà
xuất bản Giáo dục tổ chức (2001).
Nghiệp văn vận vào chị nhƣ một định mệnh, Y Ban có thái độ làm việc
rất nghiêm túc. Chị quan niệm: “Quan điểm sáng tác của tôi là trăm bó đuốc
bắt đƣợc một con ếch chứ không mơ con gà đẻ trứng vàng”. Và chị khẳng
định lối viết của mình là "Truyện của tôi, lúc đọc ngƣời ta có thể tức giận,
khóc, cƣời... nhƣng đọc xong thì chẳng cần suy tƣ tìm hiểu thêm những ẩn ý
phía sau vì có gì thì tôi đã viết hết ra rồi. Tôi gieo chữ nhƣ cầm một nắm thóc
trên tay rồi tung ra”, “Điều làm tác phẩm đọng lại đƣợc với thời gian chính là
tính nhân bản. Thế mạnh của tôi là viết về nỗi đau, thân phận ngƣời đàn bà,
về nông thôn và ký ức. Cách hành văn, các chi tiết nhiều khi rất bạo liệt,
nhƣng cái đọng lại là sự nhân ái. Tôi viết về cái xấu, cái ác là để ngƣời ta căm
ghét nó và muốn sống đẹp hơn, thiện hơn, viết về sự đổ vỡ là để gợi lại niềm
tin yêu cuộc sống...”. Truyện Y Ban giàu chất đời. Những câu chuyện vặt vãnh
của cuộc sống qua ngòi bút của chị trở nên sống động và hấp dẫn. Chị từng đề
cập trong một bài trả lời phỏng vấn: “Nhiều ngƣời phê văn tôi toàn chuyện vụn
vặt, yêu đƣơng với dƣa cà mắm muối, chẳng có ý tƣởng cao siêu gì. Tôi nghĩ,
ý tƣởng cao siêu bằng giời mà không ai muốn đọc thì tay trắng. Tôi viết văn
cho độc giả, không viết riêng cho các nhà phê bình, tôi không thích loại văn
chƣơng cầu kỳ, hình thức”. Song có thể nhận thấy thế mạnh của Y Ban là viết
về nỗi đau, thân phận của ngƣời đàn bà và ký ức. Dù viết về đề tài nào, với chị
điều quan trọng nhất đọng lại sau mỗi tác phẩm là một trái tim yêu thƣơng và
16
thiết tha với cuộc sống, với con ngƣời.
Một điều dễ nhận thấy trong các sáng tác của chị là bên cạnh những dƣa
cà mắm muối và những điều vụn vặt trong cuộc sống, còn có sự xuất hiện của
những yếu tố sex. Nhƣ chị quan niệm: “Đây là phƣơng tiện giải trí và văn
hóa. Văn chƣơng cần tôn trọng sex ở khía cạnh đủ”. Viết sex cũng là cách gắn
kết bạn đọc với con chữ. Nhƣng viết sex không dễ. Nó có tục hay không tục
là do câu chữ. “Nếu tác giả khéo léo, thay thế những khái niệm về các bộ
phận các hành vi của con ngƣời bằng nhiều cách diễn đạt văn chƣơng hơn…
đƣa trí tƣởng tƣợng của độc giả đến các vấn đề nhân văn thì ngƣời đọc sẽ
không lăn tăn đến chuyện đề tài nữa”.
1.1.2.3. Nguyễn Thị Thu Huệ
Giữa những năm 80 của thế kỷ trƣớc trở lại đây, truyện ngắn bắt đầu
đƣợc coi là những "ông hoàng bà chúa" trong làng văn chƣơng bởi sức hút
chân thực và sâu sắc của nó. Truyện ngắn còn chứng tỏ sự lên ngôi và nở rộ
của phái đẹp. Nguyễn Thị Thu Huệ là một trong số đó với phong cách sáng
tạo táo bạo và độc đáo.
Hầu hết mọi ngƣời đều nhận thấy rằng Nguyễn Thị Thu Huệ là một nữ
nhà văn tài sắc vẹn toàn. Chị ngoài đời là một phụ nữ xinh đẹp, cởi mở và
nhiệt tình, khác hẳn với một Thu Huệ cay nghiệt, "khắt khe" trong những
Nước mắt đàn ông, Hậu thiên đường, Cầu thang…
Quê quán Thạnh Phú, Bến Tre nhƣng Nguyễn Thị Thu Huệ sinh tại Khe
Hùm, phƣờng Hà Phong, TP Hạ Long (ngày 12 tháng 8 năm 1966) khi đất
nƣớc còn chiến tranh. Trong ký ức của chị vẫn nguyên vẹn những kỷ niệm:
“Rồi mẹ mang tôi trong lòng, đêm sinh tôi trong núi. Bom Mỹ đánh ầm ầm
bên ngoài. Bố bế tôi cuộn trong cái chăn dạ mỏng chạy sang hang khác để
tránh bom. Và bố lỡ tay làm rơi tôi xuống đất vì chƣa quen bế một đứa bé
con...”. Huệ là tên mà mẹ chị - nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú - đặt cho theo
17
nhân vật chính trong tác phẩm Cô giáo Huệ của bà. Sinh ra trong một gia đình
có truyền thống văn học, cái tài văn chƣơng của chị có lẽ bắt nguồn từ gen
của ngƣời mẹ là nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú nổi tiếng một thời và cha là
nhà báo Nguyễn Ngọc Chánh. Chị đã đƣợc tiếp xúc với những áng văn hay
của mẹ và đam mê nó từ thời thơ ấu, khi hằng ngày đánh bản thảo cho mẹ
trên chiếc máy chữ cũ kỹ. Vì thế, ngay từ nhỏ chị đã có một trái tim đa cảm
và một cái nhìn tinh tế. Chị đã từng tâm sự: Cho đến bây giờ ở tuổi 37 chị vẫn
còn đầy mộng mơ và không kém những ngƣời mộng mơ nhất. Rất hay buồn,
hay bị xốn xang. Dẫu bây giờ đã có hai con trai rồi vậy mà cứ hôm nào trăng
sáng mà chị không đi ra đƣờng lang thang đƣợc một lúc, không ra ban công
ngắm trăng đƣợc một lúc là cứ nhƣ bị mất cắp một cái gì đấy .
Nguyễn Thị Thu Huệ có năng khiếu văn chƣơng từ nhỏ nhƣng lại mê hội
họa hơn và thích trở thành họa sĩ. Chị kể: "Mình không nghĩ sau này sẽ là nhà
văn, thế hệ bọn mình lúc đó hồn nhiên lắm, không bao giờ có ƣớc mơ phải trở
thành ngƣời nổi tiếng, giàu sang gì đâu". Vừa tốt nghiệp Khoa Văn Đại học
Tổng hợp, chị giấu bố mẹ đăng hai truyện ngắn Mưa trái mùa và Mùa hoa
sấu rụng trên báo Văn Nghệ và tạo đƣợc dấu ấn mạnh mẽ trong lòng độc giả
cũng nhƣ giới phê bình. Nhƣng con đƣờng trở thành nhà văn bị ngắt quãng
bởi đám cƣới sớm hơn dự định khi còn quá trẻ. Sau hai năm ở nhà trông con,
chị làm biên tập viên sân khấu tại tạp chí Văn hóa nghệ thuật. Thế rồi chị đã
ngậm ngùi khi thấy mẹ tủi thân vì nhiều ngƣời bằng tuổi con mình đã có tiếng
tăm, còn chị dƣờng nhƣ quên hẳn văn chƣơng. Vậy là chị viết: "Lúc đó tôi đã
viết nhƣ lên đồng, ý tƣởng tuôn trào nhƣ không kịp nghĩ". Cứ mỗi chiều, sau
khi cơm nƣớc xong, chị đạp xe lên cơ quan, mƣợn chiếc máy chữ và lạch
cạch gõ đến tận khuya. Những con ngƣời, những kỷ niệm (đặc biệt về bố mẹ
và tình yêu của họ), những đổi thay trong cuộc sống mà chị từng trải nghiệm
… đã thấm sâu vào tâm hồn để rồi thắp sáng những trang viết. Văn chị giàu
18
chất đời, thấm đƣợm tinh thần nhân văn sâu sắc.
Rồi chị chuyển sang làm tại hãng Phim Truyền hình Việt Nam. Dù công
việc bận rộn nhƣng chị vẫn dành nhiều thời gian cho gia đình. Chị bảo: "Khi
đã về đến nhà, mình nhƣ trở thành một con ngƣời khác, cũng xắn tay áo vào
bếp, lau nhà, bơm nƣớc, sửa điện… và chăm chút cho cậu con trai sáu tuổi".
Dƣờng nhƣ tình mẫu tử lấn át tính ngang ngạnh của ngƣời phụ nữ này.
Chị yêu tha thiết mảnh đất Quảng Ninh - “là quê hƣơng, là máu thịt” của
đời mình và Bến Tre – “nơi sinh ra bố và những ngƣời ruột thịt bên bố....”.
Chị có nhiều trải nghiệm ở các vùng miền khác nhau trong và ngoài nƣớc.
Cùng với những trải nghiệm ấy, một ký ức thiêng liêng quý giá những kỉ niệm
ăm ắp về quê hƣơng về tình yêu của bố mẹ …Đó là những vốn sống quý báu
cho chị trong những trang văn.
Hơn 20 năm cầm bút, Nguyễn Thị Thu Huệ đã tạo dựng đƣợc phong
cách riêng. Nét hấp dẫn của những trang văn Thu Huệ đến từ những chất liệu
rất đời thƣờng, tƣởng chừng những thứ vụn vặt của cuộc sống khó có thể vào
văn đựợc thì qua ngòi bút tài tình của chị, nó trở nên hấp dẫn một cách kỳ lạ.
Nhƣ nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng là “Truyện ngắn Thu Huệ hấp dẫn rộng
rãi ngƣời dọc trƣớc hết vì giàu chất đời”, “Những truyện hay của Thu Huệ là
nhờ ngƣời viết bứt lên đƣợc cái có thực đến tận cùng để tìm tới cái gì đó cao
hơn của con ngƣời, đó là đời sống tâm hồn vốn rất không rõ ràng mạch
lạc, vốn bí ẩn khó giải thích rạch ròi bằng lí trí (35). Chúng ta có thể thấy
rõ đặc điểm này trong những sáng tác của chị với các tập: Cát đợi (1992),
Hậu thiên đường (1993), Phù thủy (1995), Nào ta cùng lãng quên (2003),
37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ (2010) và gần đây nhất là Thành phố
đi vắng (2012).
Bƣớc ra từ cái nôi văn chƣơng của trƣờng Đại học Tổng hợp, Nguyễn
Thị Thu Huệ đã có một "vốn liếng" đáng nể trong làng văn: Giải B báo Ngƣời
19
Hà Nội với tác phẩm Những khoảng trời chờ đợi năm 1985, Giải B Tác phẩm
tuổi xanh báo Tiền Phong năm 1990 với tác phẩm Những đêm thắp nắng, Giải
nhất cuộc thi Hội Nhà văn Việt Nam với tác phẩm Hậu thiên đường, Giải nhất
cuộc thi của báo Văn nghệ quân đội năm 1994 với Hậu thiên đường và Biển
ấm, tặng thƣởng của Hội Nhà văn với tập truyện "Hậu thiên đƣờng" năm
1995, giải 3 cuộc thi viết kịch bản điện ảnh của báo Điện ảnh - Cục Điện ảnh
năm 1999 với Thiếu phụ chưa chồng, mới đây nhất tập truyện ngắn Thành
phố đi vắng đã đƣợc trao Giải thƣởng Hội Nhà văn năm 2012. Truyện ngắn
Của để dành, Nước mắt đàn ông của chị đã đƣợc chuyển thể thành phim.
Mặc dù quay trở lại với nghiệp văn chƣơng là một sự ngẫu nhiên bị thôi
thúc bởi chữ “hiếu” song không phải vì thế mà chị có thể dễ dãi với công việc
của mình. Chị từng quan niệm: “Tôi luôn coi văn chƣơng là ngƣời bạn chung
thủy của mình”, “Trong sáng tác, tôi không tự thần thánh mình dù đã có
những thành tựu nhất định. Tôi viết theo hứng bất chợt, không bao giờ cố ép
mình để viết. Tôi sẽ cố gắng viết một cái gì đó nếu có hứng. Nếu không thì
đành gác bút vậy”.
1.2. Sự thể hiện đề tài gia đình trong văn học Việt Nam đƣơng đại
1.2.1.Gia đình và mối quan hệ gia đình - xã hội
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Gia đình là tập hợp ngƣời cùng sống chung
thành một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn
Nhƣ vậy, gia đình là một hình ảnh thu nhỏ cơ bản nhất của xã hội, một
nhân và dòng máu, thƣờng gồm có vợ chồng, cha mẹ và con cái” [42, 383].
tổ chức đời sống cộng đồng của con ngƣời, một thiết chế văn hóa – xã hội đặc
thù, đƣợc hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân,
quan hệ huyết thống, qua hệ nuôi dƣỡng và giáo dục... giữa các thành viên.
Gia đình là một thể chế xã hội có tính chất toàn cầu, dù rằng ở quốc gia
này, lãnh thổ kia vẫn có sự khác biệt. Ai cũng có một gia đình, thuộc về một
20
gia đình. Trong lịch sử nhân loại, gia đình hình thành từ rất sớm và trải qua
một quá trình phát triển lâu dài với các hình thức gia đình: một thế hệ, hai thế
hệ và nhiều thế hệ. Đó là nơi ta ra đi và cũng là chốn ta sẽ quay về. Hạnh
phúc hay bất hạnh lớn nhất của đời ngƣời thƣờng bắt nguồn từ đấy. Đặc biệt,
trong nền văn hoá phƣơng Đông, vai trò của gia đình đối với mỗi cá nhân vô
cùng quan trọng.
Đặc điểm nổi bật dễ thấy là gia đình không phải một cấu trúc khép kín.
Nó có mối liên hệ chặt chẽ, có mối tƣơng tác biện chứng với xã hội.
Truớc hết, cần ghi nhận sự tác động của gia đình đối với sự phát triển
của xã hội. Gia đình có vai trò rất quan trọng, là nhân tố cho sự tồn tại và phát
triển của xã hội. Gia đình nhƣ một tế bào tự nhiên, là đơn vị nhỏ nhất để tạo
nên xã hội. Vì vậy, muốn xã hội tốt thì phải xây dựng gia đình tốt. Gia đình là
cầu nối giữa cá nhân và xã hội. Mỗi cá nhân chỉ có thể sinh ra trong gia đình.
Không thể có con ngƣời sinh ra từ bên ngoài gia đình. Gia đình là trƣờng học
đầu tiên nên có ảnh hƣởng quan trọng đến sự hình thành và phát triển tính
cách của mỗi cá nhân. Và cũng chính trong gia đình, mỗi cá nhân sẽ học đƣợc
cách cƣ xử với ngƣời chung quanh và xã hội. Gia đình là tổ ấm, mang lại các
giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống mỗi thành viên, mỗi công dân của
xã hội. Gia đình là nơi nuôi dƣỡng chăm sóc những công dân tốt cho xã hội ;
giúp con ngƣời hiểu đƣợc các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống của
mỗi thành viên, mỗi công dân của xã hội. Sự hạnh phúc của gia đình là tiền đề
hình thành nên nhân cách tốt cho những thành viên của xã hội. Nhƣ vậy, gia
đình trực tiếp hoặc gián tiếp có những tác động đến xã hội.
Mặt khác, xã hội cũng có những phản hồi ngƣợc trở lại, nhất là trong
cuộc sống đƣơng đại. Gia đình không phải một thế giới khép kín. Nó chịu sự
tác động lớn của xã hội, đặc biệt trong xã hội đƣơng đại. Chúng ta biết rằng
các cá nhân không chỉ sống trong quan hệ gia đình mà còn có những quan hệ
21
xã hội. Mỗi cá nhân không chỉ là thành viên của gia đình mà còn là thành viên
của xã hội. Không thể có con ngƣời bên ngoài xã hội. Bất cứ xã hội nào cũng
thông qua gia đình để tác động đến mỗi cá nhân. Mặc khác, nhiều hiện tƣợng
của xã hội cũng thông qua gia đình mà có ảnh hƣởng tích cực hoặc tiêu cực
đối với sự phát triển của mỗi cá nhân (về tƣ tƣởng, đạo đức, lối sống).
Xã hội đƣơng đại có những bƣớc chuyển toàn diện. Xu thế công bằng,
dân chủ mà xã hội khởi xƣớng đã từng bƣớc thẩm thấu vào các quan hệ gia
đình. Phụ nữ và trẻ em, những nhân vật lâu nay vốn chịu thua thiệt đã bắt đầu
ý thức đƣợc quyền lợi của mình và đòi hỏi đƣợc tôn trọng. Hơn nữa, sự hình
thành một xã hội công dân (mọi ngƣời đều bình đẳng trƣớc pháp luật) đã cho
phép con ngƣời khi đến tuổi trƣởng thành có quyền độc lập trong giao tiếp xã
hội cũng nhƣ các giao dịch nhân sự. Ngƣời gia trƣởng (ông chủ gia đình)
không còn địa vị “đại diện duy nhất, quyền uy quyết định, sai khiến bị suy
giảm. Sự nghiệp công nghiệp hoá, đô thị hoá, hiện đại hoá đã làm thay đổi xã
hội có cơ sở là nền kinh tế tiểu nông, tự cung tự cấp. Mô hình gia đình truyền
thống đƣợc thay thế bằng gia đình hiện đại đa khuôn mẫu: gia đình nông dân -
công nhân, gia đình viên chức, gia đình doanh nhân v.v... Những lũy tre xanh,
những cổng làng cổ kính rêu phong chỉ còn là hồi ức. Trong nền kinh tế mới
phát huy chủ yếu các năng lực trí tuệ, ngƣời phụ nữ bé nhỏ của mỗi gia đình
đã tự tin hơn nhiều vì họ đã có thể có sự nghiệp riêng, có địa vị xã hội. Rõ
ràng, trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế xã hội, cùng với nam giới, ngƣời phụ
nữ Việt Nam đã vƣơn ra ngoài gia đình, có nhiều điều kiện thuận lợi để khẳng
định và phát huy tiềm năng sáng tạo, xác lập địa vị bình đẳng thực sự trong
gia đình. Có thể nói xã hội đã có những bƣớc chuyển nhƣ vũ bão.
Những cơn bão của thời đại tấn công vào từng gia đình và chúng ta đang
phải dũng cảm đối diện với nó. Nhiều điều tốt đẹp đã đƣợc nảy sinh bên cạnh
22
bao nhiêu thách thức.
Trƣớc những thay đổi của xã hội, gia đình Việt Nam đã và đang có nhiều
chuyển biến. Nhiều giá trị truyền thống có nguy cơ bị mai một, trong quan
niệm và lối sống của con ngƣời có sự biến đổi sâu sắc. Một trong số đó là sự
thay đổi mô hình từ gia đình truỳên thống tam, tứ đại đồng đƣờng sang gia
đình hiện đại hai thế hệ. Con cái có thể chủ động hơn trong công việc và các
mối quan hệ của mình, những mâu thuẫn gia đình theo kiểu gia đình truyền
thống đã ít hơn. Trong gia đình truyền thống, vai trò của nam giới đƣợc đề
cao, nhất là trong xã hội phong kiến với tƣ tƣởng “nhất nam viết hữu, thập nữ
viết vô”, ngƣời phụ nữ thƣờng bị lệ thuộc và gần nhƣ không có quyền quyết
định mọi chuyện trong gia đình. Nay xã hội hiện đại đã nâng cao vị thế của
ngƣời phụ nữ. Điều này có nhiều mặt tích cực. Ngƣời phụ nữ tích cực tham
gia các hoạt động xã hội và đƣợc ghi nhận. Tiếng nói của ngƣời phụ nữ đƣợc
cải thiện nhiều…
Bên cạnh những ƣu điểm trên, những thay đổi của gia đình hiện đại đã
đem đến nhiều hệ lụy không mong muốn. Nền kinh tế mới một mặt tạo cơ hội
cho mọi ngƣời cống hiến sáng tạo, nhƣng mặt khác lại cuốn họ vào vòng xoáy
của thị trƣờng cạnh tranh khốc liệt. Con ngƣời buộc phải bƣơn chải cật lực,
vắt kiệt sức cho cuộc mƣu sinh nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất, thời gian
họ dành cho ngôi nhà ngày càng ít ỏi. Trong cuộc chạy đua ấy, có ngƣời
nhanh kẻ chậm, ngƣời tận dụng đƣợc nhiều cơ hội bên cạnh kẻ bỏ lỡ thời cơ.
Nền văn hoá Việt Nam hiện nay đa sắc mầu, vẫn gần gũi với tâm lý, cốt cách
dân tộc nhƣng lại tiến gần hơn tới bạn bè thế giới. Văn hoá nhân loại, trƣớc
hết là văn hoá tiến bộ phƣơng Tây đã có công thức tỉnh ý thức về vai trò và
quyền lợi của cá nhân trong cộng đồng, về tính hiệu quả và lợi ích thực tế
của công việc nhƣ bình đẳng giới, quyền trẻ em, chống bạo lực gia đình…
Sự xuất hiện của những yếu tố này làm lay động xã hội gia trƣởng phụ
23
quyền từng tồn tại hàng ngàn năm trong dải đất hình chữ S. Cá tính, sự
khác biệt đã bắt đầu đƣợc tôn trọng, tiềm năng sáng tạo của mỗi con ngƣời
đƣợc giải phóng.
Bên cạnh những dấu cộng, dấu nhân quý giá lại có bao nhiêu dấu trừ,
dấu chia đầy tiếc nuối. Đôi khi sự tiếp thu văn hoá nhân loại còn ồ ạt, vội vã,
không lựa chọn. Cơn bão thời đại đã không dừng lại trƣớc cánh cửa và phía
sau kia là những lớp sóng ngầm. Có những dấu hiệu dễ nhận nhƣ quy mô, cấu
trúc, mức sống hay nề nếp sinh hoạt gia đình… nhƣng cũng có những yếu tố
rất tinh tế nhƣ văn hoá ứng xử mà không phải ai cũng thấy. Những bữa ăn
quây quần trở nên ít đi và nếu có, cũng diễn ra vội vàng vì ai cũng muốn
nhanh quay về thế giới riêng của mình với máy tính, tivi, máy nghe nhạc, điện
thoại thông minh... Gia đình đông đúc tam tứ đại đồng đƣờng dần bị thay thế
bằng những gia đình hạt nhân ít con. Mô hình gia đình ít con đã nâng cao mức
sống và điều kiện nuôi dạy trẻ song có những đứa trẻ tuy đầy đủ vật chất
nhƣng lại hụt hẫng về tinh thần. Rồi nhiều gia đình cả bố lẫn mẹ bận công
việc đã khiến họ không có nhiều thời gian dành cho con. Họ phó mặc con cái
cho ngƣời giúp việc hoặc ông bà và bù đắp cho con bằng vật chất mà không
hiểu hết hoặc có thể hiểu hết nhƣng không thể làm khác đƣợc rằng với mỗi
đứa con, tình cảm yêu thƣơng, sự chăm chút của cha mẹ đối với chúng là vô
cùng quý giá và không ai có thể thay thế đƣợc. Cũng vì không có nhiều thời
gian dành cho nhau nên khoảng cách giữa con cái và bố mẹ ngày càng xa,
những cuộc nói chuyện trở nên vội vàng, chóng vánh.
Không chỉ có vậy, xã hội còn tác động đến gia đình qua sự thay đổi ở vai
trò của từng giới. Ngƣời đàn ông phải mang những trọng trách lớn lao theo
chuẩn xƣa đồng thời lại phải bắt kịp theo những yêu cầu mới. Bởi vậy, họ vừa
phải là ngƣời “xuống Đông - Đông tĩnh, lên Đoài - Đoài yên” vừa phải mang
những chuẩn mực nam tính, nhƣ mạnh mẽ quyết đoán và nhất là đủ sức làm
24
trụ cột kinh tế... Còn ngƣời phụ nữ bên cạnh việc thực hiện nghĩa vụ giữ lửa
cho ngôi nhà vẫn phải đảm đƣơng công việc ngoài xã hội. Họ đƣợc cởi bỏ
những rào cản, có nhiều cơ hội thể hiện tài năng, thậm chí làm chủ kinh tế gia
đình và nhờ đó nâng cao địa vị bình đẳng với chồng. Ngƣời phụ nữ kém cỏi
có thể bị chồng chê nhƣng định kiến giới cũng khiến bao nhiêu ngƣời phụ nữ
thành đạt không có hạnh phúc. Có thể thấy, mọi quan hệ trong gia đình hiện
đại đều đang biến đổi theo hƣớng cá tính hoá ngày càng sâu sắc.
Xã hội còn tác động đến gia đình qua sự thay đổi trong mối quan hệ
vợ chồng. Xƣa kia ngƣời ta thƣờng phân biệt: tình yêu trai gái, tình nghĩa
vợ chồng. Khi đã lấy nhau, chữ nghĩa gắn với trách nhiệm đƣợc đề cao
hơn chữ tình vốn gắn với cảm xúc... Ngƣời ta, nhất là phụ nữ - tìm kiếm
hạnh phúc trong sự hy sinh vì ngƣời khác, đặc biệt vì con cái. Còn ngày
nay, tình yêu đôi lứa đƣợc đề cao. Dù biết con trẻ sẽ bị thiệt thòi khi gia
đình tan vỡ, nhƣng khi hạnh phúc lứa đôi không còn, nhiều ngƣời vẫn sẽ
quyết liệt chia tay. Thật xót xa khi nhìn thấy sự xuất hiện ngày càng nhiều
những vụ ly hôn. Gia đình là chỗ dựa về tinh thần và vật chất cho mỗi
thành viên, là tổ ấm nơi các em bé đƣợc chăm sóc, nuôi dƣỡng. Nhƣng
khi nó bị đổ vỡ thì những con chim non biết tránh vào đâu trong cơn mƣa
bão? Những đứa trẻ lẽ ra phải đƣợc học hành, đƣợc vui chơi, đƣợc yêu
thƣơng âu yếm đƣợc vỗ về với đôi bàn tay thân thƣơng của cha mẹ thì
lang thang không chỗ dựa, không tình thƣơng, phải nếm trải những lo
toan nhọc nhằn của cuộc sống hoặc đủ đầy về vật chất nhƣng bơ vơ, lạc
lõng thiếu sự quan tâm. Gia đình là bức tƣờng vững chắc nhƣng gia đình
không hoàn thiện đã tạo ra những số phận éo le. Nhƣ vậy, trƣớc biến động
của xã hội bão đã không dừng lại trƣớc cánh cửa của những ngôi nhà...
1.2.2. Đề tài gia đình trong văn học Việt Nam
Văn học chân chính luôn hƣớng ngƣời ta đến những giá trị Chân, Thiện,
25
Mĩ. Và để đạt đƣợc điều ấy, dƣờng nhƣ nó phải xuất phát từ những rung động
của trái tim thiết tha với con ngƣời, với cuộc đời. Chính vì vậy, không có gì
ngạc nhiên khi gia đình trở thành đề tài quan trọng trong văn chƣơng, đặc biệt
là văn chƣơng đƣơng đại. Thực ra, không phải đến cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ
XXI văn học mới đề cập đến gia đình mà đề tài này đã đƣợc nhắc đến trong
văn học xƣa.
1.2.2.1. Đề tài gia đình trong văn học dân gian (qua ca dao và
truyện cổ tích)
Từ xa xƣa trong những bài ca dao, những câu chuyện cổ tích, đề tài gia
đình đã đƣợc nhắc đến khá nhiều. Những tình cảm gần gũi thân thƣơng về gia
đình hiện lên thật đẹp trong những câu hát ngọt ngào sâu lắng bà của mẹ. Đó
là sự ngợi ca, đề cao tình cha - con, mẹ - con:
- Công cha nhƣ núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ nhƣ nƣớc trong nguồn chảy ra
- Ơn cha nặng lắm ai ơi
Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cƣu mang
Nghĩa vợ - chồng:
Chồng em áo rách em thƣơng
Chồng ngƣời áo gấm xông hƣơng mặc ngƣời
Sự hiếu lễ, ghi nhớ công lao của cháu con với ông bà, cha mẹ:
Ngó lên nuộc lạt mái nhà
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu
Viết về các chủ đề khác nhau với nội dung phong phú song các sáng tác
dân gian quan tâm đến nhiều đối tƣợng trong gia đình từ trẻ em đến ngƣời lớn
(nhân vật nam lẫn ngƣời phụ nữ) với những mức độ và cách thức khác nhau.
Có lẽ, ngƣời phụ nữ là đối tƣợng đƣợc phản ánh nhiều nhất trong các
26
sáng tác văn học dân gian.
Trong truyện cổ tích, ngƣời phụ nữ cũng đƣợc nhắc đến nhƣ cô Tấm
(Tấm Cám), cô Út (Sọ Dừa), ngƣời vợ của anh học trò nghèo (Lấy vợ cóc)…
Tuy nhiên, với đặc trƣng là giấc mơ đẹp của ngƣời xƣa về công bằng, hạnh
phúc cho những ngƣời bất hạnh; truyện cổ tích có những nhân vật chức năng
với sự phân tuyến rạch ròi giữa Thiện và Ác, Tốt và Xấu. Nhân vật nữ đại
diện cho lý tƣởng tốt đẹp của nhân dân thƣờng có số phận bi thảm, tiêu biểu
cho ngƣời dân “thấp cổ bé họng”. Đó là những kẻ mồ côi, bị tƣớc đoạt các
quyền lợi, thậm chí phải chết đi sống lại nhiều lần. Mặc dầu vậy, ở họ vẫn
sáng ngời những phẩm chất truyền thống tốt đẹp: nhân hậu, thƣơng ngƣời,
chăm chỉ, hiền dịu, nết na… Họ phải trải qua nhiều khó khăn thử thách nhƣng
cuối cùng bao giờ cũng đƣợc hạnh phúc mỉm cƣời. Sau bao lần bị hãm hại, cô
Tấm hồi sinh xinh đẹp hơn xƣa (Tấm Cám); cô Út nhờ những vật dụng Sọ
Dừa tặng đã chui ra khỏi đƣợc bụng cá và đoàn tụ với chồng (Sọ Dừa); ngƣời
vợ của anh học trò nghèo trở nên xinh đẹp muôn phần sau khi trút bỏ lốt cóc
xấu xí…Nhƣ vậy, mặc dù có nhắc đến các nhân vật nữ nhƣng truyện cổ tích
không đi sâu vào phản ánh tâm sự, nỗi niềm của họ mà chỉ sử dụng nhƣ
những nhân vật chức năng trong việc thể hiện khát vọng công bằng và lý
tƣởng chính nghĩa.
Hình ảnh ngƣời phụ nữ trong ca dao đã trở nên sinh động và phong phú
hơn nhiều. Tác giả dân gian đã đặc biệt quan tâm đến thân phận ngƣời phụ nữ
với tiếng nói khẳng định, cảm thông và bênh vực. Trƣớc hết, đó là tiếng nói
của sự đề cao, ngợi ca vẻ đẹp bề ngoài lẫn phẩm chất bên trong. Ngƣời phụ
nữ trong ca dao xƣa hiện lên với vẻ đẹp truyền thống kín đáo, ý nhị:
Miệng cƣời nhƣ thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu nhƣ thể hoa sen
Không chỉ vậy, họ còn có tình yêu say đắm, thủy chung son sắt:
- Thuyền về có nhớ bến chăng
27
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
- Em nghe anh đau đầu chƣa khá
Em băng đồng chỉ sá hái ngọn lá cho anh xông
Ƣớc chi nên đạo vợ chồng
Đổ mồ hôi thì em quạt, ngọn gió lồng thì em che
Lẽ ra với những phẩm chất tốt đẹp ấy, ngƣời phụ nữ xứng đáng có
một cuộc sống hạnh phúc, ấm êm. Nhƣng thật trớ trêu, xã hội phong kiến
lại vùi dập, đẩy họ đến những tình cảnh bi thƣơng, những nỗi niềm không
thể chia sẻ cùng ai:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Đặc biệt, hầu hết các bài ca dao than thân có mô típ mở đầu bằng từ
“thân em” là tiếng nói cảm thƣơng cho những ngƣời phụ nữ bị lệ thuộc,
không có quyền quyết định cuộc sống của mình:
- Thân em nhƣ trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu
- Thân em nhƣ tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
- Thân em nhƣ giếng nƣớc giữa đàng
Ngƣời khôn rửa mặt ngƣời phàm rửa chân
- Thân em nhƣ hạt mƣa sa
Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày
Nhƣ vậy, ca dao là tiếng lòng của ngƣời xƣa bênh vực ngƣời phụ nữ.
Tuy nhiên, nó mới chỉ dừng lại ở sự giãi bày nỗi niềm để thể hiện sự đồng
cảm sẻ chia. Ngƣời phụ nữ hiện lên thật nhỏ bé, yếu đuối trƣớc những lễ giáo,
trƣớc tƣ tƣởng nam quyền của xã hội phong kiến.
Ở những mức độ khác nhau, văn học dân gian đã phản ánh những tâm tƣ
28
xúc cảm của con ngƣời, chú trọng đề cao gia đình và những mối quan hệ tốt
đẹp trong gia đình. Các tác giả dân gian cũng quan tâm đến thế giới tinh thần
của mọi ngƣời, đặc biệt là ngƣời phụ nữ với niềm cảm thƣơng sâu sắc. Điều
này càng khẳng định vai trò và ý nghĩa to lớn không thể thay thế đƣợc của gia
đình trong cuộc sống của mỗi con ngƣời. Tuy nhiên, trong văn học dân gian,
gia đình chƣa phải là vấn đề mang tính chủ đạo, xuyên suốt.
1.2.2.2. Đề tài gia đình trong văn học trung đại Việt Nam
Văn học là một bộ phận không thể tách rời của văn hóa. Bất kì một tác
phẩm văn học nào cũng thể hiện con ngƣời và hoạt động của nó trong không
gian và thời gian xác định. Chiến thắng Bạch Đằng (938) chấm dứt hơn nghìn
năm Bắc thuộc, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc. Văn học viết Việt Nam
chính thức đƣợc ghi nhận. Là ngƣời thƣ ký trung thành của thời đại, văn học
luôn là sự phản ánh hiện thực cuộc sống. Tùy đặc điểm lịch sử - xã hội của
từng giai đoạn mà văn học có những đối tƣợng thẩm mĩ phù hợp nhƣng nhìn
chung, đề tài gia đình là một trong những nội dung đƣợc quan tâm của văn
học viết. Nó xuất hiện manh nha từ giai đoạn trung đại và nở rộ ở cuối thế kỉ
XX đầu thế kỉ XXI.
Trƣớc hết ở văn học trung đại. Yêu nƣớc và nhân đạo là hai sợi chỉ đỏ
xuyên suốt trong văn học trung đại Việt Nam nói riêng và văn học Việt Nam
nói chung. Qua từng giai đoạn lịch sử vai trò của các yếu tố này có những
thay đổi phù hợp. Văn ho ̣c Lý – Trần (từ thế kỉ X đến thế kỉ XV) là thời kỳ văn ho ̣c chính thức mở đầu , có nhiệm vụ khai phá , mở đƣờ ng cho văn ho ̣c Viê ̣t Nam kể tƣ̀ sau khi nƣớ c nhà giành la ̣i đô ̣c lâ ̣p . Nền văn ho ̣c này kế thƣ̀ a nhƣ̃ng gì đã có tuy chƣa nhiều củ a văn ho ̣c thai nghé n trong thờ i Bắc thuô ̣c . Tƣ̀ bƣớ c mở đầu này , nó tự xác định cho mình một trách nhiệm cao cả mà
lịch sử đã giao phó là góp phần tích cực vào sự nghiệp dựng nƣớc và giữ
29
nƣớ c. Do ảnh hƣởng của tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo, thơ thời Lý còn đƣợc gọi là thơ Thiền. Theo đó, các tăng lữ là lực lƣợng sáng tác chủ yếu thời bấy
giờ. Chất liệu hiện thực đƣợc miêu tả trong thơ là một cách trình bày triết lí.
Những bài kệ của các thiền sƣ không chỉ đơn thuần là những lời thuyết pháp
mà còn là cách nhìn nhận tích cực với cuộc sống. Văn học thời Trần lại là sự
khẳng định của Nho giáo mang cảm hứng hào hùng trƣớc thời đại cũng nhƣ
những nỗi niềm, tâm sự của cá nhân (Văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí). Nó
mang những hoài bão chí hƣớng lập thân lập nghiệp của các nho sĩ trên con
đƣờng công danh. Cảm hứng chủ đạo trong văn học thời Trần là yêu nƣớc với
âm hƣởng hào hùng, với hào khí Đông A sục sôi. Giai đoạn này, gia đình với
những vai trò và ý nghĩa của nó chƣa phải là đối tƣợng của văn học.
Phải sang đến giai đoạn nửa đầu XVIII, những nỗi niềm, cảm xúc, thân
phận của con ngƣời (đặc biệt là ngƣời phụ nữ) mới đƣợc văn học thật sự chú
ý. Văn học là phƣơng tiện để bênh vực con ngƣời và những khát vọng hạnh
phúc chính đáng. Nguyễn Gia Thiều trong Cung oán ngâm khúc đã cảm
thƣơng cho thân phận những ngƣời phụ nữ tài sắc lúc đầu đƣợc nhà vua yêu
chuộng, ái ân hết sức nồng nàn thắm thiết nhƣng chẳng bao lâu đã bị ruồng
bỏ. Ở trong cung, xót thƣơng cho thân phận mình và oán trách nhà vua phụ
bạc, nàng khát khao muốn "đạp tiêu phòng mà ra" để trở về với cảnh đời "cục
mịch nhà quê", nhƣng chung quanh nàng vẫn là bức tƣờng lạnh lẽo với sự đợi
chờ trong tuyệt vọng. Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm
là nỗi khổ, sự cô đơn buồn tủi tâm sự của một ngƣời vợ có chồng tham gia
cuộc chiến do triều đình phong kiến chủ xƣớng. Nữ sĩ Xuân Hƣơng là tiếng
nói phản kháng mạnh mẽ khẳng định cái tôi và khát vọng đổi phận “Ví đây
đổi phận làm trai đƣợc – Thì sự anh hùng há bấy nhiêu”… Và đặc biệt, bằng
trái tim yêu thƣơng và cảm thông sâu sắc, đại thi hào Nguyễn Du đã lớn tiếng
bênh vực cho ngƣời phụ nữ qua Truyện Kiều, Văn tế thập loại chúng sinh,
Độc Tiểu Thanh kí, Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu… Nhƣ vậy, cái tôi cá
30
nhân, nhất là của ngƣời phụ nữ với thế giới cảm xúc phức tạp đã đƣợc văn
học trung đại chú ý hơn. Tuy nhiên, các mối quan hệ giữa những thành viên
trong gia đình, số phận của gia đình trong dòng chảy xã hội vẫn còn là khoảng
trống văn học thời bấy giờ.
1.2.2.3. Đề tài gia đình trong văn học hiện đại Việt Nam
Những năm ba mƣơi của thế kỷ XX, các nhà văn Tự lực Văn đoàn đã
khai thác rất thành công đề tài gia đình. Những tác phẩm hay nhất, có nhiều
đóng góp nhất cho nền văn học nƣớc nhà của họ là những tác phẩm đấu tranh
giải phóng cá nhân, đấu tranh cho tự do hôn nhân, cho quyền sống của ngƣời
phụ nữ chống lại sự ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến. Có thể kể tên
một số tác phẩm nhƣ: Hồn bướm mơ tiên (1933), Nửa chừng xuân (1934),
Thoát ly (1937), Đoạn tuyệt (1934), Lạnh lùng (1936)... Qua tác phẩm của
mình, các nhà văn Tự lực văn đoàn muốn bày tỏ tiếng nói khẳng định khát
vọng cá nhân, đề cao tự do yêu đƣơng, tự do kết hôn, đề cao tự do, bình
đẳng và dân chủ. Trong Nửa chừng xuân, Khái Hƣng cổ súy cho tự do cá
nhân trong yêu đƣơng nam nữ. Tình yêu là “không gian” điển hình của tự
do. Thiên truyện đã mạnh mẽ nêu lên tính chất phi nhân của những mƣu
toan và hành động xâm phạm tự do cá nhân con ngƣời. Quyền tự do của
con ngƣời, mà ở đây là đƣợc yêu và kết hôn với ngƣời mình yêu, đã bị xâm
phạm bởi bà Án, ngƣời nhân danh là mẹ, có quyền định đoạt số phận của
Lộc, con trai bà. Bà cũng đã nhân danh một dòng họ để đòi Mai phải trả
đứa cháu nối dõi tông đƣờng, tƣớc quyền làm mẹ của một ngƣời phụ nữ. Ở
Đoạn tuyệt, Nhất Linh mạnh mẽ lên án lề thói cổ hủ: hôn nhân không có
tình yêu (cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, gả cƣới theo môn đăng hộ đối), địa
vị thấp kém của ngƣời phụ nữ trong gia đình nhà chồng (mẹ chồng hà khắc
nàng dâu; sinh con cho nhà chồng có kẻ nối dõi tông đƣờng) và đề cao
31
quyền tự do yêu đƣơng của con ngƣời.
Nhƣ vậy đề tài gia đình đã đƣợc đề cập ở khía cạnh lên tiếng bênh vực
cho ngƣời phụ nữ và quyền tự do dân chủ. Song với khía cạnh này, đề tài
gia đình chƣa mang tính hệ thống, mới chỉ xuất hiện ở một bộ phận sáng
tác mà thôi.
Sau Cách mạng Tháng Tám, đất nƣớc trải qua hai cuộc chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ giải phóng dân tộc. Lúc này những vấn đề riêng tƣ
tạm thời gác lại, vận mệnh đất nƣớc đƣợc đặt lên hàng đầu. Nhiệm vụ chủ yếu
của văn học nghệ thuật là phục vụ công cuộc kháng chiến kiến quốc, cổ vũ
chiến đấu. Các nhà văn trở thành ngƣời chiến sĩ sử dụng vũ khí văn chƣơng
phục vụ cách mạng. Họ không ngần ngại hoà mình vào cuộc sống công - nông
- binh, ca ngợi nhân dân, ca ngợi anh bộ đội, ca ngợi những chiến công vang
dội của dân tộc... Đề tài tình yêu - hôn nhân- gia đình đƣợc gác lại. Bởi vậy,
những vấn đề - hôn nhân - gia đình dƣờng nhƣ không đƣợc đề cập nhƣ một
mảng lớn trong văn học cách mạng Việt Nam 1945 – 1975.
Sau đại thắng mùa xuân 1975, đất nƣớc hoàn toàn độc lập, thống nhất là
bƣớc ngoặt lớn đối với dân tộc nói chung và văn học nói riêng. Văn học mang
cảm hứng ngợi ca chiến tranh cách mạng. Sau Đại hội Đảng VI (1986), trong
làn gió đổi mới, các văn nghệ sĩ đã “cởi trói” và tự do sáng tác. Lúc này,
khuynh hƣớng sử thi, cảm hứng lãng mạn đƣợc thay thế bằng cảm hứng đạo
đức - thế sự. Con ngƣời sử thi trong văn học trƣớc năm 1975 đƣợc thay thế
bằng con ngƣời nếm trải. Đề tài, chủ đề không còn bó hẹp, thiên về khai thác
các vấn đề liên quan đến những nhiệm vụ chính trị mà đƣợc mở rộng từ đề tài
gia đình, thân phận tình yêu, số phận con ngƣời đến chiến tranh cách mạng,
sản xuất xây dựng... Các mặt trái, góc khuất, phần chìm của hiện thực cuộc
sống đƣợc các nhà văn thể hiện một cách sinh động và thuyết phục. Chƣa bao
giờ đề tài gia đình lại nhận đƣợc sự quan tâm của đông đảo giới cầm bút nhƣ
32
vậy. Từ các thế hệ nhà văn đã thành danh trong văn học cách mạng Việt Nam
trƣớc 1975 đến các thế hệ cầm bút trƣởng thành sau 1975, thậm chí có những
ngƣời còn rất trẻ, tuổi mới ngoài hai mƣơi đều có tác phẩm viết về đề tài gia
đình. Hơn nữa, đề tài gia đình không chỉ xuất hiện trong tiểu thuyết, truyện
ngắn mà còn xuất hiện cả trong tản văn. Văn học thời kỳ này xuất hiện với
mật độ dày đặc tác phẩm viết về đề tài gia đình hoặc có liên quan đến vấn đề
gia đình nhƣ Mùa lá rụng trong vườn, Nợ đời, Nhan sắc đàn bà, Cỏ dại... (Ma
Văn Kháng); Cha và con và..., Một cõi nhân gian bé tí (Nguyễn Khải); Thời
xa vắng, Hai nhà, Sóng ở đáy sông (Lê Lựu); Bến không chồng (Dƣơng
Hƣớng); Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh); Tướng về hưu, Tâm hồn mẹ
(Nguyễn Huy Thiệp); Phố, Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Một nửa cuộc đời, Mi-
nu xinh đẹp, Nước mắt đàn ông, Hậu thiên đường (Nguyễn Thị Thu Huệ)...
Trong đó có nhiều tác phẩm xuất sắc, đạt các giải thƣởng cao của Hội Nhà
văn và để lại nhiều dƣ âm trong lòng độc giả.
Các tác phẩm viết về đề tài gia đình trong văn học Việt Nam sau 1975 đã
đi sâu khai thác các mối quan hệ phức tạp, đa chiều của gia đình Việt Nam
trong thời mở cửa. Cuộc sống cá nhân trong mối quan hệ với gia đình và xã
hội trở thành mối quan tâm hàng đầu của các nhà văn. Một trong những vấn
đề đƣợc khá nhiều nhà văn quan tâm là gia đình Việt Nam trƣớc thách thức
của nền kinh tế thị trƣờng. Quan niệm “một túp lều tranh hai trái tim vàng”
một thời đƣợc coi là lý tƣởng trở nên chông chênh trƣớc lối sống thực dụng,
chạy theo đồng tiền, coi trọng vật chất. Trong Phố, Chu Lai đƣa ngƣời đọc
đến với tình cảnh của Thảo và Nam. Tình yêu của họ đƣợc thử thách nơi hòn
tên mũi đạn và ngàn ngày đằng đẵng xa nhau. Hạnh phúc tƣởng nhƣ ở trong
tầm tay khi Thảo “nguyên vẹn” trở về, tiền bạc dồi dào, nhà cao cửa rộng, đời
sống sung túc. Nhƣng sóng gió lại xuất hiện. Bi kịch đã giáng xuống gia đình
họ khi Thảo bỏ mạng nơi biển Sầm Sơn một ngày dông gió trong chuyến
33
“pích níc” với tình nhân, Nam điên loạn, phẫn uất khi nhận ra mình bị phản
bội, bé Niên Thảo quặn nỗi đau mất mẹ và hứng chịu những cơn thịnh nộ của
bố. Hạnh phúc gia đình tan vỡ. Những tháng ngày ở trời Tây cho Thảo tiếp
xúc với cuộc sống mới. Trong chị đã có nhiều đổi thay: quan niệm về thẩm
mỹ, về hạnh phúc, về giá trị cuộc sống... trong khi Nam vẫn khƣ khƣ giữ nếp
xƣa. Nhƣ vậy, giữa họ đã có độ chênh. Những điều tƣởng chừng nhỏ nhặt ấy
đã bào mòn, phá hủy hạnh phúc gia đình.
Trong sáng tác của Lê Lựu, những tác phẩm viết về đề tài gia đình hoặc
có liên quan đến vấn đề gia đình thƣờng kết thúc bằng những bi kịch, những
đổ vỡ. Nguyên nhân chủ yếu do sự cách biệt về quan niệm sống, về cách ứng
xử, các mối quan hệ trong giao tiếp và đặc biệt hôn nhân không xuất phát từ
tình yêu giữa ngƣời vợ và ngƣời chồng. Có thể thấy rõ điều này ở Thời xa
vắng. Dƣới góc độ hôn nhân - gia đình, vấn đề tình yêu và hạnh phúc gia đình
luôn là nỗi trăn trở, day dứt khôn nguôi. Cuộc đời Giang Minh Sài là một
chuỗi ngày đắng cay, chua xót với những bi kịch và sự đổ vỡ đau đớn của hôn
nhân. Ở tác phẩm khác (Hai nhà), Lê Lựu còn khám phá những góc khuất
khác của gia định hiện đại, giúp ngƣời đọc thấy con ngƣời không đơn giản
nhƣ những gì biểu hiện ở vẻ bề ngoài. Các nhân vật nữ (Linh Anh, Mỹ Nhân)
là những con ngƣời hai mặt. Bề ngoài là những ngƣời duyên dáng, lịch thiệp,
tế nhị, mẫu mực, hết lòng yêu chồng, thƣơng con nhƣng bên trong lại chứa
đựng bản chất ích kỷ, giả dối, lăng loàn. Còn những ông chồng là những kẻ
nhu nhƣợc thiếu bản lĩnh, tận tuỵ phục vụ vợ con nhƣng lại bị coi thƣờng. Gia
đình vì thế chỉ là sự “gá buộc”, chỉ thật sự tồn tại trên giấy tờ mà thôi.
Nói về tình yêu – gia đình, khát vọng hạnh phúc, nhiều tác phẩm văn học
Việt Nam sau 1975 đã mạnh dạn đề cập đến vấn đề tình yêu - tình dục. Ta có
thể thấy điều này trong các sáng tác của Y Ban, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn
Ngọc Tƣ… Trong Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tƣ, cuộc đời nổi
34
nênh với đàn vịt thả trên những cánh đồng bất tận đã giúp ngƣời đàn ông
“nhặt” đƣợc cô gái xinh đẹp “có cái cƣời lấp lánh cả khúc sông” về làm vợ
nhƣng rồi chính cuộc đời nghèo đói, túng thiếu đó đã không giữ đƣợc ngƣời
đàn bà xinh đẹp ở lại với ông. Vì muốn khoác “những khúc vải rực rỡ lên
ngƣời” chị bỏ chồng, bỏ con dứt áo ra đi. Quả thật, lấy chồng, có con đối với
ngƣời đàn bà này “chỉ quá giang một khúc đời rồi đi” chứ chẳng phải yêu
đƣơng, ăn đời ở kiếp. Khi mất vợ, ngƣời đàn ông nhƣ điên dại thiêu trụi ngôi
nhà, lang thang trên những cánh đồng bất tận để trả thù đời. Nạn nhân của
ông là hai đứa trẻ và những ngƣời đàn bà vô tội. Ông trút hận lên đầu những
ngƣời phụ nữ nhẹ dạ, cả tin vì họ là đàn bà.
Nhƣ vậy, càng về gần đây, gia đình trở thành mối quan tâm đặc biệt
của văn học. Những mối quan hệ phức tạp, những tâm tƣ tình cảm của các
thành viên trong gia đình trở thành đối tƣợng quan tâm của văn học, nhất là
35
truyện ngắn.
CHƢƠNG 2: GIA ĐÌNH HIỆN ĐẠI QUA CÁI NHÌN MANG
MÀU SẮC NỮ QUYỀN TRONG TRUYỆN NGẮN BA TÁC GIẢ
2.1. Vấn đề nữ quyền và ý thức nữ quyền trong sáng tác của Trần
Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ
2.1.1. Vấn đề nữ quyền và văn học nữ quyền
Từ những thập niên đầu thế kỷ XX, ở phƣơng Tây, nữ quyền đã nhận
đƣợc sự quan tâm của xã hội. Trong văn học nghệ thuật, việc nghiên cứu, phê
bình nữ quyền bắt đầu thịnh hành từ cuối thập niên 60 của thế kỷ trƣớc và trở
thành một trong những khuynh hƣớng chính, phát triển mạnh mẽ từ nửa cuối
thế kỷ XX. Phê bình nữ quyền luận, một mặt, nhƣ một nỗ lực lý thuyết hoá
các phong trào tranh đấu cho nữ quyền rầm rộ trong xã hội Tây phƣơng lúc
bấy giờ; mặt khác, nhƣ một bƣớc phát triển mới những phát hiện táo bạo của
hai nhà văn nữ nổi tiếng khá lâu trƣớc đó: Virginia Woolf và Simone de
Beauvoir. Kế thừa và phát huy những lý thuyết của họ, các nhà nữ quyền luận
sau này đã có những quan điểm chung. Thứ nhất, tất cả những cái gọi là chủ
thể tính, bản ngã và bản sắc, bao gồm cả bản sắc của nữ giới – thƣờng đƣợc
gọi là nữ tính – không phải là những gì tất định và bất biến, hay nói nhƣ
Beauvoir, “ngƣời ta không sinh ra là phụ nữ, ngƣời ta trở thành phụ nữ.” Thứ
hai, cơ chế tiêu biểu nhất trong việc đàn áp phụ nữ chính là nền văn hoá phụ
quyền. Thứ ba, nhiệm vụ của các cây bút nữ không phải chỉ là chống lại mọi
hình thức áp chế của nam giới mà còn phải cố gắng xác định một thứ mỹ học
riêng của nữ giới, từ đó, thiết lập nên những điển phạm riêng, và cuối cùng,
xây dựng những tiêu chí riêng trong việc cảm thụ và đánh giá các hiện tƣợng
văn học. Từ cuối thế kỉ XX, ở những nƣớc phƣơng Tây phê bình nữ quyền đã
hình thành một hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh, bao gồm nhiều nhánh nghiên
36
cứu theo các khuynh hƣớng khác nhau.
Trong vài thập kỉ trở lại đây, nữ quyền đƣợc giới thiệu ở Việt Nam đã
tác động mạnh mẽ đến nhận thức cũng nhƣ hệ tƣ tƣởng của các nhà văn,
đƣa đến sự chuyển động mạnh mẽ của dòng văn học nữ và đƣợc đánh dấu
bằng sự xuất hiện ồ ạt, rầm rộ và đồng loạt của các cây bút nữ. “Văn học
đang mang gƣơng mặt nữ ngày càng trắc ẩn và khoan dung, ngày càng tinh
tế và đằm thắm”
Tuy nhiên, mầm mống văn học nữ quyền đã xuất hiện từ xƣa trong văn
học trung đại. Bị chi phối bởi ý thức hệ tƣ tƣởng phong kiến trọng nam khinh
nữ, văn học trung đại chủ yếu là tiếng nói yêu nƣớc thiết tha, là phƣơng tiện
để chuyển tải ý chí, quan niệm về cuộc sống… của các trang nam nhi. Tuy
nhiên, ngay trong xã hội nam quyền ấy ngƣời ta đã ghi nhận sự trỗi dậy của
văn học nữ quyền, đặc biệt trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế
kỷ XIX. Đó là sự xuất hiện của những nữ sĩ tài danh: Đoàn Thị Điểm, Bà
Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hƣơng với tiếng thơ lay động lòng ngƣời. Đó
còn là sự lên tiếng của những trang nam nhi cảm thông thƣơng xót cho nỗi
niềm của ngƣời phụ nữ: Nguyễn Gia Thiều (Cung oán ngâm khúc), Nguyễn
Du (Truyện Kiều). Có lẽ mầu sắc nữ quyền đƣợc thể hiện rõ nhất trong những
sáng tác của bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hƣơng. Nhắc đến Hồ Xuân Hƣơng,
ta nghĩ đến một cá tính độc đáo, một bản lĩnh khác thƣờng, một "kỳ nữ" (theo
cách gọi của Xuân Diệu). Ở thời mà giang sơn của những phụ nữ Việt chỉ
quẩn quanh nơi buồng the, bếp núc thì Hồ Xuân Hƣơng lại muốn là con ngƣời
của trời đất bốn phƣơng, lui tới biết bao thắng cảnh Bắc Việt. Bà là ngƣời
thông minh, ham thích giao lƣu bạn bè, song đƣờng tình duyên gặp nhiều éo
le, ngang trái. Thế giới nội tâm trong thơ nữ sĩ khởi nguồn từ thân phận hai
lần lấy chồng thì cả hai đều phải làm lẽ và chịu cảnh goá bụa của bà. Có lẽ vì
thế mà những nỗi buồn, sự đơn côi và tấn bi kịch, những khát khao không
37
đƣợc thoả nguyện, những cảnh ngộ trớ trêu, thậm chí đắng cay chua chát…
đƣợc Hồ Xuân Hƣơng thể hiện một cách thấm thía và đầy cá tính. Đặc biệt,
nữ sĩ khẳng định mạnh mẽ cái "tôi", thể hiện niềm cảm thông sâu sắc với nỗi
khổ của những ngƣời đàn bà phải lấy lẽ, phải chịu cảnh goá bụa, cô đơn. Vì lẽ
đó, Xuân Hƣơng quyết đứng ra minh oan chiêu tuyết cho những cô gái
"không chồng mà có chửa", đồng thời lên án nghiêm khắc những kẻ bạc tình,
những tên sở khanh, những hạng vũ phu thô bỉ. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ Việt
Nam trong thơ Hồ Xuân Hƣơng không những đƣợc đặt ngang hàng mà đặt lên
trên cả đấng mày râu.
Mảnh đất ƣơm mầm cho văn học nữ tính phát triển màu mỡ hơn phải kể
đến những sóng gió lịch sử cùng bão táp cách mạng suốt thế kỷ XX. Làn gió
phƣơng Tây tràn đến và len lỏi vào mọi ngóc ngách của xã hội và văn hóa
Việt Nam. Một số ngƣời đã bắt đầu bàn đến vai trò của phụ nữ và đòi sự bình
quyền cho họ. Với hàng loạt tác phẩm của mình, các nhà văn Tự lực Văn
đoàn đã có nhiều đóng góp cho phong trào đấu tranh giải phóng, đấu tranh
cho tự do hôn nhân, cho quyền sống của ngƣời phụ nữ chống lại sự ràng buộc
khắt khe của lễ giáo phong kiến; lên án mạnh mẽ hôn nhân không có tình yêu,
địa vị thấp kém của ngƣời phụ nữ trong gia đình nhà chồng và đề cao quyền
tự do yêu đƣơng của con ngƣời… Vẻ đẹp thể chất và những khát khao thân
xác cũng bắt đầu đƣợc các nhà văn lãng mạn chú ý miêu tả. Ở góc nhìn khác,
các cây bút hiện thực phê phán lại chú ý nhiều hơn đến khía cạnh đấu tranh xã
hội. Nhân vật nữ trong các tác phẩm này hiện lên thật khổ sở, đáng thƣơng.
Đó thƣờng là những nạn nhân, là hậu quả sự nghèo đói và dốt nát. Họ hoặc là
bị đẩy vào thế cùng quẫn và suýt bị làm nhục (chị Dậu - Tắt đèn), bị dụ dỗ để
hãm hiếp (Thị Mịch - Giông tố); hoặc sống trong cảnh chịu ơn nhƣ “con chó
trung thành với chủ nuôi” (Từ – Đời thừa). Tuy nhiên, vì với mục đích thể
hiện xung đột giai cấp, văn học hiện thực phê phán tập trung miêu tả sự tha
38
hóa và méo mó của nhân cách nhiều hơn là vấn đề phái tính.
Sau năm 1945, với sự ra đời của Hội Phụ nữ Việt Nam, vai trò của phụ
nữ đặc biệt đƣợc đề cao. Đây là tiền đề thuận lợi để “văn học nữ tính” có cơ
hội phát triển. Đội ngũ các nhà văn nữ cầm bút đông đảo hơn. Nhiều tác phẩm
của họ có tiếng vang và nhận đƣợc nhiều tình cảm của độc giả. Điều này thể
hiện sự thay đổi rất lớn về ý thức phái tính và thái độ đề cao vai trò của nữ
giới. Ngƣời đọc bắt gặp trong các sáng tác văn học những hình ảnh phụ nữ
thật đẹp. Họ là những anh hùng tiêu biểu cho vẻ đẹp của thời đại nhƣ chị Út
Tịch (Người mẹ cầm súng - Nguyễn Thi), chị Sứ (Hòn đất- Anh Đức), Nguyệt
(Mảnh trăng cuối rừng - Nguyễn Minh Châu), chị Trần Thị Lý (Người con
gái Việt Nam - Tố Hữu)… Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu của lịch sử lúc bấy
giờ, đời sống tinh thần của nữ giới mới đƣợc khai thác nhiều ở khía cạnh xã
hội mà chƣa đƣợc chú ý nhiều đến đặc trƣng về giới. Những suy nghĩ cảm
xúc thầm kín chƣa đƣợc chú ý thể hiện. Nhƣ vậy, vấn đề phái tính và âm
hƣởng nữ quyền trong giai đoạn 1945 -1975 đã đƣợc chú ý nhƣng chƣa trở
thành mối quan tâm thật sự của nhà văn với tƣ cách là ngƣời thiết tạo nên
những tƣ tƣởng nghệ thuật riêng.
Xã hội đạt đến một trình độ dân chủ thực sự, thoát khỏi hệ quy chiếu giá
trị và quan điểm nam quyền đã khiến nền văn học nữ tính xuất hiện đầy đủ
với đúng nghĩa của nó. Ngƣời phụ nữ đã tham gia nhiều hơn vào các hoạt
động xã hội. Nhƣng quan trọng hơn, ý thức về giới một cách tự giác đã ăn sâu
vào tâm thức của đội ngũ cầm bút và tạo nên âm hƣởng nữ quyền trong văn
học, gọi là “văn học nữ tính”.
Văn học Việt Nam sau năm 1986 chứng kiến sự trỗi dậy mạnh mẽ và
mang dấu ấn riêng biệt của văn học nữ quyền đến mức có nhà nghiên cứu cho
rằng đây là thời kì “âm thịnh dƣơng suy”. Có thể kể đến sự góp mặt của
39
những gƣơng mặt nữ sắc sảo, bản lĩnh, đầy cá tính nhƣ Phạm Thị Hoài, Lê
Minh Khuê, Võ Thị Hảo, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ… và gần
đây là Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thƣ, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Thị Ngọc
Tƣ… Họ, với sức sống và nội lực sáng tạo mạnh mẽ, đã làm nên những đột
phá chƣa từng thấy trong nền văn học dân tộc. Những cây bút này đã đem đến
cho văn đàn những tiếng nói mới mẻ, buộc các nhà văn và các nhà phê bình
nam giới phải thừa nhận tài năng của họ. Ngƣời phụ nữ với thế giới cảm xúc
phức tạp, những cuộc đấu tranh giằng xé… trong nội tâm đƣợc miêu tả sống
động và chân thực. Không chỉ có vậy, nhiều nhà văn nam giới cũng lên tiếng
ủng hộ sự bình đẳng giới và thừa nhận nữ giới là chủ thể tƣ duy, chủ thể trải
nghiệm và chủ thể thẩm mĩ thông qua những tác phẩm xuất sắc của họ.
Khát vọng bình đẳng giới không đồng nghĩa với việc đòi hỏi thay đổi
chức năng giới tính mà nhằm tạo một môi trƣờng thuận lợi nhất để các giới
thực hiện tốt nhất thiên chức của giới mình theo tinh thần hiện đại. Trong quá
trình giải phóng cá nhân và khẳng định bản ngã của nữ giới, nhà văn có thể
miêu tả những khoái cảm tình dục nhƣng giải phóng cá nhân không chỉ có con
đƣờng duy nhất là giải phóng tình dục. Trong văn học, sex phải hiện lên nhƣ
một yếu tố văn hoá, là phƣơng tiện để nhà văn gửi gắm những quan niệm
nhân sinh một cách có nghệ thuật. Cần có sự tỉnh táo nhất định khi nhìn nhận
những vấn đề giới, nhất là ở những cây bút trẻ. Có những truyện ngắn cho
thấy rất rõ trạng thái cô đơn và nổi loạn của giới trẻ hiện nay, có hiện tƣợng
nhà văn lặp lại chính mình.
Tóm lại, từ xa xƣa, hình tƣợng ngƣời phụ nữ đã xuất hiện trong văn học
nhƣng phẩm chất, giá trị cũng nhƣ đời sống tinh thần… của họ đƣợc nhìn
bằng đôi mắt của nam quyền. Cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI nữ quyền trở
40
thành mối quan tâm đặc biệt của xã hội, của văn hóa văn nghệ.
2.1.2. Ý thức nữ quyền trong quan niệm sáng tác của Trần Thùy Mai,
Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ
Không còn tập trung quan tâm đến số phận, hạnh phúc của cả cộng
đồng, cả dân tộc nhƣ trƣớc, các tác phẩm văn học sau năm 1975 (đặc biệt là
sau năm 1986) hƣớng tới những con ngƣời đời thƣờng trong cuộc sống,
những số phận cá nhân hết sức phức tạp. Qua lăng kính của văn học, cuộc
sống không giản đơn một chiều mà lung linh đa sắc. Con ngƣời không chỉ
giản đơn rạch ròi thiện - ác, địch - ta, cao cả - thấp hèn mà là một tiểu vũ trụ
vô cùng phức tạp: cái xấu, cái tốt đan xen lẫn lộn. Các nhà văn trăn trở về
những vấn đề gay gắt, gai góc nhất của cuộc sống, đặc biệt là các vấn đề gia
đình, tình yêu, đạo đức cá nhân, sự biến đổi trong từng cá nhân… Lúc này,
văn học "thực hơn" và "đời hơn".
Hiện thực cuộc sống phong phú phức tạp đƣợc khúc xạ qua lăng kính
của nhà văn, phản ánh cảm nhận cuộc sống của họ. Với trái tim đa cảm, họ
xúc động trƣớc những cảnh đời cảnh ngƣời và thƣờng mỗi nhà văn sẽ đặc biệt
quan tâm đến những đề tài nhất định. Các nữ nhà văn luôn ấp ủ và canh cánh
trong lòng những tác phẩm về gia đình, về số phận, giá trị của ngƣời phụ nữ
trong gia đình và xã hội.
Là những nhà văn nữ xuất hiện từ những năm 80, 90 của thế kỷ trƣớc,
Trần Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ đã có nhiều đóng góp về
đề tài gia đình. Hầu hết các trong các tác phẩm của họ chúng ta đều thấy có
bóng dáng của gia đình, đặc biệt là gia đình hiện đại trƣớc những đổi thay
của xã hội.
Văn của họ ngồn ngộn sự sống. Những sự việc vặt vãnh hằng ngày trong
cuộc sống gia đình đƣợc khai thác khéo léo qua đó thể hiện niềm thiết tha với
cuộc đời của các nữ nhà văn. Viết về gia đình và những đổi thay của nó, ba
41
nhà văn quan tâm đến tác động của vật chất trong cuộc sống con ngƣời. Vật
chất làm thay đổi những mối quan hệ căn bản khiến cha mẹ với con cái, vợ
với chồng không tìm đƣợc tiếng nói chung.
Ngƣời đọc bị ám ảnh về không khí gia đình trong “Nước mắt đàn ông”
của Nguyễn Thị Thu Huệ. Một gia đình tƣởng chừng là niềm mơ ƣớc của
nhiều ngƣời với vật chất đủ đầy “tất cả các phòng đều lắp điều hoà nhiệt độ”,
bàn ghế, đồ đạc trong nhà “đều là đồ cổ hoặc giả cổ đắt tiền. Các phòng đều
có tivi, hai phòng có một tủ lạnh và dàn cát-xét” nhƣng thực chất lại không
có tình yêu, niềm tin và sự cảm thông sẻ chia. Tình ngƣời nhạt nhẽo và lạnh
lùng đến đáng sợ. Sống trong sự giàu có về vật chất, vợ con đề huề nhƣng
ngƣời đàn ông lại thấy cô độc và bất hạnh. Ông chua chát tâm sự: “Tiền của,
ăn mặc, tất cả mọi nhu cầu vật chất đến một lúc nào cũng sẽ chán ngấy. Ai
nhìn cậu cũng thấy cậu sung sƣớng. Còn bản thân cậu, cậu thấy cô độc”. Tâm
trạng ấy thật dễ hiểu khi vợ chồng là hai thế giới bên ngoài nhau, “con cái
không ai theo nghề và hiểu cậu, chúng không có nổi mƣời lăm phút tâm sự
với cậu ngoài câu chuyện tiền bạc. Cậu mang vật chất cho chúng dƣ thừa,
chúng chẳng cần làm ăn vất vả cũng đủ sống”. Còn điều duy nhất thắp niềm
hy vọng trong trái tim ông là ngƣời phụ nữ ông yêu. Song “nhìn thấy nhau
nhƣng không đến đƣợc với nhau”, thậm chí đến con Lu – kỉ vật của ngƣời yêu
cũng bị vợ ông làm thịt. Dƣờng nhƣ nỗi cô đơn, sự ngao ngán, chán chƣờng
của con ngƣời đƣợc đẩy lên đến tột cùng. Không thể làm gì thay đổi số phận,
ngƣời đàn ông ấy đành xót xa, cam chịu: “vợ chồng là số phận, chống cũng
chẳng đƣợc”, “không ai chọn đƣợc bố mẹ và con cái, thậm chí cả vợ”. Không
khí gia đình ngột ngạt ấy không phải là nỗi bất hạnh của riêng ngƣời chồng.
Ngay cả bà vợ nanh nọc, chao chát, hả hê khi biết tỏng chồng đi đâu làm gì dù
không nói với mình, hả hê khi giết thịt con chó của tình địch... cũng thật bất
hạnh, thật đáng thƣơng. Ẩn đằng sau sự chao chát ấy là nỗi đau đớn, thất bại
42
thảm hại nhƣ một con thú bị thƣơng lồng lộn bên ngoài mà không sao đặt nổi
chân vào thế giới yêu thƣơng của chồng… Gia đình với ý nghĩa là bến đỗ
bình yên, là nơi con ngƣời nghỉ ngơi thƣ thái còn đâu nữa? Tình yêu, hạnh
phúc tỷ lệ nghịch với vật chất. Sự thiếu thốn về tinh thần có thể đẩy con ngƣời
ra khỏi quỹ đạo của gia đình hoặc sẽ chết mòn trong nỗi tuyệt vọng.
Không chỉ ảnh hƣởng đến cuộc sống của các gia đình, vật chất còn len
lỏi và bào mòn cuộc tình của những cặp uyên ƣơng. Bao mộng ƣớc bỗng trở
thành mây khói trƣớc bƣớc chân của những cám dỗ vật chất. Điều này đƣợc
thể hiện rõ trong Người bán linh hồn của Trần Thùy Mai. Truyện kể về cuộc
tình thật đẹp, thật lãng mạn của hai họa sĩ trẻ Na và Tuấn. Na yêu và thần
tƣợng Tuấn. Cô nhận về mình những hy sinh chăm lo cơm áo hằng ngày để
Tuấn tập trung vẽ. Nàng muốn gánh chịu cái phần tục lụy để tâm hồn anh
khỏi bị tổn thƣơng. Nàng sẵn sàng van xin chủ gallery để tranh của Tuấn
đƣợc giới thiệu. Thậm chí, vì khoản tiền thuê nhà, Na đã đau đớn đồng ý bán
mình. Ấy vậy mà Tuấn đã dễ dàng bị gục ngã trƣớc những hào nhoáng mà bà
chủ gallery đƣa ra. Bao tình yêu, bao ƣớc hẹn và sự hy sinh của Na nhƣ bong
bóng vỡ tan … Trƣờng hợp khác trong Lên phố của Trần Thùy Mai. Câu
chuyện khiến ngƣời ta xót xa trƣớc sức công phá của đời sống vật chất đến
một tình yêu đẹp nhƣ thơ. Tý là cô gái mới lớn lên thành phố bán bánh tiêu
kiếm sống. Dũng là cậu sinh viên cùng quê, thƣ sinh hiền lành, sống có tình
có nghĩa. Tình yêu đến hồn nhiên và trong trẻo, vƣợt qua mọi rào cản. Họ hứa
hẹn một tƣơng lai hạnh phúc bên nhau. Nhƣng rồi khi sắp ra trƣờng, đứng
trƣớc ngã rẽ, Dũng đã chọn Kiều Nga – cô gái thành thị khá giả. Tình yêu tan
vỡ do lòng ngƣời đổi thay. Nhƣng gián tiếp tạo nên sự đổi thay ấy là những
cám dỗ vật chất, danh vọng…
Các nhà văn còn tinh tế phát hiện sự đảo lộn trong những quan hệ gia
đình hiện đại. Đó là sự suy thoái về đạo đức lối sống. Con ngƣời đánh mất
43
mình và trở nên tàn nhẫn lạnh lùng. Bất chấp luân thƣờng đạo lí, em gái (nhân
vật Mi) sẵn sàng cƣớp chồng của chị với ƣớc mơ thoát khỏi cuộc sống nghèo
khó (Thiếu phụ chưa chồng - Nguyễn Thị Thu Huệ). Đó còn là sự ích kỉ đi
tìm niềm vui của riêng mình bên ngoài gia đình - ngoại tình. Nhiều sáng tác
của ba nhà văn đã đề cập về hiện tƣợng này. Trong gia đình hiện đại cả đàn
ông lẫn đàn bà đều ngoại tình với vô vàn nguyên nhân khác nhau. Hành động
của họ đã gây ra nhiều hậu quả đáng buồn cho các thành viên khác trong gia
đình. Đứa con trong Một trăm linh tám cây bằng lăng vốn là một chàng trai
hiền lành, nhân hậu, biết quan tâm đến những ngƣời chung quanh nhƣng
chứng kiến cảnh ngƣời cha ngoại tình về nhà chửi mắng vợ con thậm tệ, anh
đã đấm và cầm dao đuổi bố ra khỏi nhà… Thầy Phƣơng tìm đƣợc tình yêu
khác đã lập kế hoạch ruồng bỏ khiến ngƣời vợ hết lòng vì mình sống trong cô
đơn (Trăng nơi đáy giếng - Trần Thùy Mai).
Rõ ràng, với sự nhạy cảm và thiết tha với cuộc sống, các nhà văn đã nêu
ra những thách thức mà gia đình hiện đại gặp phải với mục đích cảnh tỉnh.
Viết về gia đình, ba nhà văn đã dành nhiều ƣu ái cho những nữ nhân vật.
Họ đặc biệt đi sâu phản ánh thế giới nội tâm, những thay đổi trong suy nghĩ
cảm xúc của các nhân vật với niềm cảm thƣơng, trân trọng sâu sắc. Nhà
nghiên cứu Đặng Anh Đào thật tinh tế khi nhận định: “Phụ nữ thƣờng mạnh ở
chỗ đƣa tất cả cuộc đời và tâm hồn họ vào trong sách, hoặc nói nhƣ phƣơng
Tây… họ tự ăn mình”. Quả thật, họ phân mảnh, hóa thân trên từng trang viết.
Giống nhƣ Trần Thùy Mai từng tự bạch: “Viết mãi thì cũng không ra khỏi
thân phận ngƣời nữ nhƣ chạy trời không khỏi nắng”. Hay: “Cho đến nay mình
vẫn thích viết về những mảnh đời gần gũi quanh mình, của bạn bè, của
những ngƣời cùng sống, viết nhƣ một cách trao đổi tâm tƣ với ngƣời cùng
thời và mở rộng cuộc sống nội tâm của chính mình”. Bằng những kinh
44
nghiệm của bản thân, bằng sự quan sát và sẻ chia với những ngƣời chung
quanh, họ đã đem đến cho văn học những trải nghiệm mới, những hiểu biết
mới về ngƣời phụ nữ.
Nhân vật nữ trong truyện ngắn ba tác giả xuất hiện với nhiều đối tƣợng,
nhiều tầng lớp; từ những nữ trí thức đến nữ nông dân, công nhân… và thậm
chí cả những cô gái làm nghề buôn phấn bán hƣơng. Ngƣời ta thấy xuất hiện
trong những trang văn ngƣời đàn bà từng trải, bao dung với con cháu; ngƣời
vợ ngƣời mẹ lo toan cho gia đình và phấn đấu cho sự nghiệp; ngƣời phụ nữ
khát khao hạnh phúc, kiếm tìm tình yêu trong xã hội hiện đại…
Trong văn Trần Thùy Mai nhân vật chủ yếu là nữ trí thức. Họ là những
ngƣời có nhan sắc, tâm hồn, tình yêu say đắm, đam mê, khát vọng. Đó là
Hạnh (Trăng nơi đáy giếng), là Hằng (Chờ nhau ở cuối đường), Lý (Chú và
anh), Na (Người bán linh hồn), tôi (Hoa sứ trắng)… Nhƣng họ luôn cầu toàn
và không mấy khi vừa lòng với cuộc sống của mình. Họ khao khát đuổi tìm
hạnh phúc để rồi hạnh phúc với họ nhƣ chiếc cầu vồng mờ ảo cuối chân trời,
nhƣ cánh cửa thứ chín của mỗi đời ngƣời, đầy hứa hẹn nhƣng không thể mở
ra. Hạnh phúc là cái gì vừa nhƣ sờ mó đƣợc, lại vừa xa xôi, hƣ ảo, cứ chấp
chới ở phía trƣớc. Thế giới nhân vật nữ trong truyện ngắn Trần Thùy Mai
không chỉ là trí thức mà còn có cả những mảnh đời bất hạnh. Ngòi bút giàu
suy tƣ của Trần Thùy Mai còn thể hiện niềm cảm thông sâu sắc đối với những
Vy ngây (Chuyện ở phố hoa xoan), Thúy câm (Am bà cô), Nguyệt cà nhắc
(Quỷ trong trăng), Hà "gái bán hoa" (Nốt ruồi son)... Nhân vật nữ của Trần
Thùy Mai có độ xào xạc, phức điệu trong tâm hồn; tốt và xấu, hoàn thiện và
chƣa hoàn thiện xáo động, chuyển hoán lẫn nhau. Và, dù ở hoàn cảnh nào, dù
"khát vọng vô bờ mà thực tế lại khắt khe". Họ vẫn da diết khát vọng về tình
yêu, hạnh phúc. Dù viết về những mảnh vỡ đời ngƣời cay cực, những khuất
lấp trong tâm hồn, Trần Thùy Mai đều hƣớng đến cái đẹp. Mỗi nhân vật một
45
phúc phận, cuối cùng vẫn sáng ngời khát vọng hoàn thiện.
Truyện Nguyễn Thị Thu Huệ chú ý miêu tả những trạng thái xúc cảm
của những thiếu nữ vừa bƣớc chân vào tình yêu: Tôi (Mùa đông ấm áp), Sánh
(Bảy ngày trong đời), tôi (Một trăm linh tám cây bằng lăng)... Dù là ở kiểu
nhân vật nào, chị cũng khám phá họ từ nhiều góc độ: trạng thái và tình cảm;
niềm vui và nỗi buồn, những khát khao đam mê và cả những “gót chân Asin”
của họ. Chị diễn tả tinh tế những tâm sự của giới đàn bà, với những điều giản
dị, gần gũi: “Tôi mệt mỏi và thèm nói với anh những chuyện con con nhƣ em
Thuý tập lẫy, chuyện nó đi tƣớt mọc răng” (Hình bóng cuộc đời)... nỗi lo về
tuổi tác và nhan sắc: “Sao đến bên gƣơng và nhìn thấy mình trong đó. Mí mắt
sùm sụp, dƣới mắt mòng mọng sƣng, hai vành môi đã bắt đầu đen và lỗ chân
lông trên mặt to ra nhƣ những đầu tăm” (Giai nhân), khát vọng về tình mẫu tử
“thèm có con. Thèm đƣợc làm mẹ” (Người đàn bà ám khói); nỗi đau của
ngƣời mẹ “phải xa những gì lâu nay là máu thịt của chị. Xa đứa con trai bé
bỏng thơm tho nhƣ một chiếc bánh ga tô vừa mới ra lò” (Tân cảng), nỗi lòng
của những bà mẹ có con gái lớn “Mẹ bảo: lắm khi đang ngủ, tao giật mình
không hiểu mày có lấy đƣợc chồng không. Nằm ngẩn một lúc, nhớ ra là mày
đã có chồng, có con tao mừng không thể tƣởng đƣợc” (Biển ấm)…
Đến với truyện ngắn Y Ban, ngƣời đọc tìm thấy một thế giới nhân vật
phong phú với nhiều tầng lớp nhiều đối tƣợng. Đó là những ngƣời phụ nữ trí
thức nơi phố thị (Tự, Sau chớp là giông bão, Người đàn bà và những giấc mơ,
Người đàn bà đứng trước gương) cho đến những ngƣời phụ nữ thôn quê
(ngƣời phụ nữ trong I am đàn bà, bà trong Vùng sáng kí ức, Quê nội; ngƣời
mẹ trong Chú Ngoẹo; chị Tũn trong Ước mơ của chị Tũn; chị bán hàng rong
trong Ước mơ cô bán hàng rong)… Đó là những cô gái lỡ dại, những ngƣời
đàn bà luôn khát khao sự dịu dàng, mải mê kiếm tìm mẫu đàn ông lý tƣởng.
Họ có một bề ngoài gai góc, chấp nhận cuộc sống, nhƣng kì thực đó lại chỉ là
46
sự gồng mình lên của những tâm hồn thèm muốn đƣợc nâng niu, chiều
chuộng. Chị nhặt nhạnh những mẩu đối thoại hay hay chợt nghe đƣợc, những
truyền thuyết đƣợc kể lại thành cốt truyện. Truyện của chị thƣờng kết thúc có
hậu nhƣ chuyện cổ tích. Chị để trí tƣởng tƣợng bay bổng đến tận cùng và giải
thoát mọi ƣu phiền của cuộc đời bằng trang viết.
Các nhà văn đề cập đến nỗi khổ vật chất và đặc biệt chú ý nỗi khổ tinh
thần của các nhân vật. Sự thiếu thốn về vật chất là điều một số nữ nhân vật
gặp phải. Đó là Thị trong I am đàn bà, chị bán hàng rong trong Ước mơ cô
bán hàng rong (Y Ban); là Na trong Người bán linh hồn (Trần Thùy Mai); là
nhân vật chị trong Chị tôi, Sánh trong Bảy ngày trong đời (Nguyễn Thị Thu
Huệ)… Tuy nhiên, hầu hết các nhân vật gặp nhau ở những nỗi khổ về tinh
thần. Đó là niềm khổ đau của hôn nhân không tình yêu, của cuộc sống bình
lặng đến nhàm chán (Lan trong Một nửa cuộc đời, ngƣời mẹ trong Một trăm
linh tám cây bằng lăng của Nguyễn Thị Thu Huệ; Tàu ngầm xuyên đại dương
của Trần Thùy Mai) hay nỗi khổ của sự phụ bạc, phản bội; nỗi xót xa của sự
hoài nghi… (Trăng nơi đáy giếng, Người bán linh hồn, Tháng tư trở lại của
Trần Thùy Mai; Hai bảy bước chân là lên thiên đàng, Biển và người đàn bà
của Y Ban; Mùa đông ấm áp, Bảy ngày trong đời, Cát đợi, Cầu thang, Một
nửa cuộc đời của Nguyễn Thị Thu Hụê).
Các nhân vật nữ dù ở những hoàn cảnh và địa vị khác nhau nhƣng luôn
có sự giằng xé, đấu tranh giữa trách nhiệm, bổn phận và khao khát bản năng.
Con ngƣời của trách nhiệm níu giữ họ ở lại với gia đình với vai trò của một
ngƣời vợ ngƣời mẹ nhƣng khát khao bản năng lại kéo tuột họ ra khỏi khuôn
khổ gia đình. Rồi sau những giây phút ngoài gia đình ấy họ lại đau khổ, dằn
vặt. Dù mạnh mẽ đến đâu thì họ vẫn là phái yếu, vẫn có sự mỏng manh yếu
đuối cần đƣợc chở che. Họ sống hết mình, hy sinh hết mình nhƣng nhận lại là
sự đau đớn, mất mát, thiệt thòi. Nhƣng dù thế nào đi nữa, trong họ vẫn rực
47
cháy ngọn lửa khát khao tình yêu, hạnh phúc.
Cùng viết về gia đình trƣớc những thách thức trong cuộc sống hiện đại,
ba nhà văn đã có những gặp gỡ tƣơng đồng. Trong tiếng nói chung ấy, mỗi
nhà văn lại có những kiến giải, những cảm nhận rất riêng. Điều này tạo nên
bức tranh đa mầu sắc trong nền văn học Việt Nam đƣơng đại.
2.2. Các cấp độ biểu hiện đề tài gia đình trong truyện ngắn của Trần
Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ
2.2.1. Hình ảnh người phụ nữ trong truyện ngắn ba tác giả
2.2.1.1. Gia đình và những khát vọng của người phụ nữ
Khát vọng tình yêu, hạnh phúc
Dù sống trong hoàn cảnh nào ngƣời phụ nữ cũng luôn thƣờng trực khát
vọng tình yêu, khát vọng hạnh phúc. Trong quan niệm hôn nhân xƣa, cha mẹ
đặt đâu con ngồi đấy và hôn nhân không nhất thiết bắt nguồn từ tình yêu. Còn
trong xã hội đƣơng đại, hôn nhân thƣờng xây dựng trên tình yêu, là hôn nhân
tự nguyện, tự do. Chính vì vậy, trong mỗi gia đình tình yêu là sợi dây vô hình
nhƣng có sức kết nối chắc chắn và bền bỉ. Tình yêu có thể giúp con ngƣời
vƣợt qua mọi bão tố, sóng gió trong cuộc đời. Nằm trong quỹ đạo ấy, thật dễ
hiểu khi ngƣời phụ nữ luôn khao khát tình yêu, khao khát hạnh phúc và sống
hết mình cho khao khát ấy. Đề tài tình yêu trong văn học đã, đang và sẽ đƣợc
các nhà văn khai thác, thể hiện dƣới nhiều góc độ. Tình yêu và mục đích cao
đẹp của nó muôn đời vẫn là đề tài mới mẻ, không có câu trả lời kết thúc và
lặp lại cho từng con ngƣời và từng mối tình trên cõi nhân gian. Vì vậy, sự thể
hiện các cung bậc tình yêu vẫn còn đặt ra cho nhà văn những thử thách và thể
nghiệm mới. Nhân vật nữ của ba nhà văn mỗi ngƣời có một "khuôn mặt"
riêng, một số phận riêng nhƣng đều sống hết mình, yêu hết mình.
Trong những trang truyện viết về tình yêu, Trần Thùy Mai thƣờng mang
lại cho ngƣời đọc cảm nhận thú vị về văn hóa tình yêu. Ở đó có đam mê,
48
cuồng nhiệt nhƣng cũng chất chứa bao dại khờ, nông nổi; có ngọt ngào, hạnh
phúc nhƣng cũng lắm đắng cay. Câu thơ của Xuân Diệu thuở nào: “Làm sao
sống đƣợc mà không yêu - Không nhớ không thƣơng một kẻ nào” dƣờng nhƣ
đúng với hầu khắp các nhân vật của Trần Thùy Mai. Với lối văn nhẹ nhàng,
tác giả thiên về miêu tả những cảm nhận, những suy tƣ trong tình yêu của các
nhân vật. Có lúc chạm tới trái cấm, có những phút xao lòng, nhƣng họ vẫn
nén lòng trong những trạng thái tâm hồn phức hợp. Mọi ranh giới trở nên
mong manh.
Niềm khát khao hạnh phúc đôi khi đẩy nữ nhân vật của chị vƣợt ra khỏi
khuôn khổ của gia đình. Trong Tàu ngầm xuyên đại dương sự lạnh lùng khô
khan của chồng đã vô tình giết chết tình yêu và hạnh phúc trong ngƣời vợ,
khiến cô lạc bƣớc trong cuộc tình với chàng nhà văn có “khuôn mặt gầy, mái
tóc dợn sóng bồng bềnh, đôi mắt khinh bạc”. Cô thừa nhận “cái tôi thiếu là sự
dịu dàng âu yếm”. Ngƣời đàn ông lạ đã đến với cô đem theo sự dịu ngọt “Anh
sờ trán tôi, tay anh mềm và âu yếm”, trƣớc con mắt ngạc nhiên của cậu bé
phục vụ quán, anh “lấy từng chiếc khăn lau bàn chân tôi”. Những cử chỉ ngọt
ngào ấy nhƣ dòng nƣớc mát tƣới vào tâm hồn khô cằn, chai lì làm hồi sinh
những tình cảm bị quên lãng bấy nay trong ngƣời vợ. Nó đã kéo tuột cô ra
khỏi con ngƣời của gia đình, của trách nhiệm. Cô hạnh phúc vì đƣợc đắm
mình trong tình yêu, đƣợc vỗ về, chăm sóc, thƣơng yêu. Nhƣng tình yêu và
hạnh phúc ấy không vĩnh viễn ở lại cùng cô. Trong một chiều hai chín Tết, cô
chết lặng khi nhận đƣợc mail của chàng “Những hẹn hò từ nay khép lại…
Còn một hôm nữa anh đã bƣớc vào tuổi sáu mƣơi. Anh rất hạnh phúc vì bắt
đầu với tình yêu đầu tiên ở Huế và nay lại quay về có mối tình cuối cùng ở
Huế. Vĩnh biệt em”.
Không chỉ xuất hiện ở Tàu ngầm xuyên đại dương, sự cô đơn và khao
khát tình yêu của ngƣời phụ nữ còn đƣợc Trần Thùy Mai thể hiện trong Cánh
49
cửa thứ chín. Cuộc sống của tôi gắn với “những ngày rất dài trong khu vƣờn
lặng lẽ” khi đứa con đã cho làm con nuôi của em chồng cô. Những ngày lặng
lẽ chiến đấu với căn bệnh thống kinh giữa chung quanh là bốn bức tƣờng ngột
ngạt và một cuộc điện thoại nhầm số đã đƣa tôi đến với anh. Là ngƣời phụ nữ
của gia đình nhƣng trong nhân vật tôi đã có những lúc cháy lòng khao khát
“Tôi sẽ nói rằng tôi không thể tiếp tục sống trong bốn bức tƣờng lạnh lẽo. Tôi
sẽ nói muốn cùng anh đi vớt mặt trời trên biển tây. Tôi sẽ chịu bỏng, chịu
cháy, để đƣợc đau đớn, đƣợc yêu thƣơng. Tôi muốn chịu đựng mọi thứ trên
đời, ngoại trừ sự tẻ lạnh”.
Đôi khi, họ phải trả giá cho sự khát khao ấy. Niết trong “Lửa của hoàng
cung” lấy chồng là một viên chức ở thị trấn nhỏ. Ngƣời ngoài nhìn vào có thể
thấy nàng thật may mắn và hạnh phúc. Nhƣng chồng nàng mỗi lần về thƣờng
đi thăm hỏi anh em họ hàng đủ lƣợt, chỉ đêm đến mới tìm đến vợ để thực hiện
công việc của một ngƣời chồng. Giữa họ không hề có sự đồng điệu về tâm
hồn mà là hai thế giới hoàn toàn khác nhau. Nàng cam chịu và nhẫn nhịn
trong cái ao đời bình lặng tẻ nhạt. Thế rồi Dõng – một tráng đinh đƣợc nhà
chồng nàng nuôi để giúp việc làm ruộng và đi săn – là một thanh âm khuấy
động cái ao đời phẳng lặng của đời nàng. Nàng đã có con với Dõng. Dám
vƣợt qua rào cản của định kiến của những lễ nghi để thỏa những khát khao
nhƣng rồi Niết lại day dứt ân hận suốt đời.
Trong truyện Trần Thùy Mai, tình yêu vƣợt qua mọi rào cản, mọi biên
giới. Có lẽ điều này xuất phát từ quan niệm “Trong tình yêu hạnh phúc thật
ngọt ngào mà khổ đau cũng đầy thi vị. Chỉ có sự chán chƣờng của kẻ không
yêu mới thật sự là khủng khiếp” (Gió thiên đường). Các nữ nhân vật của chị
nhƣ con chim lao mình vào bụi mận gai dẫu phải chịu đau khổ để cất tiếng
hót đẹp nhất ngợi ca tình yêu.
Tình yêu kéo ngƣời ta vƣợt qua ranh giới giữa trần tục và tu hành. Vấn
50
đề này không chỉ đƣợc đề cập một lần mà là sự trở đi trở lại trong truyện ngắn
của nữ nhà văn xứ Huế. Đó là mối tình giữa cha và mẹ Đăng Ninh, giữa Lan
và chú tiểu Đăng Ninh trong Thương nhớ hoàng lan, là Dung với chú tiểu
Phƣớc Tuệ trong Hoa phù dung dưới núi. Lan với vẻ đẹp trong trẻo, tinh khôi
là niềm mơ ƣớc của bao chàng trai nhƣng nàng chỉ yêu chú tiểu Đăng Ninh.
Bất chấp chú tiểu quyết tâm quy y cửa phật nàng vẫn yêu say đắm và nguyện
hi sinh vì chàng. Rồi chính tình yêu chân thành và sự hi sinh của Lan đã lay
động trái tim chú tiểu.
Tình yêu vƣợt qua ranh giới tuổi tác và định kiến. Đó là mối tình “chị
- em” giữa chị Trúc và Hiệp trong Chị Hai ơi. Họ hơn kém nhau sáu tuổi.
Tình yêu nảy nở rồi lớn dần trong họ khi Trúc đƣợc mẹ Hiệp cƣu mang.
Mối tình thầm lặng mà đẹp đẽ, trong sáng, thánh thiện là khoảng sáng ấm
áp quét qua đời Trúc, làm hồi sinh trái tim khô cằn, u uẩn. Tình yêu cho
Hiệp sức mạnh và quyết tâm vƣợt qua định kiến “rồi đây mình cũng sẽ
cƣới nhau”. Họ đã dám vƣợt qua nhiều ranh giới để yêu và đƣợc yêu.
Nhƣng rồi hạnh phúc đã không mỉm cƣời với họ khi mẹ Hiệp đuổi Trúc ra
khỏi nhà vì cô “đã dám quyến rũ Hiệp”. Mặc dù vậy, Hiệp vẫn kiên tâm đi
tìm Trúc với lập trƣờng “Tôi còn chƣa vợ, Trúc không có chồng, vậy tại
sao chúng tôi không đƣợc sống với nhau?”. Câu hỏi vang lên gần cuối tác
phẩm tạo khoảng lặng gieo vào lòng độc giả những băn khoăn. Phải chăng
nhà văn muốn xòa nhòa những ranh giới, những quan niệm khắt khe để
những trái tim yêu đƣợc hạnh phúc bên nhau ?
Không chỉ vƣợt qua ranh giới tuổi tác, tình yêu còn xóa nhòa khoảng
cách của không gian và thời gian. Đó là tình yêu mà cô bé Uma dành cho
nhân vật tôi trong Onkel yêu dấu. Tình yêu thầm lặng dành cho ngƣời bạn của
bố mẹ đƣợc cô giữ cho riêng mình. Dù khi nhân vật tôi về nƣớc, khoảng cách
địa lý giữa họ tính bằng hàng trăm ngàn cây số và thời gian đằng đẵng mƣời
51
lăm năm, tình yêu ấy vẫn nhƣ ngọn lửa âm ỉ cháy. Vƣợt qua mọi ranh giới,
Uma vẫn không thôi thƣơng nhớ và khát khao hạnh phúc đƣợc ở bên Onkel
của cô.
Nhƣ vậy, trong truyện ngắn Trần Thùy Mai ngƣời đọc bắt gặp một cái
tôi phụ nữ nhiều khát vọng nhƣng họ không ồn ào táo bạo mà dịu dàng,
điềm đạm.
Điều này rất khác so với truyện của Nguyễn Thị Thu Huệ và Y Ban.
Niềm khao khát tình yêu hạnh phúc trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu
Huệ thật mãnh liệt, dữ dội. Nhân vật nữ của chị thƣờng ở vai trò chủ động,
sẵn sàng làm mọi cách vì tình yêu. Có nhân vật đã đƣa ra quan điểm “Tôi
không muốn sống trong cuộc sống gia đình tù túng thì tôi sống một mình với
con. Nhƣng tôi sợ sự cô đơn thì tôi phải có bạn tình. Tôi yêu một ngƣời đàn
ông đã có vợ. Tôi chấp nhận sự sẻ chia đó” (Nhân tình).
Cũng vì khát khao hạnh phúc và tình yêu nên khi không tìm thấy tình
yêu với ngƣời chồng, Lan trong Một nửa đời người đã tìm đến với Thắng.
Chồng Lan – Hải – là một ngƣời đàn ông yêu thƣơng vợ con, chu đáo và tận
tụy với gia đình. Lẽ ra với một ngƣời nhƣ thế, Lan phải cảm thấy hạnh phúc.
Nhƣng với cô, tốt thôi, yêu thƣơng tận tình thôi dƣờng nhƣ chƣa đủ mà còn
cần sự rung động của cả hai trái tim. Cuộc hôn nhân của cô không xuất phát
từ tình yêu. Cô lấy Hải chỉ vì “sự ngộ nhận về tình yêu. Em lấy Hải vì hiếu
thắng. Khi ấy, Hải là ƣớc muốn của nhiều cô. Em lấy Hải trƣớc những ánh
mắt ghen tị và những giọt nƣớc mắt thất tình của một lũ con gái”. Rồi tình yêu
cũng chẳng nảy nở sau hôn nhân vì trong mắt Lan “Hải là ngƣời đơn giản, tốt
bụng đến phát ghét. Anh ấy bình lặng sống nhƣ một dòng nƣớc, lúc nào cũng
trong vắt ở giữa khe núi. Chẳng làm ai đỡ khát”. Lan rơi vào bế tắc. Giải pháp
chống lại cuộc sống nhạt nhẽo bên cạnh ngƣời chồng tròn trịa đến đơn điệu là
ngoại tình. Khát khao một tình yêu trọn vẹn nhƣng Lan lại bƣớc vào mê cung
52
tình ái với một con ngƣời tỉnh táo khôn ngoan lạnh lùng là Thắng. Rồi mọi
thứ sụp đổ, Lan lại xót xa nhận ra Thắng và tình yêu của anh không phải điều
cô đang cần. Thắng không sẵn sàng từ bỏ mọi thứ vì cô, vì tình yêu của cô.
Tình yêu khiến con ngƣời vƣợt qua sự sợ hãi và sẵn sàng lăn xả vì ngƣời
mình yêu. Đi theo tiếng gọi của tình yêu, tôi trong Mùa đông ấm áp đã một
mình vƣợt qua hàng trăm cây số đến gặp ngƣời thƣơng, mặc cho bố mẹ ở nhà
lo lắng. Lụa trong Bảy ngày trong đời vẫn yêu Sánh, dù anh đi biền biệt
không tin tức còn đứa con trong bụng cô ngày càng lớn. Tình yêu tiếp thêm
sức mạnh cho cô vƣợt qua mọi điều tiếng để sinh và nuôi con. Rồi hạnh phúc
đã mỉm cƣời với cô “Ngƣời đàn ông cao cao bế đứa trẻ trong tay. Ngƣời đàn
bà xách túi quần áo, tay kia dắt ngƣời đàn ông hỏng mắt, liêu xiêu trên
đƣờng. Bóng họ ngả vào nhau ở cuối đƣờng”. Dẫu tƣơng lai ẩn chứa những
vất vả song cuối cùng họ cũng đƣợc bên nhau.
Nhân vật của Nguyễn Thị Thu Huệ rất cá tính và hiện đại. Tôi trong Cát
đợi đƣa ra quan điểm: “Trong tình yêu, có lúc phải giành lấy cái để gọi nhƣ
chơi bạc ấy, đƣợc thì phất, hỏng thì thôi, nhƣng cứ phải cƣớp cáí. Chuyện tình
yêu bây giờ thật cũ. Hầu nhƣ trong đời ai cũng đã xếp xó vài cuộc tình”. Với
khát vọng mãnh liệt, cô tƣởng tìm thấy hạnh phúc ở mối tình đầu nhƣng tình
yêu ấy vuột qua tay. Song cô không nguôi ảo vọng về nó “tôi không xếp xó
tình yêu của mình, tình yêu của tôi không bị mạng nhện chăng bởi tôi đem nó
đặt lên ban thờ, và siêng năng thờ cúng. Tôi cúng vái nó mỗi khi chiều đến
sƣơng giăng khói tỏa vào đông. Những vòm sấu ran ran tiếng ve ngày hè và
khi một cơn mƣa rào đổ vội, cả mặt đƣờng trắng ly ty hoa. Vài bận hƣơng
khói khi ban thờ hiện lên con đƣờng đầy ắp kỷ niệm tôi có với ngƣời ấy. Từ
chiếc lá khô chợt sa vào lòng đến bông sấu ngai ngái rơi rắc hƣơng. Rồi tôi
thờ tình yêu của mình bằng những bản nhạc dĩ vãng”. Ngay cả khi biết ngƣời
yêu xƣa đã thuộc thế giới khác, cô vẫn chờ đợi, vẫn nhớ thƣơng “tôi chờ
53
ngƣời ấy hàng ngày, dù tôi biết họ vẫn chỉnh chu chở nhau đi làm mỗi sáng.
Họ - bộ ba ấy nghễu nghện trên đƣờng bằng một chiếc xe cúp đỏ. Đầu tiên là
rổ xe muôn năm chở áo mƣa, túi lƣới. Đến một thằng cu kháu khỉnh. Rồi
ngƣời ấy với một nền độc tài êm ái sau cùng”. Rồi cô đến với tình yêu thứ
hai. Tƣởng chừng hạnh phúc sẽ mỉm cƣời, ngƣời đàn ông ấy sẽ thuộc về cô.
Nhƣng thật trớ trêu, sau cuộc tình, chàng trai lại trở về với tổ ấm còn cô lại
lập một ban thờ cho tình yêu mới. “Dù biết rằng đến phút ấy, tôi vẫn chƣa
đƣợc gì trọn vẹn ở cuộc đời”, miễn là “tôi yêu và tôi đƣợc yêu”. Nhƣ vậy,
nhân vật của Nguyễn Thị Thu Huệ vẫn mải miết kiếm tìm tình yêu, hạnh phúc
dù nhận đƣợc không ít khổ đau, vụn vỡ.
Tình yêu cũng là một đề tài thƣờng xuyên trong những trang văn của
Y Ban. Chị có lối viết táo bạo, “bứt phá”. Các nhân vật của chị khá mạnh mẽ,
khát vọng tình yêu trong truyện ngắn Y Ban còn gắn với sự vƣợt rào, với sex.
Tình yêu là sự đam mê về tâm hồn và thể xác. Nếu Trần Thùy Mai tập
trung khai thác sự đồng điệu của hai tâm hồn thì Y Ban bên cạnh nội dung đó
còn cho thấy sự gắn bó của những khát vọng bản năng. Điều này thể hiện ở
khá nhiều tác phẩm: Hai bảy bước chân là lên thiên đàng, Người đàn bà có
ma lực, Mỗi người đàn ông là của riêng một người đàn bà, Sau chớp là giông
bão, Đàn bà sinh ra từ bóng đêm, Bây giờ con mới hiểu, Tự, I am đàn bà…
Tình yêu của Tôi trong Hai bảy bước chân là lên thiên đàng bắt đầu từ
sự ngƣỡng mộ và thần tƣợng ngƣời đàn ông “đang trên bệ phóng của danh
vọng”, hằng đêm xuất hiện trên ti vi “em yêu và ngƣỡng mộ anh. Em đã rất
ngƣỡng mộ anh và khao khát một tình yêu”. Rồi lí trí mách bảo cô cảnh giác
nhƣng cô đã để những cảm xúc của mình chạy theo tiếng gọi của con tim
“Thực ra em đã muốn làm điều này với anh từ lâu rồi. Ngay sau cái lần anh
nhìn rất lâu vào em trong cái đám đông ngƣời ấy và nói em đẹp. Nhƣng em lại
muốn cả tình yêu nữa”. Rõ ràng, cô khao khát một tình yêu vẹn nguyên.
54
Nhƣng chỉ hai bốn giờ sau, cô đau khổ nhận ra chân tƣớng của ngƣời đàn ông
mà mình tôn thờ ngƣỡng mộ để rồi “Nỗi buồn làm em đổ sụp xuống. Khi
em đến chỗ hẹn cùng anh, em cũng đã nghĩ đến điều này nhƣ là một sự rủi
ro. Nhƣng em đã gạt nó đi bằng niềm tin và hy vọng”. Mọi ảo vọng vỡ vụn
nhƣ bong bóng.
Ngay với những phụ nữ một thời từng làm điêu đứng bao nhiêu trái tim
thì hạnh phúc với họ vẫn xa vợi. Tôi của Người đàn bà có ma lực và Mỗi
người đàn ông là của riêng một người đàn bà dù vẻ bề ngoài không thật xinh
đẹp nhƣng họ đã làm say đắm bao nhiêu trái tim yêu nhƣng họ vẫn cô đơn, lạc
lõng. Cô gái trong Mỗi người đàn ông là của riêng một người đàn bà gặp lại
tình yêu đầu mà cô đã tự tay dứt bỏ. Cô chua xót nhận ra dù Sơn vẫn còn có
gì đấy dành cho mình nhƣng anh đã vĩnh viễn thuộc về ngƣời phụ nữ khác.
Tôi trong Người đàn bà có ma lực khi đã ở dốc bên kia của cuộc đời lại sống
với khát khao những toan lo bình dị của một ngƣời phụ nữ. Quá khứ huy
hoàng và thực tại tẻ nhạt là những mảng mầu đối lập làm sâu sắc thêm nỗi cô
đơn của cô. Hạnh phúc và tình yêu vẫn chỉ là niềm khát khao.
Đôi khi khát vọng tình yêu đƣa ngƣời ta đến những ranh giới mỏng
manh nhƣ sợi tóc. Sau chớp là giông bão kể về một ngƣời phụ nữ có gia
đình khá đầm ấm “Nàng rất đỗi yên tâm trong hạnh phúc, bất hạnh, sung
sƣớng và khổ đau của mình”. Nhƣng cuộc sống không hề giản đơn. Vẫn
còn những yêu thƣơng nhƣng tình cảm với chồng trong cô dƣờng nhƣ đã
bão hòa, đã “xơ hóa”. Rồi chỉ vỏn vẹn bốn mƣơi giờ đi công tác nàng đã
muốn ngả đầu vào vai ngƣời đàn ông lạ. Phải chăng nàng tìm thấy sự hồi
sinh của những cảm xúc, của những yêu thƣơng nơi ngƣời ấy? Những dịu
ngọt từ chàng trai khiến cô thấy cực kỳ khoan khoái và tràn đầy sức lực.
Nhƣ vậy, trong con ngƣời tƣởng chừng đã an phận với những gì mình có
55
ấy, tình yêu và khát khao vẫn âm ỉ cháy.
Các nữ nhân vật trong truyện ngắn ba tác giả luôn khao khát đuổi tìm
hạnh phúc. Hạnh phúc là cái gì vừa nhƣ sờ mó đƣợc, lại vừa xa xôi, hƣ ảo, cứ
chấp chới ở phía trƣớc.
Khát vọng tình yêu còn gắn với tình dục, gắn với sex. Tình dục xƣa nay
gần nhƣ là điều tối kị trong văn chƣơng Việt Nam truyền thống. Nếu có chăng
thì sự xuất hiện rất thoáng qua và mờ nhạt bằng những mĩ từ xa xôi. Tuy
nhiên, sang đến cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI, công cuộc đổi mới của xã hội
và văn hóa văn nghệ dẫn đến cách nhìn thoáng hơn, tình dục không còn là
điều gì xa lạ với văn học nữa. Nó đƣợc khai thác ở nhiều góc độ, cấp độ khác
nhau. Tuy nhiên mỗi nhà văn lại có một cách nhìn nhận khác nhau về vấn đề
này. Với bản tính mạnh mẽ, quyết liệt, các nhân vật nữ của Y Ban và Nguyễn
Thị Thu Huệ có cái nhìn khá mới mẻ về tình yêu. Không chỉ dừng lại ở những
âu yếm, tình yêu với họ còn là đi đến tận cùng những cảm xúc, là sự hòa hợp
của hai con ngƣời. Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ lên tiếng bênh vực cho
nhân vật của mình qua tiếng nói mạnh dạn về khát vọng thể xác. Vấn đề này
đƣợc đề cập đến khá nhiều trong tác phẩm của hai nhà văn. Lụa của Bảy ngày
trong đời yêu Sánh. Tình yêu ấy đƣa họ đến tận cùng của cảm xúc mà giữa họ
không còn bất kì một khoảng cách nào “Sánh vòng tay ôm cô chặt hơn. Cả hai
ngã dúi xuống bãi cỏ. Bên họ, vỏ hộp bia, Coca-Cola và những vỏ bao thuốc
ngoại vƣơng vãi”, “cả hai lại chìm đi.Trăng lên. Cong vút và kiêu bạc ở góc
trời”. Trong Cát đợi cô gái trải qua hai mối tình. Mối tình đầu “đã mang đời
con gái của tôi đi không hoàn lại một câu xin lỗi”. Sau bao ngày tƣởng chừng
tình yêu đã ngủ quên trong những hoài niệm, cô đã tìm đƣợc tình yêu mới.
Mối tình ấy cũng đƣa cô đến tận cùng của xúc cảm “Tôi hồi hộp chờ mong sẽ
thấy cái hõm nơi tôi nằm xuống”, “Tôi mê đi trên chiếc giƣờng hạnh phúc,
56
chiếc giƣờng có một không hai trên thế gian này. Tôi yêu và tôi đƣợc yêu”.
Có thể nói Y Ban là ngƣời khá mạnh tay khi viết về sex, về tình yêu gắn
với sex. Truyện Y Ban vì thế tạo nên những ý kiến trái chiều gay gắt. Sẽ là
không thỏa đáng nếu chỉ nhìn vào hình thức để quy kết về văn Y Ban. Với
chị, đó chỉ đơn giản là phƣơng tiện nghệ thuật để chuyển tải thông điệp về
khát vọng sống, khát vọng đƣợc hƣởng hạnh phúc, những khát vọng rất trần
tục, rất con ngƣời. Hàng loạt tác phẩm của Y Ban cho thấy rõ điều đó: Hai
bảy bước chân là lên thiên đường, Đàn bà sinh ra từ bóng đêm, Bây giờ con
mới hiểu, Tự, I am đàn bà… Đa số trong các tác phẩm của Y Ban tình yêu là
ngọn nguồn dẫn đến sự hòa hợp về thể xác. Có những trƣờng hợp là do đòi
hỏi chính đáng của bản năng sinh lý trƣớc vòng kiềm tỏa của luân thƣờng đạo
lý, của những ngang trái cuộc đời. Qua đó, tác giả muốn gửi đến ngƣời đọc
thông điệp sex là bản năng nhƣng nó cũng xuất phát từ tình yêu, từ văn hóa.
Cần nhìn nhận nó dƣới góc độ khoa học và nhân văn để nó đƣợc đối xử một
cách xứng đáng nhƣ cái tự nhiên vốn có. Đừng bao giờ lạm dụng tùy tiện và
đừng đè nén, ép buộc nó.
Trần Thùy Mai quan tâm đến những khao khát bản năng nhƣng nhẹ
nhàng, thoáng qua. Tuy nhiên, thoáng qua mà không hời hợt, thoáng qua mà
vẫn sâu sắc, nồng nàn.
Tình yêu lãng mạn giữa Ng. và ngƣời đàn ông nọ trong Thị trấn hoa quỳ
vàng đƣa họ đến những giây phút “tràn ngập niềm tin mãnh liệt rằng tình yêu
của mình có thể biến mọi xó xỉnh nghèo hèn thành thiên đƣờng trên mặt đất”.
Trần Thùy Mai đã có những trang văn thật nhẹ nhàng, thật đẹp miêu tả tình
yêu và sự gắn bó giữa hai nhân vật: “Họ hôn nhau lần đầu, hệt nhƣ trong giấc
mơ. Sóng gầm lên trong bóng tối, và biển cũng rối tung theo gió”, “Gió biển
thổi lồng lộng qua cửa sổ, tấm drap trải giƣờng đƣợc phủ sơ sài bồng bềnh
những đợt sóng. Trăng cũng vào theo cửa sổ. Có vị mặn của biển và có vị
57
mặn của da thịt; có cái dịu ngọt của trăng, và nỗi dịu ngọt của vuốt ve”.
Ở mức độ mạnh dạn, táo bạo hơn là tình yêu của Diễm và tôi trong Cố
nhân: “Ông nhắm mắt, cảm thấy phía trong cơ thể nàng, nóng ấm và trơn
ƣớt, ông trƣợt lòng bàn tay trên hai bắp vế mịn nhƣ lụa. Rồi bất chợt tƣ thế
nằm dƣới làm ông cảm thấy bất ổn, ông lật nàng xuống….”. Hoặc những
cử chỉ âu yếm của tôi và anh trong Tàu ngầm xuyên đại dƣơng “Anh ấn tôi
xuống giƣờng. Cử chỉ anh thành thạo và quen thuộc”, “Tôi nhắm mắt, ôm
chặt anh, lần đầu tiên tôi không có ý nghĩ mình là cái nệm thịt, tôi với anh
là hai thịt da sinh động đang chực gắn vào nhau để phát ra những tia lửa
sống”. Nhƣ vậy, cũng là viết về giao cảm của hai cá thể trong tình yêu của
họ, Trần Thùy Mai chỉ điểm xuyết qua những đoạn khá ngắn, thƣờng gợi
chứ không tập trung tả thực.
Tóm lại, ba nhà văn coi sex là một phần (có khi là phần tất yếu) của tình
yêu. Nhìn ở góc độ khoa học, đó là nhu cầu không chỉ của giới nào. Tuy
nhiên, quan niệm xƣa “trai năm thê bảy thiếp” đã gián tiếp chấp nhận và
khẳng định những nhu cầu của riêng nam giới. Các nữ nhà văn với giọng điệu
khác nhau thông qua nhân vật nổi loạn đã lên tiếng bênh vực cho giới nữ. Bên
cạnh đó, họ cũng gửi đến độc giả những lời cảnh tỉnh. Trong mỗi ngƣời đều
có những khát vọng bản năng nhƣng điều quan trọng là phải ứng xử với nó
thế nào cho phù hợp. Để xây dựng gia đình hạnh phúc, thực sự là tổ ấm của
mỗi ngƣời, từng cá nhân cần biết điều tiết mình. Có những thứ ranh giới
mỏng manh nhƣ sợi tóc, chỉ cần nghiêng sang bên này là mọi thứ sụp đổ.
Khao khát tình mẫu tử
Không chỉ khát khao hạnh phúc lứa đôi, các nữ nhân vật còn khao khát
tình mẫu tử thiêng liêng cao đẹp.
Đọc truyện ngắn Trần Thùy Mai, sự khao khát tình mẫu tử của Hạnh
trong Trăng nơi đáy giếng để lại trong tôi ám ảnh sâu sắc. Là một ngƣời phụ
58
nữ dịu dàng đằm thắm, hết lòng hi sinh vì gia đình nhƣng trớ trêu thay, cuộc
đời không mỉm cƣời với Hạnh. Khát khao có con nhƣng không thành hiện
thực, cô đã nuốt nƣớc mắt vào trong tìm ngƣời sinh con cho chồng – Thắm.
Sự khát khao đƣợc ôm ấp hình hài thƣơng yêu của chồng khiến Hạnh chăm
sóc Thắm từng li từng tí: “từng chục trứng gà, từng chai mật ong đƣợc chuyển
về làng để tẩm bổ cái thai mới thành hình”. Rồi đến ngày cô đƣợc đền bù:
“Đứa con trai ra đời, cô Hạnh bế lấy nó, đỏ hỏn trong lớp tã. Ông Phƣơng
quàng vai cô, vỗ về: Con của em đó. Nghe chồng nói, cô ứa nƣớc mắt vì sung
sƣớng...”. Với niềm khát khao tình mẫu tử mãnh liệt, cô coi cu Nhứt là niềm
vui, là một phần lẽ sống của mình và làm tất cả vì nó. “Những ngày thằng bé
ở với cô là những ngày căn nhà ngập tràn niềm vui”. Khi ốm, cô mong muốn
“cho thằng cu sang đây với tôi là đủ. Có nó là tôi sống đƣợc” và “Căn nhà
tƣng bừng lên vì tiếng trẻ con cƣời, tiếng chó gâu ăng ẳng. Tôi nhƣ ngƣời
sống lại. Thằng bé gọi tôi là mẹ Cả. Tiếng gọi thật ngọt ngào. Tôi rất muốn
thằng bé gọi tôi chỉ là "Mẹ" thôi”, “Mặc thằng bé gọi tôi bằng gì đi nữa, nó
vẫn là con tôi. Tôi lại trồng khoai, lại nuôi gà, lại để dành từng quả trứng.
Thằng bé ăn, tôi thấy ngon. Đêm nó ngủ dụi đầu vào lòng tôi. Tôi đã có con,
tạ ơn trời, giờ đây tôi không cần gì hơn nữa”. Dù không phải đứa con mang
nặng đẻ đau nhƣng Hạnh yêu cu Nhứt bằng tình yêu của một ngƣời mẹ. Sự
chăm chút chu đáo, ân cần; sự hi sinh ngọt ngào… Chỉ cần nghe tiếng bi bô
của cu cậu là Hạnh thấy nhƣ đất trời nở hoa, thấy nhƣ mình đƣợc tiếp thêm
sinh khí. Có chồng rồi lại phải nhƣờng chồng cho kẻ khác, tƣởng rằng sự hiện
diện của cu Nhứt là niềm an ủi cho Hạnh nhƣng rồi cũng bị tƣớc mất khi
Thắm đón cu Nhứt về, rồi cu Nhứt chuyển từ gọi “mẹ” sang “bác”. Niềm khát
khao trở thành đau đáu, khắc khoải “Nhiều hôm, nghe tiếng thằng Tèo nhà
bên cạnh gọi: "Mẹ ơi!" giọng trẻ con sao mà giống nhau, tƣởng con về, đang
làm gì tôi cũng vứt hết chạy ra. Chỉ thấy sân hiên vắng lặng, không một bóng
59
ngƣời”. Tất cả tuột khỏi tay cô. Nhƣng niềm khao khát làm mẹ không mất đi
trong cô. Hiện thực quay lƣng với cô thì cô tìm đến thế giới tâm linh, thế giới
mộng tƣởng. Theo quẻ bói của bà đồng Thơi, “số cô Hạnh không theo ông
Phƣơng đƣợc trọn đời vì ngƣời âm ƣng, mà ngƣời âm này vai vế lớn lắm, con
thứ bảy của Đức Mẫu, quyền sinh sát cả một giang sơn. Lâu nay, ông với cô
Hạnh đã đƣợc một con trai ở cõi vô hình, mà cô Hạnh đâu có hay”. Vậy là cô
đã có con trai. Dù là không hữu hình nhƣng nó là của cô. Cô hạnh phúc với
điều ấy. Rằm mồng một cô không quên chất hƣơng hoa đầy thánh điện và còn
chuẩn bị quần áo cho con “Rồi trƣớc hiên nhà lại xuất hiện những cái áo nho
nhỏ màu đỏ, màu xanh phơi trên dây. Ai đi ngang hỏi, cô cƣời hiền lành: Áo
thằng cu. May cho cu mặc Tết". Tƣởng chừng với ngƣời phụ nữ, niềm hạnh
phúc làm mẹ là điều có thể nhƣng sao với Hạnh lại khó khăn, nghiệt ngã đến
vậy. Tuy nhiên, thế giới tâm linh đã cho cô niềm hạnh phúc mà đời thực
không có.
Đó là khát vọng tình mẫu tử ở ngƣời phụ nữ của gia đình nhƣng gặp bất
hạnh. Với ngƣời suốt đời rong ruổi trên đƣờng tình để ngạo nghễ kiêu hãnh
với ma lực hấp dẫn đàn ông của mình trong Người đàn bà có ma lực của Y
Ban thì sao? Sau bao nhiêu cuộc tình, ngƣời phụ nữ khát khao một cuộc sống
gia đình với những đứa con. Những thanh âm cuộc sống thƣờng nhật của gia
đình bên cạnh vọng sang rõ mồn một làm bùng cháy trong cô những khao
khát: "Nếu nhƣ mình là ngƣời chủ căn nhà bên kia nhỉ”, “Mấy đứa con xăng
xái chạy bên cạnh, mình sẽ sai chúng”, “bên hàng xóm lại vẳng sang tiếng trẻ
con thánh thót: "Con mời ba mẹ ăn cơm ạ". Ngƣời đàn bà bê nguyên chiếc bát
lắng nghe tiếp. Chỉ có tiếng bát đũa va vào nhau, tiếng va chạm của một cuộc
sống bình thƣờng khiến ngƣời đàn bà không còn cảm giác muốn ăn nữa”.
Tình mẫu tử dƣờng nhƣ là một bản năng nên không chỉ ngƣời thật sự
trƣởng thành mà ngay cả những thiếu nữ cũng ý thức rất sâu sắc. Cô gái trong
60
Bức thư gửi mẹ Âu Cơ vì ăn trái cấm khi tuổi chƣa thể bƣớc vào cuộc sống
gia đình cô đành phải bỏ đứa con ngoài ý muốn. Cô gái đã trải qua nỗi đau
đớn về tinh thần và thân xác. Và đặc biệt thiên chức ngƣời mẹ khiến cô day
dứt, ân hận vì mình đã lỡ bỏ mất đứa con. Nó nhƣ vết thƣơng mạn tính khiến
“Ngày hôm nay con đƣợc chứng kiến nỗi đau những ngƣời mẹ. Nỗi đau của
con lại bùng lên”.
Nhƣ vậy, tình yêu hạnh phúc không chỉ là khát vọng của riêng ai. Dù trải
qua sóng gió thăng trầm, điều mà các nữ nhân vật trong truyện ngắn ba tác giả
hƣớng đến là tình yêu chân thành, hạnh phúc vẹn nguyên.
Khát vọng về vật chất, danh vọng.
Nữ nhân vật trong truyện ngắn ba nhà văn còn có khát vọng về vật chất,
danh vọng. Mong muốn thành đạt và một cuộc sống đủ đầy là ƣớc mơ chính
đáng của ngƣời phụ nữ. Tuy nhiên, các nhân vật lại có những cách thức khác
nhau để đạt đƣợc mục đích ấy. Dƣờng nhƣ, khát vọng ấy dữ dội và mãnh liệt
hơn cả trong những trang văn của Nguyễn Thị Thu Huệ.
Có thể nói, trong các vấn đề của gia đình hiện đại, trong cuộc sống của
ngƣời phụ nữ, Nguyễn Thị Thu Huệ dành sự quan tâm lớn đối với những cám
dỗ vật chất. Vì tham vọng vật chất, vì muốn đổi đời mà nhiều nữ nhân vật của
Nguyễn Thị Thu Huệ sẵn sàng chấp nhận cuộc hôn nhân không tình yêu. Đó
là Thảo trong Người đi tìm giấc mơ. Cô sinh ra trong một gia đình vốn không
giàu có, phải tự bƣơn chải kiếm sống. Thƣờng trực trong cô là khát vọng có
một gia đình hạnh phúc lấy chồng có con. Nhƣng để ƣớc mơ nhỏ nhoi ấy trở
thành hiện thực cô đã phải chấp nhận làm vợ một ngƣời chồng tàn tật nhƣng
gia đình giàu có. Chấp nhận đánh đổi, cô không chỉ mong muốn mình có chỗ
dựa vững chắc mà còn mong đem đến hạnh phúc cho bà mình. Nhƣng số
phận thật trớ trêu khi cuộc hôn nhân không tình yêu lại còn không con cái. Cô
61
bị đuổi ra khỏi nhà chồng.
Vì tham vọng vật chất, có nhân vật còn chà đạp lên luân thƣờng đạo lý.
My trong Thiếu phụ chưa chồng vì muốn thoát khỏi cuộc sống nghèo khó lạc
hậu ở nông thôn, đã nhẫn tâm cƣớp chồng của chị gái. Không dừng lại ở anh
rể, cô còn tìm đến với ngƣời đàn ông khác mà không cần biết sau hành động
của mình có biết bao ngƣời chịu khổ đau. Nhƣ vậy, vật chất có sự cám dỗ ghê
gớm. Nếu con ngƣời không biết điểm dừng, không ứng xử nhƣ một con ngƣời
văn minh thì sẽ phải trả giá cho những toan tính của mình.
Nhƣng cũng có nhân vật, vì thiếu thốn vật chất mà chấp nhận hy sinh
hạnh phúc của mình cho gia đình. Nhân cách ấy đáng trân trọng biết bao! Đó
là ngƣời chị trong Chị tôi. Gia đình nghèo, để có tiền nuôi em ăn học và trang
trải cuộc sống cho gia đình nhân vật chị phải lang thang trên bến tàu Sài Gòn
bán hàng “Ngƣời đàn bà thật nhỏ bé, nhếch nhác. Dƣới chân là mẹt thuốc lá,
bên cạnh là cái làn nhựa. Bà đứng nhƣ bức tƣợng nghiêm lạnh giữa khung
cảnh huyên náo bậc nhất này”. Cô chấp nhận cuộc sống phiêu bạt, thiếu thốn
tình cảm gia đình, hy sinh khát vọng của mình vì những ngƣời thân yêu. Giữa
sự ồn ào, xô bồ, bon chen và đầy cạm bẫy của bến tàu, số phận của ngƣời phụ
nữ bé nhỏ ấy sẽ ra sao?
Cũng đề cập đến cám dỗ vật chất nhƣng trong những trang truyện của Y
Ban và Trần Thùy Mai sự xuất hiện có phần ít hơn. Thắm trong Trăng nơi
đáy giếng, Diễm trong Cố nhân, Na trong Người bán linh hồn (Trần Thùy
Mai); thị trong I am đàn bà (Y Ban) phần nào cho ta thấy đƣợc điều đó. Vì
cám dỗ vật chất, vì muốn đƣợc đổi đời, Thắm đã quay lƣng lại, hơn thế còn
đánh cắp tất cả của ngƣời đàn bà nhân hậu đáng thƣơng từng đối đãi ân cần
với mình là Hạnh. Diễm - một cô gái “chân dài, đẹp cỡ hoa hậu”- là niềm mơ
ƣớc của nhiều chàng trai và sẽ chẳng mấy khó khăn để có thể yêu và lấy một
tấm chồng tử tế. Nhƣng khát vọng vật chất, danh vọng đã đƣa bƣớc chân cô
62
đến con đƣờng gập ghềnh. Đó là trở thành ngƣời tình của các quan chức. Na -
một nữ họa sĩ trẻ có cuộc sống vật chất thiếu thốn - xây mộng ƣớc về một gia
đình hạnh phúc với Tuấn. Cô tôn thờ anh và chịu nhận về mình những toan lo
thƣờng nhật. Cô gửi gắm nơi Tuấn không phải chỉ tình yêu mà cả khát vọng
tiền tài và danh vọng. Cô có quyền mơ về một tƣơng lại tƣơi đẹp khi Tuấn nổi
tiếng. Không phải ngƣời chạy theo vật chất nhƣng cuối cùng cô đã đau đớn
chấp nhận bán mình cho ngƣời đàn ông chủ gallery Kình Dƣơng. Song thật
may, bản chất của Tuấn đã bộc lộ trƣớc ma lực của đồng tiền và danh vọng.
Vì thế cô giữ đƣợc mình. Thị có cuộc sống khốn khó một nhà sáu miệng ăn,
chăm chỉ nhƣng nghèo vẫn hoàn nghèo. Trong xu thế chung “ngƣời trong
làng trong xóm tiễn đƣa nhau đi máy bay, rồi lại đƣa nhau ra bƣu điện lĩnh
tiền. Có tiền thì xây nhà, mua tivi”, thị cũng dứt áo ra đi với mộng ƣớc đổi
đời. Nhƣng đó là mơ ƣớc chân chính, thị muốn đổi đời bằng chính sức lao
động của mình…
Rõ ràng, các nữ nhân vật trong truyện của Trần Thùy Mai cũng bị vật
chất và danh vọng cám dỗ. Tuy nhiên, đó không phải là mục đích duy nhất
trong cuộc sống của họ.
Cuộc sống hữu hạn nhƣng khát vọng của con ngƣời lại vô hạn, đặc
biệt trƣớc những cám dỗ của đời sống kinh tế thị trƣờng. Ngƣời phụ nữ
cũng không nằm ngoài guồng quay ấy. Viết về những khát vọng chân
chính, ba nhà văn đã thể hiện niềm cảm thƣơng sâu sắc đối với những
mảnh đời, những con ngƣời.
2.2.1.2. Bi kịch của người phụ nữ trên hành trình đi tìm hạnh phúc
Mang trong mình nhiều khát vọng, đã có những nữ nhân vật hạnh phúc
và mãn nguyện với những thứ mình có. Lụa của Bảy ngày trong đời chịu bao
nhiêu cay đắng tủi nhục khi một mình bụng mang dạ chửa khi ngƣời yêu ra đi
nhƣng lời hẹn ƣớc mông lung. Tuy nhiên, cuối cùng nàng cũng tìm thấy Sánh.
63
Và rồi dù tƣơng lai của ba ngƣời không hứa hẹn những đủ đầy thì họ cuối
cùng đã trở về bên nhau. Song trƣờng hợp may mắn nhƣ Lụa không nhiều.
Tràn ngập trên những trang truyện của ba nữ nhà văn là các bi kịch. Mỗi nhân
vật một hoàn cảnh, một bi kịch… không ai giống ai nhƣng đều gợi lên trong
ngƣời đọc nhiều suy ngẫm.
Bi kịch của sự cô đơn
Trần Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ lúc đằm sâu da diết, khi
mạnh mẽ dữ dội nhƣng thể hiện rất tinh tế và sâu sắc nỗi cô đơn của các nữ
nhân vật. Có thể nói nỗi cô đơn là bi kịch lớn của họ. Đó là sự cô đơn trong
những ngổn ngang đời thƣờng.
Sự cô đơn đến từ những nhân vật chƣa lập gia đình lẫn những ngƣời có
một gia đình đủ đầy; từ ngƣời mới biết yêu đến ngƣời đã đến dốc bên kia của
cuộc đời; từ ngƣời mỏng manh yếu đuối đến ngƣời mạnh mẽ, bản lĩnh…
Những cô gái mới lớn, mới bƣớc vào tình yêu đã tìm thấy sự cô đơn lạc
lõng. Đó là cô gái trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ (Y Ban) với “nỗi cô đơn con
không thể chia sẻ cùng ai”. Chỉ vì lầm lỡ, cô đã phải bỏ đi giọt máu của mình.
Kể từ đó, cuộc sống trong cô là chuỗi ngày ám ảnh và giằng xé. Nỗi đau và sự
cô đơn trở đi trở lại với cô bởi “sau tất cả những cuộc vui, con càng cô đơn
hơn. Con mong muốn tình yêu. Con đã có đầy đủ một tình yêu đầu tiên ấy rồi.
Hoặc là bằng, hoặc là hơn. Mẹ và lý trí không cho con buông thả. Giá nhƣ
ngày ấy mặc dù tội lỗi, mẹ cứ cho chúng con lấy nhau thì con đã trở thành
ngƣời phụ nữ bình thƣờng chứ không phải mang cảnh góa bụa trong cô thiếu
nữ kén chồng thế này”.
Đó còn là Trân trong Cầu thang (Nguyễn Thị Thu Huệ) với nỗi cô đơn,
lạc lõng trong tình yêu. Cô có ngƣời yêu dƣờng nhƣ cô và anh là hai thế giới
khác biệt. Cô chẳng bao giờ đoán chính xác đƣợc anh làm gì. Đó là một thói
quen thì đúng hơn là một tình yêu. Trân cô đơn ngay khi ở bên cạnh ngƣời
64
yêu, ngay khi vừa từ nhà ngƣời yêu về. Đồng nghiệp cô đã nhận ra “Có lần,
anh thấy em khóc từ nơi đó ra. Rồi hôm sau, anh lại thấy em đến. Lúc về, có
khóc nữa hay không thì anh không biết. Đúng không?". Nhƣ vậy, khát khao
yêu thƣơng nhƣng khi yêu, Trân lại thấm thía sâu sắc nỗi cô đơn.
Sự cô đơn trong cuộc sống khiến các nhân vật tìm đến tình yêu mới.
Nhƣng tình yêu ấy càng làm họ thấm thía sâu sắc hơn nỗi cô đơn của mình.
Nhân vật Em trong Hai bảy bước chân là lên thiên đàng (Y Ban) từ bỏ hạnh
phúc bên cạnh ngƣời thƣơng yêu cô hết lòng để chạy theo ngƣời đàn ông mà
cô ngƣỡng mộ. Nhƣng sau hai mƣơi tƣ giờ đồng hồ sống trên mây với những
cảm giác ngọt ngào, cô nhƣ ngƣời rơi vào địa ngục của sự cô đơn. Cô gặm
nhấm nỗi cô đơn khi bị rũ bỏ một cách không thƣơng tiếc. Biển và người đàn
bà (Y Ban) đề cập đến nỗi cô đơn của một ngƣời phụ nữ có vẻ ngoài không
xinh đẹp nhƣng bù lại nàng có một trái tim nhân hậu và bao dung. Nàng đã
cứu sống và khơi dậy những tiềm năng nơi một nhà khoa học bị vợ con từ
chối. Hạnh phúc tƣởng đã mỉm cƣời với nàng và nàng tự vấn: “Hạnh phúc đã
đến với ta rồi chăng? Nàng soi mình xuống biển, biển trả lại nàng một khuôn
mặt xấu xí, già nua với đôi mắt ngời lên hạnh phúc”. Nhƣng đúng lúc con
ngƣời đƣợc nàng cƣu mang và giúp đỡ đứng trên đỉnh vinh quanh ấy thì cuộc
đời lại quay lƣng với nàng. Nàng “khóc thầm trong lòng và thầm nhủ - Ta
biết, đã đến lúc rồi. Một ngƣời đàn bà xấu xí không thể nào giữ đƣợc một
ngƣời đàn ông cho trọn vẹn cả đâu. Cho dù có phải là một ngƣời đàn ông do
mình tạo ra đi nữa, cũng thế thôi". Khi anh đoàn tụ cùng gia đình cũng là lúc
nàng ra đi mang theo khối cô đơn trong lòng.
Nỗi cô đơn không chỉ xuất hiện ở những ngƣời trẻ tuổi mà có ngay cả ở
những ngƣời đã từng trải qua bao nhiêu mối tình, đƣợc bao nhiêu chàng trai
theo đuổi nhƣ nhân vật chính của Người đàn bà có ma lực (Y Ban). Những
thanh âm cuộc sống thƣờng nhật “với tiếng than thở, tiếng lao xao, tiếng dao,
65
thớt lách cách bên hàng xóm vọng sang”, đánh thức phần bản năng thầm kín
trong nhân vật. Quá khứ ùa về nhƣ thƣớc phim sống động, nó càng rực rỡ huy
hoàng bao nhiêu thì cô càng thấm thía nỗi cô đơn của hiện tại. Sự cô đơn đó
càng đáng sợ khi tuổi già đã ập đến. Câu hỏi nhƣ xoáy sâu vào tâm can cô
không lời đáp "Ta là một ngƣời đàn bà, một ngƣời đàn bà rất hoàn hảo nhƣng
tại sao ta lại không có đƣợc cái kết quả của sự hoàn hảo ấy". Ngƣời đàn bà
nhƣ bị bủa vây trong nỗi cô đơn mà càng quên đi nó càng hiện lên rõ nét.
Không chỉ ghé thăm những ngƣời phụ nữ chƣa có gia đình, sự cô đơn
còn len lỏi vào cuộc sống của những ngƣời bề ngoài tƣởng chừng hạnh phúc
đủ đầy. Họ cô đơn khi sống trong gia đình mà vợ chồng là hai thế giới đứng
riêng lẻ cạnh nhau. Ngƣời vợ không phải mối bận tâm của chồng. Một cô
Quyên trong Cánh cửa thứ chín (Trần Thùy Mai) thầm lặng từng ngày dài
trong khu vƣờn lặng lẽ chống lại chứng bệnh thống kinh, chống lại cuộc sống
nhàm chán tẻ nhạt và tù túng. Thế rồi một ngƣời đàn ông ngoài chồng đã đƣa
cô đến với cuộc sống tƣơi đẹp đầy hoa trái bên ngoài. Nhƣng rồi dù “muốn
cùng anh đi vớt mặt trời trên biển tây. Tôi sẽ chịu bỏng, chịu cháy, để đƣợc
đau đớn, đƣợc yêu thƣơng. Tôi muốn chịu đựng mọi thứ trên đời, ngoại trừ sự
tẻ lạnh” cô vẫn phải dừng lại trƣớc cánh cửa thứ chín để tai họa không ập đến
với ai. Cô lại trở về với hiện thực của trƣớc kia.
Thậm chí, khi có đƣợc ngƣời chồng yêu thƣơng, hết lòng vì gia đình họ
cũng cô đơn. Cũng có một cuộc đời bình lặng nhƣ Quyên, Lan của Một nửa
cuộc đời (Nguyễn Thị Thu Huệ) không yêu chồng. Chính vì vậy, cô tìm đến
với Thắng để mong đƣợc sƣởi ấm, đƣợc yêu thƣơng. Nhƣng thật trớ trêu,
càng khao khát cô càng không đạt đƣợc ƣớc mơ. Thắng tỉnh táo đến lạnh
lùng, chỉ coi tình yêu với cô nhƣ một thứ gia vị trong cuộc sống, không bao
giờ bỏ vợ để đến với cô.
Đem theo những háo hức mong chờ và một tình yêu tha thiết, mong
66
mỏi đƣợc gặp tri kỷ sau ba trăm sáu lăm ngày xa cách. Nhƣng càng háo
hức bao nhiêu càng hụt hẫng bấy nhiêu. Với niềm tin mãnh liệt “tình yêu
của mình có thể biến mọi xó xỉnh nghèo hèn thành thiên đƣờng trên mặt
đất”, Ng. trong Thị trấn hoa quỳ vàng (Trần Thùy Mai) rất háo hức và sống
hết mình cho tình yêu. Chỉ một ngày đƣợc gặp nhau thôi nhƣng Ng. và
ngƣời yêu “đến với nhau, kể cho nhau nghe tất cả những cuộc phiêu lƣu
trong một năm ròng. Chỉ một đêm thôi họ đã sống đủ cho ba trăm sáu lăm
ngày”. Vẫn theo lời hẹn xƣa, Ng. đến với thị trấn thơ mộng thân thƣơng.
Nhƣng nhà trọ Hƣớng Dƣơng, những con đƣờng, những ngôi nhà đã có
nhiều đổi thay. Và chàng trai cũng không xuất hiện. Ngập tràn trong nỗi cô
đơn, thất vọng, kí ức về lời sấm của những dân chài năm nào nhƣ lời an ủi
Ng. “Lời sấm tiên báo rằng cái thị trấn nhỏ đáng thƣơng này đƣợc thành
lập trên một doi cát phù du đang bị xói lở dần dần và trong thời gian ngắn
sẽ hoàn toàn sụp đổ”. Lời sấm về thị trấn nhỏ hay về chính tình yêu của
Ng. với ngƣời đàn ông nọ? Nàng ra về với trĩu nặng nỗi buồn.
Mỗi nhân vật một hoàn cảnh nhƣng họ đều mang trong mình nỗi cô đơn
không ngƣời sẻ chia. Và rất nhiều trong số họ đã tìm đến ngoại tình nhƣ một
sự cứu rỗi. Song ngoại tình cũng không giúp họ trở nên hạnh phúc hơn mà nỗi
cô đơn càng sâu sắc và thấm thía hơn.
Nỗi cô đơn còn là tình cảnh của những ngƣời phụ nữ nhẫn nhịn, hi sinh.
Các nhân vật trong tuyện Trần Thùy Mai : Mợ (vợ của cha Ái Duy) trong
Nàng công chúa lạc loài, ngƣời vợ trong Em Dung, ngƣời vợ trong Suối bạc,
mẹ của Mi trong Gió thiên đường, tôi trong Bức tranh cuối cùng… là những
phụ nữ hết lòng và yêu chồng con tha thiết. Nhƣng thật trớ trêu, hạnh phúc
không mỉm cƣời với họ. Mợ trong Nàng công chúa lạc loài là ngƣời phụ nữ
tốt song lại phải ngậm ngùi cam chịu sống cùng ngƣời chồng trăng hoa. Cô
sống trong sự đủ đầy của vật chất nhƣng lại cô đơn, cay đắng kiếp chồng
67
chung. Có lần, cô đã phải đứng ra làm chứng cho chồng trƣớc lời tố cáo của
cô thứ kí mà nát tan cõi lòng “Bất giác em nhận ra giọng nói bình thản kia, đã
từ rất lâu rồi chính mợ đã hiểu hơn ai hết, ba em là ngƣời nhƣ thế nào... em
rùng mình, chới với nhƣ vừa thụt chân xuống vực sâu”. Ngƣời phụ nữ trong
Suối bạc phải đối diện với nỗi cô đơn đến hết đời. Nàng mồ côi mẹ từ nhỏ và
lúc nào mẹ cũng nằm quay lƣng vào vách để yên tâm ngủ say”. Bởi “bà ngoại
mất sớm, từ nhỏ mẹ ngủ một mình. Mẹ rất sợ ma, lúc ngủ mẹ tựa lƣng vào
tƣờng. Lúc ấy mẹ cứ nghĩ nếu có gì nguy hiểm hiện ra thì nó sẽ đến từ phía
bên ngoài, và mẹ quay về phía đó bởi vì ít nhất sau lƣng cũng đã có bức tƣờng
che chắn”. Một thói quen kỳ lạ xuất phát từ sự yếu đuối, mong manh đã đƣa
đến sự hiểu nhầm cho ngƣời chồng. Khi nằm bên chồng, nàng luôn quay mặt
vào vách, coi chồng là chỗ dựa, là một chỗ che chắn. Điều ấy đã khiến ngƣời
đàn ông tự ái, rời bỏ vợ để đi tìm một cuộc sống mới. Mẹ của Mi dù chỉ là
nhân vật xuất hiện rất ít trong truyện nhƣng vẫn hiện lên là ngƣời phụ nữ cô
đơn khi sống bên chồng ngƣời chồng với đôi mắt “lúc nào cũng u uẩn đầy kỷ
niệm” mang trong mình hình ảnh của một ngƣời phụ nữ khác.
Họ không chỉ cô đơn ngay trong căn nhà của mình, ngay bên cạnh một
nửa của cuộc đời mình mà còn cay đắng phải nuôi con riêng của chồng.
Ngƣời vợ trong Em Dung là ngƣời phụ nữ “mảnh khảnh, nhỏ nhẹ, tối ngày cố
xếp đặt căn nhà, khu vƣờn thật chỉn chu, ngăn nắp” yêu chồng, hy sinh suốt
đời vì chồng, nhẫn nhịn dù chồng có nóng tính đến đâu. Mỗi ngƣời “một thế
giới riêng đầy bí ẩn. Ngoài giờ ăn, ngủ, hầu hết thời gian ba tôi giam mình
trong đó. Rồi ít lâu sau, ngƣời ngủ luôn ở đấy, hầu nhƣ không quay về phòng
nữa. Cuộc sống gia đình vẫn lặng thầm trôi đi trong êm ấm”. Nhƣ vậy, ngƣời
phụ nữ không thể chia sẻ niềm vui nỗi buồn, những toan lo của cuộc sống
hằng ngày với chồng. Ngƣời chồng lặng lẽ trong gia đình và hƣớng ra thế giới
bên ngoài. Ở đây không chỉ là cô đơn mà còn là tủi cực, đắng cay. Đặc biệt
68
“một đời khổ hạnh, âm thầm, nhẫn nhục chỉ để đƣợc danh chính ngôn thuận
đứng ở đầu quan tài cha tôi khi đƣa ngƣời đến mộ” thì “đằng xa, ngƣời đàn bà
ôm đứa bé đứng co ro, khép nép, cái nón che nghiêng nửa mặt. Nhiều ngƣời
ném về phía ấy những cái nhìn khinh rẻ, những cái nguýt, cái háy đầy vẻ lạnh
nhạt. Cô ta xin một chiếc khăn tang”. Sự xuất hiện của ngƣời đàn bà và đứa
trẻ xa lạ kia nhƣ vết dao cứa vào lòng tự trọng, vào sự sĩ diện và vào trái tim
cô đơn vốn đã rỉ máu của ngƣời đàn bà bất hạnh. Đây cũng là nỗi đau mà
ngƣời vợ trong Bức tranh cuối cùng phải gánh chịu.
Ngòi bút cảm thƣơng của các nhà văn còn chú ý đến nỗi cô đơn của
những cô gái bán hoa nhƣ Lan, Hồng, Thơm… trong Nhân tình của Y Ban.
Nhƣ vậy mang trong mình những khát khao cháy bỏng, con ngƣời tìm
đến tình yêu. Nhƣng rồi đa số bị thất vọng. Họ ôm trong mình nỗi cô đơn
không ngƣời sẻ chia. Có thể nói nỗi cô đơn ám ảnh các nữ nhân vật trong
truyện ba tác giả. Có khi nó đƣợc biểu hiện qua các tình huống, có khi là sự
thốt lên thành lời: “Tôi cô đơn quá rồi”, “sao ngƣời mỗi ngày một đông nhƣ
kiến mà tôi cô đơn thế này” (Giai nhân – Nguyễn Thị Thu Huệ); “Tôi luôn cô
đơn, khát khao một cái gì cụ thể nên chẳng bao giờ có” (Cát đợi – Nguyễn
Thị Thu Huệ).
Qua những nỗi đau của quá khứ và sự trống rỗng giằng xé của hiện tại ở
các nhân vật, các tác giả đã đi vào tận cùng của nỗi cô đơn để khám phá vẻ
đẹp thẳm sâu trong tâm hồn con ngƣời. Những con ngƣời cô đơn ấy vẫn đau
đáu những hoài vọng và khát khao về tình yêu, hạnh phúc.
Bi kịch bị lừa dối, bị phản bội
Nếu cô đơn là bi kịch chung của những ngƣời phụ nữ trong truyện của cả
ba nhà văn thì bị lừa dối, bị phản bội lại là bi kịch trở đi trở lại ở nhiều truyện
ngắn Trần Thùy Mai.
Đó là tình cảnh của những ngƣời vợ trong Em Dung hay Nàng công
69
chúa lạc loài… Họ đều hết lòng yêu chồng, hy sinh vì gia đình nhƣng cuối
cùng thì ngƣời chồng lại tìm hạnh phúc bên ngoài và không ít lần làm cho
họ tổn thƣơng.
Không phải chỉ có những ngƣời hiền hậu, nhẫn nhịn mới lâm vào bi kịch
này mà ngay cả những ngƣời sắc sảo, thông minh cũng cay đắng trƣớc tình
huống dở khóc dở cƣời mà chồng mình đƣa đến. Đó là trƣờng hợp bà Hải
trong Tháng tư trở lại. Vốn là một phụ nữ thông minh, sắc sảo và có tài thu
vén, gần hết cuộc đời ông Hải không thoát khỏi vòng kiềm tỏa của bà. Bà sắp
đặt không chỉ việc gia đình mà cả việc cơ quan của ông đâu vào đấy. Với gia
đình nhà chồng bà là ngƣời chu đáo, tận tình. Ấy vậy mà chỉ có vài lần về quê
ăn giỗ, ông đã vụng trộm với một cô gái quê và có con. Khi biết đƣợc tin ấy,
bà “tƣởng nhƣ sét nổ ngay trƣớc mặt”, “ Bà ngã ngồi xuống bộ ván, trời đất
tối sầm”, “Suốt đêm bà Hải không ngủ đƣợc, lắng nghe tâm tƣ mình bà thấy
hình nhƣ không phải nỗi đau đớn, mà là nỗi căm hận và kinh ngạc”.
Nhƣng có lẽ bi kịch bị phản bội, bị lừa dối đƣợc thể hiện sâu sắc nhất
phải kể đến là bi kịch của Hạnh trong Trăng nơi đáy giếng. Hạnh yêu và
chăm sóc Phƣơng cẩn thận, tỉ mỉ “Bữa ăn không cần thịt cá, đôi khi chỉ cần
đĩa bông bí chấm nƣớc tôm kho đánh, nhƣng nƣớc tôm phải thật sánh, thật
thơm, đỏ rực. Thịt bò thì nhất định phải nấu canh với hoa thiên lý, tô canh dìu
dịu mùi hƣơng ngọt ngào. Đêm khuya ngồi đọc sách, chỉ cần ăn củ khoai bồi
dƣỡng, nhƣng khoai phải ngọt, dẻo, hấp với lá dứa. Chiều thì vài lóng mía
tiện thật sạch sẽ, ửng màu đỏ cầm rƣợu. Căn nhà nhỏ không có đồ đạc gì xa
hoa, nhƣng sạch nhƣ lau nhƣ li. Tính thầy Phƣơng rất sợ bẩn. Trong bếp,
phòng tắm, những cái chậu đủ màu đƣợc cô Hạnh đặt đúng vị trí của chúng,
tất cả đều khô ráo, sạch sẽ”. Hạnh đã nén nỗi đau để tìm một ngƣời sinh con
cho chồng chỉ vì không chịu đƣợc nét buồn vƣơng vất trên mặt Phƣơng.
Nhƣng thật xót xa, đáp lại tình yêu chân thành sâu sắc và sự tận tụy của Hạnh
70
là sự lừa dối và phản bội đến trơ tráo của Phƣơng. Phƣơng đã dựng nên một
kịch bản hoàn hảo để chính thức đến với Thắm và ruồng rẫy Hạnh. Màn kịch
chỉ đƣợc hạ khi trong một lần tình cờ đến nhà Bà Thu – Thƣ ký công đoàn,
Hạnh ngỡ ngàng vì sự hi sinh và tình yêu bấy lâu mình đặt nhầm ngƣời: “Vào
đến cửa, tôi chững lại khi nghe tiếng anh Phƣơng, rồi tiếng Thắm. Một giỏ
quà, ý chừng đồ đi Tết, đang nằm trên ghế. Bà Thu cƣời: Không có tôi thì anh
chị còn mỗi ngƣời một nơi đến bao giờ? Nhƣng mà nói vậy chứ không nhận
quà này nhé. Bày vẽ làm gì, cái tình với nhau là chính". "Ấy, chút quà xin chị
nhận cho, của thảo lòng thành”, “Bà Thu ngọt ngào: "Cái cô Thắm này khéo
thật, chả trách bà Hạnh cất công tìm tòi chọn lựa mãi". Tiếng Thắm cƣời:
"Chị ấy tƣởng thế thôi chứ thực ra trƣớc khi bà thím giới thiệu với chị thì anh
Phƣơng đã gặp em mấy lần khi về quê ăn giỗ". "Quả là chồng khéo vợ khéo,
trách gì chẳng thành đôi". Họ cƣời, tiếng cƣời vui vẻ râm ran trong đêm yên
ả...”. Tất cả mọi thứ nhƣ sụp đổ trƣớc mắt. Cô bị chính những ngƣời mà mình
tin yêu hết lòng phản bội. Bƣớc chân vô định đƣa Hạnh đến với thế giới tâm
linh. Tƣởng nhƣ Hạnh có thể gục ngã trƣớc hiện thực trớ trêu nhƣng bà đồng
Thơi và thế giới tâm linh là liều tiên dƣợc đã cứu rỗi cô. Hạnh phúc của cô
giống nhƣ Trăng nơi đáy giếng – thứ hạnh phúc hƣ ảo. Hóa ra lâu nay thứ tình
yêu và sự chân thành mà cô cảm nhận không hề tồn tại. Bị phản bội, niềm tin
vào thế giới thực bị sụp đổ, Hạnh tìm đến cõi âm. Thế giới ấy đem đến cho
Hạnh sự ấm áp của niềm tin.
Bi kịch bị phản bội cũng đƣợc đề cập trong truyện Y Ban (Ai chọn dùm
tôi) và Nguyễn Thị Thu Huệ (Một trăm linh tám cây bằng lăng, Nước mắt
đàn ông…). Sự phản bội của những ngƣời đàn ông đã đẩy ngƣời phụ nữ vào
trạng thái hoang mang, cô đơn đến tột độ. Lời tự vấn của cô gái trong Ai chọn
dùm tôi nhƣ xoáy sâu vào lòng ngƣời nỗi xót xa, chua chát “Tôi đã sống thành
71
mà có nhận đƣợc quả phúc đâu”.
Nhƣ vậy dù ở địa vị nào trong xã hội, dù là cá tính ra sao thì nhân vật
nữ trong truyện ngắn ba tác giả cũng ít nhiều rơi vào bi kịch bị phản bội, bị
lừa dối.
Bi kịch ngộ nhận, ảo tưởng (Thần tượng bị sụp đổ)
Ngƣời phụ nữ yêu và sống hết mình vì tình yêu ấy, thậm chí còn hi sinh
bản thân cho ngƣời mình yêu. Và với họ, ngƣời đàn ông trở thành thần tƣợng
với bao nhiêu điều tốt đẹp. Nhƣng rồi thời gian là thứ thuốc nhiệm màu đã
phủi đi lớp bụi của hào nhoáng lung linh, đƣa hình ảnh những ngƣời đàn ông
trở về với đúng bản chất. Ngƣời phụ nữ đã ngỡ ngàng, đau đớn và tiếc nuối
trƣớc sự sụp đổ của thần tƣợng trong họ. Tâm trạng ấy có sự gần gũi với cô
gái trong bài ca dao thuở nào:
Em tƣởng giếng sâu em nối sợi dây dài
Ai ngờ giếng cạn em tiếc hoài sợi dây
Đó là tình cảnh của khá nhiều nữ nhân vật kể cả những cô gái mới bƣớc
vào tình yêu cho đến những ngƣời từng trải.
Ngƣời đọc đồng cảm với nỗi đau, sự thất vọng của Tý (Lên phố), Na
(Người bán linh hồn), Tôi (Hai bảy bước chân là lên thiên đàng)... Với tình
yêu trong sáng, mãnh liệt, họ tôn thờ ngƣời yêu và nhận về mình những toan
lo thƣờng nhật. Nhƣng rồi tình yêu của họ đã rũ bỏ tất cả để chạy theo cám dỗ
vật chất và danh vọng. Sau bốn năm đại học vất vả có Tý sẻ chia, Dũng đã
chọn Kiều Nga cho một tƣơng lai tƣơi sáng của mình. Tuấn đã bán linh hồn vì
tiền bạc và danh vọng. Là thần tƣợng của tôi (Hai bảy bước chân là lên thiên
đàng), ngƣời đàn ông quyền lực và địa vị xuất hiện hằng đêm trên chƣơng
trình thời sự cũng chỉ là con ngƣời trăng hoa, đớn hèn. Hạnh phúc vì nhận
đƣợc tình yêu của ngƣời mình tôn thờ, ngƣỡng mộ cô gái tƣởng chừng vỡ òa
trong niềm hạnh phúc. Nhƣng chỉ qua hai tƣ giờ, thần tƣợng ấy sụp đổ nát tan.
72
Cô háo hức, hồi hộp khi gọi cho anh, chờ đợi những yêu thƣơng từ anh:
“Đúng cái khoảnh khắc ấy, tim em lại đập loạn lên. Em chờ điện thoại của
anh”, “Tim em muốn nổ tung ra. Em không thể chờ đƣợc nữa. Em run rẩy
bấm số điện thoại của anh”. Song đáp lại chỉ là sự thờ ơ dửng dƣng, lạnh lùng
nhƣ những ngƣời xa lạ “Đúng là giọng nói của anh hay nói với em rồi. Nhƣng
là giọng của công việc chứ không phải là giọng của nồng nàn”. Vậy là càng
trông mong, hy vọng bao nhiêu; nỗi thất vọng càng lớn lao, ê chề bấy nhiêu.
Bi kịch ngộ nhận ảo tƣởng đƣợc thể hiện rõ nhất trong Trăng nơi đáy
giếng. Phƣơng – vị thánh sống trong Hạnh cũng chỉ là kẻ hèn nhát, tầm
thƣờng, đạo đức giả mà thôi. “Thần tƣợng của tôi, vị thánh sống của tôi ngồi
chò hỏ giặt đồ bên bể nƣớc. Những bọt trắng xà phòng bay, bay tấp tới, nhận
chìm tôi, tức tƣởi, mê man...”. Phƣơng không nho nhã, không đẹp đẽ ,lung
linh nhƣ Hạnh vẫn tƣởng. Yêu đến tận cùng, tin đến tận cùng nên nỗi đau của
sự thất vọng cũng là vô biên. Nỗi đau, sự cô đơn trƣớc sự thật phũ phàng
tƣởng chừng có thể làm Hạnh gục ngã.
Trần Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ đều quan tâm đến ngƣời
phụ nữ của gia đình với những dằn vặt, suy tƣ. Họ mang trong mình những
xúc cảm phức tạp với nhiều khát khao. Yêu hết mình và có ƣớc mơ cháy bỏng
về một tình yêu trọn vẹn, một mái nhà hạnh phúc. Tuy nhiên, trong gia đình ít
nhiều có những vết rạn, các mối quan hệ không nhƣ họ mong muốn. Ngƣời
phụ nữ chịu nhiều giằng xé và tìm điểm tựa ở thế giới bên ngoài song họ cũng
không tìm đƣợc sự bình yên.
2.2.2. Nhân vật nam trong truyện ngắn ba tác giả
Hầu hết trong các tác phẩm của ba nhà văn, nhân vật chính là ngƣời phụ
nữ. Chính vì vậy nam giữ vai trò thứ yếu. Tuy nhiên, đây lại là yếu tố có vai
trò quan trọng góp phần khắc họa hình ảnh ngƣời phụ nữ. Họ giúp nhân vật
nữ bộc lộ những khát vọng và bi kịch đồng thời cho thấy những bƣớc chuyển
73
của gia đình trong xã hội đƣơng đại.
Những trang viết về nam giới cũng thật sâu sắc. Các nhà văn đã diễn tả
một cách chân thành, tinh tế thế giới cảm xúc, những biến đổi của nhân cách
trƣớc cám dỗ của cuộc sống. Xây dựng ngƣời đàn ông dù là đớn hèn, ích kỉ
hay độ lƣợng bao dung thì ẩn đằng sau là cái nhìn cảm thông và sự bao dung
độ lƣợng, là khát vọng về những đấng mày râu “làm trai cho đáng nên trai”.
Đƣợc xây dựng tƣơng đối phong phú với nhiều độ tuổi, nhiều tính cách,
nhiều nghề nghiệp khác nhau, nhân vật nam dù xuất hiện ít hay nhiều cũng
đều đƣợc miêu tả rất sinh động. Họ xuất hiện với vai trò trụ cột của gia đình.
Không ít ngƣời trong số họ yêu hết mình, chân thành, hết lòng vì tổ ấm yêu
thƣơng. Đó là những phẩm chất tốt đẹp của không chỉ những ngƣời đàn ông
đã bƣớc vào cuộc sống gia đình mà ngay cả với những chàng thanh niên mới
biết yêu. Ngƣời đọc dành sự yêu mến cho Măng trong Biển đời người của
Trần Thùy Mai. Măng yêu và chăm sóc Bim từ những điều nhỏ nhặt nhất. Có
thể nói anh là ân nhân của Bim. Tình yêu trở thành động lực để anh vƣợt qua
bao gian khổ, là lá chắn vững vàng cho Bim. Nhƣng rồi tình yêu ấy bỗng trở
thành hoài niệm khi Bim chọn chồng giàu có. Chàng trai chung tình ấy ôm
niềm đau bị phụ bạc với mối tình dang dở. Nhƣng khi gặp lại ngƣời từng phản
bội mình, thấy Bim gầy hơn, cuộc sống chật vật cực khổ thì lòng Măng lại
nhƣ chùng xuống. Ngƣời đọc xúc động trƣớc tình yêu sâu nặng, chân thành;
một nhân cách cao thƣợng, độ lƣợng bao dung nơi Măng. Ngay cả chàng trai
trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ của Y Ban, dù có điều đáng trách song cũng
không thể phủ nhận tình yêu chân thành và dám đƣơng đầu với hậu quả của
cậu. Chỉ xuất hiện ít trong tác phẩm và có điều đáng giận song chàng trai ấy
vẫn rất đàng hoàng. Khi ngƣời yêu phải nằm viện để giải quyết hậu quả của
tình yêu gữa hai ngƣời, chàng trai dù hoang mang, sợ sệt và xấu hổ nhƣng vẫn
ở bên cạnh, hằng ngày vẫn mang cơm vào cho ngƣời yêu. Sánh của Bảy ngày
74
trong đời là bộ đội phục viên mang trong mình những chứng tích của chiến
tranh. Anh đã yêu và gắn bó với Lụa. Tuy nhiên, vì vấn đề sức khỏe, anh phải
tạm biệt cô. Nhƣng trƣớc khi đi anh còn để lại địa chỉ để cô có thể tìm anh.
Cuối cùng hạnh phúc đã mỉm cƣời với anh khi Lụa cùng đứa con đến tìm.
Với những ngƣời đàn ông đã thật sự bƣớc vào cuộc sống gia đình nhƣ
Hải (Một nửa cuộc đời – Nguyễn Thị Thu Huệ), tôi (Onkel yêu dấu – Trần
Thùy Mai), họ luôn chăm lo cho tổ ấm thân yêu của mình. Họ yêu thƣơng và
chăm sóc vợ con, thật sự là chỗ dựa vững chắc cho vợ con. Đôi khi họ rơi vào
những tình huống khó khăn phải giằng xé đấu tranh giữa con ngƣời bản năng
và con ngƣời lý trí. Sợi dây ngăn cách mỏng manh nhƣ sợi tóc nhƣng cuối
cùng con ngƣời lý trí, con ngƣời của gia đình trong họ đã chiến thắng. Vẻ đẹp
lung linh trong tâm hồn ấy rất cần thiết với mỗi con ngƣời, nhất là trong xã
hội đƣơng đại với biết bao cám dỗ. Hải là một ngƣời đàn ông cần mẫn, chăm
chỉ, chu đáo và yêu thƣơng vợ con hết lòng. Hãy xem sự tỉ mỉ, chu đáo mà
anh dành cho vợ khi chuẩn đồ cho vợ đi công tác “một túi ni lông đựng thuốc
các loại. Cuộn chỉ trắng, chỉ đen và những cái kim. Con dao và cái kéo con”.
Đây là ngƣời đàn ông đáng trân trọng với nhân cách, tình yêu và lòng nhân
hậu. Nếu Hải đƣợc ở gần vợ con để toàn tâm cho gia đình thì tôi trong Onkel
yêu dấu phải lƣu lạc nơi đất khách quê ngƣời, làm nghiên cứu sinh ở Đông
Đức. Những khát vọng rất đời thƣờng đôi khi cũng phải kìm nén và không ít
lần anh phải đứng trƣớc những cám dỗ “cảm giác chạm khẽ gờn gợn ấy
không khỏi để lại cho tôi vài giây xôn xao ngoài ý muốn. Nhƣ thế cũng đủ
làm cho tôi sợ hãi không dám đến gần Eva trong suốt buổi tối ấm áp đó”,
“chợt nhìn lên bờ, tôi thấy cô Eva mặc bikini ngồi trên xích đu, đôi chân thon
dài duỗi ra mịn màng dƣới nắng”, “Tôi bỗng rùng mình ôm chầm lấy cô bé,
nhƣng một phút thôi, tôi kịp nghĩ lại, buông ngay”… Vƣợt qua những giây
phút ấy, hình ảnh vợ con và quê hƣơng là điểm tựa đƣa tôi trở về với thực tại,
75
giúp tôi làm chủ đƣợc bản thân. Có ai đó đã nói rằng chiến thắng bản thân là
thứ chiến thắng vinh quang nhất. Có lẽ điều ấy đúng trong trƣờng hợp này.
Nó góp phần làm hình ảnh ngƣời đàn ông trong truyện ngắn ba tác giả trở
nên đẹp đẽ, lung linh. Đó cũng là niềm mong ƣớc, là khát vọng của nửa thế
giới còn lại.
Bên cạnh đó, chúng ta còn bắt gặp những ngƣời đàn ông sống theo
những cảm xúc nhất thời, yêu hết mình nhƣng khi hết yêu lại đi tìm tình yêu
mới nhƣ ngƣời đàn ông trong Cát đợi, Cầu thang của Nguyễn Thị Thu Huệ.
Và đặc biệt là Hiếu trong Gió thiên đường của Trần Thùy Mai. Cậu quan
niệm “ngƣời ta có thể cố gắng học, cố gắng làm, không ai có thể cố gắng
yêu”. Bởi thế, khi yêu một cô gái nhƣng bị cấm Hiếu có thể trèo tƣờng ba lần
để vào nhà gặp ngƣời yêu song khi gặp Mi thì “thƣơng Mi lắm, có thể đội Mi
lên đầu đi khắp phố cũng chẳng sao”. Hoặc ngƣời đàn ông của Thập tự hoa
(Trần Thùy Mai) đã đem tình yêu cùng cả thế giới đặt vào trái tim ngƣời phụ
nữ nhƣng ra đi lặng lẽ để laị cho ngƣời mình yêu một khoảng trống mênh
mang bởi “trong tình yêu, đàn ông rất khác đàn bà. Đàn ông khởi đầu một
cách điên cuồng rồi dịu đi trong hèn nhát, còn đàn bà càng lúc càng giam
mình trong kỷ niệm, ngu dại và xót xa”.
Đôi khi vì những tự ái vẩn vơ hay vì những rào cản mà hạnh phúc tuột
khỏi tay để rồi họ phải ân hận day dứt. Đó là ngƣời đàn ông trong Suối bạc
hay Thương nhớ hoàng lan (Trần Thùy Mai).
Hoặc họ mải mê quá với công việc, không để ý nhiều đến gia đình. Giữa
họ với ngƣời vợ có những khoảng cách. Rồi khoảng cách ấy ngày càng rộng
ra đã đẩy ngƣời phụ nữ của họ phạm phải những sai lầm. Ngƣời chồng trong
Tàu ngầm xuyên đại dương của Trần Thùy Mai bị cuốn vào những cuộc tiếp
khách thâu đêm để rồi trở về khi mọi ngƣời đã say giấc. Anh và vợ gần nhƣ là
76
hai thế giới hoàn toàn khác nhau.
Xuất hiện trong truyện ngắn ba tác giả là những ngƣời đàn ông tham
lam, ti tiện, hám danh, ham vật chất trong Trăng nơi đáy giếng, Lên phố,
Người bán linh hồn, Ai chọn dùm tôi… Khi có cơ hội đổi đời, họ sẵn sàng rũ
bỏ những ân tình, hy sinh của ngƣời mình yêu. Sự phũ phàng bội bạc của
những ngƣời đàn ông ấy đã khiến cho nữ nhân vật rơi vào trạng thái bế tắc,
đau đớn, xót xa.
Đó là những ngƣời đàn ông tỉnh táo, tính toán, nhƣng lại vô trách
nhiệm. Họ đã có gia đình yên ấm với ngƣời vợ đảm (vốn đến với nhau
bằng tình yêu ) và những đứa con ngoan. Tuy nhiên, để tăng gia vị của
cuộc sống, họ lại phiêu lƣu trong những cuộc tình bên ngoài. Đó là Thắng
của Một nửa cuộc đời tỉnh táo, khôn ngoan đến lạnh lùng trong truyện
Nguyễn Thị Thu Huệ. Thắng xác định với ngƣời tình“Anh cũng yêu em,
nhƣng anh không thể phá vỡ cuộc sống gia đình đƣợc” và coi chuyện giữa họ
“Chẳng qua nó là gia vị trong một bữa ăn. Tí cay, tí chua, tí ngọt cho dễ nuốt
chứ không phải cái ăn hằng ngày”. Thậm chí, trong số họ có những ngƣời bỏ
bê gia đình vợ con để đi theo những cảm xúc phiêu lƣu bên ngoài.
Nhiều ngƣời trong số họ đã bỏ bê vai trò trụ cột gia đình, điểm tựa vững
chắc của gia đình. Họ đánh đập, chửi mắng vợ con thậm tệ và hình ảnh ngƣời
cha bỗng trở nên méo mó trong mắt con trẻ. Đứa con trong Một trăm linh tám
cây bằng lăng vốn là một chàng trai ngoan hiền, hiếu thảo nhƣng đã bị chính
những lời nói và việc làm của ngƣời cha đẩy đến phải đấm bố và cầm dao
đuổi bố ra khỏi nhà. Ái Duy ở Nàng công chúa lạc loài vốn rất ngƣỡng mộ,
tôn thờ bố nhƣng sự lăng nhăng trong các mối quan hệ của ông đã khiến cô
sụy đổ “rùng mình chới với nhƣ vừa thụt chân xuống vực sâu”. Ngƣời cha từ
chỗ là tất cả niềm tin, điểm tựa bỗng chốc hóa bọt bèo.
Có lẽ điển hình cho ngƣời đàn ông bội bạc, hám danh, đạo đức giả
77
phải kể đến thầy giáo Phƣơng trong Trăng nơi đáy giếng. Không chỉ Hạnh
bị lừa dối mà ngay cả ngƣời đọc cũng bị lầm tƣởng về con ngƣời này. Ai
cũng nghĩ rằng Phƣơng là ngƣời yêu thƣơng Hạnh hết lòng, phải khổ sở
lắm khi bị vợ bắt phải lấy ngƣời đàn bà khác để kiếm mụn con. Con ngƣời
ấy còn là hiệu phó của một trƣờng trung học với chuyên môn vững vàng.
Quả là một con ngƣời đáng nể, thật xứng đáng với những hy sinh của
ngƣời vợ bé nhỏ. Tuy nhiên, màn kịch chỉ đƣợc hạ xuống và bản chất của
Phƣơng đuợc bộc lộ rõ lúc Hạnh nghe đƣợc cuộc trò chuyện giữa Phƣơng,
Thắm và bà Thu chủ tịch công đoàn. Hóa ra Phƣơng là kẻ ti tiện, đạo đức
giả, hám danh, tham lam. Phƣơng thản nhiên sống trên nỗi đau của vợ,
không chút bận tâm về vợ mà chỉ ung dung hƣởng thụ. Hạnh chăm chút cẩn
thận tỉ mỉ, nhận về mình những hi sinh còn Phƣơng lại cho phép mình lừa
dối cô để đến với Thắm. Phƣơng ung dung cuộc sống hạnh phúc bên vợ
con mới để mặc Hạnh với nỗi cô đơn ngập tràn.
Nhƣ vậy, nhiều nhân vật nam là thần tƣợng bị sụp đổ. Họ là trụ cột của
gia đình, lẽ ra có thể đem đến cho ngƣời phụ nữ và những đứa con hạnh phúc
nhƣng ngƣợc lại, rất nhiều ngƣời trong số họ khiến ngƣời trong gia đình phải
đau khổ, dằn vặt…
Rõ ràng, viết về nhân vật nam, ba nhà văn đã đề cập đến khá nhiều kiểu
ngƣời khác nhau. Ở họ có những cao thƣợng lẫn thấp hèn. Cho dù viết về cái
cao thƣợng hay thấp hèn cũng đều là cách để các nhà văn gửi niềm mong mỏi
của mình về những ngƣời đàn ông yêu và hết lòng vì gia đình.
2.2.3. Nhân vật trẻ em trong truyện ngắn ba tác giả
Trẻ em xuất hiện thấp thoáng trong các tác phẩm của ba nhà văn. Rất ít
truyện ngắn chỉ tập trung bàn về vấn đề trẻ em. Tuy nhiên, dù ít hay nhiều các
nhà văn đều dành cho trẻ em tình yêu thƣơng, sự cảm thông sâu sắc và lời
78
cảnh tỉnh đối với xã hội.
Có thể nhận thấy điểm nổi bật trong truyện ngắn ba nhà văn là những
đứa trẻ đáng thƣơng, nhỏ bé, cần đƣợc chở che, cần tình yêu thƣơng và mái
ấm gia đình. Nhân vật thị trong I am đàn bà (Y Ban) với bản tính ngƣời mẹ
đã không cầm đƣợc xúc động khi nhìn thấy đứa trẻ mới đƣợc sinh “còn
nguyên cả dây rốn nối với bánh rau bị bỏ vào một cái dành lót rơm treo lên
nhành cây trong rừng” và đem về nuôi khi thấy nó còn sống. Mặc dù nhà
đông con và nghèo nhƣng gia đình thị đã không hắt hủi đối với đứa bé mà
nuôi và coi nó nhƣ con đẻ… Ngay cả khi đứa trẻ là kết quả của mối tình
vụng trộm giữa chồng với ngƣời phụ nữ khác thì những ngƣời phụ nữ với
thiên chức làm mẹ vẫn không nỡ từ bỏ việc nuôi nấng mặc dù sự xuất hiện
của đứa trẻ nhƣ vết dao làm sâu sắc hơn nỗi đau của ngƣời phụ nữ (Em
Dung - Trần Thùy Mai).
Đôi khi vì hoàn cảnh gia đình nghèo khó, những đứa trẻ phải hy sinh để
mƣu cầu kiếm sống, lo lắng cho gia đình. Chị tôi của Nguyễn Thị Thu Huệ là
một thí dụ. Sinh ra trong một gia đình nghèo, bố mẹ không hạnh phúc, ngƣời
chị phải vào Sài Gòn làm để có tiền nuôi em học và trang trải nhà cửa. Vậy là
gánh nặng kinh tế lẽ ra do cha mẹ đảm đƣơng nay bỗng chốc đổ hết lên tấm
vai gầy bé nhỏ của ngƣời con gái. Không mấy khi đƣợc gặp ngƣời nhà, cô
phải lang thang nơi bến tàu nhếch nhác…
Nhu cầu đƣợc sống trong mái ấm gia đình với tình yêu thƣơng từ bố mẹ
và những ngƣời thân là nhu cầu hoàn toàn chính đáng nhƣng vì những lý do
khác nhau, trẻ em trong truyện ngắn ba nhà văn phải chịu những thiệt thòi về
cả vật chất lẫn tinh thần.
Bố mẹ bận rộn mải mê với công việc khiến các em không có ngƣời
hƣớng dẫn, tự mình tìm bƣớc cho cuộc đời của mình. Và đã có những đứa trẻ
lạc đƣờng. Là một đứa trẻ nhạy cảm, giàu tình yêu và khát khao đƣợc yêu
79
thƣơng chăm sóc, đứa con trong Hậu thiên đường (Nguyễn Thị Thu Huệ) đã
không đƣợc biết đến tình yêu và sự hiện diện của ngƣời bố từ khi em xuất
hiện. Còn ngƣời mẹ, vì sự thất bại trong tình yêu, đã đắm chìm trong những
cuộc vui của riêng mình. Em đối mặt với những cô đơn, tự dò dẫm con đƣờng
cho cuộc đời mình để rồi lại dẫm chính vết xe đổ của ngƣời mẹ cách đó mƣời
sáu năm. Nơi cô tƣởng là thiên đƣờng, ngƣời tƣởng là tình yêu đích thực cứu
cô thoát khỏi những cô đơn lại là một kẻ ti tiện, bủn xỉn… Nếu ngƣời mẹ tỉnh
táo hơn sau lần đổ vỡ của mình, nghĩ cho đứa con và dành cho con sự quan
tâm có lẽ cô bé đã không gặp phải ngƣời đàn ông kia với một tƣơng lai hậu
thiên đƣờng đầy những trắc trở. Và những lỗi lầm của con trẻ trở thành niềm
ám ảnh, day dứt đến hết cuộc đời chúng. Những đứa trẻ vừa đáng giận vừa
đáng thƣơng. Chàng trai và cô gái trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ (Y Ban) đã đi
quá giới hạn trong tình yêu. Để bảo đảm tƣơng lai cho cả hai, bà mẹ đã yêu
cầu con gái đến bệnh viện giải quyết hậu quả. Nỗi đau về tinh thần và thể xác
khiến cô gái day dứt ám ảnh không nguôi. Hằng đêm trở về với căn phòng, cô
lại đối mặt với nỗi cô đơn, dằn vặt “Ngày ngày con vẫn cứ nhập cuộc: con đi
xem, đi vũ hội, đi du lịch... nhƣng sau tất cả những cuộc vui, con càng cô đơn
hơn. Con mong muốn tình yêu. Con đã có đầy đủ một tình yêu đầu tiên ấy rồi.
Hoặc là bằng, hoặc là hơn. Mẹ và lý trí không cho con buông thả. Giá nhƣ
ngày ấy mặc dù tội lỗi, mẹ cứ cho chúng con lấy nhau thì con đã trở thành
ngƣời phụ nữ bình thƣờng chứ không phải mang cảnh góa bụa trong cô thiếu
nữ kén chồng thế này”.
Đa số trẻ em thƣờng là những nạn nhân của sự đổ vỡ, rạn nứt từ gia
đình. Các em bé bỏng, đáng thƣơng, côi cút không nơi nƣơng tựa. Gia đình
không còn là mái ấm. Đó là những đứa trẻ sống trong cảnh thiếu thốn nhƣ Rô
đa (Khói trên sông Hương) hoặc Bi (Suối bạc) của Trần Thùy Mai. Ngƣời đọc
không khỏi xúc động trƣớc sự trong sáng, hồn nhiên của Bi (Suối bạc). Có gia
80
đình, đƣợc sống trong mái ấm và tình cảm yêu thƣơng của bố mẹ là điều rất
bình thƣờng song cô bé lại quá quen với cuộc sống thiếu vắng tình cảm của
cha khi mẹ mất. "Mợ Minh và em Huy có khỏe không ba?", đằng sau câu hỏi
ấy là một sự hồn nhiên và cam chịu đến đáng thƣơng.
Không phải gánh chịu nỗi đau chia cắt nhƣng khi bố mẹ sống với hai
khoảng trời riêng, những đứa con cũng không thể vô tƣ hồn nhiên nhƣ vốn dĩ
chúng cần đƣợc hƣởng. Tôi và Dung (Em Dung – Trần Thùy Mai) không dám
đùa nghịch thoải mái mà phải dò xét và nhiều khi là nín thở trƣớc những cuộc
cãi vã, những cơn giận và những nỗi niềm của bố mẹ… Chứng kiến sự rạn
nứt của gia đình, trái tim non nớt trẻ thơ cũng bị khuyết thiếu hoặc sai lệch.
Trong gia đình bố mẹ thƣờng giao tiếp với nhau bằng những từ ngữ chát
chúa, lạnh lùng và đôi khi cay nghiệt khiến con trẻ không nhận thức đầy đủ,
trọn vẹn, đúng nghĩa về tình yêu. Sẵn đƣợc nuông chiều về vật chất, chúng
học đòi bắt chƣớc (Nước mắt đàn ông – Nguyễn Thị Thu Huệ). Đôi khi vì bất
bình với thực tại, chán ghét thực tại, các em đi tìm cho mình một hình mẫu
đối lập. Nhƣng khát vọng chính đáng ấy lại không đƣợc cha mẹ dìu dắt, các
em tự lần tìm đƣờng đi để rồi lại rơi vào những sai lầm (Hậu thiên đường –
Nguyễn Thị Thu Huệ).
Không nhận đƣợc sự quan tâm từ phía gia đình, những đứa trẻ trở thành
nạn nhân của nhiều tệ nạn xã hội.
Có khi là những “đệ tử” của các trò game trực tuyến nhƣ Dung, Phƣớc
Tuệ (Hoa phù dung dưới núi – Trần Thùy Mai). Dung sống với bố và mẹ kế
nhƣng mẹ kế thì không quan tâm, cha em hầu hết thời gian vắng nhà. Ông bù
lại cho em về vật chất, cƣng chiều. Nhƣng với em, cuộc sống đâu chỉ cần có
thế. Em cần thế giới tinh thần, cần đƣợc bảo bọc chở che. Vậy nên, em suốt
ngày đóng cửa ngồi trong phòng, vào vai Dung muội phiêu lƣu cùng Lăng
Hoa Tử trong những trận chiến. Có thể nói đời sống vật chất đủ đầy nhƣng
81
thế giới tinh thần lại nghèo nàn và kiệt quệ. Việc Dung chìm đắm trong thế
giới game ảo không có gì ngạc nhiên bởi nếu không có thế giới ấy em sẽ
không biết tìm điểm tựa ở đâu. Dƣờng nhƣ những đứa trẻ ấy đang tồn tại chứ
không phải sống “Nàng gầy mảnh, ẻo lả nhƣ hoa phù dung, da trắng xanh nhƣ
chƣa hề gặp nắng trời. Trong bộ quần áo rất mốt nhƣng nhàu nát, nàng bƣớc
đi ngập ngừng nhƣ đang lạc vào một thế giới xa lạ, mắt ngơ ngác nhìn quanh
với vẻ ngu ngơ xao xuyến đến não lòng”. Sự gặp gỡ và gắn bó giữa Dung và
Phƣớc Tuệ ở cuối câu chuyện là cái kết có hậu dành cho những mảnh đời bất
hạnh, làm sáng lên vẻ đẹp của tình ngƣời.
Có khi các em trở thành món hàng của những gã trăng hoa nhƣ Ái Duy
(Nàng công chúa lạc loài – Trần Thùy Mai). Mẹ mất sớm, bố thì “luôn luôn
bận rộn với công việc và thƣờng xuyên vắng nhà”, Ái Duy sống trong “căn
nhà rộng, u nhã, lạnh lẽo” cùng “một bà cô nghễnh ngãng” và sau đó là sự
xuất hiện của ngƣời mẹ kế tốt bụng. Điều níu giữ em với cuộc đời, là điểm
tựa cho em chính là tình yêu và sự tôn thờ ngƣời cha “Cô bé yêu bố một cách
kì lạ và đã quen nghĩ về bố nhƣ một phẩm chất siêu việt. Ái thèm biểu lộ tình
thƣơng hết sức, và vì bố luôn vắng mặt, cái tình cảm trẻ con sôi trào chan
chứa ấy đƣợc san sẻ qua tôi. Ái Duy đã vẽ bao nhiêu bức tranh”. Tuy nhiên,
hình tƣợng ngƣời cha trong em sụp đổ khi em biết đƣợc thật sự về cha “bất
giác em nhận ra giọng nói bình thản kia, đã từ lâu rồi chính mợ đã hiểu hơn ai
hết, ba em là ngƣời thế nào… Em rùng mình, chới với nhƣ vừa thụt chân
xuống vực sâu”, “ em gập ngƣời lại, lảo đảo muốn nôn mà không nôn đƣợc”.
Nơi nƣơng náu, điểm tựa bình yên duy nhất trong cuộc đời em đã sụy đổ. Mất
phƣơng hƣớng, em bƣớc ra khỏi ngôi nhà, “những con đƣờng nhảy múa trƣớc
mắt”. Và em đã vƣớng vào cạm bẫy khi lên xe của một ngƣời đàn ông xa lạ.
Trăn trở của ngƣời đàn ông đã từng là thầy dạy kèm của cô bé cũng chính là
82
nỗi lo của ngƣời đọc về tƣơng lai của Ái Duy: “Thế giới của tuổi thơ tan biến:
một thế giới khác nham nhở, ti tiện hiện ra. Hôm nay cô bé ngạt thở, vùng
vẫy. Ngày mai cô sẽ thở quen không khí ấy, thậm chí không thể thiếu nó”.
Có khi các em còn bị lôi kéo vào cái chết trắng. Mắt nhân sư của Trần
Thùy Mai đƣa ngƣời đọc đến ngôi nhà ba tầng “có những đƣờng nét cổ xƣa,
hiện ra trong ánh vàng ủ ê của chiếc trụ đèn trƣớc sân” hoang vắng lặng lẽ
đứng bên dốc vắng là nơi tụ tập của những đứa trẻ thiếu vắng sự quan tâm của
gia đình. Ngọc là cô gái xinh xắn, đáng yêu, mẹ cô lấy chồng nƣớc ngoài với
lời hứa “sẽ về, đem em qua bên đó. Em sẽ đƣợc đi học ở trƣờng Đại học
Dresden”. Ngôi nhà là nơi tụ tập của “một lũ vong vị đang trở về từ các quán
nhậu, chúng rôm rả hào hứng với nhau một lúc rồi chia nhau ngả lƣng trên
những tấm nệm cũ”. Đó là nơi “không có những lời đay nghiến, những bài rao
giảng, không có sự chịu đựng lẫn nhau. Chỉ có những bài học về thú vui và tự
do tuyệt đối”. Đó cũng là nơi tôi và “tất cả những thằng cùng cảnh ngộ đã bị
nàng thu hút về ngôi nhà đó - ngôi nhà mà Rôn ngự trị, nơi hắn dùng nàng
nhƣ một con mồi để bắt giữ những gã trai mới lớn về cho hắn ôm ấp và mớm
cho chất bột trắng”, thậm chí “có những ngày tôi chỉ ăn một bữa mà không hề
thấy đói, không hề thấy mệt, chỉ nhìn thấy Ngọc, ngửi mùi khói thuốc quanh
nàng là tim tôi nhảy múa nhƣ ngày hội”. Rõ ràng, nếu thiếu vắng sự quan tâm
của gia đình, những cạm bẫy luôn rình rập ở mọi nơi và đe dọa tƣơng lai của
những đứa trẻ. Riêng nhân vật tôi có may mắn “một hôm ba tôi bỗng có một
buổi tối rảnh rang, phòng mạch của ông hôm đó không hiểu vì sao vắng
khách”, “hôm đó tình cờ cũng là một buổi tối hiếm hoi tôi có mặt ở nhà. Ba
tôi phát hiện ra hai bàn tay tôi một bên ƣớt đẫm mồ hôi còn một bên khô ráo.
"Con có dùng ma túy không?". Nhờ lần vô tình ấy ngƣời cha đã cứu đứa con
trai của mình ra khỏi bàn tay ghớm ghiếc của cái chết trắng. Nhƣng còn đó
biết bao đứa trẻ thiếu vắng tình yêu và sự quan tâm đang vật vã trƣớc nỗi đau
83
thèm thuốc „trong đời có những lúc toàn thân nhƣ bị đè dƣới nghìn cân đá.
Lúc đó mình có thể làm bất cứ điều gì. Biết hít là chết nhƣng cũng còn lâu
mới chết, còn hơn là đứt phựt dây thần kinh chết ngay”. Thậm chí các em
phải đánh đổi bằng chính mạng sống của mình (nhƣ Ngọc).
Rõ ràng, cuộc sống bên ngoài gia đình có bao nhiêu cạm bẫy mà bản
thân các em quá nhỏ bé, đơn côi để có thể chống lại những điều ấy. Viết về
trẻ em, dù đáng giận hay đáng thƣơng thì các nhà văn đều thể hiện tình yêu,
niềm cảm thông sâu sắc. Họ còn đƣa ra những lời cảnh tỉnh dành cho ngƣời
làm cha mẹ. Hãy dành thời gian và tình yêu cho con, hãy suy nghĩ nhiều hơn
cho con trẻ bởi đôi khi chỉ là những hành động nhỏ nhƣng lại là bƣớc ngoặt
lớn trong cuộc đời các em. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo nhờ đó trở
84
thành điểm nổi bật trong truyện ngắn ba tác giả.
Chƣơng 3: MỘT SỐ PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN
3.1. Nghệ thuật miêu tả tâm lý
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Tâm lý là toàn bộ nói chung sự phản ánh
của hiện thực khách quan vào ý thức con ngƣời, bao gồm nhận thức ý chí
tình cảm… biểu hiện trong hoạt động và cử chỉ của mỗi ngƣời” [42,881].
Nhƣ vậy khi nhắc đến tâm lý nhân vật là nhắc đến những biểu hiện của con
ngƣời bên trong nhân vật. Đó là những trạng thái cảm xúc suy nghĩ, là tâm
trạng, là những phản ứng của nhân vật trong các tình huống của cuộc sống.
Có thể thấy trong các tác phẩm văn học hiện đại, nghệ thuật phân tích tâm
lý khắc họa tính cách nhân vật là yếu tố vô cùng quan trọng giúp nhân vật
trở nên có hồn và mang dấu ấn riêng, nhất là với những nhân vật cá tính và
có đời sống nội tâm phong phú. Nhờ đó, nhân vật hiện lên sinh động với
diễn biến tâm lý phù hợp. Cái tài của nhà văn chính là thể hiện đƣợc quá
trình diễn biến tâm lý phức tạp của nhân vật theo logic cuộc sống, khiến
độc giả nhƣ đang gặp một con ngƣời ngoài đời chứ không phải là sản phẩm
của sự tƣởng tƣợng.
Viết về những khát vọng của ngƣời phụ nữ, các nhà văn chú ý đi sâu
khám phá diễn biến tâm lý ở họ. Đó là quá trình đấu tranh giằng xé giữa
con ngƣời của trách nhiệm, bổn phận và những khát vọng cá nhân. Đôi khi
vẻ bề ngoài lặng thầm, cam chịu nhƣng bên trong lại là bão nổi. Đó là tình
cảnh của Quyên (Cánh cửa thứ chín), của tôi (Tàu ngầm xuyên đại dương,
Sau chớp là giông bão), của Lan (Một nửa cuộc đời)… Họ cô đơn khi sống
trong gia đình mà vợ chồng là hai thế giới riêng lẻ đứng cạnh nhau. Bởi vậy,
cuộc sống của họ nhàm chán, tẻ nhạt và tù túng. Để chống lại điều ấy, họ đã
hƣớng tới ngƣời đàn ông bên ngoài gia đình. Đã có những giây phút ngọt
85
ngào hạnh phúc, thậm chí “muốn cùng anh đi vớt mặt trời trên biển tây. Tôi
sẽ chịu bỏng, chịu cháy, để đƣợc đau đớn, đƣợc yêu thƣơng. Tôi muốn chịu
đựng mọi thứ trên đời, ngoại trừ sự tẻ lạnh” (Cánh cửa thứ chín) nhƣng rồi họ
vẫn không thể phá vỡ mọi thứ. Bƣớc ra khỏi giấc mơ, ngƣời phụ nữ lại lặng lẽ
trở về với cuộc sống thực tại.
Các nhà văn rất tài tình khi miêu tả những biến đổi trong tính cách,
một ngƣời phụ nữ vừa kiêu kì vừa cô đơn đáng thƣơng (Người đàn bà có ma
lực), một cô gái vừa ngang tàng, phá phách vừa dịu dàng, nhu mì (Xin hãy tin
em)… Và đặc biệt, là một bà mẹ chồng vừa cay nghiệt vừa bao dung
(Chuyện cũ ở quê nhà). Phải sống trong cảnh góa bụa nuôi con từ khi trẻ (hai
mƣơi tuổi) lại phải chứng kiến nỗi đau mất con nên ngƣời phụ nữ trong
Chuyện cũ ở quê nhà vô cùng khe khắt với con dâu. Bà không có dù chỉ nửa
lời khen đối với cô con dâu hiếu thảo đảm đang. Ngƣợc lại luôn là sự xét nét,
chê bai: “Việc chi thì hắn nhớ, việc của con mệ già ni thì hắn quên”, “Hôm
nào mẹ mua thức ăn không vừa ý, bà tôi lại vừa móm mém nhai vừa nỉ non:
Du hời, du hỡi là du! Mi cho tau ăn con cá lù đù, có sạn đằng đuôi! - giọng bà
gay gay, khô khô”. Đặc biệt, khi cô con dâu có mang với ngƣời khác, nỗi đau
đớn nhƣ dâng lên tột độ “Khuôn mặt nhăn nheo co rúm lại : một nỗi đau lặng
lẽ, tê tái. Tƣởng chừng cha tôi vừa chết lần thứ hai : quả thực, suốt đờ i tôi chỉ thấy khuôn mặt bà co thắt nhƣ thế là vào cái ngày cha tôi mất”. Nhƣng khi
con cháu sắp rơi vào cảnh tan đàn xé nghé, tính mạng con dâu nguy kịch,
ngƣời phụ nữ ấy bất chấp những phép tắc của dòng họ, đứng lên bảo vệ cháu
con, cứu mạng sống của cô con dâu. Rõ ràng, ẩn đằng sau vẻ cay nghiệt, khe
khắt là một trái tim phụ nữ độ lƣợng bao dung.
Trong quá trình miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật, các nhà văn đã sử
dụng độc thoại nội tâm nhƣ một phƣơng tiện hữu hiệu giúp nhân vật bộc lộ
86
tính cách chân thực, sâu sắc nhất. Đó là những khoảnh khắc nhân vật tự đối
diện với lòng mình, trăn trở băn khoăn về tình yêu, về gia đình, về hạnh
phúc… Từ đó, nhân vật hiện lên sinh động và có sức hấp dẫn kì lạ.
Các nhân vật trong truyện ngắn ba nhà văn hiện lên với thế giới cảm xúc
phức tạp nhƣng ở truyện của Nguyễn Thị Thu Huệ có nhiều nhân vật tự nhận
thức, nhân vật suy tƣ. Tôi trong Biển ấm “Sau hai mƣơi năm, tôi mới nhận ra
rằng chuyện xảy ra giữa anh và tôi là hợp quy luật”. Tôi trong Cát đợi “Còn
tôi chợt nhận ra anh là tất cả những gì lâu nay tôi thờ cúng, khấn vái”. Sự tan
vỡ của hạnh phúc trong giây lát đã khiến Hoài của Xin hãy tin em nhận ra
“Cái gì qua đi thì không lấy lại đƣợc”. Bên cạnh đó, còn có những kiểu nhân
vật nhận thức về sai lầm (Một nửa cuộc đời, Người xưa, Hình bóng cuộc đời),
nhận thức nỗi cô đơn (Hậu thiên đường, Tình nhân). Sự suy tƣ và day dứt của
nhân vật không chỉ là một lúc mà là cả quá trình, có khi đến hết cuộc đời
(Hậu thiên đường).
Thế giới tâm lý phức tạp của con ngƣời không chỉ đƣợc nhìn nhận qua
nhận thức của con ngƣời về cuộc đời, về bản thân mà còn cả những cảm xúc,
những linh cảm. Truyện Y Ban, tràn ngập những câu văn tả cảm giác, linh
cảm của nhân vật. “Tôi linh cảm điều gì đó sẽ bùng nổ” (Con quỷ nhỏ trong
tôi); Anh hôn nàng dịu dàng và nàng có cảm giác sắp ngã”, “Mỗi lần đến với
ngƣời đàn ông ấy về, nàng cảm thấy mình đầy tội lỗi” (Thượng đế bảo rằng
mỗi người đàn ông thuộc về một người đàn bà); “Nàng chỉ có mong manh
một cảm giác là nàng đang bay lên nhè nhẹ”, “Ngƣời đàn bà cảm thấy một nỗi
buồn không sao tả xiết” (Đôi găng tay da màu nâu), ngƣời phụ nữ ngất ngây
trong những cảm giác về “sự dịu ngọt” (Sau chớp là giông bão).
Bằng ngòi bút nhạy cảm, tinh tế của mình, Trần Thùy Mai, Y Ban và
Nguyễn Thị Thu Huệ đã đi sâu phản ánh những trạng thái cảm xúc để qua đó
thấy đƣợc bản chất của con ngƣời, của những khát vọng trong con ngƣời. Con
87
ngƣời không giản đơn nhƣ những gì thấy ở vẻ bề ngoài mà trong thế giới tâm
tƣ có khi là những con sóng ngầm, những cơn bão tố… Viết về những điều
ấy, các nhà văn thể hiện niềm cảm thông sâu sắc cũng nhƣ mở ra những
hƣớng chiếm lĩnh hiện thực của riêng mình.
3.2. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học. Nhà văn M. Gorki
đã từng khẳng định: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Nó đóng vai
trò quan trọng giúp nhà văn thể hiện tƣ tƣởng, cảm xúc của mình. Theo Từ
điển thuật ngữ văn học: “Trong tác phẩm, ngôn ngữ văn học là một trong
những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của
nhà văn. Mỗi nhà văn lớn bao giờ cũng là tấm gƣơng sáng về mặt hiểu biết
sâu sắc về ngôn ngữ” [24,186]. Nhƣ vậy, ngôn ngữ trần thuật chính là sự sáng
tạo, mang dấu ấn cá nhân của nhà văn. Nó không chỉ dừng lại ở một mà có
thể chứa đựng nhiều lớp nghĩa khác nhau, nhiều cách giải thích khác nhau.
Điều này tạo nên vẻ đẹp đa thanh cho ngôn ngữ. Có thể khẳng định ngôn ngữ
văn xuôi là sự tác động qua lại phức hợp của tiếng nói tác giả, ngƣời kể
chuyện và nhân vật.
Các nhà văn nói chung và Trần Thùy Mai, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ
nói riêng không ngừng thể hiện sự sáng tạo trong việc xây dựng nhân vật, cốt
truyện và đặc biệt trong lời văn. Có thể nhận thấy những đặc điểm nổi bật về
ngôn ngữ của họ nhƣ sau:
3.2.1. Ngôn ngữ đời sống
Tƣ duy nghệ thuật trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 có nhiều đổi
mới. Một trong số đó là ngôn ngữ gần gũi với cuộc sống. Để đƣa tác phẩm
đến gần với bạn đọc, các nhà văn đã sử dụng tiếng nói của đời sống hằng
ngày. Trong lời ngƣời dẫn truyện và lời nói của nhân vật, các nhà văn giúp
ngƣời đọc tiếp cận gần nhất với cuộc sống qua nội dung mang tính hiện thực,
88
với sự dung nạp của nhiều khẩu ngữ.
Đó là sự xuất hiện của những lời nói bỗ bã, suồng sã của lời ăn tiếng nói
hằng ngày. Thứ ngôn ngữ này dƣờng nhƣ thô nhám, mộc mạc chứ không phải
là sự trau chuốt mƣợt mà. Bởi vậy, nó mang đậm hơi thở của đời sống.
Lối nói suồng sã xuất hiện nhiều trong truyện ngắn Y Ban và Nguyễn
Thị Thu Huệ: “Mày lừa bà hơi bị ngoạn mục đấy con nhỉ” (Hành trình của tờ
tiền giả); “Đấy cô đã nghe rõ câu chuyện chƣa hử? “ (Ai chọn dùm tôi); “Mặt
mũi những thằng đàn ông suốt đời bị mất trộm” (Tình yêu ơi ở đâu); “Bố cho
con gỡ một tý, chiều nay thằng Quảng nó xơi của con "hai băng" rồi”, “Chó
má, nó lôi thợ nó đến, thợ của cậu chết đói à” (Nước mắt đàn ông); “Con ranh
con khốn nạn này, mày đi đâu mà để tao tìm đứt cả hơi. Sao mày không bị
bom nó vùi đi cho rồi”, “Tao chịu rồi con ngu dốt ạ, để mai cô giáo mày dạy
cho mày”, "Về lấy mũ tao cho đi chơi" (Con mang cuộc đời của mẹ); “Cha
tiên nhân con nhà thằng Lân nhá” (Quê nội); “Mày nói gì? - Du khách nam
nóng tính lại hét lên - Mày định giở trò ăn chặn lƣu manh tống tiền hả?” (Đi
câu mực ở biển Sầm Sơn); “Lên đây sống thế chó nào đƣợc. Trông cậu nhếch
nhác bán quán nƣớc thế này, có mà nhìn đã uất”, “Hôm nào tôi quên mất mà
xìa bát đến lần thứ ba liền bị bà ấy lấy đũa cả gõ vào đầu và mắng: hốc gì mà
hốc lắm thế”, “Thì bác bảo đã ghi đề bố thằng nào không đánh đề, có, chỉ là
thằng ra dại. Bác nghe tôi đi, hôm nay đánh bốn con: 03, 30, 53, 35. Đánh
đậm con 53. Nào bác chết con gì nữa không” (Tôi và gã); “Cút ngay trƣớc khi
tao bóp vụn mày thành cám” (Cái điềm con thỏ trắng); “Vàng cộc đuôi lại
bên Mực xí xớn” (Trong khu vườn nghệ sĩ) …
Ở truyện Trần Thùy Mai lời nói bỗ bã, suồng sã đƣợc sử dụng nhƣng
xuất hiện không nhiều, không chát chúa: “Chết chửa, gì mà nghiêm trọng thế
mình” (Tháng tư trở lại); “Ừ, nhớ để phần anh nghe”, “Sáng hôm qua mình
tập cái môn dƣỡng sinh quỷ quái gì mà cứ rền rĩ y nhƣ có ai chết không
89
bằng” (Cánh cửa thứ chín); “Khổ thân chị, tôi tìm mọi cách trấn an dƣ luận để
bảo vệ chị, nhƣng mà ngƣời ta không thể thông cảm nhƣ tôi. Nói chị đừng
buồn, hoàn cảnh chị rất gay” (Trăng nơi đáy giếng); “Con Lan sữa tƣơi trông
xinh vậy chứ nó mắc bệnh, bệnh sợ đàn ông. Đếch thằng nào đến gần đƣợc,
nó tránh nhƣ tránh tà” (Thương nhớ hoàng lan); “Mệ ơi! mệ! Con không có
chi ăn hết nì. Đói bụng bắt chết nì!” (Chuyện cũ ở quê nhà).
Cũng có khi thứ ngôn ngữ này đƣợc diễn tả theo một chiều hƣớng khác
bằng lối nói dân gian - những câu nói từ thành ngữ: “Nó ăn ốc, mình đổ vỏ. Ở
đời chuyện ấy thƣờng lắm”, “Xì, cát với chả đất, đừng lấy vải thƣa che mắt
thánh. Giấu ai chứ giấu thế chó nào đƣợc con già. Tao thì đẻ ra những trò đó”
(Nước mắt đàn ông); “Cái đòng thì ngọt, cái vọt thì đau, bọn học trò chúng
mày nhớ chƣa” (Một phần ba cuộc đời), “Sinh con ai dễ sinh lòng, rồi sƣớng
khổ thế nào lại oán trách cha mẹ” (Quê nội); “Anh ấy sẽ nghi ngờ. Già néo
đứt dây. Con ngƣời ta hơn nhau ở chỗ biết đến đâu thì dừng lại” (Một nửa
cuộc đời); “Lọt sàng thì xuống đất rồi chôn luôn, không có nia nào cả” (Thời
gian của mỗi người); „Đã thƣơng thì thƣơng cho trót, đã vót thì vót cho tròn”
(Trăng nơi đáy giếng)…
Lời nói gần với đời thƣờng đƣợc thể hiện rõ trong những dòng đối thoại
lẫn độc thoại nội tâm. Nó thể hiện sự suy tƣ, chiêm nghiệm về cuộc đời và
con ngƣời, thể hiện cách nghĩ của nhân vật về thời cuộc, về chính mình, về
khát vọng và hạnh phúc của cuộc đời mình, về ƣớc mơ về một tình yêu sâu
sắc mãnh liệt. Những dòng độc thoại nội tâm bằng lối nói dân gian khi suồng
sã, có lúc bỗ bã đến không ngờ làm cho các nhân vật nhƣ gai góc hơn, thực tế
hơn, đôi khi là thực dụng về đời với một tâm trạng buồn xa xôi và chua xót.
Nếu cách nói suồng sã, bỗ bã tạo cho ngƣời đọc cảm giác gần gũi, xóa
nhòa ranh giới của tƣởng tƣợng và hiện thực thì những câu văn gần với thành
90
ngữ đem đến cho lời văn sự mƣợt mà, mềm mại. Với lối viết ấy, các nhà văn
đã góp phần tái hiện chân thực bức tranh của đời sống, đặc biệt là đời sống
gia đình Việt Nam đƣơng đại đa dạng và sống động.
3.2.2. Ngôn ngữ độc thoại
Độc thoại nội tâm là phƣơng tiện nghệ thuật đóng vai trò quan trọng
trong các sáng tác văn học. Đó là phƣơng tiện để các nhà văn khám phá, miêu
tả những trạng thái tâm lý của nhân vật. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm còn cho
phép nhà văn đi sâu khám phá và biểu đạt những phần sâu thẳm trong đời
sống tinh thần của con ngƣời. Ở độc thoại nội tâm, điều quan trọng là tác giả
nắm đƣợc những quy luật tâm lí của nhân vật và diễn đạt nó một cách tƣờng
tận, tỉ mỉ, sâu sắc. Trần Thùy Mai, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ đã xây dựng
các nhân vật với những cung bậc cảm xúc, diễn biến tâm lý của đời thƣờng
nhƣng đƣợc phát hiện ở những góc độ hết sức tinh tế, độc đáo, giàu triết lý.
Nhân vật của Trần Thuỳ Mai có khi là một cô gái đang bƣớc vào tình yêu với
đủ các cung bậc cảm xúc vui, buồn, nhớ nhung, hờn giận (My - Gió thiên
đường), là ngƣời phụ nữ giàu đức hy sinh nhƣng bất hạnh (Hạnh - Trăng nơi
đáy giếng), là ngƣời phụ nữ khát khao tình yêu và sự dịu dàng từ chồng
nhƣng thực tế thì giữa họ và chồng mình là hai thế giới tồn tại ngoài nhau
(Tàu ngầm xuyên đại dương và Cánh cửa thứ chín); hoặc là chàng trai yêu
chân thành, bao dung, nhân ái (Tuấn - Biển đời người)… Những suy nghĩ,
tình cảm đó ở các nhân vật đƣợc Thùy Mai thể hiện qua các đoạn độc thoại
nội tâm đã để lại những cảm xúc sâu lắng trong độc giả.
Thế giới nhân vật của Y Ban cũng không ít những khoảng lặng đối diện
với lòng để tự vấn, để băn khoăn. Đó là trăn trở của ngƣời phụ nữ “có ma lực”
nhƣng đi gần hết cuộc đời vẫn cô đơn “Ta là một ngƣời đàn bà, một ngƣời
đàn bà rất hoàn hảo nhƣng tại sao ta lại không có đƣợc cái kết quả của sự
hoàn hảo ấy" (Người đàn bà có ma lực); đó là phút đấu tranh tƣ tƣởng của
91
ngƣời phụ nữ trót xao lòng trƣớc ngƣời đàn ông không phải chồng mình và
“Sau một tháng vật vã với chính những cảm xúc trái ngƣợc, nàng dần cân
bằng trở lại bằng chính sự chăm sóc của chồng” (Sau chớp là giông bão)…
So với Trần Thùy Mai và Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ với phong cách
khá ấn tƣợng, luôn có hai mặt bụi bặm và trữ tình đằm thắm, Nguyễn Thị Thu
Huệ lôi cuốn độc giả bằng lối văn vừa táo tợn lại vừa thanh khiết. Đặc biệt
với cách thể hiện linh hoạt, phong phú các đoạn độc thoại nội tâm, các nhân
vật của Nguyễn Thị Thu Huệ đã thật sự gây ấn tƣợng với ngƣời đọc bởi sự
sinh động, đa dạng của các nét trong nhân cách: Lúc bạo liệt, khi thật thà, khi
thâm trầm triết lý, khi đỏng đảnh và có khi dịu dàng đến bất ngờ. Điều này
chúng ta có thể tìm thấy trong rất nhiều tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ,
tiêu biểu nhƣ: Thiếu phụ chưa chồng, Tân Cảng, Xin hãy tin em…
Cả ba nhà văn đều sử dụng ngôn ngữ độc thoại nhƣ một vũ khí quyền
năng nhằm đƣa đến cho ngƣời đọc những mảnh đời, những con ngƣời rất thật.
Nó đƣợc thể hiện qua nhiều hình thức khác nhau: Độc thoại nội tâm dƣới
dạng tự bạch tự vấn, dƣới dạng nhật ký, đối thoại với ngƣời vắng mặt, những
hồi tƣởng và sự thức tỉnh…
Độc thoại nội tâm dƣới dạng tự bạch thƣờng gặp ở truyện kể ngôi thứ
nhất. Biểu hiện rõ của tự bạch là nhân vật xƣng tôi kể chuyện về mình, bộc
bạch những suy nghĩ cảm xúc của mình. Nhân vật kể về những trải nghiệm
mà mình tham gia hay chứng kiến. Ở đó, ngôn ngữ kể chuyện đồng thời là
ngôn ngữ nhân vật. Có thể nhận thấy trong truyện ngắn cả ba nhà văn, dạng
truyện tự vấn tự bạch và ngôi kể thứ nhất chiếm khá nhiều: Biển đời người,
Cánh cửa thứ chín, Mắt nhân sư, Nàng công chúa lạc loài, Thương nhớ
hoàng lan, Chị Hai ơi... (Trần Thùy Mai); Sau chớp là giông bão, Bây giờ
con mới hiểu, Cưới chợ, Mỗi người đàn ông chỉ của riêng một người đàn bà...
(Y Ban); Cát đợi, Chị tôi, Nước mắt đàn ông... (Nguyễn Thị Thu Huệ). Ngay
92
cả những truyện đƣợc viết ở ngôi thứ ba cũng mang nhiều mầu sắc tự bạch
nhƣ Tình yêu ơi, ở đâu? Hình bóng cuộc đời, Một nửa cuộc đời… Ở những
truyện ngắn này, nhân vật thƣờng tự bạch về những nỗi niềm của con ngƣời,
nhất là ngƣời phụ nữ; về cả niềm vui lẫn nỗi buồn, hy vọng và thất vọng, đam
mê và tỉnh táo, hiện thực và lãng mạn... Những xúc cảm ấy đều gắn với tình
yêu, hạnh phúc gia đình. Ngƣời phụ nữ tự bạch để thể hiện nhu cầu giãi bày,
hơn hết để mong nhận đƣợc sự đồng cảm.
Độc thoại nội tâm còn là sự đối thoại với ngƣời vắng mặt. Chúng ta
bắt gặp kiểu độc thoại này trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ (Y Ban). Câu
chuyện là bức thông điệp đƣợc viết từ nỗi đau, sự trăn trở, day dứt của đứa
con gửi đến mẹ mình. Ở đó ngƣời con gái giãi bày những suy nghĩ, nỗi
niềm của mình và của bao thiếu nữ đồng cảnh ngộ. Cô xót xa vì nỗi đau
mất con; trăn trở về tình yêu, hôn nhân, hạnh phúc. Tác phẩm còn là sự
chất vấn của thế hệ trẻ, là tiếng nói của những con ngƣời sống thực với
mình bằng cả ý thức và vô thức, lí trí và bản năng, hiện thực và tâm linh.
Những dòng cảm xúc gieo vào lòng ngƣời đọc sự thức tỉnh và niềm cảm
thƣơng. Kiểu đối thoại với ngƣời vắng mặt còn có ở Vùng sáng kí ức, Hậu
thiên đường... Có thể nói, việc đối thoại với ngƣời vắng mặt (thƣờng diễn
ra trong suy nghĩ) chính là cách nhân vật sống thật với những cảm xúc của
mình. Đó là những giây phút xúc cảm trào dâng mãnh liệt, những suy tƣ
trăn trở ngổn ngang chất chồng; đôi khi là sự bế tắc. Với lối trò chuyện này
dƣờng nhƣ nỗi khổ của nhân vật đƣợc vợi đi phần nào.
Nhiều truyện ngắn còn lựa chọn lối viết nhật kí để khám phá thế giới
tâm hồn phong phú của con ngƣời. Đó là Hậu thiên đường, Người đàn bà
có ma lực... Là cô bé khát khao tình yêu và sự quan tâm nhƣng cô bé trong
Hậu thiên đường lại thƣờng đối diện với sự cô đơn. Bởi mẹ cô còn mải mê
với những cuộc tình chóng vánh, những quán bar ồn ã. Vì thế, nhật ký
93
chính là ngƣời bạn tri kỷ để cô gửi gắm những ý nghĩ, cảm xúc; từ chuyện
vụn vặt đến những quan niệm về tình yêu về cuộc đời: “Ngày - Hôm đang
ngồi trong lớp đợi mƣa tạnh, chợt thấy cuối đƣờng có một chị che cái ô đỏ.
Đẹp thế không biết. Trong mƣa màu đỏ là màu đẹp nhất. Giá mình có một
chiếc nhỉ?”, “Ngày - Sao mẹ hay về khuya thế? Mình mà nhƣ mẹ, mình sẽ
lấy chồng. Chọn ngƣời nào hiền lành và hơi ngu một tý để lấy mà không
cần đi làm nhà nƣớc, chỉ cần biết một nghề gia công nào đó nhƣ ông Chiu
hàn nhôm đằng trƣớc - mẹ sẽ sƣớng hơn là ở thế này. Mình thích những
ngƣời thông minh nhƣng ở với họ thì sợ lắm. Những buổi chiều chủ nhật,
vợ chồng ngƣời ta đi chơi, mẹ thì ở nhà, còn đi chơi nhƣ mẹ, mình chẳng
thích”... Và cũng chính nhờ những trang nhật kí này, ngƣời mẹ đã biết
đƣợc những điều xảy ra với con mình để rồi “có cảm giác mình bỗng hóa
thành đá” vì đau đớn, xót xa và ân hận.
Nhật ký còn là những tình huống những cảm xúc cho con ngƣời thấm
thía sâu sắc nỗi cô đơn của hiện tại (Người đàn bà có ma lực). Những trang
nhật ký ghi lại tuổi trẻ huy hoàng, rực rỡ của cô gái với sự theo đuổi của bao
nhiêu chàng trai không làm vơi bớt nỗi buồn cô lẻ của hiện tại mà ngƣợc lại,
nhân vật càng chìm trong sự tái tê:
“Ngày...
Mƣời bảy tuổi bƣớc vào trƣờng đại học, ta là một cô gái không xinh
đẹp, cũng không có duyên. Để bù lại, ta thông minh và học giỏi. Tạo hóa
đã rất công bằng khi ban cho cô gái này sắc đẹp nhƣng lại ít thông minh.
Cô gái kia thông minh nhƣng ít xinh đẹp. Nhƣng tạo hóa lại không có cách
nào để cho ngƣời ta hiểu ngay đƣợc rằng ngƣời ta chỉ có một hoặc vài khả
năng nào đó thôi. Bởi thế ngƣời xinh đẹp cứ ngỡ mình là ngƣời thông
minh. Và kẻ thông minh lại tƣởng lầm mình là xinh đẹp. Điều này đôi khi
94
cũng đúng. Bởi vì ngƣời xinh đẹp thƣờng chinh phục điều họ muốn bằng
sắc đẹp. Ngƣời thông minh dĩ nhiên là bằng trí tuệ. Nhƣng, có lẽ điều này
chỉ đúng với đàn bà mà thôi”;
“Ngày 1-7
Trên chuyến tàu hôm ấy ta và cô bạn gái, một cô bé xinh xắn, dịu dàng
thoạt trông rất đáng yêu đi về nhà nghỉ hè. Cô bạn gái bình thản ngồi nhìn qua
cửa sổ toa tàu. Còn ta, trong lòng rộn ràng bao sắp đặt cho kỳ nghỉ hè đầu tiên
trong đời sinh viên. Tuy thế ta cũng đã nhận thấy một cái nhìn nào đó. Ta cố
tạo một bộ mặt phớt và lạnh bằng cách nhìn trân trối lên trần toa tàu. Rồi sau
đó ta có vẻ khó chịu”.
Khám phá về con ngƣời, các nhà văn còn sử dụng đối thoại trong độc
thoại. Đây là dạng đối thoại độc đáo. Nhân vật ở trạng thái tự vấn. Xuất hiện
nhiều câu đối thoại ngầm. Những câu hỏi (có khi không cần trả lời) cứ ngổn
ngang trong lòng thể hiện những trăn trở suy tƣ của nhân vật. Có khi đó sự
ngỡ ngàng, ngạc nhiên về những xao lòng của ngƣời phụ nữ “Sao nhỉ, ngƣời
ấy đã ôm lấy mặt nàng. Nhƣng thực ra từ trƣớc đó mấy phút nàng đã rất muốn
ngả đầu vào vai ngƣời ta. Nhƣng tại sao nàng lại muốn thế nhỉ?”, “Nhƣng tại
sao nàng lại muốn ngả đầu vào vai ngƣời ta kia chứ?”. Có lúc lại là sự trống
vắng đau khổ của cô gái khi nhận đƣợc tin bố mẹ chia tay nhau “Thế nào là
sống cho mình và sống cho mình thì khác sống cho ngƣời nhỉ? Bao năm nay
cứ cho là bố mẹ sống cho tôi, bố mẹ cũng có mất gì đâu?”...
Tái hiện hiện thực tâm lý qua độc thoại nội tâm bằng ngôn ngữ trực giác
và linh cảm, các cây bút đã bộc lộ khả năng nắm bắt những biến thái của tâm
hồn con ngƣời, đặc biệt là ngƣời phụ nữ. Đọc truyện ngắn của Trần Thùy
Mai, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ ngƣời đọc cảm nhận đó là tiếng lòng của
ngƣời phụ nữ từ những trải nghiệm thƣờng nhật. Dù là lời lẽ góc cạnh hay
95
những khẩu ngữ đời thƣờng gần gũi, hay ngôn ngữ mang sắc thái nữ, thì ẩn
sau những câu chữ vẫn luôn là tiếng lòng, là những dự cảm thân phận đƣợc
viết ra từ sự dẫn dắt tuyệt diệu của mẫn cảm bản năng.
3.2.3. Ngôn ngữ đối thoại
Ngôn ngữ đối thoại cũng là một yếu tố không kém phần quan trọng giúp
nhà văn khắc họa nhân vật và thể hiện nội dung. Đối thoại là dạng lời phát
ngôn trực tiếp, mang tính cá thể hóa cao của nhân vật khi tham gia giao tiếp.
Có kiểu đối thoại theo hình thức phân vai, có kiểu lời thoại đƣợc nhấn mạnh
nhờ chỉ dẫn của ngƣời dẫn truyện; đôi khi có lời thoại là sự kết hợp lời của
nhân vật và lời trần thuật. Đây là những phát ngôn đặc biệt thể hiện tính đa
thanh trong ngôn ngữ truyện ngắn đƣơng đại.
Trong một số truyện ngắn của cả ba tác giả, xen giữa những lời thoại là
lời ngƣời trần thuật. Lối kể chuyện này đã khiến tâm trạng của nhân vật đằng
sau lời thoại, hoàn cảnh đối thoại đƣợc cụ thể hơn. Ví nhƣ:
“- Nhƣng tôi là con trai mà.
- Có gì khác nhau nào?
- Bạn chẳng hiểu gì hết, vì tôi muốn gọi bạn bằng em và tôi yêu em mà.
- Ờ, cái gì vậy?
- Thật đấy mà…” (Mỗi người đàn ông chỉ của riêng một người đàn bà).
Hoặc: “Tôi nhận thấy điều ấy rõ ràng trong mâm cơm khi bà nội tôi
sụt sịt:
- Nó lại còn họ hàng gần với nhà mình kia đấy.
Thím tôi chen vào:
- Cụ Chùa đói khát mấy hôm nay” (Quê nội).
Hay: “Dù trong mƣa, dù ngấm nƣớc mấy tiếng đồng hồ nhƣng ngƣời chị
chợt bốc nóng, hai má bừng bừng: "Em nặng lắm. Anh dắt làm sao đƣợc?".
Anh cƣời: "Nƣớc sẽ giúp anh" (Một trăm linh tám cây bằng lăng).
96
Và: “Cha tôi đang nằm chống tay ngồi dậy, hắng giọng:
- Khôi!
Tôi nín im, dựa lƣng vào vách. Mƣời ngón tay dính bùn dán chặt vào
bức nứa.
- Khôi!
Tôi tƣ̀ tƣ̀ lại gần, tim đập thình thình trong ngực. Cha tôi nạt tớ i: - Khôi! Đi mô chừ mớ i về ? Sƣớng dữ há! Hải, lấy cho tao cây roi!”
(Chuyện cũ ở quê nhà).
Chiếm số lƣợng lớn là những truyện có ngƣời kể xƣng tôi vừa kể chuyện
vừa tham gia giao tiếp nhƣ Tàu ngầm xuyên đại dương, Onkel yêu dấu, Phù
dung dưới núi, Chờ nhau ở cuối đường, Cánh cửa thứ chín, Chuyện cũ ở quê
nhà, Ai chọn dùm tôi, Cõi thù hận, Cưới chợ, Con mang cuộc đời của mẹ, Bây
giờ con mới hiểu, Cát đợi, Chị tôi, Huyền thoại, Nước mắt đàn ông, Hậu thiên
đường... Ẩn trong một vai giao tiếp, ngƣời trần thuật không chỉ trực tiếp trao
đổi với nhân vật mà còn dễ dàng kể chuyện. Kiểu lời thoại này tạo chiều sâu,
độ lắng cho tâm trạng và cảm xúc của nhân vật.
Truyện Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ có sự xuất hiện đậm đặc những
lời thoại nối tiếp lời thoại với nhịp độ nhanh, gấp gáp. Nó diễn tả mạch cảm
xúc trào dâng mãnh liệt và thể hiện cá tính của nhân vật. Hơn thế, kiểu lời
thoại ấy còn phảng phất hơi thở gấp gáp của cuộc sống đƣơng đại.
“- Có thật không hở cha? Nhƣng bố con vẫn tỉnh táo để tránh đạn của
quân thù chứ cha?
- Con nói sao?
- Mẹ con dặn, không đƣợc nhắc đến bố, nhớ bố cũng không đƣợc khóc,
vì bố chƣa chết, để bố tỉnh táo mà tránh hòn đạn mũi tên. Nhắc nhiều đến bố,
bố rối ruột lên.
- Mẹ con dặn thế à?
97
- Đúng không cha?
- Thế con kể đi, vì sao mà con gào khóc dữ thế? ” (Con mang cuộc đời
của mẹ).
Hay: “- Chị đã gửi cái lọ đi chƣa?
- Chị gửi rồi.
- Nó có trả lời gì không?
- Không em ạ.
- Chị đã gửi cái lọ đi chƣa?
- Rồi em ạ.
- Có trả lời gì không?
- Không thấy.
- Gửi đi chƣa?
- Rồi.
- Trả lời gì không?
- Không” (Cõi thù hận)
Hoặc:
“- Cháu nghĩ là mình đi đâu đó, cậu sẽ đỡ buồn.
- Chả có chỗ nào đỡ buồn hơn chỗ nào. Thế cả.
- Cháu không hiểu một ngƣời nhƣ cậu mà không có đâu để đến?
- Nhiều chỗ lắm, nhƣng đến để làm gì?” (Nước mắt đàn ông).
Nếu truyện Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ có sự xuất hiện đậm đặc
những lời thoại nối tiếp lời thoại, nhịp độ nhanh gấp gáp, thì trong văn Trần
Thùy Mai lời thoại thƣờng đi kèm lời dẫn nêu rõ tâm trạng, hành động, thái
độ của nhân vật:
“Chờ mãi không nghe nói gì, bà Thu phát cáu: Chuyện đến thế, chị tính
sao? Chị phải có thái độ đi chứ? Hay chị là Phật đất? Cô Hạnh thở dài: Hoàn
98
cảnh em không có con, dù anh ấy có thế, em cũng chẳng oán trách.
- Nói thế nghĩa là chị biết anh ấy phản bội chị mà cố tình giấu giếm
tổ chức?
Anh ấy không phản bội tôi - cô Hạnh ngẩng phắt lên. Vâng, dù rằng ông
Phƣơng đã có một ngƣời đàn bà khác, có một đứa con không do cô sinh ra,
ông vẫn là vị Thánh sống đối với cô. Cô không cho phép ai nặng lời khi nói
về ông ấy. Bởi tất cả những chuyện này là do cô: cô đã tự tay sắp đặt, chỉ vì
không chịu nổi vẻ buồn thầm lặng trên khuôn mặt ông.
"Không phải dễ dàng mà thuyết phục đƣợc anh ấy - Bởi vì anh ấy quá
thƣơng tôi. Hơn nữa, là ngƣời có chức trách, anh không dám. Tôi phải năn nỉ,
ép uổng, hứa giữ bí mật cho anh ấy..." Bà Thu cau mày: "Sao chị lại làm thế?
Chị có biết nhƣ vậy là phong kiến cổ hủ không? Chính chị đã đẩy anh ấy vào
con đƣờng hủ hoá!". (Trăng nơi đáy giếng).
Và: “Khá lâu sau, tôi mới nghe tiếng chị Trúc khẽ khàng:
- Hiệp ơi, ra uống thuốc.
Tôi lặng im không ƣ hử. Chị Trúc lại gọi, tiếng chị hơi run run. Mãi
không thấy tôi ra, chị đành bƣng bát thuốc vào. Chỉ chờ có thế, tôi vùng lên
ôm đại lấy chị. Chị hốt hoảng, thuốc đổ tung toé xuống giƣờng:
- Hiệp, buông ra không chị la lên cho má đánh chết” (Chị Hai ơi).
Nhƣ vậy, lời thoại đƣợc sử dụng làm phƣơng tiện xây dựng nhân vật
đồng thời là cách phản ánh hiện thực của các nhà văn.
3.3. Giọng điệu
Trong tác phẩm văn học, giọng điệu là một trong những yếu tố quan
trọng nhằm thể hiện tƣ tƣởng tình cảm của tác giả. “Giọng điệu là thái độ, tình
cảm, lập trƣờng tƣ tƣởng đƣợc miêu tả, thể hiện trong lời văn quy định cách
xƣng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thô sơ hay
thành kính, suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [22, tr.112]. Bởi vậy, có thể
99
khẳng định giọng điệu là một trong những “tín hiệu” giúp ngƣời đọc nhận ra
văn phong của từng tác giả. Nói cách khác, giọng điệu là yếu tố quan trọng
giúp các nhà văn khẳng định phong cách của mình. Tuy nhiên, chúng ta cần
phân biệt giọng điệu trong lời nói và giọng điệu trong các tác phẩm văn học.
Đề cập về vấn đề này, nhà nghiên cứu Nguyễn Thái Hòa đã đƣa ra cách hiểu
về giọng điệu trong văn học: “Cấu trúc bất biến của một nhà văn có phong
cách riêng đánh dấu đặc trƣng sử dụng ngôn ngữ, trong đó phản ánh mối quan
hệ giữa nhà văn với hiện thực cuộc sống, với ngôn ngữ đang dùng và không
phụ thuộc vào thể loại và đối tƣợng đƣợc nói đến” [24,160]. Nhƣ vậy giọng
văn là sự thống nhất bất biến trong các tác phẩm của từng nhà văn. Trong văn
chƣơng, nhắc đến giọng điệu là nhắc đến hình thức nói nhƣng giữa hình thức
ấy lại có mối liên hệ mật thiết với nội dung đƣợc gửi gắm. Bởi giọng điệu
luôn gắn liền với việc dùng hình tƣợng để miêu tả đối tƣợng của sáng tác.
Trong văn học ta bắt gặp nhiều giọng điệu khác nhau. Ứng với mỗi trạng
thái tâm lý của nhân vật, các nhà văn sẽ lựa chọn giọng điệu thích hợp. Tìm
đƣợc giọng điệu phù hợp là cách để câu chuyện chân thật và đi vào lòng
ngƣời dễ dàng hơn. Trần Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ đã sử
dụng giọng điệu của riêng mình khi nói về đề tài gia đình nhƣng có những lúc
họ lại có sự đồng điệu.
3.3.1. Giọng trữ tình sâu lắng
Trữ tình là sự bộc lộ trực tiếp những suy nghĩ, cảm xúc của con ngƣời
với thế giới. Dù là giọng văn giàu nữ tính với sự dịu dàng trong những câu
chữ hay là sự sắc sảo, chao chát thì ẩn sâu bên trong đều là giọng điệu trữ
tình thiết tha với khát vọng và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống.
Chất giọng trữ tình đƣợc thể hiện thông qua lối kể theo ngôi thứ nhất.
Các nhân vật xƣng “tôi”, “con”, “ta”… và tự kể về cuộc đời mình. Ngoài ra,
giọng điệu trữ tình còn là cách gọi tên nhẹ nhàng tình cảm: “chàng”, “nàng”,
100
“anh chị”, “cô bé”… Nhờ đó, thế giới xúc cảm phong phú của nhân vật nhƣ
đƣợc tãi ra trên từng trang giấy. Đó có thể là nỗi dằn vặt, day dứt của cô gái
đã phải vứt bỏ đứa con của mình và đêm đêm ôm nỗi cô đơn khi tuổi đời vẫn
còn quá trẻ trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ: “Nỗi đau đớn của ngƣời mẹ đã
không bảo vệ nổi con mình, những nỗi đau nhƣ thế của con chắc mẹ đã hiểu.
Còn một nỗi đau này nữa mẹ ơi, là nỗi cô đơn con không thể chia sẻ cùng ai.
Sau ngày ấy tình yêu của con chết đi theo nó. Sau ngày ấy con đã là một
ngƣời đàn bà từng trải, nhƣng bên ngoài con vẫn là một thiếu nữ trong sáng, e
ấp con chờ một tình yêu mới đến với con, tình yêu mới đến - đâu có thể dễ
dàng nhƣ lời nói ấy”. Đó còn là trăn trở suy tƣ của ngƣời phụ nữ (Sau chớp là
giông bão) vốn có những suy nghĩ nghiêm túc về tình yêu, đã vƣợt qua bao
cám dỗ nhƣng lại phải lòng ngƣời đàn ông chỉ gặp chớp nhoáng trong chuyến
đi công tác. Đó là nỗi đau đớn xót xa của một ngƣời phụ nữ bỏ bê con gái
khiến nó đi vào ngõ cụt với một tƣơng lai hậu thiên đàng đầy u ám (Hậu thiên
đường). Đó còn là những khắc khoải ƣớc mong hạnh phúc vẹn nguyên tròn
đầy của những ngƣời phụ nữ không tìm đƣợc sự đồng điệu nơi chồng ở Cánh
cửa thứ chín, Một nửa cuộc đời … Đó cũng là nỗi đắng cay, trống rỗng của
ngƣời phụ nữ yêu và hy sinh bản thân nhƣng nhận lại chỉ là sự bội bạc trong
Ai chọn dùm tôi, Cố nhân, Người bán linh hồn, Trăng nơi đáy giếng, Tháng
tư trở lại… Có thể nói, việc lựa chọn ngôi kể thứ nhất đem đến chất giọng trữ
tình cho những trang viết. Ngƣời đọc có cảm giác đó là những lời tâm tình thủ
thỉ của ai đó chứ không phải thế giới của trí tƣởng tƣợng.
Giọng điệu trữ tình còn thể hiện qua những trang viết về thiên nhiên đẹp
đẽ, thơ mộng làm nền cho bức tranh tâm trạng con ngƣời: “Gió sông thổi rối
tung tóc. Dòng sông êm đềm chảy. Vạt ngô phía bên kia sông xanh tốt lạ
thƣờng”, “Mùi ngai ngái của đất, của tiêu, của gió sông say đến lạ” (Quê nội);
“Nắng lấp lóa và trời xanh ngắt. Con đƣờng về quê uốn lƣợn theo con sông”,
101
“Dải nắng làm bừng dậy màu xanh ngút ngát của cánh đồng. Dải nắng làm
trong veo khoảng trời trong veo. Và dải nắng làm sáng bừng gƣơng mặt của
bà tôi đã đứng đợi trên đê đón cháu từ bao giờ” (Chạy xuyên qua cơn mưa
trên dải đê); “Tôi xuống các miệt vƣờn, với những đƣờng phố nhỏ nhắn,
những vƣờn dừa xanh um toả bóng”, “Đƣờng phố mát rƣợi, yên bình một
màu xanh” (Nước mắt đàn ông), “Mƣa đã tạnh. Bên dƣới là một dòng sông
nhỏ sóng sánh ánh trăng. Trăng mƣời sáu - tròn, rõ ràng, tách bạch”, “Hai bên
đƣờng, những cây bằng lăng thấp xòe tán và hoa nở từng chùm. Mong manh
mầu tím dai dẳng. Chỗ thấm, chỗ nhạt. Có chùm hoa dày, bỗng nở tung gật gù
nhƣ những đuôi con sói. Ánh trăng lấp lóa sau những chùm lá. Trăng cao vời
vợi, sáng nhƣ ngà. Sau những trận mƣa to, trời thƣờng xanh hơn và mây bay
vùn vụt” (Một trăm linh tám cây bằng lăng)…
Đặc biệt, trong truyện Trần Thùy Mai, thiên nhiên đƣợc miêu tả khá
nhiều và đậm chất Huế. Ở đó có những khu nhà, những con đƣờng, những
ngôi chùa và đặc biệt là dòng Hƣơng giang trữ tình, trầm mặc. Không gian
Huế mộng mơ bàng bạc trong từng câu chữ, thấm đẫm vào hồn ngƣời và
cảnh: “Mùa xuân hồi đó hình nhƣ nhiều hoa đào hơn còn mùa thu thì tơ trời
cứ bay bay có lúc sà xuống vắt lên những ngọn cây trong vƣờn”, “Trên mặt
sông, những chiếc đèn hoa, sóng lăn tăn và khói”, “Đêm xuống, con đò từ từ
ra giữa dòng. Tiếng đàn, tiếng sênh phách rộn rã trong khoang. Một câu hò
ngân nga chầm chậm, đủng đỉnh lan dài trong đêm sƣơng. Hơ… ơ… Giữa
sông Hƣơng dậy sóng khuynh thành. Nửa đêm một chiếc thuyền tình ngửa
nghiêng” (Khói trên sông Hương); “Buổi chiều, khi nhá nhem tối, anh em tôi
dắt nhau ra bến đò trông mẹ. Trời đất xám lại một màu chàm lễnh loãng; cuối
dòng sông là một vệt đỏ bầm, dấu vết của mặt trời vừa lặn. Năm thì mƣời họa,
102
khi nào chuyến đò chót về sớm lắm, hai anh em tôi mớ i gặp mẹ . Trời chiều , nơi chỗ mái chèo khuấy lung linh tan ra từng mảnh tan tác trên mặt nƣớ c động. Tiếng ngƣời lao xao lên bến, tản dần đi trong hoàng hôn. Và mẹ thình
lình hiện ra trong cái tranh tối tranh sáng của buổi chiều tà, toàn thân chìm
trong màu áo đen và màu đêm, chỉ thấy rõ đôi mắt lấp lánh và khuôn mặt mờ
mờ trắng” (Chuyện cũ ở quê nhà); “Hoàng lan lớn lên năm này qua năm khác,
nở hoa vàng mong manh. Mong manh nhƣ tất cả những gì đẹp trên thế gian”
(Thương nhớ hoàng lan); “Trời mƣa đột ngột vào xế trƣa. Đến chiều, con
nƣớc dâng nhanh chẳng mấy chốc ngập lòng đƣờng, tiến vào nhà, trèo lên phủ
ngập chiếu giƣờng chiếu. Cả vùng thành nội ngập tràn nƣớc trắng xóa” (Biển
đời người).
Không chỉ dừng lại ở việc làm nền cho câu chuyện, bức tranh thiên
nhiên còn gắn với tâm trạng con ngƣời. Nói cách khác, trong truyện ngắn ba
tác giả thiên nhiên nhuốm mầu tâm trạng “Ngƣời buồn cảnh có vui đâu bao
giờ” (nhƣ lời đại thi hào Nguyễn Du). Trong nỗi bàng hoàng, đau đớn và xót
xa tột độ khi nhìn thấy đứa con gái lạc bƣớc trên đƣờng tình, ngƣời mẹ thấy
“Mùa đông năm nay lạ lắm. Ban ngày thì nắng hoe hoe vàng, tối đến thì gió
lồng lộng nhƣ mùa hè. Tôi cảm giác nhƣ mình đang bắt đầu đứng ở cuối con
đƣờng, nhìn thấy con mình đang dẫm chân lên những nơi mà tôi đã đi qua,
nhƣng không ngăn nó dừng lại đƣợc” (Hậu thiên đường). Cuộc hôn nhân
không hạnh phúc với ngƣời vợ lúc nào cũng đay nghiến, chì chiết và những
đứa con “không có nổi mƣời lăm phút tâm sự với cậu ngoài câu chuyện tiền
bạc” khiến ông cô đơn ngay khi sống trong gia đình, khi có đủ đầy về vật
chất. Thiên nhiên dƣờng nhƣ hiểu đƣợc những “sóng ngầm” nơi lòng ngƣời
“Cuối trời, mây xám vần vũ. Mặt hồ sóng sủi sùng sục”, “Gió đuổi sóng trên
hồ, tất cả tạo thành một không gian dại nhƣ ngựa phi trên đồng cỏ”, “Trời
mênh mông và bao la. Mây cuồn cuộn trên đầu nhƣ đám lốc xám xịt. Con
thuyền dập dờn” (Nước mắt đàn ông). Sự trống trải, hoang hoải trong lòng
ngƣời phụ nữ khát khao có ngƣời đàn ông của riêng mình nhƣng lại chọn thân
103
phận của một nhân tình khiến cô thấm thía khung cảnh “Thời tiết chuyển
mùa, cái nắng gắt gao chuyển sang trong veo. Cái thứ thời tiết gợi nhớ, làm
cho lòng ngƣời dễ sầu, dễ cảm” (Nhân tình)... Có thể nói các nhà văn chú ý
miêu tả trạng thái cảm xúc nhân vật qua những nét phác họa thiên nhiên. Nó
đã góp phần làm tăng vẻ đẹp trữ tình cho những trang văn.
Đặc biệt, giọng điệu trữ tình đƣợc thể hiện rõ nét trong những dòng suy
tƣởng, những dòng độc thoại của nhân vật. Dù là con ngƣời dịu dàng, nhẫn
nhịn hay cá tính sắc sảo; các nhân vật đều có những phút trải lòng với chính
mình để nghe những thổn thức từ sâu thẳm trái tim. Điều này đƣợc thể hiện
qua nhiều tác phẩm: Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, I am đàn bà, Sau chớp là giông
bão, Nhân tình, Hậu thiên đường, Cát đợi, Cầu thang, Nước mắt đàn ông,
Thập tự hoa, Biển đời người, Cố nhân, Onkel yêu dấu, Thương nhớ hoàng
lan, Nàng công chúa lạc loài…
3.3.2. Giọng xót xa, ngậm ngùi
Con ngƣời, đặc biệt là ngƣời phụ nữ vốn nhiều khát vọng. Họ theo đuổi
ƣớc mơ và khát vọng của mình. Tuy nhiên, không ít ngƣời trong số họ đã phải
ngậm ngùi nhận cái kết không nhƣ mong muốn. Họ thất vọng, đổ vỡ niềm tin.
Viết về những điều ấy, ba nhà văn đã sử dụng hiệu quả giọng điệu xót xa,
ngậm ngùi. Một trong những biểu hiện của giọng điệu ấy là việc sử dụng
nhiều câu cảm thán và câu hỏi, đặc biệt là câu hỏi tu từ. Những câu hỏi đặt ra
không cần câu trả lời mà là sự trăn trở, băn khoăn, day dứt của con ngƣời
trong những bế tắc, những vƣớng mắc của cuộc sống gia đình.
Có khi đó là câu hỏi lột tả tâm trạng thảng thốt, hốt hoảng và xót xa của
con ngƣời trƣớc thực tại bất nhƣ ý. Đó là tâm trạng của ngƣời mẹ thấy con
mình sắp rơi xuống “địa ngục trần gian” mà không sao cứu nổi “Sao lại thế hả
con? Con lú mất rồi. Tôi phải làm gì bây giờ hả trời? Không phải còn đang
chập chững ở miệng vực nữa mà con đang ở trong vực rồi. Bao giờ thì chìm
104
xuống đáy?”, “Mẹ ơi, ngày sau con có phải khổ nhƣ mẹ không? Mẹ có khổ
đâu? Có, mẹ có khổ, đêm nào con cũng thấy mẹ khóc? Ừ, mẹ buồn mẹ khóc?
Bố làm mẹ buồn à? Con đừng nhắc đến ngƣời đàn ông khốn nạn ấy nữa.
Không, đấy là bố con, lúc nào con cũng đợi bố về... Con ơi, con ở đâu. Sao
khổ thế hả con, ai cứu con tôi bây giờ, ai giúp tôi lôi nó ra khỏi cái thiên
đƣờng địa ngục đó bây giờ?” (Hậu thiên đường). Hay là câu hỏi đay nghiến
lặp đi lặp lại đầy xót xa của ngƣời mẹ có đứa con lỡ ăn trái cấm quá sớm “Ai
dạy mày nhƣ thế cơ chứ? ” và sự thổn thức của đứa con “Mẹ ơi, ai đã dạy con
ƣ?” (Bức thư gửi mẹ Âu Cơ).
Nhiều truyện đƣợc kết thúc bằng những câu hỏi xót xa, ngậm ngùi thể
hiện sự hoang mang, chới với của nhân vật. Câu chuyện đã kết thúc nhƣng
dƣ âm còn đọng mãi. Sau bao nhiêu tình yêu, hy sinh và chăm chút cho
chàng học trò nghèo, ngƣời con gái trong Ai chọn dùm tôi bị phản bội.
Chàng ra đi đem theo tình yêu, hy vọng, niềm tin và cả những vật chất mà
nàng miệt mài ngày đêm để có. Câu hỏi kết thúc cho thấy sự trống rỗng,
hụt hẫng và đắng cay “Còn sông Hồng ƣ? Liệu có trôi đƣợc ra biển không?
Hay sẽ mắc vào một gờ đá nào đó rồi vật vờ theo sóng nhƣ cái chết của
nàng tiên cá”. Hay sự thảng thốt của ngƣời đàn ông khi ngày mai hứa hẹn
những hạnh phúc bỗng tuột mất mãi mãi ở Phút dành cho tình yêu “Ít ỏi
quá! Cô hiểu không?”, “Cô hiểu không?”. Hoặc sự mong mỏi hạnh phúc
cho ngƣời cậu trong Nước mắt đàn ông “Tôi lên xe, chậm chạp về tự hỏi:
Không biết đến bao giờ nữa sẽ có một cánh buồm đỏ trên mặt hồ đầy sóng
kia? Cánh buồm của cậu tôi”. Có khi lại là những giây phút tự vấn của cô
gái trong Cưới chợ “Tiền, lại tiền. Tiền bây giờ còn có ích gì nữa không?”,
và sự hoang mang của con ngƣời lạc lõng giữa quê hƣơng “Trời ơi, sao ông
ác thế. Cuộc đời ai cũng có một bệ thờ, một điều thiêng. Sao ông nỡ đập bể
105
bệ thờ của tôi nhƣ thế. Tôi sẽ sống tiếp thế nào đây?”.
Ngoài ra, giọng xót xa ngậm ngùi còn đƣợc thể hiện ở việc kết hợp
những câu hỏi và câu cảm thán để tăng giá trị biểu đạt cho tâm trạng. Gặp lại
ngƣời học trò xƣa trong một tình huống éo le, nhân vật tôi trong Nàng công
chúa lạc loài không thể làm gì cứu rỗi đƣợc cô bé. Sự ám ảnh về Ái Duy với
lối sống buông xuôi của hiện tại và Ái Duy thánh thiện của quá khứ luôn trở
đi trở lại trong suy nghĩ của nhân vật tôi. Anh xót xa khi không thể làm gì để
cứu cô bé ra khỏi vũng bùn và luôn khắc khoải: “Không, mãi mãi Ái Duy vẫn
là Ái Duy! Mãi mãi em vẫn là em của đêm ấy, chính em đã ra đi với niềm tin
của mình bất chấp những lời tôi khuyên nhủ. Ở con ngƣời mảnh khảnh nhỏ
nhoi ấy là sức sống mãnh liệt không tàn lụi… Ái Duy ngọn lửa nhỏ của tôi,
bây giờ em ở đâu?” (Nàng công chúa lạc loài). Để diễn tả nỗi đau bị phản bội
của một ngƣời luôn tự tin điều khiển đƣợc chồng, các câu hỏi và câu cảm thán
đã đƣợc kết hợp với nhau “ Cái gì? Ai có mang? Ai tha thứ? Trời đất ơi! Bà
ngã ngồi xuống bộ ván, trời đất tối sầm”. “Chỉ là khóc thôi sao! Cứ làm bậy,
làm đổ vỡ hết rồi khóc nhƣ trẻ con là xong thôi sao? Nghĩ vậy bà uất lên tận
cổ, chợt vô tình gào lên một tiếng: „Khốn nạn, ông không biết xấu hổ sao?”
(Tháng tư trở lại).
3.3.3. Giọng mỉa mai, châm biếm
Khai thác đề tài gia đình, bên cạnh nét đằm thắm trữ tình, truyện ngắn ba
nhà văn còn có giọng điệu châm biếm mỉa mai khi phê phán những yếu tố tiêu
cực của xã hội lẫn con ngƣời. Giọng điệu này xuất hiện nhiều trong truyện Y
Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ.
Trong ánh nhìn của những ngƣời chung quanh có sự dè bỉu đối với
những hành động theo họ là chƣa đẹp của giới trẻ trong tình yêu “Ôi dào,
bệnh tim, bệnh dài tim ấy thì có. Trời ơi, sao trời không có mắt? Ngƣời chính
106
chuyên hẳn hoi thì trời không ban cho lấy một mụn, kẻ lả lơi thì lại mau
mắn”. (Bức thư gửi mẹ Âu Cơ). Hay: “Gớm, trời chƣa mƣa mà ếch ộp đã bò
ra lắm thế” (Mỗi người đàn ông chỉ của riêng một người đàn bà).
Đôi khi là sự mỉa mai tự trào “Lúc tớ mặc váy hoa ngồi lên xe đẩy vào
cầu thang máy tớ đã nhìn thấy họ hàng đến tiễn biệt tớ” (Tôi và gã); “Này cậu
dặn, mai kia cậu chết đi, khi cho cậu vào áo quan, mày nhớ đục hai lỗ to ở hai
bên ra nhé”, “Đục hai cái lỗ để tao chìa tay ra ngoài”, “Cậu thò hai tay để mọi
ngƣời thấy rằng cậu đi vào cõi chết bằng hai bàn tay trắng. Cậu không mang
theo ngƣời lấy một xu bởi lúc ấy tất cả thành vô nghĩa” (Nước mắt đàn
ông); “Giời đánh ùm vào số phận tôi. Không bắt tôi chết, không cho tôi giàu
sang. Giời bắt tôi làm văn chƣơng” (Tôi và gã).
Kể về những hiện tƣợng tiêu cực trong xã hội – những thứ con ngƣời của
gia đình phải đối mặt, giọng văn mỉa mai châm biếm phát huy hiệu quả thật
đắc lực “Mỗi khi tôi về quê, mặc dù chỉ là cán bộ quèn, đều có quan tỉnh quan
huyện tình cờ đến thăm. Rồi trong câu chuyện thăm hỏi đó thế nào các ông
cũng tình cờ nhờ vả”, “Thế mới xảy ra cơ sự. Giáo sƣ đầu ngành một mặt đã
nhiều tuổi, mặt khác lý thuyết giỏi hơn thục hành, cắt dạ dày tớ đã đành còn
cắt luôn cả mật tớ nữa” (Tôi và gã).
Đặc biệt, khi xây dựng nhân vật, nhất là nhân vật nam, các nhà văn sử
dụng khá hiệu quả lối nói mỉa mai châm biếm. Bên cạnh những con ngƣời cao
thƣợng, yêu hết mình và sẵn sàng hy sinh vì ngƣời mình yêu vì gia đình còn
có những con ngƣời ti tiện, bủn xỉn, cơ hội, đạo đức giả… Qua ngòi bút sắc
sảo của các nhà văn, những con ngƣời với bản chất xấu xa đã bị lên án kịch
liệt. Đó là những kẻ làng chơi trăng hoa “Tiên sƣ nó chứ. Nó bảo nó thuê nhà
rồi. Nào ngờ nó dẫn mình ra bãi sông. Nó sợ bệnh nó đi những ba cái o ke. Nó
đã chơi quỵt nó lại còn vơ hết cả áo quần của mình nữa chứ” (Nhân tình);
“Không, tôi có một tập phong bì trong đó có năm mƣơi nghìn. Cứ tối nào tôi
đi em út, tôi phải thả một cái để đem về còn đƣa cho mụ béo, bảo là đi họp
107
đƣợc tiền". Nói rồi ông ta cun cút chạy lên cầu thang với đầy niềm phấn chấn.
Thế mới hiểu, sau những giờ mà ngƣời ta buộc phải tỏ ra công chức, họ dịu
dàng tâm sự những điều thầm kín với nhau hơn. Và lần đầu tiên Trân thấy ông
ta không phải là ông ấy trong vẻ trịnh trọng, đạo mạo và đứng đắn” (Cầu
thang). Đó còn là những ngƣời đàn ông vẻ bề ngoài hào nhoáng, trịnh trọng,
đạo mạo nhƣng thực chất lại là kẻ bần tiện “Ngƣời đàn ông tên Hoành chạy
vụt vào trong phòng, thoáng cái mang ra một chiếc biến thế nhỏ, dứ dứ:
"Quên cái này. Tôi mua nó hơn triệu bạc để giảm điện đấy. Mọi đƣờng điện
qua đây coi nhƣ tắc luôn. Không có nó, mỗi tháng hai, ba trăm nghìn thì ốm.
Dùng dăm tháng coi nhƣ hòa vốn". Rồi lút cút chạy xuống đầy vẻ hớn hở,
sung sƣớng nhƣ cả thế giới thu lại trong chiếc biến thế dùng để ăn cắp điện”
(Cầu thang).
Giọng điệu mỉa mai châm biếm đã giúp ngƣời đọc hình dung cụ thể hơn
về những biến đổi của cuộc sống gia đình trong đời sống hiện đại.
Tùy vào trạng thái tâm lý của nhân vật, các nhà văn sẽ lựa chọn giọng
điệu thích hợp và mỗi truyện ngắn thƣờng có một giọng điệu chủ đạo. Tuy
nhiên, hầu hết các tác phẩm của Trần Thùy Mai, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ
là sự hòa trộn, đan xen các giọng điệu: Thị trấn hoa quỳ vàng, Thập tự hoa,
Chuyện cũ ở quê nhà, Thương nhớ hoàng lan, Chị Hai ơi, Nàng công chúa
lạc loài; Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Sau chớp là giông bão, Người đàn bà có ma
lực, Mỗi người đàn ông chỉ của riêng một người đàn bà; Hậu thiên đường,
Một trăm linh tám cây bằng lăng, Cát đợi... Nếu giọng điệu trữ tình đem đến
nét dịu dàng, đằm thắm cho những trang văn thì giọng xót xa ngậm ngùi lại là
niềm cảm thƣơng cho những thân phận, những mảnh đời; giọng mỉa mai
châm biếm lại là cái nhìn dƣới góc độ khác....Nhờ đó, hiện thực cuộc sống
108
đƣợc phản ánh trong những trang truyện trở nên phong phú và sinh động hơn.
PHẦN KẾT LUẬN
Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, đặc biệt là văn học sau 1986,
truyện ngắn có sự bùng nổ cả về số lƣợng lẫn chất lƣợng. Văn học giai đoạn
này chứng kiến sự góp mặt của các nhà văn trẻ, đặc biệt là các nữ nhà văn
trong đó có Trần Thùy Mai, Y Ban, và Nguyễn Thị Thu Huệ.
Khảo sát các truyện ngắn đề cập đến đề tài gia đình trong truyện ngắn ba
nhà văn; ngƣời viết đi sâu tìm hiểu những biến đổi trong gia đình hiện đại qua
cái nhìn mang màu sắc nữ quyền. Tức là cái nhìn về gia đình, về các vấn đề
gia đình trong cảm quan của ngƣời phụ nữ. Qua đó phần nào đánh giá tài
năng và những đóng góp của các nhà văn.
Với con ngƣời, nhất là ngƣời phƣơng Đông, gia đình có vai trò vô
cùng quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh đất nƣớc và thế giới đang có
những đổi thay diện mạo về mọi mặt. Khi bàn về đề tài gia đình, ba nhà
văn có những điểm chung thống nhất song mỗi ngƣời lại có những nét
duyên đặc biệt. Trần Thùy Mai với văn phong nhẹ nhàng, trầm lắng, sâu
sắc. Y Ban lúc dịu dàng khi riết róng, suy tƣ. Và Nguyễn Thị Thu Huệ lại
già dặn, từng trải. Các vấn đề về gia đình đƣợc ba nhà văn đặt ra rất thiết
thực và sâu sắc. Trong đó, họ đi sâu phản ánh thế giới nội tâm của từng đối
tƣợng trong gia đình, đặc biệt là ngƣời phụ nữ. Những hiện trạng của cuộc
sống đƣơng đại đầy phức tạp nhƣ đƣợc trải ra trên từng trang giấy. Họ viết
về những khát vọng chính đáng, những con ngƣời có nhân cách tốt đẹp để
ngợi ca và đem đến cho độc giả niềm tin vào cuộc sống. Bên cạnh đó, ba
nhà văn còn đƣa vào trang viết của mình những mặt trái của những cá nhân
trong gia đình trƣớc sự biến đổi của xã hội. Viết về cái xấu là để mọi ngƣời
109
lên án và xây dựng những điều tốt đẹp.
Qua những trang viết của họ, ngƣời phụ nữ hiện lên với thế giới xúc cảm
phức tạp, mang trong mình những khát vọng mãnh liệt. Tuy nhiên, trên hành
trình đi tìm khát vọng ấy, họ lại lâm vào những bi kịch, đôi khi là bi kịch chất
chồng bi kịch. Hạnh phúc đối với họ chỉ là điều hƣ ảo, mãi mãi không thể
chạm tới. Thế giới của những nữ nhân vật trong truyện ngắn ba tác giả là thế
giới bí ẩn, đầy yêu thƣơng và đức hy sinh nhƣng cũng chông chênh, trắc trở.
Những trang viết về nam giới cũng thật sâu sắc. Xây dựng ngƣời đàn
ông dù là đớn hèn, ích kỉ hay độ lƣợng bao dung thì ẩn đằng sau là cái nhìn
cảm thông, là khát vọng về những đấng mày râu “làm trai cho đáng nên trai”.
Với thiên chức của những ngƣời mẹ, Trần Thùy Mai, Y Ban, Nguyễn
Thị Thu Huệ đã có những trang viết thấm đƣợm yêu thƣơng dành cho những
đứa trẻ. Đó đều là những đứa trẻ đáng thƣơng vì những hoàn cảnh khác nhau
mà không đƣợc sống trong hạnh phúc của những mái ấm gia đình. Viết về
những mảnh đời bất hạnh, các nhà văn không chỉ thể hiện sự cảm thông sâu
sắc mà còn gửi tới mọi ngƣời lời cảnh tỉnh chân thành, tha thiết.
Để thể hiện nội dung ấy, các nhà văn đã sử dụng những phƣơng tiện
nghệ thuật phù hợp. Đó là nghệ thuật miêu tả tâm lý; nghệ thuật sử dụng ngôn
ngữ giản dị nhƣng giàu sức biểu đạt, đặc biệt là ngôn ngữ độc thoại; giọng
điệu trần thuật đa dạng.
Với các truyện ngắn đề cập đến đề tài gia đình, Trần Thùy Mai, Y Ban
và Nguyễn Thị Thu Huệ đã góp tiếng nói quan trọng trong nền văn học đƣơng
110
đại, kế thừa và phát triển những giá trị của văn học dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tác phẩm:
1. Y Ban (1993), Ngƣời đàn bà có ma lực, Nxb Hà Nội
2. Y Ban (1995), Ngƣời đàn bà sinh ra trong bóng đêm, Nxb Hội Nhà văn
3. Y Ban (2006), I am đàn bà, Nxb Phụ nữ
4. Y Ban (2009), Hành trình tờ tiền giả, Nxb Hội Nhà văn
5. Nguyễn Thị Thu Huệ (1992), Cát đợi, Nxb Hà Hội
6. Nguyễn Thị Thu Huệ - Hậu thiên đƣờng
7. Nguyễn Thị Thu Huệ (2003), Nào ta cùng lãng quên, Nxb Hội Nhà văn
8. Nguyễn Thị Thu Huệ (2006), 37 truyện ngắn, Nxb Văn học
9. Nguyễn Thị Thu Huệ (2012) - Thành phố đi vắng, Nxb Trẻ
10. Trần Thùy Mai (1984), Cỏ hát (in chung với Lý Lan), Nxb Tác phẩm mới
11. Trần Thùy Mai (1994), Thị trấn hoa quỳ vàng, Nxb Hội Nhà văn
12. Trần Thùy Mai (1998), Trò chơi cấm, Nxb Trẻ
13. Trần Thùy Mai (2001), Quỷ trong trăng, Nxb Trẻ
14. Trần Thùy Mai (2002), Biển đời ngƣời, Nxb Thuận Hóa
15. Trần Thùy Mai (2003), Thập tự hoa, Nxb Thuận Hóa
16. Trần Thùy Mai (2004), Đêm tái sinh, Nxb Thuận Hóa
17. Trần Thùy Mai (2005), Mƣa đời sau, Nxb Văn nghệ Thành phố
Hồ Chí Minh
18. Trần Thùy Mai (2007), Mƣa ở Strasburg, Nxb Phụ nữ
19. Trần Thùy Mai (2008), Một mình ở Tokyo, Nxb Văn nghệ Thành
phố Hồ Chí Minh
20. Trần Thùy Mai (2010), Onkel yêu dấu, NxbVăn nghệ
111
21. Trần Thùy Mai (2010), Trăng nơi đáy giếng, Nxb Thanh niên
II. Các công trình nghiên cứu đã đƣợc in thành sách hoặc công bố
trên các tạp chí, báo in
22. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội
23. Nguyễn Đăng Điệp (2004), Vọng từ con chữ, Nxb Văn học
24. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật
ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
25. Đỗ Hạnh - Nhà văn Trần Thùy Mai (2004) “Tôi chẳng làm đƣợc gì
nếu không đƣợc yêu”. Tạp chí Ngƣời đẹp Việt Nam, (129)
26. Diệu Hiền (2002), Trần Thùy Mai và những bi kịch của ngƣời phụ
nữ. Tạp chí Kiến thức gia đình, (11)
27. Nguyễn Thái Hòa ( 2000), Những thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục
28. Mai Văn Hoan(2009), Trần Thùy Mai và những giấc mơ hoang
tƣởng. Tạp chí Nhà văn, (9)
29. Phong Lê (2006), Ngƣời trong văn, Nxb Văn hóa Sài Gòn
30. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới,
Nxb Giáo dục
31. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2006), Văn học Việt Nam sau
1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục
32. Phƣơng Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà - Lí
luận văn học, Nxb Giáo dục
33. Phạm Xuân Nguyên - Tuyển tác giả nữ Việt Nam 1975-2007,
Nxb Phụ nữ
34. Vƣơng Trí Nhàn (1996), Phụ nữ và sáng tác văn chƣơng, Tạp chí
Văn học, (6)
35. Lƣu Oanh (2002), Thời hiện tại chƣa hoàn thành của truyện ngắn
112
hiện đại, Tạp chí Văn nghệ Quân đội
36. Việt Thắng (1993), Khi ngƣời ta trẻ (Tản mạn về những cây bút nữ
trẻ), Báo Văn nghệ, (43)
37. Bùi Việt Thắng (1997), Một giọng nữ trầm trong văn chƣơng, Tạp
chí văn hóa, (397)
38. Bùi Việt Thắng (1999), Truyện ngắn, những vấn đề lý thuyết và thực
tiễn thể loại, Nxb Đại học Quốc gia
39. Bùi Việt Thắng (2000), Một bƣớc đi của truyện ngắn, Tạp chí Nhà văn, (3)
40. Bích Thu (2001), Văn xuôi phái đẹp, Tạp chí Sông Hƣơng, (145)
41. Trần Thị Trƣờng (2003), Trần Thùy Mai và những truyện ngắn hay,
Báo Sức khỏe và Đời sống, (24)
42. Viện Ngôn ngữ (1992), Từ điển Tiếng Việt
III. Những bài viết trên báo điện tử
43. Hòa Bình - Y Ban: Bốp chát và nữ tính
http://www.tienphong.vn/van-nghe/y-ban-bop-chat-nu-tinh-506348.tpo
44. Dương Thị Thùy Chi - Nguyễn Thị Thu Huệ lạnh lùng câu chữ xót
xa tâm can http://www.baomoi.com/Nha-van-Nguyen-Thi-Thu-Hue-Lanh-
lung-cau-chu-xa-xot-tam-can/152/11450953.epi
45. Lý Hạnh – Nhà văn Trần Thùy Mai viết về tình yêu không phải để
câu khách http://vnca.cand.com.vn/vi-VN/doisongvanhoa/2008/3/52614.cand
46. Mai Hoàng – Y Ban: Hành trình đến tận cùng thế tục
http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c152/n1685/Hanh-trinh-den-tan-cung-
the-tuc.html
47. Nguyên Hương - Nguyễn Thị Thu Huệ , nhà văn của nồng ấm tình
yêu http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/van-hoa-the-thao-giai-
113
tri/nguyen-thi-thu-hue-nha-van-cua-nong-am-tinh-yeu/207612.html
48. Thu Hƣơng - Nhà văn Y Ban và những giấc mơ về hạnh phúc
http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/nha-van-y-ban-va-
nhung-giac-mo-ve-hanh-phuc-1876270.html
49. Trần Nho Thìn. Nho giáo và nữ quyền. www.khoavanhoc-
ngonngu.edu.vn
50. Linh Thoại - Trần Thùy Mai nối dài cuộc sống từ các nhân vật
http://chuyentrang.tuoitre.vn/TTC/Index.aspx?ArticleID=98542&ChannelID=3
51. Bình Nguyên Trang – Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ gọi lại niềm
tin đã mất http://vnca.cand.com.vn/vi-vn/diendan/2011/11/56546.cand
52. Anh Vân - Lý Lan muốn góp ý với Y Ban về “I am đàn bà”
http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/ly-lan-muon-gop-y-
voi-y-ban-ve-i-am-dan-ba-1895961.html
53. Theo Sinh viên - Nhà văn Y Ban và quan niệm về cuộc sống
http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/nha-van-y-ban-quan-
niem-ve-cuoc-song-1873996.html
54. Theo Lao động - Nhà văn Y Ban và quan niệm sáng tác
http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/nha-van-y-ban-va-
114
quan-niem-sang-tac-1878229.html