VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ VĂN HOÀN

KÊ BIÊN, BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN

THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

TỪ THỰC TIỄN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, năm 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ VĂN HOÀN

KÊ BIÊN, BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN

THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

TỪ THỰC TIỄN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật kinh tế

Mã số: 8. 38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN MẠNH CƯỜNG

HÀ NỘI, năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sỹ: “Kê biên, bán đấu giá tài sản theo pháp

luật thi hành án dân sự từ thực tiễn Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh” là do chính

tôi thực hiện.

Toàn bộ các tài liệu, cơ sở pháp lý, các dẫn chứng số liệu được tôi sử dụng để

phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn đều đảm bảo chính xác, trung thực theo yêu

cầu của một luận văn khoa học.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 8 năm 2019

Tác giả

Lê Văn Hoàn

LỜI CẢM ƠN

Qua quá trình học tập, nghiên cứu tại Học viện Khoa học Xã hội, bản thân tôi

đã lĩnh hội được rất nhiều kiến thức, kinh nghiệm quý báu của các thế hệ Thầy, Cô

giáo, của các anh, chị, bạn bè cùng lớp, cùng khóa, cùng trường; các kiến thức, kinh

nghiệm là hành trang để tôi công tác, vận dụng vào cuộc sống ngày càng tốt hơn.

Trong thời gian học tập tại trường, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ

của quý Thầy, Cô, gia đình và bạn bè. Trước tiên, tôi xin gửi biết ơn sâu sắc nhất đến

quý Thầy, Cô ở Học viện Khoa học Xã hội với tri thức và tâm huyết của mình đã

truyền đạt những kiến thức, kinh nghiệm quý báu cho chúng tôi trong suốt thời gian

học tập tại trường.

Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ của quý Thầy,

Cô ở Học viện Khoa học Xã hội và Thầy hướng dẫn. Với tình cảm chân thành và sâu

sắc nhất, cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn đến quý Thầy, Cô đã tạo điều kiện

giúp đỡ trong quá trình nghiên cứu đề tài: “Kê biên, bán đấu giá tài sản theo pháp

luật thi hành án dân sự từ thực tiễn Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh”.

Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới thầy giáo – TS.

Nguyễn Mạnh Cường đã quan tâm giúp đỡ, hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, chu đáo để

tôi hoàn thành luận văn này với kết quả tốt nhất.

Tuy nhiên, với điều kiện thời gian cũng như kinh nghiệm còn hạn chế, luận

văn này không thể tránh được những hạn chế, thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự

chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy, cô để tôi có điều kiện bổ sung, nâng cao kiến

thức của mình, phục vụ tốt hơn công tác thực tế sau này.

Tôi xin chân thành cảm ơn.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 8 năm 2019

Tác giả

Lê Văn Hoàn

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KÊ BIÊN, BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN

THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ............................................................. 7

1.1. Kê biên tài sản theo pháp luật thi hành án dân sự ........................................... 7

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của thi hành án dân sự ........................................... 7

1.1.2. Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự ................................................. 9

1.1.3. Quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục kê biên tài sản ................... 10

1.2. Khái quát chung về bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự................ 199

1.2.1. Bán đấu giá tài sản ............................................................................... 199

1.2.2. Bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự ............................................. 22

1.2.3. Nội dung pháp luật về bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự ......... 23

1.2.4. Trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự ............. 28

Chương 2: THỰC TIỄN KÊ BIÊN, BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN TRONG THI

HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ QUẬN 10,

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................................................................................ 30

2.1. Đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của Quận 10, thành phố Hồ Chí

Minh ...................................................................................................................... 30

2.2. Thực tiễn kê biên tài sản trong thi hành án dân sự tại Quận 10, thành phố Hồ

Chí Minh ............................................................................................................... 31

2.2.1. Thực tiễn áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong thi hành án dân sự tại

Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh .................................................................. 311

2.2.2. Những hạn chế, khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân trong việc kê biên

tài sản để thi hành án dân sự tại Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh ............. 411

2.3. Thực tiễn bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự tại Quận 10, thành phố

Hồ Chí Minh ....................................................................................................... 444

2.3.1. Thẩm định giá tài sản kê biên............................................................... 444

2.3.2. Thực tiễn bán đấu giá tài sản tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10,

thành phố Hồ Chí Minh .................................................................................. 455

2.3.3. Một số khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân trong bán đấu giá tài sản

để thi hành án dân sự ....................................................................................... 59

Chương 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT GÓP

PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ KÊ BIÊN, BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN TRONG

THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ QUẬN 10,

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ................................................................................... 612

3.1. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật góp phần nâng cao hiệu quả kê biên,

bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự ....................................................... 612

3.1.1. Kiến nghị sửa đổi bổ sung một số quy định của Luật Thi hành án dân sự

liên quan đến kê biên, bán đấu giá tài sản ..................................................... 612

3.1.2. Kiến nghị sửa đổi bổ sung một số quy định của Luật Đấu giá tài sản

...................................................................................................................... 6464

3.1.3. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của Nghị định 62/1015/NĐ-

CP ngày 18/07/2015 của Chính phủ, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành

một số điều của Luật Thi hành án dân sự liên quan đến kê biên, bán đấu giá tài

sản ..................................................................................................................... 65

3.2. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của việc kê biên, bán đấu giá tài

sản trong thi hành án dân sự tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10, thành phố

Hồ Chí Minh ......................................................................................................... 69

3.2.1. Nâng cao năng lực cho Chấp hành viên, công chức làm công tác thi hành

án dân sự trong thực hiện kê biên, bán đấu giá tài sản để thi hành án ........... 69

3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện các nội dung phối hợp và thực hiện tốt cơ chế phối

hợp liên ngành trong thi hành án dân sự ......................................................... 69

3.2.3. Tranh thủ sự chỉ đạo, phối hợp, hỗ trợ của cấp ủy, chính quyền địa

phương trong kê biên, bán đấu giá tài sản để thi hành án ............................... 70

3.2.4. Giám sát chặt chẽ việc bán đấu giá tài sản kê biên của các tổ chức bán

đấu giá .............................................................................................................. 70

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 71

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Phán quyết của Tòa án được chấp hành phần lớn thông qua hoạt động thi hành

án, đã tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân dân đối với tính nghiêm minh của

pháp luật. Do vậy, hoạt động thi hành án dân sự có một ý nghĩa hết sức quan trọng,

trực tiếp góp phần giữ vững kỷ cương phép nước, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa,

bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Đảng, Nhà nước, các tổ chức và công dân.

Kê biên tài sản của người phải thi hành án là biện pháp cưỡng chế thi hành án

dân sự quy định tại Điều 71 Luật Thi hành án dân sự năm 2018 (được sửa đổi, bổ

sung năm 2014), theo đó Chấp hành viên tiến hành các trình tự, thủ tục theo quy định

tiến hành kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành để thi hành các nghĩa vụ của

người phải thi hành án bằng tiền trong các bản án, quyết định của Tòa án [32, Tr.24].

Bán đấu giá là một trong những hình thức mua bán tài sản, hàng hóa phổ biến

trong nền kinh tế thị trường. Thông qua bán đấu giá, người mua và người bán có thể

mua và bán được tài sản, hàng hóa. Đấu giá tài sản là một hoạt động mang tính dịch

vụ của tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp hoặc của Hội đồng bán đấu giá tài sản Nhà

nước theo quy định của pháp luật để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ khác nhau

nhằm thu về khoản tiền nhất định nào đó cho mục đích nhất định hoặc bảo đảm quyền,

lợi ích hợp pháp của Nhà nước, các cá nhân, tổ chức có liên quan. Đối với hoạt động

thi hành án dân sự, việc bán đấu giá tài sản được thực hiện trong hai trường hợp.

Trường hợp thứ nhất là việc Chấp hành viên thực hiện ký hợp đồng bán đấu giá với

tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp hoặc các Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản

thuộc Sở Tư pháp; trường hợp thứ hai là Chấp hành viên tự mình thực hiện việc bán

đấu giá tài sản nhằm mục đích thu tiền để tổ chức thi hành các bản án, quyết định của

Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Việc cải cách thủ tục hành chính, quy định các trình tự, thủ tục kê biên, bán

đấu giá tài sản để thi hành các bản án, quyết định của Tòa án phù hợp và đạt hiệu quả

cao đang là một trong những yêu cầu quan trọng đặt ra cho các cơ quan thi hành án

1

dân sự nói chung và tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh

nói riêng.

Thực tiễn kê biên, bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự tại Quận 10,

thành phố Hồ Chí Minh đã và đang đạt được những kết quả quan trọng, góp phần giữ

vững an ninh chính trị, trật tự an toàn tại địa phương; tạo điều kiện cho việc phát triển

kinh tế, xã hội; góp phần nâng cao niềm tin của nhân dân đối với chủ trương, đường

lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước; đảm bảo các mục tiêu hội nhập và phát triển.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thi hành án dân sự nói chung

và công tác kê biên, bán đấu giá trong thi hành án dân sự trên địa bàn Quận 10, thành

phố Hồ Chí Minh nói riêng dự báo tiếp tục gặp rất nhiều khó khăn, thách thức trong

thời gian tới, như: khó khăn về thể chế, mặc dù pháp luật về thi hành án dân sự đã

quy định tương đối đầy đủ, chi tiết, cơ bản điều chỉnh được các quan hệ phát sinh

trong đời sống kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, trong thực tiễn tổ chức thi hành án vẫn còn

bộc lộ các khó khăn, vướng mắc, chồng chéo giữa các văn bản quy pháp luật, các

ngành luật cần phải tiếp tục sửa đổi bổ sung hoàn thiện. Khó khăn về các vụ việc thi

hành án phát sinh ngày càng tăng về số vụ việc và giá trị thi hành, người phải thi hành

án luôn tìm cách trì hoãn, thậm chí chống đối thi hành án ngày càng diễn biến phức

tạp; đòi hỏi của xã hội và người dân đối với công tác thi hành án ngày càng cao; người

phải thi hành án lợi dụng các quyền khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đối với tài sản để

trốn tránh, kéo dài thi hành án gây bức xúc cho người được thi hành án ngày càng

phổ biến và đa dạng; ý thức tuân thủ pháp luật của một bộ phận không nhỏ người dân

và doanh nghiệp chưa cao, có tâm lý chạy theo đám đông, gây khó khăn cho cơ quan

thi hành án và Chấp hành viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; một số cơ quan,

tổ chức, cá nhân chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình trong phối hợp, hỗ trợ

thi hành án; một số Chấp hành viên, cán bộ thi hành án còn hạn chế về năng lực, kỹ

năng tác nghiệp, lơ là, chủ quan trong quá trình tổ chức thi hành án nên hiệu quả chưa

cao. Do đó, đòi hỏi khách quan phải tiếp tục có các đề xuất, kiến nghị góp phần hoàn

thiện thể chế; đề xuất các giải pháp để khắc phục các hạn chế, tồn tại, nâng cao hiệu

2

quả của công tác thi hành án dân sự nói chung và thủ tục kê biên, bán đấu giá tài sản

trong thi hành án dân sự nói riêng.

Vì những lý do trên tôi chọn đề tài: “Kê biên, bán đấu giá tài sản theo pháp

luật thi hành án dân sự từ thực tiễn Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh” làm luận

văn tốt nghiệp. Việc nghiên cứu vấn đề lý luận và thực tiễn về kê biên, bán đấu giá

tài sản trong thi hành án dân sự để nâng cao năng lực, kỹ năng trong quá trình thực

hiện nhiệm vụ. Trên cơ sở đó đề xuất, kiến nghị một số giải pháp cụ thể và khả thi

góp phần hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này, đồng thời khắc phục những khó

khăn, hạn chế, bất cập trong hoạt động kê biên, bán đấu giá tài sản trong thi hành án

dân sự hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Cưỡng chế kê biên, bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự đã có một số

tác giả nghiên cứu:

Luận văn Thạc sỹ: “Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay Ngân hàng trong thi

hành hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Bình Tân, thành phố

Hồ Chí Minh”, của tác giả Phạm Ngọc Thanh (Bảo vệ năm 2017 tại Học Viện Khoa

học Xã hội). Mục đích của luận văn này đã giải quyết được một số vấn đề lý luận và

quy định của pháp luật liên quan đến tài sản bảo đảm, kê biên tài sản bảo đảm tiền

vay của ngân hàng trong thi hành án dân sự. Luận văn đã nêu lên thực trạng kết quả

đạt được, cũng như những vướng mắc, khó khăn, bất cập trong việc kê biên tài sản

bảo đảm tiền vay của ngân hàng trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh.

Tác giả cũng nêu ra các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật để góp phần nâng

cao hiệu quả của việc kê biên, xử lý tài sản bảo đảm để thi hành cho các ngân hàng,

tổ chức tín dụng.

Luận văn Thạc sỹ: “Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự từ thực tiễn

Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả

Triệu Thị Diễm Thúy (Bảo vệ năm 2018 tại Học Viện khoa học xã hội). Mục đích

của luận văn này đã giải quyết được một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật

về bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự. Luận văn đã nêu lên thực trạng kết

3

quả đạt được, cũng như những vướng mắc, khó khăn, bất cập trong việc bán đấu giá

tài sản trong thi hành án dân sự từ thực tiến quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí

Minh. Tác giả cũng nêu ra các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật để góp phần

nâng cao hiệu quả của việc bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.

Các nghiên cứu khoa học trên đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực

tiễn về kê biên, bán đấu giá trong thi hành án dân sự. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có

công trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống về thực trạng kê biên, bán

đấu giá tài sản theo pháp luật thi hành án dân sự tại địa phương cụ thể Quận 10, thành

phố Hồ Chí Minh. Do đó, sau khi nghiên cứu, tiếp thu, kế thừa các quan điểm của

các công trình khoa học trên, tác giả nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống về thực trạng

kê biên, bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự, trên cơ sở đó đưa ra một số giải

pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác kê biên, bán đấu giá tài sản để thi

hành án dân sự tại Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài: nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống

cơ sở lý luận nhằm góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về kê

biên, bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự. Luận văn

cũng luận giải những cơ sở lý luận và các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục

liên quan đến việc kê biên, bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.

Nhiệm vụ nghiên cứu: trên cơ sở phân tích và đánh giá những vấn đề lý luận,

pháp lý về kê biên, bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật thi hành án dân

sự. Từ đó nhận diện, đánh giá những thuận lợi, khó khăn, những hạn chế, bất cập của

các quy định pháp luật từ thực tiễn vận dụng, áp dụng tại Chi cục Thi hành án dân sự

Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị để

góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng, đảm bảo đúng quy định của pháp luật trong

quá trình thực hiện nhiệm vụ kê biên, bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự; kiến

nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật liên quan đến kê biên, bán đấu giá

tài sản trong thi hành án dân sự, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân

sự và hoàn thiện hệ thống pháp luật.

4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn: là hoạt động kê biên, bán đấu giá tài sản

trong thi hành án dân sự từ thực tiễn Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10, thành phố

Hồ Chí Minh.

Phạm vi nghiên cứu: về nội dung: nghiên cứu phần lý luận chung về kê biên,

bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự; phần thực tiễn áp dụng pháp luật về kê

biên, bán đấu giá tài sản để thi hành án và kiến nghị hoàn thiện, nâng cao hiệu quả;

về chủ thể, địa phương áp dụng: Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10, thành phố Hồ

Chí Minh.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng

Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật và hệ thống

pháp luật hiện hành.

Phương pháp nghiên cứu: Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu

cụ thể như: phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp; phương pháp diễn dịch;

phương pháp quy nạp để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề

tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Tác giả nghiên cứu làm sáng tỏ các quy định pháp luật về kê biên, bán đấu giá

tài sản trong thi hành án dân sự. Từ thực tiễn tại địa phương, đã phân tích, đánh giá,

nhận diện tương đối toàn diện những thuận lợi, khó khăn, vướng mắc, bất cập trong

vận dụng, áp dụng và thực thi trên thực tế công tác về kê biên, bán đấu giá tài sản để

thi hành án dân sự trên địa bàn Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó đưa

ra các đề xuất, kiến nghị, giải pháp cụ thể góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật

về thi hành án dân sự và tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc nhằm nâng cao hơn nữa

hiệu quả công tác của bản thân và đơn vị.

Các nội dung thể hiện trong đề tài sẽ là tài liệu để tham khảo, nghiên cứu cho

các đối tượng muốn quan tâm, tìm hiểu về kê biên, bán đấu giá tài sản trong thi hành

án dân sự. Đồng thời, kết quả nghiên cứu đề tài là tài liệu góp phần phục vụ cho việc

5

nâng cao kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng và kinh nghiệm công tác cho các

cán bộ, công chức công tác trong ngành thi hành án dân sự. Là cơ sở để các cơ quan

nhà nước, địa phương hoạch định, xây dựng các chính sách liên quan đến thi hành án

dân sự phù hợp, đạt hiệu quả cao.

7. Kết cấu của luận văn

Bao gồm phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo; nội dung

của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về kê biên, bán đấu giá tài sản theo pháp

luật thi hành án dân sự.

Chương 2: Thực tiễn kê biên, bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự tại

Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh

Chương 3: Giải pháp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật góp phần nâng cao

hiệu quả kê biên, bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự tại Chi Cục Thi hành

án dân sự Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.

6

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KÊ BIÊN, BÁN ĐẤU GIÁ

TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1. Kê biên tài sản theo pháp luật thi hành án dân sự

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của thi hành án dân sự

1.1.1.1. Khái niệm về thi hành án dân sự

Thi hành án dân sự là hoạt động của hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự,

có chức năng tổ chức thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của

Tòa án, theo trình tự, thủ tục quy định của pháp luật, nhằm khôi phục các quyền và

lợi ích hợp pháp của Nhà nước, các tổ chức và người dân. Theo quy định của luật thi

hành án dân sự, thì các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được cơ quan thi

hành án dân sự tổ chức thi hành bao gồm:

“- Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm

không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm;

- Bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm;

- Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án;

- Bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài

nước ngoài đã được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam;

- Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh

mà sau 30 ngày, kể từ ngày có hiệu lực pháp luật đương sự không tự nguyện thi hành,

không khởi kiện tại Tòa án;

- Phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại;

- Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản” [32, tr.10].

1.1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự

Điều 106 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Bản án, quyết định của Tòa án

nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng;cơ

quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành” [27, tr.26]. Các bản

án, quyết định dân sự đã có hiệu lực của Toà án phải được đảm bảo thi hành theo

trình tự, thủ tục thi hành án dân sự.

7

Theo nguyên tắc Hiến định nêu trên thì hoạt động thi hành án dân sự là nhằm

đảm bảo thực thi nghiêm chỉnh các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp

luật. Tuy nhiên, việc xác định bản chất của thi hành án dân sự vẫn là vấn đề còn nhiều

tranh luận cả từ góc độ lý luận và thực tiễn. Dựa trên những luận cứ khác nhau, có

quan điểm cho rằng thi hành án dân sự là hoạt động tư pháp; hoạt động hành chính

hay hoạt động mang tính chất hành chính – tư pháp. Xuất phát từ các quy định pháp

luật hiện hành và thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở nước ta, nhiều ý kiến đồng

tình với quan điểm cho rằng thi hành án dân sự là hoạt động đặc thù, vừa có tính chất

của hoạt động hành chính, vừa có tính chất của hoạt động tư pháp. Điều này thể hiện

ở một số điểm sau đây:

Thi hành án dân sự và các giai đoạn tố tụng trước đó có mối quan hệ nhân quả

với nhau. Đối với các bản án hình sự hình sự, nếu ở giai đoạn điều tra, các cơ quan

tiến hành tố tụng không kiên quyết áp dụng đầy đủ, kịp thời các biện pháp ngăn chặn

như kê biên, thu giữ, phong tỏa tài sản... thì đến giai đoạn thi hành án, cơ quan thi

hành án dân sự sẽ gặp rất nhiều khó khăn do đương sự đã cố tình tẩu tán tài sản, dẫn

đến tình trạng án tồn đọng không thể thi hành được. Hoặc nếu một bản án, quyết định

được Tòa án tuyên một cách công bằng, thấu tình, đạt lý, cụ thể, rõ ràng, được dư

luận đồng tình, ủng hộ thì đến giai đoạn thi hành án việc thi hành sẽ được dễ dàng,

nhanh chóng. Trái lại, nếu bản án, quyết định của Tòa án được tuyên không công

bằng, toàn diện, khách quan, thiếu tính khả thi sẽ gây khó khăn, cản trở cho việc thi

hành án, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan nhà nước. Nếu việc thi

hành án nhanh chóng, kịp thời sẽ có tác động tích cực trở lại đối với hoạt động xét

xử, góp phần củng cố, tăng cường uy tín của cơ quan xét xử, tăng cường niềm tin của

nhân dân đối với các cơ quan nhà nước.

Quá trình thi hành án dân sự là nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu về tài

sản, về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, do đó các trình tự, thủ tục về quá trình thi

hành án dân sự cũng được quy định chặt chẽ bởi pháp luật giống như những thủ tục

tố tụng trước đó vì đều liên quan đến quyền và lợi ích của con người, của công dân.

8

1.1.2. Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự

Kê biên tài sản là một trong những biện pháp cưỡng chế bắt buộc của cơ quan

Thi hành án do Chấp hành viên quyết định theo thẩm quyền nhằm buộc đương sự

phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo Bản án, quyết định của

Tòa án, được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành

án mà không tự nguyện thi hành.

1.1.2.1. Điều kiện áp dụng biện pháp kê biên tài sản

Để áp dụng được biện pháp kê biên tài sản, cần phải căn cứ các quy định của

Luật Thi hành án dân sự, gồm:

- Bản án, quyết định của Tòa án: Bản án, quyết định của Tòa án là một trong

những căn cứ bắt buộc, không thể thiếu để thực hiện biện pháp kê biên tài sản. Điều

này được quy định tại khoản 1, điều 70 của Luật Thi hành án dân sự về căn cứ cưỡng

chế: “bản án, quyết định”. Chấp hành viên phải dựa trên cơ sở bản án, quyết định

của Tòa án để áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản.

- Quyết định thi hành án: Quyết định thi hành án là văn bản do Thủ trưởng cơ

quan Thi hành án có thẩm quyền ban hành theo một trình tự, thủ tục nhất định để thi

hành một hoặc nhiều khoản của bản án, quyết định dân sự theo thủ tục thi hành án

dân sự, làm căn cứ cho việc tổ chức cưỡng chế thi hành án, bảo đảm lợi ích nhà nước,

tổ chức và công dân.

- Người phải thi hành án có tài sản, đã hết thời hạn tự nguyện thi hành án

nhưng không tự nguyện thi hành, sẽ bị áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản

theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.

1.1.2.2. Nguyên tắc áp dụng biện pháp kê biên tài sản

Chấp hành viên căn cứ vào nội dung bản án, quyết định; quyết định thi hành

án; tính chất, mức độ, nghĩa vụ thi hành án; điều kiện của người phải thi hành án và

tình hình thực tế của địa phương để lựa chọn việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi

hành án phù hợp, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế phải tương ứng với nghĩa vụ của

người phải thi hành án và các chi phí cần thiết.

9

Sau khi ra quyết định kê biên, Chấp hành viên phải tiến hành thủ tục thông

báo cho các đương sự và những cơ quan, tổ chức có liên quan biết được nội dung

cưỡng chế. Thông báo cưỡng chế là thủ tục bắt buộc mà cơ quan thi hành án gửi, tống

đạt cho các đương sự và những cơ quan, tổ chức hữu quan để các đương sự và cơ

quan đó thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Theo quy định thì việc thông báo

được thực hiện dưới nhiều hình thức như: thông báo trực tiếp, niêm yết công khai,

thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng, ngoài ra còn có một số hình thức

thông báo khác như: thư tín, điện tín, fax, email hoặc các hình thức khác. Người đảm

nhận việc thông báo quyết định kê biên là Chấp hành viên, thư ký thi hành án giao

văn bản cần thông báo cho người được thông báo, do bưu tá, người được cơ quan thi

hành án ủy quyền, tổ chức tổ dân phố, trưởng thôn, làng, ấp, bản, khóm, buôn, phum,

sóc, Ủy ban nhân dân, Công an cấp xã; Thủ trưởng cơ quan, đơn vị, Giám thị trại

giam, trại tạm giam nơi người được thông báo có địa chỉ, cư trú, công tác.

Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản phải căn cứ vào bản án,

quyết định và từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Nguyên tắc này đòi hỏi rất cao về

mặt chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh nghề nghiệp và đạo đức Chấp hành viên.

1.1.2.3. Căn cứ áp dụng biện pháp kê biên tài sản

Khi tổ chức thi hành một bản án liên quan đến kê biên tài sản của người phải

thi hành án, thì căn cứ để tổ chức cưỡng chế thi hành án phải theo quy định chung,

trong đó hồ sơ thi hành án phải có: Bản án quyết định, đơn yêu cầu thi hành án, Quyết

định thi hành án, các văn bản tài liệu xác minh quá trình tổ chức thi hành án và cuối

cùng là Quyết định cưỡng chế thi hành án, trừ trường hợp bản án, quyết định đã tuyên

kê biên, phong tỏa tài sản, tài khoản và trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện

pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án.

1.1.3. Quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục kê biên tài sản

1.1.3.1. Ra quyết định kê biên tài sản của người phải thi hành án

Thứ nhất, thẩm quyền ra quyết định kê biên tài sản

Theo quy định tại khoản 5 Điều 20 Luật Thi hành án dân sự, thì thẩm quyền

này thuộc về Chấp hành viên được phân công tổ chức vụ việc.

10

Thứ hai, về thời điểm ra quyết định kê biên tài sản

Theo quy định tại Điều 46 Luật Thi hành án dân sự thì hết thời gian tự nguyện

thi hành án (hoặc chưa hết thời hạn tự nguyện nhưng thuộc trường hợp quy định tại

khoản 2 Đều 45 Luật Thi hành án dân sự) và xác định người phải thi hành án có tài

sản thuộc diện được kê biên để đảm bảo thi hành án. Thời hạn tự nguyện thi hành án

là 10 ngày kể từ ngày nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án.

Việc áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong thời hạn tự nguyện thi hành án thì Chấp

hành viên phải chứng minh người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài

sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.

Thứ ba, điều kiện để ra quyết định cưỡng chế kê biên tài sản

Người phải thi hành án được xác định là có điều kiện thi hành án khi người đó

có tài sản để thi hành án. Để xác định thế nào là có tài sản để thi hành án, Chấp hành

viên phải căn cứ vào quy định tại Bộ Luật dân sự năm 2015 và các văn bản pháp luật

khác có liên quan, cụ thể: Về tài sản, theo quy định tại Điều 105 Bộ Luật dân sự, thì

tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và

động sản, bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành

trong tương lai:

- Bất động sản bao gồm: đất đai; nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai;

tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng; tài sản khác theo quy định

của pháp luật.

- Động sản là những tài sản không phải là bất động sản.

- Quyền tài sản: Theo quy định tại Điều 115 Bộ Luật dân sự năm 2015 thì,

quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng

là quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.

- Giấy tờ có giá: Theo quy định tại khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam năm 2010; khoản 1 Điều 3 Thông tư 04/2016/TT-NHNN và khảo 1 Điều

2 Thông tư 01/2012/TT-NHNN, thì: Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ

trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sử dụng giấy tờ có giá trong

một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác . Như vậy, giấy tờ có

11

giá là loại giấy tờ trên đó thể hiện một giá trị thanh toán hoặc quy đổi được thành tiền

và được phép giao dịch trên thị trường theo quy định của pháp luật.

Thứ tư, lựa chọn tài sản để ra quyết định kê biên

Để có cơ sở ban hành quyết định kê biên tài sản, Chấp hành viên phải lựa chọn

tài sản để kê biên (trừ trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã tuyên kê biên tài

sản cụ thể). Khi lựa chọn tài sản để thực hiện kê biên, Chấp hành viên cần tuân thủ

các nguyên tắc sau:

- Chỉ kê biên tài sản của người phải thi hành án hoặc tài sản của người phải

thi hành án đang do người thứ ba giữ.

Theo quy định tại khoản 3, Điều 71 Luật Thi hành án dân sự, khi ra quyết

định kê biên tài sản của người phải thi hành án, Chấp hành viên phải có căn cứ pháp

lý để xác định đấy là tài sản thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án. Ví dụ:

đối với tài sản là bất động sản hoặc động sản phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử

dụng tài sản như quyền sử dụng đất, ô tô, mô tô, tàu thuyền…thì căn cứ pháp lý là

giấy chứng nhận quyền sử dụng, sở hữu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho

người phải thi hành án [32, Tr.15].

- Phải lựa chọn tài sản kê biên tương ứng với nghĩa vụ thi hành án.

Theo quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều 13 Nghị định số 62/NĐ-CP ngày

18/07/2015 của Chính phủ thì việc áp dụng biện pháp cưỡng chế nói chung, biện pháp

kê biên tài sản của người phải thi hành án nói riêng cần đảm bảo tài sản bị kê biên

phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án và các chi phí cần thiết. Do

đó, Chấp hành viên phải lựa chọn tài sản kê biên ít nhất là lớn hơn hoặc bằng nghĩa

vụ thi hành án và các chi phí cần thiết. Trường hợp người phải thi hành án chỉ có một

tài sản duy nhất lớn hơn nhiều lần so với nghĩa vụ phải thi hành án mà tài sản đó

không thể phân chia được hoặc việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản

thì Chấp hành viên vẫn có quyền áp dụng biện pháp kê biên toàn bộ tài sản đó để đảm

bảo thi hành án [14, Tr.6].

- Về thứ tự lựa chọn tài sản kê biên

Trường hợp kê biên tài sản chung của người phải thi hành án với người khác:

12

Theo quy định tại điểm a, khoản 2, Điều 24 Nghị định số 62/NĐ-CP ngày 18/07/2015

của Chính phủ, thì: “Cơ quan thi hành án dân sự chỉ kê biên, xử lý đối với tài sản

chung là quyền sử dụng đất, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất khi các tài sản

khác không đủ để thi hành án hoặc khi có đề nghị của đương sự” [14, tr.21]. Như

vậy, Chấp hành viên chỉ lựa chọn việc kê biên tài sản chung của người phải thi hành

án với người khác là quyền sử dụng đất, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất khi có

căn cứ pháp lý chứng minh người phải thi hành án không có tài sản khác đủ để thi

hành án.

Trường hợp người phải thi hành án tự nguyện giao tài sản để kê biên: Theo

quy định tại khoản 4 Đều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP 18/07/2015 của Chính

phủ, thì trường hợp người phải thi hành án tự nguyện đề nghị kê biên tài sản cụ thể

trong số nhiều tài sản mà không gây trở ngại cho việc tổ chức thi hành án và tài sản

đó đủ để thi hành án và các chi phí liên quan thì Chấp hành viên lập biên bản giải

thích cho họ về việc phải chịu mọi chi phí liên quan đến việc xử lý tài sản đó và tiến

hành kê biên tài sản để thi hành án. Người phải thi hành án bị hạn chế quyền thực

hiện giao dịch đối với tài sản khác cho đến khi thực hiện xong nghĩa vụ thi hành á

[14, Tr.22]. Do đó, khi nhận được đề nghị của người phải thi hành án về việc kê biên

một tài sản cụ thể, Chấp hành viên cần phải tuân thủ các yếu tố sau khi chấp nhận kê

biên tài sản đó: tính pháp lý của tài sản, giá trị của tài sản, tính thanh khoản của tài

sản, khả năng thuận lợi hay khó khăn của việc giao tài sản cho người trúng đấu giá

để quyết định có lựa chọn kê biên tài sản đó hay không.

Trường hợp kê biên tài sản của doanh nghiệp: Theo quy định tại khoản 5 Điều

24 Nghị định 62/NĐ-CP ngày 18/07/2015 của Chính phủ, quy định: Cơ quan thi hành

án dân sự chỉ kê biên tài sản khác của doanh nghiệp phải thi hành án, nếu sau khi đã

khấu trừ tài khoản, xử lý vàng, bạc, đá quý, kim khí quý khác, giấy tờ có giá của

doanh nghiệp đang do người thứ ba giữ mà vẫn không đủ để thi hành án, trừ trường

hợp bản án, quyết định có quyết định khác hoặc đương sự có thỏa thận khác. Như

vậy, đối với nghĩa vụ của người phải thi hành án là doanh nghiệp thì Chấp hành viên

phải lựa chọn xử lý tiền và các loại tài sản có giá trị như tiền trước khi xử lý các tài

13

sản khác (nhà xưởng, máy móc, thiết bị…) của doanh nghiệp [14, Tr.22].

- Một số lưu ý khi lựa chọn tài sản kê biên:

Không lựa chọn những tài sản mà pháp luật quy định không được kê biên: Khi

thực hiện việc kê biên tài sản, phải tuân thủ quy định tại Điều 87 Luật Thi hành án

dân sự, quy định những tài sản sau không được kê biên:

“1. Tài sản bị cấm lưu thông theo quy định của pháp luật; tài sản phục vụ quốc

phòng, an ninh, lợi ích công cộng; tài sản do ngân sách nhà nước cấp cho cơ quan,

tổ chức.

2. Tài sản sau đây của người phải thi hành án là cá nhân:

a) Số lương thực đáp ứng yêu cầu thiết yếu của người phải thi hành án và gia

đình trong thời gian chưa có thu nhập, thu hoạch mới;

b) Số thuốc cần dùng để phòng, chữa bệnh của người phải thi hành án và gia

đình;

c) Vật dụng cần thiết của người tàn tật, vật dụng dùng để chăm sóc người ốm;

d) Đồ dùng thờ cúng thông thường theo tập quán địa phương;

đ) Công cụ lao động cần thiết, có giá trị không lớn được dùng làm phương

tiện sinh sống chủ yếu hoặc duy nhất của người phải thi hành án và gia đình;

e) Đồ dùng sinh hoạt cần thiết cho người phải thi hành án và gia đình.

3. Tài sản sau đây của người phải thi hành án là doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ

sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ:

a) Số thuốc phục vụ việc phòng, chữa bệnh cho người lao động; lương thực,

thực phẩm, dụng cụ và tài sản khác phục vụ bữa ăn cho người lao động;

b) Nhà trẻ, trường học, cơ sở y tế và thiết bị, phương tiện, tài sản khác thuộc

các cơ sở này, nếu không phải là tài sản để kinh doanh;

c) Trang thiết bị, phương tiện, công cụ bảo đảm an toàn lao động, phòng,

chống cháy, nổ, phòng, chống ô nhiễm môi trường” [32, tr.77].

Việc kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp. Theo quy định tại Điều 90 Luật

Thi hành án dân sự; khoản 1 Điều 24 Nghị định số 62/NĐ-CP ngày 18/07/2015 của

Chính phủ; Điều 4 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC

14

thì cơ quan thi hành án dân sự có quyền kê biên tài sản đã cầm cố, thế chấp trong một

số trường hợp như: người phải thi hành án không còn tài sản nào khác hoặc có tài sản

nhưng không đủ để thi hành án thì Chấp hành viên có quyền kê biên, xử lý tài sản của

người phải thi hành án đang cầm cố, thế chấp nếu giá trị tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ

bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án; kể từ thời điểm bản án, quyết định có hiệu

lực pháp luật, nếu người phải thi hành án thế chấp, cầm cố tài sản cho người khác mà

không sử dụng khoản tiền thu được để thi hành án và không còn tài sản nào khác hoặc

tài sản khác không đủ để đảm bảo thi hành án thì tài sản đó vẫn bị kê biên để thi hành

án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác [14, tr.21].

Theo quy định tại Điều 11 Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của

Quốc hội, về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng thì: “Các tải sản bảo

đảm của khoản nợ xấu của bên phải thi hành án đang bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ

tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu

không bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định tại Điều 90 Luật Thi hành

án dân sự, trừ trường hợp thi hành bản án, quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt

hại về tính mạng, sức khỏe và trường hợp có sự đồng ý bằng văn bản của tổ chức tín

dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu” [33, tr.13].

Như vậy, quyền kê biên của Chấp hành viên đối với tài sản của người phải thi

hành án đã cầm cố, thế chấp cho tổ chức tín dụng để đảm bảo cho khoản nợ xấu đã

bị hạn chế. Do đó, trong trường hợp kết quả xác minh cho thấy người phải thi hành

án có tài sản nhưng đang cầm cố, thế chấp cho các tổ chức tín dụng, thì Chấp hành

viên yêu cầu tổ chức tín dụng xác định bằng văn bản khoản nợ xấu đó có phải là nợ

xấu hay không theo quy định tại Điều 4 của Nghị quyết số 42/2017/QH14 để làm cơ

sở cho việc thi hành án.

Thứ năm, thực hiện báo cáo kết quả xác minh và đề xuất việc kê biên tài sản

cho Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự.

Theo quy định của Luật Thi hành án dân sự thì Chấp hành viên là người quyết

định việc tổ chức thi hành án nói chung và việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên

tài sản nói riêng. Tuy nhiên, theo quy trình tổ chức thi hành án trong nội bộ cơ quan

15

thi hành án, trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản. Chấp hành viên

đề xuất cả nội dung cưỡng chế kê biên tài sản trong trường hợp cần huy động lực

lượng cưỡng chế để Thủ trưởng cơ quan thi hành án trao đổi, đề nghị các cơ quan liên

quan cử người tham gia phối hợp, hỗ trợ việc cưỡng chế.

Quyết định kê biên tài sản là căn cứ để xác định thứ tự ưu tiên thanh toán trong

trường hợp người phải thi hành án có nhiều nghĩa vụ phải thi hành án mà tài sản

không đủ để thi hành án. Mặt khác, việc chậm ra quyết định cưỡng chế có thể dẫn

đến trường hợp người phải thi hành án tẩu tán, hủy hoại tài sản gây khó khăn cho việc

thi hành án. Do đó, ngay sau khi có kết quả xác minh cho thấy người phải thi hành án

có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành án thì Chấp hành viên phải

báo cáo, đề xuất hướng xử lý tài sản cho Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, đồng

thời ban hành quyết định kê biên, xử lý tài sản.

Thứ sáu, về nội dung quyết định kê biên tài sản.

Nội dung quyết định kê biên, xử lý tài sản được thực hiện theo Mẫu số B26 và

C26-THA được ban hành theo Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của

Bộ Tư pháp.

1.1.3.2. Tổ chức cưỡng chế kê biên tài sản

Thứ nhất, xây dựng kế hoạch cưỡng chế kê biên tài sản

Khi cưỡng chế kê biên tài sản, thành phần tham gia ngoài cơ quan thi hành án,

còn có các cơ quan liên quan như: Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tổ chức kê biên, các

cơ quan quản lý nhà nước về đất đai, nhà ở, công an, cứu thương, cứu hỏa…tham gia

để đảm bảo việc cưỡng chế được thành công, an toàn và hiệu quả.

Thứ hai, thông báo về việc kê biên tài sản

Chấp hành viên phải tiến hành thủ tục thông báo về việc kê biên tài sản cho

người phải thi hành án, người được thi hành án và người có quyền lợi và nghĩa vụ

liên quan, biên bản thông báo được thực hiện theo mẫu số D19 Thông tư số

01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 [4, Tr.7]. Theo quy định tại Điều 39 Luật Thi hành

án dân sự về thông báo thi hành án thì thông báo việc kê biên tài sản phải được gửi

đến cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc kê biên theo quy định trong thời

16

hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra văn bản, trừ trường hợp cần ngăn chặn đương sự

tẩu tán tài sản, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án. Ngoài ra, Chấp hành viên

phải thông báo trước ít nhất là 03 ngày làm việc về thời gian, địa điểm, tài sản kê biên

cho đại diện chính quyền cấp xã, tổ dân phố nơi tổ chức cưỡng chế.

Việc thực hiện thông báo trước khi kê biên tài sản là nhằm để các cơ quan có

liên quan và các đương sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan sắp xếp, chuẩn bị

các điều kiện cần thiết để thực hiện các nghĩa vụ của mình theo luật định.

Tương tự như việc thông báo cưỡng chế nói chung, thông báo kê biên tài sản

có thể được thực hiện bằng các hình thức như: Thông báo trực tiếp hoặc qua cơ quan,

tổ chức, cá nhân khác; thông báo qua đường bưu điện; niêm yết công khai; thông báo

trên các phương tiện thông tin đại chúng. Việc thông báo phải được thực hiện trong

thời hạn là 03 ngày làm việc kể từ ngày ra văn bản. Chi phí thông báo do người phải

thi hành án chịu. Trong trường hợp đương sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan có

thay đổi về địa chỉ liên lạc thì phải kịp thời thông báo cho cơ quan thi hành án có

thẩm quyền tổ chức thi hành án biết để thực hiện việc thông báo theo địa chỉ mới.

Nếu không thông báo địa chỉ mới thì việc thông báo theo địa chỉ được xác định trước

đó cũng được xem là thông báo hợp lệ.

Thứ ba, chuẩn bị cho việc kê biên tài sản.

Để việc cưỡng chế kê biên tài được chủ động, đat hiệu quả cao thì công tác

chuẩn bị việc kê biên cũng rất quan trọng; công tác chuẩn bị càng kỹ lưỡng, chi tiết

thì hiệu quả càng cao, các nội dung cần thiết cho hoạt động cưỡng chế kê biên tài sản

gồm: Lập danh sách những người tham dự, gửi giấy mời và thông báo rõ thời gian,

địa điểm để họ tham gia buổi kê biên. Chuẩn bị các biểu mẫu nghiệp vụ như: biên

bản kê biên, biên bản giao bảo quản tài sản, biên bản mở khóa, phá khóa, biên bản

liệt kê, niêm phong tài sản. Chuẩn bị các công cụ, phương tiện cưỡng chế như: phương

tiện vận tải, bao bì, loa, giấy niêm phong...

Thứ tư, tiến hành việc kê biên tài sản.

Trong quá trình tổ chức kê biên có nhiều người và nhiều cơ quan hỗ trợ, phối

hợp, tuy nhiên Chấp hành viên là người chịu trách nhiệm chính trong việc thực hiện

17

kê biên tài sản, khi kê biên tài sản Chấp hành viên phải thực hiện kiểm tra danh sách,

lực lượng tham gia theo kế hoạch; kiểm tra các đương sự; công bố quyết định cưỡng

chế kê biên tài sản, chủ trì yêu cầu các thành phần tham gia cưỡng chế vào vị trí thực

hiện nhiệm vụ đã được phân công

Thứ năm, lập biên bản kê biên tài sản.

Khi kê biên tài sản phải lập biên bản kê biên. Việc lập biên bản có thể do Chấp

hành viên hoặc cán bộ thi hành án lập. Biên bản phải ghi rõ giờ, ngày, tháng, năm kê

biên, họ, tên Chấp hành viên, đương sự hoặc người được ủy quyền, người lập biên

bản, người làm chứng và người có liên quan đến tài sản; diễn biến của việc kê biên;

mô tả tình trạng từng tài sản, yêu cầu của đương sự và ý kiến của người làm chứng.

Biên bản kê biên có chữ ký của đương sự hoặc người được uỷ quyền, người làm

chứng, đại diện chính quyền cấp xã hoặc đại diện tổ dân phố nơi tổ chức cưỡng chế,

Chấp hành viên và người lập biên bản. Đối với biên bản kê biên quyền sử dụng đất,

tài sản gắn liền với đất thì biên bản phải ghi rõ vị trí, diện tích, ranh giới thửa đất

được kê biên và có chữ ký của những người tham gia. Trong trường hợp người phải

thi hành án không chịu ký vào biên bản kê biên thì phải ghi rõ lý do trong biên bản

và mời người làm chứng ký tên vào biên bản.

Thứ sáu, giao người bảo quản tài sản kê biên.

Trên cơ sở kết quả kê biên, Chấp hành viên lựa chọn các hình thức giao bảo

quản tài sản kê biên theo quy định tại Điều 58 Luật Thi hành án dân sự. Khi giao tài

sản cho người phải thi hành án hoặc người thân thích của họ bảo quản, Chấp hành

cần phải thông báo cho người nhận bảo quản biết trách nhiệm của họ trong việc bảo

quản tài sản và họ phải có trách nhiệm để tổ chức thẩm định giá, người đăng ký mua

tài sản được xem tài sản. Việc giao tài sản cho cá nhân hay tổ chức nào bảo quản chờ

xử lý có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bán đấu giá và giao tài sản cho người mua

trúng đấu giá sau này, vì thế Chấp hành viên cơ quan Thi hành án dân sự phải cân

nhắc hiệu quả của công việc mới quyết định giao cho cá nhân hay tổ chức nào bảo

quản tài sản kê biên, việc giao bảo quản tài sản phải được lập biên bản ghi rõ loại tài

sản; tình trạng tài sản; giờ, ngày, tháng, năm giao; họ, tên Chấp hành viên, đương sự,

18

người được giao bảo quản, người làm chứng (nếu có); quyền, nghĩa vụ của người

được giao bảo quản tài sản và có chữ ký của các bên, trường hợp có người từ chối ký

thì phải ghi vào biên bản và nêu rõ lý do.

1.2. Khái quát chung về bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự

1.2.1. Bán đấu giá tài sản

1.2.1.1. Khái niệm bán đấu giá tài sản

Đấu giá là một trong những hình thức mua bán tài sản phổ biến trong nền kinh

tế thị trường. Trong lý thuyết kinh tế, đấu giá là phương pháp xác định giá trị của một

tài sản có mức giá không thể xác định. Thông qua đấu giá, người mua và người bán

có thể mua và bán được tài sản với giá gần đúng với giá trị của tài sản đó.

Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, thì đấu giá là bán theo phương thức để cho

những người mua trả giá công khai, ai trả giá cao nhất thì bán.

Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp “Đấu giá tài

sản thông qua thủ tục trả giá công khai giữa nhiều người muốn mua và người trả giá

cao nhất là người được quyền mua tài sản” [6, tr.19] . Đấu giá tài sản có thể là bắt

buộc (theo quyết định của tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền) hoặc tự

nguyện (theo nhu cầu của chủ sở hữu tài sản). Người bán tài sản có thể tự tổ chức đấu

giá hoặc thông qua người bán đấu giá chuyên nghiệp, kinh doanh đấu giá.

Theo khoản 2, Điều 5 Luật đấu giá tài sản “Đấu giá tài sản là hình thức bán

tài sản có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc, trình tự và thủ tục

được quy định tại Luật này” [28, tr.7].

Trên thực tế, các hoạt động mua bán đấu giá đã tồn tại và phát triển một cách

khách quan cần có sự điều chỉnh của pháp luật. Bộ luật Dân sự, Luật thương mại và

các văn bản pháp luật khác ra đời đã điều chỉnh các quan hệ này. Vì vậy, theo nghĩa

rộng thì đấu giá tài sản được hiểu là phương thức tổ chức mua bán tài sản công khai

có nhiều người cùng tham gia trả giá và người nào trả giá cao nhất là người mua được

tài sản đó. Với cách hiểu này, bán đấu giá tài sản đã được hiểu là một chế định pháp

luật dân sự - thương mại bao gồm các quy phạm pháp luật về đấu giá. Các quy phạm

19

này quy định về nguyên tắc, hình thức, điều kiện, trình tự, thủ tục, nội dung đấu

giá…thông qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia.

Bên cạnh đó, bán đấu giá tài sản còn được hiểu là một hợp đồng dân sự, thương

mại tức là bán đấu giá tài sản cũng là sự thỏa thuận giữa các bên mà theo đó bên bán

chuyển giao tài sản và chuyển giao quyền sở hữu cho bên mua, còn bên mua có quyền

nhận tài sản và trả tiền cho bên bán. Là hợp đồng mua bán nên hợp đồng đấu giá cũng

mang bản chất của hợp đồng mua bán nói chung, đó là hợp đồng ưng thuận, hợp đồng

song vụ và có đền bù. Tuy nhiên, hợp đồng mua bán đấu giá có những nét đặc thù

riêng khác với hợp đồng mua bán thông thường ở đặc điểm và bản chất của nó.

Như vậy, có rất nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau về đấu giá nhưng tất

cả các quan điểm, định nghĩa đó đều thể hiện bản chất của đấu giá, đó là: Phương

thức mua bán công khai có nhiều người tham gia trả giá. Qua đó, có thể đưa ra khái

niệm cơ bản về bán đấu giá tài sản như sau: “Bán đấu giá tài sản là một hình thức

mua bán đặc biệt theo đó người mua tự trả giá dựa trên giá khởi điểm do bên bán

đưa ra. Người nào trả giá cao nhất sẽ được quyền mua tài sản đấu giá. Đấu giá được

tổ chức công khai theo những nguyên tắc và trình tự, thủ tục nhất định”.

1.2.1.2. Đặc điểm của bán đấu giá tài sản

Thứ nhất, chủ thể tham gia đăng ký mua tài sản bán đấu giá phải từ hai chủ

thể trở lên.

Chủ thể tham gia đăng ký đấu giá và tham gia phiên đấu giá phải từ hai người

trở lên. Đây là quy định khác biệt đối với các trường hợp mua bán hàng hóa không

thông qua đấu giá, quy định này đảm bảo tính cạnh tranh trả giá và đảm bảo cho tài

sản được bán với giá cao nhất.

Tuy nhiên, cũng có trường hợp ngoại lệ nhưng phải tuân theo quy định chặt

chẽ. Theo quy định tại Điều 49 Luật đấu giá tài sản 2016 có quy định, việc đấu giá

tài sản trong trường hợp chỉ có một người đăng ký tham gia đấu giá, một người tham

gia đấu giá, một người trả giá, một người chấp nhận giá chỉ được tiến hành sau khi

đã tổ chức cuộc đấu giá lần đầu nhưng không thành và được thực hiện như sau:

20

Trường hợp đấu giá theo phương thức đặt giá xuống mà chỉ có một người đăng

ký tham gia đấu giá hoặc có nhiều người đăng ký tham gia đấu giá nhưng chỉ có một

người tham gia cuộc đấu giá và chấp nhận giá khởi điểm hoặc chấp nhận mức giá sau

khi đã giảm thì tài sản được bán cho người đó nếu người có tài sản đấu giá đồng ý

bằng văn bản.

Thứ hai, hoạt động bán đấu giá phải tuân theo trình tự thủ tục do Luật đấu

giá tài sản quy định, tất cả mọi thủ tục đều phải được công khai minh bạch.

Luật đấu giá tài sản đã quy định chặt chẽ về nguyên tắc, trình tự thủ tục bán

đấu giá tài sản; đấu giá viên, tổ chức đấu giá tài sản, bồi thường thiệt hại; quản lý nhà

nước về đấu giá tài sản. Các thủ tục như chào mời các doanh nghiệp đấu giá, ký hợp

đồng ủy quyền bán đấu giá, thông báo công khai việc mua hồ sơ bán đấu giá, tiền đặt

trước, thời gian xem tài sản, chi phí bán đấu giá. Tất cả quá trình trên đều phải tuân

theo trình tự chặt chẽ, thống nhất. Nếu vi phạm về thủ tục thì kết quả bán đấu giá sẽ

bị hủy gây tốn thời gian, tiền bạc làm thiệt hại đến quyền, lợi ích của các bên tham

gia đấu giá, người có tài sản bán đấu giá.

Thứ ba, tính công khai là nét đặc trưng của hoạt động bán đấu giá.

Mọi thông tin liên quan đến cuộc bán đấu giá đều phải được thông báo công

khai theo trình tự thủ tục quy định, nhằm đảm bảo sự khách quan và trung thực trong

suốt quá trình tổ chức bán đấu giá.

Việc tuân thủ nghiêm túc và triệt để trình tự, thủ tục luật định khi bán đấu giá

sẽ đảm bảo hiệu quả về mặt pháp lý cho tài sản được đấu giá. Khi đó các thông tin về

tài sản bán đấu giá sẽ được thông tin đến đông đảo người có nhu cầu mua và người

có tài sản đấu giá sẽ có cơ hội bán được với giá cao nhất.

Thứ tư, tài sản trong đấu giá rất đa dạng.

Tài sản thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức là những tài sản được phép giao

dịch theo quy định của pháp luật, ví dụ như hàng hóa, một số loại đồ cổ, tác phẩm

nghệ thuật, đồ sưu tầm, phương tiện giải trí, bất động sản, đồ dùng gia đình, hàng tiêu

dùng, đồ văn phòng, máy tính... Tài sản trong thi hành án dân sự là các tài sản để thi

hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự; tài sản là tang vật, phương

21

tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ nhà nước theo quy định của pháp luật

về xử lý vi phạm hành chính; tài sản nhà nước phải bán đấu giá tài sản theo quy định

của pháp luật về quản lý tài sản nhà nước.

1.2.2. Bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự

1.2.2.1. Khái niệm bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự

Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự là hình thức bán đấu giá do pháp

luật quy định nhằm để thi hành nghĩa vụ trả tiền trong bản án, quyết định của Tòa án

các cấp; phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại, quyết định của Tòa án giải

quyết phá sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh

tranh.

Sau khi kê biên, định giá tài sản, nếu người phải thi hành án và người được thi

hành án không thỏa thuận được việc thi hành án thì Chấp hành viên căn cứ vào loại

tài sản là bất động sản hay động sản, căn cứ vào kết quả thẩm định giá để xác định

thủ tục bán tài sản theo quy định của pháp luật

1.2.2.2. Đặc điểm của bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự

Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự là hoạt động mang tính đặc thù do

Chấp hành viên thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định nhằm xử lý tài sản của người

phải thi hành án để thi hành các bản án, quyết định của Tòa án. Do vậy, bán đấu giá

tài sản trong thi hành án dân sự có những đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, hoạt động bán đấu giá tài sản trong thi hành án chỉ phát sinh sau khi

Chấp hành viên hoặc các cơ quan tố tụng khác cưỡng chế kê biên tài sản của người

phải thi hành án, người bảo lãnh.

Thứ hai, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia hợp đồng mua bán tài

sản đấu giá là bình đẳng với nhau.

Thứ ba, Chấp hành viên phải phong tỏa tài khoản tiền đặt trước, cho người

tham gia đấu giá nộp vào và không cho rút ra.

Thứ tư, hợp đồng bán đấu giá tài sản có thể hủy theo quy định riêng của Luật

thi hành án.

22

1.2.3. Nội dung pháp luật về bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự

Sau khi thực hiện việc kê biên tài sản và thẩm định giá tài sản, theo quy định

tại khoản 2 Điều 98 Luật thi hành án dân sự, nếu các đương sự không thỏa thuận được

việc lựa chọn tổ chức bán đấu giá tài sản, thì Chấp hành viên lựa chọn tổ chức bán

đấu giá.

Tuy nhiên, theo quy định thì Chấp hành viên được quyền bán tài sản trong các

trường hợp sau: Thứ nhất, Chấp hành viên sẽ tổ chức bán đấu giá tài sản mà tại tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản chưa có tổ chức bán đấu giá hoặc có

nhưng tổ chức bán đấu giá từ chối ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản. Đây là

trường hợp Chấp hành viên tự mình thực hiện việc bán đấu giá theo đúng quy định

của Luật thi hành án dân sự và Luật đấu giá tài sản như đối với một Đấu giá viên

thông thường. Thứ hai, Chấp hành viên tự mình thực hiện bán đấu giá đối với các tài

sản là động sản có giá trị từ 2.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng. Việc bán đấu giá

đối với động sản phải được thực hiện trong thời hạn là 30 ngày, đối với bất động sản

là 45 ngày, kể từ ngày định giá hoặc từ ngày nhận được văn bản của tổ chức bán đấu

giá từ chối bán đấu giá.

Trình tự thủ tục bán đấu giá tài sản được quy định chặt chẽ từ Điều 101 đến

Điều 104 Luật thi hành án dân sự, Điều 27 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính

phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự,

Luật đấu giá tài sản, Nghị định 62/2017/NĐ-CP ngày 16/5/2017 quy định chi tiết một

số điều và biện pháp thi hành Luật đấu giá tài sản; Thông tư số 45/2017/TT-BTP ngày

12/5/2017 của Bộ Tư pháp, cụ thể:

- Thứ nhất, lựa chọn ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản đối với tổ chức đấu

giá tài sản.

Thời hạn, thực hiện trong 10 ngày kể từ ngày có chứng thư thẩm định giá hoặc

thỏa thuận về giá giữa các đương sự gồm người được thi hành án và người phải thi

hành án, Chấp hành viên phải có nghĩa vụ ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản

với tổ chức bán đấu giá. Việc bán đấu giá tài sản đối với động sản phải được thực

hiện trong thời hạn 30 ngày, đối với bất động sản là 45 ngày, kể từ ngày ký hợp đồng.

23

Luật Thi hành án dân sự đã quy định Chấp hành viên thực hiện ký hợp đồng dịch vụ

bán đấu giá tài sản phải tuân thủ các quy định như sau:

Trường hợp Chấp hành viên lựa chọn thì phải thông báo trên trang thông tin

điện tử Cục thi hành án dân sự cấp tỉnh nơi có tài sản đấu giá.

Nội dung hợp đồng: Đây là những điều khoản của hợp đồng dịch vụ đấu giá,

là nội dung khá quan trọng, Chấp hành viên phải nghiên cứu thật kỹ và chỉnh sửa lại

điều khoản hợp đồng cho phù hợp với thực tế tài sản, sau đó chính thức phát hành.

Điều khoản phí bán đấu giá: Theo quy định tại Điều 66 Luật đấu giá tài sản

2016 quy định về thu lao dịch vụ đấu giá, chi phí đấu giá tài sản gồm thù lao dịch vụ

đấu giá, chi phí đấu giá tài sản do người có tài sản đấu giá và Tổ chức đấu giá tài sản

thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản. Chi phí đấu giá tài sản bao gồm

chi phí niêm yết, thông báo công khai, chi phí thực tế hợp lý khác cho việc đấu giá

tài sản do người có tài sản đấu giá và tổ chức đấu giá tài sản thỏa thuận [28, Tr.34].

Điều khoản tiền bán đấu giá thành: Theo quy định tại khoản 3 Điều 27 Nghị

định 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18/7/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn

thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự, quy định: “Người mua được tài

sản bán đấu giá phải nộp tiền vào tài khoản của cơ quan thi hành án dân sự trong

thời hạn không quá 15 ngày, kể từ ngày đấu giá thành. Trong thời hạn không quá 30

ngày, trường hợp khó khăn, phức tạp thì không quá 60 ngày, kể từ ngày người mua

được tài sản nộp đủ tiền, cơ quan thi hành án phải tổ chức việc giao tài sản cho người

mua được tài sản, trừ trường hợp có sự kiện bất khả kháng” [14, tr.24].

Điều khoản về hủy kết quả bán đấu giá: Theo quy định tại Điều 102 Luật Thi

hành án dân sự, thì: “Người mua được tài sản đấu giá, Chấp hành viên có quyền khởi

kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, nếu có căn

cứ chứng minh có vi phạm trong quá trình bán đấu giá tài sản” [32, tr.88]. Quy định

trên đã giới hạn chủ thể có quyền khởi kiện đề nghị Tòa hủy kết quả bán đấu giá,

nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng của người mua tài sản đấu giá.

Theo quy định tại Điều 72 Luật đấu giá tài sản 2016, thì việc hủy kết quả đấu

giá tài sản được thực hiện trong các trường hợp:

24

+ Theo thỏa thuận giữa người có tài sản đấu giá, Tổ chức đấu giá tài sản và

người trúng đấu giá về việc hủy kết quả đấu giá tài sản hoặc giữa người có tài sản đấu

giá và người trúng đấu giá về việc hủy giao kết hợp đồng mua bán tài sản đấu giá,

hủy bỏ hợp đồng mua bán tài sản đấu giá, trừ trường hợp gây thiệt hại hoặc làm ảnh

hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.

+ Hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản, hợp đồng mua bán tài sản đấu giá bị Tòa

án tuyên bố vô hiệu theo quy định của pháp luật về dân sự trong trường hợp người

trúng đấu giá có hành vi vi phạm quy định tại điểm b khoản 5 Điều 9 của Luật đấu

giá tài sản 2016.

+ Hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản bị hủy bỏ theo quy định tại khoản 6 Điều

33 của Luật đấu giá tài sản 2016.

+ Người có tài sản đấu giá, người tham gia đấu giá, người trúng đấu giá, tổ

chức đấu giá tài sản, Đấu giá viên có hành vi thông đồng, móc nối, dìm giá trong quá

trình tham gia đấu giá dẫn đến làm sai lệch thông tin tài sản đấu giá hoặc hồ sơ tham

gia đấu giá hoặc kết quả đấu giá tài sản.

+ Theo quyết định của người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong

trường hợp đấu giá tài sản nhà nước khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản

6 Điều 33 của Luật đấu giá tài sản 2016 [28, tr.28].

- Thứ hai, tổ chức thực hiện hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản.

Người thực hiện gồm đấu giá viên và tổ chức đấu giá. Đấu giá viên, tổ chức

bán đấu giá sẽ tiến hành các thủ tục như bán hồ sơ đấu giá, thông báo công khai việc

bán đấu giá tài sản, hướng dẫn người đăng ký mua tài sản xem tài sản. Người chịu

trách nhiệm kiểm tra, giám sát quá trình bán đấu giá là Chấp hành viên. Việc bán đấu

giá đối với bất động sản phải được thực hiện trong thời hạn là 30 ngày, đối với bất

động sản là 45 ngày, kể từ ngày ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản.

Ban hành Quy chế cuộc đấu giá: Để thực hiện việc ban hành quy chế bán đấu

giá tài sản, Chấp hành viên cần tham khảo các quy chế bán đấu giá tài sản của các tổ

chức đấu giá chuyên nghiệp, các nội dung, nội quy bán đấu giá phải được công khai

và phù hợp với quy định tại Điều 34 Luật đấu giá tài sản, gồm các nội dung cơ bản

25

gồm: tên tài sản hoặc danh mục tài sản, số lượng, chất lượng của tài sản đấu giá, nơi

có tài sản đấu giá, giấy tờ về quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản đấu giá; thời gian,

địa điểm xem tài sản đấu giá; thời gian, địa điểm bán hồ sơ tham gia đấu giá; giá khởi

điểm của tài sản đấu giá trong trường hợp công khai giá khởi điểm; tiền mua hồ sơ

tham gia đấu giá, tiền đặt trước; thời gian, địa điểm, điều kiện, cách thức đăng ký

tham gia đấu giá; thời gian, địa điểm tổ chức cuộc đấu giá; hình thức đấu giá, phương

thức đấu giá; các trường hợp bị truất quyền tham gia đấu giá, các trường hợp không

được nhận lại tiền đặt trước.

Thực hiện việc niêm yết công khai đấu giá tài sản: Đối với tài sản là động sản

thì Chấp hành viên phải niêm yết việc đấu giá tài sản tại trụ sở cơ quan thi hành án

dân sự, nơi trưng bày tài sản và nơi tổ chức cuộc đấu giá ít nhất là 7 ngày làm việc

trước ngày mở cuộc đấu giá. Như vậy, theo quy định này trong trường hợp có tổ chức

trưng bày tài sản thì mới phải thực hiện việc niêm yết tại nơi trưng bày tài sản. Đối

với tài sản là bất động sản, Luật đấu giá tài sản đã giảm thời gian niêm yết, tức là

giảm 15 ngày và bỏ quy định phải niêm yết tại nơi có bất động sản đấu giá. Theo đó,

trường hợp đấu giá tài sản là bất động sản thì Chấp hành viên, tổ chức bán đấu giá

phải niêm yết việc đấu giá tài sản tại trụ sở cơ quan thi hành án dân sự, nơi tổ chức

cuộc đấu giá và Ủy ban nhân dân cấp xã phường nơi có bất động sản đấu giá ít nhất

là 15 ngày trước ngày mở cuộc đấu giá.

Luật Đấu giá tài sản quy định trách nhiệm lưu trữ, tài liệu, hình ảnh niêm yết

trong hồ sơ đấu giá của tổ chức đấu giá. Đối với trường hợp niêm yết tại Ủy ban nhân

dân cấp xã, phường nơi có bất động sản đấu giá thì Chấp hành viên phải lưu tài liệu,

biên bản về việc niêm yết có xác nhận về việc niêm yết của Ủy ban nhân dân cấp xã,

phường và phải lưu giữ trong hồ sơ thi hành án bản sao toàn bộ hồ sơ đấu giá.

Thông báo công khai việc bán đấu giá: Luật đấu giá tài sản quy định thông báo

công khai bán đấu giá phải đầy đủ các nội dung gồm: tên, địa chỉ của Tổ chức đấu

giá tài sản và người có tài sản đấu giá; tên tài sản hoặc danh mục tài sản, số lượng,

chất lượng của tài sản đấu giá; nơi có tài sản đấu giá; giấy tờ về quyền sở hữu, quyền

sử dụng đối với tài sản bán đấu giá; thời gian, địa điểm xem tài sản đấu giá; thời gian,

26

địa điểm bán hồ sơ tham gia đấu giá; giá khởi điểm của tài sản bán đấu giá trong

trường hợp công khai giá khởi điểm; tiền mua hồ sơ tham gia đấu giá, tiền đặt trước;

thời gian, địa điểm tổ chức cuộc đấu giá; hình thức đấu giá, phương thức đấu giá.

Theo Điều 57 Luật Đấu giá tài sản 2016 thì việc thông báo công khai đấu giá

tài sản, ngoài việc niêm yết theo quy định tại Điều 35 Luật Đấu giá tài sản 2016, thì

đối với tài sản đấu giá là động sản có giá khởi điểm từ năm mươi triệu đồng trở lên

và bất động sản thì tổ chức đấu giá tài sản phải thông báo công khai ít nhất hai lần

trên báo in hoặc báo hình của Trung ương hoặc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

nơi có tài sản đấu giá và trang thông tin điện tử chuyên ngành về đấu giá tài sản, mỗi

lần thông báo công khai cách nhau ít nhất 2 ngày làm việc. Tuy nhiên, theo quy định

tại Điều 3 Luật Báo chí 2016 thì “báo in là loại hình báo chỉ sử dụng chữ viết, tranh,

ảnh, thực hiện bằng phương tiện in để phát hành đến bạn đọc, gồm báo in, tạp chí in”

và “báo hình là loại hình báo chí sử dụng hình ảnh là chủ yếu, kết hợp tiếng nói, âm

thanh, chữ viết, được truyền dẫn, phát sóng trên các hạ tầng kỹ thuật ứng dụng công

nghệ khác nhau”.

Tổ chức xem tài sản đấu giá: Chấp hành viên có trách nhiệm tạo điều kiện cho

những người có nhu cầu tham gia mua đấu giá tài sản thực hiện việc xem tài sản bán

đấu giá theo thời gian, địa điểm trong thông báo bán đấu giá.

Bán hồ sơ, tiếp nhận hồ sơ: Chấp hành viên phải có trách nhiệm giám sát tổ

chức bán đấu giá thực hiện việc bán hồ sơ tham gia đấu giá, tiếp nhận hồ sơ tham gia

đấu giá trong giờ hành chính, liên tục kể từ ngày niêm yết việc đấu giá tài sản cho

đến trước ngày mở cuộc đấu giá 02 ngày. Tổ chức bán đấu giá không được đặt thêm

yêu cầu, điều kiện đối với người tham gia đấu giá trừ các điều kiện đăng ký tham gia

đấu giá quy định tại Luật đấu giá tài sản và pháp luật luật có liên quan.

Tổ chức cuộc đấu giá, điều hành cuộc đấu giá: Đấu giá viên phải là người giữ

vai trò chủ đạo, khéo léo dẫn dắt những người tham gia đấu giá, khuyến khích họ trả

giá, tạo không khí sôi nổi cho cuộc bán đấu giá. Tùy theo sự lựa chọn về hình thức

đấu giá và phương thức đấu giá để đấu giá viên điều hành cuộc đấu giá cho phù hợp

và đạt hiệu quả cao nhất nhưng không trái các nguyên tắc của pháp luật. Do vậy, theo

27

Điều 40 Luật đấu giá tài sản 2016, thì tổ chức đấu giá tài sản thỏa thuận với người có

tài sản đấu giá để lựa chọn một trong các hình thức và phương thức đấu giá sau đây

để tiến hành cuộc đấu giá cho phù hợp và hiệu quả.

- Thứ ba, hoàn thiện các thủ tục của cuộc đấu giá tài sản.

Tổ chức bán đấu giá phải hoàn thiện tất cả thủ tục bán đấu giá trong thời hạn

3 ngày làm việc kể từ khi kết thúc phiên đấu giá; nội dung: ghi kết quả đấu giá vào

Sổ đăng ký đấu giá; hoàn thiện hồ sơ đấu giá, chuyển hồ sơ đấu giá; chuyển tiền đặt

trước của người mua trúng đấu giá cho cơ quan thi hành án dân sự có tài sản đưa ra

đấu giá; trả tiền đặt trước cho những người không trúng đấu giá; ký hợp đồng mua

bán tài sản đấu giá, chủ thể thực hiện gồm chấp hành viên, người mua trúng đấu giá

và tổ chức bán đấu giá; thu tiền của người mua bán tài sản đấu giá; giao tài sản cho

người mua trúng đấu giá, thời hạn thực hiện hợp đồng là 75 ngày kể từ ngày trúng

đấu giá. Tuy nhiên, trong trường hợp vụ việc phức tạp thì có thể kéo dài hơn tùy theo

thỏa thuận trong hợp đồng.

1.2.4. Trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự

Luật đấu giá tài sản đã quy định một cách cụ thể, chi tiết hơn về Tổ chức đấu

giá và Đấu giá viên, Luật đấu giá tài sản đã luật hóa các quy định về trình tự thủ tục

bán đấu giá, bổ sung nhiều quy định mới về trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản nói

chung, cũng như bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự nói riêng.

Tại Điều 55 Luật Đấu giá tài sản đã quy định về việc áp dụng trình tự, thủ tục

trong trường hợp đấu giá tài sản mà pháp luật quy định phải bán thông qua đấu giá.

Theo đó, việc đấu giá các tài sản quy định tại khoản 1 Điều 4 như: tài sản Nhà nước

theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; tài sản được xác

lập quyền sở hữu toàn dân theo quy định của pháp luật; tài sản theo quy định pháp

luật về giao dịch bảo đảm; tài sản thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành

án dân sự thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định tại Chương III và Chương IV của

Luật Đấu giá tài sản 2016. Do đó, khi thực hiện việc đấu giá tài sản để thi hành án thì

Chấp hành viên cần căn cứ các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự và quy

định tại Luật Đấu giá tài sản 2016 và các văn bản hướng đẫn thi hành để thực hiện

28

theo các trình tự, thủ tục sau:

- Thứ nhất, lựa chọn ký hợp đồng dịch vụ đấu giá với tổ chức đấu giá

Thực hiện trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày có chứng thư thẩm định giá; lựa

chọn tổ chức bán đấu giá (theo thỏa thuận của đương sự hoặc Chấp hành viên lựa

chọn), trường hợp Chấp hành viên lựa chọn thì phải thông báo trên Trang thông tin

điện tử Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có tài sản

đấu giá; thỏa thuận các điều khoản của hợp đồng dịch vụ đấu giá; ký kết hợp đồng

dịch vụ đấu giá.

- Thứ hai, tổ chức thực hiện hợp đồng dịch vụ đấu giá

Người thực hiện là Đấu giá viên và Tổ chức đấu giá; người kiểm tra, giám sát

là Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự; thời hạn thực hiện: đối với động sản

là 30 ngày kể từ ngày ký hợp đồng, đối với bất động sản là 45 ngày kể từ ngày ký

hợp đồng; nội dung các công việc của Tổ chức bán đấu giá và Đấu giá viên phải thực

hiện là ban hành quy chế cuộc đấu giá, thực hiện việc niêm yết công khai, thông báo

công khai việc bán đấu giá, tổ chức cho khách hành xem tài sản, bán và tiếp nhận hồ

sơ, thu tiền đặt trước, tổ chức và điều hành cuộc đấu giá.

- Thứ ba, hoàn thiện các thủ tục của cuộc đấu giá

Thời hạn thực hiện là 03 ngày làm việc kể từ khi kết thúc phiên đấu giá; người

thực hiện là tổ chức bán đấu giá; nội dung công việc là ghi kết quả đấu giá vào sổ

đăng ký đấu giá, hoàn thiện hồ sơ đấu giá, chuyển hồ sơ đấu giá, chuyển tiền đặt trước

của người mua trúng đấu giá cho cơ quan thi hành án dân sự, lập thủ tục trả tiền đặt

trước cho người không trúng đấu giá.

- Thứ tư, ký và thực hiện hợp đồng mua bán tài sản đấu giá

Ký hợp đồng mua bán tài sản đấu giá: chủ thể là Chấp hành viên, người mua

trúng đấu giá và tổ chức bán đấu giá; thực hiện hợp đồng mua bán tài sản đấu giá: thu

tiền mua tài sản của người trúng đấu giá, phối hợp tiến hành các thủ tục giao tài sản

cho người trúng đấu giá sau khi họ nộp đủ tiền; thời hạn thực hiện hợp đồng: 75 ngày

kể từ ngày tổ chức bán đấu giá và xác định được người mua tài sản.

Tiểu kết chương 1

29

Trong chương này tác giả trình bày một số vấn đề lý luận liên quan đến khái

niệm, đặc điểm bản chất của thi hành án dân sự; của kê biên tài sản, bán đấu giá tài

sản trong thi hành án dân sự. Tác giả cũng đi sâu phân tích các quy định của pháp

luật về đặc điểm, điều kiện áp dụng, trình tự, thủ tục cưỡng chế kê biên tài sản, bán

đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự. Từ đó làm cơ sở cho việc tìm hiểu, nghiên

cứu thực trạng cưỡng chế kê biên, bán đấu giá tài sản theo pháp luật thi hành án dân

sự qua thực tiễn tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh

được đề cập ở chương tiếp theo.

Chương 2

THỰC TIỄN KÊ BIÊN, BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN

TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN

DÂN SỰ QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1. Đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của Quận 10, thành phố

Hồ Chí Minh

Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị hành chính cấp huyện có diện tích

571,8 ha, dân số 266.320 người, có 15 đơn vị hành chính cấp phường. Trên lĩnh vực

kinh tế, hoạt động thương mại – dịch vụ phát triển mạnh, mạng lưới phát triển đa

dạng, với hơn 7.162 doanh nghiệp, 26 Hợp tác xã và 9.230 hộ sản xuất – kinh doanh

30

cá thể, 07 chợ (trong đó có 02 chợ loại II và 05 chợ loại III), 02 trung tâm thương

mại, 08 siêu thị, 01 khu chuyên doanh dược phẩm và trang thiết bị y tế.

Là địa bàn phát triển kinh tế năng động, ví trí địa lý thuận lợi, kết nối với các

quận trung tâm của thành phố Hồ Chí Minh. Số vụ việc tranh chấp về dân sự, kinh

tế, thương mại ngày càng tăng về số vụ việc và giá trị; số lượng vụ việc và giá trị phải

thi hành án ngày càng tăng năm sau cao hơn năm trước.

2.2. Thực tiễn kê biên tài sản trong thi hành án dân sự tại Quận 10, thành

phố Hồ Chí Minh

2.2.1. Thực tiễn áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong thi hành án dân sự

tại Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh

Kết quả thi hành hành án dân sự 9 tháng đầu năm 2019 trên toàn quốc (từ ngày

01/10/2018 đến ngày 30/6/2019) đã thụ lý và giải quyết:

- Về việc: Tổng số thụ lý là 765.766 việc, tăng 33.037 việc (tăng 4,51% so với

cùng kỳ năm 2018), trong đó: Số cũ chuyển sang là 341.855 việc; Số thụ lý mới là

423.911 việc, tăng 11.030 việc (tăng 2,67% so với cùng kỳ năm 2018). Tổng số phải

thi hành là 758.323 việc, tăng 33.037 việc (tăng 4,56% so với cùng kỳ năm 2018),

trong đó: Số có điều kiện thi hành là 558.468 việc, tăng 6.457 việc (tăng 1,17% so

với cùng kỳ năm 2018); chiếm 73,65% trong tổng số phải thi hành (giảm 2,46% so

với cùng kỳ năm 2018). Đã thi hành xong 336.404 việc, tăng 2.958 việc (tăng 0,89%

so với cùng kỳ năm 2017); đạt tỉ lệ 60,24% (giảm 0,17% so với cùng kỳ năm 2018).

Số việc chuyển kỳ sau 421.919 việc, tăng 30.079 việc (tăng 7,68% so với cùng kỳ

năm 2018).

- Về tiền: Tổng số thụ lý là 241.358 tỷ 271 triệu 213 nghìn đồng, tăng 63.859

tỷ 293 triệu 641 nghìn đồng (tăng 35,98% so với cùng kỳ năm 2018), trong đó: Số cũ

chuyển sang là 140.804 tỷ 330 triệu 025 nghìn đồng; Số thụ lý mới là 100.553 tỷ 941

triệu 188 nghìn đồng, tăng 45.902 tỷ 984 triệu 317 nghìn đồng (tăng 83,99% so với

cùng kỳ năm 2018). Tổng số phải thi hành là 231.401 tỷ 299 triệu 159 nghìn đồng,

tăng 56.631 tỷ 748 triệu 508 nghìn đồng (tăng 37,54% so với cùng kỳ năm 2018),

trong đó: Số có điều kiện thi hành là 149.246 tỷ 423 triệu 501 nghìn đồng, tăng 48.877

31

tỷ 635 triệu 488 nghìn đồng (tăng 48,70% so với cùng kỳ năm 2018);

chiếm 64,50% trong tổng số phải thi hành (tăng 4,58% so với cùng kỳ năm 2018). Đã

thi hành xong là 23.899 tỷ 852 triệu 564 nghìn đồng, tăng 7.259 tỷ 948 triệu 424

nghìn đồng (tăng 43,63% so với cùng kỳ năm 2018); đạt tỉ lệ 16,01% (giảm 0,57%

so với cùng kỳ năm 2018). Số tiền chuyển kỳ sau 207.501 tỷ 446 triệu 595 nghìn

đồng, tăng 56.631 tỷ 748 triệu 508 nghìn đồng (tăng 37,54% so với cùng kỳ năm

2018) [35, tr.5].

Kết quả thi hành hành án dân sự 9 tháng đầu năm 2019 tại thành phố Hồ Chí

Minh (từ ngày 01/10/2018 đến ngày 30/6/2019) đã thụ lý và giải quyết:

- Về việc: Tổng số thụ lý là 98.353 việc, tăng 33.037 việc (tăng 0,10% so với

cùng kỳ năm 2018), trong đó: Số cũ chuyển sang là 43.327 việc; Số thụ lý mới là

55.026 việc, tăng 1.673 việc (tăng 3,14% so với cùng kỳ năm 2018), trong đó: Số có

điều kiện thi hành là 97.355 việc, chiếm 74,62% trong tổng số phải thi hành (giảm

4,58% so với cùng kỳ năm 2018); Đã thi hành xong 43.116 việc, đạt tỉ

lệ 59,35% (giảm 2,31% so với cùng kỳ năm 2018). Số việc chuyển kỳ sau 54.239

việc, trong đó số viêc có điều kiện thi hành là 29.532 việc, so với cùng kỳ năm 2018)

giảm 348 việc (1,16%).

- Về tiền: Tổng số thụ lý là 94.433 tỷ 705 triệu 534 nghìn đồng, tăng 29.792

tỷ 341 triệu 996 nghìn đồng (tăng 46,09% so với cùng kỳ năm 2018), trong đó: Số cũ

chuyển sang là 47.830 tỷ 131 triệu 008 nghìn đồng; Số thụ lý mới là 46.603 tỷ 584

triệu 526 nghìn đồng, tăng 33.932 tỷ 272 triệu 869 nghìn đồng (tăng 267,79% so với

cùng kỳ năm 2018), trong đó: Số có điều kiện thi hành là 60.606 tỷ 563 triệu 780

nghìn đồng, tăng 48.877 tỷ 635 triệu 488 nghìn đồng (tăng 48,70% so với cùng kỳ

năm 2018); chiếm 65,56% trong tổng số phải thi hành (tăng 129,95% so với cùng kỳ

năm 2018). Đã thi hành xong là 12.703 tỷ 041 triệu 852 nghìn đồng, tăng 7.259 tỷ

948 triệu 424 nghìn đồng (tăng 43,63% so với cùng kỳ năm 2018); đạt tỉ

lệ 20,96% (tăng 0,34% so với cùng kỳ năm 2018), Số tiền chuyển kỳ sau 79.739 tỷ

823 triệu 879 nghìn đồng, trong đó số tiền có điều kiện thi hành là 47.903 tỷ 521 triệu

32

929 nghìn đồng, tăng 26.981 tỷ 552 triệu 439 nghìn đồng (tăng 128,96% so với cùng

kỳ năm 2018) [20, tr.7].

Quận 10 là quận trung tâm thành phố Hồ Chí Minh, những năm gần đây kinh

tế tiếp tục tăng trưởng ở mức cao, an sinh xã hội ngày càng được cải thiện, đời sống

vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; an ninh chính trị, trật

tự an toàn xã hội được đảm bảo; hàng năm đạt và vượt các chỉ tiêu về kinh tế xã hội

do thành phố giao; công tác thi hành án dân sự ngày càng được quan tâm và chú trọng,

hàng năm đều đạt và vượt các chỉ tiêu, nhiệm vụ về thi hành án dân sự do ngành giao.

Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, nợ xấu giảm dần

nhưng vẫn còn ở mức cao, nhiều vụ án về dân sự, kinh tế phức tạp có giá trị lớn phải

thi hành ngày càng phổ biến; do sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường dẫn đến nhiều

doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, rơi vào tình trạng giải thể, phá sản dẫn đến không thanh

toán được các khoản nợ vay từ các tổ chức tín dụng dẫn đến các tranh chấp trong

quan hệ giao dịch dân sự, thương mại tăng lên nhiều với giá trị bồi thường, hoàn trả

ngày càng lớn; nhiều vụ tranh chấp hợi đồng tín dụng, hợp đồng mua bán tài sản giá

trị lớn, tài sản khó xử lý, đây là thách thức rất lớn cho công tác thi hành án dân sự.

Trước tình hình trên, được sự quan tâm, chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời của lãnh đạo Tổng

cục Thi hành án dân sự, Cục Thi hành án dân sự, Quận ủy, Ủy ban nhân dân Quận

10; sự phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả của các cơ quan liên quan; cùng với sự nỗ lực,

phấn đấu của toàn thể cán bộ công chức làm công tác thi hành án dân sự với tinh thần

quyết tâm chính trị cao, nên công tác thi hành án dân sự trên địa bàn Quận 10 đã thu

được nhiều kết quả tích cực, góp phần hoàn thành các chỉ tiên, nhiệm vụ được giao.

Năm 2018 Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 đã đạt và vượt các chỉ tiêu về

thi hành án được cấp trên giao; cụ thể: về việc đã thi hành xong 1760 việc, đạt tỷ lệ

80,27% (so với chỉ tiêu do Bộ Tư pháp giao vượt 7,27%); về tiền đã giải quyết được

210.140.396.000 đồng, đạt 42,39% (so với chỉ tiêu do Bộ Tư pháp giao vượt 10,39%)

[11, tr.3].

Số liệu kê biên tài sản trong những năm gần đây, cụ thể: Năm 2016 Chi cục

Thi hành án dân sự Quận 10 đã tổ chức kê biên 31 tài sản để đảm bảo thi hành án

33

(trong đó động sản 12, bất động sản là 19) [9, tr.5]. Năm 2017 tổ chức kê biên 39 tài

sản để đảm bảo thi hành án (trong đó động sản 15, bất động sản là 24) [10, tr.6]. Năm

2018 tổ chức kê biên 35 tài sản để đảm bảo thi hành án (trong đó động sản 10, bất

động sản là 25) [11, tr.6].

Trong thời gian qua công tác thi hành án dân sự nói chung và công tác kê biên

tài sản trong thi hành án dân sự tại Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh được sự quan

tâm, chỉ đạo, phối hợp, hỗ trợ kịp thời, có hiệu quả của lãnh đạo các cấp Thành phố

và quận; sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan, đoàn thể tại địa phương, đặt biệt là

các cơ quan trong khối nội chính quận, thể hiện:

Việc phối hợp với Tòa án, Viện Kiểm sát nhân dân Quận 10 để giải quyết các

khó khăn, vướng mắc do án tuyên không rõ, khó thi hành; trong việc xác định quyền

sở hữu, phân chia tài sản để thi hành án; phối hợp trong xét miễn, giảm các khoản

nghĩa vụ thi hành thu cho ngân sách nhà nước. Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10

đã chủ trì xây dựng quy chế phối hợp giữa Tòa án, Viện Kiểm sát, Công an với Chi

cục Thi hành án dân sự trong công tác thi hành án dân sự.

Việc phối hợp với các cơ quan chức năng trong thực hiện cưỡng chế kê biên

tài sản. Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 đã phối hợp có hiệu quả với các cơ quan

chức năng, đặc biệt là lực lượng công an, cảnh sát hỗ trợ tư pháp quận; Ủy ban nhân

dân, Công an các phường, các cơ quan chuyên môn; các tổ chức đoàn thể chính trị,

xã hội tại địa phương thực hiện thành công nhiều vụ việc cưỡng chế kê biên tài sản

trên địa bàn đảm bảo an ninh, an toàn và hiệu quả.

Thực tiễn kê biên tài sản để thi hành án dân sự tại Chi cục Thi hành án dân sự

Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh:

- Kê biên tài sản bảo đảm là nhà, đất có diện tích thay đổi so với diện tích có

trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại thời điểm thế

chấp và nội dung bản án.

Trong thực tiễn tổ chức thi hành án, các nghĩa vụ trong các bản án, quyết định

của Tòa án chủ yếu là nghĩa vụ trả tiền; tài sản kê biên, xử lý thi hành án phần lớn là

bất động sản liên quan đến quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. Căn cứ để kê

34

biên, xử lý tài sản nhà, đất là căn cứ vào giấy tờ pháp lý do cơ quan có thẩm quyền

cấp cho người phải thi hành án; quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở

và quyền sử dụng đất ở trước đây các cơ quan chuyên môn thường đo vẽ, kiểm tra

hiện trạng bằng các phương pháp thủ công nên ít nhiều mức độ chính xác không cao;

mặt khác trong quá trình quản lý, sử dụng nhà đất chủ sở hữu thường cải tạo công

năng sử dụng, dẫn đến diện tích nhà, đất thực tế có sự chênh lệch tăng hay giảm so

với giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở.

Ví dụ: Quyết định số 05/2015/HGT-KDTM-ST ngày 30/3/2015 của Tòa án

nhân dân Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh; Quyết định thi hành án số 1405/QĐ-

CCTHA ngày 14/8/2015 của Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10, có

nội dung:

“Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Đền trang trí Hoàng Gia Phát (tên

mới Công ty TNHH Royal Lighting) có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng TMCP

Việt nam Thịnh Vượng tổng cộng số tiền: 18.962.665.393 đồng và lãi suất chậm thi

hành án, thanh toán trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày quyết định có hiệu lực….

Nếu quá hạn trên mà Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Đền trang trí

Hoàng Gia Phát (tên mới Công ty TNHH Royal Lighting) không thực hiện việc trả

nợ thì Ngân hàng TMCP Việt nam Thịnh Vượng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành

án có thẩm quyền phát mãi các tài sản thế chấp là: quyền sử dụng đất và tài sản gắn

liền với đất tại địa chỉ số 304B Tô Hiến Thành, Phường 15, Quận 10, thành phố Hồ

Chí Minh để thanh toán nợ lãi và nợ vốn. Nếu tài sản phát mãi chưa thanh toán đủ

số tiền nợ thì Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Đền trang trí Hoàng Gia Phát

còn phải thanh toán tiếp tục cho đến khi trả hết nợ…”

Quá trình tổ chức thi hành án: Chấp hành viên đã phối hợp với chính quyền

địa phương và các cơ quan chuyên môn xác minh hiện trạng tài sản, được biết nhà,

đất ở tại địa chỉ 304B Tô Hiến Thành, Phường 15, Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh

có hiện trạng thực tế là 04 tầng. Tuy nhiên, theo nội dung bản án tuyên thì nhà, đất

nêu trên có hiện trạng theo giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng

đất ở là nhà cấp 4, diện tích đất 87 m2, diện tích xây dựng là 78 m2.

35

Do diện tích xây dựng thực tế có sự chênh lệch rất lớn so với diện tích thể hiện

trên giấy chứng nhận, Chấp hành viên đã có văn bản đề nghị Phòng Quản lý đô thị

Quận 10 đo vẽ lại hiện trạng thực tế của nhà, đất nêu trên; kết quả nhà, đất tại địa chỉ

304B Tô Hiến Thành, Phường 15, Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh có hiện trạng

thực tế là 04 tầng, diện tích sử dụng lên đến 319 m2.

Chấp hành viên đã lập biên bản giải quyết việc thi hành án, thông báo cho

Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Đền trang trí Hoàng Gia Phát (tên mới Công

ty TNHH Royal Lighting) có bà Lê Cao Quỳnh Thư – giám đốc đại diện theo pháp

luật biết: Căn cứ bản vẽ hiện trạng nhà, đất được Phòng quản lý đô thi Quận 10 xác

nhận thì hiện trạng thực tế của nhà, đất tại địa chỉ 304B Tô Hiến Thành, Phường 15,

Quận 10 có diện tích sử dụng và diện tích đất thực tế lớn hơn diện tích được ghi nhận

trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở số H03049/29 do

UBND Quận 10 cấp ngày 07/8/2006, bà Thư giám đốc đại diện theo pháp luật của

Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Đền trang trí Hoàng Gia Phát (tên mới Công

ty TNHH Royal Lighting) đồng ý và đề nghị Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 kê

biên, phát mãi căn nhà và đất tại địa chỉ 304B Tô Hiến Thành, Phường 15, Quận 10

để thi hành bản án theo diện tích hiện trạng thực tế thể hiện trong bản vẽ hiện trạng

được Phòng quản lý đô thị Quận 10 lập và xác nhận nội nghiệp.

Ngày 13/11/2015 Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 đã có

văn bản số 202 đề nghị Tòa án nhân dân Quận 10 giải thích bản án. Ngày 25/11/2015

Tòa án nhân dân Quận 10 đã có văn bản số 120/TAQ10 giải thích bản án, theo đó căn

cứ nội dung của hợp đồng thế chấp tài sản thì mọi tài sản phát sinh trước, trong và

sau tài sản thế chấp đều thuộc tài sản thế chấp. Căn cứ kết quả giải thích bản án của

Tòa án, Chấp hành viên đã tiến hành kê biên toàn bộ nhà, đất tại địa chỉ 304B Tô

Hiến Thành, Phường 15, Quận 10 để đảm bảo thi hành án.

Sau khi kê biên, bán đấu giá tài sản, người phải thi hành án Công ty TNHH

Sản xuất Thương mại Đền trang trí Hoàng Gia Phát (tên mới Công ty TNHH Royal

Lighting) đã có nhiều đơn thư khiếu nại, cho rằng Chấp hành viên Chi cục Thi hành

án dân sự Quận 10 đã có nhiều sai phạm khi kê biên, bán đấu giá tài sản nhà, đất tại

36

địa chỉ 304B Tô Hiến Thành, Phường 15, Quận 10, khiếu nại kê biên không đúng nội

dung bản án, kê biên phần tài sản không thuộc tài sản thế chấp thế chấp, việc khiếu

nại gây rất nhiều khó khăn cho Chấp hành viên, cơ quan thi hành án trong quá trình

tổ chức thi hành án.

- Kê biên phần tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung với

người khác.

Trong thực tiễn tổ chức thi hành án phát sinh rất nhiều trường hợp người phải

thi hành án không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thi hành nghĩa vụ

theo bản án, quyết định của Tòa án; trong trường hợp trên nếu người phải thi hành án

có phần tài sản chung với tài sản của người khác thi Chấp hành viên vẫn có quyền kê

biên phần tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để đảm bảo thi

hành án.

Ví dụ: Bản án số 19/DSST ngày 29/6/2017 của Tòa án nhân dân Quận 10

thành phố Hồ Chí Minh, quyết định thi hành án số 445/QĐ-CCTHA ngày 13/12/2017

của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10, có nội dung:

“Buộc bà Trần Thị Lệ Dung trả cho bà Nguyễn Thị Mỹ Tiên, ông Huỳnh Văn

Quân số tiền là 1.225.000.000 đồng, thi hành tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm

quyền ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nếu bên phải thi

hành không thi hành các khoản tiền phải nộp thì hàng tháng phải chịu khoản tiền lãi

theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian

chậm trả”.

Quá trình tổ chức thi hành án: Chấp hành viên đã tiến hành các thủ tục xác

minh điều kiện thi hành án của bà Trần Thị Lệ Dung, được biết bà Dung không có tài

sản riêng để thi hành án, bà Dung có phần tài sản thuộc sở hữu chung vợ chồng trong

thời hôn nhân với ông Hồ Thanh Liêm. Do người phải thi hành án không tự nguyện

thi hành án, Chấp hành viên đã có văn bản xác định phần tài sản của người phải thi

hành án trong khối tài sản chung là ½ giá trị nhà, đất tại địa chỉ số 252/29C Cao

Thắng, Phường 12, Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Do tài sản chung nhà, đất tại

37

địa chỉ số 252/29C Cao Thắng, Phường 12, Quận 10 là một khối thống nhất không

thể phân chia và việc phân chia sẽ làm giảm giá trị của tài sản, ảnh hưởng đến quyền

lợi của chủ sở hữu, Căn cứ quy định của pháp luật Chấp hành viên đã tiến hành kê

biên toàn bộ nhà, đất nêu trên để đảm bảo thi hành án.

Sau khi kê biên Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 nhận được đơn của ông

Hồ Thanh Liêm, khiếu nại việc Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10

thực hiện không đúng việc kê biên tài sản, kê biên cả phần tài sản của ông trong khối

tài sản chung, đồng thời ông Liêm cũng đã có đơn khởi kiện tranh chấp quyền sỡ hữu

tài sản chung với bà Trần Thị Lệ Dung, vụ việc đã được Tòa án nhân dân Quận 10

thụ lý giải quyết, cho đến nay chưa có kết quả xét xử của Tòa án.

- Kê biên tài sản trong trường hợp người phải thi hành án cố tình lợi dụng khe

hở của pháp luật nhằm trì hoãn, trốn tránh, kéo dài thời gian thi hành án.

Trong thực tiễn tổ chức thi hành án, có nhiều trường hợp người phải thi hành

án có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành án, tìm đủ mọi cách như

lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo; tạo ra các tranh chấp giả đối với tài sản kê biên để

cố tình kéo dài thời gian, trì hoãn, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.

Ví dụ: Bản án số 217/DSPT ngày 13/02/2007 của Tòa án nhân dân thành phố

Hồ Chí Minh, có nội dung:

“Bà Trương Thị Lan và bà Nguyễn Thị Thanh Hà trả cho bà Trương Thị Lệ

Nương số tiền 8.179.606.123 đồng và lãi suất chậm thi hành án; nộp án phí dân sự

sơ thẩm 35.179.606 đồng”.

Quá trình tổ chức thi hành án. bà Trương Thị Lan có 02 tài sản là nhà, đất số

300/9 và 300/13 Hòa Hảo, Phường 4, Quận 10 được xác định theo Bản án số 14/DS-

PT ngày 06/01/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử về việc “yêu

cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu”, theo nội dung Bản án này thì:

Nguồn gốc 02 căn nhà: 300/9 và 300/13 Hòa Hảo, Phường 4, Quận 10 là thuộc

sở hữu của bà Trương Thị Lan, sau đó bà Trương Thị Lan đã bán cho ông Lê Phước

Hùng căn nhà 300/9 Hòa Hảo, Phường 4, Quận 10 (Hợp đồng số 0046593 ngày

25/12/2006 tại Phòng Công chứng số 4) và căn nhà 300/13 Hòa Hảo, Phường 4, Quận

38

10 (Hợp đồng số 0046591 ngày 25/12/2006 tại Phòng Công chứng số 4). Tuy nhiên

sau đó Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên các giao dịch dân sự giữa

bà Trương Thị Lan và ông Lê Phước Hùng đối với việc mua bán 02 căn nhà nói trên

là vô hiệu, đồng thời xác định 02 căn nhà 300/9 và 300/13 Hòa Hảo, Phường 4, Quận

10 thuộc sở hữu của bà Trương Thị Lan, bà Lan có trách nhiệm liên hệ với cơ quan

chức năng để khôi phục quyền sở hữu 02 căn nhà trên.

Ngày 18 tháng 12 năm 2013, Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự Quận

10 đã ban hành Quyết định cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản số 24/QĐ-CCTHA, áp

dụng biện pháp kê biên, xử lý nhà, đất số 300/9 và 300/13 Hòa Hảo, Phường 4, Quận

10, thành phố Hồ Chí Minh của bà Trương Thị Lan để thi hành án.

Ngày 05/5/2014, Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 đã ban

hành thông báo cưỡng chế thi hành án số 891/THA về việc sẽ tổ chức cưỡng chế kê

biên nhà, đất số 300/9 và 300/13 Hòa Hảo, Phường 4, Quận 10, thành phố Hồ Chí

Minh của bà Trương Thị Lan vào ngày 29/5/2014.

Ngày 13/5/2014, Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 nhận được đơn xin hoãn

kê biên của bà Trương Thị Lan với lý do anh ruột bà Lan là ông Trương Văn Sơn

cùng ngụ tại địa chỉ 300/9 Hòa Hảo, Phường 4, Quận 10 đang bị bệnh nặng, gia đình

đang tập trung lo cứu chữa, gia đình đang gặp khó khăn. Vì vậy bà Lan xin hoãn thời

hạn kê biên đến ngày 31/7/2014.

Sau khi nhận được đơn xin hoãn kê biên của bà Trương Thị Lan, Chi cục Thi

hành án dân sự Quận 10 đã làm việc với bên được thi hành án và ngày 23/5/2014 Chi

cục Thi hành án dân sự Quận 10 đã có Thông báo số 1021/TB-THA, thông báo dời

ngày cưỡng chế thi hành án đến ngày 17/7/2014.

Ngày 14/7/2014, anh trai bà Trương Thị Lan là ông Trương Văn Sơn cùng ngụ

tại địa chỉ 300/9 Hòa Hảo, Phường 4, Quận 10 chết, việc tang lễ được tổ chức tại số

300/9 Hòa Hảo, Phường 4, Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh, bà Lan liên hệ Chi cục

Thi hành án dân sự Quận 10 thông báo và xin hoãn thi hành án. Qua tham khảo ý kiến

của bà Nương và của những người được thi hành án khác, đồng thời theo truyền thống

39

và tập quán văn hóa tại địa phương, Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 đã thông

báo cho các bên liên quan biết việc tạm dừng cưỡng chế thi hành án.

Ngày 26/8/2014, Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 đã ban

hành thông báo cưỡng chế thi hành án số 1535/THA về việc tiếp tục tổ chức cưỡng

chế kê biên nhà, đất số 300/9 và 300/13 Hòa Hảo, Phường 4, Quận 10, thành phố Hồ

Chí Minh của bà Trương Thị Lan vào ngày 09/9/2014.

Ngày 03/9/2014, Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 nhận được đơn của ông

Thái Văn Dũng (Sinh năm 1963, Thường trú tại ấp Tân Điền, xã Long Thượng, huyện

Cần Giuộc, tỉnh Long An) về việc đề nghị hoãn kê biên nhà, đất số 300/9 và 300/10

Hòa Hảo, Phường 4, Quận 10 do ông và bà Trương Thị Lan đang tranh chấp quyền

sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đối với căn nhà trên, vụ án đã được Tòa án nhân

dân quận Tân Phú thụ lý và có thông báo thụ lý vụ án số 475A/TBTLVA ngày

29/8/2014.

Ngày 05/5/2015, sau khi nhận được đơn đề nghị tiếp tục thi hành án của bà

Nương gửi kèm Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 91/2015/QĐST-HNGĐ-ST

ngày 03/02/2015 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Chi cục Thi hành án dân sự

Quận 10 đã ban hành Thông báo tiếp tục thực hiện cưỡng chế số 1123/TB-THA,

thông báo việc tiếp tục cưỡng chế kê biên nhà, đất số 300/9 và 300/13 Hòa Hảo,

Phường 4, Quận 10 của bà Trương Thị Lan vào hồi 08 giờ 30 phút ngày 20/5/2015.

Ngày 14/5/2015, Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 lại nhận được đơn đề

nghị hoãn thi hành án khẩn cấp của ông Thái Văn Dũng về việc đề nghị hoãn kê biên

nhà, đất số 300/9 và 300/13 Hòa Hảo, Phường 4, Quận 10 do ông và bà Trương Thị

Lan đang tranh chấp quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đối với căn nhà trên,

vụ án đã được Tòa án nhân dân quận Tân Phú thụ lý và có thông báo thụ lý vụ án số

118/2015/GB-TA ngày 06/3/2015.

Căn cứ khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, ngày 19/5/2015

Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 có Thông báo số 1229/TB-THA, thông báo việc

hoãn thực hiện cưỡng chế kê biên nhà, đất số 300/9 và 300/13 Hòa Hảo, Phường 4,

Quận 10 của bà Trương Thị Lan vào hồi 08 giờ 30 phút ngày 20/5/2015.

40

Trong vụ việc trên, người phải thi hành án đã lợi dụng khe hở của pháp luật,

cấu kết tạo ra các tranh chấp giả đối với tài sản bị kê biên, khởi kiện tại Tòa án lặp đi

lặp lại nhiều lần nhằm kéo dài, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Vụ việc cho đến thời

điểm hiện nay Tòa án vẫn chưa giải quyết xong việc tranh chấp của người phải thi

hành án.

2.2.2. Những hạn chế, khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân trong việc kê biên

tài sản để thi hành án dân sự tại Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh

2.2.2.1. Hạn chế, khó khăn, vướng mắc

- Khối lượng công việc tăng cao; tính chất công việc vất vả, nhiều áp lực; đời

sống vật chất, tinh thần của cán bộ, công chức làm công tác thi hành án còn nhiều

khó khăn; pháp luật chưa quy định các cơ chế bảo vệ Chấp hành viên trong quá trình

thực hiện nhiệm vụ, tính chất công việc nhiều rủi ro, dẫn đến tâm lý không an tâm

công tác. Mặc dù công tác thi hành án trong thời gian qua đạt được những kết quả

khả quan, nhưng vẫn còn một số hạn chế, khó khăn, vướng mắc, cụ thể:

- Các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, thực tiễn áp dụng, vận

dụng đã bộc lộ một số bất cập chưa được tháo gỡ kịp thời. Đặc biệt, việc thi hành

Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về việc thí điểm xử lý nợ

xấu của các tổ chức tín dụng hiện nay đang gặp một số khó khăn chưa có hướng giải

quyết. Đó là, một số vụ việc đã kê biên, bán đấu giá thành nhưng chưa làm được thủ

tục sang tên cho người mua, vì số tiền bán đấu giá thành không được ưu tiên thanh

toán các khoản phí, thuế của chủ cũ tài sản.

- Một số vụ việc thi hành án người phải thi hành có tài sản ở nhiều địa phương

khác nhau; quá trình tổ chức thi hành án, theo quy định phải kê biên xử lý xong tài

sản tại địa bàn tổ chức thi hành án mới xác định được nghĩa vụ còn lại và tiếp tục ủy

thác về địa phương nơi có tài sản khác. Điều đó tạo ra nhiều khó khăn cho Chấp hành

viên trong quá trình tổ chức thi hành án, kéo dài thời gian thi hành án.

- Một số vụ việc thi hành án cho ngân hàng và các tổ chức tín dụng, số tiền

phải thi hành án lớn nhưng giá trị tài sản thế chấp thấp hơn nghĩa vụ bảo đảm rất

nhiều; do trước đây khi làm thủ tục cho vay các ngân hàng, tổ chức tín dụng thẩm

41

định tài sản bảo đảm để cho vay không chính xác, dẫn đến số tiền vay lớn hơn giá trị

thực tế của tài sản.

- Hiện nay cơ quan thi hành án thụ lý rất nhiều vụ việc liên quan đến tài sản

hình thành trong tương lai; Luật thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi

hành chưa quy định trình tự, thủ tục kê biên, bán đấu giá đối với loại tài sản đặc thù

này, dẫn đến sự lúng túng, thiếu hiệu quả trong quá trình tác nghiệp của Chấp hành

viên, ảnh hưởng đến kết quả thi hành án của đơn vị.

- Việc thi hành án đối với doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, nhiều doanh

nghiệp có dấu hiệu hoạt động không lành mạnh, nhằm mục đích trục lợi để huy động

vốn, khi đạt được mục dích thì ngưng hoạt động, bỏ trốn. Do Luật doanh nghiệp quy

định trình tự, thủ tục thành lập doanh nghiệp chưa chặt chẽ, dễ dàng như không cần

vốn pháp định, vốn điều lệ, chỉ cam kết góp vốn và không có các quy định cũng như

chế tài hậu kiểm tra việc góp vốn này.

- Nhiều vụ việc thi hành án, người phải thi hành án có tài sản là nhà, đất mua

bằng giấy tay chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng; hiện trạng diện

tích nhà, đất trong thực tế không khớp với diện tích được ghi nhận trong giấy chứng

nhận quyền sở hữu, sử dụng; một số nhà, đất nằm trong diện quy hoạch, giải tỏa một

phần hoặc toàn bộ nhưng chưa có quyết định thu hồi gây nhiều khó khăn, vướng mắc

cho Chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành án.

- Điều kiện thi hành án trong những vụ án tham nhũng, kinh tế lớn còn gặp

nhiều khó khăn do giá trị phải thi hành án lớn nhưng đa phần tài sản đã bị che giấu,

hợp lý hóa hoặc cố tình tẩu tán nên giá trị tài sản bảo đảm rất nhỏ so với nghĩa vụ

phải thi hành án; người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù tại trại giam

không có tài sản để thi hành án; số lượng tài sản kê biên lớn, đa dạng, thuộc nhiều

chủng loại khác nhau, thậm chí một số tài sản có đặc thù trong xử lý, không tìm được

tổ chức có đủ năng lực để thẩm định giá; một số tài sản chưa có quy định thủ tục xử

lý; tài sản kê biên có tình trạng pháp lý không rõ ràng, chưa được đền bù, giải phóng

mặt bằng, gây khó khăn cho cơ quan thi hành án dân sự trong quá trình xử lý; việc

xác minh, nắm bắt thông tin về tài sản, thu nhập của người phải thi hành án gặp nhiều

42

khó khăn.

2.2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế, khó khăn, vướng mắc

- Pháp luật hiện hành chưa có những quy định thống nhất, đồng bộ về cơ chế

kiểm tra, giám sát, quản lý nguồn thu nhập tài sản của người phải thi hành án thông

qua việc đăng ký, kê khai tài sản nên đã gây rất nhiều khó khăn cho cơ quan thi hành

án trong việc xác minh, truy tìm và kê biên tài sản của người phải thi hành án.

- Số lượng vụ việc thi hành án ngày càng tăng về vụ việc, giá trị thi hành và

mức độ phức tạp. Trong khi đó, số lượng biên chế cán bộ, công chức cho ngành thi

hành án nói chung và Quận 10 thành phố Hồ Chí Minh không tương xứng với khối

lượng và yêu cầu của công việc, dẫn đến tình trạng quá tải trong công việc. Cơ sở vật

chất, thu nhập của cán bộ, công chức và người lao động còn hạn chế và nhiều khó

khăn, dưới mức trung bình của xã hội, tạo tâm lý không an tâm công tác cho cán bộ,

công chức.

- Một số người phải thi hành án thiếu ý thức chấp hành pháp luật, bất hợp tác,

chây ỳ, chống đối thi hành án, luôn tìm mọi các trốn tránh, cản trở việc thi hành án.

Nhiều trường hợp người phải thi hành án lợi dụng khiếu nại, tố cáo để kèo dài vụ việc

thi hành án; lợi dụng quyền khởi kiện, cố ý tạo ra các tranh chấp giả đối với tài sản

thi hành án nhằm trì hoãn, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án dẫn đến vụ việc bị kéo dài,

ảnh hưởng đến việc thực hiện chỉ tiêu, nhiệm vụ.

- Một số Chấp hành viên, cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự

có lúc, có nơi còn lơ là trong công việc, chưa tích cực trong quá trình thực hiện nhiệm

vụ; một số vụ việc thi hành án chậm xác minh, kê biên, xử lý tài sản; còn bị động,

lúng túng khi gặp các vụ việc khó khăn, phức tạp. Việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương

hành chính và các chỉ đạo của cấp trên có lúc có nơi chưa thực hiện nghiêm túc; vẫn

còn hiện tượng chạy theo thành tích ở một số cơ quan, cán bộ, công chức.

43

2.3. Thực tiễn bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự tại Quận 10,

thành phố Hồ Chí Minh

2.3.1. Thẩm định giá tài sản kê biên

Theo quy định tại khoản 15 Điều 4 Luật giá số 11/2012/QH13 ngày 20/6/2012

thì thẩm định giá là việc cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá trị

bằng tiền của các loại tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự phù hợp với giá thị

trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định, phục vụ cho mục đích nhất định theo

tiêu chuẩn thẩm định giá. Như vậy, thẩm định giá đã được xác định là một lĩnh vực

chuyên môn, do các cơ quan, tổ chức có chức năng, chuyên môn phù hợp tiến hành.

Đối tượng của hoạt động thẩm định giá được xác định rõ là tất cả các loại tài sản theo

quy định của Bộ luật dân sự hiện hành bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền

tài sản.

Theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, sau khi kê biên tài sản của

người phải thi hành để đảm bảo thi hành án, Chấp hành viên thông báo cho các đương

sự thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá để thẩm định giá tài sản kê biên; trường

hợp các đương sự không thỏa thuận được việc lựa chọn tổ chức thẩm định giá, thì

Chấp hành viên chỉ định tổ chức thẩm định giá. Việc lựa chọn, chỉ định tổ chức thẩm

định giá là bước kế tiếp trong chuỗi tác nghiệp về chuyên môn, nghiệp vụ của Chấp

hành viên nhằm nhắm đến việc xác định giá khởi điểm đưa ra bán đấu giá, từ đó thu

tiền từ bán tài sản để giải quyết việc thi hành án. Chấp hành viên có trách nhiệm kiểm

tra hồ sơ năng lực, nếu đủ điều kiện và bảo đảm đúng quy định của pháp luật về giá

thì thực hiện việc ký kết hợp đồng thẩm định giá.

Khi tiến hành ký hợp đồng thẩm định giá, chấp hành viên cung cấp cho tổ chức

thẩm định giá bản án, quyết định của Tòa án, quyết định thi hành án, quyết định cưỡng

chế kê biên, biên bản kê biên, bản vẽ hiện trạng nhà đất đã được Phòng Quản lý đô

thị Quận Bình Thạnh duyệt nội nghiệp- trong đó thể hiện thông tin về quy hoạch, lộ

giới, diện tích nhà đất được công nhận, không công nhận, bản sao giấy tờ tài sản đồng

thời hướng dẫn tổ chức thẩm định giá kiểm tra thực địa, thực tế tài sản cần thẩm định

giá. Chấp hành viên giao toàn bộ cho công ty thẩm định giá quyền định giá tài sản.

44

Chấp hành viên thường chỉ xem xét chứng thư thẩm định giá đã phản ánh đúng diện

tích đất, xây dựng, đủ các loại tài sản chưa,…vì nếu như chứng thư thẩm định giá

không thể hiện việc thẩm định đủ số lượng, chủng loại, loại tài sản thì việc xác định

giá khởi điểm sẽ không phản ánh đúng giá trị thực của tài sản, điều đó dễ dẫn đến

khiếu nại, tố cáo của đương sự, ảnh hưởng đến kết quả bán đấu giá tài sản.

2.3.2. Thực tiễn bán đấu giá tài sản tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10,

thành phố Hồ Chí Minh

Quận 10 là đơn vị hành chính cấp huyện thuộc trung tâm Thành phố Hồ Chí

Minh, với cơ cấu kinh tế chủ yếu sản xuất, thương mại và dịch vụ; tốc độ phát triển

kinh tế hàng năm đều trên mức bình quân của thành phố; thu ngân sách Nhà nước

trong những năm gần đây đều đạt trên 1100 tỷ đồng. Do sự phát triển kinh tế năng

động, nên các mâu thuẫn, tranh chấp xẩy ra trong kinh doanh ngày càng tăng về số

vụ việc cũng như giá trị. Tổng số vụ việc và giá trị thụ lý thi hành án dân sự năm sau

luôn cao hơn năm trước; việc kê biên, bán đấu giá tài sản của người phải thi hành án

để thi hành các bản án kinh tế, thương mại và dân sự ngày càng tăng về số vụ việc và

giá trị tài sản, chủ yếu là kê biên, bán đấu giá tài sản là quyền sở hữu nhà ở và quyền

sử dụng đất ở.

Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 hiện nay có tổng cộng 25 cán bộ, công

chức và người lao động; cơ cấu 01 Chi cục trưởng, 03 Phó Chi cục trưởng, có tổng

cộng 08 Chấp hành viên, còn lại là thư ký nghiệp vụ, kế toán và các bộ phận khác; tổ

chức đảng là Chi bộ cơ sở trực thuộc Quận ủy Quận 10. Trong những năm gần đây

luôn hoàn thành các chỉ tiêu về thi hành án do ngành giao; là một trong những đơn vị

có lực lượng cán bộ, công chức trẻ, năng động, có trình độ cơ bản đồng đều; các Chấp

hành viên đã thực hiện các trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản của người phải thi hành

để thi hành các bản án, quyết định của Tòa án đảm bảo đúng quy định của pháp luật

về thi hành án dân sự và pháp luật về đấu giá tài sản.

Số liệu bán đấu giá tài sản trong những năm gần đấy, cụ thể: Năm 2016 Chi

cục Thi hành án dân sự Quận 10 đã tổ chức bán đấu giá 17 tài sản để thi hành án

(trong đó động sản 10, bất động sản là 7) tổng số tiền bán đấu giá tài sản là

45

57.650.402.000 đồng [9, tr.7]. Năm 2017 đã tổ chức bán đấu giá 21 tài sản để thi hành

án (trong đó động sản 11, bất động sản là 9) tổng số tiền bán đấu giá tài sản là

77.420.309.000 đồng [10, tr.8]. Năm 2018 đã tổ chức bán đấu giá 27 tài sản để thi

hành án (trong đó động sản 10, bất động sản là 17) tổng số tiền bán đấu giá tài sản là

133. 107.069.000 đồng [11, tr.7].

Thực tiễn tổ chức bán đấu giá tài sản tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10,

thành phố Hồ Chí Minh:

- Thứ nhất, tâm lý người dân còn e ngại khi mua tài sản bán đấu giá để thi

hành án

Trước hết là về tâm lý của người đăng ký mua tài sản, đó là khi một người

nào đó vì phải thi hành án mà bị buộc phải bán đi các tài sản của mình thì tâm lý xã

hội cho rằng ngôi nhà đó, công trình đó không đem lại điều may mắn cho gia chủ. Vì

vậy, trừ trường hợp tài sản đó có giá trị rất rẻ so với giá thị trường thì mới có người

quan tâm mua để kinh doanh, còn lại phần lớn tài sản đều ảnh hưởng đến tâm lý này.

Mặt khác, thời gian qua các phương tiện thông tin đại chúng cũng nhiều lần phản ánh

tình trạng mua nhà trúng đấu giá nhưng không được nhận nhà hoặc thời gian mua tài

sản đấu giá cho đến khi nhận được tài sản bị kéo dài gây thiệt hại về vật chất và tinh

thần cho người mua tài sản. Từ đó, dẫn đến tâm lý e ngại khi đăng ký mua tài sản bán

đấu giá.

- Thứ hai, tài sản bán đấu giá là bất động sản của người phải thi hành án đang

cho người khác thuê để sản xuất, kinh doanh nên mặc dù đã kê biên, bán đấu giá

nhưng vẫn tranh chấp khởi kiện ra Tòa án nhiều lần hoặc lợi dụng quyền khiếu nại,

tố cáo nhằm gây khó khăn, kéo dài thi hành án

Trong thực tiễn tổ chức thi hành án, rất nhiều trường hợp người phải thi hành

án có tài sản là quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở nhưng tại thời điểm kê

biên, bán đấu giá đang cho người khác thuê để kinh doanh và thực tế người thuê đang

kinh doanh, cư trú trong trong căn nhà trên.

Ví dụ: Căn cứ Quyết định số 1212/2010/QĐ-PT ngày 11/10/2010 của Tòa án

nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, có nội dung: “Buộc bà Đỗ Thị Oanh phải trả cho

46

Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn số tiền 27.157.615.862 đồng và lãi suất

chậm thi hành án”.

Quá trình tổ chức thi hành án: bà Đỗ Thị Oanh chưa thi hành khoản nào. Theo

kết quả xác minh thì nhà, đất tại địa chỉ số 802 Sư Vạn Hạnh, Phường 12, Quận 10 là

tài sản thuộc sở hữu của bà Đỗ Thị Oanh hiện đang cho thuê để kinh doanh mỹ phẩm.

Căn cứ quy định của pháp luật về Thi hành án dân sự và căn cứ Nghị quyết số

42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu, Chấp hành

viên đã tiến hành các thủ tục kê biên, xử lý tài sản thế chấp là nhà, đất tại địa chỉ số

802 Sư Vạn Hạnh, Phường 12, Quận 10 để đảm bảo thi hành án.

Ngày 28/6/2018 Công ty TNHH Đấu giá Hoàn Cầu VCB đã tổ chức bán đấu

giá thành quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại địa chỉ số 802 Sư Vạn Hạnh,

Phường 12, Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh, với giá bán là 25.531.000.000 đồng

(Hai mươi lăm tỷ năm trăm ba mươi mốt triệu đồng), ngày 13/7/2018 người trúng

đấu giá là ông Đào Trọng Cường đã nộp đủ tiền mua tài sản.

Ngày 08/8/2018 Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 nhận được quyết định

số 16/2018/QĐ-BPKCTT ngày 07/8/2018 của Tòa án nhân dân Quận 10, có nội dung:

“1. Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “cấm thay đổi hiện trạng đối với

tài sản đang tranh chấp” quy định tại Điều 112 Bộ luật Tố tụng dân sự đối với nhà

và đất tại địa chỉ số 802 Sư Vạn Hạnh, Phường 12, Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh

do bà Đỗ Thị Oanh là chủ sở hữu theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00014

do Ủy ban nhân dân Quận 10 cấp ngày 22/12/2004.

2. Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời: “Cấm hoặc buộc thực hiện hành vi

nhất định” quy định tại Điều 127 Bộ luật Tố tụng dân sự: Buộc Chi cục Thi hành án

dân sự Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh tạm ngừng việc thực hiện thông báo số

1531/TB-THA ngày 23/7/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 về việc:

thông báo bà Đỗ Thị Oanh và những người đang cư trú trong căn nhà số 802 Sư Vạn

Hạnh, Phường 12, Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh giao toàn bộ căn nhà gắn liền

với quyền sử dụng đất tại địa chỉ số 802 Sư Vạn Hạnh, Phường 12, Quận 10, thành

phố Hồ Chí Minh cho người trúng đấu giá là ông Đào Trọng Cường” cho đến khi có

47

kết quả kiểm định xây dựng đối với căn nhà trên trong vụ án “tranh chấp hợp đồng

cầm cố tài sản” thụ lý số 394/2018/TLST-DS ngày 07/8/2018 của Tòa án nhân dân

Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh”.

Ngày 08/8/2018 Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 đã có văn bản số

1592/CCTHADS, có nội dung: “Căn cứ quy định của Luật Thi hành án dân sự, được

sửa đổi bổ sung năm 2014, cụ thể: Điều 23 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ

trưởng cơ quan thi hành án dân sự; khoản 1 và 2 Điều 103 quy định: “1. Người mua

được tài sản bán đấu giá, người nhận tài sản để thi hành án được bảo vệ quyền sở

hữu, sử dụng đối với tài sản đó. 2. Trường hợp người mua được tài sản bán đấu giá

đã nộp đủ tiền mua tài sản bán đấu giá nhưng bản án, quyết định bị kháng nghị, sửa

đổi hoặc bị hủy thì cơ quan thi hành án dân sự tiếp tục giao tài sản, kể cả thực hiện

việc cưỡng chế thi hành án để giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá”

[34, tr.89]; Điều 106 quy định: “Người mua được tài sản thi hành án, người nhận tài

sản để trừ vào số tiền được thi hành án được pháp luật công nhận và bảo vệ quyền

sở hữu, sử dụng đối với tài sản đó” [34, tr.90]. Điểm b, khoản 1 Điều 145 quy định:

“Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có quyền tạm dừng việc thực hiện quyết

định, hành vi bị khiếu nại hoặc yêu cầu cơ quan thi hành án tạm ngừng việc thi hành

án trong thời hạn giải quyết khiếu nại” [34, tr.130]. Căn cứ khoản 2 Điều 7 Luật đấu

giá tài sản ngày 17 tháng 11 năm 2016 quy định: “Trường hợp có người thứ ba tranh

chấp về quyền sở hữu đối với tài sản đấu giá thì quyền sở hữu vẫn thuộc về người

mua được tài sản đấu giá ngay tình” [30, Tr.9]. Từ những căn cứ trên, Chi cục Thi

hành án dân sự Quận 10 nhận thấy, việc Tòa án nhân dân dân Quận 10 ban hành quyết

định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nêu trên đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến

quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án và người trúng đấu giá. Mặt

khác, theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, thì chỉ có người có thẩm

quyền giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự mới có thẩm quyền tạm ngừng việc

thi hành án để giải quyết khiếu nại. Do đó, Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 không

có căn cứ để tạm ngừng việc giao tài sản trên cho người trúng đấu giá theo nội dung

quyết định số 16/2018/QĐ-BPKCTT ngày 07/8/2018 của Tòa án nhân dân Quận 10.

48

Để đảm bảo đúng trình tự, thủ tục tổ chức thi hành án theo quy định của pháp luật và

để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án, người mua tài sản

bán đấu giá, Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 đề nghị Tòa án nhân dân Quận 10

xem xét thu hồi quyết định số 16/2018/QĐ-BPKCTT ngày 07/8/2018”.

Ngày 16/8/2018 Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 nhận được văn bản số

182/TAQ10, có nội dung: “… thông báo Tòa án nhân dân Quận 10 đang thụ lý vụ án

theo đơn khởi kiện ngày 10/11/2016 và theo thông báo thụ lý vụ án số

394/2018/TLST-DS ngày 07/8/2018 về tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản tài sản

giữa nguyên đơn là ông Trần Thanh Phong và bị đơn là bà Đỗ Thị Oanh. Theo đó,

ngày 16/7/2008 ông Trần Thanh Phong có ký hợp đồng cầm cố tài sản của bà Đỗ Thị

Oanh gồm nhà và đất tại địa chỉ số 802 Sư Vạn Hạnh, Phường 12, Quận 10 và 209/6

Quốc lộ 13, Phường 26, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh, ông Phong đưa

cho bà Oanh số tiền 3.000.000.000 đồng và toàn quyền sử dụng 02 căn nhà trên trong

8 năm từ năm 2008 đến 2016. Tuy nhiên, sau khi hết thời hạn cầm cố nhà bà Oanh

không hoàn trả lại số tiền 3.000.000.000 đồng và cùng ông giải quyết hợp đồng cầm

cố nêu trên, do đó ông khởi kiện buộc bà Oanh phải trả lại số tiền cầm cố nhà là

3.000.000.000 đồng và tiền sửa chữa nhà là 1.333.000.000 đồng. Trên cơ sở đó, Tòa

án nhân dân Quận 10 cho rằng việc ban hành quyết định khẩn cấp tạm thời số

16/2018/QĐ-BPKCTT ngày 07/8/2018 có nội dung: “Cấm thay đổi hiện trạng tài sản

đang tranh chấp là căn nhà số 802 Sư Vạn Hạnh, Phường 12, Quận 10 và buộc Chi

cục Thi hành án dân sự Quận 10 không giao căn nhà số 802 Sư Vạn Hạnh, Phường

12, Quận 10 cho người mua đấu giá trong thời gian Tòa án giải quyết vụ án…” là

đúng quy định của pháp luật.

Theo nội dung văn bản của Tòa án nhân dân Quận 10, từ diễn biến vụ việc,

Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 nhận thấy:

Căn nhà gắn liền với quyền sử dụng đất tại địa chỉ số 802 Sư Vạn Hạnh,

Phường 12, Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh là tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng

của bà Đỗ Thị Oanh, bà Oanh thế chấp tài sản trên để vay tiền tại Ngân hàng TMCP

Thái Bình Dương (nay là Ngân hàng TMCP Sài Gòn) theo hợp đồng thế chấp tài sản

49

số 070308E/HĐTC được Phòng Công chứng số 1 Thành phố Hồ Chí Minh chứng

nhận ngày 27/11/2007 và đăng ký thế chấp tại Văn Phòng đăng ký quyền sử dụng đất

Quận 10 ngày 27/11/2007; do bà Đỗ Thị Oanh không trả nợ đúng hạn, ngân hàng đã

khởi kiện và Tòa án nhân dân Tp Hồ Chí Minh đã ban Quyết định số 1212/2010/QĐ-

PT ngày 11/10/2010, buộc bà Oanh phải trả nợ cho Ngân hàng TMCP Thái Bình

Dương (nay là Ngân hàng TMCP Sài Gòn) số tiền 41.627.392.277 đồng và lãi suất

chậm thi hành án, nếu đến hạn mà không thanh toán thì ngân hàng có quyền đề nghị

xử lý các tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Qua kết quả xác minh điều kiện thi hành án,

thì tại thời điểm kê biên, xử lý tài sản trên ông Nguyễn Tuấn Anh là người đang thực

tế quản lý, sử dụng (kinh doanh mỹ phẩm) căn nhà số 802 Sư Vạn Hạnh, Phường 12,

Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh không liên quan gì đến ông Trần Thanh Phong.

Theo quy định tại Điều 318, Điều 323 Bộ luật dân sự năm 2015 và pháp luật

về đăng ký giao dịch bảo đảm, thì đối tượng của hợp đồng cầm cố phải là động sản,

đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng là đối tượng bắt buộc phải đăng

ký giao dịch bảo đảm thì hợp đồng cầm cố, thế chấp mới có hiệu lực. Mặt khác theo

quy định tại Điều 3 của hợp đồng thế chấp tài sản số 070308E/HĐTC ngày

27/11/2007 giữa bà Đỗ Thị Oanh với Ngân hàng TMCP Thái Bình Dương (nay là

Ngân hàng TMCP Sài Gòn) quy định về nghĩa vụ của bên thế chấp (bà Đỗ Thị Oanh):

“…không được bán, trao đổi, tặng cho, cho thuê, cho mượn…trừ trường hợp được

bên nhận thế chấp đồng ý bằng văn bản…”. Do đó, việc ông Trần Thanh Phong cho

rằng ông nhận cầm cố 02 tài sản trên của bà Đỗ Thị Oanh từ năm 2008 (sau thời điểm

thế chấp) có dấu hiệu của việc thông đồng với người phải thi hành án nhằm cố tình

chây ỳ, kéo dài, cản trở việc thi hành án, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích

hợp pháp của người được thi hành án, người trúng đấu giá và chính sách của nhà nước

về thu hồi nợ xấu theo Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội

về thí điểm xử lý nợ xấu.

Căn cứ điểm b, khoản 1 Điều 145 Luật Thi hành án dân sự, quy định: “Người

có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có quyền tạm dừng việc thực hiện quyết định,

hành vi bị khiếu nại hoặc yêu cầu cơ quan thi hành án tạm ngừng việc thi hành án

50

trong thời hạn giải quyết khiếu nại” [34, tr.130], theo quy định nêu trên, thì chỉ có

người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự mới có thẩm quyền

tạm ngừng việc thi hành án để giải quyết khiếu nại. Do đó, Chi cục Thi hành án dân

sự Quận 10 không có căn cứ để tạm ngừng việc giao tài sản trên cho người trúng đấu

giá theo nội dung quyết định số 16/2018/QĐ-BPKCTT ngày 07/8/2018 của Tòa án

nhân dân Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.

Để đảm bảo đúng trình tự, thủ tục tổ chức thi hành án, Ngày 23/8/2018 Chi

cục Thi hành án dân sự Quận 10 đã có văn bản số 1628/THADS, nội dung kiến nghị

Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xem xét có ý kiến đề nghị Tòa án nhân dân

Quận 10 thu hồi quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số số 16/2018/QĐ-

BPKCTT ngày 07/8/2018.

Ngày 19/9/2018 Tòa án nhân dân Quận 10 đã ban hành quyết định hủy bỏ

quyết định khẩn cấp tạm thời nêu trên và 02/10/2018 Chi cục Thi hành án dân sự

Quận 10 đã lập thủ tục giao tài sản trên cho người trúng đấu giá.

- Thứ ba, việc giao tài sản đã bán đấu giá thành cho người trúng đấu giá

Trong thực tiễn tổ chức bán đấu giá tài sản, có một số vụ việc do nhiều nguyên

nhân dẫn đến chậm giao tài sản cho người trúng đấu giá theo thời hạn quy định dẫn

đến bức xúc, khiếu nại, thậm chí yêu cầu bồi thường từ phía người mua tài sản, có

trường hợp dẫn đến hủy kết quả bán đấu giá tài sản.

Ví dụ: Căn cứ Quyết định số 10/2015/HGT-KDTM-ST ngày 30/7/2015 của

Tòa án nhân dân Quận 10 Tp Hồ Chí Minh, có một phần nội dung “Ông Đỗ Tấn

Thành và bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết trả cho Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh

Vượng số tiền vốn lãi tổng cộng là 2.507.500.000 đồng và lãi suất chậm thi hành án,

nếu không trả nợ sẽ xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền

với đất tọa lạc tại số 16F/P7 đường 3/2, Phường 14, Quận 10 (Theo hợp đồng thế

chấp số 047039 ký kết ngày 30/11/2013) để thu hồi nợ.

Quá trình tổ chức thi hành án: Do ông Đỗ Tấn Thành và bà Nguyễn Thị Bạch

Tuyết không thi hành đúng nội dung bản án, Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân

sự Quận 10 đã kê biên, bán đấu giá tài sản thế chấp là căn nhà gắn liền với quyền sử

51

dụng đất tại địa chỉ số 606/104 (số cũ 16F/P7) đường 3/2, Phường 14, Quận 10, thành

phố Hồ Chí Minh thuộc sở hữu của ông Đỗ Tấn Thành và bà Nguyễn Thi Bạch Tuyết

để thi hành án theo quy định.

Công ty Cổ phần dịch vụ đấu giá Miền Nam đã đưa tài sản trên ra bán đấu giá

công khai nhiều lần nhưng không có khách hàng đăng ký mua, căn cứ theo quy định

của pháp luật, Chấp hành viên đã ra quyết định giảm giá 03 lần để đưa tài sản ra tiếp

tục bán đấu giá và ngày 13/8/2016 Công ty Cổ phần dịch vụ đấu giá Miền Nam đã tổ

chức bán đấu giá thành căn nhà gắn liền với quyền sử dụng đất tại địa chỉ số 606/104

(số cũ 16F/P7) đường 3/2, Phường 14, Quận 10 với giá bán là 2.703.000.000 đồng

(hai tỷ, bảy trăm lẻ ba triệu đồng).

Ngày 22/8/2016 Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 đã ra

Thông báo số 1513/TB-THA yêu cầu ông Thành, bà Tuyết và những người đang cư

trú tại nhà số 606/104 (số cũ 16F/P7) đường 3/2, Phường 14, Quận 10 trong thời hạn

15 ngày kể từ ngày được thông báo hợp lệ phải tự nguyện di chuyển toàn bộ người

và tài sản ra khỏi nhà, đất trên để giao nhà trống cho người trúng đấu giá; hết thời hạn

trên, nếu ông Thành, bà Tuyết và những người đang cư trú tại căn nhà số 606/104 (số

cũ 16F/P7) đường 3/2, Phường 14, Quận 10 không tự nguyện giao tài sản trên cho

người trúng đấu giá, Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 sẽ áp dụng biện pháp cưỡng

chế trục xuất toàn bộ người và tài sản ra khỏi căn nhà trên để giao nhà cho người

trúng đấu giá.

Ngày 03/9/2016 Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh

nhận được đơn khiếu nại của ông Đỗ Tấn Thành, bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết, khiếu

nại một số trình tự, thủ tục tổ chức thi hành án của Chấp hành viên. Chi cục trưởng

Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 đã ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại số

246/QĐ-CCTHA ngày 26/9/2016 không chấp nhận khiếu nại của ông Đỗ Tấn Thành,

bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết.

Không đồng ý với Quyết định giải quyết khiếu nại của Chi cục trưởng Chi cục

Thi hành án dân sự Quận 10, ông Đỗ Tấn Thành, bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết tiếp tục

khiếu nại lên Cục Thi hành án dân sự Tp Hồ Chí Minh và ngày 07/11/2016 Cục

52

trưởng Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh đã có quyết định giải quyết

khiếu nại số 281/CTHA-QĐGQKN, nội dung: không chấp nhận đơn khiếu nại của

ông Đỗ Tấn Thành, bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết, giữ nguyên Quyết định giải quyết

khiếu nại số 246/QĐ-CCTHA ngày 26/9/2016 của Chi cục trưởng Chi cục Thi hành

án dân sự Quận 10.

Ngày 08/10/2016 Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 đã kết hợp với Đảng

ủy, UBND, Công an Phường 14 và các ban ngành, đoàn thể xuống trực tiếp động

viên, thuyết phục, nhưng gia đình ông Thành bà Tuyết vẫn không tự nguyện giao căn

nhà số 606/104 đường 3/2, Phường 14, Quận 10 cho người trúng đấu giá.

Ngày 17/11/2016 Chấp hành viên đã ban hành quyết định cưỡng chế số

270/QĐ-CCTHA, buộc ông Đỗ Tấn Thành, bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết phải giao

toàn bộ căn nhà gắn liền với quyền sử dụng đất tại địa chỉ số 606/104 đường 3/2,

Phường 14, Quận 10 cho người trúng đấu giá. Ngày 28/11/2016 Hội đồng xuống để

thực hiện việc cưỡng chế, ông Thành bà Tuyết có mặt nhưng có thái độ chây ỳ, chống

đối việc thi hành án, do lực lượng cưỡng chế mỏng, tài sản trong nhà tương đối nhiều,

do đó hội đồng cưỡng chế không thể thực hiện được việc cưỡng chế.

Người phải thi hành án luôn cố tình tìm mọi cách chây ỳ, chống đối, kéo dài

thời gian thi hành án, gây rất nhiều khó khăn cho cơ quan thi hành án. Cho đến tháng

03/2017 Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 mới tổ chức cưỡng chế giao tài sản trên

cho người trúng đấu giá.

Thứ tư, tài sản đã bán đấu giá thành đã chi tiền cho người được thi hành án

nhưng chưa giao được tài sản cho người trúng đấu giá thì bản án bị hủy để xét xử lại

và sau đó Tòa án đình chỉ giải quyết vụ việc.

Trong thực tiễn tổ chức thi hành án, có vụ việc cơ quan thi hành án đã kê biên,

bán đấu giá thành và đã chi trả tiền bán tài sản cho người được thi hành án. Tuy nhiên,

khi đang tiến hành các thủ tục để giao tài sản cho người trúng đấu giá, thì Tòa án có

quyết định hủy bản án do có sai sót trong quá trình xét xử và giao cho Tòa án có thẩm

quyền xét xử lại, khi Tòa án tiến hành các thủ tục xét xử lại thì người khởi kiện rút

đơn khởi kiện và Tòa án đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc. Trong trường

53

hợp trên, theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự thì khi có quyết định của

Tòa án có thẩm quyền hủy bản án, thì cơ quan thi hành án phải đình chỉ thi hành án,

do đó không có căn cứ để tiến hành các thủ tục cưỡng chế giao tài sản đã bán đấu giá

cho người mua. Điều đó, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người mua

tài sản đấu giá ngay tình, gây bức xúc dẫn đến khiếu nại, tố cáo và yêu cầu bồi thường.

Ví dụ: Bản án dân sự phúc thẩm số 16/DSPT ngày 11/01/1999 của Tòa án

nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử về việc “Đòi nợ” và Quyết định giám đốc

thẩm số 322 ngày 26/12/2000 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao giữ nguyên

Bản án dân sự phúc thẩm số 16/DSPT ngày 11/01/1999 của Tòa án nhân dân Thành

phố Hồ Chí Minh có nội dung:

“Ông Nguyễn Hữu Trí và bà Đặng Kim Cúc – địa chỉ: 508 Nguyễn Chí Thanh,

Phường 7, Quận 10 – phải trả cho Ngân hàng TMCP Nam Á số tiền 638.398.800

đồng trong thời hạn 01 tháng và nộp 10.383.988 đồng án phí DSST.

Tới thời hạn thi hành án nếu vợ chồng ông Trí và bà Cúc không trả nợ sẽ phát

mãi căn nhà số 508 Nguyễn Chí Thanh, Phường 7, Quận 10 để thanh toán nợ cho

Ngân hàng TMCP Nam Á.

Kể từ ngày Ngân hàng TMCP Nam Á có đơn xin thi hành án, nếu ông Trí bà

Cúc không thanh toán khoản nợ nêu trên thì còn phải chịu lãi suất, theo mức lãi suất

nợ quá hạn do Ngân hàng nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành

án.”

Quá trình thi hành án ông Trí, bà Cúc không tự nguyện thi hành theo đúng nội

dung bản án. Thi hành án dân sự Quận 10 (nay là Chi cục Thi hành án dân sự Quận

10) đã tổ chức kê biên, định giá và ký hợp đồng ủy quyền cho Trung tâm dịch vụ bán

đấu giá tài sản Thành phố Hồ Chí Minh bán đấu giá căn nhà số 508 Nguyễn Chí

Thanh, Phường 7, Quận 10 để thi hành án.

Ngày 18/10/2001, Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản Thành phố Hồ Chí

Minh bán đấu giá thành căn nhà số 508 Nguyễn Chí Thanh, Phường 7, Quận 10 của

ông Trí, bà Cúc với giá là 378 lượng vàng SJC.

54

Người trúng đấu giá là bà Lý Thị Cẩm Thúy sau khi nộp đủ số vàng, đã làm

thủ tục và hoàn tất việc sang tên sở hữu và đăng bộ chủ quyền tại Sở địa chính nhà

đất thành phố Hồ Chí Minh (quyển số 1 tờ số 433 ngày 08/01/2002).

Số tiền thu được do phát mãi nhà Thi hành án dân sự Quận 10 đã nhận tại

Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản Thành phố Hồ Chí Minh là 186 lượng vàng

SJC, đơn vị đã thực hiện việc thu đủ án phí DSST 10.383.988 đồng, đồng thời chi trả

toàn bộ số nợ và lãi suất quá hạn với tổng số tiền là 966.312.418 đồng cho Ngân hàng

TMCP Nam Á vào ngày 22/5/2002. Hiện trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản Thành

phố Hồ Chí Minh đang giữ 192 lượng vàng SJC còn lại.

Ngày 16/7/2002 Thi hành án dân sự Quận 10 nhận được Quyết định số 49/KN-

VKSTC-KSXXDS ngày 12/7/2002 của Viện kiểm sát nhân dân Tối cao kháng nghị

quyết định giám đốc thẩm dân sự số 322 ngày 26/12/2000 của Tòa dân sự Tòa án

nhân dân tối cao, đề nghị Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xử giám đốc;

hủy quyết định giám đốc thẩm số 322 ngày 26/12/2000 của Tòa dân sự Tòa án nhân

dân tối cao và bản án dân sự phúc thẩm số 16/DSPT ngày 11/01/1999 của Tòa án

nhân dân Tp Hồ Chí Minh, giao hồ sơ vụ kiện về Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí

Minh xét xử lại phúc thẩm. Tạm đình chỉ thi hành quyết định giám đốc thẩm số 322

ngày 26/12/2000 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.

Ngày 05/12/2002 Thi hành án dân sự Quận 10 nhận được Quyết định số

05/HĐTP-DS ngày 21/10/2002 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao quyết

định hủy quyết định giám đốc thẩm số 322 ngày 26/12/2000 của Tòa dân sự Tòa án

nhân dân tối cao và bản án dân sự phúc thẩm số 16/DSPT ngày 11/01/1999 của Tòa

án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, giao hồ sơ vụ kiện về Tòa án nhân dân Thành

phố Hồ Chí Minh xét xử lại theo thủ tục chung.

Ngày 31/8/2004, Thi hành án dân sự Quận 10 đã ra Công văn số 191/THA gửi

Tòa dân sự Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thông báo quá trình và kết quả

giải quyết thi hành án và việc người mua trúng đấu giá nhà là bà Lý Thị Cẩm Thúy

đã chết, đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh khi giải quyết lại vụ nợ

55

giữa Ngân hàng TMCP Nam Á và ông Trí, bà Cúc cần xem xét giải quyết căn nhà đã

phát mãi và người mua trúng đấu giá đã hoàn tất thủ tục sang tên sở hữu nhà.

Ngày 20/9/2004, Thi hành án dân sự Quận 10 nhận được Quyết định số

630/ĐC-DSPT ngày 08/4/2004 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đình

chỉ giải quyết vụ kiện “Đòi nợ” giữa Ngân hàng TMCP Nam Á với ông Nguyễn Hữu

Trí, bà Đặng Kim Cúc với lý do nguyên đơn là Ngân hàng TMCP Nam Á có đơn xin

rút yêu cầu khởi kiện đối với ông Trí, bà Cúc do hai bên đã thi hành xong. Tuy nhiên

trên thực tế Ngân hàng TMCP Nam Á nhận đủ tiền trả nợ và tiền lãi quá hạn tổng

cộng 966.312.418 đồng là một phần tiền thu được từ việc bán đấu giá thành căn nhà

số 508 Nguyễn Chí Thanh, Phường 7, Quận 10 do người trúng đấu giá nộp tại Trung

tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản Thành phố Hồ Chí Minh, không phải do ông Trí, bà

Cúc tự nguyện thi hành.

Thi hành án dân sự Quận 10 đã tổ chức thi hành án theo đúng trình tự quy định

của pháp luật, trong đó có 03 lần hoãn thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm

quyền kháng nghị bản án (01 lần theo yêu cầu của Tòa án nhân dân Tối cao và 02 lần

theo yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân tối cao) và 02 lần tạm đình chỉ thi hành án

(01 lần do Viện kiểm sát nhân dân Tối cao tạm đình chỉ và 01 lần do Tòa án nhân dân

Thành phố Hồ Chí Minh tạm đình chỉ).

Tuy nhiên, do Quyết định số 05/HĐTP-DS ngày 21/10/2002 của Hội đồng

thẩm phán tòa án nhân dân Tối cao và Quyết định đình chỉ về việc “Đòi nợ” số

630/ĐC-DSPT ngày 08/4/2004 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh chưa

xem xét đến quyền và nghĩa vụ của các đương sự cũng như của người mua trúng đấu

giá tài sản, kết quả người mua trúng đấu giá tài sản là bà Lý Thị Cẩm Thúy (hiện đã

chết) đã hoàn tất việc sang tên quyền sở hữu và đăng bộ chủ quyền tại Sở địa chính

nhà đất Thành phố Hồ Chí Minh nhưng chưa được nhận nhà và người phải thi hành

án là ông Trí, bà Cúc cũng không đồng ý giao nhà, Bản án bị hủy gây khó khăn cho

cơ quan Thi hành án dân sự Quận 10 khi tiếp tục giải quyết tiếp việc giao nhà cho

người trúng đấu giá, gây bức xúc cho các bên liên quan.

56

Mặt khác năm 2004 người mua được tài sản bán đấu giá là bà Lý Thị Cẩm

Thúy chết, các đồng thừa kế của bà Thúy có tranh chấp và được Tòa án giải quyết

bằng Bản án số 892/2008/DS-ST ngày 24/11/2008 của Tòa án nhân dân thành phố

Hồ Chí Minh, có nội dung bà Lý Thị Cẩm Hồng, bà Phạm Lý Thùy Dung là đồng

thừa kế của bà Lý Thị Cẩm Thúy, di sản thừa kế bao gồm giá trị căn nhà số 508

Nguyễn Chí Thanh, Phường 7, Quận 10 thành phố Hồ Chí Minh đã yêu cầu Chi cục

Thi hành án dân sự Quận 10 giải quyết việc giao nhà, đất số 508 Nguyễn Chí Thanh,

Phường 7, Quận 10 cho các đồng thừa kế của bà Lý Thị Cẩm Thúy.

Theo khoản 2, Điều 103 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm

2014 về việc bảo vệ quyền của người mua tài sản bán đấu giá thì “Trường hợp người

mua được tài sản bán đấu giá nhưng bản án, quyết định bị kháng nghị, sửa đổi hoặc

bị hủy thì cơ quan thi hành án dân sự tiếp tục giao tài sản, kể cả thực hiện việc cưỡng

chế thi hành án để giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá” [34, tr.89].

Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 đã có nhiều văn bản báo cáo Cục Thi

hành án dân sự Thành phố, kiến nghị họp liên ngành Thành phố để thống nhất hướng

giải quyết vụ việc. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm

khác nhau giữa các ngành, chưa thống nhất quan điểm giải quyết vụ việc, vẫn chưa

giao được nhà, đất tại địa chỉ số 508 Nguyễn Chí Thanh, Phường 7, Quận 10 cho

người trúng đấu giá.

Thứ năm, một số tổ chức bán đấu giá có biểu hiện hạn chế thông tin về việc

bán đấu giá tài sản, ém hồ sơ, gây khó khăn cho người đăng ký mua tài sản đấu giá.

Trong quá trình tổ chức bán đấu giá, một số tổ chức bán đấu giá có biểu hiện

ngâm hồ sơ, chờ giảm giá, đưa người thân vào mua tài sản, không bán hồ sơ, gây khó

khăn cho người muốn đăng ký tham gia mua tài sản; dẫn đến có nhiều dư luận không

tốt về việc bán đấu giá tài sản trong thời gian qua.

Ví dụ: Bản án số 22/DSST ngày 19/8/2013 của Tòa án nhân dân Quận 10, có

nội dung: “ông Huỳnh Văn Minh và bà Phạm Vũ Thủy (cùng địa chỉ: LL12C Ba Vì,

cư xá Bắc Hải, Phường 15, Quận 10) mỗi người được hưởng ½ giá trị nhà và quyền

sử dụng đất căn nhà số LL12C Ba Vì, cư xá Bắc Hải, Phường 15, Quận 10; ông

57

Huỳnh Văn Minh có trách nhiệm giao cho bà Phạm Vũ Thủy số tiền thuê nhà là

387.000.631 đồng”.

Quá trình thi hành án: Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 đã

tiến hành thủ tục kê biên, thẩm định giá và đưa tài sản nhà, đất tại địa chỉ số LL12C

Ba Vì, cư xá Bắc Hải, Phường 15, Quận 10 ra bán đấu giá với giá khởi điểm là

7.098.106.000 đồng.

Tổ chức bán đấu giá là Công ty Cổ phần Tư vấn Đấu giá Bất động sản Việt

(địa chỉ: số 4 Nguyễn Đình Chiểu, phường Đa Kao, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh).

Trong quá trình tổ chức bán đấu giá, Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 nhận được

nhiều thông tin phản ánh của một số khách hàng muốn tham gia đấu giá, phản ánh

Công ty Cổ phần Tư vấn Đấu giá Bất động sản Việt cố tình không bán hồ sơ, gây khó

khăn cho người tham gia đăng ký đấu giá, cung cấp thông tin không đúng sự thật về

việc dừng hay hoãn thi hành án; cá biệt có trường hợp còn có đơn phản ánh lên Cục

Thi hành án dân sự Thành phố và Sở Tư pháp thành phố.

2.3.3. Một số khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân trong bán đấu giá tài sản

để thi hành án dân sự

2.3.3.1. Một số khó khăn, vướng mắc trong bán đấu giá tài sản để thi hành án

- Nhiều vụ việc thi hành án, Chấp hành đang tiến hành các thủ tục bán đấu giá

tài sản để thi hành án, đương sự lợi dụng các quyền khiếu nại, tố cáo để cản trở gây

khó khăn, nhằm kéo dài thời gian thi hành án. Có trường hợp, đương sự cố tình tạo

ra các tranh chấp giả, khởi kiện tại Tòa án đối với tài sản đưa ra bán đấu giá, buộc cơ

quan thi hành án phải hoãn thi hành án để chờ kết quả giải quyết tranh chấp của Tòa

án, quá trình giải quyết tranh chấp thường kéo dài, gây rất nhiều khó khăn cho cơ

quan thi hành án.

- Còn tâm ý “e ngại” của người dân khi mua tài sản kê biên, bán đấu giá dẫn

đến nhiều tài sản kê biên, bán đấu giá nhiều lần vẫn không bán được dẫn đến thời

gian thi hành án kéo dài. Mặt khác, nhiều vụ việc đã bán đấu giá thành nhưng chưa

giao được tài sản do có tranh chấp về tài sản bán đấu giá, khởi kiện yêu cầu hủy kết

quả bán đấu giá.

58

- Một số tổ chức thẩm định giá, khi thực hiện việc thẩm định giá thường có

tâm lý thẩm định giá tài sản cao hơn giá thị trường, thậm chí có trường hợp giá thẩm

định cao hơn rất nhiều so với giá thị trường, với mục đích là để thu được phí thẩm

định giá cao và cầu toàn. Trường hợp trên, việc bán đấu giá thường kéo dài do tài sản

phải giảm giá nhiều lần mới bán được.

- Việc giao tài sản cho người trúng đấu giá thường gặp rất nhiều khó khăn như:

đương sự cố tình chây ỳ, chống đối, cản trở thi hành án; tài sản đang bị tranh chấp,

khởi kiện tại Tòa án; tài sản bán đấu giá thành không đúng với hiện trạng thực tế; có

trường hợp Chấp hành viên có sai sót trong kê biên, thẩm định giá dẫn đến không

giao được tài sản cho người mua trúng đấu giá.

- Ý thức chấp hành pháp luật của người phải thi hành án còn chưa cao, phần

lớn người phải thi hành án thường tìm cách trốn tránh, chây ỳ, thậm chí chống đối

quyết liệt việc thi hành án dẫn đến cơ quan thi hành án dân sự phải áp dụng biện pháp

cưỡng chế. Nhiều trường hợp, đương sự lợi dụng quyền công dân, phương tiện thông

tin đại chúng để khiếu nại, tố cáo nhiều lần, khiếu nại vượt cấp, gửi đơn đến nhiều cơ

quan, ban ngành với nội dung không chính xác để chây ỳ, kéo dài việc thi hành án,

trong khi pháp luật mới chỉ quy định chế tài đối với hành vi cố tình tố cáo sai sự thật,

còn đối với hành vi khiếu nại không có căn cứ để trì hoãn hoặc gây rối quá trình thi

hành án thì chưa có biện pháp hữu hiệu để xử lý.

2.3.3.2. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc trong bán đấu giá tài

sản để thi hành án

- Ý thức chấp hành pháp luật của người phải thi hành án: Hầu hết các vụ việc

thi hành án kê biên, bán đấu giá tài sản, người phải thi hành án thường tỏ rõ thái độ

chống đối quyết liệt, thậm chí manh động tìm mọi cách tẩu tán, hủy hoại, làm thay

đổi hiện trạng tài sản, trốn tránh việc thi hành án; liên tiếp gửi nhiều đơn thư khiếu

nại, tố cáo gửi đến các cơ quan Đảng, Nhà nước từ Trung ương đến địa phương mặc

dù đã được giải quyết nhiều lần, đúng quy định của pháp luật.

- Vẫn còn một số bất cập, chồng chéo, mâu thuẫn của hệ thống pháp luật liên

quan đến bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự. Đó là, việc bảo vệ quyền của

59

người mua tài tản đấu giá trong trường hợp bản án, quyết định bị hủy hay sửa đổi;

mặc dù Điều 103 Luật Thi hành án dân sự có quy định nếu bản án, quyết định bị hủy

thì vẫn phải giao tài sản cho người trúng đấu giá ngay tình. Tuy nhiên, thực tiễn tổ

chức thi hành án việc giao tài sản đấu giá trong trường hợp này vẫn chưa nhận được

sự đồng thuận của các cơ quan ở địa phương; một số quy định về trách nhiệm của

Chấp hành viên trong việc xác định tài sản chung của vợ chồng, xử lý tài sản của

người phải thi hành án nằm trên đất của người khác…còn có nhận thức, quan điểm

khác nhau đẫn đến khó khăn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

- Công tác phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự và các cơ quan có liên

quan có nơi, có khi chưa hiệu quả, như phối hợp của Tòa án trong xử lý các tranh

chấp liên quan đến tài sản kê biên, bán đấu giá còn chậm; phối hợp với cơ quan Công

an trong xây dựng kế hoạch và bảo vệ cưỡng chế, xứ lý các hành vi chống đối thi

hành án chưa nghiêm.

- Một số Chấp hành viên thiếu kiên quyết, chậm tổ chức thi hành án; ý thức,

trách nhiệm chưa cao. Qua thực tiễn công tác cho thấy trong nhiều vụ việc, Chấp

hành viên cơ quan thi hành án chưa thực sự quyết liệt trong áp dụng các quy định của

pháp luật để tổ chức giao tài sản cho người trúng đấu giá, dẫn đến một số vụ việc đã

bán đấu giá thành bị kéo dài nhưng chưa giao được tài sản cho người trúng đấu giá,

dẫn đến bức xúc cho người mua tài sản bán đấu giá, ảnh hưởng đến tâm lý e ngại mua

tài sản đấu giá của người dân, gây khó khăn cho cơ quan thi hành án trong việc thực

hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao.

- Năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm của một số Chấp hành

viên, cán bộ thi hành án chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ được giao; vẫn còn

trường hợp nhũng nhiễu, vòi vĩnh trong quá trình tổ chức thi hành án, tạo dư luận không

tốt trong nhân dân; có trường hợp thiếu tinh thần trách nhiệm trong công tác, dẫn đến

có sai sót trong quá trình tác nghiệp, hiệu quả tổ chức thi hành án chưa cao, một số việc

có sai sót nghiêm trọng tiềm ẩn nguy cơ bồi thường nhà nước.

Tiểu kết chương 2

60

Thực tiễn về việc tổ chức kê biên, bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự

trên địa bàn Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh cho chúng ta thấy bên cạnh những kết

quả đạt được thì vẫn còn rất nhiều những khó khăn, vướng mắc đòi hỏi chúng ta phải

có những giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật để góp phần nâng cao hiệu quả

công tác này. Cùng với sự phát triển nhanh về kinh tế của đất nước và xu thế hội nhập

toàn cầu, sẽ làm phát sinh các quan hệ pháp luật mới, vận động, biến đổi các quan hệ

xã hội cũ, đòi hỏi khách quan phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy

định pháp luật về thi hành án dân sự nói chung và pháp luật về kê biên, bán đấu giá

tài sản để thi hành án nói riêng, góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác, đáp ứng

được kỳ vọng của doanh nghiệp và người dân, góp phần vào sự phát triển kinh tế,

chính trị, xã hội của đất nước.

Chương 3

GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT GÓP PHẦN

NÂNG CAO HIỆU QUẢ KÊ BIÊN, BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN TRONG THI

HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ QUẬN 10,

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

3.1. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật góp phần nâng cao hiệu quả

kê biên, bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự

3.1.1. Kiến nghị sửa đổi bổ sung một số quy định của Luật Thi hành án dân sự

liên quan đến kê biên, bán đấu giá tài sản

- Thứ nhất, về tài sản không được kê biên: Theo quy định tại điểm c khoản 3

Điều 87 Luật Thi hành án dân sự thì trang thiết bị, phương tiện, công cụ phòng, chống

cháy nổ, phòng, chống ô nhiễm môi trường của Doanh nghiệp không được kê biên.

Như vậy, trường hợp các tài sản trên gắn liền và không thể tách rời với quyền sử dụng

đất hoặc được thế chấp cùng với tài sản khác thì giải quyết như thế nào. Thực tiễn tổ

chức thi hành án, các tài sản trên thường gắn liền với công trình xây dựng như văn

phòng, kho, nhà xưởng…gắn liền với công năng sử dụng của tài sản bị kê biên, nếu

tách rời sẽ làm hư hỏng hoặc giảm giá trị của tài sản.

Do đó, việc thi hành án có hiệu quả, có tính khả thi, kiến nghị cần sửa đổi, bổ

61

sung quy định tại điểm c khoản 3, Điều 87 Luật Thi hành án dân sự theo hướng như

sau: “Khi kê biên toàn bộ tài sản là quyền sử dụng đất và nhà xưởng của doanh

nghiệp, Chấp hành viên được quyền kê biên tất cả trang thiết bị, phương tiện, công

cụ bảo đảm an toàn lao động, phòng, chống cháy nổ, phòng, chống ô nhiễm môi

trường gắn liền với tài sản đó”.

- Thứ hai, về thời hạn ký hợp đồng bán đấu giá tài sản: Khoản 2, Điều 101

Luật Thi hành án dân sự quy định trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày định giá tài sản

phải ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản. Việc quy định thời hạn 10 ngày là quá ngắn

và bất hợp lý vì chính tại Điều 101 Luật Thi hành án dân sự đã quy định các đương

sự có quyền thỏa thuận về tổ chức đấu giá trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc

kể từ ngày định giá. Quy định thời hạn như trên là quá ngắn không đủ thời gian để

Chấp hành viên thực hiện việc thông báo và cho các đương sự thỏa thuận lựa chọn tổ

chức bán đấu giá, ảnh hưởng đến quyền tự thỏa thuận của đương sự; gây khó khăn,

áp lực cho Chấp hành viên, dễ dẫn đến thiếu sót, vi phạm trong quá trình tác nghiệp;

có thể phát sinh khiếu nại, tố cáo của các đương sự.

Do đó, để đảm bảo hiệu quả tổ chức thi hành án và tính khả thi khi áp dụng,

kiến nghị sửa đổi khoản 2 Điều 101 Luật Thi hành án dân sự theo hướng tăng thời

hạn:“Việc ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản được tiến hành trong thời hạn 15

ngày, kể từ ngày các bên thỏa thuận được và Chấp hành viên lập biên bản có chữ ký

của các bên xác định giá tài sản kê biên; hoặc kể từ ngày Chấp hành viên nhận được

chứng thư thẩm định giá”.

- Thứ ba, về nhận tài sản trừ vào số tiền thi hành án sau hai lần giảm giá không

có người mua: Theo quy định tại khoản 2 Điều 104 Luật Thi hành án dân sự thì: “Từ

sau lần giảm giá thứ hai trở đi mà không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc

bán đấu giá không thành thì người được thi hành án có quyền nhận tài sản để trừ vào

số tiền được thi hành án” [34, tr.89]. Tuy nhiên, trên thực tế nếu người được thi hành

án là Tổ chức kinh tế hoặc Hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất thì không

được quyền sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng của hộ gia

đình, cá nhân, trừ trường hợp được chuyển mục đích sử dụng đất theo quy hoạch, kế

62

hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt theo Điều 191

Luật Đất đai năm 2013.

Do đó, để đảm bảo hiệu quả tổ chức thi hành án và tính khả thi khi áp dụng,

kiến nghị sửa đổi khoản 2 Điều 104 Luật Thi hành án dân sự theo hướng: “Từ sau

lần giảm giá thứ hai trở đi mà không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán

đấu giá không thành thì người được thi hành án, nếu đủ điều kiện sở hữu, sử dụng

tài sản đó, thì có quyền nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án”.

- Thứ tư, theo khoản 2, Điều 48 Luật Thi hành án dân sự, đối với trường hợp

Cơ quan Thi hành án dân sự đã tiến hành thi hành án được một phần hoặc toàn bộ vụ

việc thi hành án thì nhận được yêu cầu hoãn thi hành án của người có thẩm quyền

kháng nghị. Cơ quan Thi hành án dân sự phải có văn bản thông báo ngay cho người

yêu cầu hoãn thi hành án. Tại khoản 2, Điều 103 Luật Thi hành án dân sự quy định

trường hợp người mua được tài sản bán đấu giá đã nộp đủ tiền mua tài sản bán đấu

giá nhưng bản án, quyết định bị kháng nghị, sửa đổi hoặc bị hủy thì cơ quan thi hành

án dân sự tiếp tục giao tài sản, kể cả thực hiện việc cưỡng chế thi hành án để giao tài

sản cho người mua được tài sản bán đấu giá, trừ trường hợp kết quả bán đấu giá bị

hủy theo quy định của pháp luật hoặc đương sự có thỏa thuận khác. Thực tiễn có

những trường hợp người mua được tài sản bán đấu giá đã nộp đủ tiền, cơ quan thi

hành án chuẩn bị thực hiện cưỡng chế thi hành án để giao tài sản cho người trúng đấu

giá thì có yêu cầu hoãn thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị. Trong

trường hợp này, cơ quan thi hành án dân sự có được tiếp tục thực hiện cưỡng chế giao

tài sản cho người trúng đấu giá không. Nếu hoãn thi hành án thì ảnh hưởng đến quyền

lợi của người mua được tài sản bán đấu giá, nếu không hoãn thì vi phạm khoản 2

Điều 48 Luật Thi hành án dân sự .

Do vậy, kiến nghị bổ sung thêm quy định tại khoản 2 Điều 48 Luật Thi hành

án dân sự trường hợp ngoại lệ theo quy định tại khoản 2 Điều 103 Luật Thi hành án

dân sự cho phù hợp, cụ thể: “Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định

hoãn thi hành án khi nhận được yêu cầu hoãn thi hành án của những người có thẩm

quyền kháng nghị ít nhất 24 giờ trước thời điểm cưỡng chế thi hành án đã được ấn

63

định trong quyết định cưỡng chế, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 103

Luật Thi hành án dân sự”.

3.1.2. Kiến nghị sửa đổi bổ sung một số quy định của Luật Đấu giá tài sản

- Thứ nhất, Luật Đấu giá tài sản chưa quy định cụ thể trường hợp chỉ có 1

người đăng ký mua hoặc chỉ có 1 người tham gia trả giá trong lần bán đấu giá đầu

tiên thì có được coi là bán đấu giá không thành hay không. Kiến nghị bổ sung trường

hợp này vào Luật đấu giá tài sản điều khoản riêng đối với tài sản thi hành án.

- Thứ hai, Luật Đấu giá tài sản chưa quy định cụ thể về chủ thể được yêu cầu

hủy kết quả đấu giá trong trường hợp phát hiện các hành vi được quy định tại điểm 4

khoản 1 Điều 72 của Luật Đấu giá tài sản. Kiến nghị cần sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn

cụ thể, chi tiết các chủ thể được quyền yêu cầu hủy kết quả đấu giá tài sản.

- Thứ ba, Điều 56 Luật Đấu giá tài sản, quy định trước khi ký kết hợp đồng

dịch vụ đấu giá tài sản với tổ chức đấu giá tài sản, người có tài sản đấu giá thông báo

công khai việc lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản. Tuy nhiên, hiện nay Luật Đấu giá tài

sản 2016 và các văn bản hướng dẫn thi hành không quy định thời gian thông báo lựa

chọn tổ chức đấu giá tài sản. Vì vậy thực tế có trường hợp người có tài sản đấu giá

thông báo trong thời gian quá ngắn dẫn đến tổ chức đấu giá tài sản không có đủ thời

gian để chuẩn bị hồ sơ tham gia lựa chọn tổ chức đấu giá. Kiến nghị cần sửa đổi, bổ

sung theo hướng quy định người có tài sản đấu giá thông báo công khai việc lựa chọn

tổ chức đấu giá tài sản trong thời hạn 15 ngày trước khi ký kết hợp đồng dịch vụ đấu

giá tài sản.

3.1.3. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của Nghị định 62/1015/NĐ-

CP ngày 18/07/2015 của Chính phủ, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số

điều của Luật Thi hành án dân sự liên quan đến kê biên, bán đấu giá tài sản

- Thứ nhất, một trong những vướng mắc hiện nay là việc người phải thi hành

án (đặc biệt là các doanh nghiệp) không hợp tác, cố tình chống đối, cản trở việc thẩm

định giá, bán đấu giá, kiểm tra hiện trạng tài sản. Điều này đã dẫn đến khó khăn trong

việc xử lý tài sản để thi hành án. Có vụ việc vì vướng mắc đó mà việc giải quyết kéo

dài, gây ra khiếu nại, tố cáo bức xúc. Theo quy định tại khoản 3 Điều 71 Luật Thi

64

hành án dân sự, thì một trong những biện pháp cưỡng chế thi hành án là: Kê biên, xử

lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ. Như

vậy, ngoài “kê biên” thì “xử lý tài sản” thi hành án bao gồm cả việc thẩm định giá,

bán đấu giá, kiểm tra hiện trạng tài sản và giao tài sản thi hành án cũng là thuộc biện

pháp cưỡng chế thi hành án này.

Để khắc phục khó khăn, vướng mắc này, kiến nghị sửa đổi, bổ sung vào khoản

1 Điều 13 Nghị định số 62/1015/NĐ-CP ngày 18/07/2015 của Chính phủ (áp dụng biện

pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành án) nội dung: “Trường hợp đương sự, người đang

quản lý, sử dụng, bảo quản tài sản không hợp tác để thẩm định giá, bán đấu giá, kiểm

tra hiện trạng, giao tài sản thì tùy từng trường hợp cụ thể mà Chấp hành viên tổ chức

cưỡng chế mở khóa, mở gói, buộc ra khỏi nhà, công trình xây dựng, tài sản gắn liền với

đất để kiểm tra hiện trạng, thẩm định giá, bán đấu giá tài sản hoặc giao bảo quản tài

sản cho cá nhân, tổ chức khác theo quy định của pháp luật”.

- Thứ hai, trong thực tế thi hành án, việc chủ sở hữu, sử dụng tài sản thi hành

án thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản sau thời điểm có bản án, quyết định

có hiệu lực pháp luật diễn ra khá phổ biến. Theo quy định của Luật Thi hành án dân

sự thì các giao dịch này sẽ không được công nhận và tài sản sẽ bị xử lý để thi hành

án. Tuy nhiên, với từng loại giao dịch thì cần có cách xử lý khác nhau: giao dịch

chuyển quyền sở hữu, sử dụng của tài sản nhưng chưa hoàn thành việc đăng ký; giao

dịch chuyển quyền sở hữu, sử dụng của tài sản đã hoàn thành việc đăng ký và các

giao dịch khác (cho thuê, mượn…). Quy định hiện hành chưa giải quyết được triệt để

vấn đề này nên cơ quan thi hành án dân sự còn lúng túng và có các cách giải quyết

khác nhau, dẫn đến hiệu quả không cao và phát sinh nhiều khiếu nại, tố cáo. Do đó,

để phù hợp hơn với quy định tại Điều 75 Luật Thi hành án dân sự, đồng thời quy định

rõ cách thức xử lý đối với các trường hợp người phải thi hành án cố tình thực hiện

các giao dịch nhằm trốn tránh việc thi hành án. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 1

Điều 24 Nghị định số 62/NĐ-CP ngày 18/07/2015 của Chính phủ theo hướng:

“Trường hợp có giao dịch về tài sản mà người phải thi hành án không sử dụng khoản

tiền thu được từ giao dịch đó để thi hành án và không còn tài sản khác hoặc có tài

65

sản khác nhưng không đủ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án thì xử lý như sau:

a, Trường hợp việc chuyển đổi, tặng cho, bán, chuyển nhượng tài sản, chuyển

quyền sử dụng đất nhưng chưa hoàn thành việc đăng ký chuyển quyền sở hữu, sử

dụng thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản theo quy định. Khi kê biên

tài sản, nếu có tranh chấp thì Chấp hành viên thông báo cho đương sự, người có

tranh chấp thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự.

b) Trường hợp việc chuyển đổi, tặng cho, bán, chuyển nhượng tài sản, chuyển

quyền sử dụng đất kể từ thời điểm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng đã

hoàn thành việc đăng ký chuyển quyền sở hữu, sử dụng thì không kê biên tài sản mà

thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự. Việc xử lý tài

sản được thực hiện theo quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền.

c) Ngoài những trường hợp thực hiện các giao dịch chuyển quyền sở hữu tài

sản, chuyển quyền sử dụng đất (như trên), có những trường hợp chủ sở hữu tài sản

thực hiện các giao dịch khác với tài sản như: cầm cố, thế chấp, cho thuê, cho mượn,

cho vay…tài sản; cho thuê quyền hưởng dụng, quyền bề mặt đối với tài sản… mà

không chuyển giao quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất thì về nguyên tắc, tài sản

vẫn thuộc sở hữu của người phải thi hành án, do đó Chấp hành viên tiến hành kê

biên, xử lý tài sản để thi hành án. Quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia giao

dịch được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự và các quy định của pháp

luật có liên quan”.

- Thứ ba, theo quy định tại khoản 3 Điều 27 Nghị định số 62/NĐ-CP ngày

18/07/2015 của Chính phủ quy định: “Người mua được tài sản bán đấu giá phải nộp

tiền vào tài khoản của cơ quan thi hành án dân sự trong thời hạn không quá 15 ngày,

kể từ ngày đấu giá thành” [15, tr.24]. Thực tiễn tổ chức thi hành án, thời hạn 15 ngày

là tương đối ngắn, đặc biệt là đối với những tài sản có giá trị lớn hoặc rất lớn, cần có

thời gian cho người trúng đấu giá thu xếp tiền. Việc quy định thời hạn dài hơn cũng

sẽ giúp hạn chế việc phải huỷ kết quả bán đấu giá tài sản với lý do người mua được

tài sản bán đấu giá không nộp tiền đúng thời hạn.

Kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 27 Nghị định số 62/NĐ-CP ngày

66

18/07/2015 của Chính phủ theo hướng: “tăng thời hạn trên từ “15 ngày” lên “30

ngày” cho phù hợp với thực tiễn và có tính khả thi”.

- Thứ tư, theo quy định tại Điều 101 Luật Thi hành án dân sự thì: “Thủ tục bán

đấu giá được thực hiện theo quy định của pháp luật bán đấu giá” [34, tr.86]; Điều 27

Nghị định số 62/NĐ-CP ngày 18/07/2015 của Chính phủ quy định: “cơ quan thi hành

án dân sự tổ chức bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật” [15, tr.24]. Tuy

nhiên pháp luật bán đấu giá cũng chưa quy định cụ thể trong trường hợp Chấp hành

viên kê biên từ 02 tài sản trở lên để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án, tại thời điểm kê

biên, thẩm định giá giá trị 02 tài sản này thấp hơn nghĩa vụ phải thi hành án. Nhưng

tại thời điểm bán đấu giá thì kết quả bán đấu giá tài sản thứ nhất đã đủ để thanh toán

nghĩa vụ phải thi hành án. Trong trường hợp này có được dừng bán đấu giá tài sản

còn lại hay không hay tiếp tục bán đấu giá. Chủ thể nào có thẩm quyền dừng. Chủ

thể nào có thẩm quyền yêu cầu dừng. Hậu quả pháp lý đặt ra nếu dừng việc bán đấu

giá (bên nào phải chịu các chi phí thi hành án liên quan đến việc kê biên bán đấu giá

tài sản thứ hai).

Để giải quyết vướng mắc trên. Kiến nghị bổ sung khoản 5 Điều 27 Nghị định

số 62/NĐ-CP ngày 18/07/2015 của Chính phủ theo hướng: “Trường hợp bán đấu giá

nhiều tài sản để thi hành án trong cùng một phiên thì cơ quan Thi hành án dân sự

yêu cầu tổ chức đấu giá thực hiện việc đấu giá lần lượt theo thứ tự từ tài sản có giá

trị lớn nhất. Trường hợp số tiền thu được đã đủ để thi hành nghĩa vụ và các chi phí

theo quy định thì không tiếp tục đấu giá các tài sản còn lại”.

Theo khoản 5 Điều 27 Nghị định số 62/NĐ-CP ngày 18/07/2015 của Chính

phủ quy định: “Trường hợp sau khi phiên đấu giá kết thúc mà người trúng đấu giá

tài sản từ chối mua hoặc đã ký hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá nhưng chưa

thanh toán thêm bất kỳ khoản tiền nào thì khoản tiền đặt trước thuộc về ngân sách

nhà nước và được sử dụng để thanh toán lãi suất chậm thi hành án, tạm ứng chi phí

bồi thường Nhà nước, bảo đảm tài chính để thi hành án và các chi phí cần thiết khác”

[15, tr.25]. Trên thực tế, quy định trên nhiều đương sự hiểu nhầm là lãi suất chậm thi

hành án của vụ việc đang được tổ chức thi hành. Theo quy định tại điểm a khoản 8

67

Điều 12 Thông tư số 200/2016/TT-BTC theo đó: Lãi suất chậm thi hành án của vụ

việc liên quan đến bảo đảm tài chính và bồi thường Nhà nước.

Kiến nghị bổ sung thêm khoản 5 Điều 27 Nghị định số 62/NĐ-CP ngày

18/07/2015 của Chính phủ theo hướng: “Trường hợp sau khi phiên đấu giá kết thúc

mà người trúng đấu giá tài sản từ chối mua hoặc vi phạm thời hạn thanh toán tiền

mua tài sản đấu giá theo quy định tại khoản 3 Điều này thì khoản tiền đặt trước sau

khi trừ đi các chi phí xử lý tài sản, số tiền còn lại thuộc về ngân sách nhà nước và

được sử dụng để thanh toán các khoản theo thứ tự sau đây: Khoản bồi thường Nhà

nước của các cơ quan thi hành án dân sự theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi

thường của Nhà nước; bảo đảm tài chính để thi hành án và các chi phí cần thiết khác

theo quy định của pháp luật”.

3.2. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của việc kê biên, bán

đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận

10, thành phố Hồ Chí Minh

3.2.1. Nâng cao năng lực cho Chấp hành viên, công chức làm công tác thi

hành án dân sự trong tổ chức thực hiện kê biên, bán đấu giá tài sản để thi hành án

- Thứ nhất, cần tiếp tục tổ chức tập huấn chuyên sâu về nội dung, trình tự, thủ

tục kê biên, bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự, cũng như các quy định của

pháp luật có liên quan.

- Thứ hai, thường xuyên tổ chức kiểm tra các hoạt động kê biên, bán đấu giá

tài sản để thi hành án, nhất là các vụ việc có giá trị lớn. Kịp thời phát hiện các sai sót

để khắc phục, thông tin rộng rãi, phổ biến các dạng sai sót, vi phạm, tồn tại, hạn chế

trong tác nghiệp thi hành án trong toàn hệ thống để Chấp hành viên, cán bộ làm công

tác thi hành án dân sự tổ chức nghiên cứu, đối chiếu, rút kinh nghiệm chung.

- Thứ ba, tập trung chỉ đạo Chấp hành viên thực hiện tốt công tác xác minh

điều kiện thi hành án của đương sự. Trong đó tập trung xác minh, làm rõ các thông

tin về tài sản, đặc biệt là bất động sản, làm việc với các cơ quan quản lý nhà nước về

đất đai để giải quyết các khó khăn, vướng mắc phát sinh. Trên cơ sở đó, xác định

trường hợp nào đủ điều kiện kê biên, bán đấu giá để thi hành án thì tiến hành ngay

68

các thủ tục kê biên, bán đấu giá để đảm bảo thi hành án; trường hợp nào phát sinh

vướng mắc thì kịp thời báo cáo, phối hợp với các cơ quan liên quan trao đổi, thống

nhất hướng xử lý, cần thiết thì báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên để có cơ sở xử

lý phù hợp, đúng quy định của pháp luật.

3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện các nội dung phối hợp và thực hiện tốt cơ chế phối

hợp liên ngành trong thi hành án dân sự

Trên cơ sở các quy chế phối hợp liên ngành đã được xây dựng và triển khai

thực hiện, cơ quan thi hành án dân sự cần tổng kết để xác định các nội dung không

phù hợp, cần sửa đổi bổ sung trong công tác phối hợp liên ngành để thống nhất, hoàn

thiện các nội dung phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan liên

quan.

3.2.3. Tranh thủ sự chỉ đạo, phối hợp, hỗ trợ của cấp ủy, chính quyền địa

phương trong kê biên, bán đấu giá tài sản để thi hành án

Cơ quan thi hành án dân sự cần tranh thủ tối đa sự chỉ đạo, phối hợp, hỗ trợ

của cấp ủy, chính quyền địa phương; kịp thời báo cáo Ban Chỉ đạo Thi hành án dân

sự những vụ việc thi hành án có khó khăn, vướng mắc, phức tạp, các vụ việc thi hành

án phải cưỡng chế có huy động lực lượng; phối hợp chặt chẽ với Tổng cục Thi hành

án dân sự, Cục Thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh để thống nhất hướng dẫn

chuyên môn, nghiệp vụ; tháo gỡ các khó khăn, bất cập trong quá trình áp dụng pháp

luật về thi hành án dân sự.

3.2.4. Giám sát chặt chẽ việc bán đấu giá tài sản kê biên của các tổ chức bán

đấu giá

Trước khi tổ chức bán đấu giá mở phiên đấu giá, Chấp hành viên cần yêu cầu

tổ chức đấu giá tài sản thông báo rõ quá trình và các thủ tục theo quy định của pháp

luật; trường hợp phát hiện có dấu hiệu sai sót trong quá trình đấu giá phải dừng phiên

đấu giá để hoàn thiện đầy đủ thủ tục, không tiếp tục giao tài sản và có thể yêu cầu

hủy kết quả bán đấu giá tài sản. Đối với các vụ việc đã bán đấu giá thành nhưng chưa

giao được tài sản cho người trúng đấu giá, chỉ đạo Chấp hành viên tiến hành ngay các

thủ tục cưỡng chế giao tài sản cho người trúng đấu giá.

69

Tiểu kết chương 3

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận; phân tích, đánh giá thực trạng kê biên, bán đấu

giá trong thi hành án dân sự tại Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh; trong chương này

tác giả đã đề xuất, kiến nghị một số giải pháp về hoàn thiện các quy định của pháp

luật về kê biên, bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự và một số giải pháp góp

phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về kê biên, bán đấu giá tài sản tại địa bàn

Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.

KẾT LUẬN

Trên cơ sở phân tích quy định pháp luật và đánh giá thực trạng áp dụng pháp

luật liên quan đến cưỡng chế kê biên, bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.

Với mục đích đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích, đánh giá để đề xuất những giải

pháp nâng cao hiệu quả cưỡng chế kê biên, bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân

sự. Luận văn đã cố gắng phân tích làm sáng tỏ một cách có hệ thống những vấn đề lý

luận và thực tiễn về cưỡng chế kê biên, bán đấu giá tài sản trong thi thi hành án dân

sự tại Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh trong những năm vừa qua; trên cơ sở đó nhìn

nhận, nêu ra một số bất cập, tồn tại, hạn chế cần giải quyết, đề xuất các giải pháp

nâng cáo hiệu quả công tác, cũng như hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế kê biên, bán

đấu giá tài sản trong thi thi hành án dân sự ở nước ta hiện nay.

Luận văn đã tổng hợp, phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện việc vận

dụng, áp dụng và thực thi các quy định của pháp luật về kê biên, bán đấu giá tài sản

trong thi hành án dân sự tại Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua;

nêu lên thực tiễn việc tổ chức thi hành án các vụ việc cụ thể, các đặc điểm về điều

kiện kinh tế xã hội tại địa phương; nhận thức của các cơ quan liên quan trong việc

quan tâm, phối hợp thi hành án dân sự; ý thức chấp hành pháp luật của người dân,

doanh nghiệp trên địa bàn…Trên cơ sở đó, nhìn nhận, đánh giá khách quan, toàn diện

những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế, bất cập; phân tích, đánh giá nguyên

nhân. Từ đó, đưa ra các đề xuất, kiến nghị, giải pháp khắc phục các khó khăn, vướng

mắc và nâng cao hiệu quả của công tác kê biên, bán đấu giá tài sản trong thi hành án

dân sự tại Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.

70

Thực tiễn kê biên, bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự tại Quận 10,

thành phố Hồ Chí Minh đã và đang đạt được những kết quả quan trọng, góp phần giữ

vững an ninh chính trị, trật tự an toàn tại địa phương; tạo điều kiện cho việc phát triển

kinh tế, xã hội; cũng cố niềm tin của nhân dân đối với chủ trương, đường lối của Đảng

và pháp luật của Nhà nước, đảm bảo các mục tiêu hội nhập và phát triển. Tuy nhiên,

bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thi hành án dân sự nói chung và công tác

kê biên, bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự trên địa bàn Quận 10, thành phố

Hồ Chí Minh nói riêng dự báo tiếp tục gặp rất nhiều khó khăn, thách thức trong thời

gian tới, như: khó khăn về thể chế, mặc dù pháp luật về thi hành án dân sự đã quy

định tương đối đầy đủ, chi tiết, cơ bản điều chỉnh được các quan hệ phát sinh trong

đời sống kinh tế, xã hội, tuy nhiên trong thực tiễn tổ chức thi hành án vẫn còn bộc lộ

các khó khăn, vướng mắc, chồng chéo giữa các văn bản quy phạp pháp luật, các

ngành luật cần phải tiếp tục sửa đổi bổ sung hoàn thiện; khó khăn về các vụ việc thi

hành án phát sinh ngày càng phức tạp, người phải thi hành án luôn tìm cách trì hoãn,

thậm chí chống đối thi hành án ngày càng diễn biến phức tạp; đòi hỏi của xã hội và

người dân đối với công tác thi hành án dân sự ngày càng cao; người phải thi hành án

lợi dụng các quyền khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đối với tài sản để trốn tránh, kéo dài

thi hành án gây bức xúc cho người được thi hành án ngày càng phổ biến và đa dạng;

ý thức tuân thủ pháp luật của một bộ phận không nhỏ người dân và doanh nghiệp

chưa cao, có tâm lý chạy theo đám đông gây khó khăn cho cơ quan thi hành án và

Chấp hành viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; một số cơ quan, tổ chức, cá nhân

chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình trong phối hợp, hỗ trợ thi hành án; một

số Chấp hành viên, cán bộ thi hành án còn hạn chế về năng lực, kỹ năng tác nghiệp,

lơ là, chủ quan trong quá trình tổ chức thi hành án nên hiệu quả chưa cao. Do đó, đòi

hỏi khách quan phải tiếp tục có các đề xuất, kiến nghị góp phần hoàn thiện thể chế;

đề xuất các giải pháp để khắc phục các hạn chế, tồn tại, nâng cao hiệu quả của công

tác thi hành án dân sự nói chung và kê biên, bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân

sự nói riêng.

71

72

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Tài chính (2016) Thông tư 323 quy định về kiểm tra, giám sát và đánh

giá chất lượng hoạt động thẩm định giá, ban hành ngày 16/12/2016, Hà Nội.

2. Bộ Tư pháp (2016) Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 70 năm ngày truyền

thống Thi hành án dân sự (19/7/1946 - 19/7/2016), (Kèm theo Quyết định số 373/QĐ-

BTP ngày 08/3/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp), Hà Nội.

3. Bộ Tư pháp (2018) Phát biểu chỉ đạo của Phó Thủ tướng Thường trực

Chính phủ Trương Hòa Bình tại Hội nghị triển khai công tác thi hành án Dân sự -

Hành chính năm 2019, Hà Nội.

4. Bộ Tư pháp (2016) Thông tư số 01/2016/TT-BTP hướng dẫn thực hiện một

số thủ tục về quản lý hành chính và biểu mẫu nghiệp vụ trong thi hành án dân sự, ban

hành ngày 01/02/2016, Hà Nội.

5. Bộ Tư pháp (2017) Thông tư số 02/2017/TT-BTP hướng dẫn một số nội

dung quản lý công chức, viên chức, người lao động thuộc hệ thống tổ chức thi hành

án dân sự, ban hành ngày 23/03/2017, Hà Nội.

6. Bộ Tư pháp (2006) Từ điển luật học, Nxb Tư pháp.

7. Bộ Tư pháp - Bộ Tài nguyên và Môi trường –Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn – Ngân hàng nhà nước (2014) Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-

BTNMT-NHNN của Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi Trường, Ngân hàng Nhà

nước, hướng dẫn một số vấn đề xử lý tài sản bảo đảm, ban hành ngày 16/6/2014, Hà

Nội.

8. Bộ Tư pháp – Tòa án nhân dân Tối cao – Viện Kiểm sát nhân dân tối cao

(2016) Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC của Bộ trưởng

Bộ Tư pháp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân

tối cao quy định một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành

trong thi hành án dân sự, ban hành ngày 01/8/2016, Hà Nội.

9. Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 (2016) Báo cáo Tổng kết Công tác Thi

hành án Dân sự năm 2016 và phương hướng nhiệm vụ năm 2017, Thành phố Hồ Chí

Minh.

10. Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 (2017) Báo cáo Tổng kết Công tác Thi

hành án Dân sự năm 2017 và phương hướng nhiệm vụ năm 2018, Thành phố Hồ Chí

Minh.

11. Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 (2018) Báo cáo Tổng kết Công tác Thi

hành án Dân sự năm 2018 và phương hướng nhiệm vụ năm 2019, Thành phố Hồ Chí

Minh.

12. Chính phủ (2010) Nghị định 17 về bán đấu giá tài sản, ban hành ngày

04/03/2010, Hà Nội.

13. Chính phủ (2009) Nghị định số 61/2009/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức

và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh và

Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 của Chính phủ Sửa đổi tên gọi của

Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ về tổ chức

và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh, ban

hành ngày 24/7/2009, Hà Nội.

14. Chính phủ (2015) Nghị định 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng

dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự, ban hành ngày 18/07/2015, Hà

Nội.

15. Chính phủ (2017) Nghị định 62/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều

và biện pháp thi hành Luật đấu giá tài sản, ban hành ngày 16/05/2017, Hà Nội.

16. Chính phủ (2013) Nghị định 89/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số

điều của Luật giá về thẩm định giá, ban hành ngày 06/08/2013, Hà Nội.

17. Chính phủ (2013) Nghị định 110 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia định, thi hành án dân

sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, ban hành ngày 24/09/2013, Hà Nội.

18. Chính phủ (2015) Nghị quyết 01/NQ -CP của Chính phủ về Chương trình

hành động của Bộ tư pháp về tập trung giải quyết các vụ việc liên quan đến hoạt

động tín dụng ngân hàng, ban hành ngày 03/01/2015, Hà Nội.

19. Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh (2018) Báo cáo kết quả

công tác thi hành án dân sự năm 2018 và phương hướng nhiệm vụ năm 2019, Thành

phố Hồ Chí Minh.

20. Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh (2019) Báo cáo kết quả

công tác thi hành án dân sự, hành chính 9 tháng năm 2019 và phương hướng nhiệm

vụ năm 3 tháng cuối năm 2019, Thành phố Hồ Chí Minh.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005) Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính

trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, ban hành ngày 02/06/2005, Hà Nội.

22. Ngân hàng nhà nước Việt Nam – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh – Cục

Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh (2015) Quy chế phối hợp số

13083/CNNHNNVN-CTHADS ngày 19/08/2015, Thành phố Hồ Chí Minh.

23. Quốc hội (2015) Bộ luật Dân sự năm 2015, ban hành ngày 2/11/2015, Hà

Nội.

24. Quốc hội (2015) Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, ban hành ngày

25/11/2015, Hà Nội.

25. Quốc Hội (2013) Hiến pháp năm 2013, ban hành ngày 28/11/2013, Hà Nội.

26. Quốc Hội (2010) Luật Các tổ chức tín dụng 2010, ban hành ngày

16/06/2010, Hà Nội.

27. Quốc Hội (2013) Luật Đất đai năm 2013, ban hành ngày 29/11/2013, Hà

Nội.

28. Quốc Hội, (2016) Luật đấu giá tài sản 2016, ban hành ngày 17/11/2016, Hà

Nội.

29. Quốc Hội (2014) Luật Nhà ở năm 2014, ban hành ngày 25/11/2014, Hà Nội.

30. Quốc Hội (2008) Luật Thi hành án dân sự 2008, ban hành ngày 14/11/2008,

Hà Nội.

31. Quốc Hội (2005) Luật Thương mại 2005, ban hành ngày 14/6/2005, Hà Nội.

32. Quốc Hội (2014) Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi hành án

dân sự 2008, ban hành ngày 25/11/2014, Hà Nội.

33. Quốc Hội (2017) Nghị quyết 42/2017/QH14 của Quốc Hội về thí điểm xử

lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, ban hành ngày 21/06/2017, Hà Nội.

34. Tổng Cục thi hành án dân sự (2019) Báo cáo công tác thi hành án dân sự,

hành chính năm 2018 và phương hướng nhiệm vụ năm 2019, Tài liệu hội nghị triển

khai công tác năm 2019, Hà Nội.

35. Tổng Cục thi hành án dân sự (2019) Báo cáo công tác thi hành án dân sự,

hành chính 9 tháng năm 2019 và phương hướng nhiệm vụ 3 tháng cuối năm 2019,

Tài liệu hội nghị sơ kết công tác năm 2019, Hà Nội.

36. Tổng Cục thi hành án dân sự (2017) Chuyên đề: “Thực trạng và một số

giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành án liên quan đến tín dụng, Ngân

hàng; kết quả triển khai quy chế phối hợp giữa Bộ Tư pháp và ngân hàng nhà nước

Việt Nam, Tài liệu hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm 2017- Vụ 1, Hà Nội.

37. Tổng Cục Thi hành án dân sự (2013) Công văn số 1209/TCTHADS-NV1

của Tổng cục Thi hành án dân sự về việc giải đáp nghiệp vụ thi hành án, ban hành

ngày 27/5/2013, Hà Nội.

38. Tổng Cục thi hành án dân sự (2017) Quyết định số 273/QĐ-TCTHADS về

việc ban hành quy trình tổ chức thi hành án trong nội bộ cơ quan thi hành án dân sự,

ban hành ngày 22 tháng 02 năm 2017, Hà Nội.

39. Tổng Cục thi hành án dân sự (2017) Quyết định số 536/QĐ-TCTHADS về

việc triển khai hỗ trợ trực tuyến thi hành án dân sự, ban hành ngày 11 tháng 5 năm

2017, Hà Nội

40. Tổng Cục thi hành án dân sự (2017) Quyết định số 537/QĐTCTHADS về

ban hành Quy trình và triển khai thực hiện cơ chế một cửa tại các cơ quan thi hành

án dân sự, ban hành ngày 11 tháng 5 năm 2017, Hà Nội.