VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ SƯƠNG
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số : 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VŨ ANH ĐỨC
HÀ NỘI, năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu được sử dụng trong luận văn này có xuất xứ rõ ràng và kết quả nghiên cứu là
do quá trình học tập tích cực và trải qua thực tiễn công tác nhiều năm tại Cục Thi
hành án dân sự tỉnh Quảng Nam của bản thân.
Tác giả
Nguyễn Thị Sương
LỜI CẢM ƠN
Tôi trân trọng cảm ơn quí Thầy Cô giáo Học viện Khoa học xã hội thuộc
Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đã tận tình, chu đáo trong quá trình giảng
dạy và truyền đạt kiến thức cho tác giả.
Tác giả tỏ lòng biết ơn đối với các đồng chí lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự
tỉnh Quảng Nam, Phòng Kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, Phòng Tổ chức cán
bộ - Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam, các đồng nghiệp, các bạn cùng học
và đặc biệt là gia đình đã động viên, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để
tác giả có thể hoàn thành chương trình học tập và luận văn tốt nghiệp cao học.
Với tình cảm trân trọng nhất, tác giả luận văn xin gửi lời cảm ơn chân thành
và sâu sắc tới Tiến sỹ Vũ Anh Đức - Trưởng Ban Tổ chức Tổng liên đoàn lao động
Việt Nam đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong quá trình thực hiện và hoàn
thành luận văn cao học: “Giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự từ thực tiễn
tỉnh Quảng Nam”.
Trân trọng cảm ơn!
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIẢI
QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ................................... 6
1.1. Khái niệm giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự ................................... 6
1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân
sự .............................................................................................................................. 16
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM ........................... 36
2.1. Khái quát về tình hình khiếu nại trong thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam. ............................................................................................................. 36
2.2. Khái quát về công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam. ...................................................................................................... 40
2.3. Đánh giá về giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam. ............................................................................................................. 51
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ....................... 62
3.1. Quan điểm tăng cường giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự .............. 62
3.2. Giải pháp tăng cường giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự................ 66
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ
1 CHV Chấp hành viên
2 CTHADS Cục Thi hành án dân sự
3 KN Khiếu nại
4 THA Thi hành án
5 THADS Thi hành án dân sự
6 TPL Thừa phát lại.
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu Tên bảng Trang Bảng
Kết quả giải quyết đơn khiếu nại về thi hành án dân sự từ
2.1 năm 2015 đến năm 2019 của Cục thi hành án dân sự tỉnh 51
Quảng Nam
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, quyền khiếu nại là một
trong nhóm quyền tự nhiên của con người đối với các vấn đề bị vi phạm. Liên hệ
đến Việt Nam, tại Điều 30 của Hiến pháp 2013 đã quy định rõ là: “Mọi người đều
có quyền khiếu nại, tố cáo gửi đến tổ chức, cơ quan, cá nhân có thẩm quyền đối với
các việc làm trái luật của các tổ chức, cơ quan, cá nhân. Các tổ chức, cơ quan và
các cá nhân có chức năng thẩm quyền phải tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố
cáo. Đối với người bị thiệt hại, họ có quyền yêu cầu được bồi thường về tinh thần,
vật chất và phục hồi nhân phẩm danh dự theo luật định. Đồng thời, nghiêm cấm
mọi hành vi lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu cáo, vu khống và làm hại người
khác hoặc trả thù với người khiếu nại, tố cáo”. Theo quy định này, khiếu nại không
chỉ là quyền Hiến định của công dân Việt Nam mà đã được công nhận là quyền con
người, được tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ; là một trong những phương thức thực
hiện quyền tự do, dân chủ, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, giảm bức xúc
trong nhân dân và đây cũng là phương thức để nhân dân thực hiện quyền kiểm tra,
giám sát, quyền làm chủ của mình.
Đặc biệt, trong Thi hành án dân sự - một lĩnh vực công tác có nhiều phức tạp
vì liên quan đến nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, mà vốn dĩ bản thân các lĩnh
vực đó đã rất phức tạp như lĩnh vực đất đai, tài chính, ngân hàng, bán đấu giá tài
sản… Việc tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án sẽ làm phát sinh, thay
đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ về tài sản của các bên đương sự. Đây là lĩnh
vực rất dễ phát sinh khiếu nại vì hoạt động thi hành án dân sự luôn động chạm đến
quyền, lợi ích của công dân và gắn liền với vấn đề vật chất cụ thể, trực tiếp ảnh
hưởng đến quyền về tài sản, nhân thân của các bên đương sự và những người có
liên quan.
Do đó, công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự thời gian qua đã
được Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự, các cơ quan Thi hành án dân sự
địa phương đã tập trung, quan tâm, chú trọng, xác định đây là một nhiệm vụ trọng
1
tâm của Hệ thống Thi hành án dân sự và đã có một số chuyển biến tích cực. Tuy
nhiên, do nhiều lý do khác nhau, cả về mặt chủ quan và khách quan, công tác này
vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế.
Tại tỉnh Quảng Nam công tác thi hành án dân sự ở những năm qua luôn được
đề cao, mặc dù có sự gia tăng cả số lượng lẫn giá trị, song kết quả của việc thi hành
án luôn hoàn thành vượt chỉ tiêu mà Quốc hội đã giao cho. Kết quả này là nhờ sự
tập trung tăng cường giải quyết và sự chỉ đạo đẩy mạnh giải quyết dứt điểm tình
trạng khiếu nại kéo dài đối với các vụ việc, nhất là đối với các vụ việc kê biên có
giá trị lớn; chú trọng các hoạt động đối thoại, hướng dẫn và giải thích, giáo dục và
tuyên truyền thuyết phục, chú trọng vào chất lượng công tác giải quyết và quản lý
tiến độ thực hiện. Nhìn chung, ở nhiều năm qua trong thi hành án dân sự tỉnh
Quảng Nam, công tác giải quyết khiếu nại đã có bước chuyển biến với nhiều mặt
tích cực. Dù vậy, số lượng các vụ việc hàng năm luôn tăng, có khá nhiều vụ việc có
tính phức tạp vì chúng liên quan tới nhiều lĩnh vực, nhiều mặt vấn đề; điều này
khiến việc khiếu nại trong thi hành án dân sự cũng hết sức phức tạp; đơn thư khiếu
nại ngày càng tăng, khiếu nại kéo dài, vượt cấp ngày càng nhiều, cá biệt có vụ việc
khiếu nại làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự tại địa phương và làm giảm đáng kể
niềm tin của người dân vào cơ quan thi hành án dân sự. Hiện trạng này trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam đã và đang yêu cầu phải tăng cường công tác giải quyết khiếu nại
trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
Từ lý do cấp thiết nêu trên, việc chọn lựa nghiên cứu đề tài: "Giải quyết
khiếu nại trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam" là rất cần thiết
và có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Do sự đòi hỏi khách quan cần thiết của công tác thi hành án dân sự, những
năm qua đã có các nghiên cứu khoa học xoay quanh chủ đề này. Tiêu biểu đó là:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (mã số 96-98-027/ĐT): Mô hình quản lý
thống nhất công tác thi hành án, của Tổng cục Thi hành án dân sự trực thuộc Bộ
Tư pháp.
2
- Luận án Tiến sĩ ngành Luật học năm 2008: “Pháp luật thi hành án dân sự
Việt Nam giai đoạn hiện nay” của tác giả Nguyễn Thanh Thuỷ, Học viện Chính trị -
- Đề tài khoa học cấp cơ sở năm 2010: “Triển khai áp dụng Luật thi hành án
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
dân sự trong công tác đào tạo nghiệp vụ thi hành án” của TS. Lê Thu Hà, Học viện
Tư pháp, Hà Nội.
- Luận án Tiến sĩ ngành Luật học năm 2013: “Giám sát thi hành án dân sự”
của tác giả Hoàng Thế Anh, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Huỳnh Thị Nam Hải, Tài liệu học tập thi hành án dân sự, do Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia Thành phố. Hồ Chí Minh ấn hành.
Mặt khác, có nhiều công trình nghiên cứu khác dưới dạng các bài viết có liên
quan được đăng tải ở các tạp chí chuyên ngành, như: Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, Tạp chí Luật học, Tạp chí Dân chủ và pháp luật…
Những công trình, tài liệu nghiên cứu được nêu trên đã tiếp cận công tác giải
quyết khiếu nại ở lĩnh vực THADS với nhiều khía cạnh, góc nhìn khá đa dạng. Dù
vậy, đến nay vẫn chưa có công trình khoa học cụ thể nào nghiên cứu về công tác
giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài luận văn có mục đích xây dựng luận cứ khoa học về giải quyết khiếu
nại trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu của đề tài này, luận văn phải triển khai các
nhiệm vụ cụ thể dưới đây:
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về giải quyết khiếu nại ở lĩnh vực thi
hành án dân sự;
- Nghiên cứu phân tích làm rõ thực trạng công tác giải quyết khiếu nại trong
thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Nam và xác định rõ nguyên nhân của nó;
- Đề xuất quan điểm và các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại
3
trong thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đó là giải quyết khiếu nại trong THADS.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi không gian: nghiên cứu trong phạm vi giải quyết khiếu nại về
THADS của hệ thống cơ quan THADS tại tỉnh Quảng Nam, gồm có: Cục thi hành
án dân sự cấp tỉnh và 18 Chi cục thi hành án dân sự cấp huyện của tỉnh Quảng
Nam.
Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu giai đoạn từ 2015 - 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được dựa trên cách tiếp cận của phương pháp luận Chủ nghĩa Mác - Lê
Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh để nghiên cứu về pháp luật giải quyết khiếu nại trong
THADS.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp những phương pháp cụ thể như: Phương pháp tổng
hợp; phương pháp phân tích các văn bản quy phạm pháp luật, các tài liệu thứ cấp;
phương pháp thống kê và so sánh, phương pháp diễn dịch và quy nạp… để nghiên
cứu công tác giải quyết khiếu nại trong THADS ở Quảng Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn hệ thống hóa một bước làm sâu sắc hơn vấn đề lý luận về giải quyết
khiếu nại trong THADS.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết khiếu nại trong THADS
tại tỉnh Quảng Nam và xác định rõ nguyên nhân của nó, kết quả luận văn góp phần
đề xuất đến chính quyền địa phương về giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết
khiếu nại trong THADS từ thực tiễn của tỉnh Quảng Nam hiện nay. Đồng thời, kết
4
quả luận văn còn được dùng làm vốn tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, đào tạo
về lĩnh vực này.
7. Kết cấu luận văn
Bên cạnh các phần mở đầu, phần kết luận cũng như phần danh mục tài liệu
tham khảo, thì phần nội dung luận văn có kết cấu 3 chương, đó là:
Chương 1: Khái quát về giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự và quy
định của pháp luật Việt Nam về giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự.
Chương 2: Thực trạng giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam;
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường giải quyết khiếu nại trong
thi hành án dân sự.
5
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự
1.1.1. Khái quát giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự:
1.1.1.1. Khái niệm khiếu nại trong thi hành án dân sự
Theo Đại từ điển tiếng Việt, khiếu nại là thuật ngữ được hiểu về sự "thắc mắc,
đề nghị việc xem xét lại các quyết định, các kết luận của cấp có thẩm quyền đã
chuẩn y, đã làm. Sự thắc mắc, đề nghị về thực chất đó là sự phản ứng của người
khiếu nại trước các quyết định, kết luận của cấp có thẩm quyền đã chuẩn y, đã làm”
(Đại từ điển tiếng Việt; trang 904, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1999). Mặc dù
vậy, quan niệm này vẫn còn chưa hoàn toàn đầy đủ, bởi trong thực tiễn khiếu nại
thì không chỉ trước các quyết định, kết luận mà còn có thể khiếu nại về các hành vi
hay cách hành xử của các cơ quan tổ chức và những người có thẩm quyền.
Trên cơ sở của những dấu hiệu chung nhất, khiếu nại về cơ bản được hiểu là
một cách thức phản ứng tự vệ của tổ chức, cơ quan và công dân về những quyết
định, hành vi của các tổ chức, cơ quan chức năng và người có thẩm quyền khi có
dấu hiệu xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của họ.
Khiếu nại vốn là hiện tượng xã hội phát sinh trong đời sống thực tiễn, nó biểu
thị về sự phản ứng của tổ chức, của con người về quyết định hay hành vi nào đó mà
họ cho rằng là không phù hợp với quy tắc, chuẩn mực trong đời sống xã hội, xâm
phạm tới quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của họ.
Quyền khiếu nại là một trong các quyền cơ bản của công dân đã được Hiến
pháp và pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện. Tại Điều 30 của Hiến pháp năm
2013 đã quy định rõ:
6
“1. Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo đến tổ chức, cơ quan, cá nhân có
thẩm quyền về các việc làm trái luật của tổ chức, cơ quan, cá nhân.
Tổ chức, cơ quan và cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận và giải quyết
khiếu nại, tố cáo. Đối với người bị thiệt hại, họ có quyền được bồi thường về tinh
thần, vật chất và phục hồi danh dự theo luật định.
2. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu
nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.”
Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi
nhanạ quyền KN của công dân đã tạ cơ sở pháp lý cho họ để họ thực hiện quyền
của mình, thông qua việc thực hiện quyền, công dân đã góp phần tích cực vào hoạt
động quản lý nhà nước, quản lý xã hội và bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
Cơ quan THADS, trong quá trình tổ chức thi hành các bản án đã trực tiếp tác
động đến các đương sự, bao gồm người được THA, người phải THA, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, thực hiện việc giáo dục, thuyết phục đương sự tự
nguyện thực hiện các nghĩa vụ mà bản án, quyết định đã tuyên, nếu họ cố ý không
thực hiện sẽ cưỡng chế THA để buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ theo nội dung bản
án, quyết định đã nêu. Từ đó cho thấy, hoạt động THADS tác động trực tiếp đến
các quyền và lợi ích của cả người phải THA, người được THA và người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan.
Đối với người phải THA, nghĩa vụ phải thi hành các khoản tiền, tài sản đã
được xác định rõ trong quyết định, bản án, nhưng xét về mặt tâm lý, người phải
THA luôn có tâm lý dây dưa kéo dài, thi hành không đầy đủ, thậm chí là không thi
hành. Còn đối với người được THA, về tâm lý luôn muốn được sớm THA, được
nhanạ tiền, tài sản càng sớm càng tốt, nên luôn có tâm lý đề phòng, bất cứ một
hành vi, một quyết định nào của CHV, của cơ quan THADS làm chậm quá trình
được nhận tiền, tài sản hoặc nhận tiền, tài sản ít hơn mong đợt đều dẫn đến suy
nghĩ cho rằng CHV, cơ quan THADS làm trái pháp luật, thực hiện nhiệm vụ không
công tâm, không minh bạch, không công bằng.
7
Thi hành án dân sự vốn là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, nên ở
một số nơi trong quá trình thi hành án có một vài vụ việc xảy đến hiện tượng lạm
dụng quyền hành của cơ quan thi hành án dân sự hay chấp hành viên, áp đặt ý chí
trái luật, trái thẩm quyền, hoặc vì nhận thức hạn chế mà dẫn đến áp dụng sai luật
pháp, tổ chức thi hành sai bản án lên những chủ thể khiến cho lợi ích nhà nước;
cũng như quyền lợi hợp pháp, chính đáng của công dân, tổ chức bị xâm phạm...
Tất cả những yếu tố trên đã tác động đếm tâm lý của các bên đương sự, họ
cho rằng, quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại nên có thái độ chống đối,
bất hợp tác và dẫn đến việc khiếu nại các hành vi và quyết định của CHV và cơ
quan THADS.
Như vậy, khiếu nại trong thi hành án dân sự được hiểu đó là việc các bên
đương sự liên quan tới quyền lợi trong thi hành án họ có nghĩa vụ đề nghị lên cấp
có thẩm quyền xem xét lại quyết định, hành vi của chấp hành viên, Thủ trưởng cơ
quan thi hành án dân sự một khi có căn cứ xác định về quyết định, hành vi này là
trái luật, xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của họ.
1.1.1.2. Khái niệm giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự
Cùng với quyền khiếu nại của các đương sự có nghĩa vụ, quyền lợi liên quan,
đó chính là cấp có thẩm quyền (các tổ chức, cơ quan và cá nhân) có nghĩa vụ giải
quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự. Việc thực hiện hiệu quả công tác giải
quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự vừa bảo vệ sự công bằng khi bảo đảm
quyền lợi hợp pháp, chính đáng cho các đương sự có liên quan; vừa đồng thời đóng
góp vào việc cải thiện hiệu quả công tác thi hành án dân sự, bảo đảm hiệu lực thi
hành quyết định bản án của Tòa án trên thực tế, giảm thiểu các vụ việc tồn đọng
trong thi hành án. Theo đó tạo dựng niềm tin xã hội đối với công tác thi hành án
dân sự.
Công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự mang đậm bản chất,
mục đích, ý nghĩa và nội dung của công tác này. Xét về bản chất của giải quyết
khiếu nại trong thi hành án dân sự, cấp có thẩm quyền thực hiện những hoạt động
cần thiết để làm rõ việc khiếu nại, mà cụ thể là rà soát lại các quyết định, hành vi
8
của chấp hành viên hoặc Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có trái luật hay
không, liệu có xâm phạm tới quyền lợi hợp pháp của người khiếu nại không. Nếu
có, thì xem xét về mức độ, tính chất và hậu quả của sự xâm phạm đó. Đây là căn cứ
để kết luận rõ đối với từng vấn đề cụ thể có liên quan, tạo chứng cứ vững chắc để
ra quyết định giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự. Cùng với quá trình giải
quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự, Cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
(cơ quan và người có thẩm quyền): vừa phải sử dụng các bằng chứng tài liệu được
tiếp nhận từ bên khiếu nại; vừa phải tổ chức việc xác minh, đối chứng và thu thập
thêm thông tin, văn bản tài liệu có liên quan nhằm có đầy đủ căn cứ để kết luận
đúng đắn và ban hành quyết định giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự một
cách chính xác (kết luận về mức độ đúng, hay đúng một phần hoặc cả nội dung
khiếu nại là sai). Tùy theo mức độ cụ thể để ban hành quyết định giải quyết khiếu
nại đúng luật và hợp lý tương ứng với các hướng áp dụng giữ nguyên hoặc hủy bỏ/
sửa đổi hay yêu cầu hủy bỏ/ sửa đổi một phần đối với quyết định, hành vi bị khiếu
nại trong thi hành án dân sự hoặc bắt buộc phải chấm dứt việc thi hành quyết định,
hành vi bị khiếu nại này; kèm theo đó là ra quyết định khắc phục hậu quả và bồi
thường thiệt hại mà do quyết định, hành vi trái luật đó gây nên.
Công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự phải được tiến hành
tuân thủ theo luật định, kể cả quy định của pháp luật về chuyên ngành có liên quan.
Thí dụ, khi giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự về nội dung quyết định
phong tỏa tài khoản ngân hàng hoặc về quyết định kê biên quyền sử dụng đất, thì
bên cạnh phải tuân thủ các quy định trong giải quyết khiếu nại lĩnh vực thi hành án
dân sự, thì người giải quyết khiếu nại còn phải tuân thủ việc áp dụng pháp luật về
ngân hàng, pháp luật đất đai...
Như vậy, chúng ta có thể đưa ra khái niệm giải quyết KN về THADS:
Giải quyết KN trong THADS là việc cơ quan có thẩm quyền thụ lý, xác minh
và ra quyết định giải quyết KN đối với KN của người KN khi họ cho rằng quyết
định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan THADS hoặc CHV là trái pháp luật, xâm
phạm quyền và lợi ích của mình.
9
1.1.2. Về chủ thể của khiếu nại
Các bên đương sự gồm có: người được thi hành án và người phải THA. Tại
khoản 1 thuộc Điều 140 của Luật Thi hành án dân sự 2014 đã quy định rằng:
Đương sự, người có nghĩa vụ, quyền lợi liên quan họ có quyền khiếu nại về quyết
định, hành vi của chấp hành viên, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự một khi
có căn cứ cho rằng hành vi, quyết định nào đó trái luật, xâm phạm lợi ích và quyền
hợp pháp của họ.
Người được thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức được quyết định, bản án
có hiệu lực pháp luật tuyên được hưởng quyền, lợi ích trong bản án, quyết định
được thi hành và quyết định thi hành án của cơ quan THADS ấn định là người
được thi hành án (khoản 2 Điều 3 Luật THADS năm 2014).
Người phải thi hành án là người mà trong các quyết định, bản án có hiệu lực
pháp luật tuyên là người có nghĩa vụ phải thực hiện trách nhiệm pháp lý nào đó
(như buộc phải bồi thường dân sự, buộc phải thanh toán một khoản nợ nào đó, buộc
thực hiện hay không thực hiện công việc nhất định...). Như vậy người phải thi hành
án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định
được thi hành (khoản 3 Điều 3 Luật THADS 2014)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án của
đương sự (khoản 4 Điều 3 Luật THADS năm 2014) bao gồm như: Người có tài sản
chung với người phải thi hành án hoặc người đồng sở hữu tài sản với người phải thi
hành án; người đang quản lý, sử dụng tài sản của người phải thi hành án; người
đang có tranh chấp hoặc nhận chuyển nhượng tài sản của người phải thi hành án
khi họ bị tác động một cách trực tiếp bởi một quyết định, hành vi của chấp hành
viên trong quá trình tổ chức thi hành án mà quyết định, hành vi đó của chấp hành
viên làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Đối chiếu với các quy định như trên thì chủ thể thực hiện quyền khiếu nại
trong THADS có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức gồm người được thi hành án,
10
người phải thi hành án và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc
thi hành án và phía bên kia là Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự.
1.1.3. Về khách thể của khiếu nại
Khách thể của khiếu nại trong THADS là những lợi ích về cả mặt vật chất,
tinh thần, pháp lý, đôi khi còn là nhưng lợi ích về mặt chính trị mà chủ thể khiếu
nại mong muốn đạt được nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình và họ cho rằng đó là
quyền và lợi ích hợp pháp mà họ đáng được nhận.
1.1.4. Về đối tượng của khiếu nại
Khiếu nại trong thi hành án dân sự là việc tổ chức, cơ quan, công dân hoặc
người cán bộ công chức căn cứ thủ tục theo quy định của pháp luật hiện hành để đề
nghị cấp có thẩm quyền (tổ chức, cơ quan, cá nhân có thẩm quyền) xem xét lại
hành vi, quyết định của chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự, công chức
khác một khi có căn cứ cho rằng hành vi hoặc quyết định nào đó trái luật, xâm
phạm lợi quyền hợp pháp của họ.
Vì vậy, đối tượng của khiếu nại luôn là các quyết định, hành vi của Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên, công chức khác có liên quan.
Những quyết định, hành vi này bị cho là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích
hợp pháp của các chủ thể bị áp dụng và tác động bởi quyết định, hành vi đó. Các
quyết định trong thi hành án dân sự có thể là quyết định thi hành án theo đơn yêu
cầu, quyết định thi hành án chủ động, quyết định kê biên, cưỡng chế, xử lý tài sản,
quyết định cấm chuyển dịch, chuyển nhượng tài sản, quyết định xử phạt vi phạm
hành chính, quyết định tạm hoãn xuất cảnh vì phải chấp hành nghĩa vụ của bản án,
quyết định cưỡng chế giao tài sản, quyết định giải quyết khiếu nại của cơ quan thi
hành án dân sự cấp dưới...
1.1.5. Phân loại các quyết định, hành vi bị khiếu nại thành các nhóm khác
nhau như sau
+ Đối với nhóm hành vi, quyết định về THADS trước khi triển khai áp dụng
các biện pháp cưỡng chế, biện pháp bảo đảm, chúng bao gồm: các hành vi, quyết
định mà thủ trưởng cơ quan THADS, Chấp hành viên đã ban hành hoặc thực hiện
11
các hành vi mà trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế, biện pháp bảo đảm như
quyết định THADS theo đơn yêu cầu, quyết định THA chủ động, quyết định về xử
phạt vi phạm hành chính hoặc hành vi không giao quyết định về THADS cho
đương sự, không thông báo cho bên đương sự, không mời bên đương sự lên làm
việc, hay không xác minh theo yêu cầu của bên đương sự,.
+ Đối với nhóm hành vi, quyết định trong khi áp dụng biện pháp cưỡng chế
THADS, đó là: quyết định kê biên để xử lý tài sản; quyết định khấu trừ đối với tiền
trong tài khoản; quyết địnhvề việc trừ vào thu nhập của người phải THADS hay
hành vi không thông báo thời gian cưỡng chế, kê biên tài sản mà không được quyền
kê biên, kê biên dư/ thiếu tài sản.
+ Đối với nhóm hành vi, quyết định THADS sau khi áp dụng biện pháp
cưỡng chế, đó là: quyết định giảm giá tài sản; quyết định trả lại tài sản; quyết định
về không thực hiện giao tài sản bán đấu giá thành hoặc hành vi không thực hiện sự
thông báo thỏa thuận giá trị tài sản kê biên.
Việc phân loại thành các nhóm quyết định, hành vi như trên chỉ mang tính
tương đối và có phạm vi hẹp hơn đối tượng khiếu nại hành chính vì các quyết định,
hành vi trong lĩnh vực thi hành án dân sự là đối tượng của khiếu nại chỉ được giới
hạn bởi quyết định, hành vi của Chấp hành viên, thủ trưởng của cơ quan thi hành
án dân sự.
1.1.6. Về nội dung khiếu nại
Là những mâu thuẫn, bất đồng, sự không thống nhất, nặng nề hơn là sự xung
đột về lợi ích trong quá trình Chấp hành viên tổ chức thi hành án như chậm ra
quyết định thi hành án, chậm tổ chức thi hành án, kê biên tài sản sai đối tượng, bán
đấu giá tài sản không đúng trình tự thủ tục, thanh toán tiền thi hành án không đúng
quy định và trong quá trình cơ quan thi hành án dân sự giải quyết các khiếu nại như
không giải quyết khiếu nại, giải quyết không phù hợp với các quy định của pháp
luật.
1.1.7. Tầm quan trọng, vai trò của giải quyết khiếu nại trong THADS
12
Công tác giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự là một trong nhiệm vụ
hoạt động có vai trò quan trọng của hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước.
Một là, bảo vệ lợi ích Nhà nước cũng như bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính
đáng của công dân, các tổ chức.
Vì thi hành án dân sự là hoạt động mang đặc tính quyền lực của nhà nước, nên
quá trình thi hành án tình trạng chấp hành viên hay thủ trưởng cơ quan thi hành án
dân sự có thể lợi dụng/ lạm dụng quyền lực để ra hành vi, quyết định trái luật hoặc
có thể vì có sự hạn chế nhận thức mà áp dụng sai luật, tổ chức thi hành không đúng
quyết định bản án của Tòa án, khiến cho lợi ích nhà nước cũng như quyền lợi của
công dân, tổ chức bị xâm phạm.
Quá trình thực thi tốt việc giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự thì chẳng
những là đảm bảo quyền khiếu nại thực tế của các bên đương sự được thực thi, mà
nó còn đóng góp quan trọng vào việc khắc phục các sai phạm trong quá trình tổ
chức thi hành án dân sự do hành vi, quyết định trái luật của chấp hành viên, Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự gây ra. Mặ khác, ở trường hợp khiếu nại không
đúng thì công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự sẽ tái khẳng định về
tính đúng đắn của hành vi, quyết định của bên bị khiếu nại. Do đó, phải khẳng định
là công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự đóng góp tích cực vào việc
đảm bảo các hoạt động thi hành án dân sự được nghiêm túc và đúng luật, đảm bảo
cả lợi ích nhà nước và quyền lợi hợp pháp và chính đáng của các bên đương sự.
Hai là, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật về thi hành dân sự của tổ chức, cơ
quan và công dân, góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm và đạo đức công vụ của
đội ngũ công chức trong hệ thống cơ quan thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự không chỉ là hoạt động nghiệp vụ đơn thuần của riêng cơ
quan thi hành án dân sự, của chấp hành viên mà còn là trách nhiệm của các cấp ủy
Đảng, chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể và mọi thành viên trong xã
hội. Khi có khiếu nại trong thi hành án dân sự phát sinh, kết quả của công tác giải
quyết khiếu nại mang ý nghĩa, vai trò tác động một cách trực tiếp rất quan trọng tới
việc củng cố lòng tin nhân dân vào tính thượng tôn pháp luật, tính nghiêm minh và
13
công bằng của quyết định bản án, của Tòa án; cũng như kiểm chứng về chất lượng,
hiệu quả và đúng pháp luật của cơ quan thi hành các quyết định bản án của Tòa án.
Bằng việc giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự, đặc biệt là thông qua
các kết luận, quyết định của cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì người khiếu
nại sẽ có điều kiện nhận thức đầy đủ hơn về pháp luật hiện hành. Hơn nữa, trong
thực tiễn vốn có trường hợp là một số đương sự cũng lợi dụng quyền khiếu nại để
cố tình khiếu nại mà không có căn cứ, khiếu nại vượt cấp… với dụng ý kéo dài thời
gian thi hành án dân sự; Hoặc có trường hợp mặc dù một số đương sự biết rằng thời
hiệu của khiếu nại đã chấm dứt, song họ vẫn cố tình khiếu nại với mục đích cản trở/
gây rối quá trình thi hành án dân sự... Để giải quyết các trường hợp này, kết quả
giải quyết khiếu nại cùng với sự giải thích, hướng dẫn của những người có trách
nhiệm, nhất là sử dụng quyền từ chối thụ lý giải quyết đối với các đơn khiếu nại
thuộc trường hợp không được thụ lý theo luật định; có như vậy sẽ giúp cho đương
sự nhận thức rõ hơn về khiếu nại là quyền mà pháp luật cho phép, nhưng không thể
thực hiện tùy tiện về quyền này một cách tràn lan; hoặc lợi dụng quyền này để gây
rối trật tự hoặc trốn tránh nghĩa vụ trước pháp luật.
Với ý nghĩa đó, bằng việc thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại trong thi
hành án dân sự, các đương sự sẽ nhận thức sâu sắc pháp luật về thi hành án dân sự
và pháp luật giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự. Qua đó giúp cho họ nâng
cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật.
Đối với cán bộ công chức của cơ quan thi hành án dân sự, từ công tác giải
quyết khiếu nại trong thực tế sẽ giúp cho chấp hành viên, Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự có điều kiện rà soát đánh giá lại để kiểm chứng tính đúng luật và
hợp lý của hành vi, quyết định của mình. Nhờ đó, họ cũng rút ra bài học kinh
nghiệm, kỹ năng để gia tăng chất lượng và hiệu quả trong công tác này; cũng như
nâng cao ý thức trách nhiệm và đạo đức công vụ của họ.
Ba là, giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước chủ động phát hiện kịp thời đối
với những bất cập/ khoảng trống trong thể chế chính sách pháp luật hoặc các lỗ
hổng trong công tác quản lý nhà nước về THADS
14
Xét về bản chất, khiếu nại là sự phản ứng của người dân trước những việc làm
sai trái của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp
pháp của họ. Khiếu nại ở phạm vi rộng hơn, đó còn là thái độ, hành vi phản ứng
của người dân về chính sách, cơ chế quản lý nhà nước. Vì thế, công tác giải quyết
khiếu nại trong thi hành án dân sự thì cùng với việc phải bảo vệ quyền lợi chính
đáng cho người khiếu nại, thì đồng thời còn trợ giúp cho các cơ quan quản lý nhà
nước sớm phát hiện để kịp thời khắc phục các bất cập trong thể chế chính sách
pháp luật, những lỗ hổng trong quá trình quản lý nhà nước. Cụ thể là, bằng công tác
giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự, cơ quan quản lý nhà nước ở lĩnh vực
này sẽ chủ động hơn trong phát hiện đối với các bất cập đặt ra trong pháp luật về
lĩnh vực thi hành án dân sự. Ở đó, có thể là các “kẻ hở” của luật pháp hay có sự
không tương thích (sự không thống nhất, đồng bộ) của pháp luật về lĩnh vực thi
hành án dân sự với pháp luật về các lĩnh vực khác. Nếu có sự chủ động việc phát
hiện này là cơ sở thực tiễn rất quan trọng để hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực thi
hành án dân sự.
Hơn nữa, bằng công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự, các cơ
quan quản lý nhà nước về thi hành án dân sự sớm rà soát hiện trạng về bất cập/ hạn
chế trong công tác quản lý của mình; mà nhờ đó có giải pháp điều chỉnh sắp xếp
hợp lý về tổ chức bộ máy, chính sách đối với cán bộ, đổi mới quy trình thủ tục,
điều chỉnh phương thức giám sát, đôn đốc, thanh kiểm tra đối với lĩnh vực thi hành
án dân sự và công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự.
Bốn là, duy trì và tái thiết ổn định và trật tự an toàn xã hội, củng cố và tạo
dựng lòng tin nhân dân đối với luật pháp hiện hành
Thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự giúp đẩy
nhanh quá trình tổ chức thi hành án, bảo đảm những phán quyết của Tòa án trở
thành hiện thực. Mặc khác, từ thực thi tốt công tác giải quyết khiếu nại về thi hành
án dân sự sẽ giúp khôi phục trả lại quyền lợi hợp pháp, chính đáng của đương sự đã
bị xâm hại; qua đó hạn chế/ giảm thiểu được các vấn đề khiếu nại kéo dài, góp
phần duy trì môi trường ổn định và trật tự an toàn xã hội. Ngoài ra, việc thực hiện
15
tốt công tác này trên cơ sở đề cao tính nghiêm minh pháp luật cũng giúp cho kịp
thời phát hiện và xử lý nghiêm các sai phạm, tiêu cực, tham nhũng (nếu có) của
chấp hành viên và Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, củng cố lòng tin nhân
dân với Đảng và Nhà nước ta, cũng như với các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Năm là, tăng cường pháp chế XHCN
Pháp chế XHCN là chế độ thực thi nghiêm minh pháp luật, thể hiện tính nhất
quán và nâng cao sự tự giác của các cơ quan quản lý nhà nước, các đoàn thể nhân
dân, cán bộ, công chức, các doanh nghiệp và mọi công dân. Như vậy, việc tăng
cường pháp chế XHCN đối với công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân
sự sẽ buộc các chủ thể tham gia phải tự giác và tuân thủ trong quá trình thực hiện.
Nhờ đó vừa đóng góp vào việc bảo vệ lợi ích Nhà nước cũng như quyền lợi hợp
pháp, chính đáng của công dân và các tổ chức; vừa tạo lập môi trường ổn định và
bảo đảm trật tự an toàn xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân vào chính sách pháp
luật của nhà nước; cũng như giúp đề cao ý thức người dân tuân thủ chấp hành pháp
luật. Mặt khác, công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự được thực thi
nghiêm minh và triệt để, tạo thuận lợi cho quá trình đẩy nhanh việc tổ chức thi
hành án dân sự.
1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết khiếu nại trong thi
hành án dân sự
1.2.1. Người có quyền khiếu nại trong thi hành án dân sự
Luật Khiếu nại 2011 quy định, người có quyền khiếu nại là công dân, tổ chức,
cơ quan hoặc người công chức, cán bộ có quyền lợi bị xâm hại do hành vi hành
chính, quyết định hành chính hay một quyết định kỷ luật đối với cán bộ, công chức
gây ra hoặc người đại diện hợp pháp của các chủ thể này thực hiện quyền khiếu nại.
Nói cách khác, người có quyền khiếu nại là đối tượng bị tác động một cách trực
tiếp bởi hành vi, quyết định nêu trên.
Theo quy định của Luật THADS năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014 thì
những người có quyền KN về THADS bao gồm:
16
Thứ nhất, người được thi hành án dân sự là tổ chức, cơ quan, cá nhân được
hưởng quyền lợi trong quyết định bản án được thi hành.
Thứ hai, người phải thi hành án dân sự là tổ chức, cơ quan, cá nhân buộc phải
thực hiện nghĩa vụ trong quyết định bản án được thi hành.
Thứ ba, người có nghĩa vụ và quyền lợi liên quan, đó là tổ chức, cơ quan, cá
nhân có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp tới việc thực hiện nghĩa vụ và quyền
thi hành án của đương sự.
Từ cơ sở này đối chiếu với các quy định của Luật Thi hành án dân sự 2008,
chủ thể thực hiện quyền khiếu nại ở lĩnh vực thi hành án dân sự là tổ chức, cơ quan,
cá nhân.
1.2.2. Đối tượng khiếu nại trong thi hành án dân sự
Luật Khiếu nại 2011 quy định: đối tượng khiếu nại là hành vi hành chính,
quyết định hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền
trong cơ quan này hoặc quyết định kỷ luật đối với cán bộ, công chức một khi có
căn cứ cho rằng hành vi hay quyết định ấy trái luật, xâm phạm đến quyền lợi hợp
pháp của người khiếu nại.
Luật Thi hành án dân sự 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định, đối tượng
khiếu nại trong thi hành án dân sự là các quyết định hoặc hành vi của chấp hành
viên, của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự.
Thứ nhất: Quyết định thi hành án:
Những quyết định thuộc thẩm quyền ban hành của chấp hành viên, của Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự, đó là: quyết định về việc chưa có điều kiện thi
hành án; quyết định thi hành án; quyết định hoãn; quyết định tạm đình chỉ; quyết
định đình chỉ thi hành án; quyết định cưỡng chế về thi hành án đều thuộc đối tượng
khiếu nại trong thi hành án dân sự.
Người có quyền khiếu nại được thực hiện quyền khiếu nại trong thi hành án
dân sự trong trường hợp khi nhận được một trong số những quyết định được nêu
trên - nếu cho rằng quyết định này trái luật, xâm phạm tới quyền lợi hợp pháp của
họ.
17
Thứ hai: Hành vi về thi hành án:
Một khi cho rằng hành vi của chấp hành viên hoặc của Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự đã xâm phạm tới quyền lợi hợp pháp của mình, người có quyền
khiếu nại được thực hiện quyền khiếu nại trong thi hành án dân sự. Hành vi về thi
hành án dân sự bị khiếu nại thường xảy đến ở các trường hợp: Chậm tổ chức thi
hành án; chậm ra quyết định thi hành án dân sự; không xác minh về điều kiện thi
hành án dân sự theo yêu cầu của người được thi hành án dân sự; không tổ chức thi
hành án dân sự dứt khoát đối với đối tượng phải thi hành án có điều kiện thi hành;
không hướng dẫn thực hiện quyền của đương sự và người có nghĩa vụ, quyền lợi
liên quan mà pháp luật yêu cầu chấp hành viên phải hướng dẫn, bán đấu giá khi
không có căn cứ xác lập thẩm quyền bán đấu giá của chấp hành viên; lập biên bản
nhưng không giao cho người được nhận theo luật định; tiến hành những hoạt động
nghiệp vụ mà không lập biên bản; không triệu tập người phải thi hành án dân sự để
thực hiện thi hành án; không tiến hành áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự khi đối tượng phải thi hành án dân sự có điều kiện thi hành; kê biên và xử lý
tài sản sai đối tượng hoặc không tương ứng với giá trị phải THA/ kê biên tài sản đã
thế chấp; chấp hành viên không chứng kiến việc thoả thuận của các đương sự khi
luật yêu cầu.
Tại khoản 2 thuộc Điều 140 của Luật Thi hành án dân sự 2008 đã phân loại
những hành vi, quyết định bị khiếu nại tuỳ thuộc vào tính chất và giai đoạn thi
hành án dân sự mà hình thành những nhóm khác nhau:
Thứ nhất, nhóm hành vi, quyết định về thi hành án dân sự trong giai đoạn
trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế, biện pháp bảo đảm.
Thứ hai, nhóm hành vi, quyết định trong giai đoạn áp dụng các biện pháp về
phong toả tài khoản ngân hàng, biện pháp bảo đảm khác.
Thứ ba, nhóm hành vi, quyết định trong giai đoạn áp dụng biện pháp cưỡng
chế.
Thứ tư, nhóm hành vi, quyết định ở giai đoạn sau khi áp dụng biện pháp
cưỡng chế.
18
Với việc phân chia đã nêu trên là vì mục đích định hướng giúp cho cấp có
thẩm quyền kịp thời giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự một cách hợp lý.
Hơn nữa, tùy vào nhóm hành vi, quyết định về thi hành án dân sự bị khiếu nại, Luật
thi hành án dân sự 2008 có quy định về thời hiệu khiếu nại của bên đương sự, quy
định về thời hạn giải quyết khiếu nại của cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
trong thi hành án dân sự.
1.2.3. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự
Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự là Bộ trưởng
Bộ Tư pháp, Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự, người Thủ trưởng cơ
quan Thi hành án dân sự (như Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự và Chi cục
trưởng Chi cục thi hành án dân sự).
Công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự về cơ bản thực hiện
theo quy trình 02 cấp. Ở từng cấp đều có quy định riêng về thẩm quyền giải quyết
khiếu nại, đó là:
Một là, thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong THADS lần đầu (lần 01).
Giải quyết KN lần đầu về THADS thuộc thẩm quyền của Chi cục trưởng Chi
cục THADS, Cục trưởng Cục THADS, Tổng cục trưởng Tổng cục THADS được
quy định tại Điều 142 Luật THADS năm 2008.
(1) Thẩm quyền giải quyết của Chi cục trưởng Chi cục thi hành án dân sự: Đó
là Chi cục trưởng ở cấp huyện có thẩm quyền giải quyết khiếu nại các hành vi,
quyết định trái luật của chấp hành viên thuộc Chi cục thi hành án dân sự cấp huyện
mình quản lý.
Mặt khác, về quy trình giải quyết đơn tố cáo, khiếu nại, kiến nghị, đề nghị,
phản ánh trong thi hành án dân sự theo Thông tư 02/2016/TT-BTP (có hiệu lực từ
ngày 16 tháng 3 năm 2016), thể hiện rõ ở điểm a thuộc khoản 1 Điều 7 của Thông
tư 02 này là có một điểm mới về quy định thẩm quyền của Chi cục trưởng Chi cục
thi hành án dân sự: là giải quyết khiếu nại hành vi, quyết định của Phó Chi cục
trưởng Chi cục thi hành án dân sự khi thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ của chấp
hành viên.
19
Theo pháp luật hiện hành, Chi cục trưởng của Chi cục thi hành án dân sự
đồng thời là chấp hành viên, do đó họ cũng trực tiếp tham gia tổ chức thi hành vụ
việc với quyền hạn, nhiệm vụ của chấp hành viên theo luật định. Vì thế, cần lưu ý
rằng: khi xảy ra trường hợp khiếu nại về hành vi, quyết định của Chi cục trưởng
của Chi cục thi hành án dân sự thì phải rà soát lại về tên quyết định bị khiếu nại và
chữ ký quyết định của người này với tư cách của chấp hành viên; hay là với tư cách
của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự. Từ việc làm rõ cơ sở này, nếu ở trường
hợp Chi cục trưởng của Chi cục thi hành án dân sự ký quyết định và thực hiện hành
vi thuộc thẩm quyền Thủ trưởng của cơ quan thi hành án dân sự (kể cả là Phó Chi
cục trưởng của Chi cục thi hành án dân sự ra quyết định với danh nghĩa ký thay thủ
trưởng) thì việc giải quyết khiếu nại về hành vi, quyết định này thuộc thẩm quyền
Cục trưởng của Cục thi hành án dân sự.
(2) Thẩm quyền của Cục trưởng Cục thi hành án dân sự về giải quyết khiếu
nại trong thi hành án dân sự: Đó là Cục trưởng của Cục thi hành án dân sự có thẩm
quyền giải quyết việc khiếu nại hành vi, quyết định trái luật của chấp hành viên,
của Chi cục trưởng Chi cục thi hành án dân sự thuộc quyền quản lý đơn vị mình.
Mặt khác, về quy trình giải quyết đơn tố cáo, khiếu nại, kiến nghị, đề nghị,
phản ánh trong thi hành án dân sự theo Thông tư 02/2016/TT-BTP (có hiệu lực từ
ngày 16 tháng 3 năm 2016), thể hiện rõ ở điểm a thuộc khoản 2 Điều 7 của Thông
tư 02 này là có một điểm mới về quy định thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Cục
trưởng Cục thi hành án dân sự là giải quyết việc khiếu nại về hành vi, quyết định
của Phó Cục trưởng của Cục thi hành án dân sự khi thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ
của chấp hành viên.
(3) Thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự của Tổng cục
trưởng của Tổng cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp: Đó là Tổng cục trưởng
Tổng cục này giải quyết khiếu nại đối với hành vi, quyết định trái luật của Cục
trưởng của Cục Thi hành án dân sự.
Hai là, thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự lần 02
20
Thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự lần 02 này chỉ
thuộc Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Tổng cục trưởng của Tổng cục Thi hành án dân sự và
Cục trưởng của Cục Thi hành án dân sự.
(1) Thẩm quyền của Cục trưởng Cục THADS trong giải quyết khiếu nại: Tại
điểm c khoản 2 thuộc Điều 142 của Luật THADS 2008, Cục trưởng của Cục
THADS có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định giải quyết khiếu nại
của Chi cục trưởng Chi cục THADS. Theo đó, trong việc tiếp nhận đơn khiếu nại
trong thi hành án dân sự, người tiếp nhận đơn này yêu cầu họ phải kiểm tra xem xét
lại vụ việc có phải do Chi cục trưởng Chi cục THADS ban hành quyết định giải
quyết khiếu nại không?
(2) Thẩm quyền của Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự trong giải
quyết khiếu nại:
Theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 142 Luật THADS năm 2008: Tổng cục
trưởng Tổng cục THADS giải quyết KN đối với quyết định giải quyết KN của Cục
trưởng Cục THADS. Như vậy, khi tiếp nhận đơn KN, người tiếp nhận đơn KN cần
kiểm tra xem có phải vụ việc đã được Cục trưởng Cục THADS ra quyết định giải
quyết KN hay không.
Trong thực tế, rất nhiều trường hợp sau khi có quyết định giải quyết KN của
Chi cục trưởng của Chi cục THADS, người KN đã gửi đơn KN lần 02 đến Tổng
cục THADS mà không gửi đơn khiếu nại đến Cục THADS. Ở trường hợp như vậy
thì Tổng cục Thi hành án dân sự chưa thể thụ lý đơn khiếu nại, mà phải chuyển đơn
này cùng với việc hướng dẫn cho đương sự người khiếu nại tới đúng thẩm quyền
của Cục Thi hành án dân sự.
(2) Thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về giải quyết khiếu nại: Tại điểm
a và điểm b thuộc Khoản 4 ở Điều 142 của Luật Thi hành án dân sự 2008 quy định:
Bộ trưởng Bộ Tư pháp là người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại về quyết định
giải quyết khiếu nại lần đầu của Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự;
hoặc giải quyết khiếu nại về quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực thi hành
của Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự và Cục trưởng của Cục Thi hành
21
án dân sự (ở trường hợp cần thiết). Như vậy, cùng với việc tiếp nhận đơn khiếu nại
trong thi hành án dân sự, người tiếp nhận khiếu nại phải kiểm tra xác minh đơn liệu
có thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp giải quyết khiếu nại không?
Ở trường hợp khi đã có hiệu lực thi hành quyết định giải quyết khiếu nại trong
thi hành án dân sự mà đương sự vẫn khiếu nại tiếp tục: Nếu xem xét là có căn cứ
chứng lý xác định việc giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng 02 cấp đối với quyết
định, hành vi trái pháp luật/ không khách quan của chấp hành viên, của Thủ trưởng
cơ quan cấp dưới thì Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thẩm quyền xem xét lại quyết định,
hành vi đã có hiệu lực đó để khắc phục/ khôi phục quyền lợi hợp pháp của đương
sự khiếu nại bị xâm phạm.
Tại Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự
đã quy định rõ: việc xem xét lại được thực hiện khi và chỉ khi có căn cứ xác định
hành vi, quyết định bị khiếu nại trái luật song quyết định giải quyết khiếu nại trong
thi hành án dân sự cho rằng là hành vi, quyết định đó đúng luật; như vậy việc giải
quyết khiếu nại đã vi phạm pháp luật về thủ tục giải quyết khiếu nại về thi hành án;
phát sinh tình tiết mới làm đổi thay cơ bản về kết quả giải quyết khiếu nại trong thi
hành án dân sự.
Cần chú ý trường hợp xác định thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần 02, đó là:
Tại Nghị định số 62/2015/NĐ-CP này có quy định: Với đơn khiếu nại thuộc thẩm
quyền cấp dưới giải quyết song do quá hạn quy định mà chưa được giải quyết,
người Thủ trưởng của cơ quan quản lý thi hành án dân sự cấp trên hoặc Thủ trưởng
của cơ quan thi hành án dân sự: một mặt có trách nhiệm ra chỉ thị yêu cầu cấp dưới
phải giải quyết; một mặt khác phải chỉ đạo, đôn đốc và kiểm tra quá trình cấp dưới
giải quyết và đồng thời áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền của mình nhằm xử
lý người cố tình trì hoãn trong giải quyết khiếu nại hoặc xử lý người thiếu trách
nhiệm. Đối với trường hợp áp dụng các biện pháp vượt thẩm quyền thì kiến nghị
lên cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền để xử lý.
22
Mặc dù công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự về căn bản là
thực hiện theo quy trình giải quyết 02 cấp. Song trên thực tế vẫn có một số trường
hợp khiếu nại chỉ cần thực hiện giải quyết một lần là có hiệu lực thi hành tức thì. Ở
khoản 2 thuộc Điều 146 của Luật Thi hành án dân sự 2008 (được sửa đổi bổ sung
năm 2014) có quy định là: trong khi quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thì thời
hiệu giải quyết khiếu nại là năm ngày làm việc (kể từ ngày thụ lý đơn) mà không
quy định thời hạn giải quyết khiếu nại lần 02. Thì quy định của các khoản khác
thuộc Điều 146 Luật Thi hành án dân sự 2008 xác định là gồm có: thời hạn giải
quyết khiếu nại lần đầu và cả lần 02. Mặc khác, theo Khoản 3 thuộc Điều 38 của
Nghị định số 62/2015/NĐ-CP cũng xác định rằng: Quyết định của người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với những quyết định về áp dụng các biện
pháp bảo đảm THA có hiệu lực thi hành.
Tuy rằng, quá trình thực hiện công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án
dân sự, thì có không ít cơ quan thi hành án dân sự lại chưa chú ý nhiều tới nội dung
quy định: ở khoản 2 thuộc Điều 146 của Luật Thi hành án dân sự 2008; và ở khoản
3 thuộc Điều 38 của Nghị định 62 của Chính phủ, mà dẫn đến tình trạng thụ lý và
ra quyết định giải quyết khiếu nại lần 02 về những trường hợp khiếu nại quyết định
áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự. Vì vậy, cần phải lưu ý là: các khiếu
nại về việc áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự thì thuộc diện trường
hợp giải quyết một cấp mà thôi.
Bên cạnh đó, về quy định các khiếu nại khác liên quan tới các hoạt động thừa
phát lại, đó là: (1) Trưởng Văn phòng Thừa phát lại có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại lần đầu đối với khiếu nại về hành vi, quyết định của Thừa phát lại thuộc đơn vị
mình; (2) Cục trưởng của Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh tại nơi đặt Văn phòng
Thừa phát lại là người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với các khiếu
nại về hành vi, quyết định của Trưởng Văn phòng Thừa phát lại; và có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại lần 02 về giải quyết khiếu nại lần đầu đối với khiếu nại hành
vi, quyết định của Thừa phát lại; (3) Tổng cục trưởng của Tổng cục Thi hành án
dân sự là người có thẩm quyền trực tiếp giải quyết khiếu nại lần 02 về giải quyết
23
khiếu nại lần đầu đối với khiếu nại về hành vi, quyết định của Trưởng Văn phòng
Thừa phát lại; (4) Ở trường hợp cần thiết,thì Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thẩm quyền
xem xét lại đối với quyết định giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự đã có
hiệu lực thi hành, khi có liên quan tới hoạt động thừa phát lại.
1.2.4. Quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, người bị khiếu nại về thi
hành án dân sự
Để đảm bảo cho người KN được thực hiện quyền KN một cách hiệu quả,
Một là, nghĩa vụ và quyền của người khiếu nại về THADS:
đồng thời nhằm tránh việc người KN lợi dụng quyền KN làm mất uy tín của cán
bộ, cơ quan nhà nước, làm mất thời gian, công sức của các cơ quan hữu quan,
khoản 1 Điều 143 Luật THADS 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) đã quy
định người KN có quyền sau:
- Tự mình KN hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để KN;
- Nhờ luật sư trong việc tư vấn pháp lý về hoạt động khiếu nại;
- Được nhận quyết định giải quyết KN;
- Được thông tin để biết những bằng chứng tạo căn cứ trong giải quyết khiếu
nại; cung cấp các bằng chứng để khiếu nại và giải trình làm rõ ý kiến của mình
thông qua bằng chứng ấy;
- Được phục hồi đầy đủ về lợi quyền hợp pháp, chính đáng đã bị xâm phạm
và bồi thường thiệt hại vật chất (nếu có);
- Được tiếp tục khiếu nại nếu không tán thành quyết định của cấp có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại lần đầu;
- Được rút đơn khiếu nại trong quá trình giải quyết khiếu nại. [27, tr. 128]
Hơn nữa, việc sử dụng các quyền này để phòng tránh sự lợi dụng của người
khiếu nại chỉ nhằm mục đích hạ thấp uy tín hoặc làm lãng phí công sức, thời gian…
của người cán bộ và cơ quan nhà nước.
Khoản 2 thuộc Điều 143 của Luật Thi hành án dân sự 2008 cũng quy định
rằng: Người khiếu nại có nghĩa vụ là họ phải khiếu nại đúng cấp có thẩm quyền
giải quyết; phải trình bày sự việc một cách trung thực, cung cấp những tài liệu
24
thông tin kèm theo cho cấp giải quyết khiếu nại; đồng thời họ phải chịu trách nhiệm
trước luật pháp về những nội dung trình bày cũng như nội dung thông tin, tài liệu
đã cung cấp; tuân thủ chấp hành quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, quyết định
về giải quyết khiếu nại khi đã có hiệu lực thi hành.
Hai là, nghĩa vụ và quyền của người bị khiếu nại trong THADS:
Để tạo điều kiện cần thiết bảo vệ quyền và nghĩa vụ của người bị KN về
THADS, khoản 1 Điều 144 Luật THADS 2008 quy định người bị KN có các quyền
sau:
- Quyền được biết những căn cứ khiếu nại trong thi hành án dân sự của người
khiếu nại; và cung cấp các bằng chứng làm rõ về tính hợp pháp của hành vi, quyết
định bị khiếu nại trong thi hành án dân sự.
- Quyền được nhận quyết định về giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân
sự.
- Người bị khiếu nại có những nghĩa vụ, đó là: Phải giải trình đối với hành vi,
quyết định bị khiếu nại trong thi hành án dân sự; phải cung cấp tài liệu thông tin có
liên quan khi có yêu cầu của cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong thi hành
án dân sự; phải tuân thủ chấp hành nghiêm quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
và quyết định giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự đã có thời hiệu lực; phải
bồi hoàn/ bồi thường để khắc phục hậu quả do hành vi, quyết định trái luật mà
mình gây ra theo luật định. (Khoản 2 thuộc Điều 144 của Luật Thi hành án dân sự
2008)
1.2.5. Thủ tục giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự
Muốn giải quyết khiếu nại lĩnh vực thi hành án dân sự, thì người giải quyết
khiếu nại phải am tường việc thực hiện chuỗi công việc: từ thụ lý và nghiên cứu
các thông tin của đơn khiếu nại trong thi hành án dân sự; lên kế hoạch giải quyết
cho tới việc xác minh và thu thập các chứng cứ để làm rõ những nội dung khiếu
nại; kiến nghị lên người có thẩm quyền ban hành quyết định giải quyết khiếu nại
trong thi hành án dân sự, hoàn chỉnh và hoàn thiện hồ sơ... Trong đó, cần chú ý
trước khi thụ lý đơn để giải quyết khiếu nại lĩnh vực thi hành án dân sự cần tập
25
trung vào 3 bước chủ yếu, đó là: (1) chuẩn bị giải quyết khiếu nại trong thi hành án
dân sự; (2) xác minh và thu thập chứng cứ; (3) Ban hành kết luận về nội dung khiếu
nại trong thi hành án dân sự và hoàn chỉnh bộ hồ sơ.
Bước 1: Công tác chuẩn bị giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự
Một là: Thụ lý đơn khiếu nại trong thi hành án dân sự
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn KN do văn thư
chuyển, công chức được giao giải quyết KN có nhiệm vụ thụ lý và thông báo về
việc thụ lý đơn KN bằng văn bản cho người KN biết.
Kể từ khi đã nhận được đơn khiếu nại trong thi hành án dân sự, để xác định
được vụ việc đó liệu có đủ điều kiện để thụ lý không, thì người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại phải căn cứ pháp luật hiện hành được quy định cụ thể ở: Điều 11
thuộc Luật Khiếu nại 2011; Điều 141 thuộc Luật Thi hành án dân sự 2008; và tại
Khoản 5 của Điều 4 thuộc Quy chế giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân
sự (của Quyết định 1318/QĐ-TCTHADS ngày 30 tháng 9 năm 2013 của Tổng cục
trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự). Đối với người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại sẽ không thụ lý đơn khiếu nại thi hành án dân sự - một khi xảy ra một
trong các trường hợp dưới đây:
- Hành vi, quyết định bị khiếu nại không có liên quan trực tiếp gì tới lợi ích và
quyền hợp pháp của người khiếu nại;
- Người đại diện không có đủ giấy tờ để minh chứng về tính đại diện hợp
pháp;
- Người khiếu nại không có đủ năng lực hành vi dân sự và cũng không có
người đại diện hợp pháp (ngoại trừ trường hợp có quy định khác của pháp luật);
- Đã hết thời hạn, thời hiệu khiếu nại (mà lý do chính đáng không có);
- Khiếu nại đã có quyết định về giải quyết khiếu nại lần 02;
- Việc khiếu nại đã có quyết định về giải quyết khiếu nại có hiệu lực thi hành
án, ngoại trừ thuộc trường hợp thấy cần thiết phải tái xem xét theo thẩm quyền Bộ
trưởng Bộ Tư pháp;
- Việc khiếu nại đã được Toà án giải quyết bằng quyết định, bản án của Toà
26
án hoặc Tòa án đã thụ lý, ngoại trừ quyết định về đình chỉ việc giải quyết vụ án
hành chính của Toà án;
- Đã có văn bản thông báo về đình chỉ giải quyết khiếu nại, kể từ sau ba mươi
ngày mà người khiếu nại không tiếp tục khiếu nại;
- Không xem xét, giải quyết đơn tố cáo, đơn KN mạo tên; giấu tên; không rõ
địa chỉ; sao chụp chữ ký; không có chữ ký; nhân danh tập thể; hoặc những nội dung
tố cáo, KN mà cấp có thẩm quyền đã giải quyết; hay tố cáo, KN lại nhưng bằng
chứng mới không có, ngoại trừ trường hợp phải xử lý đơn theo luật định về phòng
chống tham nhũng;
- Không thụ lý việc giải quyết KN về hành vi, quyết định trong nội bộ của cơ
quan THA nhằm chỉ đạo tiến hành tổ chức thực thi công vụ; về hành vi, quyết định
trong việc điều hành chỉ đạo ngành dọc từ đơn vị THA cấp trên xuống đơn vị THA
cấp dưới.
Trong trường hợp người có thẩm quyền trong giải quyết khiếu nại thi hành án
dân sự, mà không thụ lý đơn khiếu nại thì phải ra thông báo (nêu rõ lý do không thụ
lý đơn này). Thời hạn trong ba ngày làm việc (tính từ ngày đã tiếp nhận đơn khiếu
nại), cán bộ công chức được phân công tham mưu trong việc giải quyết khiếu nại
phải có nhiệm vụ soạn công văn yêu cầu về báo cáo giải trình (kèm theo tài liệu, hồ
sơ có liên quan) để trình lên Lãnh đạo cấp Phòng (Vụ) xem xét và ký duyệt ban
hành.
Trường hợp người bị khiếu nại là CHV thì Lãnh đạo Phòng (Chi cục) trực tiếp
yêu cầu CHV báo cáo giải trình bằng văn bản, cung cấp hồ sơ vụ việc mà không
cần có công văn yêu cầu.
Hai là: Thực hiện việc báo cáo giải trình, cung cấp tài liệu, hồ sơ
Với nhiệm vụ của CHV được thực hiện có thời hạn không quá hai ngày làm
việc (tính từ ngày đã nhận được yêu cầu). Trường hợp KN đối với hành vi, quyết
định việc áp dụng biện pháp bảo đảm THA sẽ thực hiện có thời hạn không quá một
ngày làm việc (tính từ ngày đã nhận được yêu cầu).
27
Với nhiệm vụ của đơn vị Thi hành án dân sự cấp dưới về báo cáo giải trình
(kèm theo tài liệu, hồ sơ) được thực hiện có thời hạn không quá hai ngày làm việc
(tính từ ngày đã nhận được công văn).
Ở trường hợp gấp, khẩn hoặc ở trường hợp giải quyết khiếu nại lần đầu, thì
cùng với việc phát hành công văn yêu cầu theo đường bưu điện, cán bộ công chức
được phân công tham mưu về việc giải quyết khiếu nại có thể sử dụng fax, điện
thoại hoặc hộp thư điện tử nhằm yêu cầu kịp thời đối với đơn vị Thi hành án dân sự
thực hiện. Việc báo cáo giải trình (kèm theo tài liệu, hồ sơ liên quan) qua đường
fax, điện thoại hoặc hộp thư điện tử đòi hỏi đơn vị Thi hành án dân sự cấp dưới
phải thực hiện với thời hạn không quá hai ngày làm việc (tính từ ngày đã tiếp nhận
được yêu cầu), ngoại trừ trường hợp đặc biệt.
Lãnh đạo của đơn vị Thi hành án dân sự được yêu cầu, họ phải có chữ ký vào
báo cáo giải trình; và đồng thời chịu trách nhiệm đối với tính đầy đủ, trung thực,
chính xác của báo cáo, tài liệu, hồ sơ. Đối với hồ sơ phô tô, yêu cầu phải có sự xác
nhận của Lãnh đạo đơn vị Thi hành án dân sự. Tài liệu, hồ sơ đi kèm với báo cáo
ấy yêu cầu phải có danh mục rõ ràng, cụ thể.
Bước 2: Tổ chức xác minh, đối thoại tại địa phương
Tại địa phương, việc xác minh và triển khai hoạt động đối thoại với mục đích
là thu thập tài liệu, chứng cứ để người tham gia giải quyết khiếu nại có đủ cơ sở
nhận xét khách quan, chính xác và đúng luật đối với vụ việc. Qua đó mà đề xuất lên
cấp/ người có thẩm quyền ban hành quyết định giải quyết khiếu nại thi hành án dân
sự một cách chính xác, đảm bảo tính thuyết phục, bảo vệ được lợi ích nhà nước,
cũng như quyền lợi hợp pháp của nhiều bên có liên quan.
Đây cũng là bước then chốt đối với cả quá trình theo dõi, xem xét, rà soát và
giải quyết vụ việc khiếu nại thi hành án dân sự. Mức độ giải quyết khiếu nại thi
hành án dân sự, nó phụ thuộc một cách chủ yếu vào khâu xác minh và thu thập các
chứng cứ. Tất nhiên việc xác minh và triển khai hoạt động đối thoại ở địa phương
còn tuỳ mức độ và tính chất phức tạp của mỗi vụ việc khiếu nại cụ thể, mà người
giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự mới đề ra 02 phương án giải quyết không
28
giống nhau: Đối với các vụ việc có tính chất phức tạp, nội dung khiếu nại thì có căn
cứ pháp lý nhưng lại đang thiếu các bằng chứng, tài liệu thì người giải quyết khiếu
nại cần phải triển khai bước xác minh, thu thập chứng cứ; Đối với các vụ việc có
tính chất giản đơn, người giải quyết khiếu nại lại đã có tài liệu chứng cứ rõ ràng về
vụ việc, thì có thể đi đến kết luận chính xác, mà không cần bước xác minh, thu thập
thêm chứng cứ.
Thứ nhất: Xây dựng kế hoạch xác minh, đối thoại
Đối với trường hợp giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự lần đầu về hành vi,
quyết định trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế và biện pháp bảo đảm; và về
hành vi, quyết định sau khi đã áp dụng biện pháp cưỡng chế, thì công chức tham
mưu giải quyết khiếu nại có thời hạn không quá hai ngày làm việc (tính từ ngày có
thông báo thụ lý) phải trình dự thảo kế hoạch lên Lãnh đạo Chi cục (Vụ, Phòng) để
xem xét và có ý kiến.
Đối với trường hợp giải quyết khiếu nại về hành vi, quyết định việc áp dụng
biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, thì công chức tham mưu giải quyết khiếu nại
có thời hạn không quá một ngày làm việc (tính từ ngày có thông báo thụ lý) phải
trình dự thảo kế hoạch lên Lãnh đạo Chi cục (Vụ, Phòng) để xem xét và có ý kiến.
Đối với trường hợp giải quyết khiếu nại về hành vi, quyết định việc áp dụng
biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, thì công chức tham mưu giải quyết khiếu
nại có thời hạn không quá năm ngày làm việc (tính từ ngày có thông báo thụ lý)
phải trình dự thảo kế hoạch lên Lãnh đạo Chi cục (Vụ, Phòng) để xem xét và có ý
kiến.
Đối với trường hợp giải quyết khiếu nại lần hai, thì công chức tham mưu giải
quyết khiếu nại thi hành án dân sự có thời hạn không quá năm ngày làm việc (tính
từ ngày có thông báo thụ lý) phải trình dự thảo kế hoạch lên Chi cục (Vụ, Phòng)
để xem xét và có ý kiến.
Đối với trường hợp giải quyết khiếu nại lần hai về hành vi, quyết định việc áp
dụng biện pháp cưỡng chế, thì công chức tham mưu giải quyết khiếu nại thi hành
án dân sự có thời hạn không quá 15 ngày làm việc (tính từ ngày có thông báo thụ
29
lý) phải trình dự thảo kế hoạch lên Lãnh đạo Chi cục (Vụ, Phòng) để xem xét và có
ý kiến.
Thứ hai: Tổ chức việc xác minh, đối thoại
Thực hiện kế hoạch xác minh, đối thoại:
Đối với người được phân công tổ chức công tác xác minh và đối thoại, họ
phải thực hiện theo khung thời hạn cụ thể, đó là: (1) Trong trường hợp việc giải
quyết khiếu nại về hành vi, quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân
sự thì phải thực hiện ngay trong ngày; (2) Trong trường hợp giải quyết khiếu nại
lần đầu về hành vi, quyết định trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế, biện pháp
bảo đảm thi hành án dân sự; và về hành vi, quyết định sau khi áp dụng biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự thì phải thực hiện không quá 01 ngày làm việc (tính
từ ngày phê duyệt); (3) Trong trường hợp giải quyết khiếu nại lần đầu đối với việc
áp dụng biện pháp cưỡng chế và giải quyết khiếu nại lần hai thì phải thực hiện
không quá 03 ngày làm việc (tính từ ngày phê duyệt).
Thủ tục xác minh, đối thoại:
Đối với người được phân công tổ chức công tác xác minh và đối thoại, họ
phải thực hiện theo kế hoạch được duyệt. Kết quả của công tác xác minh và đối
thoại được thể hiện ở biên bản có đầy đủ những chữ ký của các bên đương sự tham
gia và người có liên quan. Lưu ý, trong trường hợp xảy ra là có người không ký tên
vào biên bản do họ không đồng ý, thì phải ghi rõ cụ thể lý do không ký tên. Biên
bản trình bày nội dung phải phản ánh về tính trung thực, đầy đủ các tài liệu, bằng
chứng mà các bên đương sự là tổ chức, cơ quan, cá nhân đã cung cấp.
Thứ ba: Báo cáo kết quả xác minh, đối thoại
Đối với người được phân công tổ chức công tác xác minh và đối thoại, họ
phải báo cáo lên người có thẩm quyền/ cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thi
hành án dân sự về kết quả làm việc bằng văn bản theo thời hạn đã được quy định,
đó là: (1) Trong trường hợp giải quyết khiếu nại đối với áp dụng biện pháp bảo
đảm thì phải thực hiện ngay trong ngày; (2) Trong trường hợp giải quyết khiếu nại
lần đầu về hành vi, quyết định trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án
30
dân sự, biện pháp bảo đảm; về hành vi, quyết định sau khi áp dụng biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự thì phải thực hiện không quá 01 ngày làm việc; (3)
Trong trường hợp giải quyết khiếu nại lần đầu đối với áp dụng biện pháp cưỡng chế
thi hành án dân sự và giải quyết khiếu nại lần 02 thì phải thực hiện không quá 05
ngày làm việc, (tính từ ngày hoàn thành công tác xác minh và đối thoại).
Bước 3: Ban hành quyết định về việc giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự;
và hoàn chỉnh hồ sơ
Thứ nhất: Ra quyết định giải quyết khiếu nại
Căn cứ vào kết quả của công tác xác minh và đối thoại, người có thẩm quyền/
cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự ban hành quyết định giải
quyết khiếu nại; và gửi quyết định khiếu nại đến: người khiếu nại và người bị khiếu
nại, người giải quyết khiếu nại trước đó (với trường hợp giải quyết khiếu nại tiếp
theo) và các tổ chức, cá nhân có quyền lợi ích liên quan. Nếu xét thấy cần thiết,
quyết định về việc giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự có thể được công bố
công khai đối với người bị khiếu nại, người khiếu nại và các tổ chức, cá nhân có
liên quan.
Để việc giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự phải đảm bảo đầy đủ, khách
quan và chặt chẽ, tại Điều 151 của Luật Thi hành án dân sự 2008 đã quy định về
quyết định giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự lần đầu phải gồm có những nội
dung, đó là:
- Ngày, tháng và năm ban hành quyết định;
- Địa chỉ, họ và tên của người bị khiếu nại, người khiếu nại;
- Nội dung của khiếu nại;
- Kết quả về việc xác minh nội dung khiếu nại;
- Căn cứ cơ sở pháp lý về giải quyết khiếu nại;
- Kết luận về nội dung khiếu nại là sai toàn bộ hoặc đúng một phần, đúng;
- Huỷ bỏ, sửa đổi, giữ nguyên hoặc yêu cầu hủy bỏ một phần, sửa đổi hành vi,
quyết định bị khiếu nại thi hành án dân sự hay chấm dứt việc thực hiện hành vi,
quyết định bị khiếu nại;
31
- Việc khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại do hành vi, quyết định trái luật
gây nên;
- Hướng dẫn cho đương sự về quyền khiếu nại thi hành án dân sự lần 02.
Xuất phát từ tính chất của giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự lần 02, nó
có sự khác biệt so với lần 01, tại Điều 153 của Luật Thi hành án dân sự 2008 đã
quy định các nội dung căn bản cần phải có của quyết định giải quyết khiếu nại thi
hành án dân sự lần 02 gồm cso những nội dung cụ thể, đó là:
- Ngày, tháng, năm ban hành quyết định;
- Địa chỉ, họ và tên của người bị khiếu nại, người khiếu nại;
- Nội dung của khiếu nại;
- Kết quả về việc xác minh nội dung khiếu nại;
- Căn cứ cơ sở pháp lý về giải quyết khiếu nại;
- Kết luận đối với nội dung khiếu nại thi hành án dân sự; và kết luận việc giải
quyết của người có thẩm quyền/ cấp có thẩm quyền đối với giải quyết khiếu nại lần
đầu;
- Huỷ bỏ, sửa đổi, giữ nguyên hoặc yêu cầu hủy bỏ một phần, sửa đổi hành vi,
quyết định bị khiếu nại thi hành án dân sự hay chấm dứt việc thực hiện hành vi,
quyết định bị khiếu nại;
- Việc khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại do hành vi, quyết định trái luật
gây nên;
Quy trình công tác giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự phải bảo đảm đúng
thời hạn. Khung thời hạn của việc giải quyết khiếu nại có hiệu lực từ ngày ra thông
báo thụ lý đơn khiếu nại thi hành án dân sự. Theo Điều 146 của Luật bổ sung, sửa
đổi một số điều của Luật Thi hành án dân sự 2014 đã quy định rõ:
Về hành vi, quyết định THA trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành
án dân sự, biện pháp bảo đảm thì có thời hạn để giải quyết KN không quá 15 ngày/
đối với lần đầu; và không quá 30 ngày/ đối với lần hai (tính từ ngày đã thụ lý đơn
KN).
32
Về quyết định đối với việc áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản; và về hành
vi, quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm khác thì có thời hạn để giải quyết KN
không quá 05 ngày làm việc (tính từ ngày đã thụ lý đơn KN).
Về hành vi, quyết định đối với việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự thì thời hạn để giải quyết KN không quá 30 ngày/ đối với lần đầu, không
quá 45 ngày/ đối với lần hai (tính từ ngày đã thụ lý đơn KN).
Đối với trường hợp cần thiết, do tính phức tạp của vụ việc thì có thể thời hạn
giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự được kéo dài song không vượt quá 30 ngày
(tính từ ngày kết thúc thời hạn để giải quyết khiếu nại).
Về hành vi, quyết định sau khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân
sự thì thời hạn giải quyết khiếu nại là không quá 15 ngày/ đối với lần đầu; và không
quá 30 ngày/ đối với lần hai (tính từ ngày thụ lý đơn khiếu nại).
Đối với trường hợp ở vùng xa, vùng sâu, đi lại khó khăn, lại do tính phức tạp
của vụ việc, thì có thể áp dụng thời hạn giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự
được kéo dài song không quá 30 ngày (tính từ ngày kết thúc thời hạn để giải quyết
khiếu nại).
Với sự phân loại về thời hạn để giải quyết khiếu nại như vậy là phù hợp với
tính chất của giai đoạn thi hành án dân sự, nó vừa không ảnh hưởng đáng kể tới quá
trình thi hành án dân sự; đồng thời vừa bảo vệ được lợi quyền hợp pháp của người
khiếu nại và tạo thuận lợi để khắc phục hậu quả đặt ra- một khi có cơ sở xác định
việc khiếu nại.
Mặt khác, theo Khoản 2 thuộc Điều 45 của Nghị định 135/2013/NĐ-CP ngày
18 tháng 10 năm 2013 có quy định rõ về thời hạn để giải quyết khiếu nại đối với
hoạt động Thừa phát lại:
Đối với khiếu nại thi hành án dân sự, Trưởng Văn phòng Thừa phát lại giải
quyết khiếu nại lần đầu về khiếu nại đối với quyết định, hành vi của Thừa phát lại
thuộc Văn phòng mình có thời hạn không quá 15 ngày (tính từ ngày đã nhận được
khiếu nại). Trong trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của
Trưởng Văn phòng Thừa phát lại, người khiếu nại có quyền khiếu nại tới Cục
33
trưởng Cục THADS cấp tỉnh nơi đặt Văn phòng Thừa phát lại. Cục trưởng Cục
THADS giải quyết khiếu nại lần 02 có thời hạn không quá 30 ngày (tính từ ngày đã
nhận được khiếu nại). Quyết định của Cục trưởng Cục THADS về việc giải quyết
khiếu nại thi hành án dân sự có hiệu lực thi hành.
Cục trưởng Cục THADS cấp tỉnh nơi đặt Văn phòng Thừa phát lại giải quyết
khiếu nại lần đầu về khiếu nại đối với quyết định, hành vi của Trưởng Văn phòng
Thừa phát lại có thời hạn không quá 30 ngày (tính từ ngày đã nhận được khiếu nại).
Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Cục trưởng Cục
THADS, người khiếu nại có quyền khiếu nại lên Tổng cục trưởng Tổng cục
THADS - Bộ Tư pháp. Tổng cục trưởng Tổng cục THADS ra quyết định giải quyết
khiếu nại lần 02 có thời hạn không quá 45 ngày (tính từ ngày đã nhận được khiếu
nại). Quyết định của Tổng cục trưởng Tổng cục THADS về việc giải quyết khiếu
nại thi hành án dân sự có hiệu lực thi hành.
Hai là: Hoàn chỉnh hồ sơ để giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự
Sau khi đã có quyết định về giải quyết khiếu nại THADS, người giải quyết
khiếu nại có nhiệm vụ hoàn chỉnh hồ sơ. Việc lập hồ sơ, lưu trữ hồ sơ phải theo
luật định và được đánh số bút lục, thống nhất sắp xếp theo đúng trình tự về thời
gian: tài liệu có trước thì được đánh số trước và phải lập danh mục hồ sơ có sự phê
duyệt của người ban hành quyết định về xác minh để tạo thuận lợi phục vụ công tác
quản lý giải quyết khiếu nại THADS; cũng như thuận lợi cho việc cung cấp tài liệu
cho các cơ quan đơn vị có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ở các cấp tiếp theo.
Tại Điều 149 của Luật Thi hành án dân sự 2008 đã quy định cụ thể về hồ sơ
giải quyết khiếu nại phải gồm có:
- Văn bản ghi nội dung khiếu nại hoặc đơn khiếu nại;
- Biên bản về việc xác minh, thẩm tra, kết luận và kết quả giám định;
- Văn bản giải trình của đối tượng bị khiếu nại;
- Quyết định về việc giải quyết khiếu nại;
- Những tài liệu khác có liên quan.
34
Nếu người khiếu nại THADS tiếp tục khiếu nại thì hồ sơ này (khi có yêu cầu)
sẽ chuyển lên cơ quan đơn vị có thẩm quyền giải quyết tiếp theo.
Tiểu kết Chương 1
Từ việc xem xét, nghiên cứu những vấn đề lý luận về giải quyết khiếu nại
trong thi hành án dân sự cho thấy: Giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự là
nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, đòi hỏi người làm công tác này phải thật sự nghiên
cứu sâu kỹ các quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại nói chung, giải quyết
khiếu nại trong thi hành án dân sự nói riêng. Từ việc trình bày hệ thống hóa một số
vấn đề lý luận giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự để xác định làm rõ khái
niệm, phân tích làm rõ vai trò của công tác giải quyết khiếu nại trong THADS trong
việc đảm bảo quyền lợi giữa nhiều bên liên quan tới bản án, góp phần đảm bảo
pháp chế XHCN trong lĩnh vực THADS.
35
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM
2.1. Khái quát về tình hình khiếu nại trong thi hành án dân sự trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam.
2.1.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến giải quyết khiếu nại trong thi hành án
dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
Sự lãnh đạo của Đảng ta:
Sự lãnh đạo của Đảng ta đối với Nhà nước và xã hội vốn dĩ là nguyên tắc
hiến định. Theo đó, nói chung tất cả mọi hoạt động tư pháp và nói riêng với hoạt
động THADS phải dưới sự lãnh đạo định hướng của Đảng ta. Tại Nghị quyết
08/NQ-TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị về việc ban hành một số nhiệm vụ
trọng tâm trong công tác trong thời gian tới, trong đó có định hướng rõ: thành lập
cảnh sát tư pháp dựa trên cơ sở ngành công an hiện có nhằm hỗ trợ công tác
THADS, khẩn trương ban hành bộ luật tố tụng dân sự, Luật THADS, bộ luật tố
tụng hình sự,… nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan tư pháp hoạt động. Với
định hướng này đối với lĩnh vực THADS trong công tác lãnh đạo của Đảng ta, nó
mang tầm ý nghĩa chiến lược đối với hệ thống hoạt động của ngành THADS, bao
gồm cả việc hoàn thiện hệ thống pháp luật để thực hiện công tác giải quyết KN về
THADS.
Dựa trên cơ sở chủ trương quan điểm định hướng của Đảng, Quốc hội đã thể
chế hóa bằng việc ban hành Luật THADS 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành;
năm 2014, Quốc hội tiếp tục thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
THADS để đáp ứng tình hình mới. Nhờ đó tạo nên hành lang pháp lý đối với lĩnh
vực THADS thông qua việc quy định rõ về nghĩa vụ và quyền của những chủ thể
tham gia trong quá trình tổ chức THADS; trong quá trình giải quyết KN về
THADS và thực hiện KN.
Hơn nữa, mức độ hiệu quả, chất lượng công tác giải quyết KN về THADS
của thủ trưởng cơ quan THADS còn phụ thuộc nhiều vào sự lãnh đạo của cấp ủy
36
đảng cơ quan THADS.
Mức độ hoàn chỉnh hệ thống chính sách pháp luật đối với lĩnh vực THADS
và pháp luật hiện hành về việc giải quyết khiếu nại THADS.
Nguyên tắc pháp chế XHCN yêu cầu cả người giải quyết KN và người KN
đều phải dựa trên cơ sở pháp luật mà thực hiện. Nên hiệu quả và chất lượng của
công tác giải quyết KN về THADS phụ thuộc vào mức độ hoàn chỉnh và tính đồng
bộ của hệ thống pháp luật về THADS và pháp luật về việc giải quyết KN.
Trách nhiệm công vụ và ý thức pháp luật trong quá trình giải quyết KN về
THADS.
Trách nhiệm công vụ và ý thức pháp luật trong giải quyết KN về THADS là
yếu tố căn bản để giúp cho chủ thể có thẩm quyền tổ chức giải quyết KN về
THADS, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng chất lượng và hiệu quả công tác
giải quyết KN trong thi hành án dân sự. Thủ trưởng cơ quan đơn vị THADS theo
thẩm quyền thực hiện giải quyết khiếu nại đòi hỏi họ: phải nắm vững pháp luật hiện
hành và đề cao ý thức tuân thủ pháp luật, phải đề cao trách nhiệm công vụ trong
công tác đánh giá khách quan và trung thực để tránh rơi vào tình trạng duy ý chí,
chủ quan khi thực thi thẩm quyền của mình trong công tác giải quyết KN.
Hoạt động kiểm tra, giám sát của Nhà nước và xã hội trong giải quyết KN
về THADS.
Đây là yếu tố có sự tác động ảnh hưởng rất nhiều đối với công tác giải quyết
KN trong THADS. Chỉ có bằng công tác giám sát, kiểm tra thì quá trình giải quyết
KN trong THADS mới luôn kịp thời đôn đốc, phát hiện nhắc nhở điều chỉnh nhằm
giúp quá trình đó thực hiện đúng quy trình thủ tục quy định, tránh tình trạng giải
quyết cho xong, lấy lệ hoặc “câu dầm”. Công tác kiểm tra, giám sát của cơ quan
đơn vị và cộng đồng xã hội đối với quá trình giải quyết KN trong THADS của thủ
trưởng cơ quan đơn vị THADS còn là thước đo về mức độ thực hiện dân chủ, mà
nhờ đó quyền giám sát của nhân dân được phát huy, cũng như góp phần tạo dựng
niềm tin của người dân đối với cơ quan công quyền và đội ngũ cán bộ công chức về
lĩnh vực THADS.
37
Dưới sự tác động ảnh hưởng của kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế.
Đây là yếu tố có ảnh hưởng chi phối tất yếu phải tính đến, bởi sự tăng tiến
của hội nhập quốc tế và sự vận động của kinh tế thị trường khiến những tranh chấp
kinh tế, lao động và dân sự... phát sinh ngày càng nhiều với sự phức tạp mà khó
tránh khỏi. THADS vốn dĩ đồng chiều với sự phát triển xã hội, nên không tránh
khỏi các hoạt động ngày càng liên quan tới nhiều tổ chức kinh tế, cá nhân (kể cả
yếu tố nước ngoài). Vì vậy, nhu cầu thuận lợi và an toàn của cá nhân, tổ chức,
doanh nghiệp (kể cả nhà đầu tư nước ngoài) là sự mong đợi, nên mong muốn hiệu
lực thực thi pháp luật về khiếu nại, tố cáo và về công tác giải quyết khiếu nại
THADS để đảm bảo tính bình đẳng trước pháp luật.
Bên cạnh đó, xu thế hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa và kinh tế thị trường
luôn đặt ra tất yếu khách quan phải hạch toán yếu tố nước ngoài vào việc hoàn
chỉnh pháp luật đối với nước sở tại.
2.1.2. Tình hình khiếu nại trong thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam.
Khiếu nại là hiện tượng tất yếu khách quan nảy sinh trong quá trình quản lý
nhà nước trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Quá trình quản lý nhà nước không
thể tránh khỏi tình trạng sẽ có những vi phạm pháp luật xâm phạm đến lợi ích Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Thông qua việc
người dân khiếu nại và việc giải quyết khiếu nại của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, các hiện tượng tiêu cực và vi phạm pháp luật sẽ được phát hiện, xử lý kịp
thời. Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, khiếu nại và giải quyết khiếu nại được thực
hiện theo quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2014, cụ thể đã dành 14 Điều
(từ Điều 140 đến 153) quy định cụ thể về trình tự, thủ tục và giải quyết khiếu nại về
thi hành án dân sự.
Qua theo dõi công tác giải quyết khiếu nại tố cáo về thi hành án dân sự trên
địa bàn tỉnh Quảng Nam cho thấy trong những năm qua, đã có một số lượng lớn
38
đơn thư của cơ quan, tổ chức và công dân liên quan đến lĩnh vực thi hành án dân sự
được tiếp nhận và giải quyết, cụ thể:
- Năm 2015, toàn tỉnh tiếp nhận 64 đơn khiếu nại thuộc 60 việc THA, đã thụ
lý giải quyết 39 đơn KN thuộc 34 việc, đã giải quyết xong 39 đơn thuộc 34 việc,
đạt tỷ lệ 100% (trích “ Báo cáo tổng kết công tác THADS, Thi hành án hành chính
năm 2015, Cục THADS tỉnh Quảng Nam”)
- Năm 2016 các cơ quan thi hành án dân sự của tỉnh đã nhận tổng số 75 đơn
khiếu nại tương đương 69 việc, tăng 11 đơn so với năm 2015, đã thụ lý 42 đơn
khiếu nại thuộc 32 việc; Đã giải quyết xong 41 đơn thuộc 31 việc khiếu nại, đạt tỷ
lệ 97,6 %, chuyển kỳ sau giải quyết 01 đơn (trích “ Báo cáo tổng kết công tác
THADS, Thi hành án hành chính năm 2016, Cục THADS tỉnh Quảng Nam”)
- Năm 2017 toàn tỉnh tiếp nhận tổng số 67 đơn tương đơn 54 vụ việc , thư
khiếu nại về thi hành án dân sự, giảm 08 đơn so với năm 2015, đã thụ lý 39 đơn
khiếu nại thuộc 26 việc, kết quả đã giải quyết 39/39 đơn khiếu nại, tỷ lệ 100%
(trích “ Báo cáo tổng kết công tác THADS, Thi hành án hành chính năm 2017, Cục
THADS tỉnh Quảng Nam”)
- Năm 2018 toàn tỉnh tiếp nhận 54 đơn khiếu nại về THADS tương đương
52 việc, giảm 13 đơn so với năm 2017, đã thụ lý 26 đơn gồm 17 việc, kết quả giải
quyết 25/26 đơn thụ lý, đạt tỷ lệ 97%, chuyển kỳ sau giải quyết 01 đơn, tỷ lệ 0,3%
(trích “ Báo cáo tổng kết công tác THADS, Thi hành án hành chính năm 2018, Cục
THADS tỉnh Quảng Nam”)
- Năm 2019, tổng số đơn, thư khiếu nại tiếp nhận của toàn tỉnh là 82 đơn
tương đương 76 việc THA, tăng 28 đơn so với năm 2018, đã thụ lý 51 đơn, tương
ứng với 47 việc. Đã giải quyết 51 đơn, đạt tỷ lệ 100% (trích “ Báo cáo tổng kết
công tác THADS, Thi hành án hành chính năm 2019, Cục THADS tỉnh Quảng
Nam”)
Nhìn chung, số đơn khiếu nại có xu hướng gia tăng theo từng năm, có nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân cơ bản là số việc và tiền phải thi hành năm
sau cao hơn năm trước, quy mô lớn hơn và tính chất phức tạp hơn, bên cạnh đó, có
39
nhiều vụ án quy mô lớn, tính chất phức tạp, liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân.
Cục THADS đã trung giải quyết và chỉ đạo các cơ quan thi hành án dân sự địa
phương giải quyết dứt điểm đối với các vụ việc khiếu nại, nhờ đó, kết quả tiếp tục
được duy trì bền vững.
Nội dung khiếu nại thường gặp là khiếu nại về việc chậm tổ chức THA, về
việc cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản THA, ra quyết định thi hành án, về việc thông
báo thi hành án; việc thanh toán tiền thi hành án, về việc định giá tài sản, về việc
xác minh điều kiện thi hành án ,về đấu giá tài sản, về việc trả đơn yêu cầu thi hành
án. Đối với việc xác định những vụ việc KN về THADS đã có sự phân loại tương
đối phù hợp và cải thiện đáng kể chất lượng trong công tác giải quyết KN; thực
hiện các bước quy trình trong công tác giải quyết KN về THADS, cụ thể là: xác
minh, tiến hành đối thoại trực tiếp với công dân để thu thập các bằng chứng, lập
luận lý lẽ trên cơ sở pháp lý hiện hành nhằm giải quyết đúng đắn và bảo đảm nội
dung khiếu nại.
Thông qua công tác giải quyết KN về THADS, tiến hành tuyên truyền phổ
biến chính sách pháp luật hiện hành liên quan tới những nội dung khiếu nại của các
bên đương sự. Có khá nhiều trường hợp sau khi được phổ biến, giải thích và hiểu
rõ pháp luật hiện hành, đương sự đã rút đơn KN về THADS. Mặt khác, các trường
hợp buộc phải ban hành quyết định về việc giải quyết KN về THADS, thì trên thực
tế hầu hết có nội dung tố cáo, khiếu nại của người khiếu nại thường không đúng với
sự thật, dẫn đến không được chấp nhận.
2.2. Khái quát về công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
KNTC là những quyền cơ bản của công dân và giải quyết khiếu nại là trách
nhiệm của nhà nước, điều này đã được Hiến pháp, pháp luật ghi nhận, bảo đảm
thực hiện. Đối với lĩnh vực thi hành án dân sự, làm tốt công tác giải quyết khiếu nại
có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm các bản án, quyết định của Tòa án được
tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của
pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức,
40
cá nhân. Chính vì vậy, công tác giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực THADS luôn
được Đảng, Nhà nước, Lãnh đạo Bộ tư pháp quan tâm chỉ đạo, quán triệt thực hiện
nghiêm nên công tác giải quyết khiếu nại trong THADS trrên địa bàn tỉnh Quảng
Nam đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận.
Với tỉnh Quảng Nam, các cơ quan đơn vị THADS của 5 năm trở lại đây đã
thi hành án với số số lượng đáng kể có giá trị lớn về tiền. Theo báo cáo thống kê
đến hết năm 2019, số lượng những vụ việc đưa ra thi hành, bắt đầu:
Năm 2015 có 8.768 vụ việc, quy thành tiền tương ứng 1.430.657.000 đồng;
Năm 2016 có 9.168 vụ việc, quy thành tiền tương ứng 1.59.135.256.000
đồng;
Năm 2017 có 9.398 vụ việc, quy thành tiền tương ứng 1.687.036.352.000
đổng;
Năm 2018 có 9.637 việc, quy thành tiền tương ứng 1.817.698.563.000 đồng;
Năm 2019 có 10.282 việc, quy thành tiền tương ứng 1.984730.518.000
đồng.
Về kết quả ở địa bàn tỉnh Quảng Nam, tỷ lệ vụ việc được giải quyết KN
trong THADS > 97%. Trong số này, có một số vụ việc KN là đúng một phần; có
một số vụ việc KN được kết luận là đúng hoàn toàn; song cũng có vụ việc là sai
toàn bộ. Về căn bản, công tác giải quyết KN về THADS đã đạt tỷ lệ tương đối cao;
qua đó đóng góp tích cực vào sự gia tăng THADS, tạo dựng niềm tin của các
đương sự tham gia vào quá trình THADS.
2.2.1. Về công tác tiếp công dân để giải quyết khiếu nại
Kể từ khi có hiệu lực Luật Tiếp công dân 2013, Cục Thi hành án dân sự tỉnh
Quảng Nam đã tổ chức thực hiện tới các cơ quan đơn vị THADS dưới cấp; cùng
với việc yêu cầu cả hệ thống cơ quan này thiết lập Quy chế tiếp dân. Kể từ đó, công
tác tiếp công dân đã được quan tâm chú trọng trong việc bố trí sắp xếp cán bộ,
Thẩm tra viên tiếp dân đối với những ngày làm việc trong tuần. Theo đó, Thẩm tra
viên tiếp dân đã lắng nghe ghi chép gần như đầy đủ các nội dung mà công dân trình
bày; đồng thời tích cực hướng dẫn công dân trình đơn (đúng với trình tự quy định)
41
tới những cơ quan đơn vị có chức năng và có thẩm quyền. Mặt khác, Cục Thi hành
án dân sự cấp tỉnh đã từng bước tiếp dân một cách nghiêm túc, đầy đủ qua các kỳ
tiếp dân của UBND tỉnh Quảng Nam. Tính tới nay, tỉnh Quảng Nam đã đảm bảo
100% Chi cục Thi hành án dân sự đều đã có quy chế hoạt động tiếp công dân. Kể
từ đó, công tác tiếp dân được tổ chức theo dõi có tính khoa học và hệ thống, mà Sổ
tiếp công dân là một điển hình.
Theo thống kê về công tác tiếp công dân, trong 5 năm, toàn tỉnh thực hiện gần
1000 lượt tiếp công dân tại trụ sở các cơ quan THADS để khiếu nại về 311 vụ việc.
Có nhiều trường hợp, tại buổi tiếp công dân đã thực hiện việc đối thoại, giải thích
tận tường về các quy định trong công tác THADS, về việc làm của cơ quan
THADS và CHV nên đương sự đã hiểu và tự nguyện rút đơn KN và hợp tác để tổ
chức thi hành vụ việc.
2.2.2. Kỹ năng tiếp nhận, phân loại, xử lý đơn thư khiếu nại về thi hành án
dân sự
Nhiều năm qua, Cục THADS tỉnh Quảng Nam đã từng bước hướng dẫn các Chi
cục THADS trên địa bàn trong việc phân loại đơn thư theo nội dung: KN các quyết
định THA, KN về việc không được thông báo các quyết định, giấy tờ về THA theo
quy định của pháp luật, KN về việc tổ chức cưỡng chế THA, KN về thanh toán tiền
THA, KN việc giải quyết KN về THADS.
Thứ nhất: Đối với đơn KN về các quyết định THADS
Qua theo dõi công tác giải quyết KN về THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
thời gian qua cho thấy, đương sự cũng KN nhiều đối với các quyết định THA như:
như Quyết định thi hành án, quyết định cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản THA,
quyết định ủy thác THA, quyết định về việc chưa có điều kiện THA, quyết định
giảm giá tài sản THA… Đơn khiếu nại các quyết định thi hành án chiếm 17% tổng
số các đơn khiếu nại về THADS.
Bà Thân Thị Thu Minh khiếu nại Quyết định chưa có điều kiện thi hành án số
72/QĐ-CCTHAS ngày 07/7/2016 của Chi cục trưởng Chi cục THADS thành phố
Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
42
Bà Thân Thị Thu Minh, địa chỉ: Số nhà 93, đường Trần Đại Nghĩa, phường
Tân Thạnh, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam là người được thi hành án theo
Bản án sơ thẩm số 50/2015/DSST ngày 17/7/2015 của Tòa án nhân dân thành phố
Tam Kỳ, Bản án phúc thẩm số 19/2016/DSPT ngày 10/3/2016 của Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Nam và Quyết định thi hành án số 440/QĐ-CCTHADS ngày
01/4/2016 của Chi cục trưởng Chi cục THADS thành phố Tam Kỳ.
Ngày 07/7/2016, Chấp hành viên tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của
bà Bùi Thị Nhung tại Ủy ban nhân dân phường Tân Thạnh, thành phố Tam Kỳ, tỉnh
Quảng Nam thể hiện: “Hiện nay, bà Bùi Thị Nhung đang sinh sống tại khối phố Mỹ
Thạch Trung, phường Tân Thạnh, thành phố Tam Kỳ. Bà Bùi Thị Nhung có chồng
là ông Huỳnh Thời và 02 người con (tất cả đã lớn), bản thân ông Thời và bà Nhung
không có nghề nghiệp ổn định. Gia đình bà Nhung có 01 ngôi nhà tại số 17 Trần
Đại Nghĩa, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, ngôi nhà này bà Nhung đã bán
cho bà Bùi Thị Xuân Nguyên năm 2015, ngoài ra bà Nhung không còn tài sản gì có
giá trị tại địa phương để đảm bảo thi hành án”.
Trên cơ sở kết quả xác minh điều kiện thi hành án, ngày 07/7/2016, Chi cục
Thi hành án dân sự thành phố Tam Kỳ ban hành Quyết định số 72/QĐ-CCTHADS
xác định việc chưa có điều kiện thi hành án đối với bà Bùi Thị Nhung đối với
khoản nợ phải trả cho bà Thân Thị Thu Minh là 120.873.424 đồng và khoản lãi
chậm thi hành án.
Không chấp nhận Quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án số 72/QĐ-
CCTHADS của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tam Kỳ, ngày 14/7/2016, bà
Thân Thị Thu Minh có đơn khiếu nại Quyết định chưa có điều kiện thi hành án số
72/QĐ-CCTHADS của Chi cục. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam đã ban
hành Quyết định giải quyết khiếu nại số 635/QĐ-CTHADS ngày 22/8/2016, với
nội dung: Chấp nhận khiếu nại của bà Thân Thị Thu Minh về việc khiếu nại Quyết
định về việc chưa có điều kiện thi hành án số 72/QĐ-CCTHADS ngày 07/7/2016
của Chi cục, yêu cầu Chi cục thu hồi Quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành
43
án số 72/QĐ-CCTHADS ngày 07/7/2016 đã ban hành, tiếp tục xác minh tài sản của
bà Bùi Thị Nhung theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự để xử lý vụ việc.
Lý do thu hồi:
- Chưa thể ngôi nhà số 17 Trần Đại Nghĩa, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng
Nm có phải thuộc thửa đất số lô 313, tờ bản đồ số 00, KDC số 6, diện tích
112,2m2 đất ở đô thị, phường Tân Thạnh, thành phố Tam Kỳ theo giấy chứng nhận
số BK064735 do UBND thành phố Tam Kỳ cấp ngày 10/8/2012 hay không.
- Biên bản xác minh điều kiện thi hành án ngày 07/7/2016 của Chấp hành
viên được phân công tổ chức thi hành án chưa tuân thủ đúng quy định tại Điểm b,
Khoản 4, Điều 44 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm
2014, khi xác minh diều kiện thi hành án, Chấp hành viên có trách nhiệm sau đây:
“ Xác minh đầy đủ cụ thể tài sản, thu nhập, các điều kiện khác để thi hành án; đối
với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm thì
còn phải xác minh tại cơ quan có chức năng đăng ký tài sản, giao dịch đó”.
Như vậy, việc buộc Chi cục thu hồi Quyết định về việc chưa có điều kiện thi
hành án số 72/QĐ-CCTHADS ngày 07/7/2016 là do việc xác minh chưa rõ địa chỉ
tài sản và nơi tiến hành xác minh chưa đầy đủ, chưa đúng luật định. Không phải là
do bà Nhung có tài sản mà ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án.
Thứ hai: Đơn KN đối với việc không được thông báo với những giấy tờ, quyết
định về THADS theo luật định
Qua công tác kiểm tra và giải quyết KN về THADS, nhiều đương sự KN cơ
quan THADS chậm trễ trong việc thông báo cho đương sự như: Văn bản ban hành
hàng tháng sau mới gửi cho đương sự. Đơn KN này chiếm 11% tổng số đơn KN.
Ông Trương Văn Nhiều, địa chỉ: Thôn Phước Định, xã Đại Đồng, huyện Đại
Lộc, tỉnh Quảng Nam là người phải thi hành án theo Bản án sơ thẩm số
203/2018/DS-ST ngày 23/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng
Nam về khoản: Buộc ông Trương Văn Nhiều phải thi hành số tiền 89.000.000đồng
về khoản bồi thường sức khỏe cho ông Nguyễn Hữu Vinh, trú cùng thôn. Chi cục
44
THADS huyện Đại Lộc ban hành Quyết định THA số 467/QĐ-CCTHADS và giao
CHV tổ chức thi hành.
Chấp hành viên tiến hành các trình tự, thủ tục thi hành án theo luật định, tiến
hành giao Quyết định thi hành án và thông báo về việc tự nguyện THA cho người
phải thi hành án là ông Trương Văn Nhiều. Nhưng ông Nhiều thuộc diện là người
độc thân, sống một mình, không có người thân thích và luôn có thái độ chống đối
không chịu thi hành bản án, do vậy ông luôn trốn tránh, cố tình vắng mặt khi CHV
đến giao Quyết định thi hành án.
Vì không thực hiện được việc thông báo trực tiếp nên CHV tiến hành niêm
yết công khai theo quy định của pháp luật.
Quá thời gia tự nguyện THA, CHV tiến hành triệu tập ông Nhiều đến làm
việc để giải quyết việc thi hành án, qua nhiều lần triệu tập thì ông Nhiều đến cơ
quan THADS để làm việc nhưng có đơn khiếu nại về việc không được thông báo
và nhận các văn bản thông báo thi hành án.
Chi cục THADS huyện Đại Lộc đã thụ ý giải quyết KN và ra Quyết định giải
quyết KN, nội dung bác đơn KN của ông Trương Văn Nhiều.
Thứ ba: Đơn khiếu nại việc cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản THA
Theo thống kê của Phòng kiểm tra, giải quyết KN, tố cáo - Cục THADS tỉnh
Quảng Nam, hiện nay trên địa bàn tỉnh Quảng Nam có nhiều vụ KN liên quan đến
cưỡng chế kê biên tài sản, cưỡng chế giao tài sản bán đấu giá, chiếm 26% tổng số
đơn KN. Song với nỗ lực của Cục Thi hành án dân sự tỉnh đã chỉ đạo giải quyết khá
triệt để đối với hầu hết các vụ việc.
Nghiên cứu trường hợp bà Trần Xuân Phượng ở tại xã Quế Trung của huyện
Nông Sơn (Quảng Nam), khi Chấp hành viên của Chi cục Thi hành án dân sự của
huyện Nông Sơn thực hiện cưỡng cưỡng chế bán đấu giá tài sản là QSDĐ gắn liền
nhà ở trên đất, song lại không giải quyết đầy đủ quyền lợi của bà Phượng - vì lý do
là đồng sở hữu chung với người đang phải thi hành án. Từ vụ việc này, mặc dù Tòa
án các cấp đã xét xử và tiến hành thủ tục giám đốc thẩm để hủy bản án để tái xét
xử, song bà Phượng quyết liệt chống đối vì không đồng ý giao tài sản cho người
45
mua đã đấu giá. Trong trường hợp này, người KN đã gửi đơn KN, TC tới nhiều nơi
và có không ít lần đến trực tiếp Phòng tiếp dân trực thuộc Cục Thi hành án dân sự
cấp tỉnh đề nghị can thiệp và gặp Lãnh đạo của Cục Thi hành án dân sự nhằm yêu
cầu giải quyết. Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh trong buổi tiếp công dân đã mời
đại diện Viện KSND cấp tỉnh và UBND cấp tỉnh để tổ chức đối thoại với bà
Phượng,. Trong quá trình làm việc, từ việc phân tích và giải thích làm rõ pháp luật
hiện hành đã giúp cho bà Phượng đã hiểu, thống nhất tự nguyện rút lại đơn KN và
đã hoàn toàn tự nguyện bàn giao tài sản để THADS.
Thứ tư: Đơn khiếu nại về việc chậm tổ chức thi hành án
Do trong quá trình tổ chức thi hành án, các đương sự nôn nóng và mong muốn
được sớm tổ chức thi hành bản án để bảo về quyền, lợi ích hợp pháp của mình mà
không để ý đến việc tổ chức thi hành một bản án, CHV phải tuân thủ một quy trình,
trình tự, thủ tục luật định chặt chẽ để đảm bảo bản án được tổ chức thi hành một
cách công bằng, khách quan, công khai, minh bạch và đảm bảo quyền, lợi ích một
cách cao nhất của các bên đương sự, cho rằng CHV cố tình kéo dài thời gian tổ
chức thi hành án nên tiến hành việc khiếu nại CHV chậm tổ chức thi hành án cho
họ.
Kết quả thống kê cho thấy KN chậm tổ chức thi hành án chiếm 34 % tổng số
đơn khiếu nại từ năm 2015 đến năm 2019 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Bà Đỗ Thị Thu Hồng là người được THA theo Bản án DSST số
191/2019/DS-ST ngày 15/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Tiên Phước, tỉnh
Quảng Nam. Ngày 22/5/2019, Chi cục THADS huyện Tiên Phước ban hành Quyết
định thi hành án số 356/QĐ-CCTHADS về khoản buộc ông Đỗ Thanh Minh phải
thối trả cho bà Hồng số tiền 300.000.000đồng và giao CHV tổ chức thi hành, CHV
tiến hành các bước trình tự, thủ tục theo luật định để tổ chức thi hành án.
Hết thời hạn THA, Chấp hành viên tiến hành xác minh điều kiện thi hành án
của người phải thi hành án để có kế hoạch tổ chức thi hành. Trong thời gian CHV
tiến hành xác minh các điều kiện về tài sản, thu nhập của người phải thi hành án thì
46
bà Hồng có đơn khiếu nại CHV chậm tổ chức thi hành bản án và không buộc ông
Minh phải thực hiện nghĩa vụ thối trả 300.000.000đồng cho mình.
Chi cục THADS huyện Tiên Phước, trên cơ sở báo cáo của CHV và căn cứ hồ
sơ THA đã thụ lý giải quyết đơn khiếu nại của bà Hồng. Kết quả, Chi cục THADS
huyện Tiên Phước bác nội dung khiếu nại của bà Hồng vì không có căn cứ cho rằng
CHV chậm tổ chức thi hành bản án.
Năm là: Đơn khiếu nại về thanh toán tiền thi hành án
Đây là trường hợp KN chủ yếu liên quan đến người được THA, chiếm 9%
tổng số đơn KN. Trong đó, nội dung khiếu nại lại chậm được giải quyết trong khi
cơ quan Thi hành án dân sự trên thực tế đã thu tiền thi hành án, không được ưu tiên
thanh toán và cũng không được thanh toán khoản lãi chậm thi hành án theo đúng
quyết định, bản án của Tòa.
Ông Nguyễn Thanh Bình là người được thi hành án theo Bản án sơ thẩm số
67/2019/DS-ST ngày 14/5/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hội An, tỉnh
Quảng Nam, theo đó, bản án tuyên ông Bình được nhận số tiền 20.000.000đồng.
CHV tiến hành các bước trình tự, thủ tục tổ chức thi hành án, sau khi xác
minh thu nhập của người phải thi hành án, CHV đã tiến hành thủ tục khấu trừ một
phần thu nhập qua lương của người phải thi hành án và tiến hành thanh toán khoản
án phí DSST.
Biết CHV thu được khoản tiền qua khấu trừ lương của người phải thi hành án
nhưng không thực hiện chi trả cho mình thì tiến hành khiếu nại việc CHV không ưu
tiên thanh toán cho mình. Chi cục THADS thành phố Hội An đã bác đơn khiếu nại
của ông Bình theo quy định tại Điều 47 Luật THADS năm 2014.
Sáu là: Đơn KN về việc giải quyết KN trong THADS
Trên địa bàn tỉnh Quảng Nam vẫn còn nhiều trường hợp đương sự KN các cơ
quan, cá nhân khác nhau như bản án tuyên có sai sót, yêu cầu giám đốc thẩm, tái
thẩm bản án đang được thi hành. Tuy rằng, cơ quan đơn vị Thi hành án dân sự đã
trả lời bằng văn bản và giải thích, hướng dẫn song bên đương sự cứ tiếp diễn khiếu
nại (đơn khiếu nại này khoảng 3% tổng số đơn khiếu nại). Vì vậy, việc đương sự
47
khiếu nại chưa đến đúng người có thẩm quyền giải quyết theo luật định đang còn
diễn ra thời gian qua và xu hướng gia tăng.
Theo Bản án dân sự phúc thẩm 101/DSPT ngày 16/02/2017 của Tòa án nhân
dân tỉnh Quảng Nam tuyên buộc bà Trương Thị Hồng, Khu phố 2, thị trấn Hà Lam,
huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam phải trả cho bà Dương Thị Thu, Khu phố 7,
thị trấn Hà Lam, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam số tiền 678.000.000 đồng và
lãi suất chậm THA. Bản án có hiệu lực pháp luật, bà Thu có đơn yêu cầu THA, Chi
cục trưởng Chi cục THADS huyện Thăng Bình quyết định THA số 167/QĐ-THA
ngày 13/4/2017 và tiến hành các trình tự, thủ tục theo quy định. Trong quá trình thi
hành án dân sự, bà Hồng KN đối với người CHV trong kê biên, bán đấu giá tài sản
là nhà đất của gia đình bà Hồng là không đúng luật định, vì bà đang trong thời gian
khiếu nại xin giám đốc thẩm Bản án dân sự phúc thẩm. Ngày 20 tháng 6 năm 2017,
Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thăng Bình ban hành quyết định
12/QĐ-THA về việc giải quyết khiếu nại bác đơn KN của bà Hồng. Tuy nhiên, vẫn
không đồng ý với quyết định 12/QĐ-THA của Chi cục trưởng Chi cục THADS
huyện Thăng Bình, bà Hồng đã tiếp tục khiếu nại tới Cục trưởng Cục Thi hành án
dân sự tỉnh Quảng Nam. Ngày 14 tháng 8 năm 2017, Cục trưởng Cục THADS tỉnh
đã ban hành quyết định 25/QĐ-GQKN về giải quyết khiếu nại bác đơn khiếu nại
của bà Hồng; và đồng thời giữ nguyên quyết định 12/QĐ-THA.
Về giải quyết khiếu nại đối với những vụ việc khiếu nại phức tạp, kèo dài:
Theo thống kê tình hình, kết quả giải quyết những vụ việc KN phức tạp, kéo dài
cho thấy: Trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ trước đến nay chưa có Đơn khiếu nại về
THADS phức tạp, kéo dài.
2.2.3. Công tác quản lý việc giải quyết KN về THADS
Hằng năm, thực hiện Kế hoạch công tác năm đã được Tổng cục THADS phê
duyệt, Cục THADS tỉnh Quảng Nam đã ban hành Kế hoạch công tác kiểm tra
THADS, theo dõi Thi hành án hành chính của mỗi năm, theo đó thực hiện công tác
kiểm tra đối với Chi cục THADS huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh theo chỉ tiêu
quy định của Tổng cục THADS và kế hoạch tự kiểm tra của Cục, đồng thời chỉ đạo
48
100% các Chi cục THADS cấp huyện có kế hoạch tự kiểm tra nội bộ đơn vị hằng
năm, có kế hoạch tự kiểm tra và kết luận tự kiểm tra báo cáo Cục THADS quản lý,
chỉ đạo.
Cục THADS tỉnh Quảng Nam theo hàng quý, hàng tháng định kỳ cũng đã chỉ
đạo Phòng Kiểm tra giải quyết khiếu nại, tố cáo phối hợp để tổng hợp chính xác về
tình hình thực hiện giải quyết khiếu nại tại địa bàn.
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam đã tăng cường chỉ đạo tổ chức quán
triệt và hướng dẫn đối với Chi cục THADS cấp huyện nhằm thực hiện tốt công tác
phối hợp phổ biến tuyên truyền pháp luật. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam
những năm qua cũng đã có các sáng kiến trong in ấn, sáng tác những tờ rơi súc tích,
ngắn gọn, dễ hiểu, có hình thức tạo được ấn tượng đẹp nhằm phổ biến tuyên truyền
tới mọi người dân về thủ tục khiếu nại đặt tại Phòng tiếp công dân của Cục và Chi
cục, bộ phận Tiếp nhận và hoàn trả hồ sơ để công dân có nhiều thuận tiện tiếp cận
tìm hiểu.
Đối với công tác theo dõi đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc áp dụng pháp luật
hiện hành về khiếu nại trong thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Nam những năm
qua cũng được chú trọng thực hiện, nên đã kịp thời phát hiện các thiếu sót/ bất cập
và từng bước khắc phục đối với những trường hợp cảm tính/ tùy tiện khi áp dụng;
cũng như xử lý các sai phạm đáng tiếc đã xảy ra.
2.2.4. Công tác phối hợp liên ngành trong công tác giải quyết khiếu nại về
thi hành án dân sự được các cấp, các ngành quan tâm hơn
Tình hình, kết quả triển khai thực hiện các Quy chế phối hợp liên ngành:
Ngày 20/10/2013 Cục THADS tỉnh đã triển khai ký kết Quy chế số 01/QC-
CTHADS- TAND-VKSND-CA phối hợp liên ngành trong THADS giữa 4 cơ quan
Thi hành án dân sự - Toà án nhân dân - Viện kiểm sát nhân dân - Công an nhằm
tiếp tục nâng cao chất lượng công tác THADS nói chung và công tác giải quyết KN
về THADS nói riêng trên địa bàn tỉnh.
Trước tình trạng một vài đương sự có hành vi lợi dụng công tác tiếp dân trong
giải quyết khiếu nại đối với một số vụ việc để gây rối tại trụ sở cơ quan đơn vị
49
THADS, chính quyền tỉnh Quảng Nam đã kịp thời chỉ đạo cơ quan đơn vị Thi hành
án dân sự phối hợp với cơ quan Công An, Viện KSND tổ chức tuyên truyền, vận
động, đối thoại và giải thích pháp luật cho các đương sự này nhận thức để hiểu
đúng đề và chấp hành tuân thủ pháp luật.
Về công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự được
thực hiện thường xuyên. Cơ sở pháp lý của công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu
nại về thi hành án dân sự chủ yếu dựa vào ba văn bản sau: Luật Tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân (VKSND) năm 2014 (khoản 2, 3 Điều 4; khoản 1, 2 Điều 30); Luật
Thi hành án dân sự năm 2014 (Điều 159); Quy chế công tác kiểm sát thi hành án
dân sự, thi hành án hành chính ban hành kèm theo Quyết định số 810/QĐ-VKSTC
ngày 20/12/2016 của VKSND tối cao (Điều 26).
Hằng năm, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp luôn thực hiện việc kiểm sát
THADS, thông qua đó thực hiện việc kiểm sát chuyên đề việc giải quyết khiếu nại
trong THADS. Cụ thể: Khi cơ quan THADS ban hành Thông báo thụ lý đơn khiếu
nại THADS, ban hành quyết định giải quyết khiếu nại thì phải gửi cho Viện kiểm
sát nhân dân cùng cấp; thực hiện việc báo cáo, cung cấp thông tin để Viện kiểm sát
trả lời đơn công dân khi có yêu cầu; định kỳ báo cáo thống kê số liệu công tác giải
quyết khiếu nại để Viện kiểm sát nhân dân theo dõi và báo cáo cấp trên…
2.2.5. Công tác báo cáo, thống kê, tổng hợp số liệu, tình hình giải quyết đơn
thư KN trong THADS
Theo Quy chế giải quyết KN, tố cáo về THADS (Ban hành kèm theo Quyết
định số 1318/QĐ-TCTHADS ngày 30/9/2013 của Tổng cục trưởng Tổng cục
THADS), Cục THADS tỉnh Quảng Nam đã thực hiện chế độ báo cáo như sau:
Chi cục Thi hành án dân sự của các huyện, thị, thành phố thuộc tỉnh Quảng
Nam đã thực hiện đúng định kỳ việc báo cáo công tác giải quyết khiếu nại THADS
(báo cáo tháng, báo cáo quý, báo cáo sáu tháng và báo cáo năm) gửi về Phòng
Kiểm tra và giải quyết KN,TC của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam để tổng
hợp và theo dõi tình hình hoạt động. Từ cơ sở này, Cục Thi hành án dân sự tỉnh đã
tổng hợp và thực hiện nghiêm túc, kịp thời việc định kỳ báo cáo công tác giải quyết
50
khiếu nại THADS (báo cáo tháng, báo cáo quý, báo cáo sáu tháng và báo cáo năm)
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, gửi về Vụ Giải quyết KN,TC của Tổng cục THADS.
Đối với tỉnh Quảng Nam, những năm qua thường gặp một số báo cáo đột xuất
về tình hình giải quyết khiếu nại theo yêu cầu của cấp trên. Bởi khi xảy đến có đơn
khiếu nại về THADS của đương sự, thì cơ quan Thi hành án dân sự và người có
nghĩa vụ và quyền lợi liên quan yêu cầu đề nghị: cơ quan đơn vị THADS cấp dưới
phải báo cáo rõ về tình hình sự việc hoặc Chấp hành viên giải quyết hồ sơ.
Thực tế trên địa bàn Quảng Nam của các năm trở lại đây, công tác giải quyết
khiếu nại trong thi hành án dân sự đã có sự chuyển biến tích cực. Minh chứng đã
cho thấy, kết quả 05 năm từ 2015-2019 về việc giải quyết khiếu nại trong thi hành
án dân sự tại tỉnh Quảng Nam của hệ thống cơ quan đơn vị THADS qua bảng 2.1,
đó là:
Bảng 2.1. Kết quả giải quyết đơn khiếu nại về thi hành án dân sự từ năm 2015
đến năm 2019 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam
Kết quả giải quyết
Số đơn
Số đơn thụ
Khiếu
Khiếu
Khiếu
Số đơn
lý giải
Năm
tiếp
Đình
nại đúng
nại đúng
nại sai
chuyển kỳ
Tổng số
chỉ
một
quyết
nhận
toàn bộ
toàn bộ
sau
phần
2015
2016
39 39 16 0 2 21 0 64
2017
42 42 11 0 0 30 1 75
2018
39 39 14 0 3 22 0 67
2019
33 26 11 1 2 11 1 54
51 51 21 0 1 29 0 82
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác thi hành án dân sự từ năm 2015 đến năm 2019
của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam
2.3. Đánh giá về giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam.
2.3.1. Những kết quả đạt được về giải quyết khiếu nại trong thi hành án
dân sự
51
Từ nhiều năm qua trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, hệ thống các cơ quan đơn vị
Thi hành án dân sự luôn phấn đấu thực hiện đạt mục tiêu giảm thiểu tối đa các vụ
việc khiếu nại kéo dài, tồn đọng và phức tạp; và giảm dần có thể đối với đơn thư
khiếu nại mới phát sinh. Góp phần hiện thực hóa mục tiêu này, công tác giải quyết
khiếu nại trong thi hành án dân sự của tỉnh Quảng Nam đã đạt các kết quả nhất
định, như sau:
Thứ nhất: Công tác tiếp công dân đã đi vào nề nếp
Cục THADS tỉnh Quảng Nam cùng với các Chi cục THADS trực thuộc trên
địa bàn những năm qua đã từng bước chú trọng thực hiện tốt công tác tiếp công
dân, cụ thể là: từ khâu bố trí địa điểm thuận lợi đến việc sắp xếp bố trí hợp lý các
cán bộ có tín, có kỹ năng và kinh nghiệm đối thoại để tham gia công tác tiếp dân.
Mặc dù một số cơ quan THADS có khó khăn về cơ sở vật chất trụ sở và biên
chế nhân sự có hạn trong khi công việc đang có xu hướng quá tải, song đã từng
bước khắc phục bằng việc: bố trí hợp lý nhân sự và địa điểm tiếp dân; hoàn thiện
quy chế tiếp dân, bố trí một cách khoa học về lịch tiếp dân của Lãnh đạo; đề cao
thái độ trách nhiệm tận tình trong tiếp dân… Nhờ vậy, công tác tiếp dân được thực
hiện tốt; qua đó tham gia chú trọng vào việc đẩy mạnh nhiệm vụ tuyên truyền, giáo
dục phổ biến và giải thích pháp luật về khiếu nại… Kết quả là, người khiếu nại về
thi hành án dân sự hiểu rõ hơn về nghĩa vụ và quyền của mình và thực hiện đúng
quy trình thủ tục khiếu nại trong lĩnh vực THADS; nhiều trường hợp đã tự nguyện
rút đơn khiếu nại và hợp tác tích cực với cơ quan Thi hành án dân sự trong tổ chức
thi hành án.
Hai là: Việc tiếp nhận và phân loại đơn thư khiếu nại được tiến hành khoa học;
quá trình xử lý đơn KN trong THADS đã được chủ động và thực hiện đúng luật
Trên cơ sở của Hướng dẫn 24/HD-TATC-VKSTC-BCA-BQP-BTP, ngày 06-5-
2014 về phân loại đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp, Cục Thi hành án
dân sự tỉnh Quảng Nam đã ra văn bản triển khai thực hiện Hướng dẫn liên ngành số
24/HD-TATC-VKSTC-BCA-BQP-BTP, ngày 06-5-2014. Theo đó tại tỉnh Quảng
Nam, công tác xử lý đơn thư khiếu nại trong thi hành án dân sự ngày một khách
52
quan, chính xác, khoa học và đúng luật định, góp phần phục vụ tốt công tác quản lý
tình hình đơn thư khiếu nại và rà soát loại bỏ nhiều đơn khiếu nại không đủ điều
kiện xử lý.
Ba là: Quá trình quản lý và giải quyết những vụ việc KN trong THADS đã
được chủ động và kịp thời.
Với mục tiêu gia tăng hiệu quả và chất lượng hoạt động, nhiều năm qua Cục
THADS tỉnh Quảng Nam đã tập trung chú trọng giải quyết khiếu nại ngay từ cơ sở
một cách đúng hạn và đúng luật định, hạn chế thấp nhất các khiếu nại vượt cấp
hoặc mới phát sinh. Các khiếu nại THADS đã được xem xét, giải quyết, xử lý đúng
pháp luật, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các tổ chức, cơ quan và người có nghĩa
vụ, quyền liên quan đến. Nhiều tổ chức, đơn vị đã nhận thức sâu sắc về trách nhiệm
giải quyết khiếu nại, góp phần giảm thiểu và giải quyết dứt điểm các vụ việc tồn
đọng, kéo dài...
Bốn là: việc triển khai công tác phối hợp liên ngành đã được chú trọng hơn
trong công tác giải quyết KN trong THADS
Việc thực hiện Quy chế phối hợp liên ngành giữa các cơ quan THADS, Tòa
án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Công an đã tỏ ra có hiệu quả. Trong quá trình
thực hiện Quy chế, các ngành thường xuyên phối hợp, trao đổi, bàn thống nhất giải
quyết, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc và tạo điều kiện thuận lợi cho nhau
trong công tác THADS cũng như trong công tác giải quyết KN về THADS. Công
tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về THA, pháp luật KN về THADS được các
ngành tập trung chỉ đạo để đương sự, công dân, cơ quan, tổ chức hiểu và thực hiện
các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật góp phần đảm bảo an ninh,
chính trị tại địa phương. Cho đến nay, tất cả các cơ quan THADS trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam đều đã ban hành quy chế phối hợp liên ngành trong công tác THADS
cũng như trong công tác giải quyết KN về tư pháp, tạo sự thống nhất, điều kiện
thuận lợi trong việc phối hợp trong công tác giải quyết KN về tư pháp nói chung và
KN về THADS nói riêng trên địa bàn.
53
Việc phối hợp giữa các cơ quan THADS với các cơ quan hữu quan trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam được tiến hành bằng nhiều hình thức khác nhau nhưng thông
thường được tiến hành dưới các hình thức: Ban hành Quy chế phối hợp; báo cáo
bằng văn bản; tổ chức các cuộc họp; trao đổi trực tiếp; cung cấp hồ sơ, tài liệu;
thông báo kết quả giải quyết; tổ chức hội nghị tổng kết. Thực tiễn công tác THADS
cho thấy mối quan hệ giữa cơ quan THADS, CHV với các cơ quan, tổ chức, cá
nhân hữu quan đã hình thành và được giải quyết cơ bản là hài hòa, góp phần không
nhỏ vào việc tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác THADS nói chung và công
tác giải quyết KN về THADS nói riêng.
Thứ năm: Công tác báo cáo, thống kê, tổng hợp số liệu, tình hình giải quyết
đơn thư khiếu nại trong thi hành án dân sự được thực hiện thường xuyên, chính xác
Các Chi cục THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đã thực hiện nghiêm túc
chế độ báo cáo, kể cả báo cáo định kỳ và báo cáo đột xuất. Nhờ vậy, Cục THADS
tỉnh Quảng Nam, công chức Phòng Kiểm tra, giải quyết KN, tố cáo tỉnh và các Chi
cục THADS đã theo dõi quản lý công tác KN, đánh giá được tình hình KN của
công dân, việc áp dụng các quy định pháp luật về thủ tục THADS của công chức
trong ngành để phục vụ công tác quản lý KN và quản lý ngành báo cáo cơ quan có
thẩm quyền. Đồng thời, từ đó hoàn thiện thể chế, đánh giá được chất lượng của
công chức và kịp thời bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, làm cơ sở đánh giá
thi đua khen thưởng.
2.3.2. Những hạn chế, bất cập về giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân
sự
Công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam thời gian qua vẫn còn những tồn tại, hạn chế sau:
Thứ nhất, công tác tiếp công dân còn hình thức, không ít cơ quan THADS cấp
huyện chưa bố trí được nơi tiếp công dân độc lập. Một số thủ trưởng cơ quan
THADS không trực tiếp tiếp công dân định kỳ và đột xuất, chưa gắn việc tiếp công
dân với việc giải quyết khiếu nại. Một số cán bộ làm nhiệm vụ tiếp công dân chưa
ý thức được tầm quan trọng của công tác này, thiếu kỹ năng tiếp công dân, thái độ
54
tiếp công dân chưa phù hợp, ứng xử không đúng mực khi thực hiện nhiệm vụ, để
công dân phản ánh, thậm chí ghi âm, ghi hình khiếu nại, tố cáo lên cấp trên về thái
độ hách dịch khi làm việc, tiếp xúc với công dân đã gây bức xúc cho người khiếu
nại. Kỹ năng ứng xử, thái độ giải quyết vụ việc khiếu nại của người có thẩm quyền
chưa phù hợp dẫn đến tình trạng công dân bức xúc với việc giải quyết của các cơ
quan THADS cấp huyện, tiếp tục khiếu nại đến Cục THADS, Tổng cục, Bộ Tư
pháp…
Thứ hai, việc phân loại, thụ lý đơn khiếu nại ở một số Chi cục THADS còn có
nhiều sai sót, hạn chế; kỷ năng xử lý đơn thư đầu vào của cán bộ làm công tác này
còn lúng túng như: Đơn khiếu nại nhưng lại được phân loại thành đơn kiến nghị,
phản ánh dẫn đến số liệu thống kê về tình hình xử lý đơn, thư khiếu nại chưa chính
xác, có trường hợp đơn có nội dung tố cáo nhưng do phân loại thành khiếu nại nên
giải quyết theo trình tự, thủ tục khiếu nại và ngược lại…
Thứ ba, vi phạm quy định về trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại như; Chậm
thụ lý, xác định đối tượng bị khiếu nại, hành vi bị khiếu nại không chính xác; chậm
giải quyết khiếu nại (đã ra thông báo thụ lý giải quyết khiếu nại nhưng để kéo dài,
không ban hành quyết định giải quyết khiếu nại); giải quyết khiếu nại chưa đầy đủ,
không đúng nội dung khiếu nại của đương sự, thực hiện không đúng, không đầy đủ
về thiết lập hồ sơ giải quyết khiếu nại: Không đánh số bút lục hoặc đánh số bút lục
không đầy đủ, sắp xếp tài liệu trong hồ sơ giải quyết khiếu nại không đúng thứ tự,
không ghi danh mục tài liệu có trong hồ sơ…
Thứ tư, nội dung giải quyết không đúng pháp luật như: Khiếu nại của đương
sự là có cơ sở nhưng khi giải quyết áp dụng pháp luật không đúng, không nghiên
cứu đầy đủ, toàn diện hồ sơ thi hành án và các tài liệu có liên quan; không tổ chức
đối thoại, xác minh hoặc trưng cầu giám định khi cần thiết dẫn đến kết quả giải
quyết không khách quan, chưa đúng pháp luật, đương sự bức xúc nên dẫn đến
khiếu nại kéo dài, vượt cấp; giải quyết khiếu nại chưa đầy đủ, không đúng nội dung
khiếu nại của đương sự; một số quyết định giải quyết khiếu nại còn thiếu căn cứ,
chưa chặt chẽ. Đặc biệt, có trường hợp người có thẩm quyền khi giải quyết khiếu
55
nại có dấu hiệu nể nang, lòng vòng, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm cho cơ quan cấp
trên.
Thứ năm, một số thủ trưởng cơ quan THADS giải quyết khiếu nại lần đầu đã
chưa thực hiện tốt việc hướng dẫn đương sự thực hiện quyền khiếu nại lần 2 theo
quy định, cụ thể: Khoản 9 Điều 151 Luật Thi hành án dân sự quy định khi giải
quyết khiếu nại lần đầu, quyết định giải quyết khiếu nại phải có nội dung hướng
dẫn đương sự về quyền khiếu nại lần 2. Tuy nhiên, trong thực tế, vẫn còn một số
quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu không có nội dung này.
Thứ sáu, nhiều cơ quan THADS chưa thực hiện được việc công khai quyết
định giải quyết khiếu nại. Tồn tại này phổ biến ở tất cả các cấp và ở hầu hết địa
bàn, làm cho công tác giải quyết khiếu nại chưa thực sự phát huy hiệu quả như yêu
cầu tại Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp quy định
quy trình giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh trong Thi hành án
dân sự.
Thứ bảy, chạm khắc phục sai phạm và tổ chức thực hiện các quyết định giải
quyết khiếu nại đã có hiệu lực, cụ thể: Chưa chủ động, kịp thời áp dụng pháp luật
để khắc phục những sai phạm, thiếu sót đã được phát hiện qua công tác thanh tra,
giải quyết khiếu nại; việc tổ chức thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại đã
có hiệu lực pháp luật còn chậm, hạn chế và đùn đẩy; công tác theo dõi, đôn đốc,
kiểm tra việc thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại còn nhiều hạn chế.
Thậm chí, thủ trưởng một số cơ quan THADS còn có biểu hiện chưa nghiêm khắc
đối với những công chức, chấp hành viên có sai phạm trong quá trình tổ chức thi
hành án, giải quyết khiếu nại dẫn đến tình trạng công dân bức xúc, khiếu nại gay
gắt, vượt cấp hoặc chuyển từ khiếu nại sang tố cáo, làm cho vụ việc càng phức tạp
hơn.
2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế, bất cập về giải quyết khiếu nại trong thi
hành án dân sự
2.3.3.1. Nguyên nhân khách quan:
56
Thứ nhất, các quy định của pháp luật về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
trong THADS vẫn còn khá nhiều bất cập, cụ thể như: Chưa quy định về thẩm
quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại đối với các trường hợp người bị khiếu
nại đã nghỉ hưu hoặc chuyển công tác, chưa quy định cụ thể về người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan; chưa quy định về trình tự, thủ tục xem xét lại đối với quyết
định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật; chưa quy định trình tự, thủ tục ra
thông báo chấm dút khiếu nại và thông báo không thụ lý đối với vụ việc khiếu nại
phức tạp, tồn đọng, kéo dài về THADS đã được giải quyết đúng chính sách pháp
luật, thấu tình, đạt lý và chưa bổ sung đầy đủ biểu mẫu về giải quyết khiếu nại; sổ
theo dõi công tác giải quyết khiếu nại, các biểu mẫu báo cáo quy định thống nhất
về thời hạn và định kỳ báo cáo về khiếu nại trong THADS.
Thứ hai, một số địa phương có lượng việc thi hành án nhiều nên chấp hành
viên, công chức rơi vào tình trạng quá tải công việc dẫn đến chậm trễ trong việc tổ
chức thi hành án, do đó, quyền lợi của người được thi hành án không được đảm
bảo, phát sinh khiếu nại. Mặc khác, cũng vì quá tải công việc nên việc xác minh
theo đơn khiếu nại và nghiên cứu nội dung vụ việc khiếu nại của cán bộ thi hành án
chức thấu đáo dẫn đến hạn chế trong tham mưu giải quyết khiếu nại.
Thứ ba, ở cấp huyện công chức làm công tác tiếp công dân còn kiêm nhiệm
nên quá trình thụ lý, xác minh, tham mưu giải quyết khiếu nại chưa chuyên nghiệp.
Lực lượng công chức trực tiếp tham mưu giải quyết khiếu nại trong toàn tỉnh còn
mỏng.
Thứ tư, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác giải quyết khiếu nại về THADS
chưa đáp ứng được nhu cầu đặt ra, nhất là vấn đề bố trí phòng tiếp công dân ở các
cơ quan thi hành án dân sự của tỉnh.
2.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất, nhận thức của một số thủ trưởng cơ quan THADS, chấp hành viên,
công chức THADS về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác giải quyết khiếu nại
còn chưa đầy đủ. Vì thế, chưa quan tâm bố trí những công chức có năng lực, tâm
huyết, có trách nhiệm để làm công tác giải quyết khiếu nại. Một số ít thủ trưởng cơ
57
quan THADS cấp huyện chưa sát sao trong việc đôn đốc công chức dưới quyền
trong công tác tiếp công dân, tham gia xác minh đơn, thư khiếu nại, tham mưu giải
quyết khiếu nại, chưa tổ chức thực hiện kịp thời các yêu cầu của cấp trên trong việc
giải quyết khiếu nại.
Thứ hai, trình độ, năng lực của công chức trực tiếp tham mưu giải quyết khiếu
nại ở các cơ quan THADS còn hạn chế. Nhiều công chức chưa tích cực nghiên cứu,
nắm vững các quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại trong THADS và
pháp luật có liên quan nên khi áp dụng để tham mưu giải quyết khiếu nại còn lúng
túng, sai sót, thậm chí sai phạm. Một số chấp hành viên có thái độ không đúng
mực, gây bức xúc cho đương sự hoặc có hành vi vi phạm pháp luật. Điều này
không chỉ vì do yếu kém về nghiệp vụ mà còn do cố ý hoặc do đạo đức kém, thái
độ coi thường, nhũng nhiễu, thậm chí vô cảm trước quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự. Quá trình giải quyết khiếu nại của thủ trưởng cơ quan THADS không ít
trường hợp còn có tâm lý bênh vực công chức cơ quan mình hoặc công chức cấp
dưới nên bác đơn khiếu nại của đương sự. Đây là một trong những nguyên nhân
chính dẫn tới bức xúc của đương sự.
Thứ ba, công tác tuyên truyền pháp luật THADS nói chung, pháp luật về
khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong THADS nói riêng chưa được các cơ quan
THADS thực sự chú trọng. Trong quá trình tổ chức thi hành án, các cơ quan
THADS trong tỉnh chưa quan tâm giải thích và giáo dục thuyết phục cho các bên
đương sự hiểu và tự nguyện thực hiện các nghĩa vụ của mình trong thi hành án
nhằm góp phần hạn chế khiếu nại ngay từ cơ sở.
Thứ tư, công tác tổng kết, rút kinh nghiệm và đào tạo, bồi dưỡng công chức về
nghiệp vụ, kỹ năng giải quyết khiếu nại trong THADS tuy ngày càng được chú ý,
thực hiện thường xuyên nhưng nội dung chưa chuyên sâu, thời gian mỗi kỳ tập
huấn hằng năm quá ngắn (chỉ từ hơn 01 ngày). Với thời gian này chỉ đủ để giới
thiệu những vấn đề mới, chứ không đủ để trao đổi, thảo luận và giải đáp thấu đáo
những vướng mắc nghiệp vụ.
58
Thứ năm, ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận đương sự còn thấp,
nhiều trường hợp hiểu rõ khiếu nại của mình là thiếu căn cứ pháp luật nhưng vẫn
cố tình khiếu nại để kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ thi hành án của mình hoặc
gây rối, cản trở quá trình thi hành án khiến cho bản án, quyết định của tòa án chậm
được thi hành. Trong khi đó, pháp luật mới chỉ có chế tài đối với hành vi cố tình tố
cáo sai sự thật, còn đối với hành vi cố tình khiếu nại không có căn cứ để trì hoãn thi
hành án hoặc gây rối quá trình thi hành án thì chưa có biện pháp hữu hiệu để xử lý.
Thứ sáu, cấp ủy Đảng, chính quyền ở một số địa phương chưa thực sự quan
tâm đúng mức đến việc chỉ đạo công tác THADS, trong đó có công tác giải quyết
khiếu nại về THADS. Trong một số trường hợp giải quyết khiếu nại các cơ quan
hữu quan còn thiếu sự phối hợp kịp thời, chặt chẽ, hiệu quả, thậm chí đùn đẩy, né
tránh trách nhiệm giải quyết khiếu nại.
59
Tiểu kết Chương 2
Qua đánh giá thực trạng về khiếu nại trong THADS trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam cho thấy:
Giải quyết khiếu nại trong THADS là việc làm hết sức khó khăn. Tình hình
khiếu nại của công dân ngày càng nhiều, mang tính chất phức tạp. Nguồn gốc sâu
xa dẫn đến việc khiếu nại trong THADS như trường hợp người phải thi hành án có
điều kiện thi hành án nhưng vẫn cố tình chây ỳ, không tự nguyện thi hành, hay
đương sự không hiểu trình tự thủ tục thi hành án hoặc lợi dụng quyền tự do dân chủ
của công dân, làm đơn khiếu nại không đúng qui định nhằm trì hoãn việc thi hành
án. Nhiều trường hợp khiếu nại, cơ quan Thi hành án dân sự đã giải quyết khiếu nại
hết thẩm quyền nhưng các đương sự vẫn tiếp tục khiếu nại gửi đến nhiều ngành,
nhiều cấp từ Trung ương tới địa phương, gây xáo trộn, làm ảnh hưởng đến hoạt
động bình thường của cơ quan Thi hành án dân sự, có trường hợp, ảnh hưởng đến
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
Thực tế cho thấy, từ phía cơ quan thi hành án dân sự trong quản lý, điều
hành có lúc còn chưa sâu sát, kịp thời, chưa quyết liệt; đội ngũ cán bộ chưa tương
xứng cả về số lượng cũng như chất lượng so với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình
mới. Do đội ngũ cán bộ còn thiếu về số lượng, năng lực, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ không đồng đều; một số cán bộ quản lý chưa phát huy hết trách nhiệm
trong quản lý, điều hành; một số Chấp hành viên, cán bộ thi hành án chưa kịp thời
cập nhật kiến thức nghiệp vụ, cá biệt có một số trường hợp vi phạm kỷ luật; một số
cơ quan thi hành án dân sự thiếu chủ động trong việc phối hợp với các cơ quan hữu
quan ở địa phương, chưa tranh thủ được sự quan tâm của cấp ủy Đảng, chính quyền
địa phương đối với công tác thi hành án dân sự... Do đó, việc tăng cường công tác
quản lý, chỉ đạo, điều hành ở các cấp theo hướng rõ người, rõ việc và thời gian
hoàn thành nhiệm vụ; Trong khi quyền khiếu kiện và trách nhiệm giải quyết khiếu
kiện đã được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, các cấp các ngành tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho công dân việc thực hiện quyền khiếu nại tố cáo đối với hành vi
trái pháp luật trong hoạt động của cơ quan nhà nước, yêu cầu các cấp cơ sở phát
60
huy dân chủ và sức mạnh tâp thể, tăng cường đoàn kết nôi bô trong từng cơ quan,
đơn vị; đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình đô chuyên môn,
nghiêp vụ, đồng thời, đặc biệt chú trọng làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công
chức THADS.
61
CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
3.1. Quan điểm tăng cường giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự
Quyền KN của công dân là quyền Hiến định vì vậy việc ngày càng hoàn thiện
quyền này là yêu cầu tất yếu khách quan. Trong quản lý hành chính nhà nước công
dân thực hiện quyền KN không những họ thực hành quyền dân chủ trực tiếp, tham
gia thiết thực vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội mà thông qua đó còn là một bảo
đảm cho pháp luật được thực thi trong thực tế. Đồng thời đây là cơ hội và điều kiện
để công dân phát huy đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình, tăng cường ý thức trách
nhiệm trong việc xây dựng nhà nước, quản lý nhà nước bảo đảm pháp chế, tăng
cường mối quan hệ giữa Đảng, nhà nước với nhân dân. Vì vậy, giải quyết KN của
công dân nói chung và giải quyết KN về THADS nói riêng là một vấn đề được
Đảng, nhà nước và nhân dân đặc biệt quan tâm.
Nâng cao hiệu quả giải quyết KN về THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
xuất phát từ những yêu cầu chung của việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay, yêu cầu của cái cách tư pháp, cải
cách hành chính và bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong quá trình giải quyết KN về
THADS. Ngoài ra, đó cũng là các yêu cầu của việc bảo đảm quyền KN của công
dân trong công tác THADS, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong công
tác giải quyết KN về THADS.
Thứ nhất: Bảo đảm quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng
Hoàn thiện các quy định của pháp luật về THADS nói chung và về giải quyết
KN về THADS nói riêng nhằm thể chế hóa các đường lối, chủ trương của Đảng đã
được xác định trong các Nghị quyết, văn kiện của Đảng như: Văn kiện Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3
(khóa VIII), Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khóa VII), Nghị quyết Hội nghị
Trương ương 9 (khóa IX), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/02/2002 của Bộ
Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tư pháp thời gian tới, Nghị
62
quyết số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020,
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020, Nghị quyết số 37/2012/QH13 của Quốc hội về công tác
phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân,
Tòa án nhân dân và công tác THADS năm 2013. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật
về THADS, KN về THADS cũng như việc nâng cao hiệu quả giải quyết KN về
THADS luôn luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm thể chế hóa các chủ
trương của Đảng trong lĩnh vực pháp luật nói chung và lĩnh vực pháp luật về
THADS, pháp luật KN về THADS nói riêng.
Thứ hai: Bảo đảm yêu cầu của cải cách tư pháp, cải cách hành chính
Nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải ban hành và thực hiện Chiến lược
Cải cách tư pháp và chiến lược cải cách hành chính đến năm 2020 phù hợp với quá
trình đổi mới công tác lập pháp và chương trình cải cách hành chính.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: “Chuẩn bị điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất
để giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án.
Xác định rõ trách nhiệm của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và của cơ quan
chuyên môn của ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trong việc thi hành các hình phạt
không phải là hình phạt tù để thực hiện nghiêm túc các bản án của tòa án. Từng
bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ
chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án. ”
Cùng với cải cách tư pháp thì cải cách hành chính cũng là chủ trương lớn của
Đảng và nhà nước ta. Ngày 08/01/2011 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
30c/NQ-CP ban hành chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn
2011-2020. Một trong những nội dung cơ bản của cải cách hành chính là: “Xây
dựng hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở thông suốt,
trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tăng tính dân chủ và pháp
63
quyền trong hoạt động điều hành của Chính phủ và của các cơ quan hành chính nhà
nước; Bảo đảm thực hiện trên thực tế quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ quyền
con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, của đất nước;
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình
độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước.”
Cải cách tư pháp, cải cách hành chính là một trong những yêu cầu chung của
công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. Hoạt động THADS
là một nội dung của hoạt động nhà nước, là một bộ phận của hoạt động tư pháp,
mang tính chất hành chính - tư pháp, nên hoạt động THADS có mối quan hệ mật
thiết đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước, nhất là hoạt động tư pháp. Hoạt động
THADS mặc dù không phải là một khâu trong quá trình tố tụng của các cơ quan tư
pháp nhưng nó lại có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động của các cơ quan
này. Do đó, đảm bảo thực hiện pháp luật THADS nói chung và quy định của pháp
luật giải quyết KN về THADS nói riêng cũng là một trong những biện pháp để đẩy
mạnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch,
vững mạnh và nó phải được đặt trong tổng thể của cải cách tư pháp, cải cách hành
chính.
Thứ ba: Bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong quá trình giải quyết khiếu nại về
thi hành án dân sự
Pháp chế là một phạm trù rộng lớn không chỉ chứa đựng nội dung pháp luật
mà còn chứa đựng những nội dung chính trị xã hội và con người. Vì vậy bảo đảm
cho pháp chế được củng cố, tăng cường và hoàn thiện là yêu cầu khách quan của
quá trình xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân và cũng là yêu cầu của quá
trình hoàn thiện con người và các quyền của họ trong xã hội, đặc biệt trong quản lý
hành chính nhà nước.
Bảo đảm nguyên tắc pháp chế là quan điểm cần được quán triệt sâu sắc trong
quá trình tổ chức, hoạt động THADS nói chung và giải quyết KN về THADS nói
riêng. Đây là nguyên tắc xuyên suốt toàn bộ hoạt động THADS từ giai đoạn xây
dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật THADS, xử lý nghiêm khắc hành vi vi
64
phạm pháp luật THADS, từ việc phân loại, xử lý đơn KN đến thụ lý giải quyết và
thực hiện quyết định giải quyết KN. Do đó, các quy định của pháp luật THADS
phải được tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành. Cơ quan THADS phải có trách
nhiệm tổ chức thi hành nghiêm chỉnh các Bản án, quyết định của Tòa án. Mọi vi
phạm pháp luật THADS từ phía cơ quan THADS, CHV, các tổ chức, cá nhân có
liên quan phải bị xử lý nghiêm, kịp thời.
Thứ tư: Bảo đảm quyền khiếu nại của công dân trong thi hành án dân sự
Về nguyên tắc, mọi người có quyền KN với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết KN. Nghiêm cấm việc trả
thù người KN hoặc lợi dụng quyền KN để vu khống, vu cáo làm hại người khác.
Trong THADS, KN về THADS là việc cá nhân, tổ chức theo trình tự, thủ tục
do pháp luật quy định yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xem xét lại các quyết định,
hành vi của thủ trưởng cơ quan THADS, CHV mà cá nhân, tổ chức KN cho rằng
quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, đã xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp
của họ. Những người được quyền KN về THADS khi họ có tư cách của người được
THA, người phải THA người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến THA
cụ thể.
Việc giải quyết KN phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá
nhân bị xâm phạm, đồng thời phải hạn chế tình trạng KN vượt cấp, lợi dụng quyền
KN làm cản trở hoạt động của cơ quan nhà nước, bảo đảm quyền lợi của đương sự
tham gia vào hoạt động THADS.
Thứ năm: Bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong giải quyết khiếu
nại về thi hành án dân sự
Giải quyết KN nói chung cũng như giải quyết KN về THADS nói riêng từ
trước tới nay luôn là vấn đề được Đảng và nhà nước ta rất quan tâm. Thực hiện tốt
công tác giải quyết KN về THADS là góp phần bảo đảm quyền con người, quyền
công dân, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
65
Luật KN với việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân: Mặc dù Luật
KN đã có nhiều quy định bảo đảm quyền công dân, quyền con người trong hoạt
động KN và giải quyết KN. Tuy nhiên các văn bản này vẫn được ban hành trên cơ
sở quy định của Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Trong đó, quyền KN
mới cơ bản dừng lại ở “quyền công dân”. Hiến pháp 2013 đã khẳng định quyền KN
là quyền con người. Giờ đây, không chỉ “công dân có quyền khiếu nại” mà “mọi
người có quyền khiếu nại”. Bảo đảm quyền con người trong công tác tiếp công dân
giải quyết KN về THADS. Đặc thù của công tác THADS luôn liên quan và ảnh
hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của các bên THA, do đó để thực hiện
tốt công tác giải quyết KN về cơ cấu tổ chức các cơ quan THADS đều có bộ phận
làm công tác giải quyết KN. Ngoài những yêu cầu chung về nâng cao nhận thức,
kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tiếp công dân, giải quyết KN
cũng cần phải rà soát, hoàn thiện thể chế nội bộ về công tác tiếp công dân, giải
quyết KN.
3.2. Giải pháp tăng cường giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự.
3.2.1. Nhóm giải pháp chung
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về THADS nói
chung, về giải quyết khiếu nại trong THADS nói riêng. Trước mắt cần hoàn thiện
quy định về những vấn đề pháp luật về giải quyết khiếu nại chưa quy định nêu trên,
gắn với hoàn thiện thể chế về công tác THADS và đổi mới quy trình giải quyết
khiếu nại. Vì nếu, thể chế về công tác THADS có bất cập sẽ là một trong những
nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả công tác này:
Thực tiễn hiện nay cho thấy công tác giải quyết KN gặp nhiều khó khăn,
vướng mắc do các quy định của pháp luật về khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong
THADS vẫn còn khá nhiều bất cập, có những vấn đề pháp luật về giải quyết khiếu
nại trong THADS chưa quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết KN. Đề
xuất giải pháp đối với các trường hợp như sau:
- Quy định rõ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án có
quyền KN là những người nào?
66
- Quy định rõ thẩm quyền xem xét lại cũng như cơ chế giải quyết khi có phát
sinh KN đối với quyết định giải quyết KN có hiệu lực pháp luật không thuộc
trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 142 Luật THADS, cụ thể:
+ Khi hết thời hiệu KN đối với quyết định giải quyết KN lần đầu đương sự
mới KN mà người KN không đưa ra được bằng chứng chứng minh do trở ngại
khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng nên không thực hiện được quyền khiếu
nại theo đúng thời hạn.
+ Hoặc đương sự KN tiếp đối với quyết định giải quyết KN về các biện pháp
bảo đảm THA.
- Quy định rõ cơ chế giải quyết đối với trường hợp đương sự khác (không phải
là người đã KN lần đầu) khiếu nại tiếp đối với quyết định giải quyết KN lần đầu.
- Quy định cơ chế giải quyết đối với trường hợp đương sự KN về trình tự, thủ
tục giải quyết KN của người có thẩm quyền giải quyết KN.
+ Quy định trình tự, thủ tục ra Thông báo chấm dứt KN và Thông báo không
thụ lý đối với vụ việc KN phức tạp, tồn đọng, kéo dài về THADS đã được giải
quyết đúng chính sách pháp luật, thấu tình, đạt lý.
+ Cần bổ sung đầy đủ biểu mẫu về giải quyết KN, sổ theo dõi công tác giải
quyết KN, các biểu mẫu báo cáo; quy định thống nhất về thời hạn và định kỳ báo
cáo về KN trong THADS.
Về lâu dài, do pháp luật về khiếu nại trong THADS gắn liên với pháp luật về
THADS nên khi sửa đổi hoặc thay thế Luật THADS, trường hợp có thay đổi về cơ
cấu, tổ chức bộ máy phù hợp với xu thế chung của thế giới về lĩnh vực THADS thì
quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại theo đó cũng thay đổi
theo.
Với bối cảnh pháp luật về THADS như hiện nay, thì thẩm quyền và trình tự,
tủ tục giải quyết KN trong THADS cần sửa đổi, bổ sung Luật THADS quy định
những vấn đề pháp luật về giải quyết KN trong THADS chưa quy định về thẩm
quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại. Trước mắt, cần nghiên cứu chế định xử
lý kiên quyết đối với những trường hợp lợi dụng quyền KN để kích động, gây rối;
67
trường hợp đã được người có thẩm quyền giải quyết KN giải quyết dứt điểm, đúng
quy định pháp luật nhưng vẫn tiếp tục KN đến nhiều cơ quan chức năng ở trung
ương, địa phương, đặc biệt là trường hợp cố tình KN nhằm kéo dài, trốn tránh
nghĩa vụ THA; quy định các biện pháp chế tài đối với các trường hợp lợi dụng việc
khiếu nại xúc phạm cơ quan và người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết
KN, nhất là những đối tượng xúi giục công dân thực hiện các hành vi vi phạm pháp
luật, gây khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết KN.
Đối với những vấn đề về giải quyết KN pháp luật đã quy định nhưng cần có
hướng dẫn áp dụng thống nhất, Tổng cục THADS cần có văn bản hướng dẫn, cụ
thể:
Tổ chức tập huấn hướng dẫn về áp dụng pháp luật giải quyết KN bảo đảm giải
quyết KN đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục.
Nghiên cứu và thực hiện thành công các đề tài về cơ sở lý luận và thực tiễn
nâng cao hiệu quả giải quyết KN trong THADS.
Thứ hai, nâng cao nhận thức, trình độ, năng lực của thủ trưởng và công chức
các cơ quan THADS về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác tiếp công dân, giải
quyết khiếu nại nói chung, giải quyết khiếu nại trong THADS nói riêng. Thủ
trưởng cơ quan THADS cần trực tiếp phụ trách công tác giải quyết khiếu nại và
trực tiếp tiếp công dân định kỳ, đột xuất theo quy định của pháp luật. Công chức
tiếp công dân kiên trì giải thích cho người khiếu nại biết quyền và nghĩa vụ của
đương sự, trách nhiệm của cơ quan THADS trong việc thi hành bản án, quyết định
của Tòa án.
Thứ ba, thực hiện thường xuyên công tác bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, kỹ
năng, nghiệp vụ, trau dồi bản lĩnh chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp cho thủ trưởng,
chấp hành viên THADS và đặc biệt là đội ngũ công chức trực tiếp tham mưu giải
quyết khiếu nại.
Thứ tư, nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết khiếu nại, phải chú trọng
ngay từ khâu tiếp công dân để tiếp nhận đơn, thư khiếu nại. Trong quá trình giải
quyết khiếu nại, người làm công tác giải quyết khiếu nại phải thu thập đầy đủ tài
68
liệu, chứng cứ khách quan làm cơ sở cho việc kết luận, từ đó ra quyết định giải
quyết khiếu nại phù hợp. Quá trình giải quyết khiếu nại phải tuân thủ đúng trình tự,
thủ tục luật định, nhất là tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về quyền và
nghĩa vụ của người khiếu nại, người bị khiếu nại. Đồng thời, cần làm rõ nguyên
nhân phát sinh khiếu nại để có biện pháp chấn chỉnh công tác quản lý nhà nước,
xác định rõ trách nhiệm, xử lý nghiêm minh những công chức do thiếu trách nhiệm
gây nên khiếu nại cũng như thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại.
Thứ năm, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về giải
quyết khiếu nại trong THADS như: Tăng cường công tác hướng dẫn nghiệp vụ,
đôn đốc, kiểm tra, thanh tra về giải quyết khiếu nại trong THADS; chú trọng công
tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm về giải quyết khiếu nại trong THADS; thực
hiện thường xuyên công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ giải quyết khiếu nại về
THADS; đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật về giải quyết khiếu nại trong
THADS; tăng cường kỷ cương hành chính, kỷ luật công vụ trong nội bộ hệ thống
THADS về công tác quản lý giải quyết khiếu nại, đẩy mạnh việc ứng dụng công
nghệ thông tin trong công tác quản lý giải quyết khiếu nại.
Thứ sáu, tăng cường công tác phối hợp trong giải quyết khiếu nại trong
THADS: Công tác giải quyết khiếu nại trong THADS là hoạt động khó khăn, phức
tạp cần phải có sự phối hợp giải quyết của nhiều ban, ngành, đoàn thể. Trong thời
gian tới, để nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại trong THADS, vấn đề
tăng cường sự phối hợp liên ngành trong quá trình giải quyết khiếu nại là một giải
pháp quan trọng. Trong mối quan hệ phối hợp ấy, các cơ quan trong hệ thống
THADS phải giữ vai trò chủ động. Hiện nay đã có quy chế phối hợp chung giữa
các ngành trong khối nội chính, thiết nghĩ cần phải tiếp tục có những quy chế phối
hợp riêng, cụ thể hơn giữa các ngành với nhau, mà trước hết là với Tòa án. Bởi
hoạt động THADS là quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án;
trong quá trình này rất cần sự phối hợp của cơ quan Tòa án trong việc giải thích
bản án, vấn đề tạm đình chỉ thi hành án để kháng nghị theo thủ tục tố tụng… Trong
quá trình ấy, nếu phát sinh khiếu nại mà sự phối hợp giữa cơ quan THADS và Tòa
69
án không kịp thời, chặt chẽ thì chắc chắn hiệu quả giải quyết khiếu nại sẽ không
cao, hiệu quả thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại trong THADS vì thế cũng
bị hạn chế.
Thứ bảy, phát huy vai trò giám sát của các cơ quan, tổ chức và vai trò kiểm sát
của Viện kiểm sát nhân dân đối với hoạt động THADS:
- Tăng cường hơn nữa công tác giám sát của các ủy ban của Quốc hội, Đoàn
Đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc các cấp đối với công tác
THADS nói chung, công tác giải quyết khiếu nại trong THADS nói riêng. Nâng
cao vai trò giám sát thực hiện pháp luật về THADS, pháp luật về giải quyết khiếu
nại trong THADS của Hội đồng nhân dân các cấp. Đổi mới hình thức giám sát của
Hội đồng nhân dân, việc giám sát không chỉ dừng lại ở việc chất vấn tại các kỳ họp
mà khi cần thiết thì các ban của Hội đồng nhân dân yêu cầu các cơ quan THADS
giải thích những vi phạm trong công tác giải quyết khiếu nại về THADS. Có như
vậy công tác giám sát hoạt động giải quyết khiếu nại trong THADS mới được
thường xuyên và kịp thời.
- Viện kiểm sát các cấp cũng cần từng bước đổi mới phương thức kiểm sát
hoạt động giải quyết khiếu nại trong THADS. Công tác kiểm sát không chỉ tập
trung vào kiểm sát hoạt động giải quyết khiếu nại của thủ trưởng cơ quan THADS
các cấp mà cò cần phải chú ý nhiều đến vấn đề yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân
có liên quan thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật về giải quyết khiếu nại trong
THADS.
Thứ tám, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, huy động sức mạnh của hệ thống
chính trị tham gia vào công tác giải quyết khiếu nại trong THADS; các cấp ủy
Đảng, trước hết là cấp ủy các tổ chức Đảng trong hệ thống cơ quan THADS, tiếp
đó là cấp ủy Đảng ở địa phương phải quan tâm lãnh đạo công tác giải quyết khiếu
nại trong THADS. Coi đây là một trong những nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng
và cần thiết trong công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, góp phần đảm
bảo tính nghiêm minh của pháp luật, ổn định tình hình để phát triển kinh tế - xã hội
địa phương và toàn quốc. Sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng thể hiện ở nhiều
70
phương diện, bao gồm công tác lãnh đạo chính trị tư tưởng, công tác cán bộ; đề ra
chủ trương, nghị quyết về công tác THADS nói chung, công tác giải quyết khiếu
nại trong THADS nói riêng; lãnh đạo công tác phối hợp giữa các cơ quan THADS
và các ban, ngành, đoàn thể… Tuy nhiên, trên thực tế cần hết sức tránh xu hướng
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đồng nghĩa với việc tổ chức Đảng làm thay vai
trò của chính quyền và của các cơ quan THADS. Cần phải xác định rõ vai trò của
Đảng là lãnh đạo, còn việc chỉ đạo triển khai thực hiện thuộc trách nhiệm của chính
quyền và lãnh đạo cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS các cấp.
Bên cạnh đó, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị ở địa
phương vào công tác giải quyết khiếu nại trong THADS. Sự tham gia của cả hệ
thống chính trị biểu hiện cụ thể nhất là công tác giám sát hoạt động giải quyết khiếu
nại của các cơ quan THADS và công tác tham gia tuyên truyền pháp luật THADS
nói chung, pháp luật về giải quyết khiếu nại trong THADS nói riêng. Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức thành viên vận động đoàn viên, hội viên của tổ chức mình sống
và làm việc theo pháp luật. Người khiếu nại thuộc tổ chức nào thì tổ chức đó phối
hợp với cơ quan THADS để nắm bắt tình hình xử lý thông tin thống nhất kế hoạch
hành động, lấy tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục làm chính để thành viên tổ chức
mình thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại theo luật định, góp
phần nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại trong THADS.
3.2.2. Nhóm giải pháp riêng cho tỉnh Quảng Nam
Thứ nhất: Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác giải
quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự để đảm bảo sự thống nhất lãnh đạo toàn
diện của Đảng trong công tác thi hành án dân sự. Nhất là đối với các vụ án có giá
trị lớn dẫn đến khiếu nại kéo dài, vượt cấp, đơn được gửi đến nhiều cơ quan tại
Trung ương và địa phương làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư tại địa phương và
cũng được các phương tiện truyền thông, nhân dân quan tâm, ví dụ: Vụ Công ty cổ
phần Đồng Xanh chuyên sản xuất cồn ethanol sinh học tại huyện Đại Lộc phải có
nghĩa vụ thi hành án cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam số tiền
650 tỷ đồng, Công ty cổ phần Soda Chu Lai phải trả cho Ngân hàng Nông nghiệp
71
và Phát triển Nông thôn Việt Nam số tiền 2.800 tỷ đồng, Công ty cổ phần Dịch vụ
hỗ trợ và phát triển đầu tư (IOC) phải trả cho Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt
Nam số tiền 680 tỷ đồng, Công ty Chí Thành phải trả chi Ngân hàng TMCP Ngoại
thương Việt Nam số tiền 250 tỷ đồng, Công ty Nhà Vinahouse phải trả cho Ngân
hàng TMCP Đại Dương số tiền 156 tỷ đồng…
Thứ hai: Cơ quan THADS, Thủ trưởng cơ quan THADS chủ động, kịp thời
báo cáo, tham mưu Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự các cấp để tranh thủ sự chỉ đạo
của Ủy ban nhân dân và sự phối kết hợp của các ban ngành có liên quan trong công
tác thi hành án cũng như động viên, thuyết phục đương sự tự nguyện thi hành án
nhằm làm giảm việc khiếu nại trong thi hành án dân sự.
Thứ ba: Đối với các vụ việc có vướng mắc từ bản án, quyết định của Tòa án
cần chủ động có văn bản yêu cầu giải thích và tích cực bám sát kết quả giải quyết
của Tòa án, trả lời của các cơ quan có thẩm quyền để tổ chức thi hành kịp thời vụ
việc ngay khi có kết quả giải quyết; trường hợp đã có văn bản yêu cầu giải thích
nhưng cơ quan có thẩm quyền vẫn chưa trả lời hoặc có văn bản trả lời nhưng chưa
rõ, dẫn đến việc giải quyết khiếu nại kéo dài cần công khai cho công luận biết.
Thứ tư: Đối với những vụ việc khiếu nại đã được kiểm tra, rà soát giải quyết
xong, đảm bảo đúng quy định của pháp luật thì cần chấm dứt giải quyết; có văn bản
kết luận rõ ràng, trả lời đương sự, trả lời cơ quan đã chuyển đơn và cơ quan bao chí
về việc chấm dứt khiếu nại.
Thứ năm: Chủ động, tích cực tăng cường kiểm tra, thẩm tra trực tiếp các hồ
sơ thi hành án của Chấp hành viên đang tổ chức thi hành án, trường hợp phát hiện
sai phạm trong việc tổ chức thi hành án thì cần có biện pháp xử lý, chấn chỉnh,
khắc phục kịp thời, hạn chế hậu quả xảy ra. Khi kiểm tra, nếu có phát hiện sai
phạm thì thực hiện việc kiểm điểm, nhắc nhở nghiêm túc, nếu có xảy ra sai sót
nghiêm trọng phải thực hiện xử lý nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật,
kể cả thực hiện việc bồi thường của nhà nước.
Thứ sáu: Có kế hoạch dài hạn, cụ thể để tăng cường kiểm tra chuyên đề, kiểm
tra đột xuất đối với các đơn vị mà Thủ trưởng chưa phát huy được vai trò của người
72
đúng đầu trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, có nhiều khiếu nại
vượt cấp, trong đó tập trung kiểm tra các Chi cục có nhiều đơn khiếu nại, tố cáo,
phản ánh, kiến nghị.
Thứ bảy: Thường xuyên thực hiện công tác báo cáo định kỳ, tăng cường họp
giao ban để thông qua đó rút kinh nghiệm và chấn chỉnh kịp thời đối với những tồn
tại, hạn chế trong quá trình thực hiện chỉ đạo, kết hợp vơí việc hướng dẫn, đôn đốc
giải quyết. Trường hợp đơn vị nào nào chưa thực hiện hoặc thực hiện không
nghiêm chỉ đạo của Bộ Tư pháp, của Tổng cục và của Cục thì yêu cầu trực tiếp báo
cáo, giải trình hoặc có văn bản yêu cầu giải trình lý do chậm thực hiện. Đơn vị nào
nào, địa phương nào không tích cực và nghiêm túc thực hiện chỉ đạo của cấp trên
cần nêu đích danh tại các cuộc họp báo cáo Lãnh đạo Bộ Tư pháp, Lãnh đạo Tổng
cục và các cuộc họp giao ban Thủ trưởng cơ quan THADS để có biện pháp xử lý.
73
Tiểu kết Chương 3
Nâng cao hiệu quả công tác giải quyết KN về THADS trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam cần phải bảo đảm quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng; yêu cầu của cải
cách tư pháp, cải cách hành chính; bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong quá trình
giải quyết KN về THADS; bảo đảm quyền KN của công dân trong THADS và
quyền con người, quyền công dân trong giải quyết KN về THADS.
Muốn nâng cao hiệu quả của công tác này cần thực hiện tốt các giải pháp như:
Hoàn thiện pháp luật về giải quyết KN trong lĩnh vực THADS; kiện toàn tổ chức
của cơ quan THADS; nâng cao hiệu quả trong công tác tiếp công dân, giải quyết
KN về THADS; tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo, chỉ đạo của Cấp ủy Đảng, chính
quyền địa phương trong công tác giải quyết KN về THADS; nâng cao chất lượng
của đội ngũ công chức THADS như biện pháp ngăn ngừa KN; tăng cường công tác
thanh tra, kiểm tra về THADS; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật. Các giải pháp này được thực hiện đồng bộ sẽ góp phần nâng cao hiệu
quả giải quyết KN về THADS của các cơ quan THADS trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam.
74
KẾT LUẬN
Giải quyết KN về THADS là vấn đề quan trọng cần được quan tâm cũng như
phải đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Công tác này đã và đang được Đảng, Nhà
nước, các cơ quan hữu quan quan tâm. Làm sao để giải quyết KN về THADS đối
với những vụ việc KN tồn đọng, kéo dài, KN vượt cấp, đông người một cách có
hiệu quả, dứt điểm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Thực tế những năm qua đã cho
thấy, giải quyết KN về THADS trên địa bàn tỉnh đã khẳng định vai trò to lớn của
mình trong mối quan hệ THADS nói riêng và trong toàn xã hội nói chung, góp
phần cùng các ngành, các cấp chung sức thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, cải
cách hành chính ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên hiện nay trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam vẫn còn những tồn tại làm giảm hiệu quả giải quyết KN về THADS. Với
nghiên cứu “Giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng
Nam" luận văn đã làm rõ một số vấn đề sau:
- Hệ thống hóa được những lý luận cơ bản của đề tài thông qua việc trình bày
rõ lý luận KN về THADS nhất là lý luận giải quyết KN về THADS.
- Đánh giá được thực trạng giải quyết KN về THADS trong giai đoạn 2015 -
2019.
Trên cơ sở phản ánh, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến giải quyết KN về
THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam:
- Đã phản ánh rõ và chỉ ra những kết quả đạt được trong công tác giải quyết
KN về THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
- Phân tích những tồn tại và nguyên nhân của tồn tại trong công tác giải quyết
KN về THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
- Công tác giải quyết KN về THADS là một hoạt động của cơ quan hành
chính nhà nước, có vai trò quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ của loại cơ
quan này. Việc giải quyết tốt vấn đề KN có vai trò thúc đẩy hoàn thiện về cơ chế
hành chính, xây dựng một nền hành chính vững mạnh, trong sạch, chuyên nghiệp,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Nhất là chúng ta đang trong giai đoạn xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là bảo đảm quyền lực
75
thuộc về nhân dân.
- Xuất phát từ những căn cứ mang tính thực tiễn kết hợp với các nội dung đã
được làm rõ. Luận văn đã đưa ra những quan điểm, đặc biệt đã đề xuất được các
giải pháp cụ thể nâng cao giải quyết KN về THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Trong khuôn khổ một luận văn Thạc sỹ, tác giả đã vận dụng những kiến thức
lý luận đã được tiếp thu từ sách báo, quá trình học tập tại Học viện và tìm hiểu thực
tế tại địa phương. Tuy nhiên, do còn hạn chế về thời gian, điều kiện nghiên cứu
thực tế có những khó khăn nhất định, nội dung nghiên cứu và các giải pháp nêu
trên đòi hỏi phải có thời gian kiểm nghiệm. Vì vậy, những đóng góp của luận văn
không tránh khỏi những khiếm khuyết, hạn chế nhất định. Tác giả luận văn mong
nhận được những ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các thầy cô giáo và bạn
bè, đồng nghiệp để tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện luận văn.
76
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Tuấn An (2014), Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật
trong thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học - Đại
học Luật Hà Nội.
2. Hoàng Thế Anh (2013), Giám sát thi hành án dân sự, mã số 62380101, Luận
án Tiến sĩ Luật học tại Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2007), Chỉ thị 17-CT/TW ngày 15/10/2007 về
tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền
miệng trong tình hình mới.
4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020.
5. Bộ Chính trị (2014), Chỉ thị số 35/CT-TW ngày 26/5/2014 về Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố
cáo
6. Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao (2013), Quy chế phối hợp số 14/2013/QCLN/BTP-BCA-TANDTC-
VKSNDTC ngày 09/10/2013.
7. Bộ Tư pháp (2014), Tạp chí dân chủ và pháp luật số chuyên đề: Bảo đảm
quyền con người và quyền công dân bằng thiết chế tư pháp, Nxb Tư pháp, Hà
Nội.
8. Bộ Tư pháp (2016), Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 quy định
quy trình giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh trong
thi hành án dân sự.
9. Bộ Tư pháp - Tòa án nhân dân tối cao- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2016)
Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC quy định
thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên nghành trong thi hành án dân sự.
10. Chính phủ (2013, 2014, 2015, 2016, 2017), Báo cáo công tác thi hành án dân
sự các năm (2013, 2014, 2015, 2016, 2017).
11. Chính phủ (2011), Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/01/2011 ban hành
chương t3rình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020.
12. Chính phủ (2015), Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự.
13. Chính phủ (2017), Chỉ thị số 05/2017/CT-TTg ngày 06/02/2017 Chỉ thị về
tăng cường công tác thi hành án dân sự
14. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam ( 2013, 2014, 2015, 2016, 2017),
Báo cáo tổng kết công tác thi hành án dân sự các năm 2013, 2014, 2015,
2016,2017.
15. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam (2013, 2014, 2015, 2016, 2017),
Báo cáo các vụ việc khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự các năm 2013,
2014, 2015, 2016, 2017.
16. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam (2015), Quyết định số 66/QĐ-
CTHADS ngày 25/01/2015 Quyết định ban hành Quy chế tiếp công dân
17. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam (2016), Công văn số: 159/CTHA-
KTr ngày 07/3/2016 về việc triển khai thực hiện Hướng dẫn liên ngành về
phân loại đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp.
18. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam (2017), Kế hoạch kiểm tra số
39/KH- KTGQKNTC ngày 13/02/2019
19. Cục Thi hành án dân sự, Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân
(2014), Quy chế số 230/2014/QCLN/CTHADS-CA-VKSND-TAND ngày
25/4/2014.
20. Đại từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Văn hóa- Thông tin năm 1999
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/02/2002
của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tư pháp thời
gian tới.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việ Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
23. Đảng cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và
hội nhập (Đại hội VII, VIII, IX), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. TS. Lê Thu Hà (2010), Triển khai áp dụng Luật thi hành án dân sự trong
công tác đào tạo nghiệp vụ thi hành án, Đề tài khoa học cấp cơ sở tại Học
viện Tư pháp.
25. Phan Huy Hiếu (2012), Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, Luận văn
Thạc sỹ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
26. Quốc hội (2012), Nghị quyết số 37/2012/QH13 về công tác phòng, chống vi
phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án
nhân dân và công tác thi hành án dân sự năm 2013.
27. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
28. Quốc hội (200S), Luật Thi hành án dân sự năm 2008.
29. Quốc hội (2014), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật thi hành án dân
sự.
30. Quốc hội (2011), Luật khiếu nại năm 2011.
31. Quốc hội (2015), Bộ Luật dân sự năm 2015.
32. Đặng Đình Quyền (2012), Hiệu quả áp dụng pháp luật trong thi hành án dân
sự ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học - Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh.
33. Thanh tra Chính phủ (2013), Thông tư số 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013
quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính
34. Thanh tra Chính phủ (2014), Thông tư số 07/2014/TT-TTCP ngày 31/10/2014
quy định quy trình xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh.
35. Nguyễn Quang Thái (200S), Pháp chế xã hội cjhủ nghĩa trong hoạt động thi
hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học - Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
36. Nguyễn Thanh Thủy (200S), Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt
Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học - Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh.
37. Tổng cục thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp (2013), Quy chế giải quyết khiếu
nại, tố cáo về thi hành án dân sự (Ban hành kèm theo Quyết định số
1318/QĐ- TCTHADS ngày 30/9/2013 của Tổng cục trưởng Tổng cục thi hành
án dân sự).
38. Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp, Mô hình quản lý thống nhất công
tác thi hành án, mã số 96-98-027/ĐT, đề tài khoa học cấp Bộ.
39. Tổng cục thi hành án dân sự, Kế hoạch số 930/KH-TCTHADS về việc tuyên
truyền phổ biến giáo dục pháp luật
40. Tổng cục thi hành án dân sự, Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số
1397/QĐ-TCTHADS ngày 30/12/2016 của Tổng cục Thi hành án dân sự quy
định tạm thời tiêu chí xác định việc khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự
phức tạp, kéo dài và trách nhiệm tổ chức thực hiện (Kèm theo Quyết định phê
duyệt số 295/QĐ-TCTHADS ngày 28/02/2017 của Tổng cục trưởng Tổng cục
Thi hành án dân sự)
41. Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Văn hóa- Thông tin
42. Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Thời Đại năm 2014
43. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư
pháp, Bộ Quốc phòng (2014), Hướng dẫn số 24/HD-VKSTC-TATC-BCA-
BTP-BQP ngày 06/5/2014 về việc phân loại đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt
động tư pháp.
44. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư
pháp, Bộ Quốc phòng (2010), Quy định số 200/QĐPH/VKSTC-TATC-BCA-
BTP-BQP ngày 26/01/2010 về việc phối hợp trong công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo về tư pháp.