VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ SƯƠNG

GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG THI HÀNH ÁN

DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số : 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. VŨ ANH ĐỨC

HÀ NỘI, năm 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số

liệu được sử dụng trong luận văn này có xuất xứ rõ ràng và kết quả nghiên cứu là

do quá trình học tập tích cực và trải qua thực tiễn công tác nhiều năm tại Cục Thi

hành án dân sự tỉnh Quảng Nam của bản thân.

Tác giả

Nguyễn Thị Sương

LỜI CẢM ƠN

Tôi trân trọng cảm ơn quí Thầy Cô giáo Học viện Khoa học xã hội thuộc

Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đã tận tình, chu đáo trong quá trình giảng

dạy và truyền đạt kiến thức cho tác giả.

Tác giả tỏ lòng biết ơn đối với các đồng chí lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự

tỉnh Quảng Nam, Phòng Kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, Phòng Tổ chức cán

bộ - Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam, các đồng nghiệp, các bạn cùng học

và đặc biệt là gia đình đã động viên, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để

tác giả có thể hoàn thành chương trình học tập và luận văn tốt nghiệp cao học.

Với tình cảm trân trọng nhất, tác giả luận văn xin gửi lời cảm ơn chân thành

và sâu sắc tới Tiến sỹ Vũ Anh Đức - Trưởng Ban Tổ chức Tổng liên đoàn lao động

Việt Nam đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong quá trình thực hiện và hoàn

thành luận văn cao học: “Giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự từ thực tiễn

tỉnh Quảng Nam”.

Trân trọng cảm ơn!

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG THI

HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIẢI

QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ................................... 6

1.1. Khái niệm giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự ................................... 6

1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân

sự .............................................................................................................................. 16

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG THI

HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM ........................... 36

2.1. Khái quát về tình hình khiếu nại trong thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh

Quảng Nam. ............................................................................................................. 36

2.2. Khái quát về công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự trên địa bàn

tỉnh Quảng Nam. ...................................................................................................... 40

2.3. Đánh giá về giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh

Quảng Nam. ............................................................................................................. 51

CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM

GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ....................... 62

3.1. Quan điểm tăng cường giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự .............. 62

3.2. Giải pháp tăng cường giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự................ 66

KẾT LUẬN ............................................................................................................. 75

TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ

1 CHV Chấp hành viên

2 CTHADS Cục Thi hành án dân sự

3 KN Khiếu nại

4 THA Thi hành án

5 THADS Thi hành án dân sự

6 TPL Thừa phát lại.

DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu Tên bảng Trang Bảng

Kết quả giải quyết đơn khiếu nại về thi hành án dân sự từ

2.1 năm 2015 đến năm 2019 của Cục thi hành án dân sự tỉnh 51

Quảng Nam

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Để tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, quyền khiếu nại là một

trong nhóm quyền tự nhiên của con người đối với các vấn đề bị vi phạm. Liên hệ

đến Việt Nam, tại Điều 30 của Hiến pháp 2013 đã quy định rõ là: “Mọi người đều

có quyền khiếu nại, tố cáo gửi đến tổ chức, cơ quan, cá nhân có thẩm quyền đối với

các việc làm trái luật của các tổ chức, cơ quan, cá nhân. Các tổ chức, cơ quan và

các cá nhân có chức năng thẩm quyền phải tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố

cáo. Đối với người bị thiệt hại, họ có quyền yêu cầu được bồi thường về tinh thần,

vật chất và phục hồi nhân phẩm danh dự theo luật định. Đồng thời, nghiêm cấm

mọi hành vi lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu cáo, vu khống và làm hại người

khác hoặc trả thù với người khiếu nại, tố cáo”. Theo quy định này, khiếu nại không

chỉ là quyền Hiến định của công dân Việt Nam mà đã được công nhận là quyền con

người, được tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ; là một trong những phương thức thực

hiện quyền tự do, dân chủ, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, giảm bức xúc

trong nhân dân và đây cũng là phương thức để nhân dân thực hiện quyền kiểm tra,

giám sát, quyền làm chủ của mình.

Đặc biệt, trong Thi hành án dân sự - một lĩnh vực công tác có nhiều phức tạp

vì liên quan đến nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, mà vốn dĩ bản thân các lĩnh

vực đó đã rất phức tạp như lĩnh vực đất đai, tài chính, ngân hàng, bán đấu giá tài

sản… Việc tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án sẽ làm phát sinh, thay

đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ về tài sản của các bên đương sự. Đây là lĩnh

vực rất dễ phát sinh khiếu nại vì hoạt động thi hành án dân sự luôn động chạm đến

quyền, lợi ích của công dân và gắn liền với vấn đề vật chất cụ thể, trực tiếp ảnh

hưởng đến quyền về tài sản, nhân thân của các bên đương sự và những người có

liên quan.

Do đó, công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự thời gian qua đã

được Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự, các cơ quan Thi hành án dân sự

địa phương đã tập trung, quan tâm, chú trọng, xác định đây là một nhiệm vụ trọng

1

tâm của Hệ thống Thi hành án dân sự và đã có một số chuyển biến tích cực. Tuy

nhiên, do nhiều lý do khác nhau, cả về mặt chủ quan và khách quan, công tác này

vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế.

Tại tỉnh Quảng Nam công tác thi hành án dân sự ở những năm qua luôn được

đề cao, mặc dù có sự gia tăng cả số lượng lẫn giá trị, song kết quả của việc thi hành

án luôn hoàn thành vượt chỉ tiêu mà Quốc hội đã giao cho. Kết quả này là nhờ sự

tập trung tăng cường giải quyết và sự chỉ đạo đẩy mạnh giải quyết dứt điểm tình

trạng khiếu nại kéo dài đối với các vụ việc, nhất là đối với các vụ việc kê biên có

giá trị lớn; chú trọng các hoạt động đối thoại, hướng dẫn và giải thích, giáo dục và

tuyên truyền thuyết phục, chú trọng vào chất lượng công tác giải quyết và quản lý

tiến độ thực hiện. Nhìn chung, ở nhiều năm qua trong thi hành án dân sự tỉnh

Quảng Nam, công tác giải quyết khiếu nại đã có bước chuyển biến với nhiều mặt

tích cực. Dù vậy, số lượng các vụ việc hàng năm luôn tăng, có khá nhiều vụ việc có

tính phức tạp vì chúng liên quan tới nhiều lĩnh vực, nhiều mặt vấn đề; điều này

khiến việc khiếu nại trong thi hành án dân sự cũng hết sức phức tạp; đơn thư khiếu

nại ngày càng tăng, khiếu nại kéo dài, vượt cấp ngày càng nhiều, cá biệt có vụ việc

khiếu nại làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự tại địa phương và làm giảm đáng kể

niềm tin của người dân vào cơ quan thi hành án dân sự. Hiện trạng này trên địa bàn

tỉnh Quảng Nam đã và đang yêu cầu phải tăng cường công tác giải quyết khiếu nại

trong lĩnh vực thi hành án dân sự.

Từ lý do cấp thiết nêu trên, việc chọn lựa nghiên cứu đề tài: "Giải quyết

khiếu nại trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam" là rất cần thiết

và có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Do sự đòi hỏi khách quan cần thiết của công tác thi hành án dân sự, những

năm qua đã có các nghiên cứu khoa học xoay quanh chủ đề này. Tiêu biểu đó là:

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (mã số 96-98-027/ĐT): Mô hình quản lý

thống nhất công tác thi hành án, của Tổng cục Thi hành án dân sự trực thuộc Bộ

Tư pháp.

2

- Luận án Tiến sĩ ngành Luật học năm 2008: “Pháp luật thi hành án dân sự

Việt Nam giai đoạn hiện nay” của tác giả Nguyễn Thanh Thuỷ, Học viện Chính trị -

- Đề tài khoa học cấp cơ sở năm 2010: “Triển khai áp dụng Luật thi hành án

Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

dân sự trong công tác đào tạo nghiệp vụ thi hành án” của TS. Lê Thu Hà, Học viện

Tư pháp, Hà Nội.

- Luận án Tiến sĩ ngành Luật học năm 2013: “Giám sát thi hành án dân sự”

của tác giả Hoàng Thế Anh, Đại học Quốc gia Hà Nội.

- Huỳnh Thị Nam Hải, Tài liệu học tập thi hành án dân sự, do Nhà xuất bản

Đại học Quốc gia Thành phố. Hồ Chí Minh ấn hành.

Mặt khác, có nhiều công trình nghiên cứu khác dưới dạng các bài viết có liên

quan được đăng tải ở các tạp chí chuyên ngành, như: Tạp chí Nhà nước và pháp

luật, Tạp chí Luật học, Tạp chí Dân chủ và pháp luật…

Những công trình, tài liệu nghiên cứu được nêu trên đã tiếp cận công tác giải

quyết khiếu nại ở lĩnh vực THADS với nhiều khía cạnh, góc nhìn khá đa dạng. Dù

vậy, đến nay vẫn chưa có công trình khoa học cụ thể nào nghiên cứu về công tác

giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Đề tài luận văn có mục đích xây dựng luận cứ khoa học về giải quyết khiếu

nại trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục đích nghiên cứu của đề tài này, luận văn phải triển khai các

nhiệm vụ cụ thể dưới đây:

- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về giải quyết khiếu nại ở lĩnh vực thi

hành án dân sự;

- Nghiên cứu phân tích làm rõ thực trạng công tác giải quyết khiếu nại trong

thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Nam và xác định rõ nguyên nhân của nó;

- Đề xuất quan điểm và các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại

3

trong thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đó là giải quyết khiếu nại trong THADS.

4.2. Phạm vi nghiên cứu:

Phạm vi không gian: nghiên cứu trong phạm vi giải quyết khiếu nại về

THADS của hệ thống cơ quan THADS tại tỉnh Quảng Nam, gồm có: Cục thi hành

án dân sự cấp tỉnh và 18 Chi cục thi hành án dân sự cấp huyện của tỉnh Quảng

Nam.

Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu giai đoạn từ 2015 - 2019.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Đề tài được dựa trên cách tiếp cận của phương pháp luận Chủ nghĩa Mác - Lê

Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh để nghiên cứu về pháp luật giải quyết khiếu nại trong

THADS.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng kết hợp những phương pháp cụ thể như: Phương pháp tổng

hợp; phương pháp phân tích các văn bản quy phạm pháp luật, các tài liệu thứ cấp;

phương pháp thống kê và so sánh, phương pháp diễn dịch và quy nạp… để nghiên

cứu công tác giải quyết khiếu nại trong THADS ở Quảng Nam.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn hệ thống hóa một bước làm sâu sắc hơn vấn đề lý luận về giải quyết

khiếu nại trong THADS.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết khiếu nại trong THADS

tại tỉnh Quảng Nam và xác định rõ nguyên nhân của nó, kết quả luận văn góp phần

đề xuất đến chính quyền địa phương về giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết

khiếu nại trong THADS từ thực tiễn của tỉnh Quảng Nam hiện nay. Đồng thời, kết

4

quả luận văn còn được dùng làm vốn tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, đào tạo

về lĩnh vực này.

7. Kết cấu luận văn

Bên cạnh các phần mở đầu, phần kết luận cũng như phần danh mục tài liệu

tham khảo, thì phần nội dung luận văn có kết cấu 3 chương, đó là:

Chương 1: Khái quát về giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự và quy

định của pháp luật Việt Nam về giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự.

Chương 2: Thực trạng giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự trên địa

bàn tỉnh Quảng Nam;

Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường giải quyết khiếu nại trong

thi hành án dân sự.

5

CHƯƠNG 1

KHÁI QUÁT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI

TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM

VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1. Khái niệm giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự

1.1.1. Khái quát giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự:

1.1.1.1. Khái niệm khiếu nại trong thi hành án dân sự

Theo Đại từ điển tiếng Việt, khiếu nại là thuật ngữ được hiểu về sự "thắc mắc,

đề nghị việc xem xét lại các quyết định, các kết luận của cấp có thẩm quyền đã

chuẩn y, đã làm. Sự thắc mắc, đề nghị về thực chất đó là sự phản ứng của người

khiếu nại trước các quyết định, kết luận của cấp có thẩm quyền đã chuẩn y, đã làm”

(Đại từ điển tiếng Việt; trang 904, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1999). Mặc dù

vậy, quan niệm này vẫn còn chưa hoàn toàn đầy đủ, bởi trong thực tiễn khiếu nại

thì không chỉ trước các quyết định, kết luận mà còn có thể khiếu nại về các hành vi

hay cách hành xử của các cơ quan tổ chức và những người có thẩm quyền.

Trên cơ sở của những dấu hiệu chung nhất, khiếu nại về cơ bản được hiểu là

một cách thức phản ứng tự vệ của tổ chức, cơ quan và công dân về những quyết

định, hành vi của các tổ chức, cơ quan chức năng và người có thẩm quyền khi có

dấu hiệu xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của họ.

Khiếu nại vốn là hiện tượng xã hội phát sinh trong đời sống thực tiễn, nó biểu

thị về sự phản ứng của tổ chức, của con người về quyết định hay hành vi nào đó mà

họ cho rằng là không phù hợp với quy tắc, chuẩn mực trong đời sống xã hội, xâm

phạm tới quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của họ.

Quyền khiếu nại là một trong các quyền cơ bản của công dân đã được Hiến

pháp và pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện. Tại Điều 30 của Hiến pháp năm

2013 đã quy định rõ:

6

“1. Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo đến tổ chức, cơ quan, cá nhân có

thẩm quyền về các việc làm trái luật của tổ chức, cơ quan, cá nhân.

Tổ chức, cơ quan và cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận và giải quyết

khiếu nại, tố cáo. Đối với người bị thiệt hại, họ có quyền được bồi thường về tinh

thần, vật chất và phục hồi danh dự theo luật định.

2. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu

nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.”

Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi

nhanạ quyền KN của công dân đã tạ cơ sở pháp lý cho họ để họ thực hiện quyền

của mình, thông qua việc thực hiện quyền, công dân đã góp phần tích cực vào hoạt

động quản lý nhà nước, quản lý xã hội và bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.

Cơ quan THADS, trong quá trình tổ chức thi hành các bản án đã trực tiếp tác

động đến các đương sự, bao gồm người được THA, người phải THA, người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, thực hiện việc giáo dục, thuyết phục đương sự tự

nguyện thực hiện các nghĩa vụ mà bản án, quyết định đã tuyên, nếu họ cố ý không

thực hiện sẽ cưỡng chế THA để buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ theo nội dung bản

án, quyết định đã nêu. Từ đó cho thấy, hoạt động THADS tác động trực tiếp đến

các quyền và lợi ích của cả người phải THA, người được THA và người có quyền

lợi, nghĩa vụ liên quan.

Đối với người phải THA, nghĩa vụ phải thi hành các khoản tiền, tài sản đã

được xác định rõ trong quyết định, bản án, nhưng xét về mặt tâm lý, người phải

THA luôn có tâm lý dây dưa kéo dài, thi hành không đầy đủ, thậm chí là không thi

hành. Còn đối với người được THA, về tâm lý luôn muốn được sớm THA, được

nhanạ tiền, tài sản càng sớm càng tốt, nên luôn có tâm lý đề phòng, bất cứ một

hành vi, một quyết định nào của CHV, của cơ quan THADS làm chậm quá trình

được nhận tiền, tài sản hoặc nhận tiền, tài sản ít hơn mong đợt đều dẫn đến suy

nghĩ cho rằng CHV, cơ quan THADS làm trái pháp luật, thực hiện nhiệm vụ không

công tâm, không minh bạch, không công bằng.

7

Thi hành án dân sự vốn là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, nên ở

một số nơi trong quá trình thi hành án có một vài vụ việc xảy đến hiện tượng lạm

dụng quyền hành của cơ quan thi hành án dân sự hay chấp hành viên, áp đặt ý chí

trái luật, trái thẩm quyền, hoặc vì nhận thức hạn chế mà dẫn đến áp dụng sai luật

pháp, tổ chức thi hành sai bản án lên những chủ thể khiến cho lợi ích nhà nước;

cũng như quyền lợi hợp pháp, chính đáng của công dân, tổ chức bị xâm phạm...

Tất cả những yếu tố trên đã tác động đếm tâm lý của các bên đương sự, họ

cho rằng, quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại nên có thái độ chống đối,

bất hợp tác và dẫn đến việc khiếu nại các hành vi và quyết định của CHV và cơ

quan THADS.

Như vậy, khiếu nại trong thi hành án dân sự được hiểu đó là việc các bên

đương sự liên quan tới quyền lợi trong thi hành án họ có nghĩa vụ đề nghị lên cấp

có thẩm quyền xem xét lại quyết định, hành vi của chấp hành viên, Thủ trưởng cơ

quan thi hành án dân sự một khi có căn cứ xác định về quyết định, hành vi này là

trái luật, xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của họ.

1.1.1.2. Khái niệm giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự

Cùng với quyền khiếu nại của các đương sự có nghĩa vụ, quyền lợi liên quan,

đó chính là cấp có thẩm quyền (các tổ chức, cơ quan và cá nhân) có nghĩa vụ giải

quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự. Việc thực hiện hiệu quả công tác giải

quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự vừa bảo vệ sự công bằng khi bảo đảm

quyền lợi hợp pháp, chính đáng cho các đương sự có liên quan; vừa đồng thời đóng

góp vào việc cải thiện hiệu quả công tác thi hành án dân sự, bảo đảm hiệu lực thi

hành quyết định bản án của Tòa án trên thực tế, giảm thiểu các vụ việc tồn đọng

trong thi hành án. Theo đó tạo dựng niềm tin xã hội đối với công tác thi hành án

dân sự.

Công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự mang đậm bản chất,

mục đích, ý nghĩa và nội dung của công tác này. Xét về bản chất của giải quyết

khiếu nại trong thi hành án dân sự, cấp có thẩm quyền thực hiện những hoạt động

cần thiết để làm rõ việc khiếu nại, mà cụ thể là rà soát lại các quyết định, hành vi

8

của chấp hành viên hoặc Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có trái luật hay

không, liệu có xâm phạm tới quyền lợi hợp pháp của người khiếu nại không. Nếu

có, thì xem xét về mức độ, tính chất và hậu quả của sự xâm phạm đó. Đây là căn cứ

để kết luận rõ đối với từng vấn đề cụ thể có liên quan, tạo chứng cứ vững chắc để

ra quyết định giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự. Cùng với quá trình giải

quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự, Cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại

(cơ quan và người có thẩm quyền): vừa phải sử dụng các bằng chứng tài liệu được

tiếp nhận từ bên khiếu nại; vừa phải tổ chức việc xác minh, đối chứng và thu thập

thêm thông tin, văn bản tài liệu có liên quan nhằm có đầy đủ căn cứ để kết luận

đúng đắn và ban hành quyết định giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự một

cách chính xác (kết luận về mức độ đúng, hay đúng một phần hoặc cả nội dung

khiếu nại là sai). Tùy theo mức độ cụ thể để ban hành quyết định giải quyết khiếu

nại đúng luật và hợp lý tương ứng với các hướng áp dụng giữ nguyên hoặc hủy bỏ/

sửa đổi hay yêu cầu hủy bỏ/ sửa đổi một phần đối với quyết định, hành vi bị khiếu

nại trong thi hành án dân sự hoặc bắt buộc phải chấm dứt việc thi hành quyết định,

hành vi bị khiếu nại này; kèm theo đó là ra quyết định khắc phục hậu quả và bồi

thường thiệt hại mà do quyết định, hành vi trái luật đó gây nên.

Công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự phải được tiến hành

tuân thủ theo luật định, kể cả quy định của pháp luật về chuyên ngành có liên quan.

Thí dụ, khi giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự về nội dung quyết định

phong tỏa tài khoản ngân hàng hoặc về quyết định kê biên quyền sử dụng đất, thì

bên cạnh phải tuân thủ các quy định trong giải quyết khiếu nại lĩnh vực thi hành án

dân sự, thì người giải quyết khiếu nại còn phải tuân thủ việc áp dụng pháp luật về

ngân hàng, pháp luật đất đai...

Như vậy, chúng ta có thể đưa ra khái niệm giải quyết KN về THADS:

Giải quyết KN trong THADS là việc cơ quan có thẩm quyền thụ lý, xác minh

và ra quyết định giải quyết KN đối với KN của người KN khi họ cho rằng quyết

định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan THADS hoặc CHV là trái pháp luật, xâm

phạm quyền và lợi ích của mình.

9

1.1.2. Về chủ thể của khiếu nại

Các bên đương sự gồm có: người được thi hành án và người phải THA. Tại

khoản 1 thuộc Điều 140 của Luật Thi hành án dân sự 2014 đã quy định rằng:

Đương sự, người có nghĩa vụ, quyền lợi liên quan họ có quyền khiếu nại về quyết

định, hành vi của chấp hành viên, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự một khi

có căn cứ cho rằng hành vi, quyết định nào đó trái luật, xâm phạm lợi ích và quyền

hợp pháp của họ.

Người được thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức được quyết định, bản án

có hiệu lực pháp luật tuyên được hưởng quyền, lợi ích trong bản án, quyết định

được thi hành và quyết định thi hành án của cơ quan THADS ấn định là người

được thi hành án (khoản 2 Điều 3 Luật THADS năm 2014).

Người phải thi hành án là người mà trong các quyết định, bản án có hiệu lực

pháp luật tuyên là người có nghĩa vụ phải thực hiện trách nhiệm pháp lý nào đó

(như buộc phải bồi thường dân sự, buộc phải thanh toán một khoản nợ nào đó, buộc

thực hiện hay không thực hiện công việc nhất định...). Như vậy người phải thi hành

án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định

được thi hành (khoản 3 Điều 3 Luật THADS 2014)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền

lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án của

đương sự (khoản 4 Điều 3 Luật THADS năm 2014) bao gồm như: Người có tài sản

chung với người phải thi hành án hoặc người đồng sở hữu tài sản với người phải thi

hành án; người đang quản lý, sử dụng tài sản của người phải thi hành án; người

đang có tranh chấp hoặc nhận chuyển nhượng tài sản của người phải thi hành án

khi họ bị tác động một cách trực tiếp bởi một quyết định, hành vi của chấp hành

viên trong quá trình tổ chức thi hành án mà quyết định, hành vi đó của chấp hành

viên làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ.

Đối chiếu với các quy định như trên thì chủ thể thực hiện quyền khiếu nại

trong THADS có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức gồm người được thi hành án,

10

người phải thi hành án và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc

thi hành án và phía bên kia là Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự.

1.1.3. Về khách thể của khiếu nại

Khách thể của khiếu nại trong THADS là những lợi ích về cả mặt vật chất,

tinh thần, pháp lý, đôi khi còn là nhưng lợi ích về mặt chính trị mà chủ thể khiếu

nại mong muốn đạt được nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình và họ cho rằng đó là

quyền và lợi ích hợp pháp mà họ đáng được nhận.

1.1.4. Về đối tượng của khiếu nại

Khiếu nại trong thi hành án dân sự là việc tổ chức, cơ quan, công dân hoặc

người cán bộ công chức căn cứ thủ tục theo quy định của pháp luật hiện hành để đề

nghị cấp có thẩm quyền (tổ chức, cơ quan, cá nhân có thẩm quyền) xem xét lại

hành vi, quyết định của chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự, công chức

khác một khi có căn cứ cho rằng hành vi hoặc quyết định nào đó trái luật, xâm

phạm lợi quyền hợp pháp của họ.

Vì vậy, đối tượng của khiếu nại luôn là các quyết định, hành vi của Thủ

trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên, công chức khác có liên quan.

Những quyết định, hành vi này bị cho là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích

hợp pháp của các chủ thể bị áp dụng và tác động bởi quyết định, hành vi đó. Các

quyết định trong thi hành án dân sự có thể là quyết định thi hành án theo đơn yêu

cầu, quyết định thi hành án chủ động, quyết định kê biên, cưỡng chế, xử lý tài sản,

quyết định cấm chuyển dịch, chuyển nhượng tài sản, quyết định xử phạt vi phạm

hành chính, quyết định tạm hoãn xuất cảnh vì phải chấp hành nghĩa vụ của bản án,

quyết định cưỡng chế giao tài sản, quyết định giải quyết khiếu nại của cơ quan thi

hành án dân sự cấp dưới...

1.1.5. Phân loại các quyết định, hành vi bị khiếu nại thành các nhóm khác

nhau như sau

+ Đối với nhóm hành vi, quyết định về THADS trước khi triển khai áp dụng

các biện pháp cưỡng chế, biện pháp bảo đảm, chúng bao gồm: các hành vi, quyết

định mà thủ trưởng cơ quan THADS, Chấp hành viên đã ban hành hoặc thực hiện

11

các hành vi mà trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế, biện pháp bảo đảm như

quyết định THADS theo đơn yêu cầu, quyết định THA chủ động, quyết định về xử

phạt vi phạm hành chính hoặc hành vi không giao quyết định về THADS cho

đương sự, không thông báo cho bên đương sự, không mời bên đương sự lên làm

việc, hay không xác minh theo yêu cầu của bên đương sự,.

+ Đối với nhóm hành vi, quyết định trong khi áp dụng biện pháp cưỡng chế

THADS, đó là: quyết định kê biên để xử lý tài sản; quyết định khấu trừ đối với tiền

trong tài khoản; quyết địnhvề việc trừ vào thu nhập của người phải THADS hay

hành vi không thông báo thời gian cưỡng chế, kê biên tài sản mà không được quyền

kê biên, kê biên dư/ thiếu tài sản.

+ Đối với nhóm hành vi, quyết định THADS sau khi áp dụng biện pháp

cưỡng chế, đó là: quyết định giảm giá tài sản; quyết định trả lại tài sản; quyết định

về không thực hiện giao tài sản bán đấu giá thành hoặc hành vi không thực hiện sự

thông báo thỏa thuận giá trị tài sản kê biên.

Việc phân loại thành các nhóm quyết định, hành vi như trên chỉ mang tính

tương đối và có phạm vi hẹp hơn đối tượng khiếu nại hành chính vì các quyết định,

hành vi trong lĩnh vực thi hành án dân sự là đối tượng của khiếu nại chỉ được giới

hạn bởi quyết định, hành vi của Chấp hành viên, thủ trưởng của cơ quan thi hành

án dân sự.

1.1.6. Về nội dung khiếu nại

Là những mâu thuẫn, bất đồng, sự không thống nhất, nặng nề hơn là sự xung

đột về lợi ích trong quá trình Chấp hành viên tổ chức thi hành án như chậm ra

quyết định thi hành án, chậm tổ chức thi hành án, kê biên tài sản sai đối tượng, bán

đấu giá tài sản không đúng trình tự thủ tục, thanh toán tiền thi hành án không đúng

quy định và trong quá trình cơ quan thi hành án dân sự giải quyết các khiếu nại như

không giải quyết khiếu nại, giải quyết không phù hợp với các quy định của pháp

luật.

1.1.7. Tầm quan trọng, vai trò của giải quyết khiếu nại trong THADS

12

Công tác giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự là một trong nhiệm vụ

hoạt động có vai trò quan trọng của hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước.

Một là, bảo vệ lợi ích Nhà nước cũng như bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính

đáng của công dân, các tổ chức.

Vì thi hành án dân sự là hoạt động mang đặc tính quyền lực của nhà nước, nên

quá trình thi hành án tình trạng chấp hành viên hay thủ trưởng cơ quan thi hành án

dân sự có thể lợi dụng/ lạm dụng quyền lực để ra hành vi, quyết định trái luật hoặc

có thể vì có sự hạn chế nhận thức mà áp dụng sai luật, tổ chức thi hành không đúng

quyết định bản án của Tòa án, khiến cho lợi ích nhà nước cũng như quyền lợi của

công dân, tổ chức bị xâm phạm.

Quá trình thực thi tốt việc giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự thì chẳng

những là đảm bảo quyền khiếu nại thực tế của các bên đương sự được thực thi, mà

nó còn đóng góp quan trọng vào việc khắc phục các sai phạm trong quá trình tổ

chức thi hành án dân sự do hành vi, quyết định trái luật của chấp hành viên, Thủ

trưởng cơ quan thi hành án dân sự gây ra. Mặ khác, ở trường hợp khiếu nại không

đúng thì công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự sẽ tái khẳng định về

tính đúng đắn của hành vi, quyết định của bên bị khiếu nại. Do đó, phải khẳng định

là công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự đóng góp tích cực vào việc

đảm bảo các hoạt động thi hành án dân sự được nghiêm túc và đúng luật, đảm bảo

cả lợi ích nhà nước và quyền lợi hợp pháp và chính đáng của các bên đương sự.

Hai là, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật về thi hành dân sự của tổ chức, cơ

quan và công dân, góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm và đạo đức công vụ của

đội ngũ công chức trong hệ thống cơ quan thi hành án dân sự

Thi hành án dân sự không chỉ là hoạt động nghiệp vụ đơn thuần của riêng cơ

quan thi hành án dân sự, của chấp hành viên mà còn là trách nhiệm của các cấp ủy

Đảng, chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể và mọi thành viên trong xã

hội. Khi có khiếu nại trong thi hành án dân sự phát sinh, kết quả của công tác giải

quyết khiếu nại mang ý nghĩa, vai trò tác động một cách trực tiếp rất quan trọng tới

việc củng cố lòng tin nhân dân vào tính thượng tôn pháp luật, tính nghiêm minh và

13

công bằng của quyết định bản án, của Tòa án; cũng như kiểm chứng về chất lượng,

hiệu quả và đúng pháp luật của cơ quan thi hành các quyết định bản án của Tòa án.

Bằng việc giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự, đặc biệt là thông qua

các kết luận, quyết định của cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì người khiếu

nại sẽ có điều kiện nhận thức đầy đủ hơn về pháp luật hiện hành. Hơn nữa, trong

thực tiễn vốn có trường hợp là một số đương sự cũng lợi dụng quyền khiếu nại để

cố tình khiếu nại mà không có căn cứ, khiếu nại vượt cấp… với dụng ý kéo dài thời

gian thi hành án dân sự; Hoặc có trường hợp mặc dù một số đương sự biết rằng thời

hiệu của khiếu nại đã chấm dứt, song họ vẫn cố tình khiếu nại với mục đích cản trở/

gây rối quá trình thi hành án dân sự... Để giải quyết các trường hợp này, kết quả

giải quyết khiếu nại cùng với sự giải thích, hướng dẫn của những người có trách

nhiệm, nhất là sử dụng quyền từ chối thụ lý giải quyết đối với các đơn khiếu nại

thuộc trường hợp không được thụ lý theo luật định; có như vậy sẽ giúp cho đương

sự nhận thức rõ hơn về khiếu nại là quyền mà pháp luật cho phép, nhưng không thể

thực hiện tùy tiện về quyền này một cách tràn lan; hoặc lợi dụng quyền này để gây

rối trật tự hoặc trốn tránh nghĩa vụ trước pháp luật.

Với ý nghĩa đó, bằng việc thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại trong thi

hành án dân sự, các đương sự sẽ nhận thức sâu sắc pháp luật về thi hành án dân sự

và pháp luật giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự. Qua đó giúp cho họ nâng

cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật.

Đối với cán bộ công chức của cơ quan thi hành án dân sự, từ công tác giải

quyết khiếu nại trong thực tế sẽ giúp cho chấp hành viên, Thủ trưởng cơ quan thi

hành án dân sự có điều kiện rà soát đánh giá lại để kiểm chứng tính đúng luật và

hợp lý của hành vi, quyết định của mình. Nhờ đó, họ cũng rút ra bài học kinh

nghiệm, kỹ năng để gia tăng chất lượng và hiệu quả trong công tác này; cũng như

nâng cao ý thức trách nhiệm và đạo đức công vụ của họ.

Ba là, giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước chủ động phát hiện kịp thời đối

với những bất cập/ khoảng trống trong thể chế chính sách pháp luật hoặc các lỗ

hổng trong công tác quản lý nhà nước về THADS

14

Xét về bản chất, khiếu nại là sự phản ứng của người dân trước những việc làm

sai trái của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp

pháp của họ. Khiếu nại ở phạm vi rộng hơn, đó còn là thái độ, hành vi phản ứng

của người dân về chính sách, cơ chế quản lý nhà nước. Vì thế, công tác giải quyết

khiếu nại trong thi hành án dân sự thì cùng với việc phải bảo vệ quyền lợi chính

đáng cho người khiếu nại, thì đồng thời còn trợ giúp cho các cơ quan quản lý nhà

nước sớm phát hiện để kịp thời khắc phục các bất cập trong thể chế chính sách

pháp luật, những lỗ hổng trong quá trình quản lý nhà nước. Cụ thể là, bằng công tác

giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự, cơ quan quản lý nhà nước ở lĩnh vực

này sẽ chủ động hơn trong phát hiện đối với các bất cập đặt ra trong pháp luật về

lĩnh vực thi hành án dân sự. Ở đó, có thể là các “kẻ hở” của luật pháp hay có sự

không tương thích (sự không thống nhất, đồng bộ) của pháp luật về lĩnh vực thi

hành án dân sự với pháp luật về các lĩnh vực khác. Nếu có sự chủ động việc phát

hiện này là cơ sở thực tiễn rất quan trọng để hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực thi

hành án dân sự.

Hơn nữa, bằng công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự, các cơ

quan quản lý nhà nước về thi hành án dân sự sớm rà soát hiện trạng về bất cập/ hạn

chế trong công tác quản lý của mình; mà nhờ đó có giải pháp điều chỉnh sắp xếp

hợp lý về tổ chức bộ máy, chính sách đối với cán bộ, đổi mới quy trình thủ tục,

điều chỉnh phương thức giám sát, đôn đốc, thanh kiểm tra đối với lĩnh vực thi hành

án dân sự và công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự.

Bốn là, duy trì và tái thiết ổn định và trật tự an toàn xã hội, củng cố và tạo

dựng lòng tin nhân dân đối với luật pháp hiện hành

Thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự giúp đẩy

nhanh quá trình tổ chức thi hành án, bảo đảm những phán quyết của Tòa án trở

thành hiện thực. Mặc khác, từ thực thi tốt công tác giải quyết khiếu nại về thi hành

án dân sự sẽ giúp khôi phục trả lại quyền lợi hợp pháp, chính đáng của đương sự đã

bị xâm hại; qua đó hạn chế/ giảm thiểu được các vấn đề khiếu nại kéo dài, góp

phần duy trì môi trường ổn định và trật tự an toàn xã hội. Ngoài ra, việc thực hiện

15

tốt công tác này trên cơ sở đề cao tính nghiêm minh pháp luật cũng giúp cho kịp

thời phát hiện và xử lý nghiêm các sai phạm, tiêu cực, tham nhũng (nếu có) của

chấp hành viên và Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, củng cố lòng tin nhân

dân với Đảng và Nhà nước ta, cũng như với các cơ quan bảo vệ pháp luật.

Năm là, tăng cường pháp chế XHCN

Pháp chế XHCN là chế độ thực thi nghiêm minh pháp luật, thể hiện tính nhất

quán và nâng cao sự tự giác của các cơ quan quản lý nhà nước, các đoàn thể nhân

dân, cán bộ, công chức, các doanh nghiệp và mọi công dân. Như vậy, việc tăng

cường pháp chế XHCN đối với công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân

sự sẽ buộc các chủ thể tham gia phải tự giác và tuân thủ trong quá trình thực hiện.

Nhờ đó vừa đóng góp vào việc bảo vệ lợi ích Nhà nước cũng như quyền lợi hợp

pháp, chính đáng của công dân và các tổ chức; vừa tạo lập môi trường ổn định và

bảo đảm trật tự an toàn xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân vào chính sách pháp

luật của nhà nước; cũng như giúp đề cao ý thức người dân tuân thủ chấp hành pháp

luật. Mặt khác, công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự được thực thi

nghiêm minh và triệt để, tạo thuận lợi cho quá trình đẩy nhanh việc tổ chức thi

hành án dân sự.

1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết khiếu nại trong thi

hành án dân sự

1.2.1. Người có quyền khiếu nại trong thi hành án dân sự

Luật Khiếu nại 2011 quy định, người có quyền khiếu nại là công dân, tổ chức,

cơ quan hoặc người công chức, cán bộ có quyền lợi bị xâm hại do hành vi hành

chính, quyết định hành chính hay một quyết định kỷ luật đối với cán bộ, công chức

gây ra hoặc người đại diện hợp pháp của các chủ thể này thực hiện quyền khiếu nại.

Nói cách khác, người có quyền khiếu nại là đối tượng bị tác động một cách trực

tiếp bởi hành vi, quyết định nêu trên.

Theo quy định của Luật THADS năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014 thì

những người có quyền KN về THADS bao gồm:

16

Thứ nhất, người được thi hành án dân sự là tổ chức, cơ quan, cá nhân được

hưởng quyền lợi trong quyết định bản án được thi hành.

Thứ hai, người phải thi hành án dân sự là tổ chức, cơ quan, cá nhân buộc phải

thực hiện nghĩa vụ trong quyết định bản án được thi hành.

Thứ ba, người có nghĩa vụ và quyền lợi liên quan, đó là tổ chức, cơ quan, cá

nhân có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp tới việc thực hiện nghĩa vụ và quyền

thi hành án của đương sự.

Từ cơ sở này đối chiếu với các quy định của Luật Thi hành án dân sự 2008,

chủ thể thực hiện quyền khiếu nại ở lĩnh vực thi hành án dân sự là tổ chức, cơ quan,

cá nhân.

1.2.2. Đối tượng khiếu nại trong thi hành án dân sự

Luật Khiếu nại 2011 quy định: đối tượng khiếu nại là hành vi hành chính,

quyết định hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền

trong cơ quan này hoặc quyết định kỷ luật đối với cán bộ, công chức một khi có

căn cứ cho rằng hành vi hay quyết định ấy trái luật, xâm phạm đến quyền lợi hợp

pháp của người khiếu nại.

Luật Thi hành án dân sự 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định, đối tượng

khiếu nại trong thi hành án dân sự là các quyết định hoặc hành vi của chấp hành

viên, của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự.

Thứ nhất: Quyết định thi hành án:

Những quyết định thuộc thẩm quyền ban hành của chấp hành viên, của Thủ

trưởng cơ quan thi hành án dân sự, đó là: quyết định về việc chưa có điều kiện thi

hành án; quyết định thi hành án; quyết định hoãn; quyết định tạm đình chỉ; quyết

định đình chỉ thi hành án; quyết định cưỡng chế về thi hành án đều thuộc đối tượng

khiếu nại trong thi hành án dân sự.

Người có quyền khiếu nại được thực hiện quyền khiếu nại trong thi hành án

dân sự trong trường hợp khi nhận được một trong số những quyết định được nêu

trên - nếu cho rằng quyết định này trái luật, xâm phạm tới quyền lợi hợp pháp của

họ.

17

Thứ hai: Hành vi về thi hành án:

Một khi cho rằng hành vi của chấp hành viên hoặc của Thủ trưởng cơ quan thi

hành án dân sự đã xâm phạm tới quyền lợi hợp pháp của mình, người có quyền

khiếu nại được thực hiện quyền khiếu nại trong thi hành án dân sự. Hành vi về thi

hành án dân sự bị khiếu nại thường xảy đến ở các trường hợp: Chậm tổ chức thi

hành án; chậm ra quyết định thi hành án dân sự; không xác minh về điều kiện thi

hành án dân sự theo yêu cầu của người được thi hành án dân sự; không tổ chức thi

hành án dân sự dứt khoát đối với đối tượng phải thi hành án có điều kiện thi hành;

không hướng dẫn thực hiện quyền của đương sự và người có nghĩa vụ, quyền lợi

liên quan mà pháp luật yêu cầu chấp hành viên phải hướng dẫn, bán đấu giá khi

không có căn cứ xác lập thẩm quyền bán đấu giá của chấp hành viên; lập biên bản

nhưng không giao cho người được nhận theo luật định; tiến hành những hoạt động

nghiệp vụ mà không lập biên bản; không triệu tập người phải thi hành án dân sự để

thực hiện thi hành án; không tiến hành áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án

dân sự khi đối tượng phải thi hành án dân sự có điều kiện thi hành; kê biên và xử lý

tài sản sai đối tượng hoặc không tương ứng với giá trị phải THA/ kê biên tài sản đã

thế chấp; chấp hành viên không chứng kiến việc thoả thuận của các đương sự khi

luật yêu cầu.

Tại khoản 2 thuộc Điều 140 của Luật Thi hành án dân sự 2008 đã phân loại

những hành vi, quyết định bị khiếu nại tuỳ thuộc vào tính chất và giai đoạn thi

hành án dân sự mà hình thành những nhóm khác nhau:

Thứ nhất, nhóm hành vi, quyết định về thi hành án dân sự trong giai đoạn

trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế, biện pháp bảo đảm.

Thứ hai, nhóm hành vi, quyết định trong giai đoạn áp dụng các biện pháp về

phong toả tài khoản ngân hàng, biện pháp bảo đảm khác.

Thứ ba, nhóm hành vi, quyết định trong giai đoạn áp dụng biện pháp cưỡng

chế.

Thứ tư, nhóm hành vi, quyết định ở giai đoạn sau khi áp dụng biện pháp

cưỡng chế.

18

Với việc phân chia đã nêu trên là vì mục đích định hướng giúp cho cấp có

thẩm quyền kịp thời giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự một cách hợp lý.

Hơn nữa, tùy vào nhóm hành vi, quyết định về thi hành án dân sự bị khiếu nại, Luật

thi hành án dân sự 2008 có quy định về thời hiệu khiếu nại của bên đương sự, quy

định về thời hạn giải quyết khiếu nại của cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại

trong thi hành án dân sự.

1.2.3. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự

Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự là Bộ trưởng

Bộ Tư pháp, Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự, người Thủ trưởng cơ

quan Thi hành án dân sự (như Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự và Chi cục

trưởng Chi cục thi hành án dân sự).

Công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự về cơ bản thực hiện

theo quy trình 02 cấp. Ở từng cấp đều có quy định riêng về thẩm quyền giải quyết

khiếu nại, đó là:

Một là, thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong THADS lần đầu (lần 01).

Giải quyết KN lần đầu về THADS thuộc thẩm quyền của Chi cục trưởng Chi

cục THADS, Cục trưởng Cục THADS, Tổng cục trưởng Tổng cục THADS được

quy định tại Điều 142 Luật THADS năm 2008.

(1) Thẩm quyền giải quyết của Chi cục trưởng Chi cục thi hành án dân sự: Đó

là Chi cục trưởng ở cấp huyện có thẩm quyền giải quyết khiếu nại các hành vi,

quyết định trái luật của chấp hành viên thuộc Chi cục thi hành án dân sự cấp huyện

mình quản lý.

Mặt khác, về quy trình giải quyết đơn tố cáo, khiếu nại, kiến nghị, đề nghị,

phản ánh trong thi hành án dân sự theo Thông tư 02/2016/TT-BTP (có hiệu lực từ

ngày 16 tháng 3 năm 2016), thể hiện rõ ở điểm a thuộc khoản 1 Điều 7 của Thông

tư 02 này là có một điểm mới về quy định thẩm quyền của Chi cục trưởng Chi cục

thi hành án dân sự: là giải quyết khiếu nại hành vi, quyết định của Phó Chi cục

trưởng Chi cục thi hành án dân sự khi thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ của chấp

hành viên.

19

Theo pháp luật hiện hành, Chi cục trưởng của Chi cục thi hành án dân sự

đồng thời là chấp hành viên, do đó họ cũng trực tiếp tham gia tổ chức thi hành vụ

việc với quyền hạn, nhiệm vụ của chấp hành viên theo luật định. Vì thế, cần lưu ý

rằng: khi xảy ra trường hợp khiếu nại về hành vi, quyết định của Chi cục trưởng

của Chi cục thi hành án dân sự thì phải rà soát lại về tên quyết định bị khiếu nại và

chữ ký quyết định của người này với tư cách của chấp hành viên; hay là với tư cách

của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự. Từ việc làm rõ cơ sở này, nếu ở trường

hợp Chi cục trưởng của Chi cục thi hành án dân sự ký quyết định và thực hiện hành

vi thuộc thẩm quyền Thủ trưởng của cơ quan thi hành án dân sự (kể cả là Phó Chi

cục trưởng của Chi cục thi hành án dân sự ra quyết định với danh nghĩa ký thay thủ

trưởng) thì việc giải quyết khiếu nại về hành vi, quyết định này thuộc thẩm quyền

Cục trưởng của Cục thi hành án dân sự.

(2) Thẩm quyền của Cục trưởng Cục thi hành án dân sự về giải quyết khiếu

nại trong thi hành án dân sự: Đó là Cục trưởng của Cục thi hành án dân sự có thẩm

quyền giải quyết việc khiếu nại hành vi, quyết định trái luật của chấp hành viên,

của Chi cục trưởng Chi cục thi hành án dân sự thuộc quyền quản lý đơn vị mình.

Mặt khác, về quy trình giải quyết đơn tố cáo, khiếu nại, kiến nghị, đề nghị,

phản ánh trong thi hành án dân sự theo Thông tư 02/2016/TT-BTP (có hiệu lực từ

ngày 16 tháng 3 năm 2016), thể hiện rõ ở điểm a thuộc khoản 2 Điều 7 của Thông

tư 02 này là có một điểm mới về quy định thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Cục

trưởng Cục thi hành án dân sự là giải quyết việc khiếu nại về hành vi, quyết định

của Phó Cục trưởng của Cục thi hành án dân sự khi thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ

của chấp hành viên.

(3) Thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự của Tổng cục

trưởng của Tổng cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp: Đó là Tổng cục trưởng

Tổng cục này giải quyết khiếu nại đối với hành vi, quyết định trái luật của Cục

trưởng của Cục Thi hành án dân sự.

Hai là, thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự lần 02

20

Thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự lần 02 này chỉ

thuộc Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Tổng cục trưởng của Tổng cục Thi hành án dân sự và

Cục trưởng của Cục Thi hành án dân sự.

(1) Thẩm quyền của Cục trưởng Cục THADS trong giải quyết khiếu nại: Tại

điểm c khoản 2 thuộc Điều 142 của Luật THADS 2008, Cục trưởng của Cục

THADS có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định giải quyết khiếu nại

của Chi cục trưởng Chi cục THADS. Theo đó, trong việc tiếp nhận đơn khiếu nại

trong thi hành án dân sự, người tiếp nhận đơn này yêu cầu họ phải kiểm tra xem xét

lại vụ việc có phải do Chi cục trưởng Chi cục THADS ban hành quyết định giải

quyết khiếu nại không?

(2) Thẩm quyền của Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự trong giải

quyết khiếu nại:

Theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 142 Luật THADS năm 2008: Tổng cục

trưởng Tổng cục THADS giải quyết KN đối với quyết định giải quyết KN của Cục

trưởng Cục THADS. Như vậy, khi tiếp nhận đơn KN, người tiếp nhận đơn KN cần

kiểm tra xem có phải vụ việc đã được Cục trưởng Cục THADS ra quyết định giải

quyết KN hay không.

Trong thực tế, rất nhiều trường hợp sau khi có quyết định giải quyết KN của

Chi cục trưởng của Chi cục THADS, người KN đã gửi đơn KN lần 02 đến Tổng

cục THADS mà không gửi đơn khiếu nại đến Cục THADS. Ở trường hợp như vậy

thì Tổng cục Thi hành án dân sự chưa thể thụ lý đơn khiếu nại, mà phải chuyển đơn

này cùng với việc hướng dẫn cho đương sự người khiếu nại tới đúng thẩm quyền

của Cục Thi hành án dân sự.

(2) Thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về giải quyết khiếu nại: Tại điểm

a và điểm b thuộc Khoản 4 ở Điều 142 của Luật Thi hành án dân sự 2008 quy định:

Bộ trưởng Bộ Tư pháp là người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại về quyết định

giải quyết khiếu nại lần đầu của Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự;

hoặc giải quyết khiếu nại về quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực thi hành

của Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự và Cục trưởng của Cục Thi hành

21

án dân sự (ở trường hợp cần thiết). Như vậy, cùng với việc tiếp nhận đơn khiếu nại

trong thi hành án dân sự, người tiếp nhận khiếu nại phải kiểm tra xác minh đơn liệu

có thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp giải quyết khiếu nại không?

Ở trường hợp khi đã có hiệu lực thi hành quyết định giải quyết khiếu nại trong

thi hành án dân sự mà đương sự vẫn khiếu nại tiếp tục: Nếu xem xét là có căn cứ

chứng lý xác định việc giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng 02 cấp đối với quyết

định, hành vi trái pháp luật/ không khách quan của chấp hành viên, của Thủ trưởng

cơ quan cấp dưới thì Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thẩm quyền xem xét lại quyết định,

hành vi đã có hiệu lực đó để khắc phục/ khôi phục quyền lợi hợp pháp của đương

sự khiếu nại bị xâm phạm.

Tại Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ

quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự

đã quy định rõ: việc xem xét lại được thực hiện khi và chỉ khi có căn cứ xác định

hành vi, quyết định bị khiếu nại trái luật song quyết định giải quyết khiếu nại trong

thi hành án dân sự cho rằng là hành vi, quyết định đó đúng luật; như vậy việc giải

quyết khiếu nại đã vi phạm pháp luật về thủ tục giải quyết khiếu nại về thi hành án;

phát sinh tình tiết mới làm đổi thay cơ bản về kết quả giải quyết khiếu nại trong thi

hành án dân sự.

Cần chú ý trường hợp xác định thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần 02, đó là:

Tại Nghị định số 62/2015/NĐ-CP này có quy định: Với đơn khiếu nại thuộc thẩm

quyền cấp dưới giải quyết song do quá hạn quy định mà chưa được giải quyết,

người Thủ trưởng của cơ quan quản lý thi hành án dân sự cấp trên hoặc Thủ trưởng

của cơ quan thi hành án dân sự: một mặt có trách nhiệm ra chỉ thị yêu cầu cấp dưới

phải giải quyết; một mặt khác phải chỉ đạo, đôn đốc và kiểm tra quá trình cấp dưới

giải quyết và đồng thời áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền của mình nhằm xử

lý người cố tình trì hoãn trong giải quyết khiếu nại hoặc xử lý người thiếu trách

nhiệm. Đối với trường hợp áp dụng các biện pháp vượt thẩm quyền thì kiến nghị

lên cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền để xử lý.

22

Mặc dù công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự về căn bản là

thực hiện theo quy trình giải quyết 02 cấp. Song trên thực tế vẫn có một số trường

hợp khiếu nại chỉ cần thực hiện giải quyết một lần là có hiệu lực thi hành tức thì. Ở

khoản 2 thuộc Điều 146 của Luật Thi hành án dân sự 2008 (được sửa đổi bổ sung

năm 2014) có quy định là: trong khi quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thì thời

hiệu giải quyết khiếu nại là năm ngày làm việc (kể từ ngày thụ lý đơn) mà không

quy định thời hạn giải quyết khiếu nại lần 02. Thì quy định của các khoản khác

thuộc Điều 146 Luật Thi hành án dân sự 2008 xác định là gồm có: thời hạn giải

quyết khiếu nại lần đầu và cả lần 02. Mặc khác, theo Khoản 3 thuộc Điều 38 của

Nghị định số 62/2015/NĐ-CP cũng xác định rằng: Quyết định của người có thẩm

quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với những quyết định về áp dụng các biện

pháp bảo đảm THA có hiệu lực thi hành.

Tuy rằng, quá trình thực hiện công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án

dân sự, thì có không ít cơ quan thi hành án dân sự lại chưa chú ý nhiều tới nội dung

quy định: ở khoản 2 thuộc Điều 146 của Luật Thi hành án dân sự 2008; và ở khoản

3 thuộc Điều 38 của Nghị định 62 của Chính phủ, mà dẫn đến tình trạng thụ lý và

ra quyết định giải quyết khiếu nại lần 02 về những trường hợp khiếu nại quyết định

áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự. Vì vậy, cần phải lưu ý là: các khiếu

nại về việc áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự thì thuộc diện trường

hợp giải quyết một cấp mà thôi.

Bên cạnh đó, về quy định các khiếu nại khác liên quan tới các hoạt động thừa

phát lại, đó là: (1) Trưởng Văn phòng Thừa phát lại có thẩm quyền giải quyết khiếu

nại lần đầu đối với khiếu nại về hành vi, quyết định của Thừa phát lại thuộc đơn vị

mình; (2) Cục trưởng của Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh tại nơi đặt Văn phòng

Thừa phát lại là người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với các khiếu

nại về hành vi, quyết định của Trưởng Văn phòng Thừa phát lại; và có thẩm quyền

giải quyết khiếu nại lần 02 về giải quyết khiếu nại lần đầu đối với khiếu nại hành

vi, quyết định của Thừa phát lại; (3) Tổng cục trưởng của Tổng cục Thi hành án

dân sự là người có thẩm quyền trực tiếp giải quyết khiếu nại lần 02 về giải quyết

23

khiếu nại lần đầu đối với khiếu nại về hành vi, quyết định của Trưởng Văn phòng

Thừa phát lại; (4) Ở trường hợp cần thiết,thì Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thẩm quyền

xem xét lại đối với quyết định giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự đã có

hiệu lực thi hành, khi có liên quan tới hoạt động thừa phát lại.

1.2.4. Quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, người bị khiếu nại về thi

hành án dân sự

Để đảm bảo cho người KN được thực hiện quyền KN một cách hiệu quả,

Một là, nghĩa vụ và quyền của người khiếu nại về THADS:

đồng thời nhằm tránh việc người KN lợi dụng quyền KN làm mất uy tín của cán

bộ, cơ quan nhà nước, làm mất thời gian, công sức của các cơ quan hữu quan,

khoản 1 Điều 143 Luật THADS 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) đã quy

định người KN có quyền sau:

- Tự mình KN hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để KN;

- Nhờ luật sư trong việc tư vấn pháp lý về hoạt động khiếu nại;

- Được nhận quyết định giải quyết KN;

- Được thông tin để biết những bằng chứng tạo căn cứ trong giải quyết khiếu

nại; cung cấp các bằng chứng để khiếu nại và giải trình làm rõ ý kiến của mình

thông qua bằng chứng ấy;

- Được phục hồi đầy đủ về lợi quyền hợp pháp, chính đáng đã bị xâm phạm

và bồi thường thiệt hại vật chất (nếu có);

- Được tiếp tục khiếu nại nếu không tán thành quyết định của cấp có thẩm

quyền giải quyết khiếu nại lần đầu;

- Được rút đơn khiếu nại trong quá trình giải quyết khiếu nại. [27, tr. 128]

Hơn nữa, việc sử dụng các quyền này để phòng tránh sự lợi dụng của người

khiếu nại chỉ nhằm mục đích hạ thấp uy tín hoặc làm lãng phí công sức, thời gian…

của người cán bộ và cơ quan nhà nước.

Khoản 2 thuộc Điều 143 của Luật Thi hành án dân sự 2008 cũng quy định

rằng: Người khiếu nại có nghĩa vụ là họ phải khiếu nại đúng cấp có thẩm quyền

giải quyết; phải trình bày sự việc một cách trung thực, cung cấp những tài liệu

24

thông tin kèm theo cho cấp giải quyết khiếu nại; đồng thời họ phải chịu trách nhiệm

trước luật pháp về những nội dung trình bày cũng như nội dung thông tin, tài liệu

đã cung cấp; tuân thủ chấp hành quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, quyết định

về giải quyết khiếu nại khi đã có hiệu lực thi hành.

Hai là, nghĩa vụ và quyền của người bị khiếu nại trong THADS:

Để tạo điều kiện cần thiết bảo vệ quyền và nghĩa vụ của người bị KN về

THADS, khoản 1 Điều 144 Luật THADS 2008 quy định người bị KN có các quyền

sau:

- Quyền được biết những căn cứ khiếu nại trong thi hành án dân sự của người

khiếu nại; và cung cấp các bằng chứng làm rõ về tính hợp pháp của hành vi, quyết

định bị khiếu nại trong thi hành án dân sự.

- Quyền được nhận quyết định về giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân

sự.

- Người bị khiếu nại có những nghĩa vụ, đó là: Phải giải trình đối với hành vi,

quyết định bị khiếu nại trong thi hành án dân sự; phải cung cấp tài liệu thông tin có

liên quan khi có yêu cầu của cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong thi hành

án dân sự; phải tuân thủ chấp hành nghiêm quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp

và quyết định giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự đã có thời hiệu lực; phải

bồi hoàn/ bồi thường để khắc phục hậu quả do hành vi, quyết định trái luật mà

mình gây ra theo luật định. (Khoản 2 thuộc Điều 144 của Luật Thi hành án dân sự

2008)

1.2.5. Thủ tục giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự

Muốn giải quyết khiếu nại lĩnh vực thi hành án dân sự, thì người giải quyết

khiếu nại phải am tường việc thực hiện chuỗi công việc: từ thụ lý và nghiên cứu

các thông tin của đơn khiếu nại trong thi hành án dân sự; lên kế hoạch giải quyết

cho tới việc xác minh và thu thập các chứng cứ để làm rõ những nội dung khiếu

nại; kiến nghị lên người có thẩm quyền ban hành quyết định giải quyết khiếu nại

trong thi hành án dân sự, hoàn chỉnh và hoàn thiện hồ sơ... Trong đó, cần chú ý

trước khi thụ lý đơn để giải quyết khiếu nại lĩnh vực thi hành án dân sự cần tập

25

trung vào 3 bước chủ yếu, đó là: (1) chuẩn bị giải quyết khiếu nại trong thi hành án

dân sự; (2) xác minh và thu thập chứng cứ; (3) Ban hành kết luận về nội dung khiếu

nại trong thi hành án dân sự và hoàn chỉnh bộ hồ sơ.

Bước 1: Công tác chuẩn bị giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự

Một là: Thụ lý đơn khiếu nại trong thi hành án dân sự

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn KN do văn thư

chuyển, công chức được giao giải quyết KN có nhiệm vụ thụ lý và thông báo về

việc thụ lý đơn KN bằng văn bản cho người KN biết.

Kể từ khi đã nhận được đơn khiếu nại trong thi hành án dân sự, để xác định

được vụ việc đó liệu có đủ điều kiện để thụ lý không, thì người có thẩm quyền giải

quyết khiếu nại phải căn cứ pháp luật hiện hành được quy định cụ thể ở: Điều 11

thuộc Luật Khiếu nại 2011; Điều 141 thuộc Luật Thi hành án dân sự 2008; và tại

Khoản 5 của Điều 4 thuộc Quy chế giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân

sự (của Quyết định 1318/QĐ-TCTHADS ngày 30 tháng 9 năm 2013 của Tổng cục

trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự). Đối với người có thẩm quyền giải quyết

khiếu nại sẽ không thụ lý đơn khiếu nại thi hành án dân sự - một khi xảy ra một

trong các trường hợp dưới đây:

- Hành vi, quyết định bị khiếu nại không có liên quan trực tiếp gì tới lợi ích và

quyền hợp pháp của người khiếu nại;

- Người đại diện không có đủ giấy tờ để minh chứng về tính đại diện hợp

pháp;

- Người khiếu nại không có đủ năng lực hành vi dân sự và cũng không có

người đại diện hợp pháp (ngoại trừ trường hợp có quy định khác của pháp luật);

- Đã hết thời hạn, thời hiệu khiếu nại (mà lý do chính đáng không có);

- Khiếu nại đã có quyết định về giải quyết khiếu nại lần 02;

- Việc khiếu nại đã có quyết định về giải quyết khiếu nại có hiệu lực thi hành

án, ngoại trừ thuộc trường hợp thấy cần thiết phải tái xem xét theo thẩm quyền Bộ

trưởng Bộ Tư pháp;

- Việc khiếu nại đã được Toà án giải quyết bằng quyết định, bản án của Toà

26

án hoặc Tòa án đã thụ lý, ngoại trừ quyết định về đình chỉ việc giải quyết vụ án

hành chính của Toà án;

- Đã có văn bản thông báo về đình chỉ giải quyết khiếu nại, kể từ sau ba mươi

ngày mà người khiếu nại không tiếp tục khiếu nại;

- Không xem xét, giải quyết đơn tố cáo, đơn KN mạo tên; giấu tên; không rõ

địa chỉ; sao chụp chữ ký; không có chữ ký; nhân danh tập thể; hoặc những nội dung

tố cáo, KN mà cấp có thẩm quyền đã giải quyết; hay tố cáo, KN lại nhưng bằng

chứng mới không có, ngoại trừ trường hợp phải xử lý đơn theo luật định về phòng

chống tham nhũng;

- Không thụ lý việc giải quyết KN về hành vi, quyết định trong nội bộ của cơ

quan THA nhằm chỉ đạo tiến hành tổ chức thực thi công vụ; về hành vi, quyết định

trong việc điều hành chỉ đạo ngành dọc từ đơn vị THA cấp trên xuống đơn vị THA

cấp dưới.

Trong trường hợp người có thẩm quyền trong giải quyết khiếu nại thi hành án

dân sự, mà không thụ lý đơn khiếu nại thì phải ra thông báo (nêu rõ lý do không thụ

lý đơn này). Thời hạn trong ba ngày làm việc (tính từ ngày đã tiếp nhận đơn khiếu

nại), cán bộ công chức được phân công tham mưu trong việc giải quyết khiếu nại

phải có nhiệm vụ soạn công văn yêu cầu về báo cáo giải trình (kèm theo tài liệu, hồ

sơ có liên quan) để trình lên Lãnh đạo cấp Phòng (Vụ) xem xét và ký duyệt ban

hành.

Trường hợp người bị khiếu nại là CHV thì Lãnh đạo Phòng (Chi cục) trực tiếp

yêu cầu CHV báo cáo giải trình bằng văn bản, cung cấp hồ sơ vụ việc mà không

cần có công văn yêu cầu.

Hai là: Thực hiện việc báo cáo giải trình, cung cấp tài liệu, hồ sơ

Với nhiệm vụ của CHV được thực hiện có thời hạn không quá hai ngày làm

việc (tính từ ngày đã nhận được yêu cầu). Trường hợp KN đối với hành vi, quyết

định việc áp dụng biện pháp bảo đảm THA sẽ thực hiện có thời hạn không quá một

ngày làm việc (tính từ ngày đã nhận được yêu cầu).

27

Với nhiệm vụ của đơn vị Thi hành án dân sự cấp dưới về báo cáo giải trình

(kèm theo tài liệu, hồ sơ) được thực hiện có thời hạn không quá hai ngày làm việc

(tính từ ngày đã nhận được công văn).

Ở trường hợp gấp, khẩn hoặc ở trường hợp giải quyết khiếu nại lần đầu, thì

cùng với việc phát hành công văn yêu cầu theo đường bưu điện, cán bộ công chức

được phân công tham mưu về việc giải quyết khiếu nại có thể sử dụng fax, điện

thoại hoặc hộp thư điện tử nhằm yêu cầu kịp thời đối với đơn vị Thi hành án dân sự

thực hiện. Việc báo cáo giải trình (kèm theo tài liệu, hồ sơ liên quan) qua đường

fax, điện thoại hoặc hộp thư điện tử đòi hỏi đơn vị Thi hành án dân sự cấp dưới

phải thực hiện với thời hạn không quá hai ngày làm việc (tính từ ngày đã tiếp nhận

được yêu cầu), ngoại trừ trường hợp đặc biệt.

Lãnh đạo của đơn vị Thi hành án dân sự được yêu cầu, họ phải có chữ ký vào

báo cáo giải trình; và đồng thời chịu trách nhiệm đối với tính đầy đủ, trung thực,

chính xác của báo cáo, tài liệu, hồ sơ. Đối với hồ sơ phô tô, yêu cầu phải có sự xác

nhận của Lãnh đạo đơn vị Thi hành án dân sự. Tài liệu, hồ sơ đi kèm với báo cáo

ấy yêu cầu phải có danh mục rõ ràng, cụ thể.

Bước 2: Tổ chức xác minh, đối thoại tại địa phương

Tại địa phương, việc xác minh và triển khai hoạt động đối thoại với mục đích

là thu thập tài liệu, chứng cứ để người tham gia giải quyết khiếu nại có đủ cơ sở

nhận xét khách quan, chính xác và đúng luật đối với vụ việc. Qua đó mà đề xuất lên

cấp/ người có thẩm quyền ban hành quyết định giải quyết khiếu nại thi hành án dân

sự một cách chính xác, đảm bảo tính thuyết phục, bảo vệ được lợi ích nhà nước,

cũng như quyền lợi hợp pháp của nhiều bên có liên quan.

Đây cũng là bước then chốt đối với cả quá trình theo dõi, xem xét, rà soát và

giải quyết vụ việc khiếu nại thi hành án dân sự. Mức độ giải quyết khiếu nại thi

hành án dân sự, nó phụ thuộc một cách chủ yếu vào khâu xác minh và thu thập các

chứng cứ. Tất nhiên việc xác minh và triển khai hoạt động đối thoại ở địa phương

còn tuỳ mức độ và tính chất phức tạp của mỗi vụ việc khiếu nại cụ thể, mà người

giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự mới đề ra 02 phương án giải quyết không

28

giống nhau: Đối với các vụ việc có tính chất phức tạp, nội dung khiếu nại thì có căn

cứ pháp lý nhưng lại đang thiếu các bằng chứng, tài liệu thì người giải quyết khiếu

nại cần phải triển khai bước xác minh, thu thập chứng cứ; Đối với các vụ việc có

tính chất giản đơn, người giải quyết khiếu nại lại đã có tài liệu chứng cứ rõ ràng về

vụ việc, thì có thể đi đến kết luận chính xác, mà không cần bước xác minh, thu thập

thêm chứng cứ.

Thứ nhất: Xây dựng kế hoạch xác minh, đối thoại

Đối với trường hợp giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự lần đầu về hành vi,

quyết định trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế và biện pháp bảo đảm; và về

hành vi, quyết định sau khi đã áp dụng biện pháp cưỡng chế, thì công chức tham

mưu giải quyết khiếu nại có thời hạn không quá hai ngày làm việc (tính từ ngày có

thông báo thụ lý) phải trình dự thảo kế hoạch lên Lãnh đạo Chi cục (Vụ, Phòng) để

xem xét và có ý kiến.

Đối với trường hợp giải quyết khiếu nại về hành vi, quyết định việc áp dụng

biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, thì công chức tham mưu giải quyết khiếu nại

có thời hạn không quá một ngày làm việc (tính từ ngày có thông báo thụ lý) phải

trình dự thảo kế hoạch lên Lãnh đạo Chi cục (Vụ, Phòng) để xem xét và có ý kiến.

Đối với trường hợp giải quyết khiếu nại về hành vi, quyết định việc áp dụng

biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, thì công chức tham mưu giải quyết khiếu

nại có thời hạn không quá năm ngày làm việc (tính từ ngày có thông báo thụ lý)

phải trình dự thảo kế hoạch lên Lãnh đạo Chi cục (Vụ, Phòng) để xem xét và có ý

kiến.

Đối với trường hợp giải quyết khiếu nại lần hai, thì công chức tham mưu giải

quyết khiếu nại thi hành án dân sự có thời hạn không quá năm ngày làm việc (tính

từ ngày có thông báo thụ lý) phải trình dự thảo kế hoạch lên Chi cục (Vụ, Phòng)

để xem xét và có ý kiến.

Đối với trường hợp giải quyết khiếu nại lần hai về hành vi, quyết định việc áp

dụng biện pháp cưỡng chế, thì công chức tham mưu giải quyết khiếu nại thi hành

án dân sự có thời hạn không quá 15 ngày làm việc (tính từ ngày có thông báo thụ

29

lý) phải trình dự thảo kế hoạch lên Lãnh đạo Chi cục (Vụ, Phòng) để xem xét và có

ý kiến.

Thứ hai: Tổ chức việc xác minh, đối thoại

Thực hiện kế hoạch xác minh, đối thoại:

Đối với người được phân công tổ chức công tác xác minh và đối thoại, họ

phải thực hiện theo khung thời hạn cụ thể, đó là: (1) Trong trường hợp việc giải

quyết khiếu nại về hành vi, quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân

sự thì phải thực hiện ngay trong ngày; (2) Trong trường hợp giải quyết khiếu nại

lần đầu về hành vi, quyết định trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế, biện pháp

bảo đảm thi hành án dân sự; và về hành vi, quyết định sau khi áp dụng biện pháp

cưỡng chế thi hành án dân sự thì phải thực hiện không quá 01 ngày làm việc (tính

từ ngày phê duyệt); (3) Trong trường hợp giải quyết khiếu nại lần đầu đối với việc

áp dụng biện pháp cưỡng chế và giải quyết khiếu nại lần hai thì phải thực hiện

không quá 03 ngày làm việc (tính từ ngày phê duyệt).

Thủ tục xác minh, đối thoại:

Đối với người được phân công tổ chức công tác xác minh và đối thoại, họ

phải thực hiện theo kế hoạch được duyệt. Kết quả của công tác xác minh và đối

thoại được thể hiện ở biên bản có đầy đủ những chữ ký của các bên đương sự tham

gia và người có liên quan. Lưu ý, trong trường hợp xảy ra là có người không ký tên

vào biên bản do họ không đồng ý, thì phải ghi rõ cụ thể lý do không ký tên. Biên

bản trình bày nội dung phải phản ánh về tính trung thực, đầy đủ các tài liệu, bằng

chứng mà các bên đương sự là tổ chức, cơ quan, cá nhân đã cung cấp.

Thứ ba: Báo cáo kết quả xác minh, đối thoại

Đối với người được phân công tổ chức công tác xác minh và đối thoại, họ

phải báo cáo lên người có thẩm quyền/ cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thi

hành án dân sự về kết quả làm việc bằng văn bản theo thời hạn đã được quy định,

đó là: (1) Trong trường hợp giải quyết khiếu nại đối với áp dụng biện pháp bảo

đảm thì phải thực hiện ngay trong ngày; (2) Trong trường hợp giải quyết khiếu nại

lần đầu về hành vi, quyết định trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án

30

dân sự, biện pháp bảo đảm; về hành vi, quyết định sau khi áp dụng biện pháp

cưỡng chế thi hành án dân sự thì phải thực hiện không quá 01 ngày làm việc; (3)

Trong trường hợp giải quyết khiếu nại lần đầu đối với áp dụng biện pháp cưỡng chế

thi hành án dân sự và giải quyết khiếu nại lần 02 thì phải thực hiện không quá 05

ngày làm việc, (tính từ ngày hoàn thành công tác xác minh và đối thoại).

Bước 3: Ban hành quyết định về việc giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự;

và hoàn chỉnh hồ sơ

Thứ nhất: Ra quyết định giải quyết khiếu nại

Căn cứ vào kết quả của công tác xác minh và đối thoại, người có thẩm quyền/

cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự ban hành quyết định giải

quyết khiếu nại; và gửi quyết định khiếu nại đến: người khiếu nại và người bị khiếu

nại, người giải quyết khiếu nại trước đó (với trường hợp giải quyết khiếu nại tiếp

theo) và các tổ chức, cá nhân có quyền lợi ích liên quan. Nếu xét thấy cần thiết,

quyết định về việc giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự có thể được công bố

công khai đối với người bị khiếu nại, người khiếu nại và các tổ chức, cá nhân có

liên quan.

Để việc giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự phải đảm bảo đầy đủ, khách

quan và chặt chẽ, tại Điều 151 của Luật Thi hành án dân sự 2008 đã quy định về

quyết định giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự lần đầu phải gồm có những nội

dung, đó là:

- Ngày, tháng và năm ban hành quyết định;

- Địa chỉ, họ và tên của người bị khiếu nại, người khiếu nại;

- Nội dung của khiếu nại;

- Kết quả về việc xác minh nội dung khiếu nại;

- Căn cứ cơ sở pháp lý về giải quyết khiếu nại;

- Kết luận về nội dung khiếu nại là sai toàn bộ hoặc đúng một phần, đúng;

- Huỷ bỏ, sửa đổi, giữ nguyên hoặc yêu cầu hủy bỏ một phần, sửa đổi hành vi,

quyết định bị khiếu nại thi hành án dân sự hay chấm dứt việc thực hiện hành vi,

quyết định bị khiếu nại;

31

- Việc khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại do hành vi, quyết định trái luật

gây nên;

- Hướng dẫn cho đương sự về quyền khiếu nại thi hành án dân sự lần 02.

Xuất phát từ tính chất của giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự lần 02, nó

có sự khác biệt so với lần 01, tại Điều 153 của Luật Thi hành án dân sự 2008 đã

quy định các nội dung căn bản cần phải có của quyết định giải quyết khiếu nại thi

hành án dân sự lần 02 gồm cso những nội dung cụ thể, đó là:

- Ngày, tháng, năm ban hành quyết định;

- Địa chỉ, họ và tên của người bị khiếu nại, người khiếu nại;

- Nội dung của khiếu nại;

- Kết quả về việc xác minh nội dung khiếu nại;

- Căn cứ cơ sở pháp lý về giải quyết khiếu nại;

- Kết luận đối với nội dung khiếu nại thi hành án dân sự; và kết luận việc giải

quyết của người có thẩm quyền/ cấp có thẩm quyền đối với giải quyết khiếu nại lần

đầu;

- Huỷ bỏ, sửa đổi, giữ nguyên hoặc yêu cầu hủy bỏ một phần, sửa đổi hành vi,

quyết định bị khiếu nại thi hành án dân sự hay chấm dứt việc thực hiện hành vi,

quyết định bị khiếu nại;

- Việc khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại do hành vi, quyết định trái luật

gây nên;

Quy trình công tác giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự phải bảo đảm đúng

thời hạn. Khung thời hạn của việc giải quyết khiếu nại có hiệu lực từ ngày ra thông

báo thụ lý đơn khiếu nại thi hành án dân sự. Theo Điều 146 của Luật bổ sung, sửa

đổi một số điều của Luật Thi hành án dân sự 2014 đã quy định rõ:

Về hành vi, quyết định THA trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành

án dân sự, biện pháp bảo đảm thì có thời hạn để giải quyết KN không quá 15 ngày/

đối với lần đầu; và không quá 30 ngày/ đối với lần hai (tính từ ngày đã thụ lý đơn

KN).

32

Về quyết định đối với việc áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản; và về hành

vi, quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm khác thì có thời hạn để giải quyết KN

không quá 05 ngày làm việc (tính từ ngày đã thụ lý đơn KN).

Về hành vi, quyết định đối với việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án

dân sự thì thời hạn để giải quyết KN không quá 30 ngày/ đối với lần đầu, không

quá 45 ngày/ đối với lần hai (tính từ ngày đã thụ lý đơn KN).

Đối với trường hợp cần thiết, do tính phức tạp của vụ việc thì có thể thời hạn

giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự được kéo dài song không vượt quá 30 ngày

(tính từ ngày kết thúc thời hạn để giải quyết khiếu nại).

Về hành vi, quyết định sau khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân

sự thì thời hạn giải quyết khiếu nại là không quá 15 ngày/ đối với lần đầu; và không

quá 30 ngày/ đối với lần hai (tính từ ngày thụ lý đơn khiếu nại).

Đối với trường hợp ở vùng xa, vùng sâu, đi lại khó khăn, lại do tính phức tạp

của vụ việc, thì có thể áp dụng thời hạn giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự

được kéo dài song không quá 30 ngày (tính từ ngày kết thúc thời hạn để giải quyết

khiếu nại).

Với sự phân loại về thời hạn để giải quyết khiếu nại như vậy là phù hợp với

tính chất của giai đoạn thi hành án dân sự, nó vừa không ảnh hưởng đáng kể tới quá

trình thi hành án dân sự; đồng thời vừa bảo vệ được lợi quyền hợp pháp của người

khiếu nại và tạo thuận lợi để khắc phục hậu quả đặt ra- một khi có cơ sở xác định

việc khiếu nại.

Mặt khác, theo Khoản 2 thuộc Điều 45 của Nghị định 135/2013/NĐ-CP ngày

18 tháng 10 năm 2013 có quy định rõ về thời hạn để giải quyết khiếu nại đối với

hoạt động Thừa phát lại:

Đối với khiếu nại thi hành án dân sự, Trưởng Văn phòng Thừa phát lại giải

quyết khiếu nại lần đầu về khiếu nại đối với quyết định, hành vi của Thừa phát lại

thuộc Văn phòng mình có thời hạn không quá 15 ngày (tính từ ngày đã nhận được

khiếu nại). Trong trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của

Trưởng Văn phòng Thừa phát lại, người khiếu nại có quyền khiếu nại tới Cục

33

trưởng Cục THADS cấp tỉnh nơi đặt Văn phòng Thừa phát lại. Cục trưởng Cục

THADS giải quyết khiếu nại lần 02 có thời hạn không quá 30 ngày (tính từ ngày đã

nhận được khiếu nại). Quyết định của Cục trưởng Cục THADS về việc giải quyết

khiếu nại thi hành án dân sự có hiệu lực thi hành.

Cục trưởng Cục THADS cấp tỉnh nơi đặt Văn phòng Thừa phát lại giải quyết

khiếu nại lần đầu về khiếu nại đối với quyết định, hành vi của Trưởng Văn phòng

Thừa phát lại có thời hạn không quá 30 ngày (tính từ ngày đã nhận được khiếu nại).

Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Cục trưởng Cục

THADS, người khiếu nại có quyền khiếu nại lên Tổng cục trưởng Tổng cục

THADS - Bộ Tư pháp. Tổng cục trưởng Tổng cục THADS ra quyết định giải quyết

khiếu nại lần 02 có thời hạn không quá 45 ngày (tính từ ngày đã nhận được khiếu

nại). Quyết định của Tổng cục trưởng Tổng cục THADS về việc giải quyết khiếu

nại thi hành án dân sự có hiệu lực thi hành.

Hai là: Hoàn chỉnh hồ sơ để giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự

Sau khi đã có quyết định về giải quyết khiếu nại THADS, người giải quyết

khiếu nại có nhiệm vụ hoàn chỉnh hồ sơ. Việc lập hồ sơ, lưu trữ hồ sơ phải theo

luật định và được đánh số bút lục, thống nhất sắp xếp theo đúng trình tự về thời

gian: tài liệu có trước thì được đánh số trước và phải lập danh mục hồ sơ có sự phê

duyệt của người ban hành quyết định về xác minh để tạo thuận lợi phục vụ công tác

quản lý giải quyết khiếu nại THADS; cũng như thuận lợi cho việc cung cấp tài liệu

cho các cơ quan đơn vị có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ở các cấp tiếp theo.

Tại Điều 149 của Luật Thi hành án dân sự 2008 đã quy định cụ thể về hồ sơ

giải quyết khiếu nại phải gồm có:

- Văn bản ghi nội dung khiếu nại hoặc đơn khiếu nại;

- Biên bản về việc xác minh, thẩm tra, kết luận và kết quả giám định;

- Văn bản giải trình của đối tượng bị khiếu nại;

- Quyết định về việc giải quyết khiếu nại;

- Những tài liệu khác có liên quan.

34

Nếu người khiếu nại THADS tiếp tục khiếu nại thì hồ sơ này (khi có yêu cầu)

sẽ chuyển lên cơ quan đơn vị có thẩm quyền giải quyết tiếp theo.

Tiểu kết Chương 1

Từ việc xem xét, nghiên cứu những vấn đề lý luận về giải quyết khiếu nại

trong thi hành án dân sự cho thấy: Giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự là

nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, đòi hỏi người làm công tác này phải thật sự nghiên

cứu sâu kỹ các quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại nói chung, giải quyết

khiếu nại trong thi hành án dân sự nói riêng. Từ việc trình bày hệ thống hóa một số

vấn đề lý luận giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự để xác định làm rõ khái

niệm, phân tích làm rõ vai trò của công tác giải quyết khiếu nại trong THADS trong

việc đảm bảo quyền lợi giữa nhiều bên liên quan tới bản án, góp phần đảm bảo

pháp chế XHCN trong lĩnh vực THADS.

35

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG

THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM

2.1. Khái quát về tình hình khiếu nại trong thi hành án dân sự trên địa

bàn tỉnh Quảng Nam.

2.1.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến giải quyết khiếu nại trong thi hành án

dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

Sự lãnh đạo của Đảng ta:

Sự lãnh đạo của Đảng ta đối với Nhà nước và xã hội vốn dĩ là nguyên tắc

hiến định. Theo đó, nói chung tất cả mọi hoạt động tư pháp và nói riêng với hoạt

động THADS phải dưới sự lãnh đạo định hướng của Đảng ta. Tại Nghị quyết

08/NQ-TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị về việc ban hành một số nhiệm vụ

trọng tâm trong công tác trong thời gian tới, trong đó có định hướng rõ: thành lập

cảnh sát tư pháp dựa trên cơ sở ngành công an hiện có nhằm hỗ trợ công tác

THADS, khẩn trương ban hành bộ luật tố tụng dân sự, Luật THADS, bộ luật tố

tụng hình sự,… nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan tư pháp hoạt động. Với

định hướng này đối với lĩnh vực THADS trong công tác lãnh đạo của Đảng ta, nó

mang tầm ý nghĩa chiến lược đối với hệ thống hoạt động của ngành THADS, bao

gồm cả việc hoàn thiện hệ thống pháp luật để thực hiện công tác giải quyết KN về

THADS.

Dựa trên cơ sở chủ trương quan điểm định hướng của Đảng, Quốc hội đã thể

chế hóa bằng việc ban hành Luật THADS 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành;

năm 2014, Quốc hội tiếp tục thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật

THADS để đáp ứng tình hình mới. Nhờ đó tạo nên hành lang pháp lý đối với lĩnh

vực THADS thông qua việc quy định rõ về nghĩa vụ và quyền của những chủ thể

tham gia trong quá trình tổ chức THADS; trong quá trình giải quyết KN về

THADS và thực hiện KN.

Hơn nữa, mức độ hiệu quả, chất lượng công tác giải quyết KN về THADS

của thủ trưởng cơ quan THADS còn phụ thuộc nhiều vào sự lãnh đạo của cấp ủy

36

đảng cơ quan THADS.

Mức độ hoàn chỉnh hệ thống chính sách pháp luật đối với lĩnh vực THADS

và pháp luật hiện hành về việc giải quyết khiếu nại THADS.

Nguyên tắc pháp chế XHCN yêu cầu cả người giải quyết KN và người KN

đều phải dựa trên cơ sở pháp luật mà thực hiện. Nên hiệu quả và chất lượng của

công tác giải quyết KN về THADS phụ thuộc vào mức độ hoàn chỉnh và tính đồng

bộ của hệ thống pháp luật về THADS và pháp luật về việc giải quyết KN.

Trách nhiệm công vụ và ý thức pháp luật trong quá trình giải quyết KN về

THADS.

Trách nhiệm công vụ và ý thức pháp luật trong giải quyết KN về THADS là

yếu tố căn bản để giúp cho chủ thể có thẩm quyền tổ chức giải quyết KN về

THADS, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng chất lượng và hiệu quả công tác

giải quyết KN trong thi hành án dân sự. Thủ trưởng cơ quan đơn vị THADS theo

thẩm quyền thực hiện giải quyết khiếu nại đòi hỏi họ: phải nắm vững pháp luật hiện

hành và đề cao ý thức tuân thủ pháp luật, phải đề cao trách nhiệm công vụ trong

công tác đánh giá khách quan và trung thực để tránh rơi vào tình trạng duy ý chí,

chủ quan khi thực thi thẩm quyền của mình trong công tác giải quyết KN.

Hoạt động kiểm tra, giám sát của Nhà nước và xã hội trong giải quyết KN

về THADS.

Đây là yếu tố có sự tác động ảnh hưởng rất nhiều đối với công tác giải quyết

KN trong THADS. Chỉ có bằng công tác giám sát, kiểm tra thì quá trình giải quyết

KN trong THADS mới luôn kịp thời đôn đốc, phát hiện nhắc nhở điều chỉnh nhằm

giúp quá trình đó thực hiện đúng quy trình thủ tục quy định, tránh tình trạng giải

quyết cho xong, lấy lệ hoặc “câu dầm”. Công tác kiểm tra, giám sát của cơ quan

đơn vị và cộng đồng xã hội đối với quá trình giải quyết KN trong THADS của thủ

trưởng cơ quan đơn vị THADS còn là thước đo về mức độ thực hiện dân chủ, mà

nhờ đó quyền giám sát của nhân dân được phát huy, cũng như góp phần tạo dựng

niềm tin của người dân đối với cơ quan công quyền và đội ngũ cán bộ công chức về

lĩnh vực THADS.

37

Dưới sự tác động ảnh hưởng của kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội

nhập quốc tế.

Đây là yếu tố có ảnh hưởng chi phối tất yếu phải tính đến, bởi sự tăng tiến

của hội nhập quốc tế và sự vận động của kinh tế thị trường khiến những tranh chấp

kinh tế, lao động và dân sự... phát sinh ngày càng nhiều với sự phức tạp mà khó

tránh khỏi. THADS vốn dĩ đồng chiều với sự phát triển xã hội, nên không tránh

khỏi các hoạt động ngày càng liên quan tới nhiều tổ chức kinh tế, cá nhân (kể cả

yếu tố nước ngoài). Vì vậy, nhu cầu thuận lợi và an toàn của cá nhân, tổ chức,

doanh nghiệp (kể cả nhà đầu tư nước ngoài) là sự mong đợi, nên mong muốn hiệu

lực thực thi pháp luật về khiếu nại, tố cáo và về công tác giải quyết khiếu nại

THADS để đảm bảo tính bình đẳng trước pháp luật.

Bên cạnh đó, xu thế hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa và kinh tế thị trường

luôn đặt ra tất yếu khách quan phải hạch toán yếu tố nước ngoài vào việc hoàn

chỉnh pháp luật đối với nước sở tại.

2.1.2. Tình hình khiếu nại trong thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh

Quảng Nam.

Khiếu nại là hiện tượng tất yếu khách quan nảy sinh trong quá trình quản lý

nhà nước trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Quá trình quản lý nhà nước không

thể tránh khỏi tình trạng sẽ có những vi phạm pháp luật xâm phạm đến lợi ích Nhà

nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Thông qua việc

người dân khiếu nại và việc giải quyết khiếu nại của cơ quan nhà nước có thẩm

quyền, các hiện tượng tiêu cực và vi phạm pháp luật sẽ được phát hiện, xử lý kịp

thời. Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, khiếu nại và giải quyết khiếu nại được thực

hiện theo quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2014, cụ thể đã dành 14 Điều

(từ Điều 140 đến 153) quy định cụ thể về trình tự, thủ tục và giải quyết khiếu nại về

thi hành án dân sự.

Qua theo dõi công tác giải quyết khiếu nại tố cáo về thi hành án dân sự trên

địa bàn tỉnh Quảng Nam cho thấy trong những năm qua, đã có một số lượng lớn

38

đơn thư của cơ quan, tổ chức và công dân liên quan đến lĩnh vực thi hành án dân sự

được tiếp nhận và giải quyết, cụ thể:

- Năm 2015, toàn tỉnh tiếp nhận 64 đơn khiếu nại thuộc 60 việc THA, đã thụ

lý giải quyết 39 đơn KN thuộc 34 việc, đã giải quyết xong 39 đơn thuộc 34 việc,

đạt tỷ lệ 100% (trích “ Báo cáo tổng kết công tác THADS, Thi hành án hành chính

năm 2015, Cục THADS tỉnh Quảng Nam”)

- Năm 2016 các cơ quan thi hành án dân sự của tỉnh đã nhận tổng số 75 đơn

khiếu nại tương đương 69 việc, tăng 11 đơn so với năm 2015, đã thụ lý 42 đơn

khiếu nại thuộc 32 việc; Đã giải quyết xong 41 đơn thuộc 31 việc khiếu nại, đạt tỷ

lệ 97,6 %, chuyển kỳ sau giải quyết 01 đơn (trích “ Báo cáo tổng kết công tác

THADS, Thi hành án hành chính năm 2016, Cục THADS tỉnh Quảng Nam”)

- Năm 2017 toàn tỉnh tiếp nhận tổng số 67 đơn tương đơn 54 vụ việc , thư

khiếu nại về thi hành án dân sự, giảm 08 đơn so với năm 2015, đã thụ lý 39 đơn

khiếu nại thuộc 26 việc, kết quả đã giải quyết 39/39 đơn khiếu nại, tỷ lệ 100%

(trích “ Báo cáo tổng kết công tác THADS, Thi hành án hành chính năm 2017, Cục

THADS tỉnh Quảng Nam”)

- Năm 2018 toàn tỉnh tiếp nhận 54 đơn khiếu nại về THADS tương đương

52 việc, giảm 13 đơn so với năm 2017, đã thụ lý 26 đơn gồm 17 việc, kết quả giải

quyết 25/26 đơn thụ lý, đạt tỷ lệ 97%, chuyển kỳ sau giải quyết 01 đơn, tỷ lệ 0,3%

(trích “ Báo cáo tổng kết công tác THADS, Thi hành án hành chính năm 2018, Cục

THADS tỉnh Quảng Nam”)

- Năm 2019, tổng số đơn, thư khiếu nại tiếp nhận của toàn tỉnh là 82 đơn

tương đương 76 việc THA, tăng 28 đơn so với năm 2018, đã thụ lý 51 đơn, tương

ứng với 47 việc. Đã giải quyết 51 đơn, đạt tỷ lệ 100% (trích “ Báo cáo tổng kết

công tác THADS, Thi hành án hành chính năm 2019, Cục THADS tỉnh Quảng

Nam”)

Nhìn chung, số đơn khiếu nại có xu hướng gia tăng theo từng năm, có nhiều

nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân cơ bản là số việc và tiền phải thi hành năm

sau cao hơn năm trước, quy mô lớn hơn và tính chất phức tạp hơn, bên cạnh đó, có

39

nhiều vụ án quy mô lớn, tính chất phức tạp, liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân.

Cục THADS đã trung giải quyết và chỉ đạo các cơ quan thi hành án dân sự địa

phương giải quyết dứt điểm đối với các vụ việc khiếu nại, nhờ đó, kết quả tiếp tục

được duy trì bền vững.

Nội dung khiếu nại thường gặp là khiếu nại về việc chậm tổ chức THA, về

việc cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản THA, ra quyết định thi hành án, về việc thông

báo thi hành án; việc thanh toán tiền thi hành án, về việc định giá tài sản, về việc

xác minh điều kiện thi hành án ,về đấu giá tài sản, về việc trả đơn yêu cầu thi hành

án. Đối với việc xác định những vụ việc KN về THADS đã có sự phân loại tương

đối phù hợp và cải thiện đáng kể chất lượng trong công tác giải quyết KN; thực

hiện các bước quy trình trong công tác giải quyết KN về THADS, cụ thể là: xác

minh, tiến hành đối thoại trực tiếp với công dân để thu thập các bằng chứng, lập

luận lý lẽ trên cơ sở pháp lý hiện hành nhằm giải quyết đúng đắn và bảo đảm nội

dung khiếu nại.

Thông qua công tác giải quyết KN về THADS, tiến hành tuyên truyền phổ

biến chính sách pháp luật hiện hành liên quan tới những nội dung khiếu nại của các

bên đương sự. Có khá nhiều trường hợp sau khi được phổ biến, giải thích và hiểu

rõ pháp luật hiện hành, đương sự đã rút đơn KN về THADS. Mặt khác, các trường

hợp buộc phải ban hành quyết định về việc giải quyết KN về THADS, thì trên thực

tế hầu hết có nội dung tố cáo, khiếu nại của người khiếu nại thường không đúng với

sự thật, dẫn đến không được chấp nhận.

2.2. Khái quát về công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự

trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

KNTC là những quyền cơ bản của công dân và giải quyết khiếu nại là trách

nhiệm của nhà nước, điều này đã được Hiến pháp, pháp luật ghi nhận, bảo đảm

thực hiện. Đối với lĩnh vực thi hành án dân sự, làm tốt công tác giải quyết khiếu nại

có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm các bản án, quyết định của Tòa án được

tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của

pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức,

40

cá nhân. Chính vì vậy, công tác giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực THADS luôn

được Đảng, Nhà nước, Lãnh đạo Bộ tư pháp quan tâm chỉ đạo, quán triệt thực hiện

nghiêm nên công tác giải quyết khiếu nại trong THADS trrên địa bàn tỉnh Quảng

Nam đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận.

Với tỉnh Quảng Nam, các cơ quan đơn vị THADS của 5 năm trở lại đây đã

thi hành án với số số lượng đáng kể có giá trị lớn về tiền. Theo báo cáo thống kê

đến hết năm 2019, số lượng những vụ việc đưa ra thi hành, bắt đầu:

Năm 2015 có 8.768 vụ việc, quy thành tiền tương ứng 1.430.657.000 đồng;

Năm 2016 có 9.168 vụ việc, quy thành tiền tương ứng 1.59.135.256.000

đồng;

Năm 2017 có 9.398 vụ việc, quy thành tiền tương ứng 1.687.036.352.000

đổng;

Năm 2018 có 9.637 việc, quy thành tiền tương ứng 1.817.698.563.000 đồng;

Năm 2019 có 10.282 việc, quy thành tiền tương ứng 1.984730.518.000

đồng.

Về kết quả ở địa bàn tỉnh Quảng Nam, tỷ lệ vụ việc được giải quyết KN

trong THADS > 97%. Trong số này, có một số vụ việc KN là đúng một phần; có

một số vụ việc KN được kết luận là đúng hoàn toàn; song cũng có vụ việc là sai

toàn bộ. Về căn bản, công tác giải quyết KN về THADS đã đạt tỷ lệ tương đối cao;

qua đó đóng góp tích cực vào sự gia tăng THADS, tạo dựng niềm tin của các

đương sự tham gia vào quá trình THADS.

2.2.1. Về công tác tiếp công dân để giải quyết khiếu nại

Kể từ khi có hiệu lực Luật Tiếp công dân 2013, Cục Thi hành án dân sự tỉnh

Quảng Nam đã tổ chức thực hiện tới các cơ quan đơn vị THADS dưới cấp; cùng

với việc yêu cầu cả hệ thống cơ quan này thiết lập Quy chế tiếp dân. Kể từ đó, công

tác tiếp công dân đã được quan tâm chú trọng trong việc bố trí sắp xếp cán bộ,

Thẩm tra viên tiếp dân đối với những ngày làm việc trong tuần. Theo đó, Thẩm tra

viên tiếp dân đã lắng nghe ghi chép gần như đầy đủ các nội dung mà công dân trình

bày; đồng thời tích cực hướng dẫn công dân trình đơn (đúng với trình tự quy định)

41

tới những cơ quan đơn vị có chức năng và có thẩm quyền. Mặt khác, Cục Thi hành

án dân sự cấp tỉnh đã từng bước tiếp dân một cách nghiêm túc, đầy đủ qua các kỳ

tiếp dân của UBND tỉnh Quảng Nam. Tính tới nay, tỉnh Quảng Nam đã đảm bảo

100% Chi cục Thi hành án dân sự đều đã có quy chế hoạt động tiếp công dân. Kể

từ đó, công tác tiếp dân được tổ chức theo dõi có tính khoa học và hệ thống, mà Sổ

tiếp công dân là một điển hình.

Theo thống kê về công tác tiếp công dân, trong 5 năm, toàn tỉnh thực hiện gần

1000 lượt tiếp công dân tại trụ sở các cơ quan THADS để khiếu nại về 311 vụ việc.

Có nhiều trường hợp, tại buổi tiếp công dân đã thực hiện việc đối thoại, giải thích

tận tường về các quy định trong công tác THADS, về việc làm của cơ quan

THADS và CHV nên đương sự đã hiểu và tự nguyện rút đơn KN và hợp tác để tổ

chức thi hành vụ việc.

2.2.2. Kỹ năng tiếp nhận, phân loại, xử lý đơn thư khiếu nại về thi hành án

dân sự

Nhiều năm qua, Cục THADS tỉnh Quảng Nam đã từng bước hướng dẫn các Chi

cục THADS trên địa bàn trong việc phân loại đơn thư theo nội dung: KN các quyết

định THA, KN về việc không được thông báo các quyết định, giấy tờ về THA theo

quy định của pháp luật, KN về việc tổ chức cưỡng chế THA, KN về thanh toán tiền

THA, KN việc giải quyết KN về THADS.

Thứ nhất: Đối với đơn KN về các quyết định THADS

Qua theo dõi công tác giải quyết KN về THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

thời gian qua cho thấy, đương sự cũng KN nhiều đối với các quyết định THA như:

như Quyết định thi hành án, quyết định cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản THA,

quyết định ủy thác THA, quyết định về việc chưa có điều kiện THA, quyết định

giảm giá tài sản THA… Đơn khiếu nại các quyết định thi hành án chiếm 17% tổng

số các đơn khiếu nại về THADS.

Bà Thân Thị Thu Minh khiếu nại Quyết định chưa có điều kiện thi hành án số

72/QĐ-CCTHAS ngày 07/7/2016 của Chi cục trưởng Chi cục THADS thành phố

Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.

42

Bà Thân Thị Thu Minh, địa chỉ: Số nhà 93, đường Trần Đại Nghĩa, phường

Tân Thạnh, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam là người được thi hành án theo

Bản án sơ thẩm số 50/2015/DSST ngày 17/7/2015 của Tòa án nhân dân thành phố

Tam Kỳ, Bản án phúc thẩm số 19/2016/DSPT ngày 10/3/2016 của Tòa án nhân dân

tỉnh Quảng Nam và Quyết định thi hành án số 440/QĐ-CCTHADS ngày

01/4/2016 của Chi cục trưởng Chi cục THADS thành phố Tam Kỳ.

Ngày 07/7/2016, Chấp hành viên tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của

bà Bùi Thị Nhung tại Ủy ban nhân dân phường Tân Thạnh, thành phố Tam Kỳ, tỉnh

Quảng Nam thể hiện: “Hiện nay, bà Bùi Thị Nhung đang sinh sống tại khối phố Mỹ

Thạch Trung, phường Tân Thạnh, thành phố Tam Kỳ. Bà Bùi Thị Nhung có chồng

là ông Huỳnh Thời và 02 người con (tất cả đã lớn), bản thân ông Thời và bà Nhung

không có nghề nghiệp ổn định. Gia đình bà Nhung có 01 ngôi nhà tại số 17 Trần

Đại Nghĩa, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, ngôi nhà này bà Nhung đã bán

cho bà Bùi Thị Xuân Nguyên năm 2015, ngoài ra bà Nhung không còn tài sản gì có

giá trị tại địa phương để đảm bảo thi hành án”.

Trên cơ sở kết quả xác minh điều kiện thi hành án, ngày 07/7/2016, Chi cục

Thi hành án dân sự thành phố Tam Kỳ ban hành Quyết định số 72/QĐ-CCTHADS

xác định việc chưa có điều kiện thi hành án đối với bà Bùi Thị Nhung đối với

khoản nợ phải trả cho bà Thân Thị Thu Minh là 120.873.424 đồng và khoản lãi

chậm thi hành án.

Không chấp nhận Quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án số 72/QĐ-

CCTHADS của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tam Kỳ, ngày 14/7/2016, bà

Thân Thị Thu Minh có đơn khiếu nại Quyết định chưa có điều kiện thi hành án số

72/QĐ-CCTHADS của Chi cục. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam đã ban

hành Quyết định giải quyết khiếu nại số 635/QĐ-CTHADS ngày 22/8/2016, với

nội dung: Chấp nhận khiếu nại của bà Thân Thị Thu Minh về việc khiếu nại Quyết

định về việc chưa có điều kiện thi hành án số 72/QĐ-CCTHADS ngày 07/7/2016

của Chi cục, yêu cầu Chi cục thu hồi Quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành

43

án số 72/QĐ-CCTHADS ngày 07/7/2016 đã ban hành, tiếp tục xác minh tài sản của

bà Bùi Thị Nhung theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự để xử lý vụ việc.

Lý do thu hồi:

- Chưa thể ngôi nhà số 17 Trần Đại Nghĩa, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng

Nm có phải thuộc thửa đất số lô 313, tờ bản đồ số 00, KDC số 6, diện tích

112,2m2 đất ở đô thị, phường Tân Thạnh, thành phố Tam Kỳ theo giấy chứng nhận

số BK064735 do UBND thành phố Tam Kỳ cấp ngày 10/8/2012 hay không.

- Biên bản xác minh điều kiện thi hành án ngày 07/7/2016 của Chấp hành

viên được phân công tổ chức thi hành án chưa tuân thủ đúng quy định tại Điểm b,

Khoản 4, Điều 44 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm

2014, khi xác minh diều kiện thi hành án, Chấp hành viên có trách nhiệm sau đây:

“ Xác minh đầy đủ cụ thể tài sản, thu nhập, các điều kiện khác để thi hành án; đối

với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm thì

còn phải xác minh tại cơ quan có chức năng đăng ký tài sản, giao dịch đó”.

Như vậy, việc buộc Chi cục thu hồi Quyết định về việc chưa có điều kiện thi

hành án số 72/QĐ-CCTHADS ngày 07/7/2016 là do việc xác minh chưa rõ địa chỉ

tài sản và nơi tiến hành xác minh chưa đầy đủ, chưa đúng luật định. Không phải là

do bà Nhung có tài sản mà ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án.

Thứ hai: Đơn KN đối với việc không được thông báo với những giấy tờ, quyết

định về THADS theo luật định

Qua công tác kiểm tra và giải quyết KN về THADS, nhiều đương sự KN cơ

quan THADS chậm trễ trong việc thông báo cho đương sự như: Văn bản ban hành

hàng tháng sau mới gửi cho đương sự. Đơn KN này chiếm 11% tổng số đơn KN.

Ông Trương Văn Nhiều, địa chỉ: Thôn Phước Định, xã Đại Đồng, huyện Đại

Lộc, tỉnh Quảng Nam là người phải thi hành án theo Bản án sơ thẩm số

203/2018/DS-ST ngày 23/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng

Nam về khoản: Buộc ông Trương Văn Nhiều phải thi hành số tiền 89.000.000đồng

về khoản bồi thường sức khỏe cho ông Nguyễn Hữu Vinh, trú cùng thôn. Chi cục

44

THADS huyện Đại Lộc ban hành Quyết định THA số 467/QĐ-CCTHADS và giao

CHV tổ chức thi hành.

Chấp hành viên tiến hành các trình tự, thủ tục thi hành án theo luật định, tiến

hành giao Quyết định thi hành án và thông báo về việc tự nguyện THA cho người

phải thi hành án là ông Trương Văn Nhiều. Nhưng ông Nhiều thuộc diện là người

độc thân, sống một mình, không có người thân thích và luôn có thái độ chống đối

không chịu thi hành bản án, do vậy ông luôn trốn tránh, cố tình vắng mặt khi CHV

đến giao Quyết định thi hành án.

Vì không thực hiện được việc thông báo trực tiếp nên CHV tiến hành niêm

yết công khai theo quy định của pháp luật.

Quá thời gia tự nguyện THA, CHV tiến hành triệu tập ông Nhiều đến làm

việc để giải quyết việc thi hành án, qua nhiều lần triệu tập thì ông Nhiều đến cơ

quan THADS để làm việc nhưng có đơn khiếu nại về việc không được thông báo

và nhận các văn bản thông báo thi hành án.

Chi cục THADS huyện Đại Lộc đã thụ ý giải quyết KN và ra Quyết định giải

quyết KN, nội dung bác đơn KN của ông Trương Văn Nhiều.

Thứ ba: Đơn khiếu nại việc cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản THA

Theo thống kê của Phòng kiểm tra, giải quyết KN, tố cáo - Cục THADS tỉnh

Quảng Nam, hiện nay trên địa bàn tỉnh Quảng Nam có nhiều vụ KN liên quan đến

cưỡng chế kê biên tài sản, cưỡng chế giao tài sản bán đấu giá, chiếm 26% tổng số

đơn KN. Song với nỗ lực của Cục Thi hành án dân sự tỉnh đã chỉ đạo giải quyết khá

triệt để đối với hầu hết các vụ việc.

Nghiên cứu trường hợp bà Trần Xuân Phượng ở tại xã Quế Trung của huyện

Nông Sơn (Quảng Nam), khi Chấp hành viên của Chi cục Thi hành án dân sự của

huyện Nông Sơn thực hiện cưỡng cưỡng chế bán đấu giá tài sản là QSDĐ gắn liền

nhà ở trên đất, song lại không giải quyết đầy đủ quyền lợi của bà Phượng - vì lý do

là đồng sở hữu chung với người đang phải thi hành án. Từ vụ việc này, mặc dù Tòa

án các cấp đã xét xử và tiến hành thủ tục giám đốc thẩm để hủy bản án để tái xét

xử, song bà Phượng quyết liệt chống đối vì không đồng ý giao tài sản cho người

45

mua đã đấu giá. Trong trường hợp này, người KN đã gửi đơn KN, TC tới nhiều nơi

và có không ít lần đến trực tiếp Phòng tiếp dân trực thuộc Cục Thi hành án dân sự

cấp tỉnh đề nghị can thiệp và gặp Lãnh đạo của Cục Thi hành án dân sự nhằm yêu

cầu giải quyết. Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh trong buổi tiếp công dân đã mời

đại diện Viện KSND cấp tỉnh và UBND cấp tỉnh để tổ chức đối thoại với bà

Phượng,. Trong quá trình làm việc, từ việc phân tích và giải thích làm rõ pháp luật

hiện hành đã giúp cho bà Phượng đã hiểu, thống nhất tự nguyện rút lại đơn KN và

đã hoàn toàn tự nguyện bàn giao tài sản để THADS.

Thứ tư: Đơn khiếu nại về việc chậm tổ chức thi hành án

Do trong quá trình tổ chức thi hành án, các đương sự nôn nóng và mong muốn

được sớm tổ chức thi hành bản án để bảo về quyền, lợi ích hợp pháp của mình mà

không để ý đến việc tổ chức thi hành một bản án, CHV phải tuân thủ một quy trình,

trình tự, thủ tục luật định chặt chẽ để đảm bảo bản án được tổ chức thi hành một

cách công bằng, khách quan, công khai, minh bạch và đảm bảo quyền, lợi ích một

cách cao nhất của các bên đương sự, cho rằng CHV cố tình kéo dài thời gian tổ

chức thi hành án nên tiến hành việc khiếu nại CHV chậm tổ chức thi hành án cho

họ.

Kết quả thống kê cho thấy KN chậm tổ chức thi hành án chiếm 34 % tổng số

đơn khiếu nại từ năm 2015 đến năm 2019 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

Bà Đỗ Thị Thu Hồng là người được THA theo Bản án DSST số

191/2019/DS-ST ngày 15/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Tiên Phước, tỉnh

Quảng Nam. Ngày 22/5/2019, Chi cục THADS huyện Tiên Phước ban hành Quyết

định thi hành án số 356/QĐ-CCTHADS về khoản buộc ông Đỗ Thanh Minh phải

thối trả cho bà Hồng số tiền 300.000.000đồng và giao CHV tổ chức thi hành, CHV

tiến hành các bước trình tự, thủ tục theo luật định để tổ chức thi hành án.

Hết thời hạn THA, Chấp hành viên tiến hành xác minh điều kiện thi hành án

của người phải thi hành án để có kế hoạch tổ chức thi hành. Trong thời gian CHV

tiến hành xác minh các điều kiện về tài sản, thu nhập của người phải thi hành án thì

46

bà Hồng có đơn khiếu nại CHV chậm tổ chức thi hành bản án và không buộc ông

Minh phải thực hiện nghĩa vụ thối trả 300.000.000đồng cho mình.

Chi cục THADS huyện Tiên Phước, trên cơ sở báo cáo của CHV và căn cứ hồ

sơ THA đã thụ lý giải quyết đơn khiếu nại của bà Hồng. Kết quả, Chi cục THADS

huyện Tiên Phước bác nội dung khiếu nại của bà Hồng vì không có căn cứ cho rằng

CHV chậm tổ chức thi hành bản án.

Năm là: Đơn khiếu nại về thanh toán tiền thi hành án

Đây là trường hợp KN chủ yếu liên quan đến người được THA, chiếm 9%

tổng số đơn KN. Trong đó, nội dung khiếu nại lại chậm được giải quyết trong khi

cơ quan Thi hành án dân sự trên thực tế đã thu tiền thi hành án, không được ưu tiên

thanh toán và cũng không được thanh toán khoản lãi chậm thi hành án theo đúng

quyết định, bản án của Tòa.

Ông Nguyễn Thanh Bình là người được thi hành án theo Bản án sơ thẩm số

67/2019/DS-ST ngày 14/5/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hội An, tỉnh

Quảng Nam, theo đó, bản án tuyên ông Bình được nhận số tiền 20.000.000đồng.

CHV tiến hành các bước trình tự, thủ tục tổ chức thi hành án, sau khi xác

minh thu nhập của người phải thi hành án, CHV đã tiến hành thủ tục khấu trừ một

phần thu nhập qua lương của người phải thi hành án và tiến hành thanh toán khoản

án phí DSST.

Biết CHV thu được khoản tiền qua khấu trừ lương của người phải thi hành án

nhưng không thực hiện chi trả cho mình thì tiến hành khiếu nại việc CHV không ưu

tiên thanh toán cho mình. Chi cục THADS thành phố Hội An đã bác đơn khiếu nại

của ông Bình theo quy định tại Điều 47 Luật THADS năm 2014.

Sáu là: Đơn KN về việc giải quyết KN trong THADS

Trên địa bàn tỉnh Quảng Nam vẫn còn nhiều trường hợp đương sự KN các cơ

quan, cá nhân khác nhau như bản án tuyên có sai sót, yêu cầu giám đốc thẩm, tái

thẩm bản án đang được thi hành. Tuy rằng, cơ quan đơn vị Thi hành án dân sự đã

trả lời bằng văn bản và giải thích, hướng dẫn song bên đương sự cứ tiếp diễn khiếu

nại (đơn khiếu nại này khoảng 3% tổng số đơn khiếu nại). Vì vậy, việc đương sự

47

khiếu nại chưa đến đúng người có thẩm quyền giải quyết theo luật định đang còn

diễn ra thời gian qua và xu hướng gia tăng.

Theo Bản án dân sự phúc thẩm 101/DSPT ngày 16/02/2017 của Tòa án nhân

dân tỉnh Quảng Nam tuyên buộc bà Trương Thị Hồng, Khu phố 2, thị trấn Hà Lam,

huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam phải trả cho bà Dương Thị Thu, Khu phố 7,

thị trấn Hà Lam, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam số tiền 678.000.000 đồng và

lãi suất chậm THA. Bản án có hiệu lực pháp luật, bà Thu có đơn yêu cầu THA, Chi

cục trưởng Chi cục THADS huyện Thăng Bình quyết định THA số 167/QĐ-THA

ngày 13/4/2017 và tiến hành các trình tự, thủ tục theo quy định. Trong quá trình thi

hành án dân sự, bà Hồng KN đối với người CHV trong kê biên, bán đấu giá tài sản

là nhà đất của gia đình bà Hồng là không đúng luật định, vì bà đang trong thời gian

khiếu nại xin giám đốc thẩm Bản án dân sự phúc thẩm. Ngày 20 tháng 6 năm 2017,

Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thăng Bình ban hành quyết định

12/QĐ-THA về việc giải quyết khiếu nại bác đơn KN của bà Hồng. Tuy nhiên, vẫn

không đồng ý với quyết định 12/QĐ-THA của Chi cục trưởng Chi cục THADS

huyện Thăng Bình, bà Hồng đã tiếp tục khiếu nại tới Cục trưởng Cục Thi hành án

dân sự tỉnh Quảng Nam. Ngày 14 tháng 8 năm 2017, Cục trưởng Cục THADS tỉnh

đã ban hành quyết định 25/QĐ-GQKN về giải quyết khiếu nại bác đơn khiếu nại

của bà Hồng; và đồng thời giữ nguyên quyết định 12/QĐ-THA.

Về giải quyết khiếu nại đối với những vụ việc khiếu nại phức tạp, kèo dài:

Theo thống kê tình hình, kết quả giải quyết những vụ việc KN phức tạp, kéo dài

cho thấy: Trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ trước đến nay chưa có Đơn khiếu nại về

THADS phức tạp, kéo dài.

2.2.3. Công tác quản lý việc giải quyết KN về THADS

Hằng năm, thực hiện Kế hoạch công tác năm đã được Tổng cục THADS phê

duyệt, Cục THADS tỉnh Quảng Nam đã ban hành Kế hoạch công tác kiểm tra

THADS, theo dõi Thi hành án hành chính của mỗi năm, theo đó thực hiện công tác

kiểm tra đối với Chi cục THADS huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh theo chỉ tiêu

quy định của Tổng cục THADS và kế hoạch tự kiểm tra của Cục, đồng thời chỉ đạo

48

100% các Chi cục THADS cấp huyện có kế hoạch tự kiểm tra nội bộ đơn vị hằng

năm, có kế hoạch tự kiểm tra và kết luận tự kiểm tra báo cáo Cục THADS quản lý,

chỉ đạo.

Cục THADS tỉnh Quảng Nam theo hàng quý, hàng tháng định kỳ cũng đã chỉ

đạo Phòng Kiểm tra giải quyết khiếu nại, tố cáo phối hợp để tổng hợp chính xác về

tình hình thực hiện giải quyết khiếu nại tại địa bàn.

Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam đã tăng cường chỉ đạo tổ chức quán

triệt và hướng dẫn đối với Chi cục THADS cấp huyện nhằm thực hiện tốt công tác

phối hợp phổ biến tuyên truyền pháp luật. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam

những năm qua cũng đã có các sáng kiến trong in ấn, sáng tác những tờ rơi súc tích,

ngắn gọn, dễ hiểu, có hình thức tạo được ấn tượng đẹp nhằm phổ biến tuyên truyền

tới mọi người dân về thủ tục khiếu nại đặt tại Phòng tiếp công dân của Cục và Chi

cục, bộ phận Tiếp nhận và hoàn trả hồ sơ để công dân có nhiều thuận tiện tiếp cận

tìm hiểu.

Đối với công tác theo dõi đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc áp dụng pháp luật

hiện hành về khiếu nại trong thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Nam những năm

qua cũng được chú trọng thực hiện, nên đã kịp thời phát hiện các thiếu sót/ bất cập

và từng bước khắc phục đối với những trường hợp cảm tính/ tùy tiện khi áp dụng;

cũng như xử lý các sai phạm đáng tiếc đã xảy ra.

2.2.4. Công tác phối hợp liên ngành trong công tác giải quyết khiếu nại về

thi hành án dân sự được các cấp, các ngành quan tâm hơn

Tình hình, kết quả triển khai thực hiện các Quy chế phối hợp liên ngành:

Ngày 20/10/2013 Cục THADS tỉnh đã triển khai ký kết Quy chế số 01/QC-

CTHADS- TAND-VKSND-CA phối hợp liên ngành trong THADS giữa 4 cơ quan

Thi hành án dân sự - Toà án nhân dân - Viện kiểm sát nhân dân - Công an nhằm

tiếp tục nâng cao chất lượng công tác THADS nói chung và công tác giải quyết KN

về THADS nói riêng trên địa bàn tỉnh.

Trước tình trạng một vài đương sự có hành vi lợi dụng công tác tiếp dân trong

giải quyết khiếu nại đối với một số vụ việc để gây rối tại trụ sở cơ quan đơn vị

49

THADS, chính quyền tỉnh Quảng Nam đã kịp thời chỉ đạo cơ quan đơn vị Thi hành

án dân sự phối hợp với cơ quan Công An, Viện KSND tổ chức tuyên truyền, vận

động, đối thoại và giải thích pháp luật cho các đương sự này nhận thức để hiểu

đúng đề và chấp hành tuân thủ pháp luật.

Về công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự được

thực hiện thường xuyên. Cơ sở pháp lý của công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu

nại về thi hành án dân sự chủ yếu dựa vào ba văn bản sau: Luật Tổ chức Viện kiểm

sát nhân dân (VKSND) năm 2014 (khoản 2, 3 Điều 4; khoản 1, 2 Điều 30); Luật

Thi hành án dân sự năm 2014 (Điều 159); Quy chế công tác kiểm sát thi hành án

dân sự, thi hành án hành chính ban hành kèm theo Quyết định số 810/QĐ-VKSTC

ngày 20/12/2016 của VKSND tối cao (Điều 26).

Hằng năm, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp luôn thực hiện việc kiểm sát

THADS, thông qua đó thực hiện việc kiểm sát chuyên đề việc giải quyết khiếu nại

trong THADS. Cụ thể: Khi cơ quan THADS ban hành Thông báo thụ lý đơn khiếu

nại THADS, ban hành quyết định giải quyết khiếu nại thì phải gửi cho Viện kiểm

sát nhân dân cùng cấp; thực hiện việc báo cáo, cung cấp thông tin để Viện kiểm sát

trả lời đơn công dân khi có yêu cầu; định kỳ báo cáo thống kê số liệu công tác giải

quyết khiếu nại để Viện kiểm sát nhân dân theo dõi và báo cáo cấp trên…

2.2.5. Công tác báo cáo, thống kê, tổng hợp số liệu, tình hình giải quyết đơn

thư KN trong THADS

Theo Quy chế giải quyết KN, tố cáo về THADS (Ban hành kèm theo Quyết

định số 1318/QĐ-TCTHADS ngày 30/9/2013 của Tổng cục trưởng Tổng cục

THADS), Cục THADS tỉnh Quảng Nam đã thực hiện chế độ báo cáo như sau:

Chi cục Thi hành án dân sự của các huyện, thị, thành phố thuộc tỉnh Quảng

Nam đã thực hiện đúng định kỳ việc báo cáo công tác giải quyết khiếu nại THADS

(báo cáo tháng, báo cáo quý, báo cáo sáu tháng và báo cáo năm) gửi về Phòng

Kiểm tra và giải quyết KN,TC của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam để tổng

hợp và theo dõi tình hình hoạt động. Từ cơ sở này, Cục Thi hành án dân sự tỉnh đã

tổng hợp và thực hiện nghiêm túc, kịp thời việc định kỳ báo cáo công tác giải quyết

50

khiếu nại THADS (báo cáo tháng, báo cáo quý, báo cáo sáu tháng và báo cáo năm)

trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, gửi về Vụ Giải quyết KN,TC của Tổng cục THADS.

Đối với tỉnh Quảng Nam, những năm qua thường gặp một số báo cáo đột xuất

về tình hình giải quyết khiếu nại theo yêu cầu của cấp trên. Bởi khi xảy đến có đơn

khiếu nại về THADS của đương sự, thì cơ quan Thi hành án dân sự và người có

nghĩa vụ và quyền lợi liên quan yêu cầu đề nghị: cơ quan đơn vị THADS cấp dưới

phải báo cáo rõ về tình hình sự việc hoặc Chấp hành viên giải quyết hồ sơ.

Thực tế trên địa bàn Quảng Nam của các năm trở lại đây, công tác giải quyết

khiếu nại trong thi hành án dân sự đã có sự chuyển biến tích cực. Minh chứng đã

cho thấy, kết quả 05 năm từ 2015-2019 về việc giải quyết khiếu nại trong thi hành

án dân sự tại tỉnh Quảng Nam của hệ thống cơ quan đơn vị THADS qua bảng 2.1,

đó là:

Bảng 2.1. Kết quả giải quyết đơn khiếu nại về thi hành án dân sự từ năm 2015

đến năm 2019 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam

Kết quả giải quyết

Số đơn

Số đơn thụ

Khiếu

Khiếu

Khiếu

Số đơn

lý giải

Năm

tiếp

Đình

nại đúng

nại đúng

nại sai

chuyển kỳ

Tổng số

chỉ

một

quyết

nhận

toàn bộ

toàn bộ

sau

phần

2015

2016

39 39 16 0 2 21 0 64

2017

42 42 11 0 0 30 1 75

2018

39 39 14 0 3 22 0 67

2019

33 26 11 1 2 11 1 54

51 51 21 0 1 29 0 82

Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác thi hành án dân sự từ năm 2015 đến năm 2019

của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam

2.3. Đánh giá về giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự trên địa

bàn tỉnh Quảng Nam.

2.3.1. Những kết quả đạt được về giải quyết khiếu nại trong thi hành án

dân sự

51

Từ nhiều năm qua trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, hệ thống các cơ quan đơn vị

Thi hành án dân sự luôn phấn đấu thực hiện đạt mục tiêu giảm thiểu tối đa các vụ

việc khiếu nại kéo dài, tồn đọng và phức tạp; và giảm dần có thể đối với đơn thư

khiếu nại mới phát sinh. Góp phần hiện thực hóa mục tiêu này, công tác giải quyết

khiếu nại trong thi hành án dân sự của tỉnh Quảng Nam đã đạt các kết quả nhất

định, như sau:

Thứ nhất: Công tác tiếp công dân đã đi vào nề nếp

Cục THADS tỉnh Quảng Nam cùng với các Chi cục THADS trực thuộc trên

địa bàn những năm qua đã từng bước chú trọng thực hiện tốt công tác tiếp công

dân, cụ thể là: từ khâu bố trí địa điểm thuận lợi đến việc sắp xếp bố trí hợp lý các

cán bộ có tín, có kỹ năng và kinh nghiệm đối thoại để tham gia công tác tiếp dân.

Mặc dù một số cơ quan THADS có khó khăn về cơ sở vật chất trụ sở và biên

chế nhân sự có hạn trong khi công việc đang có xu hướng quá tải, song đã từng

bước khắc phục bằng việc: bố trí hợp lý nhân sự và địa điểm tiếp dân; hoàn thiện

quy chế tiếp dân, bố trí một cách khoa học về lịch tiếp dân của Lãnh đạo; đề cao

thái độ trách nhiệm tận tình trong tiếp dân… Nhờ vậy, công tác tiếp dân được thực

hiện tốt; qua đó tham gia chú trọng vào việc đẩy mạnh nhiệm vụ tuyên truyền, giáo

dục phổ biến và giải thích pháp luật về khiếu nại… Kết quả là, người khiếu nại về

thi hành án dân sự hiểu rõ hơn về nghĩa vụ và quyền của mình và thực hiện đúng

quy trình thủ tục khiếu nại trong lĩnh vực THADS; nhiều trường hợp đã tự nguyện

rút đơn khiếu nại và hợp tác tích cực với cơ quan Thi hành án dân sự trong tổ chức

thi hành án.

Hai là: Việc tiếp nhận và phân loại đơn thư khiếu nại được tiến hành khoa học;

quá trình xử lý đơn KN trong THADS đã được chủ động và thực hiện đúng luật

Trên cơ sở của Hướng dẫn 24/HD-TATC-VKSTC-BCA-BQP-BTP, ngày 06-5-

2014 về phân loại đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp, Cục Thi hành án

dân sự tỉnh Quảng Nam đã ra văn bản triển khai thực hiện Hướng dẫn liên ngành số

24/HD-TATC-VKSTC-BCA-BQP-BTP, ngày 06-5-2014. Theo đó tại tỉnh Quảng

Nam, công tác xử lý đơn thư khiếu nại trong thi hành án dân sự ngày một khách

52

quan, chính xác, khoa học và đúng luật định, góp phần phục vụ tốt công tác quản lý

tình hình đơn thư khiếu nại và rà soát loại bỏ nhiều đơn khiếu nại không đủ điều

kiện xử lý.

Ba là: Quá trình quản lý và giải quyết những vụ việc KN trong THADS đã

được chủ động và kịp thời.

Với mục tiêu gia tăng hiệu quả và chất lượng hoạt động, nhiều năm qua Cục

THADS tỉnh Quảng Nam đã tập trung chú trọng giải quyết khiếu nại ngay từ cơ sở

một cách đúng hạn và đúng luật định, hạn chế thấp nhất các khiếu nại vượt cấp

hoặc mới phát sinh. Các khiếu nại THADS đã được xem xét, giải quyết, xử lý đúng

pháp luật, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các tổ chức, cơ quan và người có nghĩa

vụ, quyền liên quan đến. Nhiều tổ chức, đơn vị đã nhận thức sâu sắc về trách nhiệm

giải quyết khiếu nại, góp phần giảm thiểu và giải quyết dứt điểm các vụ việc tồn

đọng, kéo dài...

Bốn là: việc triển khai công tác phối hợp liên ngành đã được chú trọng hơn

trong công tác giải quyết KN trong THADS

Việc thực hiện Quy chế phối hợp liên ngành giữa các cơ quan THADS, Tòa

án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Công an đã tỏ ra có hiệu quả. Trong quá trình

thực hiện Quy chế, các ngành thường xuyên phối hợp, trao đổi, bàn thống nhất giải

quyết, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc và tạo điều kiện thuận lợi cho nhau

trong công tác THADS cũng như trong công tác giải quyết KN về THADS. Công

tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về THA, pháp luật KN về THADS được các

ngành tập trung chỉ đạo để đương sự, công dân, cơ quan, tổ chức hiểu và thực hiện

các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật góp phần đảm bảo an ninh,

chính trị tại địa phương. Cho đến nay, tất cả các cơ quan THADS trên địa bàn tỉnh

Quảng Nam đều đã ban hành quy chế phối hợp liên ngành trong công tác THADS

cũng như trong công tác giải quyết KN về tư pháp, tạo sự thống nhất, điều kiện

thuận lợi trong việc phối hợp trong công tác giải quyết KN về tư pháp nói chung và

KN về THADS nói riêng trên địa bàn.

53

Việc phối hợp giữa các cơ quan THADS với các cơ quan hữu quan trên địa

bàn tỉnh Quảng Nam được tiến hành bằng nhiều hình thức khác nhau nhưng thông

thường được tiến hành dưới các hình thức: Ban hành Quy chế phối hợp; báo cáo

bằng văn bản; tổ chức các cuộc họp; trao đổi trực tiếp; cung cấp hồ sơ, tài liệu;

thông báo kết quả giải quyết; tổ chức hội nghị tổng kết. Thực tiễn công tác THADS

cho thấy mối quan hệ giữa cơ quan THADS, CHV với các cơ quan, tổ chức, cá

nhân hữu quan đã hình thành và được giải quyết cơ bản là hài hòa, góp phần không

nhỏ vào việc tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác THADS nói chung và công

tác giải quyết KN về THADS nói riêng.

Thứ năm: Công tác báo cáo, thống kê, tổng hợp số liệu, tình hình giải quyết

đơn thư khiếu nại trong thi hành án dân sự được thực hiện thường xuyên, chính xác

Các Chi cục THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đã thực hiện nghiêm túc

chế độ báo cáo, kể cả báo cáo định kỳ và báo cáo đột xuất. Nhờ vậy, Cục THADS

tỉnh Quảng Nam, công chức Phòng Kiểm tra, giải quyết KN, tố cáo tỉnh và các Chi

cục THADS đã theo dõi quản lý công tác KN, đánh giá được tình hình KN của

công dân, việc áp dụng các quy định pháp luật về thủ tục THADS của công chức

trong ngành để phục vụ công tác quản lý KN và quản lý ngành báo cáo cơ quan có

thẩm quyền. Đồng thời, từ đó hoàn thiện thể chế, đánh giá được chất lượng của

công chức và kịp thời bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, làm cơ sở đánh giá

thi đua khen thưởng.

2.3.2. Những hạn chế, bất cập về giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân

sự

Công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh

Quảng Nam thời gian qua vẫn còn những tồn tại, hạn chế sau:

Thứ nhất, công tác tiếp công dân còn hình thức, không ít cơ quan THADS cấp

huyện chưa bố trí được nơi tiếp công dân độc lập. Một số thủ trưởng cơ quan

THADS không trực tiếp tiếp công dân định kỳ và đột xuất, chưa gắn việc tiếp công

dân với việc giải quyết khiếu nại. Một số cán bộ làm nhiệm vụ tiếp công dân chưa

ý thức được tầm quan trọng của công tác này, thiếu kỹ năng tiếp công dân, thái độ

54

tiếp công dân chưa phù hợp, ứng xử không đúng mực khi thực hiện nhiệm vụ, để

công dân phản ánh, thậm chí ghi âm, ghi hình khiếu nại, tố cáo lên cấp trên về thái

độ hách dịch khi làm việc, tiếp xúc với công dân đã gây bức xúc cho người khiếu

nại. Kỹ năng ứng xử, thái độ giải quyết vụ việc khiếu nại của người có thẩm quyền

chưa phù hợp dẫn đến tình trạng công dân bức xúc với việc giải quyết của các cơ

quan THADS cấp huyện, tiếp tục khiếu nại đến Cục THADS, Tổng cục, Bộ Tư

pháp…

Thứ hai, việc phân loại, thụ lý đơn khiếu nại ở một số Chi cục THADS còn có

nhiều sai sót, hạn chế; kỷ năng xử lý đơn thư đầu vào của cán bộ làm công tác này

còn lúng túng như: Đơn khiếu nại nhưng lại được phân loại thành đơn kiến nghị,

phản ánh dẫn đến số liệu thống kê về tình hình xử lý đơn, thư khiếu nại chưa chính

xác, có trường hợp đơn có nội dung tố cáo nhưng do phân loại thành khiếu nại nên

giải quyết theo trình tự, thủ tục khiếu nại và ngược lại…

Thứ ba, vi phạm quy định về trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại như; Chậm

thụ lý, xác định đối tượng bị khiếu nại, hành vi bị khiếu nại không chính xác; chậm

giải quyết khiếu nại (đã ra thông báo thụ lý giải quyết khiếu nại nhưng để kéo dài,

không ban hành quyết định giải quyết khiếu nại); giải quyết khiếu nại chưa đầy đủ,

không đúng nội dung khiếu nại của đương sự, thực hiện không đúng, không đầy đủ

về thiết lập hồ sơ giải quyết khiếu nại: Không đánh số bút lục hoặc đánh số bút lục

không đầy đủ, sắp xếp tài liệu trong hồ sơ giải quyết khiếu nại không đúng thứ tự,

không ghi danh mục tài liệu có trong hồ sơ…

Thứ tư, nội dung giải quyết không đúng pháp luật như: Khiếu nại của đương

sự là có cơ sở nhưng khi giải quyết áp dụng pháp luật không đúng, không nghiên

cứu đầy đủ, toàn diện hồ sơ thi hành án và các tài liệu có liên quan; không tổ chức

đối thoại, xác minh hoặc trưng cầu giám định khi cần thiết dẫn đến kết quả giải

quyết không khách quan, chưa đúng pháp luật, đương sự bức xúc nên dẫn đến

khiếu nại kéo dài, vượt cấp; giải quyết khiếu nại chưa đầy đủ, không đúng nội dung

khiếu nại của đương sự; một số quyết định giải quyết khiếu nại còn thiếu căn cứ,

chưa chặt chẽ. Đặc biệt, có trường hợp người có thẩm quyền khi giải quyết khiếu

55

nại có dấu hiệu nể nang, lòng vòng, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm cho cơ quan cấp

trên.

Thứ năm, một số thủ trưởng cơ quan THADS giải quyết khiếu nại lần đầu đã

chưa thực hiện tốt việc hướng dẫn đương sự thực hiện quyền khiếu nại lần 2 theo

quy định, cụ thể: Khoản 9 Điều 151 Luật Thi hành án dân sự quy định khi giải

quyết khiếu nại lần đầu, quyết định giải quyết khiếu nại phải có nội dung hướng

dẫn đương sự về quyền khiếu nại lần 2. Tuy nhiên, trong thực tế, vẫn còn một số

quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu không có nội dung này.

Thứ sáu, nhiều cơ quan THADS chưa thực hiện được việc công khai quyết

định giải quyết khiếu nại. Tồn tại này phổ biến ở tất cả các cấp và ở hầu hết địa

bàn, làm cho công tác giải quyết khiếu nại chưa thực sự phát huy hiệu quả như yêu

cầu tại Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp quy định

quy trình giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh trong Thi hành án

dân sự.

Thứ bảy, chạm khắc phục sai phạm và tổ chức thực hiện các quyết định giải

quyết khiếu nại đã có hiệu lực, cụ thể: Chưa chủ động, kịp thời áp dụng pháp luật

để khắc phục những sai phạm, thiếu sót đã được phát hiện qua công tác thanh tra,

giải quyết khiếu nại; việc tổ chức thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại đã

có hiệu lực pháp luật còn chậm, hạn chế và đùn đẩy; công tác theo dõi, đôn đốc,

kiểm tra việc thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại còn nhiều hạn chế.

Thậm chí, thủ trưởng một số cơ quan THADS còn có biểu hiện chưa nghiêm khắc

đối với những công chức, chấp hành viên có sai phạm trong quá trình tổ chức thi

hành án, giải quyết khiếu nại dẫn đến tình trạng công dân bức xúc, khiếu nại gay

gắt, vượt cấp hoặc chuyển từ khiếu nại sang tố cáo, làm cho vụ việc càng phức tạp

hơn.

2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế, bất cập về giải quyết khiếu nại trong thi

hành án dân sự

2.3.3.1. Nguyên nhân khách quan:

56

Thứ nhất, các quy định của pháp luật về khiếu nại và giải quyết khiếu nại

trong THADS vẫn còn khá nhiều bất cập, cụ thể như: Chưa quy định về thẩm

quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại đối với các trường hợp người bị khiếu

nại đã nghỉ hưu hoặc chuyển công tác, chưa quy định cụ thể về người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan; chưa quy định về trình tự, thủ tục xem xét lại đối với quyết

định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật; chưa quy định trình tự, thủ tục ra

thông báo chấm dút khiếu nại và thông báo không thụ lý đối với vụ việc khiếu nại

phức tạp, tồn đọng, kéo dài về THADS đã được giải quyết đúng chính sách pháp

luật, thấu tình, đạt lý và chưa bổ sung đầy đủ biểu mẫu về giải quyết khiếu nại; sổ

theo dõi công tác giải quyết khiếu nại, các biểu mẫu báo cáo quy định thống nhất

về thời hạn và định kỳ báo cáo về khiếu nại trong THADS.

Thứ hai, một số địa phương có lượng việc thi hành án nhiều nên chấp hành

viên, công chức rơi vào tình trạng quá tải công việc dẫn đến chậm trễ trong việc tổ

chức thi hành án, do đó, quyền lợi của người được thi hành án không được đảm

bảo, phát sinh khiếu nại. Mặc khác, cũng vì quá tải công việc nên việc xác minh

theo đơn khiếu nại và nghiên cứu nội dung vụ việc khiếu nại của cán bộ thi hành án

chức thấu đáo dẫn đến hạn chế trong tham mưu giải quyết khiếu nại.

Thứ ba, ở cấp huyện công chức làm công tác tiếp công dân còn kiêm nhiệm

nên quá trình thụ lý, xác minh, tham mưu giải quyết khiếu nại chưa chuyên nghiệp.

Lực lượng công chức trực tiếp tham mưu giải quyết khiếu nại trong toàn tỉnh còn

mỏng.

Thứ tư, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác giải quyết khiếu nại về THADS

chưa đáp ứng được nhu cầu đặt ra, nhất là vấn đề bố trí phòng tiếp công dân ở các

cơ quan thi hành án dân sự của tỉnh.

2.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan:

Thứ nhất, nhận thức của một số thủ trưởng cơ quan THADS, chấp hành viên,

công chức THADS về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác giải quyết khiếu nại

còn chưa đầy đủ. Vì thế, chưa quan tâm bố trí những công chức có năng lực, tâm

huyết, có trách nhiệm để làm công tác giải quyết khiếu nại. Một số ít thủ trưởng cơ

57

quan THADS cấp huyện chưa sát sao trong việc đôn đốc công chức dưới quyền

trong công tác tiếp công dân, tham gia xác minh đơn, thư khiếu nại, tham mưu giải

quyết khiếu nại, chưa tổ chức thực hiện kịp thời các yêu cầu của cấp trên trong việc

giải quyết khiếu nại.

Thứ hai, trình độ, năng lực của công chức trực tiếp tham mưu giải quyết khiếu

nại ở các cơ quan THADS còn hạn chế. Nhiều công chức chưa tích cực nghiên cứu,

nắm vững các quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại trong THADS và

pháp luật có liên quan nên khi áp dụng để tham mưu giải quyết khiếu nại còn lúng

túng, sai sót, thậm chí sai phạm. Một số chấp hành viên có thái độ không đúng

mực, gây bức xúc cho đương sự hoặc có hành vi vi phạm pháp luật. Điều này

không chỉ vì do yếu kém về nghiệp vụ mà còn do cố ý hoặc do đạo đức kém, thái

độ coi thường, nhũng nhiễu, thậm chí vô cảm trước quyền và lợi ích hợp pháp của

đương sự. Quá trình giải quyết khiếu nại của thủ trưởng cơ quan THADS không ít

trường hợp còn có tâm lý bênh vực công chức cơ quan mình hoặc công chức cấp

dưới nên bác đơn khiếu nại của đương sự. Đây là một trong những nguyên nhân

chính dẫn tới bức xúc của đương sự.

Thứ ba, công tác tuyên truyền pháp luật THADS nói chung, pháp luật về

khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong THADS nói riêng chưa được các cơ quan

THADS thực sự chú trọng. Trong quá trình tổ chức thi hành án, các cơ quan

THADS trong tỉnh chưa quan tâm giải thích và giáo dục thuyết phục cho các bên

đương sự hiểu và tự nguyện thực hiện các nghĩa vụ của mình trong thi hành án

nhằm góp phần hạn chế khiếu nại ngay từ cơ sở.

Thứ tư, công tác tổng kết, rút kinh nghiệm và đào tạo, bồi dưỡng công chức về

nghiệp vụ, kỹ năng giải quyết khiếu nại trong THADS tuy ngày càng được chú ý,

thực hiện thường xuyên nhưng nội dung chưa chuyên sâu, thời gian mỗi kỳ tập

huấn hằng năm quá ngắn (chỉ từ hơn 01 ngày). Với thời gian này chỉ đủ để giới

thiệu những vấn đề mới, chứ không đủ để trao đổi, thảo luận và giải đáp thấu đáo

những vướng mắc nghiệp vụ.

58

Thứ năm, ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận đương sự còn thấp,

nhiều trường hợp hiểu rõ khiếu nại của mình là thiếu căn cứ pháp luật nhưng vẫn

cố tình khiếu nại để kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ thi hành án của mình hoặc

gây rối, cản trở quá trình thi hành án khiến cho bản án, quyết định của tòa án chậm

được thi hành. Trong khi đó, pháp luật mới chỉ có chế tài đối với hành vi cố tình tố

cáo sai sự thật, còn đối với hành vi cố tình khiếu nại không có căn cứ để trì hoãn thi

hành án hoặc gây rối quá trình thi hành án thì chưa có biện pháp hữu hiệu để xử lý.

Thứ sáu, cấp ủy Đảng, chính quyền ở một số địa phương chưa thực sự quan

tâm đúng mức đến việc chỉ đạo công tác THADS, trong đó có công tác giải quyết

khiếu nại về THADS. Trong một số trường hợp giải quyết khiếu nại các cơ quan

hữu quan còn thiếu sự phối hợp kịp thời, chặt chẽ, hiệu quả, thậm chí đùn đẩy, né

tránh trách nhiệm giải quyết khiếu nại.

59

Tiểu kết Chương 2

Qua đánh giá thực trạng về khiếu nại trong THADS trên địa bàn tỉnh Quảng

Nam cho thấy:

Giải quyết khiếu nại trong THADS là việc làm hết sức khó khăn. Tình hình

khiếu nại của công dân ngày càng nhiều, mang tính chất phức tạp. Nguồn gốc sâu

xa dẫn đến việc khiếu nại trong THADS như trường hợp người phải thi hành án có

điều kiện thi hành án nhưng vẫn cố tình chây ỳ, không tự nguyện thi hành, hay

đương sự không hiểu trình tự thủ tục thi hành án hoặc lợi dụng quyền tự do dân chủ

của công dân, làm đơn khiếu nại không đúng qui định nhằm trì hoãn việc thi hành

án. Nhiều trường hợp khiếu nại, cơ quan Thi hành án dân sự đã giải quyết khiếu nại

hết thẩm quyền nhưng các đương sự vẫn tiếp tục khiếu nại gửi đến nhiều ngành,

nhiều cấp từ Trung ương tới địa phương, gây xáo trộn, làm ảnh hưởng đến hoạt

động bình thường của cơ quan Thi hành án dân sự, có trường hợp, ảnh hưởng đến

an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.

Thực tế cho thấy, từ phía cơ quan thi hành án dân sự trong quản lý, điều

hành có lúc còn chưa sâu sát, kịp thời, chưa quyết liệt; đội ngũ cán bộ chưa tương

xứng cả về số lượng cũng như chất lượng so với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình

mới. Do đội ngũ cán bộ còn thiếu về số lượng, năng lực, trình độ chuyên môn

nghiệp vụ không đồng đều; một số cán bộ quản lý chưa phát huy hết trách nhiệm

trong quản lý, điều hành; một số Chấp hành viên, cán bộ thi hành án chưa kịp thời

cập nhật kiến thức nghiệp vụ, cá biệt có một số trường hợp vi phạm kỷ luật; một số

cơ quan thi hành án dân sự thiếu chủ động trong việc phối hợp với các cơ quan hữu

quan ở địa phương, chưa tranh thủ được sự quan tâm của cấp ủy Đảng, chính quyền

địa phương đối với công tác thi hành án dân sự... Do đó, việc tăng cường công tác

quản lý, chỉ đạo, điều hành ở các cấp theo hướng rõ người, rõ việc và thời gian

hoàn thành nhiệm vụ; Trong khi quyền khiếu kiện và trách nhiệm giải quyết khiếu

kiện đã được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, các cấp các ngành tạo mọi điều

kiện thuận lợi cho công dân việc thực hiện quyền khiếu nại tố cáo đối với hành vi

trái pháp luật trong hoạt động của cơ quan nhà nước, yêu cầu các cấp cơ sở phát

60

huy dân chủ và sức mạnh tâp thể, tăng cường đoàn kết nôi bô trong từng cơ quan,

đơn vị; đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình đô chuyên môn,

nghiêp vụ, đồng thời, đặc biệt chú trọng làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư

tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công

chức THADS.

61

CHƯƠNG 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM

GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

3.1. Quan điểm tăng cường giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự

Quyền KN của công dân là quyền Hiến định vì vậy việc ngày càng hoàn thiện

quyền này là yêu cầu tất yếu khách quan. Trong quản lý hành chính nhà nước công

dân thực hiện quyền KN không những họ thực hành quyền dân chủ trực tiếp, tham

gia thiết thực vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội mà thông qua đó còn là một bảo

đảm cho pháp luật được thực thi trong thực tế. Đồng thời đây là cơ hội và điều kiện

để công dân phát huy đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình, tăng cường ý thức trách

nhiệm trong việc xây dựng nhà nước, quản lý nhà nước bảo đảm pháp chế, tăng

cường mối quan hệ giữa Đảng, nhà nước với nhân dân. Vì vậy, giải quyết KN của

công dân nói chung và giải quyết KN về THADS nói riêng là một vấn đề được

Đảng, nhà nước và nhân dân đặc biệt quan tâm.

Nâng cao hiệu quả giải quyết KN về THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

xuất phát từ những yêu cầu chung của việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay, yêu cầu của cái cách tư pháp, cải

cách hành chính và bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong quá trình giải quyết KN về

THADS. Ngoài ra, đó cũng là các yêu cầu của việc bảo đảm quyền KN của công

dân trong công tác THADS, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong công

tác giải quyết KN về THADS.

Thứ nhất: Bảo đảm quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng

Hoàn thiện các quy định của pháp luật về THADS nói chung và về giải quyết

KN về THADS nói riêng nhằm thể chế hóa các đường lối, chủ trương của Đảng đã

được xác định trong các Nghị quyết, văn kiện của Đảng như: Văn kiện Nghị quyết

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3

(khóa VIII), Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khóa VII), Nghị quyết Hội nghị

Trương ương 9 (khóa IX), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/02/2002 của Bộ

Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tư pháp thời gian tới, Nghị

62

quyết số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và

hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020,

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách

tư pháp đến năm 2020, Nghị quyết số 37/2012/QH13 của Quốc hội về công tác

phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân,

Tòa án nhân dân và công tác THADS năm 2013. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật

về THADS, KN về THADS cũng như việc nâng cao hiệu quả giải quyết KN về

THADS luôn luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm thể chế hóa các chủ

trương của Đảng trong lĩnh vực pháp luật nói chung và lĩnh vực pháp luật về

THADS, pháp luật KN về THADS nói riêng.

Thứ hai: Bảo đảm yêu cầu của cải cách tư pháp, cải cách hành chính

Nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp

quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải ban hành và thực hiện Chiến lược

Cải cách tư pháp và chiến lược cải cách hành chính đến năm 2020 phù hợp với quá

trình đổi mới công tác lập pháp và chương trình cải cách hành chính.

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: “Chuẩn bị điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất

để giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án.

Xác định rõ trách nhiệm của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và của cơ quan

chuyên môn của ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trong việc thi hành các hình phạt

không phải là hình phạt tù để thực hiện nghiêm túc các bản án của tòa án. Từng

bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ

chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án. ”

Cùng với cải cách tư pháp thì cải cách hành chính cũng là chủ trương lớn của

Đảng và nhà nước ta. Ngày 08/01/2011 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số

30c/NQ-CP ban hành chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn

2011-2020. Một trong những nội dung cơ bản của cải cách hành chính là: “Xây

dựng hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở thông suốt,

trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tăng tính dân chủ và pháp

63

quyền trong hoạt động điều hành của Chính phủ và của các cơ quan hành chính nhà

nước; Bảo đảm thực hiện trên thực tế quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ quyền

con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, của đất nước;

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình

độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước.”

Cải cách tư pháp, cải cách hành chính là một trong những yêu cầu chung của

công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. Hoạt động THADS

là một nội dung của hoạt động nhà nước, là một bộ phận của hoạt động tư pháp,

mang tính chất hành chính - tư pháp, nên hoạt động THADS có mối quan hệ mật

thiết đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước, nhất là hoạt động tư pháp. Hoạt động

THADS mặc dù không phải là một khâu trong quá trình tố tụng của các cơ quan tư

pháp nhưng nó lại có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động của các cơ quan

này. Do đó, đảm bảo thực hiện pháp luật THADS nói chung và quy định của pháp

luật giải quyết KN về THADS nói riêng cũng là một trong những biện pháp để đẩy

mạnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch,

vững mạnh và nó phải được đặt trong tổng thể của cải cách tư pháp, cải cách hành

chính.

Thứ ba: Bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong quá trình giải quyết khiếu nại về

thi hành án dân sự

Pháp chế là một phạm trù rộng lớn không chỉ chứa đựng nội dung pháp luật

mà còn chứa đựng những nội dung chính trị xã hội và con người. Vì vậy bảo đảm

cho pháp chế được củng cố, tăng cường và hoàn thiện là yêu cầu khách quan của

quá trình xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân và cũng là yêu cầu của quá

trình hoàn thiện con người và các quyền của họ trong xã hội, đặc biệt trong quản lý

hành chính nhà nước.

Bảo đảm nguyên tắc pháp chế là quan điểm cần được quán triệt sâu sắc trong

quá trình tổ chức, hoạt động THADS nói chung và giải quyết KN về THADS nói

riêng. Đây là nguyên tắc xuyên suốt toàn bộ hoạt động THADS từ giai đoạn xây

dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật THADS, xử lý nghiêm khắc hành vi vi

64

phạm pháp luật THADS, từ việc phân loại, xử lý đơn KN đến thụ lý giải quyết và

thực hiện quyết định giải quyết KN. Do đó, các quy định của pháp luật THADS

phải được tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành. Cơ quan THADS phải có trách

nhiệm tổ chức thi hành nghiêm chỉnh các Bản án, quyết định của Tòa án. Mọi vi

phạm pháp luật THADS từ phía cơ quan THADS, CHV, các tổ chức, cá nhân có

liên quan phải bị xử lý nghiêm, kịp thời.

Thứ tư: Bảo đảm quyền khiếu nại của công dân trong thi hành án dân sự

Về nguyên tắc, mọi người có quyền KN với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm

quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ

chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết KN. Nghiêm cấm việc trả

thù người KN hoặc lợi dụng quyền KN để vu khống, vu cáo làm hại người khác.

Trong THADS, KN về THADS là việc cá nhân, tổ chức theo trình tự, thủ tục

do pháp luật quy định yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xem xét lại các quyết định,

hành vi của thủ trưởng cơ quan THADS, CHV mà cá nhân, tổ chức KN cho rằng

quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, đã xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp

của họ. Những người được quyền KN về THADS khi họ có tư cách của người được

THA, người phải THA người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến THA

cụ thể.

Việc giải quyết KN phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá

nhân bị xâm phạm, đồng thời phải hạn chế tình trạng KN vượt cấp, lợi dụng quyền

KN làm cản trở hoạt động của cơ quan nhà nước, bảo đảm quyền lợi của đương sự

tham gia vào hoạt động THADS.

Thứ năm: Bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong giải quyết khiếu

nại về thi hành án dân sự

Giải quyết KN nói chung cũng như giải quyết KN về THADS nói riêng từ

trước tới nay luôn là vấn đề được Đảng và nhà nước ta rất quan tâm. Thực hiện tốt

công tác giải quyết KN về THADS là góp phần bảo đảm quyền con người, quyền

công dân, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.

65

Luật KN với việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân: Mặc dù Luật

KN đã có nhiều quy định bảo đảm quyền công dân, quyền con người trong hoạt

động KN và giải quyết KN. Tuy nhiên các văn bản này vẫn được ban hành trên cơ

sở quy định của Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Trong đó, quyền KN

mới cơ bản dừng lại ở “quyền công dân”. Hiến pháp 2013 đã khẳng định quyền KN

là quyền con người. Giờ đây, không chỉ “công dân có quyền khiếu nại” mà “mọi

người có quyền khiếu nại”. Bảo đảm quyền con người trong công tác tiếp công dân

giải quyết KN về THADS. Đặc thù của công tác THADS luôn liên quan và ảnh

hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của các bên THA, do đó để thực hiện

tốt công tác giải quyết KN về cơ cấu tổ chức các cơ quan THADS đều có bộ phận

làm công tác giải quyết KN. Ngoài những yêu cầu chung về nâng cao nhận thức,

kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tiếp công dân, giải quyết KN

cũng cần phải rà soát, hoàn thiện thể chế nội bộ về công tác tiếp công dân, giải

quyết KN.

3.2. Giải pháp tăng cường giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự.

3.2.1. Nhóm giải pháp chung

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về THADS nói

chung, về giải quyết khiếu nại trong THADS nói riêng. Trước mắt cần hoàn thiện

quy định về những vấn đề pháp luật về giải quyết khiếu nại chưa quy định nêu trên,

gắn với hoàn thiện thể chế về công tác THADS và đổi mới quy trình giải quyết

khiếu nại. Vì nếu, thể chế về công tác THADS có bất cập sẽ là một trong những

nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả công tác này:

Thực tiễn hiện nay cho thấy công tác giải quyết KN gặp nhiều khó khăn,

vướng mắc do các quy định của pháp luật về khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong

THADS vẫn còn khá nhiều bất cập, có những vấn đề pháp luật về giải quyết khiếu

nại trong THADS chưa quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết KN. Đề

xuất giải pháp đối với các trường hợp như sau:

- Quy định rõ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án có

quyền KN là những người nào?

66

- Quy định rõ thẩm quyền xem xét lại cũng như cơ chế giải quyết khi có phát

sinh KN đối với quyết định giải quyết KN có hiệu lực pháp luật không thuộc

trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 142 Luật THADS, cụ thể:

+ Khi hết thời hiệu KN đối với quyết định giải quyết KN lần đầu đương sự

mới KN mà người KN không đưa ra được bằng chứng chứng minh do trở ngại

khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng nên không thực hiện được quyền khiếu

nại theo đúng thời hạn.

+ Hoặc đương sự KN tiếp đối với quyết định giải quyết KN về các biện pháp

bảo đảm THA.

- Quy định rõ cơ chế giải quyết đối với trường hợp đương sự khác (không phải

là người đã KN lần đầu) khiếu nại tiếp đối với quyết định giải quyết KN lần đầu.

- Quy định cơ chế giải quyết đối với trường hợp đương sự KN về trình tự, thủ

tục giải quyết KN của người có thẩm quyền giải quyết KN.

+ Quy định trình tự, thủ tục ra Thông báo chấm dứt KN và Thông báo không

thụ lý đối với vụ việc KN phức tạp, tồn đọng, kéo dài về THADS đã được giải

quyết đúng chính sách pháp luật, thấu tình, đạt lý.

+ Cần bổ sung đầy đủ biểu mẫu về giải quyết KN, sổ theo dõi công tác giải

quyết KN, các biểu mẫu báo cáo; quy định thống nhất về thời hạn và định kỳ báo

cáo về KN trong THADS.

Về lâu dài, do pháp luật về khiếu nại trong THADS gắn liên với pháp luật về

THADS nên khi sửa đổi hoặc thay thế Luật THADS, trường hợp có thay đổi về cơ

cấu, tổ chức bộ máy phù hợp với xu thế chung của thế giới về lĩnh vực THADS thì

quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại theo đó cũng thay đổi

theo.

Với bối cảnh pháp luật về THADS như hiện nay, thì thẩm quyền và trình tự,

tủ tục giải quyết KN trong THADS cần sửa đổi, bổ sung Luật THADS quy định

những vấn đề pháp luật về giải quyết KN trong THADS chưa quy định về thẩm

quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại. Trước mắt, cần nghiên cứu chế định xử

lý kiên quyết đối với những trường hợp lợi dụng quyền KN để kích động, gây rối;

67

trường hợp đã được người có thẩm quyền giải quyết KN giải quyết dứt điểm, đúng

quy định pháp luật nhưng vẫn tiếp tục KN đến nhiều cơ quan chức năng ở trung

ương, địa phương, đặc biệt là trường hợp cố tình KN nhằm kéo dài, trốn tránh

nghĩa vụ THA; quy định các biện pháp chế tài đối với các trường hợp lợi dụng việc

khiếu nại xúc phạm cơ quan và người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết

KN, nhất là những đối tượng xúi giục công dân thực hiện các hành vi vi phạm pháp

luật, gây khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết KN.

Đối với những vấn đề về giải quyết KN pháp luật đã quy định nhưng cần có

hướng dẫn áp dụng thống nhất, Tổng cục THADS cần có văn bản hướng dẫn, cụ

thể:

Tổ chức tập huấn hướng dẫn về áp dụng pháp luật giải quyết KN bảo đảm giải

quyết KN đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục.

Nghiên cứu và thực hiện thành công các đề tài về cơ sở lý luận và thực tiễn

nâng cao hiệu quả giải quyết KN trong THADS.

Thứ hai, nâng cao nhận thức, trình độ, năng lực của thủ trưởng và công chức

các cơ quan THADS về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác tiếp công dân, giải

quyết khiếu nại nói chung, giải quyết khiếu nại trong THADS nói riêng. Thủ

trưởng cơ quan THADS cần trực tiếp phụ trách công tác giải quyết khiếu nại và

trực tiếp tiếp công dân định kỳ, đột xuất theo quy định của pháp luật. Công chức

tiếp công dân kiên trì giải thích cho người khiếu nại biết quyền và nghĩa vụ của

đương sự, trách nhiệm của cơ quan THADS trong việc thi hành bản án, quyết định

của Tòa án.

Thứ ba, thực hiện thường xuyên công tác bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, kỹ

năng, nghiệp vụ, trau dồi bản lĩnh chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp cho thủ trưởng,

chấp hành viên THADS và đặc biệt là đội ngũ công chức trực tiếp tham mưu giải

quyết khiếu nại.

Thứ tư, nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết khiếu nại, phải chú trọng

ngay từ khâu tiếp công dân để tiếp nhận đơn, thư khiếu nại. Trong quá trình giải

quyết khiếu nại, người làm công tác giải quyết khiếu nại phải thu thập đầy đủ tài

68

liệu, chứng cứ khách quan làm cơ sở cho việc kết luận, từ đó ra quyết định giải

quyết khiếu nại phù hợp. Quá trình giải quyết khiếu nại phải tuân thủ đúng trình tự,

thủ tục luật định, nhất là tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về quyền và

nghĩa vụ của người khiếu nại, người bị khiếu nại. Đồng thời, cần làm rõ nguyên

nhân phát sinh khiếu nại để có biện pháp chấn chỉnh công tác quản lý nhà nước,

xác định rõ trách nhiệm, xử lý nghiêm minh những công chức do thiếu trách nhiệm

gây nên khiếu nại cũng như thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại.

Thứ năm, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về giải

quyết khiếu nại trong THADS như: Tăng cường công tác hướng dẫn nghiệp vụ,

đôn đốc, kiểm tra, thanh tra về giải quyết khiếu nại trong THADS; chú trọng công

tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm về giải quyết khiếu nại trong THADS; thực

hiện thường xuyên công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ giải quyết khiếu nại về

THADS; đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật về giải quyết khiếu nại trong

THADS; tăng cường kỷ cương hành chính, kỷ luật công vụ trong nội bộ hệ thống

THADS về công tác quản lý giải quyết khiếu nại, đẩy mạnh việc ứng dụng công

nghệ thông tin trong công tác quản lý giải quyết khiếu nại.

Thứ sáu, tăng cường công tác phối hợp trong giải quyết khiếu nại trong

THADS: Công tác giải quyết khiếu nại trong THADS là hoạt động khó khăn, phức

tạp cần phải có sự phối hợp giải quyết của nhiều ban, ngành, đoàn thể. Trong thời

gian tới, để nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại trong THADS, vấn đề

tăng cường sự phối hợp liên ngành trong quá trình giải quyết khiếu nại là một giải

pháp quan trọng. Trong mối quan hệ phối hợp ấy, các cơ quan trong hệ thống

THADS phải giữ vai trò chủ động. Hiện nay đã có quy chế phối hợp chung giữa

các ngành trong khối nội chính, thiết nghĩ cần phải tiếp tục có những quy chế phối

hợp riêng, cụ thể hơn giữa các ngành với nhau, mà trước hết là với Tòa án. Bởi

hoạt động THADS là quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án;

trong quá trình này rất cần sự phối hợp của cơ quan Tòa án trong việc giải thích

bản án, vấn đề tạm đình chỉ thi hành án để kháng nghị theo thủ tục tố tụng… Trong

quá trình ấy, nếu phát sinh khiếu nại mà sự phối hợp giữa cơ quan THADS và Tòa

69

án không kịp thời, chặt chẽ thì chắc chắn hiệu quả giải quyết khiếu nại sẽ không

cao, hiệu quả thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại trong THADS vì thế cũng

bị hạn chế.

Thứ bảy, phát huy vai trò giám sát của các cơ quan, tổ chức và vai trò kiểm sát

của Viện kiểm sát nhân dân đối với hoạt động THADS:

- Tăng cường hơn nữa công tác giám sát của các ủy ban của Quốc hội, Đoàn

Đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc các cấp đối với công tác

THADS nói chung, công tác giải quyết khiếu nại trong THADS nói riêng. Nâng

cao vai trò giám sát thực hiện pháp luật về THADS, pháp luật về giải quyết khiếu

nại trong THADS của Hội đồng nhân dân các cấp. Đổi mới hình thức giám sát của

Hội đồng nhân dân, việc giám sát không chỉ dừng lại ở việc chất vấn tại các kỳ họp

mà khi cần thiết thì các ban của Hội đồng nhân dân yêu cầu các cơ quan THADS

giải thích những vi phạm trong công tác giải quyết khiếu nại về THADS. Có như

vậy công tác giám sát hoạt động giải quyết khiếu nại trong THADS mới được

thường xuyên và kịp thời.

- Viện kiểm sát các cấp cũng cần từng bước đổi mới phương thức kiểm sát

hoạt động giải quyết khiếu nại trong THADS. Công tác kiểm sát không chỉ tập

trung vào kiểm sát hoạt động giải quyết khiếu nại của thủ trưởng cơ quan THADS

các cấp mà cò cần phải chú ý nhiều đến vấn đề yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân

có liên quan thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật về giải quyết khiếu nại trong

THADS.

Thứ tám, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, huy động sức mạnh của hệ thống

chính trị tham gia vào công tác giải quyết khiếu nại trong THADS; các cấp ủy

Đảng, trước hết là cấp ủy các tổ chức Đảng trong hệ thống cơ quan THADS, tiếp

đó là cấp ủy Đảng ở địa phương phải quan tâm lãnh đạo công tác giải quyết khiếu

nại trong THADS. Coi đây là một trong những nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng

và cần thiết trong công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, góp phần đảm

bảo tính nghiêm minh của pháp luật, ổn định tình hình để phát triển kinh tế - xã hội

địa phương và toàn quốc. Sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng thể hiện ở nhiều

70

phương diện, bao gồm công tác lãnh đạo chính trị tư tưởng, công tác cán bộ; đề ra

chủ trương, nghị quyết về công tác THADS nói chung, công tác giải quyết khiếu

nại trong THADS nói riêng; lãnh đạo công tác phối hợp giữa các cơ quan THADS

và các ban, ngành, đoàn thể… Tuy nhiên, trên thực tế cần hết sức tránh xu hướng

tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đồng nghĩa với việc tổ chức Đảng làm thay vai

trò của chính quyền và của các cơ quan THADS. Cần phải xác định rõ vai trò của

Đảng là lãnh đạo, còn việc chỉ đạo triển khai thực hiện thuộc trách nhiệm của chính

quyền và lãnh đạo cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS các cấp.

Bên cạnh đó, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị ở địa

phương vào công tác giải quyết khiếu nại trong THADS. Sự tham gia của cả hệ

thống chính trị biểu hiện cụ thể nhất là công tác giám sát hoạt động giải quyết khiếu

nại của các cơ quan THADS và công tác tham gia tuyên truyền pháp luật THADS

nói chung, pháp luật về giải quyết khiếu nại trong THADS nói riêng. Mặt trận Tổ

quốc và các tổ chức thành viên vận động đoàn viên, hội viên của tổ chức mình sống

và làm việc theo pháp luật. Người khiếu nại thuộc tổ chức nào thì tổ chức đó phối

hợp với cơ quan THADS để nắm bắt tình hình xử lý thông tin thống nhất kế hoạch

hành động, lấy tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục làm chính để thành viên tổ chức

mình thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại theo luật định, góp

phần nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại trong THADS.

3.2.2. Nhóm giải pháp riêng cho tỉnh Quảng Nam

Thứ nhất: Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác giải

quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự để đảm bảo sự thống nhất lãnh đạo toàn

diện của Đảng trong công tác thi hành án dân sự. Nhất là đối với các vụ án có giá

trị lớn dẫn đến khiếu nại kéo dài, vượt cấp, đơn được gửi đến nhiều cơ quan tại

Trung ương và địa phương làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư tại địa phương và

cũng được các phương tiện truyền thông, nhân dân quan tâm, ví dụ: Vụ Công ty cổ

phần Đồng Xanh chuyên sản xuất cồn ethanol sinh học tại huyện Đại Lộc phải có

nghĩa vụ thi hành án cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam số tiền

650 tỷ đồng, Công ty cổ phần Soda Chu Lai phải trả cho Ngân hàng Nông nghiệp

71

và Phát triển Nông thôn Việt Nam số tiền 2.800 tỷ đồng, Công ty cổ phần Dịch vụ

hỗ trợ và phát triển đầu tư (IOC) phải trả cho Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt

Nam số tiền 680 tỷ đồng, Công ty Chí Thành phải trả chi Ngân hàng TMCP Ngoại

thương Việt Nam số tiền 250 tỷ đồng, Công ty Nhà Vinahouse phải trả cho Ngân

hàng TMCP Đại Dương số tiền 156 tỷ đồng…

Thứ hai: Cơ quan THADS, Thủ trưởng cơ quan THADS chủ động, kịp thời

báo cáo, tham mưu Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự các cấp để tranh thủ sự chỉ đạo

của Ủy ban nhân dân và sự phối kết hợp của các ban ngành có liên quan trong công

tác thi hành án cũng như động viên, thuyết phục đương sự tự nguyện thi hành án

nhằm làm giảm việc khiếu nại trong thi hành án dân sự.

Thứ ba: Đối với các vụ việc có vướng mắc từ bản án, quyết định của Tòa án

cần chủ động có văn bản yêu cầu giải thích và tích cực bám sát kết quả giải quyết

của Tòa án, trả lời của các cơ quan có thẩm quyền để tổ chức thi hành kịp thời vụ

việc ngay khi có kết quả giải quyết; trường hợp đã có văn bản yêu cầu giải thích

nhưng cơ quan có thẩm quyền vẫn chưa trả lời hoặc có văn bản trả lời nhưng chưa

rõ, dẫn đến việc giải quyết khiếu nại kéo dài cần công khai cho công luận biết.

Thứ tư: Đối với những vụ việc khiếu nại đã được kiểm tra, rà soát giải quyết

xong, đảm bảo đúng quy định của pháp luật thì cần chấm dứt giải quyết; có văn bản

kết luận rõ ràng, trả lời đương sự, trả lời cơ quan đã chuyển đơn và cơ quan bao chí

về việc chấm dứt khiếu nại.

Thứ năm: Chủ động, tích cực tăng cường kiểm tra, thẩm tra trực tiếp các hồ

sơ thi hành án của Chấp hành viên đang tổ chức thi hành án, trường hợp phát hiện

sai phạm trong việc tổ chức thi hành án thì cần có biện pháp xử lý, chấn chỉnh,

khắc phục kịp thời, hạn chế hậu quả xảy ra. Khi kiểm tra, nếu có phát hiện sai

phạm thì thực hiện việc kiểm điểm, nhắc nhở nghiêm túc, nếu có xảy ra sai sót

nghiêm trọng phải thực hiện xử lý nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật,

kể cả thực hiện việc bồi thường của nhà nước.

Thứ sáu: Có kế hoạch dài hạn, cụ thể để tăng cường kiểm tra chuyên đề, kiểm

tra đột xuất đối với các đơn vị mà Thủ trưởng chưa phát huy được vai trò của người

72

đúng đầu trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, có nhiều khiếu nại

vượt cấp, trong đó tập trung kiểm tra các Chi cục có nhiều đơn khiếu nại, tố cáo,

phản ánh, kiến nghị.

Thứ bảy: Thường xuyên thực hiện công tác báo cáo định kỳ, tăng cường họp

giao ban để thông qua đó rút kinh nghiệm và chấn chỉnh kịp thời đối với những tồn

tại, hạn chế trong quá trình thực hiện chỉ đạo, kết hợp vơí việc hướng dẫn, đôn đốc

giải quyết. Trường hợp đơn vị nào nào chưa thực hiện hoặc thực hiện không

nghiêm chỉ đạo của Bộ Tư pháp, của Tổng cục và của Cục thì yêu cầu trực tiếp báo

cáo, giải trình hoặc có văn bản yêu cầu giải trình lý do chậm thực hiện. Đơn vị nào

nào, địa phương nào không tích cực và nghiêm túc thực hiện chỉ đạo của cấp trên

cần nêu đích danh tại các cuộc họp báo cáo Lãnh đạo Bộ Tư pháp, Lãnh đạo Tổng

cục và các cuộc họp giao ban Thủ trưởng cơ quan THADS để có biện pháp xử lý.

73

Tiểu kết Chương 3

Nâng cao hiệu quả công tác giải quyết KN về THADS trên địa bàn tỉnh Quảng

Nam cần phải bảo đảm quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng; yêu cầu của cải

cách tư pháp, cải cách hành chính; bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong quá trình

giải quyết KN về THADS; bảo đảm quyền KN của công dân trong THADS và

quyền con người, quyền công dân trong giải quyết KN về THADS.

Muốn nâng cao hiệu quả của công tác này cần thực hiện tốt các giải pháp như:

Hoàn thiện pháp luật về giải quyết KN trong lĩnh vực THADS; kiện toàn tổ chức

của cơ quan THADS; nâng cao hiệu quả trong công tác tiếp công dân, giải quyết

KN về THADS; tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo, chỉ đạo của Cấp ủy Đảng, chính

quyền địa phương trong công tác giải quyết KN về THADS; nâng cao chất lượng

của đội ngũ công chức THADS như biện pháp ngăn ngừa KN; tăng cường công tác

thanh tra, kiểm tra về THADS; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục

pháp luật. Các giải pháp này được thực hiện đồng bộ sẽ góp phần nâng cao hiệu

quả giải quyết KN về THADS của các cơ quan THADS trên địa bàn tỉnh Quảng

Nam.

74

KẾT LUẬN

Giải quyết KN về THADS là vấn đề quan trọng cần được quan tâm cũng như

phải đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Công tác này đã và đang được Đảng, Nhà

nước, các cơ quan hữu quan quan tâm. Làm sao để giải quyết KN về THADS đối

với những vụ việc KN tồn đọng, kéo dài, KN vượt cấp, đông người một cách có

hiệu quả, dứt điểm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Thực tế những năm qua đã cho

thấy, giải quyết KN về THADS trên địa bàn tỉnh đã khẳng định vai trò to lớn của

mình trong mối quan hệ THADS nói riêng và trong toàn xã hội nói chung, góp

phần cùng các ngành, các cấp chung sức thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, cải

cách hành chính ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên hiện nay trên địa bàn tỉnh Quảng

Nam vẫn còn những tồn tại làm giảm hiệu quả giải quyết KN về THADS. Với

nghiên cứu “Giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng

Nam" luận văn đã làm rõ một số vấn đề sau:

- Hệ thống hóa được những lý luận cơ bản của đề tài thông qua việc trình bày

rõ lý luận KN về THADS nhất là lý luận giải quyết KN về THADS.

- Đánh giá được thực trạng giải quyết KN về THADS trong giai đoạn 2015 -

2019.

Trên cơ sở phản ánh, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến giải quyết KN về

THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam:

- Đã phản ánh rõ và chỉ ra những kết quả đạt được trong công tác giải quyết

KN về THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

- Phân tích những tồn tại và nguyên nhân của tồn tại trong công tác giải quyết

KN về THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

- Công tác giải quyết KN về THADS là một hoạt động của cơ quan hành

chính nhà nước, có vai trò quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ của loại cơ

quan này. Việc giải quyết tốt vấn đề KN có vai trò thúc đẩy hoàn thiện về cơ chế

hành chính, xây dựng một nền hành chính vững mạnh, trong sạch, chuyên nghiệp,

hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Nhất là chúng ta đang trong giai đoạn xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là bảo đảm quyền lực

75

thuộc về nhân dân.

- Xuất phát từ những căn cứ mang tính thực tiễn kết hợp với các nội dung đã

được làm rõ. Luận văn đã đưa ra những quan điểm, đặc biệt đã đề xuất được các

giải pháp cụ thể nâng cao giải quyết KN về THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

Trong khuôn khổ một luận văn Thạc sỹ, tác giả đã vận dụng những kiến thức

lý luận đã được tiếp thu từ sách báo, quá trình học tập tại Học viện và tìm hiểu thực

tế tại địa phương. Tuy nhiên, do còn hạn chế về thời gian, điều kiện nghiên cứu

thực tế có những khó khăn nhất định, nội dung nghiên cứu và các giải pháp nêu

trên đòi hỏi phải có thời gian kiểm nghiệm. Vì vậy, những đóng góp của luận văn

không tránh khỏi những khiếm khuyết, hạn chế nhất định. Tác giả luận văn mong

nhận được những ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các thầy cô giáo và bạn

bè, đồng nghiệp để tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện luận văn.

76

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Tuấn An (2014), Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật

trong thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học - Đại

học Luật Hà Nội.

2. Hoàng Thế Anh (2013), Giám sát thi hành án dân sự, mã số 62380101, Luận

án Tiến sĩ Luật học tại Đại học Quốc gia Hà Nội.

3. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2007), Chỉ thị 17-CT/TW ngày 15/10/2007 về

tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền

miệng trong tình hình mới.

4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược

cải cách tư pháp đến năm 2020.

5. Bộ Chính trị (2014), Chỉ thị số 35/CT-TW ngày 26/5/2014 về Tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố

cáo

6. Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối

cao (2013), Quy chế phối hợp số 14/2013/QCLN/BTP-BCA-TANDTC-

VKSNDTC ngày 09/10/2013.

7. Bộ Tư pháp (2014), Tạp chí dân chủ và pháp luật số chuyên đề: Bảo đảm

quyền con người và quyền công dân bằng thiết chế tư pháp, Nxb Tư pháp, Hà

Nội.

8. Bộ Tư pháp (2016), Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 quy định

quy trình giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh trong

thi hành án dân sự.

9. Bộ Tư pháp - Tòa án nhân dân tối cao- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2016)

Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC quy định

thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên nghành trong thi hành án dân sự.

10. Chính phủ (2013, 2014, 2015, 2016, 2017), Báo cáo công tác thi hành án dân

sự các năm (2013, 2014, 2015, 2016, 2017).

11. Chính phủ (2011), Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/01/2011 ban hành

chương t3rình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020.

12. Chính phủ (2015), Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy định chi

tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự.

13. Chính phủ (2017), Chỉ thị số 05/2017/CT-TTg ngày 06/02/2017 Chỉ thị về

tăng cường công tác thi hành án dân sự

14. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam ( 2013, 2014, 2015, 2016, 2017),

Báo cáo tổng kết công tác thi hành án dân sự các năm 2013, 2014, 2015,

2016,2017.

15. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam (2013, 2014, 2015, 2016, 2017),

Báo cáo các vụ việc khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự các năm 2013,

2014, 2015, 2016, 2017.

16. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam (2015), Quyết định số 66/QĐ-

CTHADS ngày 25/01/2015 Quyết định ban hành Quy chế tiếp công dân

17. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam (2016), Công văn số: 159/CTHA-

KTr ngày 07/3/2016 về việc triển khai thực hiện Hướng dẫn liên ngành về

phân loại đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp.

18. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam (2017), Kế hoạch kiểm tra số

39/KH- KTGQKNTC ngày 13/02/2019

19. Cục Thi hành án dân sự, Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân

(2014), Quy chế số 230/2014/QCLN/CTHADS-CA-VKSND-TAND ngày

25/4/2014.

20. Đại từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Văn hóa- Thông tin năm 1999

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/02/2002

của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tư pháp thời

gian tới.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005

của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật

Việ Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.

23. Đảng cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và

hội nhập (Đại hội VII, VIII, IX), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

24. TS. Lê Thu Hà (2010), Triển khai áp dụng Luật thi hành án dân sự trong

công tác đào tạo nghiệp vụ thi hành án, Đề tài khoa học cấp cơ sở tại Học

viện Tư pháp.

25. Phan Huy Hiếu (2012), Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, Luận văn

Thạc sỹ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.

26. Quốc hội (2012), Nghị quyết số 37/2012/QH13 về công tác phòng, chống vi

phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án

nhân dân và công tác thi hành án dân sự năm 2013.

27. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

28. Quốc hội (200S), Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

29. Quốc hội (2014), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật thi hành án dân

sự.

30. Quốc hội (2011), Luật khiếu nại năm 2011.

31. Quốc hội (2015), Bộ Luật dân sự năm 2015.

32. Đặng Đình Quyền (2012), Hiệu quả áp dụng pháp luật trong thi hành án dân

sự ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học - Học viện Chính trị - Hành chính

quốc gia Hồ Chí Minh.

33. Thanh tra Chính phủ (2013), Thông tư số 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013

quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính

34. Thanh tra Chính phủ (2014), Thông tư số 07/2014/TT-TTCP ngày 31/10/2014

quy định quy trình xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh.

35. Nguyễn Quang Thái (200S), Pháp chế xã hội cjhủ nghĩa trong hoạt động thi

hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học - Học viện

Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

36. Nguyễn Thanh Thủy (200S), Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt

Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học - Học viện Chính trị - Hành chính

quốc gia Hồ Chí Minh.

37. Tổng cục thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp (2013), Quy chế giải quyết khiếu

nại, tố cáo về thi hành án dân sự (Ban hành kèm theo Quyết định số

1318/QĐ- TCTHADS ngày 30/9/2013 của Tổng cục trưởng Tổng cục thi hành

án dân sự).

38. Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp, Mô hình quản lý thống nhất công

tác thi hành án, mã số 96-98-027/ĐT, đề tài khoa học cấp Bộ.

39. Tổng cục thi hành án dân sự, Kế hoạch số 930/KH-TCTHADS về việc tuyên

truyền phổ biến giáo dục pháp luật

40. Tổng cục thi hành án dân sự, Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số

1397/QĐ-TCTHADS ngày 30/12/2016 của Tổng cục Thi hành án dân sự quy

định tạm thời tiêu chí xác định việc khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự

phức tạp, kéo dài và trách nhiệm tổ chức thực hiện (Kèm theo Quyết định phê

duyệt số 295/QĐ-TCTHADS ngày 28/02/2017 của Tổng cục trưởng Tổng cục

Thi hành án dân sự)

41. Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Văn hóa- Thông tin

42. Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Thời Đại năm 2014

43. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư

pháp, Bộ Quốc phòng (2014), Hướng dẫn số 24/HD-VKSTC-TATC-BCA-

BTP-BQP ngày 06/5/2014 về việc phân loại đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt

động tư pháp.

44. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư

pháp, Bộ Quốc phòng (2010), Quy định số 200/QĐPH/VKSTC-TATC-BCA-

BTP-BQP ngày 26/01/2010 về việc phối hợp trong công tác giải quyết khiếu

nại, tố cáo về tư pháp.