VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN GIA PHONG
KÊ BIÊN TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG
ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HƯNG YÊN TỈNH HƯNG YÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Hà Nội - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN GIA PHONG
KÊ BIÊN TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG
ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HƯNG YÊN TỈNH HƯNG YÊN
Ngành:Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN ĐÌNH HẢO
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu đã sử dụng trong luận văn là trung thực.
Những kết luận nêu trong luận văn chưa có công bố ở bất
kỳ công trình khoa học nào.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN
BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ ............................................................................................................... 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của kê biên tài sản bảo đảm tiền vay
ngân hàng ......................................................................................................... 6
1.2. Cơ sở và phân loại kê biên kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng ...... 21
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng ....... 28
Chương 2; QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN KÊ BIÊN
TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI THÀNH PHỐ HƯNG YÊN TỈNH HƯNG YÊN...... 31
2.1. Quy định của pháp luật về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân
hàng theo pháp luật thi hành án dân sự .......................................................... 31
2.2. Thực tiễn kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng theo pháp luật
thi hành án dân sự tại thành phố Hưng Yên tỉnh Hưng Yên .......................... 41
Chương 3; ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN KÊ BIÊN TÀI SẢN
BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG TẠI THÀNH PHỐ HƯNG YÊN
TỈNH HƯNG YÊN .................................................................................................. 56
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện kê
biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng tại thành phố Hưng Yên tỉnh
Hưng Yên ....................................................................................................... 56
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả kê biên tài
sản bảo đảm tiền vay ngân hàng .................................................................... 60
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 76
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS Bộ luật tố tụng dân sự
THADS Thi hành án dân sự
CHV Chấp hành viên
THA Thi hành án
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thi hành án dân sự (THADS) thì cưỡng chế thi hành án là một trong
những biện pháp mà Chấp hành viên lựa chọn để đảm bảo thi hành các Bản án, Quyết
định của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh được chấp
hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp
của Nhà nước, tổ chức và công dân, bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện Nhà nướcpháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước khi được chấp hành
nghiêm chỉnh có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật. Vì
vậy, hoạt động thi hành án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giữ vững
kỷ cương phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đảm
bảo cho quyền lực tư pháp được thực thi trên thực tế, tại Điều 106, Hiếp pháp năm
2013 khẳng định: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lựcpháp luật
phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan
phải nghiêm chỉnh chấp hành.”
Thi hành án dân sự là một hoạt động đã, đang và sẽ là “vấn đề nóng” của xã
hội, do đó đòi hỏi các ngành, các cơ quan chức năng phải có sự chỉ đạo sâu sát, kịp
thời để tìm ra giải pháp đúng đắn cho lĩnh vực còn gặp nhiều trắc trở này. Tầm quan
trọng của hoạt động thi hành án còn được thể hiện trong Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 như
sau: “xây dựng cơ chế đảm bảo mọi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải
được thi hành, các cơ quan hành chính vi phạm bị xử lý theo phán quyết của Tòa án
phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Trong các biện pháp cưỡng chế mà Luật thi hành án
dân sự 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì biện pháp kê biên tài sản là phức
tạp và thường gặp khó khăn nhất khi áp dụng. Việc ban hành Luật thi hành án dân
sự - Một văn bản chuyên ngành có giá trị pháp lý cao với cơ chế mới và chặt chẽ
cho thấy công tác thi hành án dân sự đã dần đi vào lề lối.
Thể hiện tính răn đe và nghiêm minh của pháp luật. Tuy nhiên bên cạnh các
kết quả đạt được vấn đề áp dụng biện pháp kê biên tài sản từ thực tiễn thành phố
Hưng Yên vẫn còn những khó khăn vướng mắc, bất cập nhất định, như nhiều bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng chậm tổ chức thi hành; việc áp dụng
1
biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản còn tồn tại..., các nguyên nhân chủ quan và
khách quan liên quan đến vấn đề này có thể xuất phát từ những bất cập của pháp
luật về kê biên tài sản. Hay công tác phối hợp kê biên tài sản còn chưa được chính
quyền địa phương chú trọng; điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ,
công chức ngành thi hành án dân sự chưa được quan tâm tốt.
Trong quá trình THADS, các bên đương sự có quyền tự định đoạt, thoả
thuận với nhau nhằm thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự theo Bản án, Quyết định
của Tòa án nhưng khi người phải thi hành án đã được giải thích, thuyết phục, mặc
dù có điều kiện thi hành án mà tìm mọi cách trì hoãn, trốn tránh nghĩa vụ, không tự
nguyện thi hành thì buộc cơ quan thi hành án phải tổ chức cưỡng chế để thi hành án.
Kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế kê biên phức tạp đòi hỏi Chấp hành viên
phụ trách hồ sơ thi hành án phải có kỹ năng toàn diện mới có thể thực hiện được
công việc này. Mặt khác việc áp dụng biện pháp cưỡng chế cần phải có sự phối hợp
của các ngành, các cấp, nếu thiếu một thành phần theo quy định thì buổi cưỡng chế
kê biên đó phải dừng hoặc hoãn, gây tổn thất lớn về công sức, kinh tế và tài sản cho
các bên đương sự, tổ chức và Nhà nước.
Chính vì những lập luận trên, học viên quyết định chọn vấn đề: Kê biên tài
sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt
Nam từ thự tiễn thành phố Hưng Yên, làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các biện pháp cưỡng chế THADS trong đó có biện pháp kê biên tài sản, nội
dung của luận văn có liên quan đến nhiều công trình nghiên cứu, nhưng cần quan
tâm chú trọng đến các công trình bài viết sau:
“Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự” của tác giả Phan Huy Hiếu
năm 2011. “Cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án” của tác
giả Lê Anh Tuấn trong Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề THADS năm
2010; “Về kê kiên, xử lý tài sản” của TS Nguyễn Thanh Thủy và Th.S Lê Thị Kim
Dung trong cuốn “Xử lý tình huống trong thi hành án dân sự và các văn bản pháp
luật về thi hành dân sự”, nhà xuất bản Tư pháp năm 2010; “Vấn đề cưỡng chế đối
với người thứ ba” của tác giả Bùi Văn Yên và “Cần xử lý triệt để hành vi chiếm lại
đất sau cưỡng chế thi hành án” của tác giả Trần Hoàng Đoán trong số chuyên đề về
THADS của Tạp chí Dân chủ và pháp luật tháng 5 năm 2012.
2
- Luận văn Tiến sỹ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh. “Hoàn thiện pháp luật THADS ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn
Thanh Thủy.
- Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh, “Thực hiện pháp luật về THADS ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu” tác giả Lại
Anh Thắng.
- Luận văn thạc sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, “Đổi mới thủ tục
thi hành án dân sự Việt Nam” tác giả Lê Anh Tuấn năm 2014.
- Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, “Áp dụng biện pháp
cưỡng chế kê biên tài sản nhằm thi hành các bản án, quyết định của tòa án qua
thực tiễn thực hiện tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu” của tác giả Châu Vũ.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách hệ thống
và toàn diện các vấn đề về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay theo pháp luật thi hành
án dân sự. Luận văn là một trong những công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ
thống các vấn đề liên quan về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay theo pháp luật thi hành
án dân sự hiện hành của Việt Nam đặc biệt với thực tiễn áp dụng tại một địa phương là
thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn cho việc đưa ra
các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kê biên tài sản bảo đảm tiền vay
ngân hàng trong thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Hưng Yên tỉnh Hưng yên
trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu trên, đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Làm rõ những cơ sở lý luận về thi hành án và kê biên tài sản bảo đảm tiền
vay ngân hàng trong thi hành án dân sự.
- Phân tích về pháp luật kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi
hành án dân sự, thực tiễn thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hưng Yên tỉnh
Hưng Yên và tìm ra nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kê biên tài sản bảo đảm
tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự.
3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong khuân khổ luận văn thạc sĩ luật học, tôi tập trung nguyên cứu cơ sở lý
luận và thực tiễn về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án
dân sự, từ đó rút ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự nhằm
nâng cao hiệu quả về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án
dân sự tại thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về kê biên tài
sản bảo đảm tiền vay ngân hàng như khái niệm, đặc điểm kê biên tài sản bảo đảm
tiền vay ngân hàng, vai trò của kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng; các quy
định của Luật THADS về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng và thực tiễn
thực hiện biện pháp này trong những năm gần đây trên địa bàn thành phố Hưng
Yên, tỉnh Hưng Yên.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta hiện nay về kê biên tài sản theo pháp luật thi hành án dân sự.
Để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu, trong chương 1 luận văn, tác giả sử
dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử cùng
các phương pháp khoa học cụ thể như phương pháp phân tích, phương pháp so
sánh, phương pháp tổng hợp và phương pháp logic.
Trong chương 2 và chương 3, luận văn nghiên cứu chủ yếu bằng phương
pháp sau:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng xuyên suốt để nêu, phân
tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong luận văn.
- Phương pháp so sánh, thống kê được sử dụng để cung cấp các số liệu cần
thiết, đối chiếu, so sánh, làm rõ thực trạng thực hiện cưỡng chế kê biên tài sản, tìm
hiểu các giải pháp hoàn thiện pháp luật.
4
- Phương pháp khảo sát thực tế được sử dụng để góp phần tổng kết thực tiễn
sâu sắc về cưỡng chế kê biên tài sản.
- Phương pháp kết hợp nghiên cứu lý luận với thực tiễn cũng được sử dụng
trong tiến trình thực hiện luận văn để đưa ra những bình luận, quan điểm, kết luận
về những nội dung nghiên cứu...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đặt ra và luận giải một số quan điểm cơ bản về khái niệm kê biên
tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự, tìm hiểu đặc điểm, bản
chất của kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự, góp
phần bổ sung làm phong phú thêm cho hoạt động nghiên cứu khoa học về pháp luật
thi hành án dân sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Từ việc đánh giá thực trạng pháp luật kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân
hàng trong thi hành án dân sự, tác giả đã đưa ra được những bất cập cần sửa đổi, bổ
sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật thi hành án dân sự.
Từ việc đánh giá thực tiễn kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong
thi hành án dân sự, tác giả đã phân tích những nguyên nhân và đưa ra những giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả kê biên tài sản trong thi hành án dân sự tại thành phố
Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương chính sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay
ngân hàng theo pháp luật thi hành án dân sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn kê biên tài sản bảo đảm tiền vay
ngân hàng theo pháp luật thi hành án dân sự tại thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.
Chương 3: Định hướng và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao
hiệu quả thực hiện kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng tại thành phố Hưng
Yên tỉnh Hưng Yên.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN
BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của kê biên tài sản bảo đảm tiền vay
ngân hàng
1.1.1. Khái niệm tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng
Quan hệ tín dụng phát sinh trên cơ sở hợp đồng tín dụng giữa TCTD và
khách hàng vay. Thông thường, để được vay vốn tại các TCTD, khách hàng phải có
tài sản hoặc có người bảo lãnh để đảm bảo, dự phòng cho việc thực hiện nghĩa vụ
trả nợ, và người bảo lãnh cũng phải có tài sản để cho nghĩa vụ bảo lãnh, tài sản đó
được hiểu là tài sản bảo đảm.
Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 thì “tài sản là vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Theo quy định tại điều 174 BLDS 2015 thì tài sản
được quy định bổ sung thêm là bất động sản và động sản. Để nhận diện được tài sản
thì cần chỉ ra các đặc điểm pháp lý của chúng, theo đó tài sản có các đặc điểm pháp
lý cơ bản như sau: (i) Tài sản phải trị giá được bằng tiền; (ii) Tài sản là những đối
tượng mà con người có thể kiểm soát được. Nếu là vật hữu hình thì con người phải
nắm giữ hoặc chiếm giữ được; nếu là vật vô hình thì phải có cách thức để quản lý.
Theo Từ điển Luật học, tài sản bảo đảm là “tài sản được bên bảo đảm dùng
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo đảm thông qua các biện pháp
bảo đảm như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, kí cược, kí quỹ, đặt cọc …”
Điều 295 Bộ luật dân sự năm 2015 đã đề cập đến khái niệm tài sản bảo đảm,
theo đó tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp
cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu. Cụ thể hóa quy định này, Khoản 7 Điều 3
Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm do Chính phủ ban hành ngày
29/12/2006 và Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22 tháng 02 năm 2012 của
Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29
tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, có hiệu lực kể từ ngày 10
6
tháng 4 năm 2012 đã quy định “Tài sản bảo đảm là tài sản mà bên bảo đảm dùng
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm.” Tài sản bảo đảm
là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai mà pháp luật không cấm
giao dịch. Như vậy có thể thấy phạm vi tài sản có thể đem bảo đảm được mở rộng,
không chỉ là những tài sản phải thuộc sở hữu của bên bảo đảm rồi mà còn bao gồm cả
những tài sản hình thành trong tương lai, hoa lợi thu được từ cây trồng, hoặc các khoản
có thể thu khác.… chính là những tài sản mà tại thời điểm giao dịch bảo đảm được xác
lập, thì những tài sản này chưa hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm.
Tài sản bảo đảm tiền vay có những nét đặc trưng cơ bản. Thực chất của bảo
đảm tiền vay là sử dụng những giá trị của tài sản làm bảo đảm để trả nợ thay cho
các khoản vay không có khả năng trả nợ ngân hàng. Vậy, tài sản bảo đảm tiền vay
phải có giá trị, bản thân nó phải trở thành hàng hoá, có nghĩa là khi chuyển giao
quyền sở hữu thì đồng thời cũng phải đạt được sự chuyển đổi từ hiện vật thành giá
trị để trả nợ ngân hàng. Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với các khoản cho vay có
tài sản làm bảo đảm nợ vay là tài sản đó phải là hàng hóa, có giá trị lớn hơn giá trị
khoản vay, có thị trường tiêu thụ cho hàng hoá đó để thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Hay
nói cách khác, để ngân hàng chấp thuận một loại bảo đảm tín dụng nào đó, nó phải
thoả mãn các điều kiện sau: Phải dễ dàng xác định; Phải có giá trị và tuổi thọ tương
đối dài; Ngân hàng phải có khả năng định giá phù hợp với giá trị của tài sản; Phải
dễ bán; Phải có một thị trường hiện tại của nó.
Việc xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự trước hết là dựa vào sự tự giác
của các bên nhưng trong thực tế không phải bất cứ ai khi tham gia giao dịch đều có
thiện chí trong việc thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ của mình. Để nghĩa vụ
cam kết được đảm bảo thực hiện và bên có quyền trong quan hệ đó có được thế chủ
động trong viêc được hưởng quyền đó, pháp luật cho phép các bên có thể thỏa thuận
đặt ra các biện pháp bảo đảm việc giao kết hợp đồng cũng như việc thực hiện các
nghĩa vụ dân sự. Trong các biện pháp bảo đảm tiền vay thì biện pháp bảo đảm tiền
vay bằng tài sản là biện pháp có tính phổ biến nhất bởi khi bảo đảm bằng tài sản bên
cho vay sẽ có được độ an toàn cao hơn, tránh được rủi ro bị thất thoát khoản vay.
7
Thứ nhất: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp
Theo điều 317 Bộ luật dân sự 2015 thì “thế chấp tài sản là việc một bên (sau
đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp)". Như
vậy, thế chấp tài sản là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ do
hai bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định.
Thế chấp tài sản là hình thức theo đó bên đi vay phải chuyển các giấy tờ
chứng nhận quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng các tài sản bảo đảm cho bên cho vay
nắm giữ trong thời gian thỏa thuận để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ đối với bên cho
vay. Tuy nhiên không phải tất cả các loại tài sản đều có thể đem đi thế chấp mà nó
phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định, tùy thuộc vào quy định của pháp luật. Tài
sản là động sản, bất động sản, quyền sử dụng đất có thể thế chấp để bảo đảm tiền
vay theo quy định tại Điều 318 Bộ luật dân sự năm 2015.
Thứ hai: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố
Theo điều 309 Bộ luật dân sự 2015 quy định “Cầm cố tài sản là việcầmột
bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên
kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”. Như vậy, bản
chất của cầm cố là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Theo đó bên
có nghĩa vụ giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên có quyền để đảm bảo
thực hiện nghĩa vụ; nếu tài sản cầm cố có đăng ký quyền sở hữu thì các bên có thể
thỏa thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản hoặc giao cho bên thứ ba giữ.
Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, cầm cố tài sản được hiểu là việc khách
hàng (bên vay vốn) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình giao cho tổ chức tín dụng
(bên cho vay) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
Thứ ba: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản của người thứ ba
Bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba là biện pháp bảo đảm trong đó bên thứ
ba sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình thế chấp hoặc cầm cố cho Ngân hàng để
bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bên vay.
Bản chất của bảo đảm bằng tài sản của người thứ ba cũng chính là biện pháp
bằng thế chấp hoặc cầm cố tài sản nhưng chủ thể đưa tài sản vào thế chấp hoặc cầm
cố không phải là bên vay vốn mà là người khác.
8
Thứ tư: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành trong tương lai
Thế chấp tài sản hình thành trong tương lai là một biện pháp bảo đảm phổ
biến áp dụng trong hoạt động kinh doanh dự án bất động sản, theo đó tài sản hình
thành trong tương lại được thế chấp cho Ngân hàng để vay vốn thực hiện dự án. Do
đó, pháp luật quy định quyền huy động vốn của chủ đầu tư phải đáp ứng một số quy
định tại Điều 147 Luật nhà ở 2014, theo đó Tổ chức, cá nhân xây dựng nhà ở hình
thành trong tương lai trên thửa đất ở hợp pháp của mình; tổ chức, cá nhân mua nhà
ở hình thành trong tương lai trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở của chủ đầu tư được
thế chấp nhà ở này tại tổ chức tín dụng đang hoạt động tại Việt Nam để vay vốn
phục vụ cho xây dựng nhà ở hoặc để mua chính nhà ở đó.
Việc thế chấp dự án đầu tư xây dựng nhà ở và thế chấp nhà ở hình thành
trong tương lai chỉ được thực hiện theo quy định tại Luật này; các trường hợp thế
chấp tài sản là dự án đầu tư xây dựng nhà ở hoặcầnhà ở hình thành trong tương lai
không đúng với quy định tại Luật này thì không có giá trị pháp lý. Tài sản hình
thành trong tương lai có thể hiểu là loại tài sản tồn tại hoặc chưa tồn tại ở tại thời
điểm giao dịch. Tuy nhiên, nó được đảm bảo thuộc quyền sở hữu của cá nhân hoặc
tổ chứcầnhất định trong giao dịch về tài sản đó. Có nghĩa là tài sản hình thành trong
tương lai gồm cả tài sản chưa hình thành hoặc đã hình thành nhưng việc chuyển
giao quyền sở hữu cho bên bảo đảm chưa được hoàn thành.
1.1.2. Khái niệm kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng
Trong lịch sử hình thành, phát triển của loài người đã trải qua các giai đoạn
phát triển khác nhau. Giai đoạn chưa có Nhà nước đó là thời kỳ Công xã nguyên
thủy Con người sống từng bầy đàn, xã hội chưa phân chia thành giai cấp, việc quản
lý xã hội bằng uy tín, tự giác trong xã hội. Các quan hệ xã hội được giải quyết bằng
cách noi gương, giải thích, thuyết phục các thành viên trong xã hội tự nguyện thực
hiện, việc cưỡng chế trong giai đoạn này không đặt ra. Đến giai đoạn xuất hiện Nhà
nước (Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư bản và Nhà nước xã
hội chủ nghĩa) đồng thời xuất hiện các giai cấp trong xã hội, các quan hệ xã hội
ngày càng nhiều, các mâu thuẫn, tranh chấp trong xã hội gia tăng. Giai cấp thống trị
xây dựng nên Bộ máy nhà nước, trước tiên để bảo vệ cho lợi ích của gia cấp mình,
9
đồng thời để quản lý xã hội đi theo một mục tiêu nhất định. Đến giai đoạn này nhiều
quan hệ xã hội không thể giải quyết bằng biện pháp giáo dục, thuyết phụcầmà phải
giải quyết bằng biện pháp cưỡng chế của Nhà nước để duy trì trật tự xã hội nhằm
thúc đẩy xã hội phát triển.
Như vậy Nhà nước xuất hiện thì cưỡng chế cũng xuất hiện để Nhà nước sử
dụng biện pháp cưỡng chế nhằm quản lý, điều hành đất nước và bảo vệ Nhà nước
đó. Theo từ điển Chữ nôm Tập 1 thì cưỡng là thúc ép, buộc tuân theo ý trí mình;
chế là kìm giữ, nén lại, tạo ra. Vậy cưỡng chế là một từ được ghép bởi hai từ cưỡng
và từ chế để tạo thành từ cưỡng chế. Theo từ điển Tiếng việt của Viện ngôn ngữ học
do Nhà xuất giáo dục xuất bản năm 1994 viết: " Cưỡng chế là dùng quyền lựcầnhà
nước bắt phải tuân theo". Nhưng Theo cuốn từ điển Tiếng việt, Viện Ngôn ngữ học,
Nhà xuất bản Từ điển bách khoa năm 2012 làm rõ hơn khái niệm cưỡng chế là thêm
hai từ pháp luật: "Cưỡng chế là dùng quyền lực nhà nước bắt phải tuân theo pháp
luật". Trong tiếng Anh cưỡng chế là Coerce, có nghĩa là buộc ai phải làm cái gì.
Tựu chung lại cưỡng chế được hiểu là Nhà nước dùng quyền lực của mình
buộc cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện một hành vi hoặc nghĩa vụ nhất định,
theo quy định của pháp luật hoặc là quyền lực xã hội buộcầmọi người phải tuân
theo luật, lệ... đã đặt ra.
Cưỡng chế gằn liền với hoạt động quản lý nhà nước và là một trong những
phương pháp chủ yếu trong hoạt động quản lý nhà nước. Trong nhà nước pháp
quyền, việc cưỡng chế nhằm mục đích thi hành pháp luật của nhà nước, duy trì trật
tự xã hội. Nhà nước thực hiện cưỡng chế thông qua nhiều biện pháp cưỡng chế,
những biện pháp cưỡng chế này được nhà nước trao quyền cho các cơ quan nhà
nước khác nhau thực hiện như: cưỡng chế hành chính, cưỡng chế trong hoạt động tố
tụng của cơ quan điều tra và cơ quan tòa án và cưỡng chế thi hành án.
Trong hoạt động quản lý hành chính và xử lý vi phạm hành chính, cưỡng chế
hành chính đượcầuBND và các cơ quan hành chính thực hiện như: cưỡng chế hành
chính đối với những đối tượng chống đối không di dời tài sản để giải phóng mặt
bằng phục vụ cho quốc phòng hoặc các cá nhân, cơ quan, tổ chức vi phạm hành
chính thì các cơ quan có thẩm quyền được áp dụng các biện pháp cưỡng chế được
10
quy định tại Khoản 2 Điều 86 Luật xử lý vi phạm hành chính như kê biên tài sản,
khấu trừ tài khoản của cá nhân, tổ chức… Các biện pháp cưỡng chế của cơ quan
điều tra được trao quyền cho thủ trưởng cơ quan điều tra thực hiện được quy định
tại Điều 128 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về biện pháp kê biên tài sản
áp dụng đối với bị can, bị cáo... Trong hoạt động tố tụng cơ quan tòa án cũng được
nhà nước trao quyền được áp dụng các biện pháp cưỡng chế được quy định tại Điều
111 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về các biện pháp khẩn cấp tạm thời như: kê
biên tài sản tranh chấp, phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác....
Ngoài ra cơ quan THADS cũng được nhà nước trao quyền được áp dụng các biện
pháp cưỡng chế trong THADS được quy định tại Điều 71 Luật THADS trong đó có
biện pháp kê biên, xử lý tài sản ….
Theo Giáo trình kỹ năng về thi hành án dân sự của Học viện Tư pháp viết
cưỡng chế THADS là biện pháp cưỡng bức bắt buộc của cơ quan THADS, do Chấp
hành viên quyết định theo thẩm quyền nhằm buộc người phải thi hành án phải thực
hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định. Cưỡng chế thi
hành án được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án
mà không tự nguyện thi hành án, hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi
hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc chốn tránh viện thi hành án.
Theo Tài liệu bồi dưỡng Chấp hành viên trung cấp định nghĩa cưỡng chế
THADS là biện pháp sử dụng quyền lựcầnhà nước để buộc người phải thi hành án
phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định của
tòa án. Biện pháp cưỡng chế do Chấp hành viên quyết định trong trường hợp người
phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án.
Qua hai định nghĩa trên chúng ta thấy cưỡng chế THADS đều có những đặc
điểm chung đó là chủ thể thực hiện phải là Chấp hành viên là người trực tiếp ra
quyết định cưỡng chế; người phải thi hành án phải có điều kiện thi hành án; người
phải thi hành án không tự nguyện thi hành án.
Qua đó biện pháp cưỡng chế là phương thức, cách thức dùng quyền lựcầnhà
nước buộc các cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ theo quy định của
11
pháp luật, do người có thẩm quyền áp dụng trong các trường hợp cần thiết nhằm
bảo vệ lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức và xã hội bị xâm hại.
Biện pháp cưỡng chế THADS cũng là một trong những biện pháp cưỡng chế
của Nhà nước trao quyền áp dụng trong trường hợp khi bản án, quyết định của tòa
án đã có hiệu lực pháp luật mà các đương sự không chấp hành bản án, quyết định
của Tòa án và chỉ do Chấp hành viện thực hiện. Do đó Biện pháp cưỡng chế
THADS được hiểu là biện pháp cưỡng chế THADS dùng quyền lực của Nhà nước
buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ thi hành án dân sự của họ, do Chấp
hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án
mà không tự nguyện thi hành án.
Công tác THADS chỉ là một bộ phận của thi hành án nói chung. Ở nước ta
hiện nay được phân ra làm hai bộ phận, thi hành án hình sự và THADS. Thi hành án
hình sự được Chính phủ giao cho Bộ công an quản lý, công tác THADS được Chính
phủ giao cho Bộ Tư pháp quản lý. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án
hình sự hà khắc hơn biện pháp cưỡng chế THADS. Sự khác biệt giữa thi hành án
hình sự và THADS được thể hiện ở căn cứ và tính chất của cưỡng chế thi hành án.
Nếu như căn cứ cưỡng chế thi hành án hình sự là phần hình phạt được tuyên trong
quyết định của bản án hình sự đó là hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân và hình
phạt tử hình. Ngược lại cưỡng chế THADS căn cứ cưỡng chế chủ yếu là các bản án,
quyết định dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế và lao động liên quan đến nghĩa vụ tài
sản hoặc những hành vi. Về tính chất cưỡng chế hình sự có hiệu lực thi hành án
ngay sau khi bản án hình sự có hiệu lực pháp luật, tòa án có thẩm quyền ra quyết
định thi hành án hình sự đối với người phải thi hành án, họ không có thời gian tự
nguyện thi hành án. Ngay sau có quyết định thi hành án, người phải thi hành án
hình sự phải chấp hành ngay tức khắc, nếu không cơ quan công an tiến hành cưỡng
chế bằng việc bắt hoặc dẫn giải người phải thi hành án đến các trại giam để thi hành
án. Nhưng đối với việc cưỡng chế THADS chỉ đặt ra khi đương sự có đơn yêu cầu
thi hành án, cơ quan THADS ra quyết định thi hành án, giao cho Chấp hành viên
thực hiện, Chấp hành viên định cho người phải thi hành án một thời hạn không quá
10 ngày, hết thời hạn trên người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án, mặc
12
dù có điều kiện thi hành án thì lúc này Chấp hành viên mới có quyền áp dụng biện
pháp cưỡng chế thi hành án đối với người phải thi hành án. Tuy nhiên trong trường
hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản hoặc
trốn tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên có quyền áp dụng ngay các biện pháp
cưỡng chế thi hành án mà không cần áp dụng thời gian tự nguyện thi hành án.
Kê biên là một động từ ghép bởi hai từ kê và biên. Theo từ điển Tiếng việt
của Viện ngôn ngữ học do Nhà xuất giáo dục xuất bản năm 1994 viết: “Kê là viết ra
theo thứ tự từng tên, từng nhóm để ghi nhớ hoặc thông báo” “Biên viết lên trang
giấy”... Hiện nay, kê biên được hiểu là tạm thời cấm vận chuyển, chuyển đổi, định
đoạt hoặc chuyển dịch tài sản của người vi phạm pháp luật. Điều này có nghĩa khi
kê biên một tài sản của một người nào đó thì quyền sở hữu tài sản của họ bị hạn
chế, họ không được chuyển đổi, chuyển dịch, định đoạt... tài sản bị kê biên đó. Mặt
khác tài sản bị kê biên phải là của người vi phạm pháp luật, nếu một người không vi
phạm pháp luật thì sẽ không bị kê biên.
Theo cuốn Từ điển luật học kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế nhằm
bảo đảm việc thi hành án hình sự, chỉ áp dụng với bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật
hình sự quy định. Với nội dung định nghĩa này khái niệm kê biên chỉ ở nghĩa hẹp
trong lĩnh vực điều tra hình sự. Trên thực tế trong hoạt động quản lý Nhà nước có
một số cơ quan Nhà nước được nhà nước được trao quyền thực hiện việc kê biên
tài sản đó là cơ quan điều tra của Công an, tòa án nhân dân các cấp, cơ quan quản lý
hành chính và cơ quan THADS thì khái niệm đó chưa đầy đủ.
Tuy nhiên trong lĩnh vực THADS thì không hoàn toàn đúng theo nghĩa trên
theo khoản 3 Điều 71 Luật THADS năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì
kê biên được hiểu là một trong số các biện pháp cưỡng chế THADS, khi Chấp hành
viên áp dụng biện pháp kê biên tài sản của người phải thi hành án trong trường hợp
người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án. Ở đây yếu tố không tự nguyện
thi hành án không đồng nghĩa với việc, người phải thi hành án vi phạm pháp luật thi
hành án, bởi vì nhiều trường hợp người phải thi hành án rất muốn bán được tài sản
để trả nợ nhưng không thể bán được vì yếu tố khách quan.
13
Vậy, kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế do các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thực hiện nhằm bảo đảm cho việc thực hiện một nghĩa vụ tài sản, đối
với các cá nhân, cơ quan, tổ chức xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Trong hoạt động THADS kê biên được hiểu là một trong những biện pháp
cưỡng chế THADS. Công tác THADS nói riêng và công tác thi hành án nói chung
là một trong những hoạt động quan trọng nhằm khôi phục và bảo vệ các quan hệ xã
hội bị xâm hại. THADS là hoạt động thi hành bản án, quyết định dân sự, hình phạt
tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản,
án phí, tiền phạt và quyết định dân sự trong bản án hình sự, phần tài sản trong bản
án, quyết định hành chính và toà án, quyết định của tòa án giải quyết pháp sản,
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý các vụ việc cạnh tranh có
liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án và phán quyết, quyết định của trọng
tài thương mại (sau đây gọi chung là bản án, quyết định của tòa án). Việc cưỡng chế
chỉ đặt ra khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án và đã hết thời gian tự
nguyện thi hành án thì Chấp hành viên mới áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi
hành án để buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ của mình.
Khái niệm kê biên luôn đi cùng với khái niệm các biện pháp cưỡng chế. Kê
biên tài sản tài sản là một biện pháp cưỡng chế hữu hiện để Nhà nước thực hiện
quyền lực nhà nước của mình. Cũng giống như cưỡng chế, kê biên tài sản Nhà nước
cũng trao cho các cơ quan khác nhau thực hiện như: Thủ trưởng cơ quan điều tra công
an, Thẩm phán tòa án nhân các cấp… trong đó có Chấp hành viên cơ quan THADS. Sự
khác biệt này được thể hiện ở những khía cạnh chính là chủ thể áp dụng kê biên và mục
đích kê biên. Ví dụ chủ thể thực hiện kê biên trong giai đoạn xét xử là thẩm phán giải
quyết vụ việc, chủ thể thực hiện kê biên trong giai đoạn thi hành án là do Chấp hành
viên. Về mục đích kê biên của các cơ quan điều tra và cơ quan tòa án nhằm bảo đảm
việc thi hành án, tránh việc tẩu tán, hủy hoại tài sản của bị can, bị cáo, đương sự.
Nhưng mục đích áp dụng biện pháp kê biên của các cơ quan hành chính và cơ quan
THADS là ngoài mục đích như trên còn mục đích xử lý tài sản thanh toán trả tiền cho
khoản tiền phạt, khoản thu cho ngân sách nhà nước và chủ nợ.
14
1.1.3. Đặc điểm của kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng
Cũng như kê biên tài sản nói chung, kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân
hàng phải đáp ứng đủ các điều kiện như: Theo bản án, quyết định của tòa án, người
phải thi hành án phải có nghĩa vụ trả tiền cho người phải thi hành án; người phải thi
hành án phải có tài sản để thi hànhữnghĩa vụ trả tiền cho người được thi hành án.
Tài sản bị kê biên có thể là tài sản thuộc sử hữu chung, sở hữu riêng của người phải
thi hành án, tài sản này có thể do người phải thi hành án hoặc do người thứ ba quản
lý, sử dụng; đã hết thời gian tự nguyện do Chấp hành viên ấn định nhưng người
phải thi hành án không tự nguyện thi hành án hoặc chưa hết thời gian tự nguyện,
nhưng cần phải ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản.
Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự theo
pháp luật Việt Nam có một số đặc điểm như sau:
* Mang tính quyền lực của Nhà nước, chủ thể áp dụng biện pháp kê biên là
cá nhân, cơ quan được nhà nước trao quyền thực hiện quyền lực của Nhà nước.
Ở bất cứ một Nhà nước nào trên thế giới đều có Bộ máy Nhà nước được
phân chia thành ba phân nhánh quyền lực, quyền lập pháp, quyền hành pháp và
quyền tư pháp. Để thực hiện quyền lực nhà nước, các cơ quan Nhà nước được lập ra
để thực hiện quyền lực nhà nước. Hệ thống cơ quan THADS được Thủ tướng Chính
phủ thành lập theo ngành dọc từ Trung ương xuống địa phương bao gồm: Tổng cục
THADS thuộc Bộ Tư Pháp, cấp thành phố có Cục THADS tỉnh, cấp huyện có Chi
cục THADS huyện. Ngoài ra còn có cơ quan THADS trong Quân đội đó là Cục thi
hành án thuộc Bộ quốc phòng, Phòng thi hành án thuộc Quân khu. Hệ thống cơ
quan THADS này thuộc phân nhánh các cơ quan hành pháp thực hiện quyền hành
pháp. Nhà nước trao cho Hệ thống cơ quan THADS thi hành về phần dân sự của
bản án, quyết định của Tòa án. Hệ thống cơ quan thi hành án này hoạt động thông
qua đội ngũ các bộ, công chức và người lao động. Tuy nhiên không phải ai cũng
được nhà nước trao quyền thực hiện việc kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân
hàng nói riêng và thực hiện các biện pháp cưỡng chế THADS nói chung, Nhà nước
chỉ trao cho người có chức danh, trong đó có chức danh Chấp hành viên.
15
Chấp hành viên là người được nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án,
quyết định theo quy định (Điều 17 Luật THADS năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm
2014). Nội dung của Điều này chỉ ra rằng chỉ có Chấp hành viên mới được áp dụng
các biện pháp cưỡng chế được quy định tại Điều 71 Luật THADS năm 2008 sửa
đổi, bổ sung năm 2014 trong đó có việc áp dụng biện pháp kê biên tài sản bảo đảm
tiền vay ngân hàng. Chấp hành viên là một chức danh tư pháp được Bộ trưởng Bộ
tư pháp bổ nhiệm. Điều kiện để được bổ nhiệm Chấp hành viên, phải là Công dân
Việt Nam trung thành với Tổ quốc, trung thực, liêm khiết, có phẩm chất đạo đức
tốt, có trình độ cử nhân luật trở lên, có sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ được giao,
có thời gian làm công tác pháp luật từ 03 năm trở lên, đã được đào tạo nghiệp vụ
THADS, trúng tuyển kỳ thi tuyển thì có thể được bổ nhiệm làm Chấp hành viên
Điều 18 Luật THADS năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014. Chấp hành viên được
phân thành Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên
cao cấp, sự phân cấp Chấp hành viên này cho phù hợp với từng trình độ của mỗi
ngạch Chấp hành viên để thủ trưởng cơ quan thi hành án giao việc cho phù hợp với
từng Chấp hành viên trong đơn vị.
* Khi bị kê biên tài sản bảo đảm tiền vay của người sử dụng đất bị đặt vào
tình trạng bị hạn chế giao dịch
Biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng mục đích
trước tiên là hạn chế một số quyền sử dụng đất của người phải thi hành án, mà Nhà
nước giao cho. Khi Chấp hành viên ban hành quyết định cưỡng chế kê biên tài sản
bảo đảm tiền vay ngân hàng, thì kể từ thời điểm này người phải thi hành án không
được tự mình chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, tặng cho, góp vốn và
thừa kế tài sản bảo đảm tiền vay, nếu người phải thi hành muốn thực hiện các quyền
trên phải thông qua Chấp hành viên phụ trách vụ việc và phải được sự cho phép của
Chấp hành viên, đồng thời phải làm theo những điều kiện theo quy định của pháp luật
THADS. Việc hạn chế một số quyền này chấm dứt khi người phải thi hành án hoàn
thànhữnghĩa vụ tài sản của mình đối với người được thi hành án, bằng quyết định giải
tỏa kê biên tài sản bảo đảm tiền vay của Chấp hành viên, đến thời điểm này tài sản bảo
đảm tiền vay của người phải thi hành án mới không bị hạn chế giao dịch.
16
* Cơ sở pháp lý của cưỡng chế kê biên tài sản bảo đảm tiền vay
Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay là một trong những biện pháp cưỡng chế thi
hành án dân sự có tính nghiêm khắc nhất trong các biện pháp cưỡng chế THADS, là
một hoạt động dựa trên các cơ sở pháp lý được pháp luật qui định chặt chẽ. Cơ sở
pháp lý ban đầu chính xác, chặt chẽ sẽ làm tiền đề cho thực hiện các thủ tục tiếp
theo. Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay còn là hoạt động nhạy cảm, ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền lợi của người phải thi hành án. Nếu thực hiện không dựa trên một cơ
sở pháp lý, các thủ tục không được thực hiện đầy đủ và đúng pháp luật, thì khi có
khiếu nại phát sinh mà cơ quan thi hành án không có cơ sở bác đơn khiếu nại của
đương sự, buộc phải công nhận khiếu nại là đúng thì cả một quá trình thi hành án bị
ngưng trệ, thậm trí có thể phải làm lại từ đầu, gây tốn kém về thời gian, tiền bạc của
Nhà nước, tổ chức, công dân. Chính vì vậy, khi áp dụng biện pháp cưỡng chế kê
biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng phải đảm bảo các cơ sở pháp lý sau:
Thứ nhất, theo Bản án, Quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc
của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, người phải thi hành án
có nghĩa vụ trả tiền cho người được thi hành án. Như vậy, khi Bản án, Quyết định
có hiệu lực trên thực tế là cơ sở pháp lý đầu tiên và quan trọng nhất để chấp hành
viên căn cứ vào đó để thực hiện cưỡng chế Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân
hàng đối với người phải thi hành án và người này phải có nghĩa vụ trả tiền đối với
người được thi hành án.
Thứ hai, đã hết thời gian tự nguyện thi hành án do Chấp hành viên ấn
địnhữngười phải thi hành án không tự nguyện thi hành. Do tính chất của THADS
khác với thi hành án hình sự là lấy trừng phạt làm đầu. Trong THADS cần thiết phải
có thời gian để người phải thi hành án tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình.
Chính vì vậy tại khoản 1, điều 46 quy đinh “Hết thời gian quy định tại khoản 1 Điều
45 của Luật này, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự
nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế”. Luật THADS đã quy định thời gian tự nguyện
cố định đối với mọi trường hợp là 10 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận
được quyết định hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án.
17
Thứ ba, chưa hết thời gian tự nguyện thi hành án nhưng người phải thi hành
án có dấu hiệu tẩu tán, hủy hoại tài sản (tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng). Theo
quy định tại khoản 2 Điều 45 LTHADS năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy
định: “Trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy
hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên có quyền áp dụng
ngay các biện pháp quy định tại Chương IV của luật này”. Như vậy, ngay cả khi
đang trong thời gian tự nguyện thi hành án, nếu Chấp hành viên phát hiện thấy
người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc thực hiện các biện
pháp khác nhằm trốn tránh nghĩa vụ phải thi hành án, thì Chấp hành viên cũng có
thể áp dụng ngay biện pháp kê biên Tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng để ngăn
chặn hành vi nhằm trốn tránh nghĩa vụ của người phải thi hành án.
Khi áp dụng biện pháp kê biên Tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng Chấp hành
viên nhất thiết phải căn cứ vào các điều kiện nêu trên để áp dụng một cách tốt nhất trong
công tác thi hành án của mình đảm bảo được quyền, lợi ích của các chủ thể
* Quyền sử dụng đất là một tài sản đặc biệt trong cưỡng chế kê biên tài sản
để thi hành án dân sự
Theo Hiến pháp năm 2013, Luật đất đai năm 2013 quy định chế độ sở hữu
đất đai: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu”. Như
vậy, với tư cách là đại diện chủ sở hữu, Nhà nướcầmới có đầy đủ các quyền chiếm
hữu, sử dụng và định đoạt đối với đất đai. Tuy nhiên, trên thực tế Nhà nước không
trực tiếp quản lý và khai thác lợi ích trên từng mảnh đất mà phần lớn giao đất cho
các tổ chức, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài. Quyền sử dụng đất ở Việt Nam có
tính chất đặc thù, có quan điểm cho rằng: “Nhà nước có quyền sở hữu đất đai, người
sử dụng đất cũng có quyền sở hữu đất đai bằng việc nhà nước ghi nhận quyền
chuyển quyền sử dụng đất bao gồm các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho
thuê, thừa kế và thế chấp quyền sử dụng đất. Việc thừa nhận này chính là Nhà nước
đã thừa nhận hình thức sở hữu đất đai có điều kiện, nói cách khác đây gọi là hình
thức sở hữu kép đối với đất đai”. Tuy nhiên, không thể đồng nhất quyền sở hữu đất
đai với quyền sử dụng đất bởi sự khác nhau cả về nội dung và ý nghĩa.
18
Quyền sở hữu đất đai là quyền nguyên thủy (có trước), còn quyền sử dụng
đất là quyền phái sinh (có sau) xuất hiện khi được nhà nước giao đất hoặc cho thuê
đất, cho phép nhận chuyển quyền sử dụng đất hay công nhận quyền sử dụng đất.
Quyền sở hữu đất đai là một loại quyền trọn vẹn, đầy đủ còn quyền sử dụng
đất lại không trọn vẹn, đầy đủ. Bởi vì, người sử dụng đất không có đầy đủ các
quyền năng như Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu. Mặt khác, không phải
chủ sử dụng đất nào cứ có quyền sử dụng đất hợp pháp là có các quyền chuyển
quyền của người sử dụng đất.
Quyền sở hữu đất đai là một loại quyền tồn tại độc lập còn quyền sử dụng đất
lại là quyền phụ thuộc. Sự phụ thuộc này thể hiện là người sử dụng đất chỉ được sử
dụng đất trong phạm vi nhất định (về diện tích đất, thời gian sử dụng đất, mục đích
sử dụng đất). Như vậy, quyền sử dụng đất được hiểu là quyền của người sử dụng
đất khai thác các thuộc tính của đất đai, khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức
từ tài sản một cách hợp pháp phục vụ cho mục đích của mình và quyền chuyển
quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
* Đặc điểm về chủ thể áp dụng
Việc quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế, ra quyết định cưỡng chế và tổ
chức thực hiện cưỡng chế kê biên Tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng thuộc thẩm
quyền của một Chấp hành viên được giao nhiệm vụ thi hành vụ việc thi hành
án.Theo qui định của luật thi hành án năm 2008: Chấp hành viên là người được nhà
nước giao nhiệm vụ thi hành các Bản án, Quyết định do Bộ trưởng Bộ tư pháp bổ
nhiệm. Công dân Việt Nam có trình độ cử nhân luật trở lên và một số điều kiện
khác như trung thực, phẩm chất, đạo đức tốt và có thời gian công tác pháp luật thì
có thể được bổ nhiệm làm chấp hành viên trong cơ quan thi hành án dân sự ở các
địa phương.
Chấp hành viên được giao nhiệm vụ thi hành quyết định thi hành án của thủ
trưởng cơ quan thi hành án ban hành và là người có thẩm quyền quyết định áp dụng
biện pháp kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng đối với vụ việc thi hành án
đó. Dựa trên kết quả sự tự nguyện của người phải thi hành án và điều kiện về tài sản
hiện có là tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng của người phải thi hành án Chấp hành
19
viên ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản bảo đảm tiền vay
ngân hàng để đảm bảo thi hành án nghĩa vụ theo Bản án, Quyết định của cơ quan có
thẩm quyền.
1.1.4. Vai trò của kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng
* Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng là biện pháp thi hành triệt để
bản án, quyết định của Tòa án.
Tài sản đem bảo đảm tiền vay ngân hàng thường là là tài sản có giá trị lớn, vì
vậy khi Chấp hành viên thực hiện biện pháp cưỡng chế này phần lớn thi hành triệt
để bản án, quyết định của tòa án có nghĩa vụ tài sản có giá trị lớn mà các biện pháp
cưỡng chế khác không mang lại hiệu quả như biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập
của người phải thi hành án, kê biên tài sản có giá trị không lớn, Thu tiền từ hoạt
động kinh doanh của người phải thi hành án… Mặt khác đối với người phải thi hành
án, phải thi hành nhiều bản án, quyết định của tòa án, do đó họ phải thực hiện nhiều
nghĩa vụ về trả tiền thì việc xử lý tài sản bảo đảm sẽ bảo đảm thi hành triệt để
không những một bản án, quyết định mà còn thi hành triệt để nhiều bản án, quyết
định của Tòa án.
* Kê biên tài sản bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của người phải thi hành
án và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án.
Khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng vì lý do hoặc lợi
ích cá nhân nào đó người phải thi hành án không muốn tự nguyện thi hành án, họ
nại ra nhiều lý do bất hợp pháp để chốn tránh hoặc kéo dài việc thực hiện nghĩa vụ
của mình đối với người được thi hành án. Trong trường hợp này Chấp hành viên
thực hiện biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản bảo đảm nhằm bảo đảm cho việc thi
hành án, đảm bảo cho lợi ích cả hai bên người phải thi hành án và người được thi
hành án, bởi vì kể từ thời điểm Chấp hành viên ra quyết định cưỡng chế kê biên tài
sản bảo đảm của người phải thi hành án thì các khoản nợ có đến thời điểm này đều
được bảo đảm thanh toán trước. Người phải thi hành án không thể kéo dài thêm thời
gian thực hiện nghĩa vụ của mình, nhằm mục đích kéo dài thời gian thi hành án chờ
thời cơ có lợi cho mình. Người được thi hành án thì nhận được lợi ích vật chất mình
được hưởng theo bản án, quyết định của tòa án với thời giam nhanh nhất. Việc thực
20
hiện xong bản án, quyết định của tòa án tránh được tổn thất về vật chất và tinh thần
cho cả hai bên, người được thi hành án và người phải thi hành án.
* Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay còn nhiệm vụ là ngăn ngừa tình trạng tẩu
tán tài sản bảo đảm, giáo dục ý thức pháp luật cho công dân.
Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay là một biện pháp cưỡng chế lớn phải huy
động nhiều lực lượng, liên quan đến nhiều ngành, cấp và được đưa lên thông tin đại
chúng. Vì vậy thông qua buổi cưỡng chế kê biên tài sản bảo đảm tiền vay nhằm
ngăn ngừa những đối tượng đã vay ngân hàng trây ỳ, chống đối không thực hiện
nghĩa vụ của mình. Mặt khác thông qua buổi cưỡng chế nhằm giáo dục ý thức pháp
luật cho mỗi công dân hiểu biết thêm pháp luật về THADS để họ tự điều chỉnh hành
vi của mình trong những trường hợp tương tự.
1.2. Cơ sở và phân loại kê biên kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng
1.2.1. Cơ sở của việc kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng
Tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng là một loại tài sản nên có thể được giao
dịch dân sự, điều này được quy định trong Bộ luật dân sự, tài sản bảo đảm được
thực hiện trong các giao dịch dân sự như chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, tặng
cho, góp vốn và thừa kế. Hiện nay ở khắp nơi trên cả nước việc chuyển nhượng và
chuyển đổi mục đích sử dụng tài sản bảo đảm tiền vay gia tăng với lượng lớn mang
lại nhiều nguồn lợi lớn cho Nhà nước, tổ chức và cá nhân. Với chính sách đổi mới
của Đảng và Nhà nước ta coi tài sản bảo đảm tiền vay là một nguồn lực cho đầu tư
công nghiệp hóa và hiện hóa đất nước. Cùng với sự phát triển của đất nước việc kê
biên tài sản bảo đảm tiền vay trong những năm gần đây ngày càng gia tăng về số vụ
việc trong các cơ quan THADS.
Tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng là một loại tài sản có thể quy ra bằng tiền,
việc kê biên bán đấu giá có tính khả thi cao trong việc thi hành nhiều nghĩa vụ THADS.
Kê biên tài sản là biện pháp cưỡng chế được quy định trong Luật thi hành
án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 tại Điều 71 là một trong hai biện
pháp của cơ quan thi hành án dân sự, biện pháp còn lại của cơ quan thi hành án
dân sự là tự nguyện thi hành án. Cơ sở của việc kê biên tài sản thể hiện ở những
nội dung như.
21
Trước hết kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng thể hiện tính nghiêm
minh của pháp luật và khôi phục lại những quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ.
Trong quá trình giải quyết một vụ án tranh chấp tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng
thì chỉ kết thúc khi bản án quyết định của Tòa án được thi hành đúng kịp thời đầy
đủ theo quy định của Toà án. Công tác thi hành án dân sự không được các bên quan
tâm và không có hiệu quả thì sẽ có nhiều khả năng ảnh hưởng tiêu cực lớn, tác động
đến toàn bộ hoạt động của Cơ quan Điều tra công an; Truy tố của Viện kiểm sát;
Xét xử của Toà án, trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực nhà nước giảm sút
không được coi trọng, quyền lời và lợi ích hợp pháp của công dân, các đương sự bị
xâm hại.
Thi hành án dân sự đạt được hiệu quả sẽ mang lại niềm tin cho nhân dân đối
với tính nghiêm minh của pháp luật trong công tác thi hành án nói riêng và pháp
luật nói chung, góp phần khôi phục lại nh ng quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ.
Thi hành án là thước đo hiệu quả hoạt động xét xử nhân danh của Tòa án và
hoạt động tư pháp khác Hoạt động điều tra, truy tố và xét xử diễn ra rất phức tạp,
kéo dài và tốn kém của nhà nước, song nh ng hoạt động đó có thể chỉ là con số
không nếu như bản án, quyết định của Tòa án không được đưa ra thi hành trên thực
tế một cách nghiêm minh đúng quy định. Với ý nghĩa đó, thi hành án dân sự là một
hoạt động không thể thiếu được trong quá trình bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp
của đương sự nh ng người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
1.2.2. Phân loại kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng
CHV chỉ kê biên tài sản của người phải THA tương ứng với nghĩa vụ THA
và các chi phí cần thiết. Đó là các chi phí do người phải THA chịu theo qui định tại
Điều 73 LTHADS 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Vì vậy khi kê biên tài sản
của người phải THA, CHV phải tạm tính giá trị các tài sản định kê biên và các chi
phí để kê biên tương ứng với mức vừa đủ để THA. CHV có thể dựa vào giá thị
trường của tài sản tại thời điểm tiến hành việc kê biên, hay có thể tham khảo ý kiến
của các cơ quan chức năng có liên quan và của cả các bên đương sự để tạm tính giá
trị tài sản kê biên.
22
Khi áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên sẽ tác động trực tiếp đến các chủ
thể sau: Người được THA, người phải THA, người có quyền và nghĩa vụ liên quan.
Những người này có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức. Tùy theo chủ thể là người
được hay người phải THA mà họ sẽ được hưởng những quyền lợi cũng như phải
thực hiện những nghĩa vụ khác nhau. Nhưng dù được hưởng quyền lợi hay phải
thực hiện nghĩa vụ thì chỉ có một loại đối tượng phải chịu tác động đó là tài sản kê
biên. Tài sản này có thể là động sản hay bất động sản nhưng nó phải thuộc quyền sở
hữu của người phải THA. Để tránh sự tùy tiện, áp đặt của CHV, đảm bảo nguyên
tắc người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản của chính mình, không
xâm phạm đến tài sản của người khác. Khi kê biên phải đảm bảo nguyên tắc tài sản
kê biên tương ứng với nghĩa vụ phải thi hành và các chi phí có liên quan, trừ trường
hợp đặc biệt là tài sản này lớn hơn nghĩa vụ phải thi hành. Tuy nhiên không phải tất
cả các loại tài sản đều có thể bị kê biên, có những loại tài sản do tính chất đặc thù
của chính nó qui định hoặc do ý thức chủ quan của con người qui định mà nó sẽ
không phải là đối tượng bị kê biên.
Thứ nhất, kê biên tài sản thuộc sở hữu chung
Với những qui định cụ thể của LTHADS 2008 được sửa đổi bổ sung năm
2014 so với PLTHADS 2004 về cưỡng chế tài sản thuộc sở hữu chung đã tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho CHV cũng như bảo đảm được quyền lợi cho các đương sự.
LTHADS năm 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014 qui định: “Trường hợp chưa
xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải
thi hành án trong khối tài sản chung để thi hành án thì Chấp hành viên phải thông
báo cho người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài
sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu
cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
LTHADS năm 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014 đã phân định rõ ràng
hai trường hợp kê biên tài sản thuộc sở hữu chung với người khác và tài sản thuộc
sở hữu chung với vợ chồng ra riêng hai phần giúp cho CHV dễ dàng xác định phần
sở hữu của người phải THA trong khối tài sản chung. Đây là một điểm tiến bộ vượt
bậc so với PLTHADS 2004. Ở PLTHADS 2004 chỉ qui định: “khi không có tài sản
23
riêng thì CHV mới được kê biên phần tài sản của người phải THA trong khối tài sản
thuộc sở hữu chung với người khác”. Bởi lẽ, cả hai loại tài sản thuộc sở hữu chung
này đều được xác định theo qui định của BLDS 2004, nhưng riêng tài sản thuộc sở
hữu chung của vợ chồng còn dựa theo qui định của Luật hôn nhân và gia đình.
Luật qui định cho phép chủ sở hữu chung được quyền khởi kiện ra Tòa án để
yêu cầu bảo vệ quyền lợi cho mình. Điều này thể hiện tính dân chủ đồng thời có thể
bảo vệ lợi ích của các đồng sở hữu chung trong trường hợp tài sản bị kê biên để
THA. Tuy nhiên, trên thực tế nếu đương sự khởi kiện để yêu cầu Tòa án xác định
phần sở hữu của mình thì việc THA sẽ rất kéo dài. Bởi lẽ, việc THA phải chờ vào
kết quả phân chia của Tòa án. Mà quá trình tố tụng của một vụ án dân sự phải m t
nhiều năm, chưa kể có nhiều vụ phải xử đi xử lại hàng chục lần. Đây cũng đang là
vấn đề nan giải, bởi nếu không cho chủ sở hữu chung có quyền khởi kiện là không
đúng với nguyên tắc đương sự có “quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp theo Bộ luật tố tụng dân sự.
Bởi những tài sản phải đăng kí quyền sở hữu thường là những tài sản có giá
trị rất lớn, tài sản có thể bảo đảm khả năng thanh toán cao cho chủ sở hữu trong
trường hợp chủ sở hữu phải thực hiện nghĩa vụ theo qui định của pháp luật. Căn cứ
vào qui định trên khi kê biên tài sản chung của vợ chồng CHV cần lưu ý:
+ Trường hợp bản án, quyết định của Tòa án tuyên buộc vợ hoặc chồng phải
THA thì CHV chỉ được kê biên tài sản thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng. Nếu
người phải THA không có tài sản riêng hoặc có nhưng không đủ để thi hành thì kê
biên phần tài sản của người đó trong khối tài sản chung của vợ chồng. Qui định
nhằm đảm bảo quyền lợi cho vợ hoặc chồng còn lại và giữ nguyên tắc nghĩa vụ của
ai thì người đó chịu. Nếu tài sản chung không thể phân chia, CHV có quyền kê biên
toàn bộ tài sản và giải thích cho vợ hoặc chồng còn lại quyền ưu tiên mua phần tài sản
của người kia. Nếu vợ hoặc chồng không mua thì sau khi bán tài sản, CHV thanh toán
lại cho họ 1/2 giá trị tài sản và trích lại cho người phải THA số tiền cần trợ cấp cho việc
nuôi con chưa thành niên, người tàn tật hoặc người khácầmà người phải THA đang có
trách nhiệm nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng nuôi con khi chưa đủ 18 tuổi theo qui định
của pháp luật. Đồng thời cũng đảm bảo được tính nhân đạo trong việc trích lại số tiền
đủ để thực hiện trợ cấp cho những đối tượng theo qui định của pháp luật.
24
Vai trò của Nhà nước là nhằm an sinh xã hội, đảm bảo cuộc sống của người
dân luôn được ấm no, do đó trong mọi hoàn cảnh kể cả khi đương sự phải thực hiện
nghĩa vụ theo bản án, quyết định của Tòa án vẫn phải tính đến việc đảm bảo cho
cuộc sống cho người phải THA và gia đình đủ điều kiện để tiếp tục sinh sống.
+ Trong trường hợp tài sản chung của vợ chồng gồm nhiều loại tài sản thì
CHV căn cứ vào giá trị của từng tài sản để kê biên loại tài sản có giá trị tương ứng
với số tiền và chi phí để THA. Đây là cơ sở để CHV kê biên tài sản của đương sự
trong điều kiện đương sự có rất nhiều loại tài sản. Song song đó qui định này còn
ngăn chặn được tình trạng “vượt quyền của CHV”, bởi nếu không qui định như vậy
thì CHV có thể kê biên tài sản nào cũng được, bất kể tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ
phải THA rất nhiều.
Theo khoản 2 Điều 74 LTHADS năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014
thì: Tài sản kê biên thuộc sở hữu chung đã xác định đượcấphần sở hữu của các chủ
sở hữu chung được xử lý. Đối với tài sản chung có thể chia được thì Chấp hành viên
áp dụng biện pháp cưỡng chế phần tài sản tương ứng với phần sở hữu của người
phải thi hành án; Đối với tài sản chung không thể chia được hoặc nếu việc phân chia
làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp
cưỡng chế đối với toàn bộ tài sản và thanh toán cho chủ sở hữu chung còn lại giá trị
phần tài sản thuộc quyền sở hữu của họ.
Như vậy, đối với tài sản chung thì mỗi chủ sở hữu chung sẽ có quyền và
nghĩa vụ tương ứng với phần quyền sở hữu của mình. Khi đó, nếu một chủ sở hữu
chung bị áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên thì CHV chỉ được kê biên phần tài
sản thuộc sở hữu của người này trong khối tài sản chung. Từ đó cho thấy, việc xác
định khối tài sản chung này phụ thuộc vào ý chí chủ quan của CHV. Vì vậy, không
thể tránh khỏi trường hợp có những tài sản có thể chia được nhưng CHV lại tiến
hành kê biên toàn bộ tài sản làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến các chủ sở hữu khác.
Thứ hai, kê biên đối với tài sản là quyền sở hữu trí tuệ
Quyền sở hữu trí tuệ là một loại tài sản đặc biệt bởi nó không phải là tài sản
hữu hình mà là tài sản vô hình, tài sản do trí tuệ của con người tạo ra. Quyền sở hữu
trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ bao gồm: Quyền tác giả
25
và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với
giống cây trồng (khoản 1 điều 4 Luật SHTT).
Trường hợp người phải THA là chủ sở hữu quyền SHTT chuyển QSD quyền
SHTT cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác thì quyền SHTT vẫn bị kê biên. Theo qui
định tại BLDS năm 2005 thì quyền sở hữu tài sản bao gồm quyền chiếm hữu, quyền
sử dụng, quyền định đoạt tài sản. Do đó, khi người phải THA chỉ chuyển QSD cho
đối tượng khác thì tài sản đó vẫn bị kê biên vì chủ sở hữu chỉ chuyển quyền khai
thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản nhưng vẫn còn quyền chiếm hữu và
quyền định đoạt tài sản.
Tuy nhiên, đối với trường hợp nhằm đảm bảo mục tiêu quốc phòng, an ninh,
dân sinh và lợi ích nhà nước, xã hội mà Nhà nước qui định chủ SHTT phải chuyển
giao quyền của mình cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác sử dụng trong thời gian
nhất định thì CHV không được kê biên quyền SHTT của người phải THA trong thời
gian bắt buộc phải chuyển giao.
Thứ ba, kê biên tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản phải đăng kí quyền sở
hữu hoặc đăng kí giao dịch bảo đảm.
Một là, kê biên tài sản là quyền sử dụng đất: Để giải quyết được những
vướng mắc trên, PLTHADS 2004 và LTHADS năm 2008 được sưả đổi, bổ sung
năm 2014 đã đưa QSD trở thành một trong những loại tài sản được phép kê biên để
THA. Theo qui định tại Điều 89 LTHADS năm 2008 thì “CHV yêu cầu cơ quan
đăng kí cung cấp thông tin về tài sản”. Các cơ quan này phải có trách nhiệm cung
cấp đầy đủ thông tin về tài sản cho CHV trong thời hạn 5 ngày làm việc để CHV
quyết định có kê biên tài sản hay không.
Hai là, kê biên tài sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc đăng ký giao dịch bảo
đảm: Trước khi kê biên tài sản phải đăng kí quyền sử hữu hoặc đăng kí giao dịch
bảo đảm, CHV phải yêu cầu cơ quan đăng kí quyền sở hữu cung cấp thông tin về
quyền sở hữu của người phải THA, yêu cầu cơ quan đăng kí giao dịch bảo đảm
cung cấp thông tin về tài sản dự định kê biên có đang được dùng để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ của người phải THA đối với người có quyền hay không. Trên cơ sở
đó, CHV mới có căn cứ để tiến hành áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản.
26
Sau khi kê biên CHV phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan đăng kí về việc kê
biên tài sản để xử lý theo qui định tại khoản 2 điều 89 LTHADS 2008 sửa đổi, bổ
sung năm 2014.
Thứ tư, kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp.
Trường hợp người phải THA không còn tài sản nào khác hoặc có nhưng
không đủ để THA thì CHV có quyền kê biên xử lý tài sản của người phải THA
đang cầm cố, thế chấp nếu giá trị của tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và
các chi phí cưỡng chế THA. Đối với các tài sản của người phải THA đang được
cầm cố, thế chấp hợp pháp trong các giao dịch dân sự mà có giá trị lớn hơn toàn bộ
các nghĩa vụ được bảo đảm theo hợp đồng thế chấp, cầm cố cộng với các chi phí
cho việc kê biên, xử lý tài sản thì CHV được quyền kê biên tài sản của người phải
THA để bảo đảm THA mặc dù hợp đồng cầm cố, thế chấp chưa đến hạn. Quy định
này gây ảnh hưởng bất lợi quyền chủ nợ hợp pháp của tổ chức tín dụng vì khi tổ
chức tín dụng buộc phải thực hiện thu nợ trước hạn đối với khoản vay được bảo
đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp đã bị kê biên, thì số tiền tổ chức tín dụng thu
được từ giao dịch này có thể ít hơn số tiền dự tính thu được theo thoả thuận trong
hợp đồng tín dụng do thời gian cho vay bị rút ngắn và giá trị thu hồi tài sản bảo
đảm thường giảm đáng kể do bị kê biên.
Tuy nhiên để đảm bảo lợi ích hợp pháp cho người nhận cầm cố, thế chấp
LTHADS 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 qui định khi kê biên tài sản đang cầm cố,
thế chấp phải thông báo cho người nhận cầm cố, nhận thế chấp biết để những người
này tự bảo vệ quyền lợi cho chính mình và kịp thời tham gia khi kê biên tài sản.
Thứ năm, kê biên tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ
CHV có quyền kê biên tài sản của người phải THA đang do người thứ ba
giữ, kể cả trường hợp tài sản được xác định bằng bản án, quyết định khác. Người
thứ ba có thể giữ tài sản của người phải THA bằng phương thức sau: Thuê, mượn,
sửa chữa, bảo quản, sử dụng.Tài sản được xác định bằng bản án, quyết định có thể
là các khoản nợ mà người thứ ba đang nợ người phải THA và khoản nợ này đã được
xác định bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Khi có căn cứ xác định
tài sản đó là của người phải THA thì CHV ra quyết định kê biên tài sản đó để THA.
Điều này có thể tránh được khả năng người phải THA tẩu tán, hủy hoại tài sản.
27
Để đảm bảo quyền lợi của người thuê trong trường hợp tài sản thuê bị kê
biên thì LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 cho phép người thuê được tiếp tục
thực hiện hợp đồng thuê trong thời gian còn lại của hợp đồng với người trúng đấu
giá tài sản bị kê biên.
Thứ sáu, kê biên vốn góp.
LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã qui định vốn góp cũng là tài sản có
thể bị kê biên để THA. Thật vậy, vốn góp là một loại tài sản có giá trị rất lớn, khả
năng đảm bảo THA của loại tài sản này được đánh giá cao trong thời điểm hiện nay.
Khi đó, CHV có quyền yêu cầu “cá nhân, cơ quan, tổ chức nơi người phải THA có
vốn góp cung cấp thông tin về phần vốn góp của người phải THA” để kê biên phần
vốn góp đó, để CHV dễ dàng tiến hành kê biên. Cần phải qui định thêm trường hợp
những cá nhân, cơ quan, tổ chức này phải chịu trách nhiệm khi không cung cấp
thông tin hoặc cố tình cung cấp thông tin sai sự thật để người phải THA có cơ hội
tẩu tán tài sản bằng những giao dịch khác; Trưng cầu tổ chức, cá nhân có chuyên
môn xác định phần giá trị vốn góp của người phải THA để THA. Tiếp tục phát huy
nguyên tắc tự định đoạt của đương sự, trong trường hợp đương sự không tin tưởng
vào kết quả xác định về giá trị phần vốn góp của CHV thì pháp luật cho phép đương
sự được quyền yêu cầu Tòa án xác định theo khoản 2 điều 92 LTHADS 2008 sửa
đổi bổ sung năm 2014.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng
1.3.1. Yếu tố pháp luật
Yếu tố chính trị, pháp luật có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hiệu quả của hoạt động
thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật, đặc biệt là các cá nhân, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật, vì nó củng cố ý thức và niềm tin chính trị
của cán bộ, đảng viên, và quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của đảng, gia
tăng lập trường chính trị - tư tưởng của các cá nhân có thẩm quyền áp dụng pháp
luật nói chung và kê biên tài sản để thi hành án nói riêng.
Muốn cho pháp luật được tôn trọng và thưc hiện nghiêm túc thì cán bộ đảng
viên phải là những người đi trước, gương mẫu thực hiện và có “năng lực tổ chức và
vận động nhân dân thực hiện đường lối của đảng pháp luật của nhà nước, công tâm,
28
thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân”. Chính vì vậy, đảng ta luôn quan
tâm và chỉ đạo sâu sát đối với cácầmặt hoạt động pháp luật trong đó có thực hiện
pháp luật.
Nhưng bên cạnh đó cũng có một số cán bộ lãnh đạo đảng lợi dụng sự lãnh
đạo của mình can thiệp sâu vào việc kê biên tài sản của đương sự để thi hành án.
Đặc biệt đương sự là người thân người quen của đồng chí... từ thực tế nêu trên cán
bộ thi hành án còn nễ nang dung túng làm cho công tác kê biên tài sản bảo đảm để
thi hành án ảnh hưởng đến quyền lợi của người được thi hành án.
1.3.2. Yếu tố về năng lực tổ chức và thực hiện
Trong những năm qua được sự quan tâm của Đảng, lãnh đạo Bộ tư pháp thì
đội ngũ CHV cũng được đào tạo một cách cơ bản. Tuy nhiên, vẫn còn có một số
CHV làm công tác THA chất lượng chưa cao, phần lớn mới vào ngành nên còn
thiếu bản lĩnh nghề nghiệp, kiến thức xã hội chưa đủ tiêu chuẩn, điều kiện để đề bạc
bổ nhiệm vào các chức danh, chức vụ. Vẫn còn một số cá nhân thiếu nỗ lực phần
đấu, học tập tu dưỡng rèn luyện kỹ năng đạo đức nghề nghiệp nên đã không theo
kịp sự phát triển của ngành, năng lực làm việc chưa đáp ứng được các yêu cầu
nhiệm vụ đặt ra. Chính vì vậy, chất lượng THA chưa đạt được kết quả như mong
muốn, trong công tác kê biên tài sản còn nhiều hạn chế, số lượng án tồn đọng ngày
càng nhiều chưa thể giải quyết dứt điểm “một sớm, một chiều”.
Lãnh đạo một vài cơ quan THA chưa thực sự chủ động, tích cực trong việc
triển khai thực hiện nhiệm vụ, thiếu tập trung trong quản lý điều hành dẫn đến hậu
quả là các CHV cũng chậm trong khi thi hành công vụ. Thế nhưng hiện nay, trong
công tác THA, lãnh đạo một vài cơ quan còn chưa làm việc hết lòng, chưa đủ tư
cách, phẩm chất của một người lãnh đạo. Bên cạnh đó, do nội bộ chưa có sự đoàn
kết chặt chẽ, thống nhất hướng vào mục đích chung nên hiệu quả THA không cao.
Do còn thiếu phương pháp, từng nơi, từng lúc chưa đi sâu tìm hiểu nội dung,
nguyên nhân khiếu nại từ đó dẫn đến việc giải quyết khiếu nại chưa thỏa đáng, không
phù hợp với lòng dân kéo theo tình trạng án tồn đọng cao. Nhiều CHV chưa thực sự
tích cực, quyết liệt đối với những vụ việc phức tạp, khó khăn, còn ngại khó, ngại va
chạm. Do ngại khó nên những người này đã không thực hiện nghiêm chỉnh chuẩn mực
29
đạo đức của một CHV, không vô tư, khách quan trong khi tiến hành kê biên tài sản làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của người được THA. Gây mất lòng tin
trong nhân dân, làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của ngành THADS.
1.3.3. Yếu tố nhận thức
Yếu tố địa lý, văn hoá, trình độ dân trí, có một số địa phương còn có kinh tế
xã hội tương đối khó khan, văn hoá chậm phát triển trình độ dân trí của một số bộ
phận đương sự ít hiểu biết, tiết cận pháp luật khó khăn, không biết gì đến pháp luật,
chỉ hành xử theo tập tục tập quán trong cuộc sông hàng ngày, từ thực tế nêu trên
cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc kê biên tài sản để thi hành án.
Một số địa phương tình trạng quá tải công việc của cơ quan thi hành án ngày
càng nhiều, quá tải về số lượng vụ việc phải thi hành án nhưng biên chế không tăng.
Tiểu kết chương 1
Kê biên tài sản biện pháp cưỡng chế được áp dụng thường xuyên, là một
công cụ sắc bén trong thi hành án, song pháp luật chỉ có thể phát huy được vai trò
và những giá trị của mình trong việc duy trì trật tự và tạo điều kiện cho xã hội phát
triển khi nó được tôn trọng và thực hiện trong cuộc sống. Vì vậy, Thực hiện pháp
luật thi hành án dân sự là một lĩnh vực thực hiện pháp luật, là quá trình hoạt động có
mục đích làm cho các quy phạm pháp luật thi hành án dân sự đi vào cuộc sống trở
thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động trong thực hiện pháp luật khắc phục tình trạng không chấp hành
pháp luật về kê biên tài sản trong thi hành án, hạn chế và ngăn ngừa nhừng vi phạm
pháp luật về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng.
Pháp luật thi hành án dân sự được bảo đảm thực hiện trong đời sống xã hội,
phát huy được tác dụng, đòi hỏi các chủ thể thực hiện phải nhận thức đ y đủ vị trí,
vai trò và ý nghĩa thiết thực của nó, từ đó chủ động có các biện pháp thích hợp để
tổ chức thực hiện tốt nh ng qui định của pháp luật về kê biên tài sản để thi hành án
của cơ quan thi hành án dân sự. Chương 1 – Những vấn đề lý luận về kê biên tài sản
bảo đảm tiền vay - Trên nền tảng lý luận đó, tác giả vận dụng vào thực tiễn của
thành phố Hưng Yên tỉnh Hưng Yên, đánh giá thực trạng kê biên tài sản bảo đảm
tiền vay ngân hàng trong phần tiếp theo của luận văn.
30
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN KÊ BIÊN TÀI SẢN BẢO
ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN
SỰ TẠI THÀNH PHỐ HƯNG YÊN TỈNH HƯNG YÊN
2.1. Quy định của pháp luật về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân
hàng theo pháp luật thi hành án dân sự
2.1.1. Quy định về nguyên tắc kê biên
* Chấp hành viên mới có quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên
Chấp hành viên phải là công dân Việt Nam có phẩm chất chính trị vững
vàng, đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, được đào tạo lớp nghiệp vụ Chấp hành viên
và phải qua kỳ thi tuyển Chấp hành viên. Chấp hành viên gồm Chấp hành viên sơ
cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp; Chấp hành viên được Bộ
trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm; Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm
vụ thi hành các bản án, quyết định của toà án. Theo quy định của Điều 17 Luật
THADS chỉ có Chức danh Chấp hành viên mới có quyền áp dụng các biện pháp
cưỡng chế, trong đó có biện pháp kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng.
* Chỉ được kê biên tài sản bảo đảm tiền vay tương ứng với nghĩa vụ thi hành án
Về nguyên tắc Chấp hành viên chỉ kê biên tài sản bảo đảm tiền vay tương
ứng với nghĩa của người phải thi hành án, vì vậy Chấp hành viên phụ trách vụ việc
cần phải cân nhắc kỹ trước khi kê biên tài sản bảo đảm tiền vay của người phải thi
hành án làm sao tương ứng với nghĩa vụ phải thi hành án. Để thực hiện đúng
nguyên tắc này Chấp hành viên phải đáng giá sơ bộ giá trị của tài sản bảm đảm tiền
vay trước khi kê biên bằng cách trưng cầu các cơ quan chức năng thẩm định giá.
Giá trị của tài sản bảo đảm tiền vay kê biên sau khi trừ đi các chi phí và phần nghĩa
vụ phải thực hiện phải bảo đảm ngang bằng, tương ứng với nghĩa vụ phải thi hành
án tránh trường hợp kê biên tài sản bảo đảm tiền vay với giá quá lớn gây tổn hại đến
quyền lợi của người phải thi hành án. Nguyên tắc này không những bảo vệ quyền
lợi của người được thi hành án mà còn bảo vệ về quyền tài sản của người phải thi
hành án, tránh những tổn thất cho các bên đương sự. Tuy nhiên trường hợp người
31
phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất lớn hơn nhiều lần so với nghĩa vụ phải
thi hành án mà tài sản đó không thể phân chia được hoặc việc phân chia làm giảm
đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên vẫn có quyền áp dụng biện pháp
cưỡng chế kê tài sản bảo đảm tiền vay của người phải thi hành án để thi hành án.
* Không tổ chức cưỡng chế kê biên tài sản bảo đảm tiền vay trong những
thời gian mà pháp luật quy định không được cưỡng chế thi hành án
Nhà nước Việt nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân,
do Nhân dân và vì Nhân dân; do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực thuộc về nhân
dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với gia cấp nông dân và đội
ngũ trí thức. Với bản chất Nhà nước xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính nhân đạo trong
hoạt động quản lý Nhà nước, Điều 13 khoản 2 Nghị định số 62 ngày 18/7/2015 quy
định cơ quan THADS không tổ chức cưỡng chế thi hành án có huy động lực lượng
trong thời gian 15 ngày trước và sau tết Nguyên đán; các ngày truyền thống đối với
các đối tượng chính sách, nếu họ là người phải thi hành án. Nguyên tắc này thể hiện
tính nhân đạo ở chỗ tránh cho người phải thi hành án không bị cưỡng chế kê biên tài
sản bảo đảm tiền vay trong các ngày tết, ngày lễ và những ngày truyền thống của họ
được hưởng như ngày thương binh, liệt sĩ mà họ là đối tượng được hưởng …
* Không tổ chức cưỡng chế kê biên tài sản bảo đảm tiền vay thuộc tài sản
theo quy định của pháp luật không được kê biên
Cơ quan THADS trước khi kê biên quyền sử đất Chấp hành viên cần phải
xácầminh kỹ lưỡng, chi tiết nguồn gốc của tài sản bảo đảm tiền vay xem có phải là
những đất đai có nguồn gốc Nhà nước giao cho các tổ chức quản lý, sử dụng vì mục
đíchấphục vụ quốc phòng, an ninh, lợi ích công cộng; tài sản do ngân sách Nhà
nước cấp cho cơ quan, tổ chức. Ví dụ như tài sản bảo đảm tiền vay giao cho quân
đội làm doanh trại, làm nhà máy, nhà xưởng, kho bãi, trường bắn… cũng như tài
sản bảo đảm tiền vay được cấp cho các cơ quan đảng, cơ quan Nhà nước trong bộ
máy Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội làm trụ sở làm việc.
Ngoài ra, Chấp hành viên còn phải xác định những tài sản bảo đảm tiền vay
Nhà nước giao cho tổ chức là doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ xây dựng nhà trẻ, trường học, cơ sở y tế và thiết bị, phương tiện, tài sản
32
khác thuộc các cơ sở này, nếu không phải là tài sản để kinh doanh. Đây là những tài
sản gắn liền với tài sản bảo đảm tiền vay của các sở sản xuất, kinh doanh nhằm
phục vụ cho người lao động an tâm công tác, tận tâm, tận lực hết sứcầmình phục vụ
cho doanh nghiệp, gắn với doanh nghiệp vì mục tiêu phát triển bền vững của doanh
nghiệp. Tất cả những bất động sản nêu trên đều được Nhà nước bảo đảm không
được kê biên để thi hành án.
* Trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong cưỡng chế kê
biên tài sản bảo đảm tiền vay
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình cơ quan, tổ chức và
cá nhân có trách nhiệm phối hợp với cơ quan THADS trong việc thi hành án. Cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm thực hiện yêu cầu của cơ quan
THADS, Chấp hành viên theo quy định của pháp luật THADS. Mọi hành vi cản trở,
can thiệp trái pháp luật đối với hoạt động của cơ quan THADS đều bị xử lý theo
quy định của pháp luật.
2.1.2. Quy định về xử lý tài sản kê biên
Các khoản chi phí kê biên
Trong quá trình xử lý kê biên tài sản bảo đảm tiền vay Chấp hành viên phải
chi các khoản chi phí trong quá trình như thẩm định giá, bán đấu giá, chi phí cho
đoàn cưỡng chế kê biên QSDĐ, chi phí cho việc thuê nơi gửi, gữi tài sản... và giao
QSDĐ cho người trúng bán đấu giá QSDĐ.
Ngoài ra trong trường hợp cưỡng chế giao nhà là nhà ở duy nhất của người
phải thi hành án cho người mua được tài sản bán đấu giá, nếu xét thấy sau khi thanh toán
các khoản nghĩa vụ thi hành án mà người phải thi hành án không còn đủ tiền để thuê nhà
hoặc tạo lập nơi ở mới thì trước khi làm thủ tục chi trả cho người được thi hành án, Chấp
hành viên trích lại từ số tiền bán tài sản một khoản tiền để người phải thi hành án thuê
nhà phù hợp với giá thuê nhà trung bình tại địa phương trong thời hạn 01 năm.
Thanh toán các khoản ưu tiên
Thứ nhất: Trường hợp xử lý tài sản cầm cố, thế chấp mà bên nhận cầm cố,
thế chấp không phải là người được thi hành án thì người nhận cầm cố, thế chấp
được ưu tiên thanh toán trước khi trừ các chi phí và khoản tiền quy định tại khoản 5
Điều 115 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014.
33
Trường hợp xử lý tài sản cầm cố, thế chấp mà bên nhận cầm cố, thế chấp là
bên được thi hành án hoặc trường hợp bán tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê
biên để bảo đảm thi hành một nghĩa vụ cụ thể thì số tiền thu được từ việc bán tài sản
cầm cố, thế chấp, bị kê biên được ưu tiên thanh toán cho bên nhận cầm cố, thế chấp
hoặc bên có nghĩa vụ được bảo đảm sau khi trừ các chi phí và khoản tiền quy định
tại khoản 5 Điều 115 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Thứ hai: Những khoản ưu tiên thanh toán đó là tiền cấp dưỡng; tiền lương,
tiền công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động;
tiền bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần. Đây là những
khoản tiền cần thiết cho nhu cầu cuộc sống hàng ngày của người lao động nên thứ
tự ưu tiên hàng đầu mặc dù những khoản tiền không có những hợp đồng bảo đảm
cho những khoản tiền họ được hưởng.
Thanh toán những khoản nộp Ngân sách Nhà nước
Ngoài những khoản ưu tiên trên khi thanh toán trên Chấp hành viên phải tính
đến những khoản tiền nộp ngân sách Nhà nước như:
- Án phí, lệ phí tòa án là khoản tiền được xác định trong bản án, quyết định
của tòa án gồm án phí không có giá ngạch và án phí có giá ngạch, lệ phí chi cho
định giá QSDĐ trước khi xét xử. Khoản tiền này thu để bù đáp một phần ngân sách
Nhà nước chi cho công tác xét xử cho nên pháp luật THADS xếp vào những khoản
ưu tiên chi trả trước;
- Tiền phạt là khoản tiền xác định trong bản án, quyết định của tòa án bao
gồm cả tiền phạt trong hình phạt chính và hình phạt bổ sung được quy định trong
một số tội được quy định trong Bộ luật hình sự;
- Khoản tiền tịch thu sung quỹ Nhà nước và khoản truy thu thu tiền thu lợi
bất chính cũng là những khoản tiền xác định trong bản án, quyết định của tòa án,
đây là những khoản tiền do bị cáo thu lợi trong quá trình phạm tội có được.
Thanh toán các khoản thi hành án khác
Khoản tiền còn lại được thanh toán là khoản bồi thường, các khoản vay, khoản
tiền đóng góp công sức, khoản đóng góp phí tổn nuôi con, và các khoản khác.
Trường hợp có nhiều người được thi hành án thì việc thanh toán tiền thi hành
án được thực hiện như sau:
34
- Trường hợp trong cùng một hàng ưu tiên có nhiều người được thi hành án
thì việc thanh toán được thực hiện theo tỷ lệ số tiền mà họ được thi hành án;
- Số tiền thi hành án thu theo quyết định cưỡng chế thi hành án được thanh
toán cho những người được thi hành án tính đến thời điểm có quyết định cưỡng chế
đó; số tiền còn lại được thanh toán cho những người được thi hành án theo các
quyết định thi hành án khác tính đến thời điểm thanh toán;
- Sau khi thanh toán các khoản chi phí, thuê nhà và các khoản theo bản án,
quyết định, số tiền còn lại được trả cho người phải thi hành án.
2.1.3. Quy định về trình tự, thủ tục kê biên tài sản
Về nguyên tắc khi một người bị áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên thì
CHV phải kê biên tài sản thuộc sở hữu riêng của người này trước, khi không đủ mới
tiến hành kê biên tài sản thuộc sở hữu của người này trong khối tài sản chung với
người khác. Nhằm cụ thể hóa qui định của BLDS về tài sản chung và để giải quyết
vướng mắc trong các trường hợp xác định đương sự có tài sản chung nhưng tài sản
chung không xác định được hoặc các bên không thỏa thuận được về phần sở hữu
của người phải THA, Điều 74 LTHADS 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014 qui
định: “Trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử
dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để thi hành án thì
chấp hành viên phải thông báo cho người phải thi hành án và những người có
quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thoả thuận
phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu toà án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà các bên không có thỏa
thuận hoặc thỏa thuận vi phạm quy định tại Điều 6 của Luật này hoặc thỏa thuận
không được và không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên thông báo cho
người được thi hành án có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài
sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
theo thủ tục tố tụng dân sự. Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo
mà người được thi hành án không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên yêu
cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người
phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự. Chấp hành
35
viên xử lý tài sản theo quyết định của Tòa án.” Qui định này đã chi tiết hóa đối với
vấn đề kê biên tài sản thuộc sở hữu chung, đảm bảo được nguyên tắc công bằng, tự
định đoạt của các đương sự. Chỉ khi họ không thoả thuận, không khởi kiện trong thời
hạn luật định thì CHV mới tiến hành yêu cầu toà án xác định phần quyền sở hữu tài sản
theo thủ tục tố tụng dân sự rồi Chấp hành viên xử lý tài sản theo quyết định của Tòa án,
đây là một điểm tiến bộ vượt bậc so với PLTHADS 2004 và LTHADS 2008. Tuy
nhiên, LTHADS 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014 đã không quy định cụ thể về
việc phải kê biên tài sản riêng trước như theo PLTHADS 2004.
Việc kê biên nhà ở là nơi ở duy nhất của người phải THA và gia đình chỉ
được thực hiện sau khi xác định người đó không có các tài sản khác hoặc có nhưng
không đủ để THA, trừ trường hợp người phải THA đồng ý kê biên nhà ở để THA.
Đây là một qui định mới, và mang tính nhân đạo tạo điều kiện cho người phải THA
có cơ hội lựa chọn tài sản để kê biên. Ở PLTHADS 2004 việc kê biên nhà ở chỉ
được tiến hành khi những tài sản khác của người phải THA không đủ để THA và số
tiền THA tương đối lớn tức là nhà ở phải được kê biên sau cùng khi những tài sản
khác không có hoặc không đủ để THA. LTHADS 2008 được sửa đổi bổ sung năm
2014 qui định quyền của CHV được mở rộng hơn khi bổ sung thêm qui định kê
biên nhà ở nhưng phải là nhà ở “duy nhất” thì mới được kê biên sau cùng, nhằm
đảm bảo việc THA được diễn ra nhanh chóng vì tài sản là nhà ở này được CHV dễ
đưa vào danh sách kê biên hơn so với qui định của PLTHADS 2004. Bên cạnh đó,
qui định này rất hợp lý trong trường hợp người phải THA không còn tài sản nào
khác nhưng lại có tới hai, ba ngôi nhà để ở mà không được kê biên lại phải tiến
hành xác định các tài sản khác, khi nào không có mới được kê biên đến nhà ở như
qui định của PLTHADS 2004 thì rất mất thời gian lại vô cùng tốn kém.
Nếu có tranh Chấp về tài sản kê biên giữa người phải THA với người khác
thì CHV phải giải thích cho những người này về quyền khởi kiện theo thủ tục tố
tụng dân sự. Sau khi thụ lý đơn kiện, Tòa án phải khẩn trương giải quyết tranh Chấp
về tài sản để việc THA được tiếp tục, đảm bảo được quyền lợi cho các đương sự. Vì
tranh Chấp đối với tài sản kê biên thực chất là việc chưa xác định rõ quyền và nghĩa
vụ của người phải THA đối với tài sản kê biên. Hết thời hạn 30 ngày các bên không
36
thoả thuận hoặc thoả thuận vi phạm tại điều 6 của Luật này hoặc thoả thuận không
được và không yêu cầu toà án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Hết thời hạn
15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo mà người được thi hành án không yêu cầu
toà án giải quyết thì CHV yêu cầu toà án giải quyết theo quy định. Rồi Chấp hành
viên xử lý theo quy định của toà án. LTHADS 2008 được sửa đổi bổ sung năm
2014 đã rút ngắn thời gian khởi kiện của đương sự và những người có liên quan
trong 3 tháng (như ở PLTHADS 2004) và (LTHADS 2008 là 30 ngày) xuống còn
15 ngày. Việc rút ngắn thời hạn trong giai đoạn này là khá cần thiết, bởi lượng án
chưa được thi hành tính đến thời điểm hiện tại là rất lớn, qui định thời hạn khởi kiện
là 3 tháng là quá dài rồi đến 1 tháng, sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc bảo vệ
quyền và lợi ích của người được THA trong trường hợp họ đang gặp khó khăn cần
ngay khoản tiền thi hành để sinh sống. Đồng thời, với qui định này có thể ngăn chặn
được tình trạng người phải THA và những người có liên quan thông đồng với nhau
trong việc khởi kiện ra Tòa án. Bởi khi việc khởi kiện đã được Tòa án thụ lý giải
quyết thì sẽ được hoãn THA (theo qui định tại điểm d khoản 1 điều 48 LTHADS
2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014) đợi khi có bản án, quyết định của Tòa án về
giải quyết tranh Chấp có hiệu lực thì tài sản đó mới được xử lý tiếp. Nếu trong 3
tháng mà những người này thay phiên nhau khởi kiện thì biết đến bao giờ tài sản đó
mới được đem ra xử lý.
Trường hợp người phải THA không còn tài sản nào khác hoặc có tài sản
nhưng không đủ để THA, CHV có quyền kê biên, xử lý tài sản của người phải THA
đang cầm cố, thế Chấp nếu giá trị tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi
phí cưỡng chế THA. Qui định này kế thừ a những qui định của PLTHADS 2004, sẽ
đảm bảo được quyền lợi của người được THA đồng thời đây cũng là biện pháp hiệu
quả nhằm ngăn chặn người phải THA có hành vi tẩu tán tài sản thông qua một giao
dịch dân sự khác.
Trong trường hợp người phải THA có một tài sản duy nhất lớn hơn nhiều so
với nghĩa vụ phải thi hành mà tài sản đó không thể phân chia được hoặc việc phân
chia làm giảm đáng kể giá trị tài sản thì CHV vẫn có quyền tiến hành kê biên đối với
tài sản đó. Qui định này nhằm đảm bảo tối đa quyền lợi của người được THA trong
37
hoàn cảnh người phải THA không còn cách nào khác để thực hiện nghĩa vụ. Nhưng
cũng cần phải qui định thêm trường hợp nếu như người phải THA tìm được tài sản
khác để thay thế trước khi tiến hành kê biên thì CHV sẽ Chấp nhận thay thế này.
Trước khi kê biên tài sản là bất động sản ít nhất là 3 ngày làm việc, CHV
thông báo cho đại diện chính quyền xã hoặc đại diện tổ dân phố nơi tổ chức cưỡng
chế, đương sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm, tài sản
kê biên (khoản 1 điều 88 LTHADS 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014). Quy
định này kế thừa những qui định của PLTHADS 2004 nhưng trong PLTHADS
2004 thủ tục kê biên này được áp dụng cho các loại tài sản kể cả động sản hay bất
động sản. LTHADS 2008 có một chút thay đổi đó là đối với bất động sản thì phải
thông báo trước cho những cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan ít nhất là 3 ngày
làm việc, đối với động sản thì không cần phải thông báo. Nhận thấy qui định này là
hợp lý, bởi động sản là những tài sản có thể di chuyển được nên nếu thông báo
trước cho người phải THA thì họ sẽ tìm cách tẩu tán hoặc hủy hoại tài sản để trốn
tránh nghĩa vụ THA. Còn bất động sản là những tài sản cố định, không thể di dời
được nên qui định phải thông báo trước cho các cơ quan có liên quan thực hiện các
chức năng do Nhà nước qui định như chuẩn bị lực lượng để hỗ trợ công tác kê biên.
Tất nhiên trong điều kiện cần ngăn chặn đương sự tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn
tránh việc THA thì không cần phải thông báo trước.
Nếu như đương sự vắng mặt hoặc người được ủy quyền vắng mặt thì CHV
vẫn tiến hành kê biên tài sản. Qui định này có điểm hay hơn so với PLTHADS
2004. Nếu PLTHADS 2004 qui định người phải THA cố tình vắng mặt thì CHV
mới được tiến hành kê biên tài sản thì LTHADS 2008 được sửa đổi bổ sung năm
2014 không cần đương sự là cố tình vắng mặt hay vắng mặt có lý do chính đáng
CHV vẫn tiến hành kê biên tài sản. Có như vậy mới đảm bảo được quyền lợi của
người được THA và rút ngắn được thời gian THA.
Khi kê biên đồ vật, nhà ở, công trình kiến trúc nếu vắng mặt người phải THA
hoặc người đang quản lý sử dụng tài sản đó mà phải mở khóa, phá khóa, mở gói thì
CHV có thể tự mình hoặc thuê cá nhân, tổ chức khác cầm mở khóa, mở gói, trong
thường hợp này phải có người làm chứng.
38
Tài sản được kê biên là kim khí qúy, đá qúy thì phải niêm phong trước mặt
người phải THA hoặc thân nhân của họ. Trên niêm phong phải ghi rõ loại tài sản, số
lượng, khối lượng và các đặc điểm khác của tài sản niêm phong. Có chữ ký của
CHV, người phải THA và thân nhân của họ. Tài sản kê biên là tiền mặt thì phải ghi
rõ số lượng tờ, mệnh giá các loại tiền, nếu là ngoại tệ thì phải ghi tiền nước nào và
trong trường hợp cần thiết phải ghi cả số sê ri trên tiền.
LTHADS 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014 nên bổ sung thêm qui định CHV
Chấp nhận đề nghị của người phải THA về việc kê biên tài sản nào trước, nếu xét th y đề
nghị đó không trở ngại cho việc THA như theo qui định của PLTHADS 2004 để bảo
đảm quyền và lợi ích của người phải THA trong điều kiện họ có nhiều loại tài sản. Có
như vậy mới giúp họ dễ dàng và thuận lợi hơn trong việc Chấp hành án vì chỉ có họ mới
biết tài sản nào là cần thiết hay không cần thiết lắm đối với cuộc sống của mình. Qui định
này thể hiện sự tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự nhưng vẫn bảo đảm hiệu quả
THA và khuyến khích ý thức tự nguyện THA của đương sự.
2.1.4. Thẩm quyền kê biên tài sản, thời hạn áp dụng biện pháp kê biên và
định giá tài sản kê biên
* Thẩm quyền kê biên tài sản
Theo qui định tại khoản 5 điều 20 LTHADS 2008 được sửa đổi bổ sung năm
2014 thì “CHV có quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế”. Như vậy, áp dụng biện
pháp cưỡng chế kê biên tài sản thuộc thẩm quyền của CHV phụ trách hồ sơ về vụ
việc phải THA. Nếu khoản 1 điều 41 PLTHADS 2004 qui định: “CHV có quyền kê
biên tài sản nếu có căn cứ cho rằng tài sản đó là của người phải THA”. Qui định
này cho phép vận dụng nguyên tắc suy đoán nhằm tạo khả năng vận dụng linh hoạt
cho CHV, kịp thời ngăn ngừa việc người phải THA tẩu tán tài sản trong khi vẫn
đảm bảo quyền bảo vệ quyền sở hữu tài sản của người phải THA và người khác, bởi
nếu có tranh chấp về tài sản kê biên, người phải THA và người khác vẫn có quyền
khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự. Tuy nhiên, cần phải qui định thêm “căn cứ”
này phải hợp lý, phải có giấy tờ chứng minh rõ ràng để tránh trường hợp lạm quyền
của CHV. Theo tôi LTHADS 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014 nên giữ lại qui
định này và sửa đổi cho phù hợp hơn.
39
Trước khi ra quyết định kê biên tài sản, CHV yêu cầu cơ quan đăng ký quyền
sở hữu, sử dụng tài sản cung cấp thông tin về quyền sở hữu, QSD tài sản của người
phải THA, yêu cầu cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm cung cấp thông tin về tài sản
dự định kê biên có đang được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người phải
THA đối với người có quyền hay không hoặc tài sản do người sở hữu phải THA
quản lý, sử dụng có phải là tài sản thuê mua tài chính hay không. Trong thời hạn 5
ngày làm việc, các cơ quan nói trên phải trả lời bằng văn bản cho CHV về những
nội dung yêu cầu đó (khoản 1 điều 21 Nghị định số 173/2004/NĐ-CP). Các cơ quan
có trách nhiệm trả lời thông tin trên một cách nhanh chóng và chính xác, nếu cố tình
cung cấp thông tin sai sự thật về điều kiện THA của người phải THA thì phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật.
Kế thừa những qui định của PLTHADS 2004, nhằm nâng cao hơn hiệu quả
công tác THA, LTHADS 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014 đã qui định rõ ràng,
chặt chẽ, đầy đủ thủ tục thông báo THA, trong đó có thông báo về kê biên tài sản.
CHV phải thông báo trước, trực tiếp bằng văn bản cho người phải THA, người được
THA, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản
kê biên, các cơ quan, tổ chức theo đúng qui định tại các điều 39, 40, 41, 42
LTHADS 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014 và Nghị Định số 62/2014/NĐ-CP,
trừ trường hợp kê biên nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản. Xuất phát từ
thực tế, hiện nay nhiều CHV khi kê biên tài sản mà không hề biết các tài sản đó đã
được dùng để cầm cố, thế chấp, do vậy việc gửi thông báo về kê biên tài sản có ý
nghĩa hết sức quan trọng. Bên cạnh giá trị pháp lý đối với người thứ 3 thì trong
trường hợp các tài sản đã bị kê biên phải đăng ký, nhưng không đăng ký tại Trung
tâm đăng ký giao dịch bảo đảm khi CHV gửi thông báo việc kê biên các tài sản đó
thì người được THA sẽ có quyền ưu tiên thanh toán trước.
2.1.5. Thời hạn áp dụng biện pháp kê biên
Theo qui định tại khoản 2 điều 9 LTHADS 2008 được sửa đổi bổ sung năm
2014 thì: “người phải THA có điều kiện THA mà không tự nguyện thi hành thì bị
cưỡng chế THA”. Thời hạn tự nguyện THA là 10 ngày, kể từ ngày người phải THA
nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết định THA (khoản 1 điều 45). Quyết
40
định THA có hai loại: một loại do Thủ trưởng cơ quan THADS chủ động ra quyết
định thi hành đối với phần bản án, quyết định tại khoản 1 điều 36 LTHADS 2008
được sửa đổi bổ sung năm 2014; một loại do Thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết
định thi hành khi có đơn yêu cầu THA. Nếu như PLTHADS 2004 qui định thời hạn
tự nguyện THA là “không quá 30 ngày kể từ ngày người phải THA nhận được
quyết định THA” thì LTHADS 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014 đã giảm thời
hạn tự nguyện THA còn 10 ngày kể từ ngày người phải THA nhận được hoặc được
thông báo hợp lệ quyết định THA. Thực tiễn THA cho thấy để giải quyết được
lượng án tồn đọng đồng thời bảo vệ quyền lợi của người được THA thì việc giảm
thời hạn tự nguyện THA còn 10 ngày là rất hợp lý, vì có nhiều trường hợp người
được THA bị rơi vào hoàn cảnh rất khó khăn do phải trải qua một thời gian khá dài
để theo đuổi vụ kiện. Bởi thế không thể để cho lợi ích của người được THA bị tiếp
tục xâm phạm trong khi họ là người thắng kiện. Mặt khác qui định “được thông báo
hợp lệ quyết định THA” là một qui định tiến bộ giúp cho công tác THA diễn ra
thuận lợi hơn, tránh được việc người phải THA lợi dụng kẽ hở này để cố tình trốn
tránh không nhận quyết định THA làm cản trở công tác cưỡng chế tài sản và gây
thiệt hại cho người được THA.
2.2. Thực tiễn kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng theo pháp luật
thi hành án dân sự tại thành phố Hưng Yên tỉnh Hưng Yên
2.2.1. Tổng quan về đặc điểm kinh tế, xã hội của thành phố Hưng Yên và
tổ chức, hoạt động của cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Hưng Yên tỉnh
Hưng Yên
Kinh tế: cùng với sự phát triển kinh tế của cả nước, Hưng Yên được đánh giá
là một trong những tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối nhanh và cao. Nền
kinh tế Hưng Yên đang đổi thay từng ngày. Cơ cấu kinh tế đang dần chuyển dịch
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nông nghiệp, nông thôn có nhiều
chuyển biến tích cực, tỷ trọng giữa chăn nuôi và trồng trọt được cân đối. Người
nông dân bước đầu quan tâm đến sản xuất hàng hoá, đảm bảo an ninh lương thực.
Công nghiệp, dịch vụ có bước phát triển khá. Công nghiệp địa phương tuy còn phải
đối mặt với nhiều khó khăn, nhưng vẫn đạt được những thành tích đáng khích lệ.
41
Một số ngành hàng tiếp tục được củng cố phát triển, lựa chọn các mặt hàng ưu tiên
và có lợi thế để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, tạo ra những sản phẩm chất
lượng cao. Khối công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh do số dự án đi
vào hoạt động tăng lên, sản phẩm được thị trường chấp nhận và có xu thế phát triển
tốt. Riêng ngành du lịch và dịch vụ cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa, đáp ứng nhu cầu
khai thác tiềm năng phục vụ khách du lịch trong và ngoài nước như: du lịch phố
Hiến, di tích Chử Đồng Tử - Tiên Dung, du lịch tôn giáo chùa miếu.
Dân số - lao động: nguồn nhân lực Hưng Yên khá dồi dào. Dân số năm 2004
là trên 1,1 triệu người, trong đó số người trong độ tuổi lao động chiếm hơn 50%. Tỷ
lệ lao động có trình độ của Hưng Yên thấp, bởi sau khi tái lập tỉnh, đội ngũ cán bộ
khoa học có trình độ ở lại tỉnh công tác ít. Hiện nay, số lao động chưa có việc làm
ổn định còn nhiều đã trở thành sức ép lớn đối với Hưng Yên trong vấn đề giải quyết
việc làm.
Văn hoá - xã hội: nét nổi bật trong truyền thống văn hiến của người Hưng
Yên là truyền thống hiếu học và khoa bảng. Gần 10 thế kỷ khoa bảng dưới thời
phong kiến Việt Nam (1075 - 1919), Hưng Yên có 228 vị đỗ đại khoa, nhiều người
đã trở thành những nhân vật được sử sách ca ngợi, nhân dân truyền tụng như các
nhà quân sự: Triệu Quang Phục, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa
Thám, Nguyễn Bình; danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác; nhà khoa học:
Nguyễn Công Tiễu, Phạm Huy Thông; nhà văn: Đoàn Thị Điểm, Chu Mạnh Trinh,
Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng; hoạ sĩ: Tô Ngọc Vân, Dương Bích Liên; các
nhà hoạt động chính trị tài ba: Tô Hiệu, Lê Văn Lương, Nguyễn Văn Linh, ...
Không chỉ có vị trí thuận lợi nằm kề sát thủ đô Hà Nội, Hưng Yên còn có các
tuyến đường giao thông quan trọng như quốc lộ 5 (dài 23 km), quốc lộ 38, quốc lộ
39 (dài 43 km) nối quốc lộ 5 với quốc lộ 1 tại Hà Nam, đường sắt Hà Nội - Hải
Phòng và các tuyến đường sông: sông Hồng, sông Luộc chạy qua. Tới đây, cầu
Thanh Trì hoàn thành cùng với cầu Yên Lệnh sẽ thúc đẩy mối giao lưu giữa các tỉnh
phía nam Hà Nội qua Hưng Yên ra Hải Phòng và cảng Cái Lân (Quảng Ninh).
Những lợi thế về vị trí địa lý và kết cấu hạ tầng là cơ hội lớn để tỉnh phát triển mạnh
ngành công nghiệp và dịch vụ. Đặc biệt, quốc lộ 5 đoạn chạy qua lãnh thổ Hưng
42
Yên mở ra cơ hội cho việc hình thành các khu công nghiệp tập trung, tạo động lực
lớn thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển, góp phần thực hiện thành công công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Hưng Yên có cơ hội đón nhận
và tận dụng những cơ hội phát triển của vùng. Nhất là trong tương lai gần, khi kết
cấu hạ tầng như hệ thống đường bộ, đường cao tốc, đường sắt, sân bay, cảng sông
được đầu tư xây dựng.
Bên cạnh đó, là tỉnh có lợi thế phát triển nông nghiệp, lại có vị trí gần các
trung tâm công nghiệp, Hưng Yên có cơ hội chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế, đặc
biệt là cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng phát triển mạnh nông nghiệp hàng hoá
phục vụ cho nhu cầu thực phẩm tươi sống và chế biến của các thành phố và khu
công nghiệp.
Hưng Yên là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Hưng Yên, Việt Nam. Thành phố
nằm ở phía Nam của tỉnh, bên bờ trái (bờ Bắc) sông Hồng. Thành phố Hưng Yên
giáp với huyện Kim Động ở phía Bắc, Tiên Lữ, huyện Hưng Hà, Thái Bình ở phía
Đông. Sông Hồng làm ranh giới tự nhiên giữa thành phố Hưng Yên với các huyện
Lý Nhân và Duy Tiên của tỉnh Hà Nam ở bờ Nam sông Hồng. Quốc lộ 38 với cầu
Yên Lệnh nối thành phố Hưng Yên với quốc lộ 1. Thành phố có hai xã là Phú
Cường và Hùng Cường nằm ở bãi bồi (cù lao) giữa sông Hồng với diện tích: 73,42
km² (7.342,07 ha).
Những năm qua, tỉnh và thành phố Hưng Yên tăng cường đầu tư cải tạo hệ
thống cơ sở hạ tầng như: giao thông, điện, mạng, chính sách… Đặc biệt, sự kiện cầu
Yên Lệnh, cầu Triều Dương nối hai bờ sông Hồng, sông Luộc được thông xe, tuyến
quốc lộ 38, 39 được nâng cấp, cải tạo đã tạo mạch nối giao thông quan trọng giữa
các tỉnh thành phố vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, giúp Hưng Yên nâng cao sức
hút đầu tư. Đến nay, đã có 26 dự án công nghiệp, dịch vụ đầu tư vào địa bàn thành
phố, nhiều doanh nghiệp đã không ngừng đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị,
công nghệ, hoạt động sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả khá như: Công ty cổ phần
may Hưng Yên, Công ty may Phố Hiến… Giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng
năm 2012 trên 1.584,9 tỷ đồng. Năm 2008, giá trị thương mại - dịch vụ đạt 1.455 tỷ
43
đồng, đến năm 2012, giá trị thương mại - dịch vụ: 3.120 tỷ đồng. tổng mức bán lẻ,
doanh thu dịch vụ đạt 693 tỷ đồng. Hiện nay thành phố Hưng Yên đang triển khai
đầu tư xây dựng khu đô thị Phúc Hưng nằm trên địa bàn phường Hiến Nam.
Trên thực tế địa phương tỉnh Hưng Yên đã áp dụng đúng đầy đủ các quy
định pháp luật về kê biên tài sản số liệu về kê biên tài sản từ năm 2011 đến năm
2015 cụ thể như sau:
2.2.2. Các kết quả đạt được trong thực hiện kê biên tài sản bảo đảm tiền
vay ngân hàng theo pháp luật thi hành án dân sự tại thành phố Hưng Yên tỉnh
Hưng Yên.
Sáu tháng đầu năm 2019, Lãnh đạo Cục, Chi cục, cán bộ công chức các cơ
quan THADS trên địa bàn tỉnh Hưng Yên đều áp dụng đồng bộ các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả công tác. Kết quả thi hành án về việc đạt 66,7% bằng 91,3% chỉ
tiêu được giao; về tiền đạt 12,9% bằng 39,1% chỉ tiêu được giao.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho Chấp hành viên tổ chức thi hành án, Lãnh đạo
Cục, Lãnh đạo Phòng Nghiệp vụ và tổ chức THADS thường xuyên nghe các Chấp hành
viên báo cáo và trực tiếp hướng dẫn giải pháp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc.
Với phương châm đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm
tra; chú trọng việc tự kiểm tra thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ, trình tự, thủ tục về
THADS của đơn vị.
Cục đã ban hành Quyết định về việc kiểm tra công tác THADS, hành chính
Đợt 1 năm 2019, theo đó kiểm tra toàn diện 2 đơn vị, kiểm tra theo chuyên đề 2
đơn vị, kiểm tra việc thực hiện kết luận kiểm tra 4 đơn vị; Quyết định về việc kiểm
tra công tác THADS hành chính năm 2019 và Kế hoạch của Cục trưởng Cục
THADS về việc đôn đốc, kiểm tra và chỉ đạo tổ chức thi hành án đối với những việc
trọng điểm, phức tạp, việc có giá trị thi hành từ 02 tỷ đồng trở lên.
Qua kiểm tra, Đoàn kiểm tra đã đánh giá đúng thực trạng áp dụng pháp luật
của các đơn vị, kịp thời phát hiện những thiếu sót, hạn chế tại cơ sở để chấn chỉnh,
rút kinh nghiệm; chỉ đạo áp dụng đúng quy định của pháp luật. Do đó, công tác
THADS được thực hiện ngày càng nền nếp, hạn chế được những vi phạm xảy ra
trong quá trình tổ chức thi hành án.
44
Sáu tháng đầu năm 2019, Cục đã tổ chức kiểm tra 4/10 đơn vị về việc thực
hiện cơ chế một cửa và hỗ trợ trực tuyến. Nhìn chung, các đơn vị thực hiện tốt công
tác cơ chế một cửa đối với một số thủ tục hành chính trong lĩnh vực THADS. Công
tác hỗ trợ trực tuyến qua hộp thư điện tử được tiến hành hỗ trợ ngay đối với trường
hợp cần hỗ trợ, chuyển hồ sơ tới bộ phận chuyên môn giải quyết và trả kết quả đảm
bảo theo đúng quy định.
Ngay từ đầu năm, các cơ quan THADS tỉnh Hưng Yên cũng đã chủ động
thực hiện tốt vai trò của cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo THADS trên cácầmặt
công tác. Ban Chỉ đạo THADS tỉnh đã xây dựng Kế hoạch công tác năm và tổ chức
thực hiện theo đúng quy định.
Nội dung Kế hoạch công tác đã xác định rõ nhiệm vụ thường xuyên, nhiệm
vụ trọng tâm, nhiệm vụ cụ thể theo từng quý; quy định trách nhiệm tổ chức thực
hiện của đơn vị tham mưu, đơn vị phối hợp và từng thành viên Ban Chỉ đạo; tập
trung chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ THADS, hành chính theo Nghị quyết của
Quốc hội; chỉ đạo các sở, ngành, Ủy ban nhân dân, Ban Chỉ đạo THADS huyện,
thành phố kịp thời triển khai, tổ chức thực hiện.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đã đạt được, Cục THADS cho biết, số tiền còn
tiếp tục phải thi hành trong các tháng còn lại của năm là rất lớn; một số việc trọng
điểm có giá trị tiền lớn, tồn đọng nhiều năm; việc Ban Nội chính đưa vào theo dõi
chưa được giải quyết dứt điểm.
Việc thi hành án liên quan đến tín dụng ngân hàng, việc bán đấu giá, giao tài
sản thế chấp, bảo lãnh, kê biên bảo đảm thi hành án còn nhiều khó khăn do tài sản
khó bán, nhất là đối với số việc có lượng tài sản thế chấp, bảo lãnh nhiều, tài sản thế
chấp là tài sản hình thành trong tương lai. Bên cạnh đó, ý thức tuân thủ của người
phải thi hành án còn nhiều hạn chế, thậm chí còn tìm mọi cách để trốn tránh, chây ỳ
nghĩa vụ thi hành án.
Theo quy định tại Điều 90 Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014,
khoản 1 Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP, Điều 4 Thông tư liên tịch số
11/2016TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC thì khi người phải thi hành án không có
tài sản nào khác hoặc có nhưng không đủ để thi hành án thì Chấp hành viên có
45
quyền kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án đang cầm cố, thế chấp nếu
giá trị tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án;
kể từ thời điểm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, nếu người phải thi hành án
thế chấp, cầm cố tài sản cho người khácầmà không sử dụng khoản tiền thu được để
thi hành án và không còn tài sản khác hoặc tài sản khác không đủ để đảm bảo nghĩa
vụ thi hành án thì tài sản đó vẫn bị kê biên, xử lý để thi hành án, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác.
Tuy nhiên, hiện nay quyền kê biên của Chấp hành viên đối với nhà ở đang
cầm cố, thế chấp cho các tổ chức tín dụng bị hạn chế khi nhà ở đó đang đảm bảo
cho khoản nợ xấu. Điều 11 Nghị quyết số 42/2017/QH14: “Các tài sản đảm bảo
của khoản nợ xấu của bên phải thi hành án đang đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ tại tổ
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu
không bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định tại Điều 90 của Luật
THADS, trừ trường hợp thi hành bản án, quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt
hại về tính mạng, sức khỏe và trường hợp có sự đồng ý bằng văn bản của tổ chức
tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chứcầmua bán, xử lý nợ xấu”. Tại
Nghị quyết 42/2017/QH14 xác định rõ trách nhiệm của cơ quan THADS cũng như
trách nhiệm xác định nợ xấu. Theo đó:
Thứ nhất, trách nhiệm của cơ quan THADS như sau: Nghị quyết
42/2017/QH14 có hiệu lực thi hành từ ngày 15/8/2017 và được thực hiện trong thời
hạn 05 năm kể từ ngày có hiệu lực. Do vậy, cơ quan THADS có trách nhiệm áp
dụng các quy định của Nghị quyết trong việc xử lý nợ xấu và xử lý tài sản đả bảo
cho nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Đối với các việc thi hành án liên quan đến tài
sản bảo đảm cho khoản nợ xấu của các tổ chức tín dụng đã được cơ quan THADS
thi hành xong một phần hoặc chưa thi hành xong trước ngày 15/8/2017 nhưng đã
thực hiện các thủ tục thi hành án theo quy định của pháp luật THADS về trình tự,
thủ tục thì được công nhận. Các thủ tục thi hành án từ ngày 15/8/2017 phải tuân thủ
các quy định của Nghị quyết 42/2017/QH14.
Thứ hai, trách nhiệm xác định nợ xấu thuộc về các tổ chức tín dụng. Các tổ
chức tín dụng phải xác nhận bằng văn bản khoản nợ xấu khi có yêu cầu của cơ quan
46
THADS. Trên thực tế, hiện nay việc thi hành án gặp khó khăn do phía các tổ chức
tín dụng không có văn bản xác nhận dù đã có văn bản yêu cầu của cơ quan THADS.
Như vậy, đối với trường hợp tổ chức thi hành án, người phải thi hành án có nhà ở
đang thế chấp, cầm cố tại tổ chức tín dụng, ngân hàng thì Chấp hành viên có văn
bản đề nghị tổ chức tín dụng, ngân hàng có văn bản xác nhận về khoản nợ đó có
thuộc nợ xấu hay không theo quy định tại Điều 4 của Nghị quyết số 42/2017/QH14
để làm cơ sở pháp lý giải quyết, cụ thể:
- Khi tổ chức tín dụng, ngân hàng có văn bản xác nhận khoản nợ đó là nợ
xấu thì Chấp hành viên cần xác định giá trị nhà ở có lớn hơn nghĩa vụ được bảo
đảm và chi phí cưỡng chế hay không. Nếu giá trị nhà ở nhỏ hơn nghĩa vụ được bảo
đảm và chi phí cưỡng chế thì Chấp hành viên không được thực hiện việc kê biên.
Nếu giá trị nhà ở lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thì Chấp
hành viên chỉ được kê biên khi thuộc trường hợp là thi hành bản án, quyết định về
cấp dưỡng hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe. Ngoài ra Chấp hành
viên chỉ được kê biên có sự đồng ý bằng văn bản của tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu. Có thể thấy, trường hợp nhà
ở đang thế chấp, cầm cố tại tổ chức tín dụng, ngân hàng dù giá trị tài sản lớn hơn
nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế nhưng không có sự đồng ý của tổ chức
tín dụng, ngân hàng thì cơ quan THADS không thể thực hiện việc kê biên, xử lý.
Ví dụ: Quyết định số 02/2014/QĐST-DS ngày 05/01/2015 của TAND thành
phố Hưng Yên; Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu số 1010/QĐ.CCTHA ngày
10/02/2015 của Chi cục THADS thành phố Hưng Yên thì ông L.T.P – sinh năm
1975, địa chỉ: phường An Tảo, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên phải trả cho bà
N.T.K.D – sinh năm 1969, địa chỉ: xã Tân Hưng, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng
Yên số tiền là 40.500.000đ (Bốn mươi triệu, năm trăm nghìn đồng) cùng lãi chậm
thi hành án. Quá trình xácầminh điều kiện thi hành án thì ông P có tài sản là quyền
sử dụng đất thửa 657, tờ bản đồ số 28, loại đất T cùng căn nhà cấp 3 xây dựng trên
đất tọa lạc tại phường An Tảo. Hiện quyền sử dụng đất và căn nhà trên đất, ông P
thế chấp tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh
thành phố Hưng Yên. Khoản nợ này đã được Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
47
nông thôn Việt Nam – Chi nhánh thành phố Hưng Yên xác nhận là nợ xấu theo
Nghị quyết số 42/2017/QH14 và yêu cầu Chi cục THADS thành phố Hưng Yên kê
biên, xử lý tài sản đã thế chấp (theo Công văn số 126/CV-NhoHY ngày
11/12/2017).
- Khi tổ chức tín dụng, ngân hàng có văn bản xác nhận khoản nợ đó không là
nợ xấu thì Chấp hành viên thực hiện theo quy định tại Điều 90 Luật THADS được
sửa đổi, bổ sung năm 2014 là chỉ kê biên nhà ở có giá trị lớn hơn nghĩa vụ được bảo
đảm và chi phí cưỡng chế và thông báo cho tổ chức tín dụng, ngân hàng biết mà
không cần văn bản đồng ý của tổ chức tín dụng, ngân hàng.
Ví dụ 1: Bản án số 246/2017/DS-PT ngày 19/10/2017 của TAND tỉnh Hưng
Yên; Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu số 686/QĐ.CCTHADS ngày
02/11/2017 của Chi cục THADS thành phố Hưng Yên thì bà L T T – sinh năm 1969
và ông T T S – sinh năm 1964, cùng địa chỉ: xã Hồng Nam, thành phố Hưng Yên,
tỉnh Hưng Yên phải trả cho bà V T M D – sinh năm 1969, địa chỉ: phường Minh
Khai, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên số tiền 1.296.000.000đ (Một tỷ, hai
trăm chín mươi sáu triệu đồng) cùng lãi chậm thi hành án. Bà L T T và ông T T S
có tài sản là quyền sử dụng đất thửa số 661, tờ bản đồ số 28, loại đất ONT và căn
nhà cấp 4 xây dựng trên đất cùng tọa lạc tại xã Hồng Nam. Các tài sản nêu trên hiện
bà L T T và ông T T S đang thế chấp tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Việt Nam – Chi nhánh thành phố Hưng Yên vay với số tiền 150.000.000đ và
hiện chưa đến hạn thanh toán. Ngày 8/02/2018 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh thành phố Hưng Yên có Văn bản số
474/NHNoHY-KTNB xác nhận khoản vay của bà L T T và ông T T S. Xét thấy
khoản vay của bà L T T và ông T T S không phải là nợ xấu theo Nghị quyết
42/2017/QH14 nên Chấp hành viên đã căn cứ các điều kiện khác (tài sản duy nhất, giá
trị tài sản lớn hơn khoản đảm bảo cho Ngân hàng) đã ra Quyết định kê biên, xử lý tài
sản (nhà ở và quyền sử dụng đất gắn liền với nhà ở) đối với bà L T T và ông T T S.
Ví dụ 2: Theo Quyết định thi hành án số 52/HNGĐ/QĐ-CCTHA ngày
15/4/2015 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hưng Yên thì anh Nguyễn Văn
V được sở hữu căn nhà là một căn hộ mua theo Hợp đồng ủy quyền công chứng, chị
48
Phạm Phương D được hưởng tiền chênh lệch tài sản là 950 triệu đồng. Tuy nhiên
anh V mới trả 900 triệu còn 50 triệu đồng thì đến nay vẫn không trả. Chị D làm đơn
yêu cầu Thi hành án nhưng anh V vẫn cố tình không trả số tiền trên. Chị D yêu cầu
cơ quan thi hành án kê biên tài sản là căn hộ trên thì chấp hành viên trả lời là không
thể kê biên được vì số tiền thi hành án quá nhỏ so với giá trị căn hộ. Vấn đề đặt ra là
Chấp hành viên trả lời như vậy đúng hay sai?
Khoản 1 Điều 46 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm
2014 quy định về cưỡng chế thi hành án như sau: “1. Hết thời hạn quy định tại
khoản 1 Điều 45 của Luật này, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà
không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế.” Như vậy, theo quy định của pháp
luật thì người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyên thi
hành án thì bị áp dụng biện pháp cưỡng chế để đảm bảo cho việc thi hành án. Việc
kê biên nhà ở được quy định tại khoản 1 Điều 95 Luật Thi hành án dân sự như sau:
“Việc kê biên nhà ở là nơi ở duy nhất của người phải thi hành án và gia đình chỉ
được thực hiện sau khi xác định người đó không có các tài sản khác hoặc có nhưng
không đủ để thi hành án, trừ trường hợp người phải thi hành án đồng ý kê biên nhà
ở để thi hành án.”
Khoản 1 Điều 13 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2115 quy định “
Chấp hành viên căn cứ vào nội dung bản án, quyết định; quyết định thi hành án;
tính chất, mức độ, nghĩa vụ thi hành án; điều kiện của người phải thi hành án; yêu
cầu bằng văn bản của đương sự và tình hình thực tế của địa phương để lựa chọn
việc áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án thích hợp. Chấp
hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án trong
trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định
tại Điều 130 Luật Thi hành án dân sự.
Việc áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án phải tương ứng với
nghĩa vụ của người phải thi hành án và các chi phí cần thiết, trừ trường hợp quy
định tại Khoản 4 Điều 24 Nghị định này. Trường hợp người phải thi hành án chỉ có
một tài sản duy nhất lớn hơn nhiều lần so với nghĩa vụ phải thi hành án mà tài sản
đó không thể phân chia được hoặc việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài
49
sản thì Chấp hành viên vẫn có quyền áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế để thi
hành án.”
Như vậy, căn cứ theo điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, Chấp
hành viên có thể lựa chọn biện pháp cưỡng chế thi hành án để đảm bảo quyền lợi
cho người được thi hành án theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên do giá trị tài sản
quá lơn so với nghĩa vụ phải thi hành nên trong thực tê việc kê biên tài sản cũng gặp
những khó khăn nhất định, những vụ việc với số tiền ít hơn quá nhiêu so với giá trị
tài sản thường kéo thời gian bởi nhiều nguyên nhân khác nhau.
Ví dụ 3: Bản án số 02/2018/DSPT ngày 11/01/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh
Hưng Yên đã tuyên vợ chồng ông Hoàng Xuân Thắng và Nguyễn Thị Tâm phải thi
hành khoản trả nợ cho bà Nguyễn Thị Vinh số tiền: 1.200.000.000đồng. Sau khi có
đơn yêu cầu thi hành án của bà Nguyễn Thị Vinh, Chi cục THADS thành phố Hưng
Yên đã ra quyết định thi hành án, giao cho chấp hành viên tổ chức thi hành.
Quá trình giải quyết vụ việc, Chấp hành viên đã tiến hành xác minh, đôn đốc
thi hành án, thực hiện các thủ tục theo qui định của pháp luật. Qua xác minh được
biết hiện nay người phải thi hành án là ông Hoàng Xuân Thắng đang chấp hành án
phạt tù theo một Bản án khác, vợ chồng ông ông Hoàng Xuân Thắng và Nguyễn
Thị Tâm chỉ có tài sản duy nhất là 227m2 đất thổ cư đã được UBND thành phố
Hưng Yên cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông Hoàng Xuân
Thắng và các đồng sử dụng bà Nguyễn Thị Tâm, Nguyễn Thị Uyên, bà Nguyễn Thị
Hằng. Đây là tài sản thuộc quyền sở hữu chung. Căn cứ Điều 74 Luật THADS năm
2008, ngày 16/8/2018 Chấp hành viên Chi cục THADS đã ra Quyết định cưỡng chế
kê biên QSDĐ đất, tài sản gắn liền với đất, đồng thời thông báo cho chủ sở hữu chung
có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định phần sở hữu của họ đối với tài sản chung
trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo. Tuy nhiên, hết thời hạn trên
chủ sở hữu chung không chấp nhận việc kê biên và cũng không khởi kiện yêu cầu Tòa
phân chia tài sản, Chấp hành viên đã hướng dẫn cho người được thi hành án yêu cầu
Tòa án xác định phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung. Tòa
án đã thụ lý đơn yêu cầu của người được thi hành án nhưng đến ngày 24/4/2019 Tòa án
đã ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự vì không đủ điều kiện giải quyết vụ
việc dân sự qui định tại Điều 311 Bộ luật tố tụng dân sự.
50
Có nhiều quan điểm khác nhau về cách thức xử lý vụ việc và mỗi cách thức
xử lý đều gặp vướng mắc trở ngại nhất định, cụ thể như sau:
* Quan điểm thứ nhất: Tòa án đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án nên
tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung như vậy không xác định
được, nếu cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản trên thì chưa đủ căn cứ, việc cưỡng chế
kê biên, xử lý tài sản có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của các đồng sở hữu, Chấp
hành viên không thể làm thay nhiệm vụ của Tòa án để phân chia tài sản.
* Quan điểm thứ 2: Về nguyên tắc cơ quan THADS chỉ kê biên, xử lý phần tài
sản của vợ chồng ông Hoàng Xuân Thắng và Nguyễn Thị Tâmtrong khối tài sản chung
để đảm bảo thi hành án. Nếu tài sản chung không chia được hoặc việc phân chia làm
giảm đáng kể giá trị của tài sản thì chấp hành viên vẫn có thể áp dụng biện pháp cưỡng
chế đối với toàn bộ tài sản và thanh toán lại cho chủ sở hữu chung còn lại giá trị phần tài
sản thuộc quyền sở hữu của họ theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 74 Luật THADS.
Trong trường hợp trên Tòa án đã đình chỉ giải quyết vụ kiện thì cơ quan Thi hành án báo
cáo Ban Chỉ đạo THADS tổ chức cuộc họp liên ngành với Tòa án, Viện Kiểm sát, các cơ
quan hữu quan tại địa phương thống nhất biện pháp xử lý phần tài sản của người phải thi
hành án trong khối tài sản chung để đảm bảo việc thi hành án.
Tuy nhiên, dù giải quyết theo phương án nào cũng phải dựa trên các qui định
pháp luật hiện hành, khi điều luật chưa rõ ràng, cụ thể thì không thể vận dụng một cách
tùy tiện, đối với trường hợp thi hành án trên, quan điểm thứ hai vận dụng theo điểm b,
khoản 2, Điều 74 là chưa đủ căn cứ vì tài sản của vợ chồng ông Hoàng Xuân Thắng và
Nguyễn Thị Tâm chưa xác định được phần sở hữu trong khối tài sản chung. Căn cứ
Khoản 2, Điều 74, quan điểm thứ hai chưa đủ cơ sở thì Ban chỉ đạo thi hành án, các Ban
ngành hữu quan cũng không thể cùng nhau thống nhất quan điểm giải quyết theo hướng
áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên đối với toàn bộ tài sản thuộc sở hữu chung, sẽ gây
ảnh hưởng đến quyền, lợi chính đáng của những người liên quan.
2.2.3. Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân
* Hạn chế trong quy định của pháp luật về kê biên tài sản
- Vướng mắc và hạn chế trong xác minh điều kiện thi hành án
Xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án như là chiếc chìa
khóa để mở cánh cửa kê biên tài sản. Do đó để có được việc kê biên biên tài sản
được tốt thì Chấp hành viên phải làm tốt công tác xác minh điều kiện thi hành án
51
của người phải thi hành án. Trên thực tế công tác xác minh điều kiện thi hành án
không phải lúc nào cũng dễ dàng cho Chấp hành viên, mà thường có những vướng
mắc và hạn chế sau đây:
Khi xác minh tại địa chỉ của người phải thi hành án thì bản thân người phải
thi hành án và nhân thân của họ không cung cấp những thông tin chính xác về tài
sản và tài sản trên đất họ đang quản lý, sử dụng. Do vậy Chấp hành viên phải tiến
hành thu thập qua nhiều kênh thông tin khác mới có thể lọc ra những thông tin
chính xác để làm cơ sở kê biên cưỡng chế.
Khi xác minh qua địa chính xã có những trường hợp thông tin giữa bản đồ
địa chính xã và trên thực địa có những thông tin sai lệch về số thửa, tờ bản đồ, diện
tích thửa đất cũng là một khó khăn cho công tác xác minh.
Khi xác minh thông qua Phòng Tài nguyên và Môi trường và Phòng đăng ký
QSDĐ nhiều khi thông tin về QSDĐ do các cơ quan này cung cấp cho cơ quan
THADS chậm, thiếu chính xác, gây khó khăn cho Chấp hành viên không biết căn
cứ vào thông tin nào là chính xác. Sự chậm chễ cung cấp thông tin về QSDĐ ở một
số huyện là do việc quản lý hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSDĐ chưa được chú trọng
hoặc do hồ sơ bị làm sai lệch vì mục đích tư lợi là một khó khăn.
Trong quá trình xác minh tại các cơ quan, ngân hàng, tổ chức tín dụng, nơi
mà người phải thi hành án đang thế chấp QSDĐ các cơ quan này nhiều khi không
hợp tác với cơ quan THADS để giao các giấy tờ, tài liệu liên quan đến việc thế chấp
như các hợp đồng thế chấp, giấy ủy quyền, hồ sơ công chứng ... cũng là một khó
khăn cho Chấp hành viên tiến hành kê biên cưỡng chế QSDĐ.
Trong quá trình xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.
Thực tế có nhiều Chấp hành viên, chưa đáp ứng về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
để thực hiện công tác xác minh một cách khoa học và chính xác dẫn đến chất lượng
của các văn bản xác minh chưa đủ cơ sở pháp lý cho việc cưỡng chế kê biên QSDĐ
của người phải thi hành án.
* Trình độ dân trí và ý thức pháp luật của người dân chưa cao
Tỉnh Hưng Yên nói chung và thành phố Hưng Yên nói riêng là địa phương
có trình độ dân trí không cao, dẫn ý thức pháp luật của người dân chưa cao, họ vẫn
52
sống theo tập tục cho nên họ không hiểu các quy phạm pháp luật THADS và quy
phạm pháp luật nói chung để điều chỉnh hành vi của mình theo đúng các quan hệ
pháp luật mà mình tham ra. Đặc biệt là các quan hệ pháp luật thừa kế (thừa kế theo
di chúc và thừa kế theo pháp luật). Thực tế có rất nhiều những vụ án chia thừa kế
gây nên những căng thẳng trong gia đình, họ tộc, đến khi cơ quan THADS tiến hành
kê biên QSDĐ để thi hành bản án, quyết định của Tòa án, họ chống đối kịch liệt và
không hợp tác với cơ quan THADS. Mặt khác có một số bộ phận không nhỏ, họ
được tư vấn pháp luật của các văn phòng luật sư hoặc của những người am hiểu biết
pháp luật trên địa bàn, tư vấn không đúng pháp luật hoặc sai lệch các quy định về
trình tự thủ tục THADS nhằm trây ỳ, chốn tránh thực hiện nghĩa vụ được quy định
trong bản án, quyết định của Tòa án gây ra thiệt hại cho bản thân và gây khó khăn
cho công tác THADS trên địa bàn tỉnh.
* Sự phối hợp, kết hợp giữa các cơ quan, tổ chức và cá nhân với cơ quan
THADS trong kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng còn chưa được tốt
- Sự phối hợp trong quá trình trao đổi, cung cấp thông tin về tài sản bảo đảm
còn chậm, chưa chính xác của Phòng Tài nguyên và Môi trường, Văn phòng đăng
ký QSDĐ, UBND xã và các tổ chức tín dụng.
- Nhận thức của một số cơ quan, tổ chức, cá nhân về công tác THADS chưa
đầy đủ, dẫn đến việc coi nhẹ công tác THADS; chưa thấy tầm quan trọng của việc
thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Vì vậy một số cơ quan, tổ chức cá nhân
không phối hợp hoặc phối hợp nửa vời thiếu trách nhiệm với cơ quan THADS.
- Sự phối hợp tham gia công tác xácầminh, thẩm định giá, giao QSDĐ cho
người trúng đấu giá chưa tốt, gây khó khăn cho cơ quan THADS nhiều khi phải trì
hoãn, kéo dài thời gian thi hành án, gây nên việc tồn đọng việc thi hành án.
- Đối với cá nhân đặc biệt là những người phải thi hành án và người có nghĩa
vụ liên quan, họ thường không hợp tác với cơ quan THADS trong việc không ký
vào các văn bản giấy tờ, không cung cung cấp thông tin chính xác, không tự nguyện
thi hành án, gõ cửa các văn phòng luật sư để tư vấn khiếu nại, tố cáo, hành vi của
Chấp hành viên và cơ quan THADS không đúng sự thật, họ lợi dụng các quyền
được hưởng để kèo dài thời gian thi hành án, khi bị cưỡng chế kê biên QSDĐ và
53
giao QSDĐ cho người trúng đấu giá, họ chống đối bằng mọi thủ đoạn gây khó khăn
cho cơ quan THADS.
* Các quy định của pháp luật về thủ tục kê biên tài sản bảo đảm tiền vay còn
chưa được cụ thể và chưa hợp lý
Hiện nay, Chấp hành viên đang lấn cấn trong vấn đề các khoản thuế phải nộp
từ việc chuyển quyền sử dụng đất khi xử lý tài sản đảm bảo nợ xấu. Theo khoản 2
Điều 15 Nghị quyết 42/2017/QH14 thì việc nộp thuế của bên bảo đảm, bên nhận
chuyển nhượng liên quan đến chuyển nhượng tài sản đảm bảo thực hiện theo quy
định của pháp luật về thuế. Bên nhận bảo đảm, bên nhận chuyển nhượng không
phải thực hiện nghĩa vụ thuế, phí khác của bên bảo đảm từ số tiền chuyển nhượng
tài sản bảo đảm khi thực hiện thủ tục đăng ký, thay đổi quyền sở hữu, quyền sử
dụng tài sản bảo đảm. Theo nội dung quy định này, thì bên bảo đảm, bên nhận
chuyển nhượng tài sản chỉ chịu các khoản thuế liên quan đến việc chuyển nhượng
tài sản bảo đảm (thuế thu nhập các nhân, phí công chứng, lệ phí nhà đất,…) còn các
khoản thuế khác liên quan đến tài sản đảm bảo thì không phải chịu. Ngoài ra, Chấp
hành viên còn gặp tình trạng người mua tài sản bảo đảm nợ xấu không thực hiện
được các thủ tục về chuyển quyền sở hữu, sử dụng sang tên mình với lý do còn các
khoản nợ thuế tại cơ quan thuế. Trong khi đó, theo công văn hướng dẫn nghiệp vụ
từ Tổng cục THADS thì từ ngày 15/8/2017, khi thực hiện việc thanh toán khoản
tiền thu được từ xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, cơ quan THADS ưu tiên
thanh toán cho nghĩa vụ nợ được bảo đảm cho tổ chức tín dụng sau khi trừ chi phí
cưỡng chế theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Đối với các nghĩa vụ
khác của người phải thi hành án chỉ được thực hiện thanh toán trong trường hợp
khoản tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm
và chi phí cưỡng chế.
54
Tiểu kết chương 2
Chương 2 luận văn đã cố gắng nghiên cứu thực tiễn thực hiện biện pháp kê
biên tài sản bảo đảm tiền vay, tài sản gắn liền với tại địa bàn thành phố Hưng Yên.
Luận văn đã phân tích, đánh giá đúng thực trạng áp dụng biện pháp kê biên tài sản
bảo đảm tiền vay tại Chi cục THADS thành phố Hưng Yên. Luận văn đã làm rõ kết
quả, những cố gắng và nỗ lực của Chi cục THADS thành phố Hưng Yên trong việc
giải quyết hồ sơ thi hành án, thi hành đạt các chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra trong năm,
không ngừng nâng cao chất lượng hiệu quả công tác. Tuy nhiên, hai năm gần đây
do có biến động của một số lĩnh vực kinh tế, xã hội gây khó khăn, vướng mắc cho
công tác thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hưng Yên dẫn đến chỉ tiêu hoàn
thành nhiệm vụ còn thấp, số lượng vụ việc được giải quyết còn hạn chế, chưa triệt
để, công tác cưỡng chế, kê biên QSD đất và tài sản gắn liền với đất tồn tại nhiều bất
cập, cần được giải quyết, khắc phục.
Tại chương 2 tác giả cũng đã làm rõ những tồn tại, hạn chế của hoạt động kê
biên tài sản bảo đảm tiền vay trên địa bàn thành phố Hưng Yên như sau:
Thứ nhất, số việc thi hành án áp dụng biên pháp kê biên QSDĐ, tài sản gắn
liền với đất còn tồn đọng nhiều.
Thứ hai, do trình độ năng lực và ý thức tổ chức kỷ luật của một bộ phận cán
bộ, công chức còn hạn chế, một số trường hợp còn có biểu hiện tiêu cực gây phiền
hà, nhũng nhiễu đối với đương sự.
Thứ ba, lượng việc thi hành án mỗi năm ngày càng tăng trong khi đó số
lượng Chấp hành viên còn quá ít dẫn đến tình trạng việc phải thi hành án quá tải đối
với mỗi Chấp hành viên.
Thứ tư, sự mâu thuẫn giữa Luật thi hành án dân sự với các Luật khác dẫn đến
sự không đồng bộ trong hệ thống pháp luật hiện nay.
Thứ năm, một số bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải
xét xử lại nhiều lần, kết quả các lần xét xử lại trái ngược nhau gây khó khăn, phức
tạp cho việc kê biên QSDĐ, tài sản gắn liền với đất.
Thứ sáu, một số nơi, chính quyền địa phương, các ngành hữu quan chưa phối
hợp kịp thời theo yêu cầu của cơ quan Thi hành án dân sự.
55
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT,
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN KÊ BIÊN TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN
VAY NGÂN HÀNG TẠI THÀNH PHỐ HƯNG YÊN
TỈNH HƯNG YÊN
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện kê biên
tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng tại thành phố Hưng Yên tỉnh Hưng Yên
3.1.1. Bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong kê biên tài sản
Bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa quan điểm cần được quán
triệt tuyên truyền mạnh mẽ trong quá trình tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự
nói chung hiện nay. Do đó, các quy định của pháp luật kê biên tài sản phải được
tuân thủ, chấp hành nghiêm chỉnh. Mọi vi phạm pháp luật kê biên tài sản phía cơ
quan thi hành án, chấp hành viên, các tổ chức, cá nhân có liên quan đến thi hành án
phải bị xử lý kịp thời. Pháp luật về kê biên tài sản nói riêng, là nguyên tắc cơ bản
của toàn bộ hoạt động thi hành án dân sự và hoạt động kê biên tài sản từ giai đoạn
xây dựng pháp luật thi hành án, tổ chức thực hiện pháp luật kê biên tài sản nghiêm
chỉnh, xử lý nghiêm khắc hành vi vi phạm pháp luật trong thi hành án.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thi hành án dân sự chính là tạo hành lang
pháp lý thuận lợi cho công tác thi hành án dân sự. Vì vậy, Quốc hội cần nhanh
chóng ban hành Bộ luật Thi hành án dân sự trên cơ sở hệ thống hóa, pháp điển hóa,
mở rộng phạm vi điều chỉnh, đáp ứng yêu cầu đổi mới tổ chức, hoạt động thi hành
án dân sự trong tình hình hiện nay theo tinh thần của Nghị quyết số 17-NQ/TƯ
ngày 01/08/2007 về đẩy mạnh cải cách hành chính nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý của bộ máy Nhà nước và Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, nhất là Nghị quyết
số 48-NQ/TW ngày 25 tháng 04 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020 “xây dựng Bộ luật thi hành án điều chỉnh tất cả các lĩnh vực thi hành án;
56
xác định Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước thống nhất công
tác thi hành án; từng bước xã hội hoá hoạt động thi hành án”.
Theo Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Ban chấp hành
Trung ương Đảng quy định: “Giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất
quản lý công tác thi hành án. Xác định rõ trách nhiệm của UBND xã, phường, thị
trấn và các cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh, thành phố, trong việc thi hành các
hình phạt không phải là phạt tù chỉ đạo thực hiện nghiêm túc các bản án, quyết
định của tòa án. Từng bước thực hiện xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ
tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan Nhà nước thực hiện một số công việc
thi hành án.”
Trong các nội dung cải cách Tư pháp theo Nghị quyết 49-NQ/TW quy định
nhiều vần đề từ cơ quan điều tra, viện kiểm sát nhân dân, toà án nhân dân, luật sư,
công chứng … trong đó có công tác thi hành án nói chung. Để thực hiện được Nghị
quyết 49-NQ/TW cần có yêu cầu sau:
- Đảng phải lãnh đạo, chỉ đạo sát sao việc thực hiện Nghị quyết;
- Phải xác định thể chế thống nhất giữa cơ quan THADS và cơ quan thi hành
án hình sự, đó là xây dựng một Bộ luật thi hành án chung, bao gồm cả thi hành án
hình sự và THADS;
- Xây dựng chế độ chính sách chung cho công chức làm công tác THADS và
thi hành án hình sự. Thực tế hiện nay công chức làm trong cơ quan thi hành án hình
sự thì được hưởng theo chế độ lực lượng Công an nhân dân với chế độ ưu đãi đặc
biệt, nếu hợp nhất lại thì họ được hưởng theo chế độ lực lượng công an hay theo chế
độ công chức THADS. Đây chính là bài toán khó giải khi mà quyền và lợi ích của
họ không được đảm bảo;
- Phải có nguồn tài chính cho việc thực hiện cải cách. Đây là một yêu cầu
quan trọng nhất và là yếu tố quyết định trong công cuộc cải cách tư pháp. Nếu
không có tài chính thì mọi hoạt động cải cách chỉ nằm trên giấy tờ, bởi vì không có
tài chính thì không thể có đầu tư cho xây dựng cơ sở vật chất, tranh thiết bị để duy
trì hoạt động của bộ máy Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án.
57
3.1.2. Bảo đảm nhu cầu đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
Có nhiều chủ thể tham gia trong quan hệ pháp luật về bán đấu giá tài sản
THADS và đặc biệt quyền lợi ích hợp pháp của các chủ thể này có mối liên quan
phức tạp. Đặt trong mối liên hệ tổng thể, pháp luật trao quyền cho chủ thể này rất có
thể sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của chủ thể khác. Một bên là người
được thi hành án muốn nhanh chóng thi hành bản án bằng mọi biện pháp, một bên
là người phải thi hành án nếu Nhà nước dùng mọi biện pháp để tổ chức thi hành án
nhất định sẽ gây ảnh hưởng tới người phải thi hành án, có thể dẫn đến hình sự hóa
quan hệ dân sự. Một bên là người phải thi hành án cố gắng chây ì, cố thủ không bàn
giao tài sản cho người trúng đấu giá, một bên là người trúng đấu giá đã thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán tài sản mà vẫn không nhận được tài sản
bàn giao từ cơ quan THADS và CHV phụ trách vụ việc. Một bên là người được thi
hành án nếu cơ quan THADS và CHV chưa bàn giao được tài sản cho người trúng
đấu giá thì vẫn không thể được nhận tiền thi hành án mặc dù tài sản về mặt pháp
luật đã bán được và tiền đã nằm chờ trong tài khoản! Một bên là nỗi lo của tổ chức
đấu giá không bàn giao được tài sản cho khách hàng thì mất uy tín với khách hàng
trong thời buổi kinh tế thị trường“khách hàng là thượng đế”. Một bên là cơ quan
THADS với nỗi lo của CHV không bàn giao được tài sản có nghĩa không thi hành
án xong, án dân sự của năm nay xếp vào án tồn đọng của năm kế tiếp. Với những
mối liên quan phức tạp trong quan hệ pháp luật bán đấu giá tài sản THADS như
vậy, đòi hỏi việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này là một vấn đề cấp thiết đặt
ra để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật
về bán đấu giá tài sản. Tuy nhiên việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này
không phải là câu chuyện nhất thời, giải quyết tình trạng cấp bách của thực tiễn mà
cần phải đòi hỏi khi hoàn thiện pháp luật phải bảo vệ “hài hòa” được quyền lợi ích
hợp pháp của các chủ thể tham gia. Do đó, yêu cầu đặt ra trong việc hoàn thiện pháp
luật bán đấu giá tài sản THADS ở Việt Nam cần bảo đảm các chủ thể tham gia
trong quan hệ pháp luật về đấu giá tài sản THADS đều phải có quyền và nghĩa vụ
bình đẳng với nhau. Người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ của mình đến
cùng và quyền nhận lại tài sản của chủ thể này cần được thực hiện đến đâu để
58
không ảnh hưởng đến người tham gia đấu giá và uy tín của tổ chức đấu giá? Người
được thi hành án thời điểm nào được nhận tiền thi hành án nếu cơ quan THADS và
CHV không quyết liệt đến cùng trong việc bàn giao tài sản? Nếu không bàn giao
được tài sản thì trách nhiệm của CHV của cơ quan THADS như thế nào? Pháp luật
đã thực sự bình đẳng khi xác định CHV là một bên trong chủ thể ký kết hợp đồng,
người trúng đấu giá cũng là một bên của chủ thể ký kết hợp đồng nhưng khi vi
phạm nghĩa vụ thì chỉ có người trúng đấu giá bị áp dụng chế tài vi phạm còn CHV
của cơ quan THADS thì không bị áp dụng chế tài vi phạm? Nhưng suy đến cùng
không bàn giao được tài sản là do sự chống đối đến cùng của người phải thi hành án
hay là do lỗi của CHV trong việc tổ chức cưỡng chế còn tắc trách? Vì vậy, hoàn
thiện pháp luật trong lĩnh vực này cần phải xác định rõ trách nhiệm cụ thể các các
chủ thể tham gia vào quan hệ này mới có thể khắc phục được những bất cập, tồn tại
trong thực tiễn bán đấu giá tài sản THADS trong thời gian qua. Một loạt những vấn
đề đặt ra đòi hỏi pháp luật phải có những quy phạm pháp luật điều chỉnh phù hợp để
bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể trong quan hệ pháp luật bán đấu giá tài sản
THADS: Người phải thi hành án có biểu hiện chống đối trong việc bàn giao tài sản
sẽ bị trách nhiệm pháp lý gì? Cơ quan thi hành dân sự và CHV cơ quan Công an
chậm trễ trong việc bàn giao tài sản hoặc có lỗi trong việc chuẩn bị tổ chức cưỡng
chế chưa kỹ lưỡng dẫn đến không bàn giao được tài sản sẽ bị trách nhiệm pháp lý
gì? Khách hàng mua tài sản THADS không nộp tiền mua tài sản sẽ bị trách nhiệm
pháp lý gì? Tổ chức đấu giá tổ chức đấu giá sai trình tự, thủ tục đối với tài sản
THADS sẽ chịu trách nhiệm pháp lý gì...?
3.1.3. Bảo đảm nguyên tắc an toàn cho chấp hành viên
Chấp hành viên thi hành án dân sự là một chức danh tư pháp do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền bổ nhiệm theo quy trình, thủ tục nhất định khi đáp ứng đầy đủ
các yêu cầu, tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định của pháp luật;
Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của chấp hành viên thi hành án dân sự, về cơ bản,
bao gồm các yếu tố như trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật; ý thức pháp luật
nghề nghiệp; kỹ năng nghiệp vụ công tác; phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống...
Trong phạm vi luận văn, tác giả chỉ luận bàn về kỹ năng nghiệp vụ cũng như nhu
59
cầu bảo đảm an toàn pháp lý công tác thi hành án dân sự của chấp hành viên - một
trong những yếu tố rất quan trọng tạo nên năng lực của chấp hành viên.
Trước hết, để có kỹ năng nghiệp vụ công tác thi hành án dân sự thì chấp
hành viên, ngoài trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật, phải có trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ là những kiến thức chuyên sâu về
một lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp nào đó, được thể hiện qua những trình độ như sơ
cấp, trung cấp, cao cấp... Đây là những kiến thức bắt buộc phải có đối với đội ngũ cán
bộ, công chức nhà nước nói chung, đội ngũ chấp hành viên nói riêng khi thực hiện các
chức trách, nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, chấp hành viên cần phải thường xuyên tìm
hiểu, cập nhật, tích luỹ kiến thức về kỹ năng nghiệp vụ bằng cách tự học hỏi, tự đúc rút
kinh nghiệm thông qua trao đổi chuyên môn, nghiệp vụ với đồng nghiệp cũng như qua
hoạt động thực tiễn hoạt động thi hành án dân sự. Ngoài trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,
chấp hành viên còn cần có sự hiểu biết rộng rãi về các lĩnh vực khác nhau của đời sống
xã hội, theo quy định của pháp luật, chấp hành viên cao cấp phải am hiểu sâu rộng tình
hình kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế; chấp hành viên trung cấp phải nắm chắc tình
hình kinh tế, xã hội của địa phương, của đất nước; còn chấp hành viên sơ cấp cần nắm
được tình hình kinh tế, xã hội ở địa phương.
Chấp hành viên không chỉ đơn thuần giữ cương vị của người tổ chức thi
hành bản án dân sự, mà có lúc còn phải đảm nhận vai trò tư vấn, trao đổi, gợi ý họ
nên sử dụng tài sản nào để thi hành án một cách thuận tiện và có lợi nhất. Để nâng
cao hiệu quả vận động, thuyết phục đương sự tự nguyện thi hành án, chấp hành viên
cần biết cáchấphân tích, lý giải vấn đề, đánh giá, chỉ ra cho các bên đương sự thấy
những lợi ích có được khi tự nguyện thỏa thuận với nhau và tự nguyện thi hành án.
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả kê biên tài
sản bảo đảm tiền vay ngân hàng
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về kê biên tài sản
Thứ nhất, cần phải được hoàn thiện các quy phạm pháp luật kê biên tài sản
trong Luật thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014
Nghị định số: 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự. Tại
60
khoản 1, Điều 24 Nghị định này quy định: “Kể từ thời điểm bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật, nếu người phải thi hành án chuyển đổi, tặng cho, bán, chuyển
nhượng, th chấp, cầm cố tài sản cho người khácầmà không sử dụng khoản tiền thu
được để thi hành án và không còn tài sản khác hoặc tài sản khác không đủ để đảm
bảo nghĩa vụ thi hành án thì tài sản đất vẫn bị kê biên, xử lý để thi hành án, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.”
Tại khoản 1 Điều 110 Luật thi hành án dân sự, Chấp hành viên chỉ kê biên
quyền sử dụng đất của người phải thi hành án thuộc trường hợp được chuyển quyền
sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai. Vậy, hợp đồng chuyển quyền sử
dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm thực hiện việc đăng ký chuyển quyền sử dụng
đất tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất.
Trường hợp trong thực tế có người phải thi hành án đã thực hiện hợp đồng
chuyển nhượng cho người khác tại Phòng Công chức hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã
trước khi có bản án, quyết định của Tòa án nhưng sau thời điểm đó người nhận
chuyển nhượng vẫn chưa thực hiện việc đăng ký và nộp thuế tại các cơ quan có
thẩm quyền nên chưa có hiệu lực theo pháp luật quy định. Vậy, Cơ quan thi hành án
tiến hành kê biên tài sản nói trên để đảm bảo thi hành án. Hiện nay có những quan
điểm khác nhau về việc kê biên tài sản.
- Quan điểm thứ nhất cho rằng: Việc kê biên tài sản của Cơ quan thi hành án
là đúng pháp luật, vì theo quy định pháp luật thì việc chuyển nhượng nhưng chưa
đăng ký và nộp thuế thì chưa có hiệu lực pháp luật.
Trong trường hợp này theo bản thân tôi thì pháp luật cần quy định theo
hướng bảo vệ ngay tình người thứ ba nhưng với điều kiện người này không biết
hoặc không thể biết được hành vi của người có nghĩa vụ trong Bản án, Quyết định
thực hiện giao dịch nhằm tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.
- Quan điểm thứ hai cho rằng: Việc kê biên tài sản của Cơ quan thi hành án
là không đúng quy định tại khoản 1, Điều 24 Nghị định số: 62/2015/NĐ-CP ngày
18 tháng 07 năm 2015, vì tài sản đã được chuyển nhượng trước khi có bản án, quyết
định của Tòa án có hiệu lực.
61
- Luật Thi hành án dân sự quy định tại Điều 74 về cưỡng chế, kê biên tài sản
thuộc sở hữu chung. Trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung trong hộ gia đình bị
cưỡng chế để thi hành án, luật chưa quy định rõ tài sản chung của hộ được xác định khi
nào, theo hộ khẩu tại thời điểm cấp giấy chứng nhận hợp pháp, hay theo hộ khẩu tại
thời điểm kê biên tài sản, để đảm bảo quyền lợi chính đáng của các đương sự.
Vấn đề này thường hay va chạm và gặp trong thực tế, đòi hỏi pháp luật về kê
biên tài sản cần phải dự tính được trước. Để hợp lý nhất theo tôi cần phải quy định
theo hướng hộ khẩu tại thời điểm cấp giấy chứng nhận hợp pháp thì mới phát sinh
quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong hộ gia đình.
Trong trường hợp tài sản của người phải thi hành án chỉ đủ để thi hành nghĩa
vụ theo bản án, nếu cưỡng chế thì đương sự không còn nơi ở, pháp luật về thi hành
án dân sự không có văn bản nào quy định có để lại cho đương sự diện tích để ở hay
không, trường hợp có là bao nhiêu hoặc trích lại khoản tiền theo khu vực để đương
sự lo chỗ ở mới, nhằm thể hiện tính nhân đạo của pháp luật. Pháp luật về thi hành
án c n quy định theo hướng như thế này phải tạo điều kiện cho người phải thi hành
án có một nơi sinh sống trong trường hợp người phải thi hành án không còn nơi ở
nào khác. Đồng thời đảm bảo quyền con người, quyền công dân đã được quy định
tại Điều 22 Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam, “Công dân có quyền có nơi ở hợp
pháp. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ
ở của người khác nếu không được người đó đồng ý”.
Thực tế hiện nay trong hoạt động thi hành án dân sự nảy sinh nhiều vướng
mắc về việc phải xử lý nhà ở của người phải thi hành án được xây dựng trên đất của
người khác và tài sản của người phải thi hành án do người khác đứng tên thế. Trong
nhiều trường hợp, người phải thi hành án chỉ có tài sản duy nhất là ngôi nhà đó
được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhưng nằm trên đất mượn, cơ quan thi
hành án dân sự tiến hành kê biên ngôi nhà để đảm bảo thi hành án, nhưng hầuu như
không thể xử lý tiếp được. Vì vậy pháp luật thi hành án dân sự cần phải được hoàn
thiện hơn nữa để pháp luật về kê biên tài sản thực sự đi vào đời sống dân sự một
cách hiệu quả và được cuộc sống chấp nhận.
62
Thứ hai, hoàn thiện quy định quyền yêu cầu Tòa án xác định, phân chia
quyền sở hữu, sử dụng tài sản
Theo quy định Điều 74 Luật THADS năm 2008 và khoản 2 Điều 6 Thông tư
liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26 tháng 07 năm 2010
của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao khi các
chủ thể sở hữu chung không yêu cầu tòa phân chia tài sản chung, thì người được án
hoặc Chấp hành viên cơ quan THADS hoàn toàn có quyền yêu cầu tòa xác định
phần sở hữu của người phải THA trong khối tài sản chung để đảm bảo đảm
THADS. Tuy nhiên, khi Chấp hành viên khởi kiện thì họ phải nộp tiền tạm ứng án
phí dân sự sơ thẩm và phải chịu án phí dân sự sơ thẩm khi thua kiện. Liệu Chấp
hành viên có chịu lấy tiền túi của mình để đảm bảo cho yêu cầu khởi kiện của mình
không hay là lấy từ ngân sách ngành? Hơn nữa, yêu cầu xác định tài sản chung
trong vụ việc này là quyền sử dụng đất thì ai là người phải nộp tạm ứng chi phí tiến
hành xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá cũng như cung cấp các tài liệu cần thiết để
chứng minh khối tài sản yêu cầu giải quyết... Bên cạnh đó, người phải thi hành án luôn
trốn tránh nghĩa vụ nên họ không cung cấp các tài liệu liên quan đến tài sản và không
chủ động yêu cầu khởi kiện yêu cầu phân chia tài sản chung.
Do đó, cần có quy định về quyền yêu cầu Tòa án xác định, phân chia quyền
sở hữu, sử dụng tài sản gắn với quyền, lợi ích của người được thi hành án, người
phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Thứ ba, hoàn thiện quy định thành lập hội đồng kê biên tài sản là quyền sử
dụng đất, tài sản gắn liền với đất
Trong thực tế khi kê biên QSDĐ, tài sản gắn liền với đất thì Chấp hành viên
không phải là người có chuyên môn để xác định danh giới QSDĐ của người phải thi
hành án với quyền sử dụng của các hộ liền kề, hiện trạng và vị trí của QSDĐ phải kê
biên. Do vậy, thực tế Chấp hành viên phải mời cơ quan quản lý đất đai để tham gia kê
biên xác định hiện trạng, vị trí cho chính xác. Để khắc phục khó khăn này thì pháp luật
cần bổ sung quy định khi kê biên QSDĐ, tài sản gắn liền với đất phải thành lập hội
đồng kê biên. Theo đó, Chấp hành viên là chủ tịch hội đồng, đại diện chính quyền
có thẩm quyền về đất đai tại địa phương là thành viên hội đồng.
63
Thứ tư, hoàn thiện về thứ tự kê biên tài sản
Hiện nay chưa có một quy định cụ thể nào quy định nào về thứ tự kê biên tài
sản, chỉ có quy tại khoản 1 Điều 95 Luật THADS 2008 sửa đổi bổ sung 2014 với
nội dung: “Việc kê nhà ở là nơi diu nhất của người phải thi hành án và gia đình chỉ
được thực hiện sau khi xác định người phải thi hành án không còn tài sản nào khác
hoặc có nhưng không đủ để thi hành án, trừ trường hợp người phải thi hành án đồng
ý kê biên nhà ở để thi hành án”. Tuy nhiên quy định này cũng không đủ tính khái
quát để có thể coi là một nguyên tắc trong kê biên tài sản và chỉ đặt ra trong trường
hợp kê biên nhà ở là nơi duy nhất của người phải thi hành án.
Việc quy định này nhằm khuyến khích ý thức tự nguyện thi hành án, tôn
trọng quyền tự định đoạt tài sản của đương sự nhưng vẫn đảm bảo nhưng vấn đảm
bảo hiệu quả thi hành án. Mặt khác để tránh sự tùy tiện, áp đặt của Chấp hành viên,
theo tác giả cần bổ sung quy định về thứ tự tài sản kê biên theo định hướng: “Người
phải thi hành án có quyền thảo thuận với người được thi hành án về tài sản được kê
biên để thi hành án. Nếu không có sự thỏa thuận, chấp hành viên tiến hành kê biên
theo nguyên tắc: Kê biên tài sản riêng trước, nếu không có hoặc không đủ thi kê
biên tài sản chung với người khác; kê biên động sản trước rồi mới kê biên bất động
sản. Trường hợp tài sản riêng là bất động sản, tài sản chung là động sản mà phần tài
sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung đó sau khi phân chia đủ để
thi hành án thì vẫn có thể kê biên tài sản chung trước”.
Thứ năm, việc kê biên tài sản của người phải thi hành án có tranh chấp với
người khác.
Theo quy định Điều 75 Luật THADS 2008 sửa đổi, bổ sung 2014 trường hợp
cưỡng chế đối với tài sản của người phải thi hành án mà có tranh chấp với người
khác thì Chấp hành viên tiến hành cưỡng chế và yêu cầu đương sự, người có tranh
chấp khởi kiện tại Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Thực tế cho thấy
có rất nhiều trường hợp đương sự khởi kiện tại tòa án theo hướng dẫn của Chấp
hành viên, nhưng tòa án không thụ lý vụ việc, trong khi đó Điều 75 Luật THADS
năm 2008 thì Chấp hành viên xử lý tài sản đã kê biên theo quyết định của Tòa án và
cơ quan có thẩm quyền. Việc tòa án không thu lý trong trường hợp này dẫn đến hậu
64
quả khó sử lý tài sản kê biên, vì không thể xác định được quyền sở hữu tài sản mà
Chấp hành viên đã tiến hành kê biên. Do đó, trường hợp này, bộ luật tố tụng dân sự
cần có điều luật quy định cụ thể về thời gian, căn cứ, lý do cho việc thụ lý hay
không thụ lý và bổ sung vào loại việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án trong bộ luật tố tụng.
Thứ sáu, sửa đổi, bổ sung quy định về việc xác định QSDĐ nào được kê biên
để thi hành án.
Để khắc phục vướng mắc trong việc kê biên tài sản, đặc biệt là vướng mắc
đối với việc QSDĐ nào được kê biên để đưa ra đấu giá, chúng tôi đưa ra hai phương
án sau: Phương án 01. Sửa đổi điều kiện kê biên QSDĐ để thi hành án trong Luật
THADS năm 2014 cho phù hợp với Luật đất đai năm 2013. Theo đó Điều 110, Luật
THADS năm 2014 chỉ quy định: “CHV chỉ kê biên QSDĐ của người phải thi hành
án thuộc trường hợp được chuyển quyền sử dụng theo quy định của pháp luật về đất
đai”. Bỏ quy định: “Người phải thi hành án chưa được cấp giấy chứng nhận QSDĐ
mà thuộc trường hợp được cấp giấy chứng nhận QSDĐ theo quy định của pháp luật
về đất đai hoặc thuộc diện quy hoạchấphải thu hồi đất, nhưng chưa có quyết định
thu hồi đất thì vẫn được kê biên, xử lý QSDĐ đó.” Ưu điểm của phương án 01 này
là có sự phù hợp giữa pháp luật hiện hành về thi hành án và quy định của Luật đất
đai, giúp cho CHV và tổ chức đấu giá dễ dàng trong việc kê biên và kiểm soát tình
trạng tài sản là QSDĐ được đưa ra đấu giá. Tuy nhiên về nhược điểm của quy định
này là không bảo vệ được tận cùng quyền đeo đuổi của người được thi hành án yêu
cầu người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ thi hành án đến cùng chỉ cần xác
định đó là tài sản của người phải thi hành án mặc dù tài sản này chưa được công
nhận về mặt pháp lý là có giấy chứng nhận QSDĐ! Phương án 02. Sửa đổi điều
kiện chuyển nhượng QSDĐ trong Luật đất đai và các giấy tờ cần có trong hồ sơ
công chứng QSDĐ đối với tài sản là QSDĐ trong THADS. Phương án này cho
phép về cơ bản là giữ nguyên quy định tại Điều 110, Luật THADS năm 2014 như
sau: “CHV kê biên QSDĐ của người phải thi hành án thuộc trường hợp được
chuyển quyền sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai. Người phải thi hành
án chưa được cấp giấy chứng nhận QSDĐ mà thuộc trường hợp được cấp giấy
65
chứng nhận QSDĐ theo quy định của pháp luật về đất đai hoặc thuộc diện quy
hoạchấphải thu hồi đất, nhưng chưa có quyết định thu hồi đất thì vẫn được kê biên,
xử lý QSDĐ đó”. Để thực hiện đượcấphương án 02 này đòi hỏi Luật đất đai 2013
phải được sửa đổi theo hướng cho phép tổ chức đấu giá được quyền đấu giá tài sản
là QSDĐ trên cơ sở kê biên của CHV đối với trường hợp đất chưa được cấp giấy
chứng nhận nhưng thuộc trường hợp được cấp giấy chứng nhận. Điều kiện để được
cấp giấy chứng nhận QSDĐ là trên cơ sở biên bản đấu giá thành của tổ chức đấu
giá. Bên cạnh đó, cần quy định các giấy tờ thay thế cho giấy chứng nhận QSDĐ khi
ký hợp đồng mua bán tài sản đấu giá này là các loại giấy tờ nào? Ví dụ như biên
bản xác minh của CHV về hiện trạng đất tại UBND về việc đất không có tranh
chấp, Công văn trả lời của Văn phòng đăng ký QSDĐ xác định đất thuộc trường
hợp được cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Trong hai phương án trên, chúng tôi cho
rằng áp dụng phương án 02 là bảo vệ được tốt hơn quyền, nghĩa vụ của các bên
trong THADS, đặc biệt là người được thi hành án.
Thứ bảy, hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan đến việc kê biên tài
sản trong thi hành án.
Một là, Bộ luật dân sự 2015. Quy định về giao dịch vô hiệu khi mục đích giao
dịch giữa các chủ thể nhằm tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án của mình.
Hai là, Luật đất đai năm 2013. Bổ sung các quy định về trường hợp hủy
giấy chứng nhận QSDĐ theo yêu cầu của CHV; Bổ sung quy định thời điểm
chuyển QSDĐ.
Ba là, Luật doanh nghiệp. Bổ sung trách nhiệm của thành viên cổ đông, hội
đồng quản trị phải liên đới chịu trách nhiệm về mặt pháp lý với giám đốc doanh
nghiệp với phần vốn góp của mình.
Bốn là, Luật thi hành án dân sự cần quy định thêm về trách nhiệm của
UBND xã (phường) trong việc cung cấp thông tin không đúng thực tế về tài sản của
đương sự, người phải thi hành án, người có liên quan đến việc thi hành án. Cần phải
có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp UBND xã phường cung cấp thông tin
không đúng thực tế về tài sản của người phải thi hành án.
66
3.2.2.. Các giải pháp nâng cao hiệu quả kê biên tài sản bảo đảm tiền vay
ngân hàng
3.2.2.1. Nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của đội ngũ chấp hành viên
Từ những thực trạng Chấp hành viên của thành phố Hưng Yên đã được đề
cập ở phần trên, vấn đề đặt ra cần nâng cao chất lượng đội ngũ Chấp hành viên bằng
những giải pháp sau đây:
- Thường xuyên bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ cho các
Chấp hành viên yếu kém, với phương châm cầm tay chỉ việc cho các Chấp hành
viên hiện có tư tưởng an vị, không chịu suy nghĩ, nghiên cứu. Đồng thời ngắn với
việc thường xuyên kiểm tra, giám sát việc làm của các Chấp hành viên này để kịp
thời điều chỉnh chuyên môn của họ theo hướng tích cực.
- Thực hiện cơ chế tuyển chọn Chấp hành viên một cách thực chất, tránh
chạy theo số lượng, quan tâm đến chất lượng để chọn ra những người có đủ sức
khoẻ, đủ đức, đủ tài thực sự để bổ nhiệm vào các ngạch Chấp hành viên. Đồng thời
có cơ chế cụ thể bãi miễn những Chấp hành viên không đủ tiêu chuẩn đáp ứng được
vị trí làm việc của mình để có chỗ dành cho người khác, người có đủ tiêu chuẩn, bổ
nhiệm thay thế cho những người không đáp ứng yêu cầu của công việc.
- Chi cục THADS thành phố Hưng Yên cần có chính sách thi tuyển công
chức đầu vào, ưu đãi những sinh viên ra trường có kết quả học tập cao, để lựa chọn
người đầu vào ngành có chất lượng đào tạo tốt, đồng đều là tiền đề lựa chọn đội ngũ
công chức làm công tác THADS có chất lượng sau này. Ngoài ra để làm tốt việc
này cần phải tổ chức thi tuyển nghiêm túc, công khai minh bạch từ khâu thông báo,
nộp hồ sơ, tổ chức thi tuyển, chấm điểm, công bố kết quả. Có như vậy mới tuyển
được những người chất lượng vào ngành THADS trên địa bàn tỉnh.
- Nhà nước có cơ chế chính sách tăng lương cho đội ngũ công chức trong
ngành THADS, vì đây là một nghề luôn tiếp xúc với mặt trái của xã hội cho nên dễ
dẫn đến vi phạm, việc tăng lương nhằm đảm bảo cho họ có đủ điều kiện tự sống
bằng đồng lương được nhận thì họ sẽ toàn tâm công tác, toàn tâm, toàn lựcấphục vụ
tốt cho công tác THADS. Mặt khác Nhà nước có chính sách khoán biên chế, khoán
lương trao quyền chủ động cho các cơ quan THADS tự sử dụng biên chế, kinh phí
67
nhằm nâng cao thu nhập cho đội ngũ công chức, người lao động trong ngành
THADS.
- Mặt khác nghề Chấp hành viên là một nghề nguy hiểm, nhiều rủi ro nếu
trong một vụ việcầmà Chấp hành viên không làm cẩn thận, bị sai phạm có hậu quả
sảy ra thì Chấp hành viên đó không có cơ hội sửa sai. Do đó, họ đối mặt với hậu
quả pháp lý như bị kỉ luật, thậm trí chịu trách nhiệm hình sự. Điều này rất khác với
Thẩm phán, nếu họ có sai sót thì có cơ chế giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm bảo vệ họ. Chính vì lý do đó cần có cơ chế bảo vệ Chấp hành viên
giống như cơ chế bảo vệ chức danh Thẩm phán để họ an tâm công tác phục vụ suốt
đời cho ngành THADS.
3.2.2.2. Nâng cao sự lãnh đạo của Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự tỉnh
Để công tác THADS và công tác kê biên tài sản tạo được bước đột phá căn
bản trong thời gian tới, Ban Chỉ đạo THADS cần được củng cố và kiện toàn để tăng
cường tham mưu có hiệu quả cho cấp ủy Đảng, chính quyền về công tác THADS
trên địa bàn. Có thể nói, giai đoạn từ 2015 đến nay, Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự
tỉnh Hưng Yên đã đi vào hoạt động có nề nếp, phát huy vai trò quan trọng trong
công tác thi hành án dân sự. Đồng thời Hỗ trợ kinh phí theo Công văn Liên bộ số
17558/CVLB-BTC-BTP ngày 19/12/2013 của Liên Bộ Tài chính – Bộ Tư pháp Về
việc xin hỗ trợ kinh phí hoạt động cho cơ quan thi hành án từ ngân sách địa phương;
và Công văn số 183/UBND-KTTH ngày 11/01/2013 của UBND tỉnh Hưng Yên về
việc triển khai thực hiện kiến nghị của liên Bộ Tài chính – Bộ Tư pháp.
Vai trò của Ban chỉ đạo thi hành án dân sự vẫn rất quan trọng vì trên thực tế
công tác kê biên tài sản được xem như “miếng ăn trong dạ dày nhưng bị mất đi” đó
vẫn là công tác khó khăn, phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều địa phương,...
Uỷ ban Nhân dân mà trực tiếp là đồng chí Chủ tịch uỷ ban Nhân dân cần nhận thức
việc thành lập Ban chỉ đạo thi hành án dân sự là hết sức cần thiết, trách nhiệm của
Uỷ ban nhân dân mà trực tiếp là Chủ tịchữuỷ ban nhân dân tỉnh Hưng Yên theo các
qui định của pháp luật nhằm huy động sức mạnh tổng hợp trong chỉ đạo công tác kê
biên tài sản trong nh ng vụ án khó khăn phức tạp có ảnh hưởng đến an ninh trật tự
xã hội, tạo sự đồng thuận, phối hợp trong công tác kê biên tài sản. Chủ tịch uỷ ban
68
nhân dân tỉnh Hưng Yên phải có trách nhiệm kiện toàn lại Ban chỉ đạo thi hành án
dân sự ở tỉnh mình sau mỗi nhiệm kỳ hoặc khi có sự luân chuyển, điều động, thực
hiện chế độ bảo hiểm xã hội đối với các thành viên trong Ban chỉ đạo.
3.2.2.3. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa cơ quan thi hành án và cơ quan
chức năng
Tại điều Điều 11 Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014
quy định: “trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình cơ quan, tổ chức
và cá nhân có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong việc thi
hành án. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm thực hiện yêu cầu
của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên theo quy định của Luật này. Mọi
hành vi cản trở, can thiệp trái pháp luật đối với hoạt động của cơ quan thi hành án
dân sự, Chấp hành viên đều bị xử lý theo quy định của pháp luật”; Điều 173. Nhiệm
vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong thi hành án dân sự; Điều 174.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp huyện trong thi hành án dân sự;
Điều 175. Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã trong thi hành án dân
sự; Điều 178. Trách nhiệm của cơ quan đăng ký tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm
trong thi hành án dân sự; Điều 179. Trách nhiệm của cơ quan ra bản án, quyết định
trong thi hành án.
Cần xây dựng các quy chế phối hợp liên ngành giữa cơ quan THADS với các
ngành, cấp liên quan mật thiết với cơ quan THADS để tháo gỡ những điểm nghẽn,
bất cập, xung đột pháp luật giữa các ngành, nhằm thực hiện có hiệu quả trong công
tác THADS nói chung và kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng nói riêng.
Công tác thi hành án dân sự luôn cần có sự hỗ trợ, phối hợp của cơ qua chức
năng, nó không chỉ là nhiệm vụ riêng của cơ quan thi hành án mà còn là nhiệm vụ
chung của các ngành, các cấp và toàn xã hội. Như trên thực tế có nhiều nơi, nhiều
lúc sự phối hợp của chính quyền các cấp của tổ chức xã hội, của công dân chưa tốt.
Vì vậy cần tăng cương sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan.
69
- Cần tăng cường sự hợp giữa cơ quan Thi ành án dân sự với Tòa án nhân
dân trong thi hành án dân sự
Có không ít các Bản án, Quyết định Tòa án tuyên không rõ ràng, không có
tính khả thi, chậm trễ trong việc giải thích các Bản án, Quyết định tuyên không rõ
ràng của Chấp hành viên làm giảm hiệu quả của hoạt động thi hành án dân sự hoặc
việc tòa án không áp dụng các biện pháp ngăn chặn để cho người phải thi hành án
tấu tán tài sản có giá trị nhắm trốn tránh nghĩa vụ phải thi hành án. Có những trường
hợp cơ quan thi hành án đã cưỡng chế và đưa ra bán đấu giá thành thì nhận được
quyết định giám đốc thẩm với nội dung quyết định hoàn toàn ngược lại so với Bản
án, Quyết định đã có hiệu lực trước đó. Hậu quả là phải thi hành án trở lại, gây bức
xúc cho các đương sự, khiếu nại kéo dài. Vì vậy, cần tăng cường quyền hạn cho Tòa
án và yêu cầu Toàn án cần phải có trách nhiệm tích cực trong việc thi hành các Bản
án, Quyết định của mình. Đặc biệt không để tồn tại quan niệm, sau khi Bản án,
Quyết định coi như tòa án hết trách nhiệm, còn việc thi hành các phán quyết là trách
nhiệm của cơ quan THADS.
- Cần tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan thi hành án dân sự với cơ
quan công an trong thi hành án dân sự
Để nâng cao hiệu quả thi hành án, cần bổ sung và quy định rõ hơn nhiệm vụ,
quyền hạn của cảnh sát hỗ trợ tư pháp trong thi hành án dân sự. Hỗ trợ xác minh tài
sản của người phải thi hành án theo yêu cầu của cơ quan thi hành án; bắt giữ người
phải thi hành án và những người khác có hành vi cản trở, chống đối trong quá trình
thi hành nhiệm vụ của Chấp hành viên.
Đồng thời, phải có các biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với cảnh sát hỗ trợ
tư pháp nếu nguyên nhân cưỡng chế thi hành án thất bại do không có sự hỗ trợ đúng
mức của cảnh sát hỗ trợ tư pháp. Ngoài ra theo tác giả cần nên thành lập Cục cảnh
sát hỗ trợ tư pháp thuộc Bộ tư pháp có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ,
quản lý cơ sở vật chất, kỹ thuật, trang thiết bị, công cụ hỗ trợ và tổ chức bộ máy cơ
quan Cảnh sát hỗ trợ tư pháp địa phương trong hoạt động hỗ trợ thi hành án dân sự.
70
- Cần tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan thi hành án với viện kiểm sát
nhân dân
Viện kiểm sát cần phải tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động thi hành án
dân sự qua đó phát hiện kịp thời các vi phạm để đưa ra hướng xử lý tốt nhất. Viên
kiểm sát nhân dân phải có ý kiến với Toàn án nhân dân để giải quyết những vướng
mắc, tranh chấp phát sinh trong thi hành án, giải quyết hậu quả bất lợi đối với
đương sự và cơ quan thi hành án do việc kháng nghị, hoặc đề nghị hoãn thi hành án
trái pháp luật gây ra. Khởi tố hoặc yêu cầu cơ quan điều tra khơi tố về hình sự khi
phát hiện có dấu hiệu tối phạm trong thi hành án.
Ngoài các cơ quan trên cần tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức
khác như: UBND các cấp, Ngân hàng, các tổ chức tín dụng, kho bạc nhà nước, bảo
hiểm xã hội, cơ qua đăng ký tài sản… quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm của từng cơ quan tổ chức đó. Tạo ra cơ chế phối hợp một cách linh hoạt nhất
trong quá trình tổ chức cưỡng chế kê biên tài sản nói chung và cưỡng chế kê biên tài
sản bảo đảm vốn vay ngân hàng nói riêng.
Đồng thời cần quy định các biện pháp xử lý, các chế tài áp dụng đối với các
cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định
trong phối hợp hỗ trợ với cơ quan THADS. Qua đó tạo cơ sở pháp lý cho việc xác
định trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức, các nhân trong việc xử lý các vướng
mắc liên quan đến hoạt động thi hành án, khắc phục những tồn tại trong hoạt động
thi hành án hiện nay.
3.2.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ cho đội ngũ làm công tác
kê biên tài sản
Bộ Tư pháp cần kiến nghị với Chính phủ quan tâm đến chế độ chính sách
tiền lương đối với đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án dân sự, chính sách tiền
lương đãi ngộ đối với chấp hành viên và cán bộ thi hành án phù hợp với tính chất
đặc thù của hoạt động thi hành án. Trướcầmắt là thu hẹp khoảng cách về mức
lương, hệ số lương giữa chấp hành viên và thư ký, chuyên viên giúp việc. Có chế độ
phụ cấp đối với cán bộ thi hành án bởi hiện mới chỉ có chế độ bồi dưỡng đối với
chấp hành viên. Tăng mức khoán kinh phí trên đầu người làm cho cán bộ công chức
71
yên tâm công tác và thuận lợi cho việc điều động, luân chuyển cán bộ. Cần đẩy
mạnh xã hội hoá công tác thi hành án dân sự theo hướng tạo điều kiện để mô hình
thừa phát lại phát triển.
Nói tóm lại, cần có chính sách đãi ngộ, thu hút nhân tài, đổi mới tư duy, cách
thức tuyển dụng, thực hiện quy trình thi tuyển Chấp hành viên một cách nghiêm túc
với phương châm lấy chất lượng hơn số lượng nhằm mục tiêu xây dựng đội ngũ
công chức làm công tác thi hành án tinh nhuệ, chuyên nghiệp đáp ứng được yêu cầu
đổi mới của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất
nước. Ngoài ra, cần phải tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện, công cụ hỗ
trợ bảo vệ cưỡng chế trong công tác THADS để tránh sự lệ thuộc vào các cơ quan
khác như xe ôtô đặc chủng khi cần chở đoàn cưỡng chế, chở tài sản, súng bắn đạn
cao su để phòng vệ khi các đối tượng quá kích tấn công đoàn cưỡng chế.
72
Tiểu kết chương 3
Qua phân tích khung pháp lý chung tại chương 1 và những đánh giá, phân
tích, khảo sát thực tiễn về biện pháp kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng,
trong chương 3 tác giả đã đưa ra những định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp
luật về cưỡng chế kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng. Qua đó tác giả cũng
nêu ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực hiện kê biên tài sản bảo đảm
tiền vay ngân hàng trên địa bàn thành phố Hưng Yên tỉnh Hưng Yên.
Thứ nhất là các giải pháp về hoàn thiện pháp luật như. hoàn thiện quy định
quyền yêu cầu Tòa án xác định, phân chia quyền sở hữu, sử dụng tài sản. hoàn thiện
quy định thành lập hội đồng kê biên tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền
với đất. hoàn thiện về thứ tự kê biên tài sản việc kê biên tài sản của người phải thi
hành án có tranh chấp với người khác. bổ sung chế tài áp dụng đối với người phải
thi hành án. hoàn thiện về thời gian tự nguyện thi hành án.
Thứ hai giải pháp về tổ chức và thực hiện. Nâng cao năng lực đội ngũ Chấp
hành viên. Tạo sự phối hợp đồng bộ giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ
quan chức năng. Hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp và đẩy mạnh hơn nữa công
tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật
73
KẾT LUẬN
Đối với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, tài chính - ngân hàng được
coi là một lĩnh vực đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của tất cả các
ngành kinh tế khác. Việc đảm bảo cho hệ thống này hoạt động ổn định và bền vững
phụ thuộc nhiều vào việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh và hỗ trợ hoạt động kinh
doanh và quản trị rủi ro. Với tình hình diễn biến phức tạp của nợ xấu, việc có được cơ
chế đồng bộ hoàn thiện pháp luật về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng
thương mại có thể nâng cao hiệu quả xử lý tài sản bảo đảm là cần thiết.
Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự từ thực
tiễn thành phố Hưng Yên đã đưa ra và hệ thống được một số lý luận về tài sản bảo
đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự cách tiếp cận nghiên cứu về vấn đề
này, bằng các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học
Mác-Lê Nin, phương pháp điều tra thực tế thống kê so sánh, phân tích đánh giá về
thực tiễn và lý luận khoa học. Đã chỉ ra được Khái niệm kê biên tài sản là tính toán
và ghi chép lại theo một thứ tự nh t định tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức phải
thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành và chỉ ra được đặc điểm,
phân loại về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự; vai trò của tài sản bảo đảm
tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự thứ nhất là nhằm đảm bảo tính nghiêm
minh của pháp luật và khôi phục lại nh ng quan hệ xã hội mà pháp luật bảo. Thứ hai
là nâng cao nhận thức pháp luật của người dân, thứ ba là thước đo của quá trình xét
xử của Tòa án; Các yêu cầu về tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án
dân sự.
Hai, người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền theo bản
án, quyết định được đưa ra thi hành hoặc phải nộp phí thi hành án, thứ hai người
phải thi hành án có tài sản. Thứ hai, tài sản kê biên không có tranh chấp; cơ chế bảo
đảm tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự. Thứ ba, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực thi hành án dân sự, không có sự
phân biệt đối xử. Cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên là chủ thể đặc biệt khi
tiến hành tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự.
74
Trên nền tảng lý luận đó, tác giả vận dụng vào thực tiễn của thành phố Hưng
Yên, đánh giá thực trạng kê biên tài sản trong thi hành án từ thực tiễn địa phương
trong Chương 2 của luận văn và đã chỉ ra được thực trạng quy định pháp luật về kê
biên tài sản trong thi hành án dân sự tại thành phố Hưng Yên, thứ nhất khái quát về
sự hình thành và phát triển của pháp luật k tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong
thi hành án dân sự, thứ hai căn cứ áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản, thứ
ba, nguyên tắc áp dụng biện pháp kê biên tài sản, thứ tư trình tự thủ tục áp dụng
biện pháp kê biên tài sản; tình hình thực hiện quy định pháp luật về tài sản bảo đảm
tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự tại thành phố Hưng Yên; Nh ng ưu
điểm và hạn chế bất cập về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự tại Hưng Yên.
Tìm ra được nh ng nguyên nhân và chỉ ra những vấn đề thực trạng về tài sản bảo
đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự trên địa phương tỉnh Hưng Yên.
Trên cơ sở và thực tiễn vấn đề thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự, căn
cứ vào đặc điểm tình hình địa phương và thực tiễn thành phố Hưng Yên trong thời
gian qua, trong Chương 3 tác giả tập trung xây dựng; phương hướng hoàn thiện
pháp luật và nâng cao về tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân
sự và giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về tài sản bảo
đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự từ thực tiễn Hưng Yên, trên cơ sở
phân tích đánh giá đó để tiếp tục nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hiện pháp luật tài
sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự. Góp phần nâng cao kết
quả, hiệu quả công tác thi hành án dân sự.
75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Duy Bằng (2012) Một số vướng mắc về bán đấu giá tài sản để thi hành
án” , Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên để tháng 02/2012.
2. Bộ Chính trị (2002) Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị
về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính
trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
4. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính
trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
5. Bộ Tư pháp (2011) Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản nhằm thúc
đẩy thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Viện
Khoa học pháp lý thực hiện, Hà Nội
6. Bộ Tư pháp (2014) Tài liệu hội nghị trực tuyến sơ kết 04 năm thi hành nghị
định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài
sản, Hà Nội.
7. Bộ Tư pháp (2016) Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-
TANDTCVKSNDTC quy định một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và
phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự của Bộ Tư pháp- Tòa án nhân dân
Tối cao- Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, ban hành ngày 01/8/2016, Hà Nội.
8. Chính phủ (2010) Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/03/2010 của Chính
phủ về bán đấu giá tài sản, Hà Nội.
9. Chính phủ (2015) Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày
18/7/2015, quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật thi hành án
dân sự, ban hànhữngày18/7/2015, Hà Nội.
10. Lê Viết Cường (2016) Một số giải pháp hoàn thiện công tác bán đấu giá tại
Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản thành phố Hà Tĩnh, Luận văn Thạc sĩ
Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
76
11. Lê Thu Hà (2011) Tập bài giảng đào tạo nghề đấu giá, Học viện Tư pháp, Hà
Nội.
12. Nguyễn Thị Thu Hà (2017) Kê biên tài sản là quyền sử dụng đất để thi hành
án dân sự từ thực tiễn thành phố Quảng Ngãi, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học
viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
13. Bùi Thị Hiền (2014) Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự theo pháp
luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội
14. Bùi Thị Thu Hiền (2015) Nâng cao hiệu quả bán đấu giá tài sản trong thi
hành án dân sự, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 7/2015
15. Từ Trung Hiếu (2016) Xử lý tài sản thế chấp trong ngân hàng để thu hồi nợ
trong thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc
sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội
16. Đỗ Thị Hoa (2010) Bán đấu giá tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
17. Trần Thị Lương (2018) Đấu giá tài sản để thi hành án dân sự theo pháp luật
Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện
Khoa học xã hội.
18. Ngô Thị Mỹ Ninh ( 2017) Đấu giá quyền sử dụng đất theo pháp luật đất đai
từ thực tiễn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
19. Võ Tuấn Phi (2017) Đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự từ thực tiễn
thành phố Bình Phước, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội,
Hà Nội.
20. Nguyễn Huy Phục (2016) Xử lý tài sản bảo đảm theo pháp luật Việt Nam từ
thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa
học xã hội, Hà Nội.
21. Quốc hội (2013) Luật đất đai, Hà Nội.
22. Quốc hội (2014) Luật thi hành án dân sự,Hà Nội.
23. Quốc hội (2015) Bộ Luật dân sự, Hà Nội.
24. Quốc hội (2016) Luật đấu giá tài sản, Hà Nội
77
25. Nguyễn Hồng Sinh (2011) Những khó khăn vướng mắc trong công tác kiểm
soát việc bán đấu giá tài sản để thi hành án, Tạp chí Kiểm sát số 23 tháng
12/2011.
26. Nguyễn Quang Thái và Đào Thị Thúy Lan (2012) “Bán đấu giá tài sản trong
thi hành án dân sự vẫn còn là điểm nghẽn”, < http:// tcdcpl.moj.gov.vn >, (
16/8/2018)
27. Hoàng Thị Thu Trang (2017) Xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để
thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Bắc Giang, Luận văn Thạc sĩ Luật
học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
28. Vũ Thị Phương Tú (2017) Kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự
theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn quận Đống Đa, thành phố Hà
Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
29. Kim Hoàng Tùng (2016) Đấu giá tài sản theo pháp luật thi hành án dân sự từ
thực tiễn thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã
hội, Hà Nội.
30. Trịnh Thanh Tùng (2017) Bán đấu giá tài sản trong thi hành án các bản án về
giải quyết tranh chấp về hoạt động tín dụng ngân hàng trên địa bàn thành
phốHưng Yên, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
78