VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN GIA PHONG

KÊ BIÊN TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG

ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ

THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HƯNG YÊN TỈNH HƯNG YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội - 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN GIA PHONG

KÊ BIÊN TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG

ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ

THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HƯNG YÊN TỈNH HƯNG YÊN

Ngành:Luật Kinh tế

Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. TRẦN ĐÌNH HẢO

Hà Nội - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các số liệu đã sử dụng trong luận văn là trung thực.

Những kết luận nêu trong luận văn chưa có công bố ở bất

kỳ công trình khoa học nào.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN

BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH

ÁN DÂN SỰ ............................................................................................................... 6

1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của kê biên tài sản bảo đảm tiền vay

ngân hàng ......................................................................................................... 6

1.2. Cơ sở và phân loại kê biên kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng ...... 21

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng ....... 28

Chương 2; QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN KÊ BIÊN

TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT THI

HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI THÀNH PHỐ HƯNG YÊN TỈNH HƯNG YÊN...... 31

2.1. Quy định của pháp luật về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân

hàng theo pháp luật thi hành án dân sự .......................................................... 31

2.2. Thực tiễn kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng theo pháp luật

thi hành án dân sự tại thành phố Hưng Yên tỉnh Hưng Yên .......................... 41

Chương 3; ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

PHÁP LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN KÊ BIÊN TÀI SẢN

BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG TẠI THÀNH PHỐ HƯNG YÊN

TỈNH HƯNG YÊN .................................................................................................. 56

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện kê

biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng tại thành phố Hưng Yên tỉnh

Hưng Yên ....................................................................................................... 56

3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả kê biên tài

sản bảo đảm tiền vay ngân hàng .................................................................... 60

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 76

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS Bộ luật tố tụng dân sự

THADS Thi hành án dân sự

CHV Chấp hành viên

THA Thi hành án

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong thi hành án dân sự (THADS) thì cưỡng chế thi hành án là một trong

những biện pháp mà Chấp hành viên lựa chọn để đảm bảo thi hành các Bản án, Quyết

định của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh được chấp

hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp

của Nhà nước, tổ chức và công dân, bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong quá trình xây

dựng và hoàn thiện Nhà nướcpháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước khi được chấp hành

nghiêm chỉnh có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật. Vì

vậy, hoạt động thi hành án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giữ vững

kỷ cương phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đảm

bảo cho quyền lực tư pháp được thực thi trên thực tế, tại Điều 106, Hiếp pháp năm

2013 khẳng định: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lựcpháp luật

phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan

phải nghiêm chỉnh chấp hành.”

Thi hành án dân sự là một hoạt động đã, đang và sẽ là “vấn đề nóng” của xã

hội, do đó đòi hỏi các ngành, các cơ quan chức năng phải có sự chỉ đạo sâu sát, kịp

thời để tìm ra giải pháp đúng đắn cho lĩnh vực còn gặp nhiều trắc trở này. Tầm quan

trọng của hoạt động thi hành án còn được thể hiện trong Nghị quyết số 49-NQ/TW

ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 như

sau: “xây dựng cơ chế đảm bảo mọi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải

được thi hành, các cơ quan hành chính vi phạm bị xử lý theo phán quyết của Tòa án

phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Trong các biện pháp cưỡng chế mà Luật thi hành án

dân sự 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì biện pháp kê biên tài sản là phức

tạp và thường gặp khó khăn nhất khi áp dụng. Việc ban hành Luật thi hành án dân

sự - Một văn bản chuyên ngành có giá trị pháp lý cao với cơ chế mới và chặt chẽ

cho thấy công tác thi hành án dân sự đã dần đi vào lề lối.

Thể hiện tính răn đe và nghiêm minh của pháp luật. Tuy nhiên bên cạnh các

kết quả đạt được vấn đề áp dụng biện pháp kê biên tài sản từ thực tiễn thành phố

Hưng Yên vẫn còn những khó khăn vướng mắc, bất cập nhất định, như nhiều bản

án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng chậm tổ chức thi hành; việc áp dụng

1

biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản còn tồn tại..., các nguyên nhân chủ quan và

khách quan liên quan đến vấn đề này có thể xuất phát từ những bất cập của pháp

luật về kê biên tài sản. Hay công tác phối hợp kê biên tài sản còn chưa được chính

quyền địa phương chú trọng; điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ,

công chức ngành thi hành án dân sự chưa được quan tâm tốt.

Trong quá trình THADS, các bên đương sự có quyền tự định đoạt, thoả

thuận với nhau nhằm thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự theo Bản án, Quyết định

của Tòa án nhưng khi người phải thi hành án đã được giải thích, thuyết phục, mặc

dù có điều kiện thi hành án mà tìm mọi cách trì hoãn, trốn tránh nghĩa vụ, không tự

nguyện thi hành thì buộc cơ quan thi hành án phải tổ chức cưỡng chế để thi hành án.

Kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế kê biên phức tạp đòi hỏi Chấp hành viên

phụ trách hồ sơ thi hành án phải có kỹ năng toàn diện mới có thể thực hiện được

công việc này. Mặt khác việc áp dụng biện pháp cưỡng chế cần phải có sự phối hợp

của các ngành, các cấp, nếu thiếu một thành phần theo quy định thì buổi cưỡng chế

kê biên đó phải dừng hoặc hoãn, gây tổn thất lớn về công sức, kinh tế và tài sản cho

các bên đương sự, tổ chức và Nhà nước.

Chính vì những lập luận trên, học viên quyết định chọn vấn đề: Kê biên tài

sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt

Nam từ thự tiễn thành phố Hưng Yên, làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Các biện pháp cưỡng chế THADS trong đó có biện pháp kê biên tài sản, nội

dung của luận văn có liên quan đến nhiều công trình nghiên cứu, nhưng cần quan

tâm chú trọng đến các công trình bài viết sau:

“Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự” của tác giả Phan Huy Hiếu

năm 2011. “Cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án” của tác

giả Lê Anh Tuấn trong Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề THADS năm

2010; “Về kê kiên, xử lý tài sản” của TS Nguyễn Thanh Thủy và Th.S Lê Thị Kim

Dung trong cuốn “Xử lý tình huống trong thi hành án dân sự và các văn bản pháp

luật về thi hành dân sự”, nhà xuất bản Tư pháp năm 2010; “Vấn đề cưỡng chế đối

với người thứ ba” của tác giả Bùi Văn Yên và “Cần xử lý triệt để hành vi chiếm lại

đất sau cưỡng chế thi hành án” của tác giả Trần Hoàng Đoán trong số chuyên đề về

THADS của Tạp chí Dân chủ và pháp luật tháng 5 năm 2012.

2

- Luận văn Tiến sỹ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ

Chí Minh. “Hoàn thiện pháp luật THADS ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn

Thanh Thủy.

- Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ

Chí Minh, “Thực hiện pháp luật về THADS ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu” tác giả Lại

Anh Thắng.

- Luận văn thạc sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, “Đổi mới thủ tục

thi hành án dân sự Việt Nam” tác giả Lê Anh Tuấn năm 2014.

- Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, “Áp dụng biện pháp

cưỡng chế kê biên tài sản nhằm thi hành các bản án, quyết định của tòa án qua

thực tiễn thực hiện tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu” của tác giả Châu Vũ.

Tuy nhiên, hiện nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách hệ thống

và toàn diện các vấn đề về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay theo pháp luật thi hành

án dân sự. Luận văn là một trong những công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ

thống các vấn đề liên quan về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay theo pháp luật thi hành

án dân sự hiện hành của Việt Nam đặc biệt với thực tiễn áp dụng tại một địa phương là

thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của đề tài làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn cho việc đưa ra

các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kê biên tài sản bảo đảm tiền vay

ngân hàng trong thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Hưng Yên tỉnh Hưng yên

trong giai đoạn hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Xuất phát từ mục đích nghiên cứu trên, đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu sau:

- Làm rõ những cơ sở lý luận về thi hành án và kê biên tài sản bảo đảm tiền

vay ngân hàng trong thi hành án dân sự.

- Phân tích về pháp luật kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi

hành án dân sự, thực tiễn thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hưng Yên tỉnh

Hưng Yên và tìm ra nguyên nhân của thực trạng đó.

- Đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kê biên tài sản bảo đảm

tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự.

3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Trong khuân khổ luận văn thạc sĩ luật học, tôi tập trung nguyên cứu cơ sở lý

luận và thực tiễn về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án

dân sự, từ đó rút ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự nhằm

nâng cao hiệu quả về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án

dân sự tại thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về kê biên tài

sản bảo đảm tiền vay ngân hàng như khái niệm, đặc điểm kê biên tài sản bảo đảm

tiền vay ngân hàng, vai trò của kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng; các quy

định của Luật THADS về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng và thực tiễn

thực hiện biện pháp này trong những năm gần đây trên địa bàn thành phố Hưng

Yên, tỉnh Hưng Yên.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của

chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng và Nhà

nước ta hiện nay về kê biên tài sản theo pháp luật thi hành án dân sự.

Để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu, trong chương 1 luận văn, tác giả sử

dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử cùng

các phương pháp khoa học cụ thể như phương pháp phân tích, phương pháp so

sánh, phương pháp tổng hợp và phương pháp logic.

Trong chương 2 và chương 3, luận văn nghiên cứu chủ yếu bằng phương

pháp sau:

- Phương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng xuyên suốt để nêu, phân

tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong luận văn.

- Phương pháp so sánh, thống kê được sử dụng để cung cấp các số liệu cần

thiết, đối chiếu, so sánh, làm rõ thực trạng thực hiện cưỡng chế kê biên tài sản, tìm

hiểu các giải pháp hoàn thiện pháp luật.

4

- Phương pháp khảo sát thực tế được sử dụng để góp phần tổng kết thực tiễn

sâu sắc về cưỡng chế kê biên tài sản.

- Phương pháp kết hợp nghiên cứu lý luận với thực tiễn cũng được sử dụng

trong tiến trình thực hiện luận văn để đưa ra những bình luận, quan điểm, kết luận

về những nội dung nghiên cứu...

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn đặt ra và luận giải một số quan điểm cơ bản về khái niệm kê biên

tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự, tìm hiểu đặc điểm, bản

chất của kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự, góp

phần bổ sung làm phong phú thêm cho hoạt động nghiên cứu khoa học về pháp luật

thi hành án dân sự.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Từ việc đánh giá thực trạng pháp luật kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân

hàng trong thi hành án dân sự, tác giả đã đưa ra được những bất cập cần sửa đổi, bổ

sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật thi hành án dân sự.

Từ việc đánh giá thực tiễn kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong

thi hành án dân sự, tác giả đã phân tích những nguyên nhân và đưa ra những giải

pháp nhằm nâng cao hiệu quả kê biên tài sản trong thi hành án dân sự tại thành phố

Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

luận văn gồm 3 chương chính sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay

ngân hàng theo pháp luật thi hành án dân sự.

Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn kê biên tài sản bảo đảm tiền vay

ngân hàng theo pháp luật thi hành án dân sự tại thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.

Chương 3: Định hướng và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao

hiệu quả thực hiện kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng tại thành phố Hưng

Yên tỉnh Hưng Yên.

5

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN

BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT

THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của kê biên tài sản bảo đảm tiền vay

ngân hàng

1.1.1. Khái niệm tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng

Quan hệ tín dụng phát sinh trên cơ sở hợp đồng tín dụng giữa TCTD và

khách hàng vay. Thông thường, để được vay vốn tại các TCTD, khách hàng phải có

tài sản hoặc có người bảo lãnh để đảm bảo, dự phòng cho việc thực hiện nghĩa vụ

trả nợ, và người bảo lãnh cũng phải có tài sản để cho nghĩa vụ bảo lãnh, tài sản đó

được hiểu là tài sản bảo đảm.

Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 thì “tài sản là vật, tiền,

giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Theo quy định tại điều 174 BLDS 2015 thì tài sản

được quy định bổ sung thêm là bất động sản và động sản. Để nhận diện được tài sản

thì cần chỉ ra các đặc điểm pháp lý của chúng, theo đó tài sản có các đặc điểm pháp

lý cơ bản như sau: (i) Tài sản phải trị giá được bằng tiền; (ii) Tài sản là những đối

tượng mà con người có thể kiểm soát được. Nếu là vật hữu hình thì con người phải

nắm giữ hoặc chiếm giữ được; nếu là vật vô hình thì phải có cách thức để quản lý.

Theo Từ điển Luật học, tài sản bảo đảm là “tài sản được bên bảo đảm dùng

để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo đảm thông qua các biện pháp

bảo đảm như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, kí cược, kí quỹ, đặt cọc …”

Điều 295 Bộ luật dân sự năm 2015 đã đề cập đến khái niệm tài sản bảo đảm,

theo đó tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp

cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu. Cụ thể hóa quy định này, Khoản 7 Điều 3

Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm do Chính phủ ban hành ngày

29/12/2006 và Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22 tháng 02 năm 2012 của

Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29

tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, có hiệu lực kể từ ngày 10

6

tháng 4 năm 2012 đã quy định “Tài sản bảo đảm là tài sản mà bên bảo đảm dùng

để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm.” Tài sản bảo đảm

là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai mà pháp luật không cấm

giao dịch. Như vậy có thể thấy phạm vi tài sản có thể đem bảo đảm được mở rộng,

không chỉ là những tài sản phải thuộc sở hữu của bên bảo đảm rồi mà còn bao gồm cả

những tài sản hình thành trong tương lai, hoa lợi thu được từ cây trồng, hoặc các khoản

có thể thu khác.… chính là những tài sản mà tại thời điểm giao dịch bảo đảm được xác

lập, thì những tài sản này chưa hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm.

Tài sản bảo đảm tiền vay có những nét đặc trưng cơ bản. Thực chất của bảo

đảm tiền vay là sử dụng những giá trị của tài sản làm bảo đảm để trả nợ thay cho

các khoản vay không có khả năng trả nợ ngân hàng. Vậy, tài sản bảo đảm tiền vay

phải có giá trị, bản thân nó phải trở thành hàng hoá, có nghĩa là khi chuyển giao

quyền sở hữu thì đồng thời cũng phải đạt được sự chuyển đổi từ hiện vật thành giá

trị để trả nợ ngân hàng. Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với các khoản cho vay có

tài sản làm bảo đảm nợ vay là tài sản đó phải là hàng hóa, có giá trị lớn hơn giá trị

khoản vay, có thị trường tiêu thụ cho hàng hoá đó để thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Hay

nói cách khác, để ngân hàng chấp thuận một loại bảo đảm tín dụng nào đó, nó phải

thoả mãn các điều kiện sau: Phải dễ dàng xác định; Phải có giá trị và tuổi thọ tương

đối dài; Ngân hàng phải có khả năng định giá phù hợp với giá trị của tài sản; Phải

dễ bán; Phải có một thị trường hiện tại của nó.

Việc xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự trước hết là dựa vào sự tự giác

của các bên nhưng trong thực tế không phải bất cứ ai khi tham gia giao dịch đều có

thiện chí trong việc thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ của mình. Để nghĩa vụ

cam kết được đảm bảo thực hiện và bên có quyền trong quan hệ đó có được thế chủ

động trong viêc được hưởng quyền đó, pháp luật cho phép các bên có thể thỏa thuận

đặt ra các biện pháp bảo đảm việc giao kết hợp đồng cũng như việc thực hiện các

nghĩa vụ dân sự. Trong các biện pháp bảo đảm tiền vay thì biện pháp bảo đảm tiền

vay bằng tài sản là biện pháp có tính phổ biến nhất bởi khi bảo đảm bằng tài sản bên

cho vay sẽ có được độ an toàn cao hơn, tránh được rủi ro bị thất thoát khoản vay.

7

Thứ nhất: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp

Theo điều 317 Bộ luật dân sự 2015 thì “thế chấp tài sản là việc một bên (sau

đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện

nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp)". Như

vậy, thế chấp tài sản là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ do

hai bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định.

Thế chấp tài sản là hình thức theo đó bên đi vay phải chuyển các giấy tờ

chứng nhận quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng các tài sản bảo đảm cho bên cho vay

nắm giữ trong thời gian thỏa thuận để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ đối với bên cho

vay. Tuy nhiên không phải tất cả các loại tài sản đều có thể đem đi thế chấp mà nó

phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định, tùy thuộc vào quy định của pháp luật. Tài

sản là động sản, bất động sản, quyền sử dụng đất có thể thế chấp để bảo đảm tiền

vay theo quy định tại Điều 318 Bộ luật dân sự năm 2015.

Thứ hai: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố

Theo điều 309 Bộ luật dân sự 2015 quy định “Cầm cố tài sản là việcầmột

bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên

kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”. Như vậy, bản

chất của cầm cố là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Theo đó bên

có nghĩa vụ giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên có quyền để đảm bảo

thực hiện nghĩa vụ; nếu tài sản cầm cố có đăng ký quyền sở hữu thì các bên có thể

thỏa thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản hoặc giao cho bên thứ ba giữ.

Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, cầm cố tài sản được hiểu là việc khách

hàng (bên vay vốn) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình giao cho tổ chức tín dụng

(bên cho vay) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ.

Thứ ba: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản của người thứ ba

Bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba là biện pháp bảo đảm trong đó bên thứ

ba sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình thế chấp hoặc cầm cố cho Ngân hàng để

bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bên vay.

Bản chất của bảo đảm bằng tài sản của người thứ ba cũng chính là biện pháp

bằng thế chấp hoặc cầm cố tài sản nhưng chủ thể đưa tài sản vào thế chấp hoặc cầm

cố không phải là bên vay vốn mà là người khác.

8

Thứ tư: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành trong tương lai

Thế chấp tài sản hình thành trong tương lai là một biện pháp bảo đảm phổ

biến áp dụng trong hoạt động kinh doanh dự án bất động sản, theo đó tài sản hình

thành trong tương lại được thế chấp cho Ngân hàng để vay vốn thực hiện dự án. Do

đó, pháp luật quy định quyền huy động vốn của chủ đầu tư phải đáp ứng một số quy

định tại Điều 147 Luật nhà ở 2014, theo đó Tổ chức, cá nhân xây dựng nhà ở hình

thành trong tương lai trên thửa đất ở hợp pháp của mình; tổ chức, cá nhân mua nhà

ở hình thành trong tương lai trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở của chủ đầu tư được

thế chấp nhà ở này tại tổ chức tín dụng đang hoạt động tại Việt Nam để vay vốn

phục vụ cho xây dựng nhà ở hoặc để mua chính nhà ở đó.

Việc thế chấp dự án đầu tư xây dựng nhà ở và thế chấp nhà ở hình thành

trong tương lai chỉ được thực hiện theo quy định tại Luật này; các trường hợp thế

chấp tài sản là dự án đầu tư xây dựng nhà ở hoặcầnhà ở hình thành trong tương lai

không đúng với quy định tại Luật này thì không có giá trị pháp lý. Tài sản hình

thành trong tương lai có thể hiểu là loại tài sản tồn tại hoặc chưa tồn tại ở tại thời

điểm giao dịch. Tuy nhiên, nó được đảm bảo thuộc quyền sở hữu của cá nhân hoặc

tổ chứcầnhất định trong giao dịch về tài sản đó. Có nghĩa là tài sản hình thành trong

tương lai gồm cả tài sản chưa hình thành hoặc đã hình thành nhưng việc chuyển

giao quyền sở hữu cho bên bảo đảm chưa được hoàn thành.

1.1.2. Khái niệm kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng

Trong lịch sử hình thành, phát triển của loài người đã trải qua các giai đoạn

phát triển khác nhau. Giai đoạn chưa có Nhà nước đó là thời kỳ Công xã nguyên

thủy Con người sống từng bầy đàn, xã hội chưa phân chia thành giai cấp, việc quản

lý xã hội bằng uy tín, tự giác trong xã hội. Các quan hệ xã hội được giải quyết bằng

cách noi gương, giải thích, thuyết phục các thành viên trong xã hội tự nguyện thực

hiện, việc cưỡng chế trong giai đoạn này không đặt ra. Đến giai đoạn xuất hiện Nhà

nước (Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư bản và Nhà nước xã

hội chủ nghĩa) đồng thời xuất hiện các giai cấp trong xã hội, các quan hệ xã hội

ngày càng nhiều, các mâu thuẫn, tranh chấp trong xã hội gia tăng. Giai cấp thống trị

xây dựng nên Bộ máy nhà nước, trước tiên để bảo vệ cho lợi ích của gia cấp mình,

9

đồng thời để quản lý xã hội đi theo một mục tiêu nhất định. Đến giai đoạn này nhiều

quan hệ xã hội không thể giải quyết bằng biện pháp giáo dục, thuyết phụcầmà phải

giải quyết bằng biện pháp cưỡng chế của Nhà nước để duy trì trật tự xã hội nhằm

thúc đẩy xã hội phát triển.

Như vậy Nhà nước xuất hiện thì cưỡng chế cũng xuất hiện để Nhà nước sử

dụng biện pháp cưỡng chế nhằm quản lý, điều hành đất nước và bảo vệ Nhà nước

đó. Theo từ điển Chữ nôm Tập 1 thì cưỡng là thúc ép, buộc tuân theo ý trí mình;

chế là kìm giữ, nén lại, tạo ra. Vậy cưỡng chế là một từ được ghép bởi hai từ cưỡng

và từ chế để tạo thành từ cưỡng chế. Theo từ điển Tiếng việt của Viện ngôn ngữ học

do Nhà xuất giáo dục xuất bản năm 1994 viết: " Cưỡng chế là dùng quyền lựcầnhà

nước bắt phải tuân theo". Nhưng Theo cuốn từ điển Tiếng việt, Viện Ngôn ngữ học,

Nhà xuất bản Từ điển bách khoa năm 2012 làm rõ hơn khái niệm cưỡng chế là thêm

hai từ pháp luật: "Cưỡng chế là dùng quyền lực nhà nước bắt phải tuân theo pháp

luật". Trong tiếng Anh cưỡng chế là Coerce, có nghĩa là buộc ai phải làm cái gì.

Tựu chung lại cưỡng chế được hiểu là Nhà nước dùng quyền lực của mình

buộc cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện một hành vi hoặc nghĩa vụ nhất định,

theo quy định của pháp luật hoặc là quyền lực xã hội buộcầmọi người phải tuân

theo luật, lệ... đã đặt ra.

Cưỡng chế gằn liền với hoạt động quản lý nhà nước và là một trong những

phương pháp chủ yếu trong hoạt động quản lý nhà nước. Trong nhà nước pháp

quyền, việc cưỡng chế nhằm mục đích thi hành pháp luật của nhà nước, duy trì trật

tự xã hội. Nhà nước thực hiện cưỡng chế thông qua nhiều biện pháp cưỡng chế,

những biện pháp cưỡng chế này được nhà nước trao quyền cho các cơ quan nhà

nước khác nhau thực hiện như: cưỡng chế hành chính, cưỡng chế trong hoạt động tố

tụng của cơ quan điều tra và cơ quan tòa án và cưỡng chế thi hành án.

Trong hoạt động quản lý hành chính và xử lý vi phạm hành chính, cưỡng chế

hành chính đượcầuBND và các cơ quan hành chính thực hiện như: cưỡng chế hành

chính đối với những đối tượng chống đối không di dời tài sản để giải phóng mặt

bằng phục vụ cho quốc phòng hoặc các cá nhân, cơ quan, tổ chức vi phạm hành

chính thì các cơ quan có thẩm quyền được áp dụng các biện pháp cưỡng chế được

10

quy định tại Khoản 2 Điều 86 Luật xử lý vi phạm hành chính như kê biên tài sản,

khấu trừ tài khoản của cá nhân, tổ chức… Các biện pháp cưỡng chế của cơ quan

điều tra được trao quyền cho thủ trưởng cơ quan điều tra thực hiện được quy định

tại Điều 128 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về biện pháp kê biên tài sản

áp dụng đối với bị can, bị cáo... Trong hoạt động tố tụng cơ quan tòa án cũng được

nhà nước trao quyền được áp dụng các biện pháp cưỡng chế được quy định tại Điều

111 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về các biện pháp khẩn cấp tạm thời như: kê

biên tài sản tranh chấp, phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác....

Ngoài ra cơ quan THADS cũng được nhà nước trao quyền được áp dụng các biện

pháp cưỡng chế trong THADS được quy định tại Điều 71 Luật THADS trong đó có

biện pháp kê biên, xử lý tài sản ….

Theo Giáo trình kỹ năng về thi hành án dân sự của Học viện Tư pháp viết

cưỡng chế THADS là biện pháp cưỡng bức bắt buộc của cơ quan THADS, do Chấp

hành viên quyết định theo thẩm quyền nhằm buộc người phải thi hành án phải thực

hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định. Cưỡng chế thi

hành án được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án

mà không tự nguyện thi hành án, hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi

hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc chốn tránh viện thi hành án.

Theo Tài liệu bồi dưỡng Chấp hành viên trung cấp định nghĩa cưỡng chế

THADS là biện pháp sử dụng quyền lựcầnhà nước để buộc người phải thi hành án

phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định của

tòa án. Biện pháp cưỡng chế do Chấp hành viên quyết định trong trường hợp người

phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án.

Qua hai định nghĩa trên chúng ta thấy cưỡng chế THADS đều có những đặc

điểm chung đó là chủ thể thực hiện phải là Chấp hành viên là người trực tiếp ra

quyết định cưỡng chế; người phải thi hành án phải có điều kiện thi hành án; người

phải thi hành án không tự nguyện thi hành án.

Qua đó biện pháp cưỡng chế là phương thức, cách thức dùng quyền lựcầnhà

nước buộc các cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ theo quy định của

11

pháp luật, do người có thẩm quyền áp dụng trong các trường hợp cần thiết nhằm

bảo vệ lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức và xã hội bị xâm hại.

Biện pháp cưỡng chế THADS cũng là một trong những biện pháp cưỡng chế

của Nhà nước trao quyền áp dụng trong trường hợp khi bản án, quyết định của tòa

án đã có hiệu lực pháp luật mà các đương sự không chấp hành bản án, quyết định

của Tòa án và chỉ do Chấp hành viện thực hiện. Do đó Biện pháp cưỡng chế

THADS được hiểu là biện pháp cưỡng chế THADS dùng quyền lực của Nhà nước

buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ thi hành án dân sự của họ, do Chấp

hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án

mà không tự nguyện thi hành án.

Công tác THADS chỉ là một bộ phận của thi hành án nói chung. Ở nước ta

hiện nay được phân ra làm hai bộ phận, thi hành án hình sự và THADS. Thi hành án

hình sự được Chính phủ giao cho Bộ công an quản lý, công tác THADS được Chính

phủ giao cho Bộ Tư pháp quản lý. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án

hình sự hà khắc hơn biện pháp cưỡng chế THADS. Sự khác biệt giữa thi hành án

hình sự và THADS được thể hiện ở căn cứ và tính chất của cưỡng chế thi hành án.

Nếu như căn cứ cưỡng chế thi hành án hình sự là phần hình phạt được tuyên trong

quyết định của bản án hình sự đó là hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân và hình

phạt tử hình. Ngược lại cưỡng chế THADS căn cứ cưỡng chế chủ yếu là các bản án,

quyết định dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế và lao động liên quan đến nghĩa vụ tài

sản hoặc những hành vi. Về tính chất cưỡng chế hình sự có hiệu lực thi hành án

ngay sau khi bản án hình sự có hiệu lực pháp luật, tòa án có thẩm quyền ra quyết

định thi hành án hình sự đối với người phải thi hành án, họ không có thời gian tự

nguyện thi hành án. Ngay sau có quyết định thi hành án, người phải thi hành án

hình sự phải chấp hành ngay tức khắc, nếu không cơ quan công an tiến hành cưỡng

chế bằng việc bắt hoặc dẫn giải người phải thi hành án đến các trại giam để thi hành

án. Nhưng đối với việc cưỡng chế THADS chỉ đặt ra khi đương sự có đơn yêu cầu

thi hành án, cơ quan THADS ra quyết định thi hành án, giao cho Chấp hành viên

thực hiện, Chấp hành viên định cho người phải thi hành án một thời hạn không quá

10 ngày, hết thời hạn trên người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án, mặc

12

dù có điều kiện thi hành án thì lúc này Chấp hành viên mới có quyền áp dụng biện

pháp cưỡng chế thi hành án đối với người phải thi hành án. Tuy nhiên trong trường

hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản hoặc

trốn tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên có quyền áp dụng ngay các biện pháp

cưỡng chế thi hành án mà không cần áp dụng thời gian tự nguyện thi hành án.

Kê biên là một động từ ghép bởi hai từ kê và biên. Theo từ điển Tiếng việt

của Viện ngôn ngữ học do Nhà xuất giáo dục xuất bản năm 1994 viết: “Kê là viết ra

theo thứ tự từng tên, từng nhóm để ghi nhớ hoặc thông báo” “Biên viết lên trang

giấy”... Hiện nay, kê biên được hiểu là tạm thời cấm vận chuyển, chuyển đổi, định

đoạt hoặc chuyển dịch tài sản của người vi phạm pháp luật. Điều này có nghĩa khi

kê biên một tài sản của một người nào đó thì quyền sở hữu tài sản của họ bị hạn

chế, họ không được chuyển đổi, chuyển dịch, định đoạt... tài sản bị kê biên đó. Mặt

khác tài sản bị kê biên phải là của người vi phạm pháp luật, nếu một người không vi

phạm pháp luật thì sẽ không bị kê biên.

Theo cuốn Từ điển luật học kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế nhằm

bảo đảm việc thi hành án hình sự, chỉ áp dụng với bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật

hình sự quy định. Với nội dung định nghĩa này khái niệm kê biên chỉ ở nghĩa hẹp

trong lĩnh vực điều tra hình sự. Trên thực tế trong hoạt động quản lý Nhà nước có

một số cơ quan Nhà nước được nhà nước được trao quyền thực hiện việc kê biên

tài sản đó là cơ quan điều tra của Công an, tòa án nhân dân các cấp, cơ quan quản lý

hành chính và cơ quan THADS thì khái niệm đó chưa đầy đủ.

Tuy nhiên trong lĩnh vực THADS thì không hoàn toàn đúng theo nghĩa trên

theo khoản 3 Điều 71 Luật THADS năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì

kê biên được hiểu là một trong số các biện pháp cưỡng chế THADS, khi Chấp hành

viên áp dụng biện pháp kê biên tài sản của người phải thi hành án trong trường hợp

người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án. Ở đây yếu tố không tự nguyện

thi hành án không đồng nghĩa với việc, người phải thi hành án vi phạm pháp luật thi

hành án, bởi vì nhiều trường hợp người phải thi hành án rất muốn bán được tài sản

để trả nợ nhưng không thể bán được vì yếu tố khách quan.

13

Vậy, kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế do các cơ quan nhà nước có

thẩm quyền thực hiện nhằm bảo đảm cho việc thực hiện một nghĩa vụ tài sản, đối

với các cá nhân, cơ quan, tổ chức xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi

ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Trong hoạt động THADS kê biên được hiểu là một trong những biện pháp

cưỡng chế THADS. Công tác THADS nói riêng và công tác thi hành án nói chung

là một trong những hoạt động quan trọng nhằm khôi phục và bảo vệ các quan hệ xã

hội bị xâm hại. THADS là hoạt động thi hành bản án, quyết định dân sự, hình phạt

tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản,

án phí, tiền phạt và quyết định dân sự trong bản án hình sự, phần tài sản trong bản

án, quyết định hành chính và toà án, quyết định của tòa án giải quyết pháp sản,

quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý các vụ việc cạnh tranh có

liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án và phán quyết, quyết định của trọng

tài thương mại (sau đây gọi chung là bản án, quyết định của tòa án). Việc cưỡng chế

chỉ đặt ra khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án và đã hết thời gian tự

nguyện thi hành án thì Chấp hành viên mới áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi

hành án để buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ của mình.

Khái niệm kê biên luôn đi cùng với khái niệm các biện pháp cưỡng chế. Kê

biên tài sản tài sản là một biện pháp cưỡng chế hữu hiện để Nhà nước thực hiện

quyền lực nhà nước của mình. Cũng giống như cưỡng chế, kê biên tài sản Nhà nước

cũng trao cho các cơ quan khác nhau thực hiện như: Thủ trưởng cơ quan điều tra công

an, Thẩm phán tòa án nhân các cấp… trong đó có Chấp hành viên cơ quan THADS. Sự

khác biệt này được thể hiện ở những khía cạnh chính là chủ thể áp dụng kê biên và mục

đích kê biên. Ví dụ chủ thể thực hiện kê biên trong giai đoạn xét xử là thẩm phán giải

quyết vụ việc, chủ thể thực hiện kê biên trong giai đoạn thi hành án là do Chấp hành

viên. Về mục đích kê biên của các cơ quan điều tra và cơ quan tòa án nhằm bảo đảm

việc thi hành án, tránh việc tẩu tán, hủy hoại tài sản của bị can, bị cáo, đương sự.

Nhưng mục đích áp dụng biện pháp kê biên của các cơ quan hành chính và cơ quan

THADS là ngoài mục đích như trên còn mục đích xử lý tài sản thanh toán trả tiền cho

khoản tiền phạt, khoản thu cho ngân sách nhà nước và chủ nợ.

14

1.1.3. Đặc điểm của kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng

Cũng như kê biên tài sản nói chung, kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân

hàng phải đáp ứng đủ các điều kiện như: Theo bản án, quyết định của tòa án, người

phải thi hành án phải có nghĩa vụ trả tiền cho người phải thi hành án; người phải thi

hành án phải có tài sản để thi hànhữnghĩa vụ trả tiền cho người được thi hành án.

Tài sản bị kê biên có thể là tài sản thuộc sử hữu chung, sở hữu riêng của người phải

thi hành án, tài sản này có thể do người phải thi hành án hoặc do người thứ ba quản

lý, sử dụng; đã hết thời gian tự nguyện do Chấp hành viên ấn định nhưng người

phải thi hành án không tự nguyện thi hành án hoặc chưa hết thời gian tự nguyện,

nhưng cần phải ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản.

Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự theo

pháp luật Việt Nam có một số đặc điểm như sau:

* Mang tính quyền lực của Nhà nước, chủ thể áp dụng biện pháp kê biên là

cá nhân, cơ quan được nhà nước trao quyền thực hiện quyền lực của Nhà nước.

Ở bất cứ một Nhà nước nào trên thế giới đều có Bộ máy Nhà nước được

phân chia thành ba phân nhánh quyền lực, quyền lập pháp, quyền hành pháp và

quyền tư pháp. Để thực hiện quyền lực nhà nước, các cơ quan Nhà nước được lập ra

để thực hiện quyền lực nhà nước. Hệ thống cơ quan THADS được Thủ tướng Chính

phủ thành lập theo ngành dọc từ Trung ương xuống địa phương bao gồm: Tổng cục

THADS thuộc Bộ Tư Pháp, cấp thành phố có Cục THADS tỉnh, cấp huyện có Chi

cục THADS huyện. Ngoài ra còn có cơ quan THADS trong Quân đội đó là Cục thi

hành án thuộc Bộ quốc phòng, Phòng thi hành án thuộc Quân khu. Hệ thống cơ

quan THADS này thuộc phân nhánh các cơ quan hành pháp thực hiện quyền hành

pháp. Nhà nước trao cho Hệ thống cơ quan THADS thi hành về phần dân sự của

bản án, quyết định của Tòa án. Hệ thống cơ quan thi hành án này hoạt động thông

qua đội ngũ các bộ, công chức và người lao động. Tuy nhiên không phải ai cũng

được nhà nước trao quyền thực hiện việc kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân

hàng nói riêng và thực hiện các biện pháp cưỡng chế THADS nói chung, Nhà nước

chỉ trao cho người có chức danh, trong đó có chức danh Chấp hành viên.

15

Chấp hành viên là người được nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án,

quyết định theo quy định (Điều 17 Luật THADS năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm

2014). Nội dung của Điều này chỉ ra rằng chỉ có Chấp hành viên mới được áp dụng

các biện pháp cưỡng chế được quy định tại Điều 71 Luật THADS năm 2008 sửa

đổi, bổ sung năm 2014 trong đó có việc áp dụng biện pháp kê biên tài sản bảo đảm

tiền vay ngân hàng. Chấp hành viên là một chức danh tư pháp được Bộ trưởng Bộ

tư pháp bổ nhiệm. Điều kiện để được bổ nhiệm Chấp hành viên, phải là Công dân

Việt Nam trung thành với Tổ quốc, trung thực, liêm khiết, có phẩm chất đạo đức

tốt, có trình độ cử nhân luật trở lên, có sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ được giao,

có thời gian làm công tác pháp luật từ 03 năm trở lên, đã được đào tạo nghiệp vụ

THADS, trúng tuyển kỳ thi tuyển thì có thể được bổ nhiệm làm Chấp hành viên

Điều 18 Luật THADS năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014. Chấp hành viên được

phân thành Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên

cao cấp, sự phân cấp Chấp hành viên này cho phù hợp với từng trình độ của mỗi

ngạch Chấp hành viên để thủ trưởng cơ quan thi hành án giao việc cho phù hợp với

từng Chấp hành viên trong đơn vị.

* Khi bị kê biên tài sản bảo đảm tiền vay của người sử dụng đất bị đặt vào

tình trạng bị hạn chế giao dịch

Biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng mục đích

trước tiên là hạn chế một số quyền sử dụng đất của người phải thi hành án, mà Nhà

nước giao cho. Khi Chấp hành viên ban hành quyết định cưỡng chế kê biên tài sản

bảo đảm tiền vay ngân hàng, thì kể từ thời điểm này người phải thi hành án không

được tự mình chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, tặng cho, góp vốn và

thừa kế tài sản bảo đảm tiền vay, nếu người phải thi hành muốn thực hiện các quyền

trên phải thông qua Chấp hành viên phụ trách vụ việc và phải được sự cho phép của

Chấp hành viên, đồng thời phải làm theo những điều kiện theo quy định của pháp luật

THADS. Việc hạn chế một số quyền này chấm dứt khi người phải thi hành án hoàn

thànhữnghĩa vụ tài sản của mình đối với người được thi hành án, bằng quyết định giải

tỏa kê biên tài sản bảo đảm tiền vay của Chấp hành viên, đến thời điểm này tài sản bảo

đảm tiền vay của người phải thi hành án mới không bị hạn chế giao dịch.

16

* Cơ sở pháp lý của cưỡng chế kê biên tài sản bảo đảm tiền vay

Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay là một trong những biện pháp cưỡng chế thi

hành án dân sự có tính nghiêm khắc nhất trong các biện pháp cưỡng chế THADS, là

một hoạt động dựa trên các cơ sở pháp lý được pháp luật qui định chặt chẽ. Cơ sở

pháp lý ban đầu chính xác, chặt chẽ sẽ làm tiền đề cho thực hiện các thủ tục tiếp

theo. Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay còn là hoạt động nhạy cảm, ảnh hưởng trực

tiếp đến quyền lợi của người phải thi hành án. Nếu thực hiện không dựa trên một cơ

sở pháp lý, các thủ tục không được thực hiện đầy đủ và đúng pháp luật, thì khi có

khiếu nại phát sinh mà cơ quan thi hành án không có cơ sở bác đơn khiếu nại của

đương sự, buộc phải công nhận khiếu nại là đúng thì cả một quá trình thi hành án bị

ngưng trệ, thậm trí có thể phải làm lại từ đầu, gây tốn kém về thời gian, tiền bạc của

Nhà nước, tổ chức, công dân. Chính vì vậy, khi áp dụng biện pháp cưỡng chế kê

biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng phải đảm bảo các cơ sở pháp lý sau:

Thứ nhất, theo Bản án, Quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc

của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, người phải thi hành án

có nghĩa vụ trả tiền cho người được thi hành án. Như vậy, khi Bản án, Quyết định

có hiệu lực trên thực tế là cơ sở pháp lý đầu tiên và quan trọng nhất để chấp hành

viên căn cứ vào đó để thực hiện cưỡng chế Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân

hàng đối với người phải thi hành án và người này phải có nghĩa vụ trả tiền đối với

người được thi hành án.

Thứ hai, đã hết thời gian tự nguyện thi hành án do Chấp hành viên ấn

địnhữngười phải thi hành án không tự nguyện thi hành. Do tính chất của THADS

khác với thi hành án hình sự là lấy trừng phạt làm đầu. Trong THADS cần thiết phải

có thời gian để người phải thi hành án tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình.

Chính vì vậy tại khoản 1, điều 46 quy đinh “Hết thời gian quy định tại khoản 1 Điều

45 của Luật này, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự

nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế”. Luật THADS đã quy định thời gian tự nguyện

cố định đối với mọi trường hợp là 10 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận

được quyết định hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án.

17

Thứ ba, chưa hết thời gian tự nguyện thi hành án nhưng người phải thi hành

án có dấu hiệu tẩu tán, hủy hoại tài sản (tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng). Theo

quy định tại khoản 2 Điều 45 LTHADS năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy

định: “Trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy

hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên có quyền áp dụng

ngay các biện pháp quy định tại Chương IV của luật này”. Như vậy, ngay cả khi

đang trong thời gian tự nguyện thi hành án, nếu Chấp hành viên phát hiện thấy

người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc thực hiện các biện

pháp khác nhằm trốn tránh nghĩa vụ phải thi hành án, thì Chấp hành viên cũng có

thể áp dụng ngay biện pháp kê biên Tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng để ngăn

chặn hành vi nhằm trốn tránh nghĩa vụ của người phải thi hành án.

Khi áp dụng biện pháp kê biên Tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng Chấp hành

viên nhất thiết phải căn cứ vào các điều kiện nêu trên để áp dụng một cách tốt nhất trong

công tác thi hành án của mình đảm bảo được quyền, lợi ích của các chủ thể

* Quyền sử dụng đất là một tài sản đặc biệt trong cưỡng chế kê biên tài sản

để thi hành án dân sự

Theo Hiến pháp năm 2013, Luật đất đai năm 2013 quy định chế độ sở hữu

đất đai: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu”. Như

vậy, với tư cách là đại diện chủ sở hữu, Nhà nướcầmới có đầy đủ các quyền chiếm

hữu, sử dụng và định đoạt đối với đất đai. Tuy nhiên, trên thực tế Nhà nước không

trực tiếp quản lý và khai thác lợi ích trên từng mảnh đất mà phần lớn giao đất cho

các tổ chức, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài. Quyền sử dụng đất ở Việt Nam có

tính chất đặc thù, có quan điểm cho rằng: “Nhà nước có quyền sở hữu đất đai, người

sử dụng đất cũng có quyền sở hữu đất đai bằng việc nhà nước ghi nhận quyền

chuyển quyền sử dụng đất bao gồm các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho

thuê, thừa kế và thế chấp quyền sử dụng đất. Việc thừa nhận này chính là Nhà nước

đã thừa nhận hình thức sở hữu đất đai có điều kiện, nói cách khác đây gọi là hình

thức sở hữu kép đối với đất đai”. Tuy nhiên, không thể đồng nhất quyền sở hữu đất

đai với quyền sử dụng đất bởi sự khác nhau cả về nội dung và ý nghĩa.

18

Quyền sở hữu đất đai là quyền nguyên thủy (có trước), còn quyền sử dụng

đất là quyền phái sinh (có sau) xuất hiện khi được nhà nước giao đất hoặc cho thuê

đất, cho phép nhận chuyển quyền sử dụng đất hay công nhận quyền sử dụng đất.

Quyền sở hữu đất đai là một loại quyền trọn vẹn, đầy đủ còn quyền sử dụng

đất lại không trọn vẹn, đầy đủ. Bởi vì, người sử dụng đất không có đầy đủ các

quyền năng như Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu. Mặt khác, không phải

chủ sử dụng đất nào cứ có quyền sử dụng đất hợp pháp là có các quyền chuyển

quyền của người sử dụng đất.

Quyền sở hữu đất đai là một loại quyền tồn tại độc lập còn quyền sử dụng đất

lại là quyền phụ thuộc. Sự phụ thuộc này thể hiện là người sử dụng đất chỉ được sử

dụng đất trong phạm vi nhất định (về diện tích đất, thời gian sử dụng đất, mục đích

sử dụng đất). Như vậy, quyền sử dụng đất được hiểu là quyền của người sử dụng

đất khai thác các thuộc tính của đất đai, khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức

từ tài sản một cách hợp pháp phục vụ cho mục đích của mình và quyền chuyển

quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

* Đặc điểm về chủ thể áp dụng

Việc quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế, ra quyết định cưỡng chế và tổ

chức thực hiện cưỡng chế kê biên Tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng thuộc thẩm

quyền của một Chấp hành viên được giao nhiệm vụ thi hành vụ việc thi hành

án.Theo qui định của luật thi hành án năm 2008: Chấp hành viên là người được nhà

nước giao nhiệm vụ thi hành các Bản án, Quyết định do Bộ trưởng Bộ tư pháp bổ

nhiệm. Công dân Việt Nam có trình độ cử nhân luật trở lên và một số điều kiện

khác như trung thực, phẩm chất, đạo đức tốt và có thời gian công tác pháp luật thì

có thể được bổ nhiệm làm chấp hành viên trong cơ quan thi hành án dân sự ở các

địa phương.

Chấp hành viên được giao nhiệm vụ thi hành quyết định thi hành án của thủ

trưởng cơ quan thi hành án ban hành và là người có thẩm quyền quyết định áp dụng

biện pháp kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng đối với vụ việc thi hành án

đó. Dựa trên kết quả sự tự nguyện của người phải thi hành án và điều kiện về tài sản

hiện có là tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng của người phải thi hành án Chấp hành

19

viên ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản bảo đảm tiền vay

ngân hàng để đảm bảo thi hành án nghĩa vụ theo Bản án, Quyết định của cơ quan có

thẩm quyền.

1.1.4. Vai trò của kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng

* Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng là biện pháp thi hành triệt để

bản án, quyết định của Tòa án.

Tài sản đem bảo đảm tiền vay ngân hàng thường là là tài sản có giá trị lớn, vì

vậy khi Chấp hành viên thực hiện biện pháp cưỡng chế này phần lớn thi hành triệt

để bản án, quyết định của tòa án có nghĩa vụ tài sản có giá trị lớn mà các biện pháp

cưỡng chế khác không mang lại hiệu quả như biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập

của người phải thi hành án, kê biên tài sản có giá trị không lớn, Thu tiền từ hoạt

động kinh doanh của người phải thi hành án… Mặt khác đối với người phải thi hành

án, phải thi hành nhiều bản án, quyết định của tòa án, do đó họ phải thực hiện nhiều

nghĩa vụ về trả tiền thì việc xử lý tài sản bảo đảm sẽ bảo đảm thi hành triệt để

không những một bản án, quyết định mà còn thi hành triệt để nhiều bản án, quyết

định của Tòa án.

* Kê biên tài sản bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của người phải thi hành

án và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án.

Khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng vì lý do hoặc lợi

ích cá nhân nào đó người phải thi hành án không muốn tự nguyện thi hành án, họ

nại ra nhiều lý do bất hợp pháp để chốn tránh hoặc kéo dài việc thực hiện nghĩa vụ

của mình đối với người được thi hành án. Trong trường hợp này Chấp hành viên

thực hiện biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản bảo đảm nhằm bảo đảm cho việc thi

hành án, đảm bảo cho lợi ích cả hai bên người phải thi hành án và người được thi

hành án, bởi vì kể từ thời điểm Chấp hành viên ra quyết định cưỡng chế kê biên tài

sản bảo đảm của người phải thi hành án thì các khoản nợ có đến thời điểm này đều

được bảo đảm thanh toán trước. Người phải thi hành án không thể kéo dài thêm thời

gian thực hiện nghĩa vụ của mình, nhằm mục đích kéo dài thời gian thi hành án chờ

thời cơ có lợi cho mình. Người được thi hành án thì nhận được lợi ích vật chất mình

được hưởng theo bản án, quyết định của tòa án với thời giam nhanh nhất. Việc thực

20

hiện xong bản án, quyết định của tòa án tránh được tổn thất về vật chất và tinh thần

cho cả hai bên, người được thi hành án và người phải thi hành án.

* Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay còn nhiệm vụ là ngăn ngừa tình trạng tẩu

tán tài sản bảo đảm, giáo dục ý thức pháp luật cho công dân.

Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay là một biện pháp cưỡng chế lớn phải huy

động nhiều lực lượng, liên quan đến nhiều ngành, cấp và được đưa lên thông tin đại

chúng. Vì vậy thông qua buổi cưỡng chế kê biên tài sản bảo đảm tiền vay nhằm

ngăn ngừa những đối tượng đã vay ngân hàng trây ỳ, chống đối không thực hiện

nghĩa vụ của mình. Mặt khác thông qua buổi cưỡng chế nhằm giáo dục ý thức pháp

luật cho mỗi công dân hiểu biết thêm pháp luật về THADS để họ tự điều chỉnh hành

vi của mình trong những trường hợp tương tự.

1.2. Cơ sở và phân loại kê biên kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng

1.2.1. Cơ sở của việc kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng

Tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng là một loại tài sản nên có thể được giao

dịch dân sự, điều này được quy định trong Bộ luật dân sự, tài sản bảo đảm được

thực hiện trong các giao dịch dân sự như chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, tặng

cho, góp vốn và thừa kế. Hiện nay ở khắp nơi trên cả nước việc chuyển nhượng và

chuyển đổi mục đích sử dụng tài sản bảo đảm tiền vay gia tăng với lượng lớn mang

lại nhiều nguồn lợi lớn cho Nhà nước, tổ chức và cá nhân. Với chính sách đổi mới

của Đảng và Nhà nước ta coi tài sản bảo đảm tiền vay là một nguồn lực cho đầu tư

công nghiệp hóa và hiện hóa đất nước. Cùng với sự phát triển của đất nước việc kê

biên tài sản bảo đảm tiền vay trong những năm gần đây ngày càng gia tăng về số vụ

việc trong các cơ quan THADS.

Tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng là một loại tài sản có thể quy ra bằng tiền,

việc kê biên bán đấu giá có tính khả thi cao trong việc thi hành nhiều nghĩa vụ THADS.

Kê biên tài sản là biện pháp cưỡng chế được quy định trong Luật thi hành

án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 tại Điều 71 là một trong hai biện

pháp của cơ quan thi hành án dân sự, biện pháp còn lại của cơ quan thi hành án

dân sự là tự nguyện thi hành án. Cơ sở của việc kê biên tài sản thể hiện ở những

nội dung như.

21

Trước hết kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng thể hiện tính nghiêm

minh của pháp luật và khôi phục lại những quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ.

Trong quá trình giải quyết một vụ án tranh chấp tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng

thì chỉ kết thúc khi bản án quyết định của Tòa án được thi hành đúng kịp thời đầy

đủ theo quy định của Toà án. Công tác thi hành án dân sự không được các bên quan

tâm và không có hiệu quả thì sẽ có nhiều khả năng ảnh hưởng tiêu cực lớn, tác động

đến toàn bộ hoạt động của Cơ quan Điều tra công an; Truy tố của Viện kiểm sát;

Xét xử của Toà án, trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực nhà nước giảm sút

không được coi trọng, quyền lời và lợi ích hợp pháp của công dân, các đương sự bị

xâm hại.

Thi hành án dân sự đạt được hiệu quả sẽ mang lại niềm tin cho nhân dân đối

với tính nghiêm minh của pháp luật trong công tác thi hành án nói riêng và pháp

luật nói chung, góp phần khôi phục lại nh ng quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ.

Thi hành án là thước đo hiệu quả hoạt động xét xử nhân danh của Tòa án và

hoạt động tư pháp khác Hoạt động điều tra, truy tố và xét xử diễn ra rất phức tạp,

kéo dài và tốn kém của nhà nước, song nh ng hoạt động đó có thể chỉ là con số

không nếu như bản án, quyết định của Tòa án không được đưa ra thi hành trên thực

tế một cách nghiêm minh đúng quy định. Với ý nghĩa đó, thi hành án dân sự là một

hoạt động không thể thiếu được trong quá trình bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp

của đương sự nh ng người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

1.2.2. Phân loại kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng

CHV chỉ kê biên tài sản của người phải THA tương ứng với nghĩa vụ THA

và các chi phí cần thiết. Đó là các chi phí do người phải THA chịu theo qui định tại

Điều 73 LTHADS 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Vì vậy khi kê biên tài sản

của người phải THA, CHV phải tạm tính giá trị các tài sản định kê biên và các chi

phí để kê biên tương ứng với mức vừa đủ để THA. CHV có thể dựa vào giá thị

trường của tài sản tại thời điểm tiến hành việc kê biên, hay có thể tham khảo ý kiến

của các cơ quan chức năng có liên quan và của cả các bên đương sự để tạm tính giá

trị tài sản kê biên.

22

Khi áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên sẽ tác động trực tiếp đến các chủ

thể sau: Người được THA, người phải THA, người có quyền và nghĩa vụ liên quan.

Những người này có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức. Tùy theo chủ thể là người

được hay người phải THA mà họ sẽ được hưởng những quyền lợi cũng như phải

thực hiện những nghĩa vụ khác nhau. Nhưng dù được hưởng quyền lợi hay phải

thực hiện nghĩa vụ thì chỉ có một loại đối tượng phải chịu tác động đó là tài sản kê

biên. Tài sản này có thể là động sản hay bất động sản nhưng nó phải thuộc quyền sở

hữu của người phải THA. Để tránh sự tùy tiện, áp đặt của CHV, đảm bảo nguyên

tắc người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản của chính mình, không

xâm phạm đến tài sản của người khác. Khi kê biên phải đảm bảo nguyên tắc tài sản

kê biên tương ứng với nghĩa vụ phải thi hành và các chi phí có liên quan, trừ trường

hợp đặc biệt là tài sản này lớn hơn nghĩa vụ phải thi hành. Tuy nhiên không phải tất

cả các loại tài sản đều có thể bị kê biên, có những loại tài sản do tính chất đặc thù

của chính nó qui định hoặc do ý thức chủ quan của con người qui định mà nó sẽ

không phải là đối tượng bị kê biên.

Thứ nhất, kê biên tài sản thuộc sở hữu chung

Với những qui định cụ thể của LTHADS 2008 được sửa đổi bổ sung năm

2014 so với PLTHADS 2004 về cưỡng chế tài sản thuộc sở hữu chung đã tạo điều

kiện thuận lợi hơn cho CHV cũng như bảo đảm được quyền lợi cho các đương sự.

LTHADS năm 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014 qui định: “Trường hợp chưa

xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải

thi hành án trong khối tài sản chung để thi hành án thì Chấp hành viên phải thông

báo cho người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài

sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu

cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

LTHADS năm 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014 đã phân định rõ ràng

hai trường hợp kê biên tài sản thuộc sở hữu chung với người khác và tài sản thuộc

sở hữu chung với vợ chồng ra riêng hai phần giúp cho CHV dễ dàng xác định phần

sở hữu của người phải THA trong khối tài sản chung. Đây là một điểm tiến bộ vượt

bậc so với PLTHADS 2004. Ở PLTHADS 2004 chỉ qui định: “khi không có tài sản

23

riêng thì CHV mới được kê biên phần tài sản của người phải THA trong khối tài sản

thuộc sở hữu chung với người khác”. Bởi lẽ, cả hai loại tài sản thuộc sở hữu chung

này đều được xác định theo qui định của BLDS 2004, nhưng riêng tài sản thuộc sở

hữu chung của vợ chồng còn dựa theo qui định của Luật hôn nhân và gia đình.

Luật qui định cho phép chủ sở hữu chung được quyền khởi kiện ra Tòa án để

yêu cầu bảo vệ quyền lợi cho mình. Điều này thể hiện tính dân chủ đồng thời có thể

bảo vệ lợi ích của các đồng sở hữu chung trong trường hợp tài sản bị kê biên để

THA. Tuy nhiên, trên thực tế nếu đương sự khởi kiện để yêu cầu Tòa án xác định

phần sở hữu của mình thì việc THA sẽ rất kéo dài. Bởi lẽ, việc THA phải chờ vào

kết quả phân chia của Tòa án. Mà quá trình tố tụng của một vụ án dân sự phải m t

nhiều năm, chưa kể có nhiều vụ phải xử đi xử lại hàng chục lần. Đây cũng đang là

vấn đề nan giải, bởi nếu không cho chủ sở hữu chung có quyền khởi kiện là không

đúng với nguyên tắc đương sự có “quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp theo Bộ luật tố tụng dân sự.

Bởi những tài sản phải đăng kí quyền sở hữu thường là những tài sản có giá

trị rất lớn, tài sản có thể bảo đảm khả năng thanh toán cao cho chủ sở hữu trong

trường hợp chủ sở hữu phải thực hiện nghĩa vụ theo qui định của pháp luật. Căn cứ

vào qui định trên khi kê biên tài sản chung của vợ chồng CHV cần lưu ý:

+ Trường hợp bản án, quyết định của Tòa án tuyên buộc vợ hoặc chồng phải

THA thì CHV chỉ được kê biên tài sản thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng. Nếu

người phải THA không có tài sản riêng hoặc có nhưng không đủ để thi hành thì kê

biên phần tài sản của người đó trong khối tài sản chung của vợ chồng. Qui định

nhằm đảm bảo quyền lợi cho vợ hoặc chồng còn lại và giữ nguyên tắc nghĩa vụ của

ai thì người đó chịu. Nếu tài sản chung không thể phân chia, CHV có quyền kê biên

toàn bộ tài sản và giải thích cho vợ hoặc chồng còn lại quyền ưu tiên mua phần tài sản

của người kia. Nếu vợ hoặc chồng không mua thì sau khi bán tài sản, CHV thanh toán

lại cho họ 1/2 giá trị tài sản và trích lại cho người phải THA số tiền cần trợ cấp cho việc

nuôi con chưa thành niên, người tàn tật hoặc người khácầmà người phải THA đang có

trách nhiệm nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng nuôi con khi chưa đủ 18 tuổi theo qui định

của pháp luật. Đồng thời cũng đảm bảo được tính nhân đạo trong việc trích lại số tiền

đủ để thực hiện trợ cấp cho những đối tượng theo qui định của pháp luật.

24

Vai trò của Nhà nước là nhằm an sinh xã hội, đảm bảo cuộc sống của người

dân luôn được ấm no, do đó trong mọi hoàn cảnh kể cả khi đương sự phải thực hiện

nghĩa vụ theo bản án, quyết định của Tòa án vẫn phải tính đến việc đảm bảo cho

cuộc sống cho người phải THA và gia đình đủ điều kiện để tiếp tục sinh sống.

+ Trong trường hợp tài sản chung của vợ chồng gồm nhiều loại tài sản thì

CHV căn cứ vào giá trị của từng tài sản để kê biên loại tài sản có giá trị tương ứng

với số tiền và chi phí để THA. Đây là cơ sở để CHV kê biên tài sản của đương sự

trong điều kiện đương sự có rất nhiều loại tài sản. Song song đó qui định này còn

ngăn chặn được tình trạng “vượt quyền của CHV”, bởi nếu không qui định như vậy

thì CHV có thể kê biên tài sản nào cũng được, bất kể tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ

phải THA rất nhiều.

Theo khoản 2 Điều 74 LTHADS năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014

thì: Tài sản kê biên thuộc sở hữu chung đã xác định đượcấphần sở hữu của các chủ

sở hữu chung được xử lý. Đối với tài sản chung có thể chia được thì Chấp hành viên

áp dụng biện pháp cưỡng chế phần tài sản tương ứng với phần sở hữu của người

phải thi hành án; Đối với tài sản chung không thể chia được hoặc nếu việc phân chia

làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp

cưỡng chế đối với toàn bộ tài sản và thanh toán cho chủ sở hữu chung còn lại giá trị

phần tài sản thuộc quyền sở hữu của họ.

Như vậy, đối với tài sản chung thì mỗi chủ sở hữu chung sẽ có quyền và

nghĩa vụ tương ứng với phần quyền sở hữu của mình. Khi đó, nếu một chủ sở hữu

chung bị áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên thì CHV chỉ được kê biên phần tài

sản thuộc sở hữu của người này trong khối tài sản chung. Từ đó cho thấy, việc xác

định khối tài sản chung này phụ thuộc vào ý chí chủ quan của CHV. Vì vậy, không

thể tránh khỏi trường hợp có những tài sản có thể chia được nhưng CHV lại tiến

hành kê biên toàn bộ tài sản làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến các chủ sở hữu khác.

Thứ hai, kê biên đối với tài sản là quyền sở hữu trí tuệ

Quyền sở hữu trí tuệ là một loại tài sản đặc biệt bởi nó không phải là tài sản

hữu hình mà là tài sản vô hình, tài sản do trí tuệ của con người tạo ra. Quyền sở hữu

trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ bao gồm: Quyền tác giả

25

và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với

giống cây trồng (khoản 1 điều 4 Luật SHTT).

Trường hợp người phải THA là chủ sở hữu quyền SHTT chuyển QSD quyền

SHTT cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác thì quyền SHTT vẫn bị kê biên. Theo qui

định tại BLDS năm 2005 thì quyền sở hữu tài sản bao gồm quyền chiếm hữu, quyền

sử dụng, quyền định đoạt tài sản. Do đó, khi người phải THA chỉ chuyển QSD cho

đối tượng khác thì tài sản đó vẫn bị kê biên vì chủ sở hữu chỉ chuyển quyền khai

thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản nhưng vẫn còn quyền chiếm hữu và

quyền định đoạt tài sản.

Tuy nhiên, đối với trường hợp nhằm đảm bảo mục tiêu quốc phòng, an ninh,

dân sinh và lợi ích nhà nước, xã hội mà Nhà nước qui định chủ SHTT phải chuyển

giao quyền của mình cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác sử dụng trong thời gian

nhất định thì CHV không được kê biên quyền SHTT của người phải THA trong thời

gian bắt buộc phải chuyển giao.

Thứ ba, kê biên tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản phải đăng kí quyền sở

hữu hoặc đăng kí giao dịch bảo đảm.

Một là, kê biên tài sản là quyền sử dụng đất: Để giải quyết được những

vướng mắc trên, PLTHADS 2004 và LTHADS năm 2008 được sưả đổi, bổ sung

năm 2014 đã đưa QSD trở thành một trong những loại tài sản được phép kê biên để

THA. Theo qui định tại Điều 89 LTHADS năm 2008 thì “CHV yêu cầu cơ quan

đăng kí cung cấp thông tin về tài sản”. Các cơ quan này phải có trách nhiệm cung

cấp đầy đủ thông tin về tài sản cho CHV trong thời hạn 5 ngày làm việc để CHV

quyết định có kê biên tài sản hay không.

Hai là, kê biên tài sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc đăng ký giao dịch bảo

đảm: Trước khi kê biên tài sản phải đăng kí quyền sử hữu hoặc đăng kí giao dịch

bảo đảm, CHV phải yêu cầu cơ quan đăng kí quyền sở hữu cung cấp thông tin về

quyền sở hữu của người phải THA, yêu cầu cơ quan đăng kí giao dịch bảo đảm

cung cấp thông tin về tài sản dự định kê biên có đang được dùng để bảo đảm thực

hiện nghĩa vụ của người phải THA đối với người có quyền hay không. Trên cơ sở

đó, CHV mới có căn cứ để tiến hành áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản.

26

Sau khi kê biên CHV phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan đăng kí về việc kê

biên tài sản để xử lý theo qui định tại khoản 2 điều 89 LTHADS 2008 sửa đổi, bổ

sung năm 2014.

Thứ tư, kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp.

Trường hợp người phải THA không còn tài sản nào khác hoặc có nhưng

không đủ để THA thì CHV có quyền kê biên xử lý tài sản của người phải THA

đang cầm cố, thế chấp nếu giá trị của tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và

các chi phí cưỡng chế THA. Đối với các tài sản của người phải THA đang được

cầm cố, thế chấp hợp pháp trong các giao dịch dân sự mà có giá trị lớn hơn toàn bộ

các nghĩa vụ được bảo đảm theo hợp đồng thế chấp, cầm cố cộng với các chi phí

cho việc kê biên, xử lý tài sản thì CHV được quyền kê biên tài sản của người phải

THA để bảo đảm THA mặc dù hợp đồng cầm cố, thế chấp chưa đến hạn. Quy định

này gây ảnh hưởng bất lợi quyền chủ nợ hợp pháp của tổ chức tín dụng vì khi tổ

chức tín dụng buộc phải thực hiện thu nợ trước hạn đối với khoản vay được bảo

đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp đã bị kê biên, thì số tiền tổ chức tín dụng thu

được từ giao dịch này có thể ít hơn số tiền dự tính thu được theo thoả thuận trong

hợp đồng tín dụng do thời gian cho vay bị rút ngắn và giá trị thu hồi tài sản bảo

đảm thường giảm đáng kể do bị kê biên.

Tuy nhiên để đảm bảo lợi ích hợp pháp cho người nhận cầm cố, thế chấp

LTHADS 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 qui định khi kê biên tài sản đang cầm cố,

thế chấp phải thông báo cho người nhận cầm cố, nhận thế chấp biết để những người

này tự bảo vệ quyền lợi cho chính mình và kịp thời tham gia khi kê biên tài sản.

Thứ năm, kê biên tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ

CHV có quyền kê biên tài sản của người phải THA đang do người thứ ba

giữ, kể cả trường hợp tài sản được xác định bằng bản án, quyết định khác. Người

thứ ba có thể giữ tài sản của người phải THA bằng phương thức sau: Thuê, mượn,

sửa chữa, bảo quản, sử dụng.Tài sản được xác định bằng bản án, quyết định có thể

là các khoản nợ mà người thứ ba đang nợ người phải THA và khoản nợ này đã được

xác định bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Khi có căn cứ xác định

tài sản đó là của người phải THA thì CHV ra quyết định kê biên tài sản đó để THA.

Điều này có thể tránh được khả năng người phải THA tẩu tán, hủy hoại tài sản.

27

Để đảm bảo quyền lợi của người thuê trong trường hợp tài sản thuê bị kê

biên thì LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 cho phép người thuê được tiếp tục

thực hiện hợp đồng thuê trong thời gian còn lại của hợp đồng với người trúng đấu

giá tài sản bị kê biên.

Thứ sáu, kê biên vốn góp.

LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã qui định vốn góp cũng là tài sản có

thể bị kê biên để THA. Thật vậy, vốn góp là một loại tài sản có giá trị rất lớn, khả

năng đảm bảo THA của loại tài sản này được đánh giá cao trong thời điểm hiện nay.

Khi đó, CHV có quyền yêu cầu “cá nhân, cơ quan, tổ chức nơi người phải THA có

vốn góp cung cấp thông tin về phần vốn góp của người phải THA” để kê biên phần

vốn góp đó, để CHV dễ dàng tiến hành kê biên. Cần phải qui định thêm trường hợp

những cá nhân, cơ quan, tổ chức này phải chịu trách nhiệm khi không cung cấp

thông tin hoặc cố tình cung cấp thông tin sai sự thật để người phải THA có cơ hội

tẩu tán tài sản bằng những giao dịch khác; Trưng cầu tổ chức, cá nhân có chuyên

môn xác định phần giá trị vốn góp của người phải THA để THA. Tiếp tục phát huy

nguyên tắc tự định đoạt của đương sự, trong trường hợp đương sự không tin tưởng

vào kết quả xác định về giá trị phần vốn góp của CHV thì pháp luật cho phép đương

sự được quyền yêu cầu Tòa án xác định theo khoản 2 điều 92 LTHADS 2008 sửa

đổi bổ sung năm 2014.

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng

1.3.1. Yếu tố pháp luật

Yếu tố chính trị, pháp luật có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hiệu quả của hoạt động

thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật, đặc biệt là các cá nhân, cơ quan nhà

nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật, vì nó củng cố ý thức và niềm tin chính trị

của cán bộ, đảng viên, và quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của đảng, gia

tăng lập trường chính trị - tư tưởng của các cá nhân có thẩm quyền áp dụng pháp

luật nói chung và kê biên tài sản để thi hành án nói riêng.

Muốn cho pháp luật được tôn trọng và thưc hiện nghiêm túc thì cán bộ đảng

viên phải là những người đi trước, gương mẫu thực hiện và có “năng lực tổ chức và

vận động nhân dân thực hiện đường lối của đảng pháp luật của nhà nước, công tâm,

28

thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân”. Chính vì vậy, đảng ta luôn quan

tâm và chỉ đạo sâu sát đối với cácầmặt hoạt động pháp luật trong đó có thực hiện

pháp luật.

Nhưng bên cạnh đó cũng có một số cán bộ lãnh đạo đảng lợi dụng sự lãnh

đạo của mình can thiệp sâu vào việc kê biên tài sản của đương sự để thi hành án.

Đặc biệt đương sự là người thân người quen của đồng chí... từ thực tế nêu trên cán

bộ thi hành án còn nễ nang dung túng làm cho công tác kê biên tài sản bảo đảm để

thi hành án ảnh hưởng đến quyền lợi của người được thi hành án.

1.3.2. Yếu tố về năng lực tổ chức và thực hiện

Trong những năm qua được sự quan tâm của Đảng, lãnh đạo Bộ tư pháp thì

đội ngũ CHV cũng được đào tạo một cách cơ bản. Tuy nhiên, vẫn còn có một số

CHV làm công tác THA chất lượng chưa cao, phần lớn mới vào ngành nên còn

thiếu bản lĩnh nghề nghiệp, kiến thức xã hội chưa đủ tiêu chuẩn, điều kiện để đề bạc

bổ nhiệm vào các chức danh, chức vụ. Vẫn còn một số cá nhân thiếu nỗ lực phần

đấu, học tập tu dưỡng rèn luyện kỹ năng đạo đức nghề nghiệp nên đã không theo

kịp sự phát triển của ngành, năng lực làm việc chưa đáp ứng được các yêu cầu

nhiệm vụ đặt ra. Chính vì vậy, chất lượng THA chưa đạt được kết quả như mong

muốn, trong công tác kê biên tài sản còn nhiều hạn chế, số lượng án tồn đọng ngày

càng nhiều chưa thể giải quyết dứt điểm “một sớm, một chiều”.

Lãnh đạo một vài cơ quan THA chưa thực sự chủ động, tích cực trong việc

triển khai thực hiện nhiệm vụ, thiếu tập trung trong quản lý điều hành dẫn đến hậu

quả là các CHV cũng chậm trong khi thi hành công vụ. Thế nhưng hiện nay, trong

công tác THA, lãnh đạo một vài cơ quan còn chưa làm việc hết lòng, chưa đủ tư

cách, phẩm chất của một người lãnh đạo. Bên cạnh đó, do nội bộ chưa có sự đoàn

kết chặt chẽ, thống nhất hướng vào mục đích chung nên hiệu quả THA không cao.

Do còn thiếu phương pháp, từng nơi, từng lúc chưa đi sâu tìm hiểu nội dung,

nguyên nhân khiếu nại từ đó dẫn đến việc giải quyết khiếu nại chưa thỏa đáng, không

phù hợp với lòng dân kéo theo tình trạng án tồn đọng cao. Nhiều CHV chưa thực sự

tích cực, quyết liệt đối với những vụ việc phức tạp, khó khăn, còn ngại khó, ngại va

chạm. Do ngại khó nên những người này đã không thực hiện nghiêm chỉnh chuẩn mực

29

đạo đức của một CHV, không vô tư, khách quan trong khi tiến hành kê biên tài sản làm

ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của người được THA. Gây mất lòng tin

trong nhân dân, làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của ngành THADS.

1.3.3. Yếu tố nhận thức

Yếu tố địa lý, văn hoá, trình độ dân trí, có một số địa phương còn có kinh tế

xã hội tương đối khó khan, văn hoá chậm phát triển trình độ dân trí của một số bộ

phận đương sự ít hiểu biết, tiết cận pháp luật khó khăn, không biết gì đến pháp luật,

chỉ hành xử theo tập tục tập quán trong cuộc sông hàng ngày, từ thực tế nêu trên

cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc kê biên tài sản để thi hành án.

Một số địa phương tình trạng quá tải công việc của cơ quan thi hành án ngày

càng nhiều, quá tải về số lượng vụ việc phải thi hành án nhưng biên chế không tăng.

Tiểu kết chương 1

Kê biên tài sản biện pháp cưỡng chế được áp dụng thường xuyên, là một

công cụ sắc bén trong thi hành án, song pháp luật chỉ có thể phát huy được vai trò

và những giá trị của mình trong việc duy trì trật tự và tạo điều kiện cho xã hội phát

triển khi nó được tôn trọng và thực hiện trong cuộc sống. Vì vậy, Thực hiện pháp

luật thi hành án dân sự là một lĩnh vực thực hiện pháp luật, là quá trình hoạt động có

mục đích làm cho các quy phạm pháp luật thi hành án dân sự đi vào cuộc sống trở

thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật nhằm phát huy tính

tích cực, chủ động trong thực hiện pháp luật khắc phục tình trạng không chấp hành

pháp luật về kê biên tài sản trong thi hành án, hạn chế và ngăn ngừa nhừng vi phạm

pháp luật về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng.

Pháp luật thi hành án dân sự được bảo đảm thực hiện trong đời sống xã hội,

phát huy được tác dụng, đòi hỏi các chủ thể thực hiện phải nhận thức đ y đủ vị trí,

vai trò và ý nghĩa thiết thực của nó, từ đó chủ động có các biện pháp thích hợp để

tổ chức thực hiện tốt nh ng qui định của pháp luật về kê biên tài sản để thi hành án

của cơ quan thi hành án dân sự. Chương 1 – Những vấn đề lý luận về kê biên tài sản

bảo đảm tiền vay - Trên nền tảng lý luận đó, tác giả vận dụng vào thực tiễn của

thành phố Hưng Yên tỉnh Hưng Yên, đánh giá thực trạng kê biên tài sản bảo đảm

tiền vay ngân hàng trong phần tiếp theo của luận văn.

30

Chương 2

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN KÊ BIÊN TÀI SẢN BẢO

ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN

SỰ TẠI THÀNH PHỐ HƯNG YÊN TỈNH HƯNG YÊN

2.1. Quy định của pháp luật về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân

hàng theo pháp luật thi hành án dân sự

2.1.1. Quy định về nguyên tắc kê biên

* Chấp hành viên mới có quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên

Chấp hành viên phải là công dân Việt Nam có phẩm chất chính trị vững

vàng, đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, được đào tạo lớp nghiệp vụ Chấp hành viên

và phải qua kỳ thi tuyển Chấp hành viên. Chấp hành viên gồm Chấp hành viên sơ

cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp; Chấp hành viên được Bộ

trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm; Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm

vụ thi hành các bản án, quyết định của toà án. Theo quy định của Điều 17 Luật

THADS chỉ có Chức danh Chấp hành viên mới có quyền áp dụng các biện pháp

cưỡng chế, trong đó có biện pháp kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng.

* Chỉ được kê biên tài sản bảo đảm tiền vay tương ứng với nghĩa vụ thi hành án

Về nguyên tắc Chấp hành viên chỉ kê biên tài sản bảo đảm tiền vay tương

ứng với nghĩa của người phải thi hành án, vì vậy Chấp hành viên phụ trách vụ việc

cần phải cân nhắc kỹ trước khi kê biên tài sản bảo đảm tiền vay của người phải thi

hành án làm sao tương ứng với nghĩa vụ phải thi hành án. Để thực hiện đúng

nguyên tắc này Chấp hành viên phải đáng giá sơ bộ giá trị của tài sản bảm đảm tiền

vay trước khi kê biên bằng cách trưng cầu các cơ quan chức năng thẩm định giá.

Giá trị của tài sản bảo đảm tiền vay kê biên sau khi trừ đi các chi phí và phần nghĩa

vụ phải thực hiện phải bảo đảm ngang bằng, tương ứng với nghĩa vụ phải thi hành

án tránh trường hợp kê biên tài sản bảo đảm tiền vay với giá quá lớn gây tổn hại đến

quyền lợi của người phải thi hành án. Nguyên tắc này không những bảo vệ quyền

lợi của người được thi hành án mà còn bảo vệ về quyền tài sản của người phải thi

hành án, tránh những tổn thất cho các bên đương sự. Tuy nhiên trường hợp người

31

phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất lớn hơn nhiều lần so với nghĩa vụ phải

thi hành án mà tài sản đó không thể phân chia được hoặc việc phân chia làm giảm

đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên vẫn có quyền áp dụng biện pháp

cưỡng chế kê tài sản bảo đảm tiền vay của người phải thi hành án để thi hành án.

* Không tổ chức cưỡng chế kê biên tài sản bảo đảm tiền vay trong những

thời gian mà pháp luật quy định không được cưỡng chế thi hành án

Nhà nước Việt nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân,

do Nhân dân và vì Nhân dân; do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực thuộc về nhân

dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với gia cấp nông dân và đội

ngũ trí thức. Với bản chất Nhà nước xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính nhân đạo trong

hoạt động quản lý Nhà nước, Điều 13 khoản 2 Nghị định số 62 ngày 18/7/2015 quy

định cơ quan THADS không tổ chức cưỡng chế thi hành án có huy động lực lượng

trong thời gian 15 ngày trước và sau tết Nguyên đán; các ngày truyền thống đối với

các đối tượng chính sách, nếu họ là người phải thi hành án. Nguyên tắc này thể hiện

tính nhân đạo ở chỗ tránh cho người phải thi hành án không bị cưỡng chế kê biên tài

sản bảo đảm tiền vay trong các ngày tết, ngày lễ và những ngày truyền thống của họ

được hưởng như ngày thương binh, liệt sĩ mà họ là đối tượng được hưởng …

* Không tổ chức cưỡng chế kê biên tài sản bảo đảm tiền vay thuộc tài sản

theo quy định của pháp luật không được kê biên

Cơ quan THADS trước khi kê biên quyền sử đất Chấp hành viên cần phải

xácầminh kỹ lưỡng, chi tiết nguồn gốc của tài sản bảo đảm tiền vay xem có phải là

những đất đai có nguồn gốc Nhà nước giao cho các tổ chức quản lý, sử dụng vì mục

đíchấphục vụ quốc phòng, an ninh, lợi ích công cộng; tài sản do ngân sách Nhà

nước cấp cho cơ quan, tổ chức. Ví dụ như tài sản bảo đảm tiền vay giao cho quân

đội làm doanh trại, làm nhà máy, nhà xưởng, kho bãi, trường bắn… cũng như tài

sản bảo đảm tiền vay được cấp cho các cơ quan đảng, cơ quan Nhà nước trong bộ

máy Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội làm trụ sở làm việc.

Ngoài ra, Chấp hành viên còn phải xác định những tài sản bảo đảm tiền vay

Nhà nước giao cho tổ chức là doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất, kinh doanh,

dịch vụ xây dựng nhà trẻ, trường học, cơ sở y tế và thiết bị, phương tiện, tài sản

32

khác thuộc các cơ sở này, nếu không phải là tài sản để kinh doanh. Đây là những tài

sản gắn liền với tài sản bảo đảm tiền vay của các sở sản xuất, kinh doanh nhằm

phục vụ cho người lao động an tâm công tác, tận tâm, tận lực hết sứcầmình phục vụ

cho doanh nghiệp, gắn với doanh nghiệp vì mục tiêu phát triển bền vững của doanh

nghiệp. Tất cả những bất động sản nêu trên đều được Nhà nước bảo đảm không

được kê biên để thi hành án.

* Trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong cưỡng chế kê

biên tài sản bảo đảm tiền vay

Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình cơ quan, tổ chức và

cá nhân có trách nhiệm phối hợp với cơ quan THADS trong việc thi hành án. Cơ

quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm thực hiện yêu cầu của cơ quan

THADS, Chấp hành viên theo quy định của pháp luật THADS. Mọi hành vi cản trở,

can thiệp trái pháp luật đối với hoạt động của cơ quan THADS đều bị xử lý theo

quy định của pháp luật.

2.1.2. Quy định về xử lý tài sản kê biên

Các khoản chi phí kê biên

Trong quá trình xử lý kê biên tài sản bảo đảm tiền vay Chấp hành viên phải

chi các khoản chi phí trong quá trình như thẩm định giá, bán đấu giá, chi phí cho

đoàn cưỡng chế kê biên QSDĐ, chi phí cho việc thuê nơi gửi, gữi tài sản... và giao

QSDĐ cho người trúng bán đấu giá QSDĐ.

Ngoài ra trong trường hợp cưỡng chế giao nhà là nhà ở duy nhất của người

phải thi hành án cho người mua được tài sản bán đấu giá, nếu xét thấy sau khi thanh toán

các khoản nghĩa vụ thi hành án mà người phải thi hành án không còn đủ tiền để thuê nhà

hoặc tạo lập nơi ở mới thì trước khi làm thủ tục chi trả cho người được thi hành án, Chấp

hành viên trích lại từ số tiền bán tài sản một khoản tiền để người phải thi hành án thuê

nhà phù hợp với giá thuê nhà trung bình tại địa phương trong thời hạn 01 năm.

Thanh toán các khoản ưu tiên

Thứ nhất: Trường hợp xử lý tài sản cầm cố, thế chấp mà bên nhận cầm cố,

thế chấp không phải là người được thi hành án thì người nhận cầm cố, thế chấp

được ưu tiên thanh toán trước khi trừ các chi phí và khoản tiền quy định tại khoản 5

Điều 115 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014.

33

Trường hợp xử lý tài sản cầm cố, thế chấp mà bên nhận cầm cố, thế chấp là

bên được thi hành án hoặc trường hợp bán tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê

biên để bảo đảm thi hành một nghĩa vụ cụ thể thì số tiền thu được từ việc bán tài sản

cầm cố, thế chấp, bị kê biên được ưu tiên thanh toán cho bên nhận cầm cố, thế chấp

hoặc bên có nghĩa vụ được bảo đảm sau khi trừ các chi phí và khoản tiền quy định

tại khoản 5 Điều 115 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Thứ hai: Những khoản ưu tiên thanh toán đó là tiền cấp dưỡng; tiền lương,

tiền công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động;

tiền bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần. Đây là những

khoản tiền cần thiết cho nhu cầu cuộc sống hàng ngày của người lao động nên thứ

tự ưu tiên hàng đầu mặc dù những khoản tiền không có những hợp đồng bảo đảm

cho những khoản tiền họ được hưởng.

Thanh toán những khoản nộp Ngân sách Nhà nước

Ngoài những khoản ưu tiên trên khi thanh toán trên Chấp hành viên phải tính

đến những khoản tiền nộp ngân sách Nhà nước như:

- Án phí, lệ phí tòa án là khoản tiền được xác định trong bản án, quyết định

của tòa án gồm án phí không có giá ngạch và án phí có giá ngạch, lệ phí chi cho

định giá QSDĐ trước khi xét xử. Khoản tiền này thu để bù đáp một phần ngân sách

Nhà nước chi cho công tác xét xử cho nên pháp luật THADS xếp vào những khoản

ưu tiên chi trả trước;

- Tiền phạt là khoản tiền xác định trong bản án, quyết định của tòa án bao

gồm cả tiền phạt trong hình phạt chính và hình phạt bổ sung được quy định trong

một số tội được quy định trong Bộ luật hình sự;

- Khoản tiền tịch thu sung quỹ Nhà nước và khoản truy thu thu tiền thu lợi

bất chính cũng là những khoản tiền xác định trong bản án, quyết định của tòa án,

đây là những khoản tiền do bị cáo thu lợi trong quá trình phạm tội có được.

Thanh toán các khoản thi hành án khác

Khoản tiền còn lại được thanh toán là khoản bồi thường, các khoản vay, khoản

tiền đóng góp công sức, khoản đóng góp phí tổn nuôi con, và các khoản khác.

Trường hợp có nhiều người được thi hành án thì việc thanh toán tiền thi hành

án được thực hiện như sau:

34

- Trường hợp trong cùng một hàng ưu tiên có nhiều người được thi hành án

thì việc thanh toán được thực hiện theo tỷ lệ số tiền mà họ được thi hành án;

- Số tiền thi hành án thu theo quyết định cưỡng chế thi hành án được thanh

toán cho những người được thi hành án tính đến thời điểm có quyết định cưỡng chế

đó; số tiền còn lại được thanh toán cho những người được thi hành án theo các

quyết định thi hành án khác tính đến thời điểm thanh toán;

- Sau khi thanh toán các khoản chi phí, thuê nhà và các khoản theo bản án,

quyết định, số tiền còn lại được trả cho người phải thi hành án.

2.1.3. Quy định về trình tự, thủ tục kê biên tài sản

Về nguyên tắc khi một người bị áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên thì

CHV phải kê biên tài sản thuộc sở hữu riêng của người này trước, khi không đủ mới

tiến hành kê biên tài sản thuộc sở hữu của người này trong khối tài sản chung với

người khác. Nhằm cụ thể hóa qui định của BLDS về tài sản chung và để giải quyết

vướng mắc trong các trường hợp xác định đương sự có tài sản chung nhưng tài sản

chung không xác định được hoặc các bên không thỏa thuận được về phần sở hữu

của người phải THA, Điều 74 LTHADS 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014 qui

định: “Trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử

dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để thi hành án thì

chấp hành viên phải thông báo cho người phải thi hành án và những người có

quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thoả thuận

phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu toà án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà các bên không có thỏa

thuận hoặc thỏa thuận vi phạm quy định tại Điều 6 của Luật này hoặc thỏa thuận

không được và không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên thông báo cho

người được thi hành án có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài

sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung

theo thủ tục tố tụng dân sự. Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo

mà người được thi hành án không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên yêu

cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người

phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự. Chấp hành

35

viên xử lý tài sản theo quyết định của Tòa án.” Qui định này đã chi tiết hóa đối với

vấn đề kê biên tài sản thuộc sở hữu chung, đảm bảo được nguyên tắc công bằng, tự

định đoạt của các đương sự. Chỉ khi họ không thoả thuận, không khởi kiện trong thời

hạn luật định thì CHV mới tiến hành yêu cầu toà án xác định phần quyền sở hữu tài sản

theo thủ tục tố tụng dân sự rồi Chấp hành viên xử lý tài sản theo quyết định của Tòa án,

đây là một điểm tiến bộ vượt bậc so với PLTHADS 2004 và LTHADS 2008. Tuy

nhiên, LTHADS 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014 đã không quy định cụ thể về

việc phải kê biên tài sản riêng trước như theo PLTHADS 2004.

Việc kê biên nhà ở là nơi ở duy nhất của người phải THA và gia đình chỉ

được thực hiện sau khi xác định người đó không có các tài sản khác hoặc có nhưng

không đủ để THA, trừ trường hợp người phải THA đồng ý kê biên nhà ở để THA.

Đây là một qui định mới, và mang tính nhân đạo tạo điều kiện cho người phải THA

có cơ hội lựa chọn tài sản để kê biên. Ở PLTHADS 2004 việc kê biên nhà ở chỉ

được tiến hành khi những tài sản khác của người phải THA không đủ để THA và số

tiền THA tương đối lớn tức là nhà ở phải được kê biên sau cùng khi những tài sản

khác không có hoặc không đủ để THA. LTHADS 2008 được sửa đổi bổ sung năm

2014 qui định quyền của CHV được mở rộng hơn khi bổ sung thêm qui định kê

biên nhà ở nhưng phải là nhà ở “duy nhất” thì mới được kê biên sau cùng, nhằm

đảm bảo việc THA được diễn ra nhanh chóng vì tài sản là nhà ở này được CHV dễ

đưa vào danh sách kê biên hơn so với qui định của PLTHADS 2004. Bên cạnh đó,

qui định này rất hợp lý trong trường hợp người phải THA không còn tài sản nào

khác nhưng lại có tới hai, ba ngôi nhà để ở mà không được kê biên lại phải tiến

hành xác định các tài sản khác, khi nào không có mới được kê biên đến nhà ở như

qui định của PLTHADS 2004 thì rất mất thời gian lại vô cùng tốn kém.

Nếu có tranh Chấp về tài sản kê biên giữa người phải THA với người khác

thì CHV phải giải thích cho những người này về quyền khởi kiện theo thủ tục tố

tụng dân sự. Sau khi thụ lý đơn kiện, Tòa án phải khẩn trương giải quyết tranh Chấp

về tài sản để việc THA được tiếp tục, đảm bảo được quyền lợi cho các đương sự. Vì

tranh Chấp đối với tài sản kê biên thực chất là việc chưa xác định rõ quyền và nghĩa

vụ của người phải THA đối với tài sản kê biên. Hết thời hạn 30 ngày các bên không

36

thoả thuận hoặc thoả thuận vi phạm tại điều 6 của Luật này hoặc thoả thuận không

được và không yêu cầu toà án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Hết thời hạn

15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo mà người được thi hành án không yêu cầu

toà án giải quyết thì CHV yêu cầu toà án giải quyết theo quy định. Rồi Chấp hành

viên xử lý theo quy định của toà án. LTHADS 2008 được sửa đổi bổ sung năm

2014 đã rút ngắn thời gian khởi kiện của đương sự và những người có liên quan

trong 3 tháng (như ở PLTHADS 2004) và (LTHADS 2008 là 30 ngày) xuống còn

15 ngày. Việc rút ngắn thời hạn trong giai đoạn này là khá cần thiết, bởi lượng án

chưa được thi hành tính đến thời điểm hiện tại là rất lớn, qui định thời hạn khởi kiện

là 3 tháng là quá dài rồi đến 1 tháng, sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc bảo vệ

quyền và lợi ích của người được THA trong trường hợp họ đang gặp khó khăn cần

ngay khoản tiền thi hành để sinh sống. Đồng thời, với qui định này có thể ngăn chặn

được tình trạng người phải THA và những người có liên quan thông đồng với nhau

trong việc khởi kiện ra Tòa án. Bởi khi việc khởi kiện đã được Tòa án thụ lý giải

quyết thì sẽ được hoãn THA (theo qui định tại điểm d khoản 1 điều 48 LTHADS

2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014) đợi khi có bản án, quyết định của Tòa án về

giải quyết tranh Chấp có hiệu lực thì tài sản đó mới được xử lý tiếp. Nếu trong 3

tháng mà những người này thay phiên nhau khởi kiện thì biết đến bao giờ tài sản đó

mới được đem ra xử lý.

Trường hợp người phải THA không còn tài sản nào khác hoặc có tài sản

nhưng không đủ để THA, CHV có quyền kê biên, xử lý tài sản của người phải THA

đang cầm cố, thế Chấp nếu giá trị tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi

phí cưỡng chế THA. Qui định này kế thừ a những qui định của PLTHADS 2004, sẽ

đảm bảo được quyền lợi của người được THA đồng thời đây cũng là biện pháp hiệu

quả nhằm ngăn chặn người phải THA có hành vi tẩu tán tài sản thông qua một giao

dịch dân sự khác.

Trong trường hợp người phải THA có một tài sản duy nhất lớn hơn nhiều so

với nghĩa vụ phải thi hành mà tài sản đó không thể phân chia được hoặc việc phân

chia làm giảm đáng kể giá trị tài sản thì CHV vẫn có quyền tiến hành kê biên đối với

tài sản đó. Qui định này nhằm đảm bảo tối đa quyền lợi của người được THA trong

37

hoàn cảnh người phải THA không còn cách nào khác để thực hiện nghĩa vụ. Nhưng

cũng cần phải qui định thêm trường hợp nếu như người phải THA tìm được tài sản

khác để thay thế trước khi tiến hành kê biên thì CHV sẽ Chấp nhận thay thế này.

Trước khi kê biên tài sản là bất động sản ít nhất là 3 ngày làm việc, CHV

thông báo cho đại diện chính quyền xã hoặc đại diện tổ dân phố nơi tổ chức cưỡng

chế, đương sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm, tài sản

kê biên (khoản 1 điều 88 LTHADS 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014). Quy

định này kế thừa những qui định của PLTHADS 2004 nhưng trong PLTHADS

2004 thủ tục kê biên này được áp dụng cho các loại tài sản kể cả động sản hay bất

động sản. LTHADS 2008 có một chút thay đổi đó là đối với bất động sản thì phải

thông báo trước cho những cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan ít nhất là 3 ngày

làm việc, đối với động sản thì không cần phải thông báo. Nhận thấy qui định này là

hợp lý, bởi động sản là những tài sản có thể di chuyển được nên nếu thông báo

trước cho người phải THA thì họ sẽ tìm cách tẩu tán hoặc hủy hoại tài sản để trốn

tránh nghĩa vụ THA. Còn bất động sản là những tài sản cố định, không thể di dời

được nên qui định phải thông báo trước cho các cơ quan có liên quan thực hiện các

chức năng do Nhà nước qui định như chuẩn bị lực lượng để hỗ trợ công tác kê biên.

Tất nhiên trong điều kiện cần ngăn chặn đương sự tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn

tránh việc THA thì không cần phải thông báo trước.

Nếu như đương sự vắng mặt hoặc người được ủy quyền vắng mặt thì CHV

vẫn tiến hành kê biên tài sản. Qui định này có điểm hay hơn so với PLTHADS

2004. Nếu PLTHADS 2004 qui định người phải THA cố tình vắng mặt thì CHV

mới được tiến hành kê biên tài sản thì LTHADS 2008 được sửa đổi bổ sung năm

2014 không cần đương sự là cố tình vắng mặt hay vắng mặt có lý do chính đáng

CHV vẫn tiến hành kê biên tài sản. Có như vậy mới đảm bảo được quyền lợi của

người được THA và rút ngắn được thời gian THA.

Khi kê biên đồ vật, nhà ở, công trình kiến trúc nếu vắng mặt người phải THA

hoặc người đang quản lý sử dụng tài sản đó mà phải mở khóa, phá khóa, mở gói thì

CHV có thể tự mình hoặc thuê cá nhân, tổ chức khác cầm mở khóa, mở gói, trong

thường hợp này phải có người làm chứng.

38

Tài sản được kê biên là kim khí qúy, đá qúy thì phải niêm phong trước mặt

người phải THA hoặc thân nhân của họ. Trên niêm phong phải ghi rõ loại tài sản, số

lượng, khối lượng và các đặc điểm khác của tài sản niêm phong. Có chữ ký của

CHV, người phải THA và thân nhân của họ. Tài sản kê biên là tiền mặt thì phải ghi

rõ số lượng tờ, mệnh giá các loại tiền, nếu là ngoại tệ thì phải ghi tiền nước nào và

trong trường hợp cần thiết phải ghi cả số sê ri trên tiền.

LTHADS 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014 nên bổ sung thêm qui định CHV

Chấp nhận đề nghị của người phải THA về việc kê biên tài sản nào trước, nếu xét th y đề

nghị đó không trở ngại cho việc THA như theo qui định của PLTHADS 2004 để bảo

đảm quyền và lợi ích của người phải THA trong điều kiện họ có nhiều loại tài sản. Có

như vậy mới giúp họ dễ dàng và thuận lợi hơn trong việc Chấp hành án vì chỉ có họ mới

biết tài sản nào là cần thiết hay không cần thiết lắm đối với cuộc sống của mình. Qui định

này thể hiện sự tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự nhưng vẫn bảo đảm hiệu quả

THA và khuyến khích ý thức tự nguyện THA của đương sự.

2.1.4. Thẩm quyền kê biên tài sản, thời hạn áp dụng biện pháp kê biên và

định giá tài sản kê biên

* Thẩm quyền kê biên tài sản

Theo qui định tại khoản 5 điều 20 LTHADS 2008 được sửa đổi bổ sung năm

2014 thì “CHV có quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế”. Như vậy, áp dụng biện

pháp cưỡng chế kê biên tài sản thuộc thẩm quyền của CHV phụ trách hồ sơ về vụ

việc phải THA. Nếu khoản 1 điều 41 PLTHADS 2004 qui định: “CHV có quyền kê

biên tài sản nếu có căn cứ cho rằng tài sản đó là của người phải THA”. Qui định

này cho phép vận dụng nguyên tắc suy đoán nhằm tạo khả năng vận dụng linh hoạt

cho CHV, kịp thời ngăn ngừa việc người phải THA tẩu tán tài sản trong khi vẫn

đảm bảo quyền bảo vệ quyền sở hữu tài sản của người phải THA và người khác, bởi

nếu có tranh chấp về tài sản kê biên, người phải THA và người khác vẫn có quyền

khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự. Tuy nhiên, cần phải qui định thêm “căn cứ”

này phải hợp lý, phải có giấy tờ chứng minh rõ ràng để tránh trường hợp lạm quyền

của CHV. Theo tôi LTHADS 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014 nên giữ lại qui

định này và sửa đổi cho phù hợp hơn.

39

Trước khi ra quyết định kê biên tài sản, CHV yêu cầu cơ quan đăng ký quyền

sở hữu, sử dụng tài sản cung cấp thông tin về quyền sở hữu, QSD tài sản của người

phải THA, yêu cầu cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm cung cấp thông tin về tài sản

dự định kê biên có đang được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người phải

THA đối với người có quyền hay không hoặc tài sản do người sở hữu phải THA

quản lý, sử dụng có phải là tài sản thuê mua tài chính hay không. Trong thời hạn 5

ngày làm việc, các cơ quan nói trên phải trả lời bằng văn bản cho CHV về những

nội dung yêu cầu đó (khoản 1 điều 21 Nghị định số 173/2004/NĐ-CP). Các cơ quan

có trách nhiệm trả lời thông tin trên một cách nhanh chóng và chính xác, nếu cố tình

cung cấp thông tin sai sự thật về điều kiện THA của người phải THA thì phải chịu

trách nhiệm trước pháp luật.

Kế thừa những qui định của PLTHADS 2004, nhằm nâng cao hơn hiệu quả

công tác THA, LTHADS 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014 đã qui định rõ ràng,

chặt chẽ, đầy đủ thủ tục thông báo THA, trong đó có thông báo về kê biên tài sản.

CHV phải thông báo trước, trực tiếp bằng văn bản cho người phải THA, người được

THA, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản

kê biên, các cơ quan, tổ chức theo đúng qui định tại các điều 39, 40, 41, 42

LTHADS 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014 và Nghị Định số 62/2014/NĐ-CP,

trừ trường hợp kê biên nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản. Xuất phát từ

thực tế, hiện nay nhiều CHV khi kê biên tài sản mà không hề biết các tài sản đó đã

được dùng để cầm cố, thế chấp, do vậy việc gửi thông báo về kê biên tài sản có ý

nghĩa hết sức quan trọng. Bên cạnh giá trị pháp lý đối với người thứ 3 thì trong

trường hợp các tài sản đã bị kê biên phải đăng ký, nhưng không đăng ký tại Trung

tâm đăng ký giao dịch bảo đảm khi CHV gửi thông báo việc kê biên các tài sản đó

thì người được THA sẽ có quyền ưu tiên thanh toán trước.

2.1.5. Thời hạn áp dụng biện pháp kê biên

Theo qui định tại khoản 2 điều 9 LTHADS 2008 được sửa đổi bổ sung năm

2014 thì: “người phải THA có điều kiện THA mà không tự nguyện thi hành thì bị

cưỡng chế THA”. Thời hạn tự nguyện THA là 10 ngày, kể từ ngày người phải THA

nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết định THA (khoản 1 điều 45). Quyết

40

định THA có hai loại: một loại do Thủ trưởng cơ quan THADS chủ động ra quyết

định thi hành đối với phần bản án, quyết định tại khoản 1 điều 36 LTHADS 2008

được sửa đổi bổ sung năm 2014; một loại do Thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết

định thi hành khi có đơn yêu cầu THA. Nếu như PLTHADS 2004 qui định thời hạn

tự nguyện THA là “không quá 30 ngày kể từ ngày người phải THA nhận được

quyết định THA” thì LTHADS 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014 đã giảm thời

hạn tự nguyện THA còn 10 ngày kể từ ngày người phải THA nhận được hoặc được

thông báo hợp lệ quyết định THA. Thực tiễn THA cho thấy để giải quyết được

lượng án tồn đọng đồng thời bảo vệ quyền lợi của người được THA thì việc giảm

thời hạn tự nguyện THA còn 10 ngày là rất hợp lý, vì có nhiều trường hợp người

được THA bị rơi vào hoàn cảnh rất khó khăn do phải trải qua một thời gian khá dài

để theo đuổi vụ kiện. Bởi thế không thể để cho lợi ích của người được THA bị tiếp

tục xâm phạm trong khi họ là người thắng kiện. Mặt khác qui định “được thông báo

hợp lệ quyết định THA” là một qui định tiến bộ giúp cho công tác THA diễn ra

thuận lợi hơn, tránh được việc người phải THA lợi dụng kẽ hở này để cố tình trốn

tránh không nhận quyết định THA làm cản trở công tác cưỡng chế tài sản và gây

thiệt hại cho người được THA.

2.2. Thực tiễn kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng theo pháp luật

thi hành án dân sự tại thành phố Hưng Yên tỉnh Hưng Yên

2.2.1. Tổng quan về đặc điểm kinh tế, xã hội của thành phố Hưng Yên và

tổ chức, hoạt động của cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Hưng Yên tỉnh

Hưng Yên

Kinh tế: cùng với sự phát triển kinh tế của cả nước, Hưng Yên được đánh giá

là một trong những tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối nhanh và cao. Nền

kinh tế Hưng Yên đang đổi thay từng ngày. Cơ cấu kinh tế đang dần chuyển dịch

theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nông nghiệp, nông thôn có nhiều

chuyển biến tích cực, tỷ trọng giữa chăn nuôi và trồng trọt được cân đối. Người

nông dân bước đầu quan tâm đến sản xuất hàng hoá, đảm bảo an ninh lương thực.

Công nghiệp, dịch vụ có bước phát triển khá. Công nghiệp địa phương tuy còn phải

đối mặt với nhiều khó khăn, nhưng vẫn đạt được những thành tích đáng khích lệ.

41

Một số ngành hàng tiếp tục được củng cố phát triển, lựa chọn các mặt hàng ưu tiên

và có lợi thế để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, tạo ra những sản phẩm chất

lượng cao. Khối công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh do số dự án đi

vào hoạt động tăng lên, sản phẩm được thị trường chấp nhận và có xu thế phát triển

tốt. Riêng ngành du lịch và dịch vụ cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa, đáp ứng nhu cầu

khai thác tiềm năng phục vụ khách du lịch trong và ngoài nước như: du lịch phố

Hiến, di tích Chử Đồng Tử - Tiên Dung, du lịch tôn giáo chùa miếu.

Dân số - lao động: nguồn nhân lực Hưng Yên khá dồi dào. Dân số năm 2004

là trên 1,1 triệu người, trong đó số người trong độ tuổi lao động chiếm hơn 50%. Tỷ

lệ lao động có trình độ của Hưng Yên thấp, bởi sau khi tái lập tỉnh, đội ngũ cán bộ

khoa học có trình độ ở lại tỉnh công tác ít. Hiện nay, số lao động chưa có việc làm

ổn định còn nhiều đã trở thành sức ép lớn đối với Hưng Yên trong vấn đề giải quyết

việc làm.

Văn hoá - xã hội: nét nổi bật trong truyền thống văn hiến của người Hưng

Yên là truyền thống hiếu học và khoa bảng. Gần 10 thế kỷ khoa bảng dưới thời

phong kiến Việt Nam (1075 - 1919), Hưng Yên có 228 vị đỗ đại khoa, nhiều người

đã trở thành những nhân vật được sử sách ca ngợi, nhân dân truyền tụng như các

nhà quân sự: Triệu Quang Phục, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa

Thám, Nguyễn Bình; danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác; nhà khoa học:

Nguyễn Công Tiễu, Phạm Huy Thông; nhà văn: Đoàn Thị Điểm, Chu Mạnh Trinh,

Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng; hoạ sĩ: Tô Ngọc Vân, Dương Bích Liên; các

nhà hoạt động chính trị tài ba: Tô Hiệu, Lê Văn Lương, Nguyễn Văn Linh, ...

Không chỉ có vị trí thuận lợi nằm kề sát thủ đô Hà Nội, Hưng Yên còn có các

tuyến đường giao thông quan trọng như quốc lộ 5 (dài 23 km), quốc lộ 38, quốc lộ

39 (dài 43 km) nối quốc lộ 5 với quốc lộ 1 tại Hà Nam, đường sắt Hà Nội - Hải

Phòng và các tuyến đường sông: sông Hồng, sông Luộc chạy qua. Tới đây, cầu

Thanh Trì hoàn thành cùng với cầu Yên Lệnh sẽ thúc đẩy mối giao lưu giữa các tỉnh

phía nam Hà Nội qua Hưng Yên ra Hải Phòng và cảng Cái Lân (Quảng Ninh).

Những lợi thế về vị trí địa lý và kết cấu hạ tầng là cơ hội lớn để tỉnh phát triển mạnh

ngành công nghiệp và dịch vụ. Đặc biệt, quốc lộ 5 đoạn chạy qua lãnh thổ Hưng

42

Yên mở ra cơ hội cho việc hình thành các khu công nghiệp tập trung, tạo động lực

lớn thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển, góp phần thực hiện thành công công

cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Hưng Yên có cơ hội đón nhận

và tận dụng những cơ hội phát triển của vùng. Nhất là trong tương lai gần, khi kết

cấu hạ tầng như hệ thống đường bộ, đường cao tốc, đường sắt, sân bay, cảng sông

được đầu tư xây dựng.

Bên cạnh đó, là tỉnh có lợi thế phát triển nông nghiệp, lại có vị trí gần các

trung tâm công nghiệp, Hưng Yên có cơ hội chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế, đặc

biệt là cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng phát triển mạnh nông nghiệp hàng hoá

phục vụ cho nhu cầu thực phẩm tươi sống và chế biến của các thành phố và khu

công nghiệp.

Hưng Yên là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Hưng Yên, Việt Nam. Thành phố

nằm ở phía Nam của tỉnh, bên bờ trái (bờ Bắc) sông Hồng. Thành phố Hưng Yên

giáp với huyện Kim Động ở phía Bắc, Tiên Lữ, huyện Hưng Hà, Thái Bình ở phía

Đông. Sông Hồng làm ranh giới tự nhiên giữa thành phố Hưng Yên với các huyện

Lý Nhân và Duy Tiên của tỉnh Hà Nam ở bờ Nam sông Hồng. Quốc lộ 38 với cầu

Yên Lệnh nối thành phố Hưng Yên với quốc lộ 1. Thành phố có hai xã là Phú

Cường và Hùng Cường nằm ở bãi bồi (cù lao) giữa sông Hồng với diện tích: 73,42

km² (7.342,07 ha).

Những năm qua, tỉnh và thành phố Hưng Yên tăng cường đầu tư cải tạo hệ

thống cơ sở hạ tầng như: giao thông, điện, mạng, chính sách… Đặc biệt, sự kiện cầu

Yên Lệnh, cầu Triều Dương nối hai bờ sông Hồng, sông Luộc được thông xe, tuyến

quốc lộ 38, 39 được nâng cấp, cải tạo đã tạo mạch nối giao thông quan trọng giữa

các tỉnh thành phố vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, giúp Hưng Yên nâng cao sức

hút đầu tư. Đến nay, đã có 26 dự án công nghiệp, dịch vụ đầu tư vào địa bàn thành

phố, nhiều doanh nghiệp đã không ngừng đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị,

công nghệ, hoạt động sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả khá như: Công ty cổ phần

may Hưng Yên, Công ty may Phố Hiến… Giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng

năm 2012 trên 1.584,9 tỷ đồng. Năm 2008, giá trị thương mại - dịch vụ đạt 1.455 tỷ

43

đồng, đến năm 2012, giá trị thương mại - dịch vụ: 3.120 tỷ đồng. tổng mức bán lẻ,

doanh thu dịch vụ đạt 693 tỷ đồng. Hiện nay thành phố Hưng Yên đang triển khai

đầu tư xây dựng khu đô thị Phúc Hưng nằm trên địa bàn phường Hiến Nam.

Trên thực tế địa phương tỉnh Hưng Yên đã áp dụng đúng đầy đủ các quy

định pháp luật về kê biên tài sản số liệu về kê biên tài sản từ năm 2011 đến năm

2015 cụ thể như sau:

2.2.2. Các kết quả đạt được trong thực hiện kê biên tài sản bảo đảm tiền

vay ngân hàng theo pháp luật thi hành án dân sự tại thành phố Hưng Yên tỉnh

Hưng Yên.

Sáu tháng đầu năm 2019, Lãnh đạo Cục, Chi cục, cán bộ công chức các cơ

quan THADS trên địa bàn tỉnh Hưng Yên đều áp dụng đồng bộ các giải pháp nhằm

nâng cao hiệu quả công tác. Kết quả thi hành án về việc đạt 66,7% bằng 91,3% chỉ

tiêu được giao; về tiền đạt 12,9% bằng 39,1% chỉ tiêu được giao.

Để tạo điều kiện thuận lợi cho Chấp hành viên tổ chức thi hành án, Lãnh đạo

Cục, Lãnh đạo Phòng Nghiệp vụ và tổ chức THADS thường xuyên nghe các Chấp hành

viên báo cáo và trực tiếp hướng dẫn giải pháp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc.

Với phương châm đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm

tra; chú trọng việc tự kiểm tra thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ, trình tự, thủ tục về

THADS của đơn vị.

Cục đã ban hành Quyết định về việc kiểm tra công tác THADS, hành chính

Đợt 1 năm 2019, theo đó kiểm tra toàn diện 2 đơn vị, kiểm tra theo chuyên đề 2

đơn vị, kiểm tra việc thực hiện kết luận kiểm tra 4 đơn vị; Quyết định về việc kiểm

tra công tác THADS hành chính năm 2019 và Kế hoạch của Cục trưởng Cục

THADS về việc đôn đốc, kiểm tra và chỉ đạo tổ chức thi hành án đối với những việc

trọng điểm, phức tạp, việc có giá trị thi hành từ 02 tỷ đồng trở lên.

Qua kiểm tra, Đoàn kiểm tra đã đánh giá đúng thực trạng áp dụng pháp luật

của các đơn vị, kịp thời phát hiện những thiếu sót, hạn chế tại cơ sở để chấn chỉnh,

rút kinh nghiệm; chỉ đạo áp dụng đúng quy định của pháp luật. Do đó, công tác

THADS được thực hiện ngày càng nền nếp, hạn chế được những vi phạm xảy ra

trong quá trình tổ chức thi hành án.

44

Sáu tháng đầu năm 2019, Cục đã tổ chức kiểm tra 4/10 đơn vị về việc thực

hiện cơ chế một cửa và hỗ trợ trực tuyến. Nhìn chung, các đơn vị thực hiện tốt công

tác cơ chế một cửa đối với một số thủ tục hành chính trong lĩnh vực THADS. Công

tác hỗ trợ trực tuyến qua hộp thư điện tử được tiến hành hỗ trợ ngay đối với trường

hợp cần hỗ trợ, chuyển hồ sơ tới bộ phận chuyên môn giải quyết và trả kết quả đảm

bảo theo đúng quy định.

Ngay từ đầu năm, các cơ quan THADS tỉnh Hưng Yên cũng đã chủ động

thực hiện tốt vai trò của cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo THADS trên cácầmặt

công tác. Ban Chỉ đạo THADS tỉnh đã xây dựng Kế hoạch công tác năm và tổ chức

thực hiện theo đúng quy định.

Nội dung Kế hoạch công tác đã xác định rõ nhiệm vụ thường xuyên, nhiệm

vụ trọng tâm, nhiệm vụ cụ thể theo từng quý; quy định trách nhiệm tổ chức thực

hiện của đơn vị tham mưu, đơn vị phối hợp và từng thành viên Ban Chỉ đạo; tập

trung chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ THADS, hành chính theo Nghị quyết của

Quốc hội; chỉ đạo các sở, ngành, Ủy ban nhân dân, Ban Chỉ đạo THADS huyện,

thành phố kịp thời triển khai, tổ chức thực hiện.

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đã đạt được, Cục THADS cho biết, số tiền còn

tiếp tục phải thi hành trong các tháng còn lại của năm là rất lớn; một số việc trọng

điểm có giá trị tiền lớn, tồn đọng nhiều năm; việc Ban Nội chính đưa vào theo dõi

chưa được giải quyết dứt điểm.

Việc thi hành án liên quan đến tín dụng ngân hàng, việc bán đấu giá, giao tài

sản thế chấp, bảo lãnh, kê biên bảo đảm thi hành án còn nhiều khó khăn do tài sản

khó bán, nhất là đối với số việc có lượng tài sản thế chấp, bảo lãnh nhiều, tài sản thế

chấp là tài sản hình thành trong tương lai. Bên cạnh đó, ý thức tuân thủ của người

phải thi hành án còn nhiều hạn chế, thậm chí còn tìm mọi cách để trốn tránh, chây ỳ

nghĩa vụ thi hành án.

Theo quy định tại Điều 90 Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014,

khoản 1 Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP, Điều 4 Thông tư liên tịch số

11/2016TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC thì khi người phải thi hành án không có

tài sản nào khác hoặc có nhưng không đủ để thi hành án thì Chấp hành viên có

45

quyền kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án đang cầm cố, thế chấp nếu

giá trị tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án;

kể từ thời điểm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, nếu người phải thi hành án

thế chấp, cầm cố tài sản cho người khácầmà không sử dụng khoản tiền thu được để

thi hành án và không còn tài sản khác hoặc tài sản khác không đủ để đảm bảo nghĩa

vụ thi hành án thì tài sản đó vẫn bị kê biên, xử lý để thi hành án, trừ trường hợp

pháp luật có quy định khác.

Tuy nhiên, hiện nay quyền kê biên của Chấp hành viên đối với nhà ở đang

cầm cố, thế chấp cho các tổ chức tín dụng bị hạn chế khi nhà ở đó đang đảm bảo

cho khoản nợ xấu. Điều 11 Nghị quyết số 42/2017/QH14: “Các tài sản đảm bảo

của khoản nợ xấu của bên phải thi hành án đang đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ tại tổ

chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu

không bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định tại Điều 90 của Luật

THADS, trừ trường hợp thi hành bản án, quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt

hại về tính mạng, sức khỏe và trường hợp có sự đồng ý bằng văn bản của tổ chức

tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chứcầmua bán, xử lý nợ xấu”. Tại

Nghị quyết 42/2017/QH14 xác định rõ trách nhiệm của cơ quan THADS cũng như

trách nhiệm xác định nợ xấu. Theo đó:

Thứ nhất, trách nhiệm của cơ quan THADS như sau: Nghị quyết

42/2017/QH14 có hiệu lực thi hành từ ngày 15/8/2017 và được thực hiện trong thời

hạn 05 năm kể từ ngày có hiệu lực. Do vậy, cơ quan THADS có trách nhiệm áp

dụng các quy định của Nghị quyết trong việc xử lý nợ xấu và xử lý tài sản đả bảo

cho nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Đối với các việc thi hành án liên quan đến tài

sản bảo đảm cho khoản nợ xấu của các tổ chức tín dụng đã được cơ quan THADS

thi hành xong một phần hoặc chưa thi hành xong trước ngày 15/8/2017 nhưng đã

thực hiện các thủ tục thi hành án theo quy định của pháp luật THADS về trình tự,

thủ tục thì được công nhận. Các thủ tục thi hành án từ ngày 15/8/2017 phải tuân thủ

các quy định của Nghị quyết 42/2017/QH14.

Thứ hai, trách nhiệm xác định nợ xấu thuộc về các tổ chức tín dụng. Các tổ

chức tín dụng phải xác nhận bằng văn bản khoản nợ xấu khi có yêu cầu của cơ quan

46

THADS. Trên thực tế, hiện nay việc thi hành án gặp khó khăn do phía các tổ chức

tín dụng không có văn bản xác nhận dù đã có văn bản yêu cầu của cơ quan THADS.

Như vậy, đối với trường hợp tổ chức thi hành án, người phải thi hành án có nhà ở

đang thế chấp, cầm cố tại tổ chức tín dụng, ngân hàng thì Chấp hành viên có văn

bản đề nghị tổ chức tín dụng, ngân hàng có văn bản xác nhận về khoản nợ đó có

thuộc nợ xấu hay không theo quy định tại Điều 4 của Nghị quyết số 42/2017/QH14

để làm cơ sở pháp lý giải quyết, cụ thể:

- Khi tổ chức tín dụng, ngân hàng có văn bản xác nhận khoản nợ đó là nợ

xấu thì Chấp hành viên cần xác định giá trị nhà ở có lớn hơn nghĩa vụ được bảo

đảm và chi phí cưỡng chế hay không. Nếu giá trị nhà ở nhỏ hơn nghĩa vụ được bảo

đảm và chi phí cưỡng chế thì Chấp hành viên không được thực hiện việc kê biên.

Nếu giá trị nhà ở lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thì Chấp

hành viên chỉ được kê biên khi thuộc trường hợp là thi hành bản án, quyết định về

cấp dưỡng hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe. Ngoài ra Chấp hành

viên chỉ được kê biên có sự đồng ý bằng văn bản của tổ chức tín dụng, chi nhánh

ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu. Có thể thấy, trường hợp nhà

ở đang thế chấp, cầm cố tại tổ chức tín dụng, ngân hàng dù giá trị tài sản lớn hơn

nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế nhưng không có sự đồng ý của tổ chức

tín dụng, ngân hàng thì cơ quan THADS không thể thực hiện việc kê biên, xử lý.

Ví dụ: Quyết định số 02/2014/QĐST-DS ngày 05/01/2015 của TAND thành

phố Hưng Yên; Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu số 1010/QĐ.CCTHA ngày

10/02/2015 của Chi cục THADS thành phố Hưng Yên thì ông L.T.P – sinh năm

1975, địa chỉ: phường An Tảo, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên phải trả cho bà

N.T.K.D – sinh năm 1969, địa chỉ: xã Tân Hưng, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng

Yên số tiền là 40.500.000đ (Bốn mươi triệu, năm trăm nghìn đồng) cùng lãi chậm

thi hành án. Quá trình xácầminh điều kiện thi hành án thì ông P có tài sản là quyền

sử dụng đất thửa 657, tờ bản đồ số 28, loại đất T cùng căn nhà cấp 3 xây dựng trên

đất tọa lạc tại phường An Tảo. Hiện quyền sử dụng đất và căn nhà trên đất, ông P

thế chấp tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh

thành phố Hưng Yên. Khoản nợ này đã được Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển

47

nông thôn Việt Nam – Chi nhánh thành phố Hưng Yên xác nhận là nợ xấu theo

Nghị quyết số 42/2017/QH14 và yêu cầu Chi cục THADS thành phố Hưng Yên kê

biên, xử lý tài sản đã thế chấp (theo Công văn số 126/CV-NhoHY ngày

11/12/2017).

- Khi tổ chức tín dụng, ngân hàng có văn bản xác nhận khoản nợ đó không là

nợ xấu thì Chấp hành viên thực hiện theo quy định tại Điều 90 Luật THADS được

sửa đổi, bổ sung năm 2014 là chỉ kê biên nhà ở có giá trị lớn hơn nghĩa vụ được bảo

đảm và chi phí cưỡng chế và thông báo cho tổ chức tín dụng, ngân hàng biết mà

không cần văn bản đồng ý của tổ chức tín dụng, ngân hàng.

Ví dụ 1: Bản án số 246/2017/DS-PT ngày 19/10/2017 của TAND tỉnh Hưng

Yên; Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu số 686/QĐ.CCTHADS ngày

02/11/2017 của Chi cục THADS thành phố Hưng Yên thì bà L T T – sinh năm 1969

và ông T T S – sinh năm 1964, cùng địa chỉ: xã Hồng Nam, thành phố Hưng Yên,

tỉnh Hưng Yên phải trả cho bà V T M D – sinh năm 1969, địa chỉ: phường Minh

Khai, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên số tiền 1.296.000.000đ (Một tỷ, hai

trăm chín mươi sáu triệu đồng) cùng lãi chậm thi hành án. Bà L T T và ông T T S

có tài sản là quyền sử dụng đất thửa số 661, tờ bản đồ số 28, loại đất ONT và căn

nhà cấp 4 xây dựng trên đất cùng tọa lạc tại xã Hồng Nam. Các tài sản nêu trên hiện

bà L T T và ông T T S đang thế chấp tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn Việt Nam – Chi nhánh thành phố Hưng Yên vay với số tiền 150.000.000đ và

hiện chưa đến hạn thanh toán. Ngày 8/02/2018 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh thành phố Hưng Yên có Văn bản số

474/NHNoHY-KTNB xác nhận khoản vay của bà L T T và ông T T S. Xét thấy

khoản vay của bà L T T và ông T T S không phải là nợ xấu theo Nghị quyết

42/2017/QH14 nên Chấp hành viên đã căn cứ các điều kiện khác (tài sản duy nhất, giá

trị tài sản lớn hơn khoản đảm bảo cho Ngân hàng) đã ra Quyết định kê biên, xử lý tài

sản (nhà ở và quyền sử dụng đất gắn liền với nhà ở) đối với bà L T T và ông T T S.

Ví dụ 2: Theo Quyết định thi hành án số 52/HNGĐ/QĐ-CCTHA ngày

15/4/2015 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hưng Yên thì anh Nguyễn Văn

V được sở hữu căn nhà là một căn hộ mua theo Hợp đồng ủy quyền công chứng, chị

48

Phạm Phương D được hưởng tiền chênh lệch tài sản là 950 triệu đồng. Tuy nhiên

anh V mới trả 900 triệu còn 50 triệu đồng thì đến nay vẫn không trả. Chị D làm đơn

yêu cầu Thi hành án nhưng anh V vẫn cố tình không trả số tiền trên. Chị D yêu cầu

cơ quan thi hành án kê biên tài sản là căn hộ trên thì chấp hành viên trả lời là không

thể kê biên được vì số tiền thi hành án quá nhỏ so với giá trị căn hộ. Vấn đề đặt ra là

Chấp hành viên trả lời như vậy đúng hay sai?

Khoản 1 Điều 46 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm

2014 quy định về cưỡng chế thi hành án như sau: “1. Hết thời hạn quy định tại

khoản 1 Điều 45 của Luật này, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà

không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế.” Như vậy, theo quy định của pháp

luật thì người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyên thi

hành án thì bị áp dụng biện pháp cưỡng chế để đảm bảo cho việc thi hành án. Việc

kê biên nhà ở được quy định tại khoản 1 Điều 95 Luật Thi hành án dân sự như sau:

“Việc kê biên nhà ở là nơi ở duy nhất của người phải thi hành án và gia đình chỉ

được thực hiện sau khi xác định người đó không có các tài sản khác hoặc có nhưng

không đủ để thi hành án, trừ trường hợp người phải thi hành án đồng ý kê biên nhà

ở để thi hành án.”

Khoản 1 Điều 13 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2115 quy định “

Chấp hành viên căn cứ vào nội dung bản án, quyết định; quyết định thi hành án;

tính chất, mức độ, nghĩa vụ thi hành án; điều kiện của người phải thi hành án; yêu

cầu bằng văn bản của đương sự và tình hình thực tế của địa phương để lựa chọn

việc áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án thích hợp. Chấp

hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án trong

trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định

tại Điều 130 Luật Thi hành án dân sự.

Việc áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án phải tương ứng với

nghĩa vụ của người phải thi hành án và các chi phí cần thiết, trừ trường hợp quy

định tại Khoản 4 Điều 24 Nghị định này. Trường hợp người phải thi hành án chỉ có

một tài sản duy nhất lớn hơn nhiều lần so với nghĩa vụ phải thi hành án mà tài sản

đó không thể phân chia được hoặc việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài

49

sản thì Chấp hành viên vẫn có quyền áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế để thi

hành án.”

Như vậy, căn cứ theo điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, Chấp

hành viên có thể lựa chọn biện pháp cưỡng chế thi hành án để đảm bảo quyền lợi

cho người được thi hành án theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên do giá trị tài sản

quá lơn so với nghĩa vụ phải thi hành nên trong thực tê việc kê biên tài sản cũng gặp

những khó khăn nhất định, những vụ việc với số tiền ít hơn quá nhiêu so với giá trị

tài sản thường kéo thời gian bởi nhiều nguyên nhân khác nhau.

Ví dụ 3: Bản án số 02/2018/DSPT ngày 11/01/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh

Hưng Yên đã tuyên vợ chồng ông Hoàng Xuân Thắng và Nguyễn Thị Tâm phải thi

hành khoản trả nợ cho bà Nguyễn Thị Vinh số tiền: 1.200.000.000đồng. Sau khi có

đơn yêu cầu thi hành án của bà Nguyễn Thị Vinh, Chi cục THADS thành phố Hưng

Yên đã ra quyết định thi hành án, giao cho chấp hành viên tổ chức thi hành.

Quá trình giải quyết vụ việc, Chấp hành viên đã tiến hành xác minh, đôn đốc

thi hành án, thực hiện các thủ tục theo qui định của pháp luật. Qua xác minh được

biết hiện nay người phải thi hành án là ông Hoàng Xuân Thắng đang chấp hành án

phạt tù theo một Bản án khác, vợ chồng ông ông Hoàng Xuân Thắng và Nguyễn

Thị Tâm chỉ có tài sản duy nhất là 227m2 đất thổ cư đã được UBND thành phố

Hưng Yên cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông Hoàng Xuân

Thắng và các đồng sử dụng bà Nguyễn Thị Tâm, Nguyễn Thị Uyên, bà Nguyễn Thị

Hằng. Đây là tài sản thuộc quyền sở hữu chung. Căn cứ Điều 74 Luật THADS năm

2008, ngày 16/8/2018 Chấp hành viên Chi cục THADS đã ra Quyết định cưỡng chế

kê biên QSDĐ đất, tài sản gắn liền với đất, đồng thời thông báo cho chủ sở hữu chung

có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định phần sở hữu của họ đối với tài sản chung

trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo. Tuy nhiên, hết thời hạn trên

chủ sở hữu chung không chấp nhận việc kê biên và cũng không khởi kiện yêu cầu Tòa

phân chia tài sản, Chấp hành viên đã hướng dẫn cho người được thi hành án yêu cầu

Tòa án xác định phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung. Tòa

án đã thụ lý đơn yêu cầu của người được thi hành án nhưng đến ngày 24/4/2019 Tòa án

đã ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự vì không đủ điều kiện giải quyết vụ

việc dân sự qui định tại Điều 311 Bộ luật tố tụng dân sự.

50

Có nhiều quan điểm khác nhau về cách thức xử lý vụ việc và mỗi cách thức

xử lý đều gặp vướng mắc trở ngại nhất định, cụ thể như sau:

* Quan điểm thứ nhất: Tòa án đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án nên

tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung như vậy không xác định

được, nếu cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản trên thì chưa đủ căn cứ, việc cưỡng chế

kê biên, xử lý tài sản có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của các đồng sở hữu, Chấp

hành viên không thể làm thay nhiệm vụ của Tòa án để phân chia tài sản.

* Quan điểm thứ 2: Về nguyên tắc cơ quan THADS chỉ kê biên, xử lý phần tài

sản của vợ chồng ông Hoàng Xuân Thắng và Nguyễn Thị Tâmtrong khối tài sản chung

để đảm bảo thi hành án. Nếu tài sản chung không chia được hoặc việc phân chia làm

giảm đáng kể giá trị của tài sản thì chấp hành viên vẫn có thể áp dụng biện pháp cưỡng

chế đối với toàn bộ tài sản và thanh toán lại cho chủ sở hữu chung còn lại giá trị phần tài

sản thuộc quyền sở hữu của họ theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 74 Luật THADS.

Trong trường hợp trên Tòa án đã đình chỉ giải quyết vụ kiện thì cơ quan Thi hành án báo

cáo Ban Chỉ đạo THADS tổ chức cuộc họp liên ngành với Tòa án, Viện Kiểm sát, các cơ

quan hữu quan tại địa phương thống nhất biện pháp xử lý phần tài sản của người phải thi

hành án trong khối tài sản chung để đảm bảo việc thi hành án.

Tuy nhiên, dù giải quyết theo phương án nào cũng phải dựa trên các qui định

pháp luật hiện hành, khi điều luật chưa rõ ràng, cụ thể thì không thể vận dụng một cách

tùy tiện, đối với trường hợp thi hành án trên, quan điểm thứ hai vận dụng theo điểm b,

khoản 2, Điều 74 là chưa đủ căn cứ vì tài sản của vợ chồng ông Hoàng Xuân Thắng và

Nguyễn Thị Tâm chưa xác định được phần sở hữu trong khối tài sản chung. Căn cứ

Khoản 2, Điều 74, quan điểm thứ hai chưa đủ cơ sở thì Ban chỉ đạo thi hành án, các Ban

ngành hữu quan cũng không thể cùng nhau thống nhất quan điểm giải quyết theo hướng

áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên đối với toàn bộ tài sản thuộc sở hữu chung, sẽ gây

ảnh hưởng đến quyền, lợi chính đáng của những người liên quan.

2.2.3. Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân

* Hạn chế trong quy định của pháp luật về kê biên tài sản

- Vướng mắc và hạn chế trong xác minh điều kiện thi hành án

Xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án như là chiếc chìa

khóa để mở cánh cửa kê biên tài sản. Do đó để có được việc kê biên biên tài sản

được tốt thì Chấp hành viên phải làm tốt công tác xác minh điều kiện thi hành án

51

của người phải thi hành án. Trên thực tế công tác xác minh điều kiện thi hành án

không phải lúc nào cũng dễ dàng cho Chấp hành viên, mà thường có những vướng

mắc và hạn chế sau đây:

Khi xác minh tại địa chỉ của người phải thi hành án thì bản thân người phải

thi hành án và nhân thân của họ không cung cấp những thông tin chính xác về tài

sản và tài sản trên đất họ đang quản lý, sử dụng. Do vậy Chấp hành viên phải tiến

hành thu thập qua nhiều kênh thông tin khác mới có thể lọc ra những thông tin

chính xác để làm cơ sở kê biên cưỡng chế.

Khi xác minh qua địa chính xã có những trường hợp thông tin giữa bản đồ

địa chính xã và trên thực địa có những thông tin sai lệch về số thửa, tờ bản đồ, diện

tích thửa đất cũng là một khó khăn cho công tác xác minh.

Khi xác minh thông qua Phòng Tài nguyên và Môi trường và Phòng đăng ký

QSDĐ nhiều khi thông tin về QSDĐ do các cơ quan này cung cấp cho cơ quan

THADS chậm, thiếu chính xác, gây khó khăn cho Chấp hành viên không biết căn

cứ vào thông tin nào là chính xác. Sự chậm chễ cung cấp thông tin về QSDĐ ở một

số huyện là do việc quản lý hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSDĐ chưa được chú trọng

hoặc do hồ sơ bị làm sai lệch vì mục đích tư lợi là một khó khăn.

Trong quá trình xác minh tại các cơ quan, ngân hàng, tổ chức tín dụng, nơi

mà người phải thi hành án đang thế chấp QSDĐ các cơ quan này nhiều khi không

hợp tác với cơ quan THADS để giao các giấy tờ, tài liệu liên quan đến việc thế chấp

như các hợp đồng thế chấp, giấy ủy quyền, hồ sơ công chứng ... cũng là một khó

khăn cho Chấp hành viên tiến hành kê biên cưỡng chế QSDĐ.

Trong quá trình xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.

Thực tế có nhiều Chấp hành viên, chưa đáp ứng về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ

để thực hiện công tác xác minh một cách khoa học và chính xác dẫn đến chất lượng

của các văn bản xác minh chưa đủ cơ sở pháp lý cho việc cưỡng chế kê biên QSDĐ

của người phải thi hành án.

* Trình độ dân trí và ý thức pháp luật của người dân chưa cao

Tỉnh Hưng Yên nói chung và thành phố Hưng Yên nói riêng là địa phương

có trình độ dân trí không cao, dẫn ý thức pháp luật của người dân chưa cao, họ vẫn

52

sống theo tập tục cho nên họ không hiểu các quy phạm pháp luật THADS và quy

phạm pháp luật nói chung để điều chỉnh hành vi của mình theo đúng các quan hệ

pháp luật mà mình tham ra. Đặc biệt là các quan hệ pháp luật thừa kế (thừa kế theo

di chúc và thừa kế theo pháp luật). Thực tế có rất nhiều những vụ án chia thừa kế

gây nên những căng thẳng trong gia đình, họ tộc, đến khi cơ quan THADS tiến hành

kê biên QSDĐ để thi hành bản án, quyết định của Tòa án, họ chống đối kịch liệt và

không hợp tác với cơ quan THADS. Mặt khác có một số bộ phận không nhỏ, họ

được tư vấn pháp luật của các văn phòng luật sư hoặc của những người am hiểu biết

pháp luật trên địa bàn, tư vấn không đúng pháp luật hoặc sai lệch các quy định về

trình tự thủ tục THADS nhằm trây ỳ, chốn tránh thực hiện nghĩa vụ được quy định

trong bản án, quyết định của Tòa án gây ra thiệt hại cho bản thân và gây khó khăn

cho công tác THADS trên địa bàn tỉnh.

* Sự phối hợp, kết hợp giữa các cơ quan, tổ chức và cá nhân với cơ quan

THADS trong kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng còn chưa được tốt

- Sự phối hợp trong quá trình trao đổi, cung cấp thông tin về tài sản bảo đảm

còn chậm, chưa chính xác của Phòng Tài nguyên và Môi trường, Văn phòng đăng

ký QSDĐ, UBND xã và các tổ chức tín dụng.

- Nhận thức của một số cơ quan, tổ chức, cá nhân về công tác THADS chưa

đầy đủ, dẫn đến việc coi nhẹ công tác THADS; chưa thấy tầm quan trọng của việc

thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Vì vậy một số cơ quan, tổ chức cá nhân

không phối hợp hoặc phối hợp nửa vời thiếu trách nhiệm với cơ quan THADS.

- Sự phối hợp tham gia công tác xácầminh, thẩm định giá, giao QSDĐ cho

người trúng đấu giá chưa tốt, gây khó khăn cho cơ quan THADS nhiều khi phải trì

hoãn, kéo dài thời gian thi hành án, gây nên việc tồn đọng việc thi hành án.

- Đối với cá nhân đặc biệt là những người phải thi hành án và người có nghĩa

vụ liên quan, họ thường không hợp tác với cơ quan THADS trong việc không ký

vào các văn bản giấy tờ, không cung cung cấp thông tin chính xác, không tự nguyện

thi hành án, gõ cửa các văn phòng luật sư để tư vấn khiếu nại, tố cáo, hành vi của

Chấp hành viên và cơ quan THADS không đúng sự thật, họ lợi dụng các quyền

được hưởng để kèo dài thời gian thi hành án, khi bị cưỡng chế kê biên QSDĐ và

53

giao QSDĐ cho người trúng đấu giá, họ chống đối bằng mọi thủ đoạn gây khó khăn

cho cơ quan THADS.

* Các quy định của pháp luật về thủ tục kê biên tài sản bảo đảm tiền vay còn

chưa được cụ thể và chưa hợp lý

Hiện nay, Chấp hành viên đang lấn cấn trong vấn đề các khoản thuế phải nộp

từ việc chuyển quyền sử dụng đất khi xử lý tài sản đảm bảo nợ xấu. Theo khoản 2

Điều 15 Nghị quyết 42/2017/QH14 thì việc nộp thuế của bên bảo đảm, bên nhận

chuyển nhượng liên quan đến chuyển nhượng tài sản đảm bảo thực hiện theo quy

định của pháp luật về thuế. Bên nhận bảo đảm, bên nhận chuyển nhượng không

phải thực hiện nghĩa vụ thuế, phí khác của bên bảo đảm từ số tiền chuyển nhượng

tài sản bảo đảm khi thực hiện thủ tục đăng ký, thay đổi quyền sở hữu, quyền sử

dụng tài sản bảo đảm. Theo nội dung quy định này, thì bên bảo đảm, bên nhận

chuyển nhượng tài sản chỉ chịu các khoản thuế liên quan đến việc chuyển nhượng

tài sản bảo đảm (thuế thu nhập các nhân, phí công chứng, lệ phí nhà đất,…) còn các

khoản thuế khác liên quan đến tài sản đảm bảo thì không phải chịu. Ngoài ra, Chấp

hành viên còn gặp tình trạng người mua tài sản bảo đảm nợ xấu không thực hiện

được các thủ tục về chuyển quyền sở hữu, sử dụng sang tên mình với lý do còn các

khoản nợ thuế tại cơ quan thuế. Trong khi đó, theo công văn hướng dẫn nghiệp vụ

từ Tổng cục THADS thì từ ngày 15/8/2017, khi thực hiện việc thanh toán khoản

tiền thu được từ xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, cơ quan THADS ưu tiên

thanh toán cho nghĩa vụ nợ được bảo đảm cho tổ chức tín dụng sau khi trừ chi phí

cưỡng chế theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Đối với các nghĩa vụ

khác của người phải thi hành án chỉ được thực hiện thanh toán trong trường hợp

khoản tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm

và chi phí cưỡng chế.

54

Tiểu kết chương 2

Chương 2 luận văn đã cố gắng nghiên cứu thực tiễn thực hiện biện pháp kê

biên tài sản bảo đảm tiền vay, tài sản gắn liền với tại địa bàn thành phố Hưng Yên.

Luận văn đã phân tích, đánh giá đúng thực trạng áp dụng biện pháp kê biên tài sản

bảo đảm tiền vay tại Chi cục THADS thành phố Hưng Yên. Luận văn đã làm rõ kết

quả, những cố gắng và nỗ lực của Chi cục THADS thành phố Hưng Yên trong việc

giải quyết hồ sơ thi hành án, thi hành đạt các chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra trong năm,

không ngừng nâng cao chất lượng hiệu quả công tác. Tuy nhiên, hai năm gần đây

do có biến động của một số lĩnh vực kinh tế, xã hội gây khó khăn, vướng mắc cho

công tác thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hưng Yên dẫn đến chỉ tiêu hoàn

thành nhiệm vụ còn thấp, số lượng vụ việc được giải quyết còn hạn chế, chưa triệt

để, công tác cưỡng chế, kê biên QSD đất và tài sản gắn liền với đất tồn tại nhiều bất

cập, cần được giải quyết, khắc phục.

Tại chương 2 tác giả cũng đã làm rõ những tồn tại, hạn chế của hoạt động kê

biên tài sản bảo đảm tiền vay trên địa bàn thành phố Hưng Yên như sau:

Thứ nhất, số việc thi hành án áp dụng biên pháp kê biên QSDĐ, tài sản gắn

liền với đất còn tồn đọng nhiều.

Thứ hai, do trình độ năng lực và ý thức tổ chức kỷ luật của một bộ phận cán

bộ, công chức còn hạn chế, một số trường hợp còn có biểu hiện tiêu cực gây phiền

hà, nhũng nhiễu đối với đương sự.

Thứ ba, lượng việc thi hành án mỗi năm ngày càng tăng trong khi đó số

lượng Chấp hành viên còn quá ít dẫn đến tình trạng việc phải thi hành án quá tải đối

với mỗi Chấp hành viên.

Thứ tư, sự mâu thuẫn giữa Luật thi hành án dân sự với các Luật khác dẫn đến

sự không đồng bộ trong hệ thống pháp luật hiện nay.

Thứ năm, một số bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải

xét xử lại nhiều lần, kết quả các lần xét xử lại trái ngược nhau gây khó khăn, phức

tạp cho việc kê biên QSDĐ, tài sản gắn liền với đất.

Thứ sáu, một số nơi, chính quyền địa phương, các ngành hữu quan chưa phối

hợp kịp thời theo yêu cầu của cơ quan Thi hành án dân sự.

55

Chương 3

ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT,

NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN KÊ BIÊN TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN

VAY NGÂN HÀNG TẠI THÀNH PHỐ HƯNG YÊN

TỈNH HƯNG YÊN

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện kê biên

tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng tại thành phố Hưng Yên tỉnh Hưng Yên

3.1.1. Bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong kê biên tài sản

Bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa quan điểm cần được quán

triệt tuyên truyền mạnh mẽ trong quá trình tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự

nói chung hiện nay. Do đó, các quy định của pháp luật kê biên tài sản phải được

tuân thủ, chấp hành nghiêm chỉnh. Mọi vi phạm pháp luật kê biên tài sản phía cơ

quan thi hành án, chấp hành viên, các tổ chức, cá nhân có liên quan đến thi hành án

phải bị xử lý kịp thời. Pháp luật về kê biên tài sản nói riêng, là nguyên tắc cơ bản

của toàn bộ hoạt động thi hành án dân sự và hoạt động kê biên tài sản từ giai đoạn

xây dựng pháp luật thi hành án, tổ chức thực hiện pháp luật kê biên tài sản nghiêm

chỉnh, xử lý nghiêm khắc hành vi vi phạm pháp luật trong thi hành án.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thi hành án dân sự chính là tạo hành lang

pháp lý thuận lợi cho công tác thi hành án dân sự. Vì vậy, Quốc hội cần nhanh

chóng ban hành Bộ luật Thi hành án dân sự trên cơ sở hệ thống hóa, pháp điển hóa,

mở rộng phạm vi điều chỉnh, đáp ứng yêu cầu đổi mới tổ chức, hoạt động thi hành

án dân sự trong tình hình hiện nay theo tinh thần của Nghị quyết số 17-NQ/TƯ

ngày 01/08/2007 về đẩy mạnh cải cách hành chính nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản

lý của bộ máy Nhà nước và Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005

của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, nhất là Nghị quyết

số 48-NQ/TW ngày 25 tháng 04 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây

dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến

năm 2020 “xây dựng Bộ luật thi hành án điều chỉnh tất cả các lĩnh vực thi hành án;

56

xác định Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước thống nhất công

tác thi hành án; từng bước xã hội hoá hoạt động thi hành án”.

Theo Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Ban chấp hành

Trung ương Đảng quy định: “Giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất

quản lý công tác thi hành án. Xác định rõ trách nhiệm của UBND xã, phường, thị

trấn và các cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh, thành phố, trong việc thi hành các

hình phạt không phải là phạt tù chỉ đạo thực hiện nghiêm túc các bản án, quyết

định của tòa án. Từng bước thực hiện xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ

tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan Nhà nước thực hiện một số công việc

thi hành án.”

Trong các nội dung cải cách Tư pháp theo Nghị quyết 49-NQ/TW quy định

nhiều vần đề từ cơ quan điều tra, viện kiểm sát nhân dân, toà án nhân dân, luật sư,

công chứng … trong đó có công tác thi hành án nói chung. Để thực hiện được Nghị

quyết 49-NQ/TW cần có yêu cầu sau:

- Đảng phải lãnh đạo, chỉ đạo sát sao việc thực hiện Nghị quyết;

- Phải xác định thể chế thống nhất giữa cơ quan THADS và cơ quan thi hành

án hình sự, đó là xây dựng một Bộ luật thi hành án chung, bao gồm cả thi hành án

hình sự và THADS;

- Xây dựng chế độ chính sách chung cho công chức làm công tác THADS và

thi hành án hình sự. Thực tế hiện nay công chức làm trong cơ quan thi hành án hình

sự thì được hưởng theo chế độ lực lượng Công an nhân dân với chế độ ưu đãi đặc

biệt, nếu hợp nhất lại thì họ được hưởng theo chế độ lực lượng công an hay theo chế

độ công chức THADS. Đây chính là bài toán khó giải khi mà quyền và lợi ích của

họ không được đảm bảo;

- Phải có nguồn tài chính cho việc thực hiện cải cách. Đây là một yêu cầu

quan trọng nhất và là yếu tố quyết định trong công cuộc cải cách tư pháp. Nếu

không có tài chính thì mọi hoạt động cải cách chỉ nằm trên giấy tờ, bởi vì không có

tài chính thì không thể có đầu tư cho xây dựng cơ sở vật chất, tranh thiết bị để duy

trì hoạt động của bộ máy Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án.

57

3.1.2. Bảo đảm nhu cầu đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên

Có nhiều chủ thể tham gia trong quan hệ pháp luật về bán đấu giá tài sản

THADS và đặc biệt quyền lợi ích hợp pháp của các chủ thể này có mối liên quan

phức tạp. Đặt trong mối liên hệ tổng thể, pháp luật trao quyền cho chủ thể này rất có

thể sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của chủ thể khác. Một bên là người

được thi hành án muốn nhanh chóng thi hành bản án bằng mọi biện pháp, một bên

là người phải thi hành án nếu Nhà nước dùng mọi biện pháp để tổ chức thi hành án

nhất định sẽ gây ảnh hưởng tới người phải thi hành án, có thể dẫn đến hình sự hóa

quan hệ dân sự. Một bên là người phải thi hành án cố gắng chây ì, cố thủ không bàn

giao tài sản cho người trúng đấu giá, một bên là người trúng đấu giá đã thực hiện

đầy đủ nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán tài sản mà vẫn không nhận được tài sản

bàn giao từ cơ quan THADS và CHV phụ trách vụ việc. Một bên là người được thi

hành án nếu cơ quan THADS và CHV chưa bàn giao được tài sản cho người trúng

đấu giá thì vẫn không thể được nhận tiền thi hành án mặc dù tài sản về mặt pháp

luật đã bán được và tiền đã nằm chờ trong tài khoản! Một bên là nỗi lo của tổ chức

đấu giá không bàn giao được tài sản cho khách hàng thì mất uy tín với khách hàng

trong thời buổi kinh tế thị trường“khách hàng là thượng đế”. Một bên là cơ quan

THADS với nỗi lo của CHV không bàn giao được tài sản có nghĩa không thi hành

án xong, án dân sự của năm nay xếp vào án tồn đọng của năm kế tiếp. Với những

mối liên quan phức tạp trong quan hệ pháp luật bán đấu giá tài sản THADS như

vậy, đòi hỏi việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này là một vấn đề cấp thiết đặt

ra để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật

về bán đấu giá tài sản. Tuy nhiên việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này

không phải là câu chuyện nhất thời, giải quyết tình trạng cấp bách của thực tiễn mà

cần phải đòi hỏi khi hoàn thiện pháp luật phải bảo vệ “hài hòa” được quyền lợi ích

hợp pháp của các chủ thể tham gia. Do đó, yêu cầu đặt ra trong việc hoàn thiện pháp

luật bán đấu giá tài sản THADS ở Việt Nam cần bảo đảm các chủ thể tham gia

trong quan hệ pháp luật về đấu giá tài sản THADS đều phải có quyền và nghĩa vụ

bình đẳng với nhau. Người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ của mình đến

cùng và quyền nhận lại tài sản của chủ thể này cần được thực hiện đến đâu để

58

không ảnh hưởng đến người tham gia đấu giá và uy tín của tổ chức đấu giá? Người

được thi hành án thời điểm nào được nhận tiền thi hành án nếu cơ quan THADS và

CHV không quyết liệt đến cùng trong việc bàn giao tài sản? Nếu không bàn giao

được tài sản thì trách nhiệm của CHV của cơ quan THADS như thế nào? Pháp luật

đã thực sự bình đẳng khi xác định CHV là một bên trong chủ thể ký kết hợp đồng,

người trúng đấu giá cũng là một bên của chủ thể ký kết hợp đồng nhưng khi vi

phạm nghĩa vụ thì chỉ có người trúng đấu giá bị áp dụng chế tài vi phạm còn CHV

của cơ quan THADS thì không bị áp dụng chế tài vi phạm? Nhưng suy đến cùng

không bàn giao được tài sản là do sự chống đối đến cùng của người phải thi hành án

hay là do lỗi của CHV trong việc tổ chức cưỡng chế còn tắc trách? Vì vậy, hoàn

thiện pháp luật trong lĩnh vực này cần phải xác định rõ trách nhiệm cụ thể các các

chủ thể tham gia vào quan hệ này mới có thể khắc phục được những bất cập, tồn tại

trong thực tiễn bán đấu giá tài sản THADS trong thời gian qua. Một loạt những vấn

đề đặt ra đòi hỏi pháp luật phải có những quy phạm pháp luật điều chỉnh phù hợp để

bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể trong quan hệ pháp luật bán đấu giá tài sản

THADS: Người phải thi hành án có biểu hiện chống đối trong việc bàn giao tài sản

sẽ bị trách nhiệm pháp lý gì? Cơ quan thi hành dân sự và CHV cơ quan Công an

chậm trễ trong việc bàn giao tài sản hoặc có lỗi trong việc chuẩn bị tổ chức cưỡng

chế chưa kỹ lưỡng dẫn đến không bàn giao được tài sản sẽ bị trách nhiệm pháp lý

gì? Khách hàng mua tài sản THADS không nộp tiền mua tài sản sẽ bị trách nhiệm

pháp lý gì? Tổ chức đấu giá tổ chức đấu giá sai trình tự, thủ tục đối với tài sản

THADS sẽ chịu trách nhiệm pháp lý gì...?

3.1.3. Bảo đảm nguyên tắc an toàn cho chấp hành viên

Chấp hành viên thi hành án dân sự là một chức danh tư pháp do cơ quan nhà

nước có thẩm quyền bổ nhiệm theo quy trình, thủ tục nhất định khi đáp ứng đầy đủ

các yêu cầu, tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định của pháp luật;

Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của chấp hành viên thi hành án dân sự, về cơ bản,

bao gồm các yếu tố như trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật; ý thức pháp luật

nghề nghiệp; kỹ năng nghiệp vụ công tác; phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống...

Trong phạm vi luận văn, tác giả chỉ luận bàn về kỹ năng nghiệp vụ cũng như nhu

59

cầu bảo đảm an toàn pháp lý công tác thi hành án dân sự của chấp hành viên - một

trong những yếu tố rất quan trọng tạo nên năng lực của chấp hành viên.

Trước hết, để có kỹ năng nghiệp vụ công tác thi hành án dân sự thì chấp

hành viên, ngoài trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật, phải có trình độ chuyên

môn, nghiệp vụ. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ là những kiến thức chuyên sâu về

một lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp nào đó, được thể hiện qua những trình độ như sơ

cấp, trung cấp, cao cấp... Đây là những kiến thức bắt buộc phải có đối với đội ngũ cán

bộ, công chức nhà nước nói chung, đội ngũ chấp hành viên nói riêng khi thực hiện các

chức trách, nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, chấp hành viên cần phải thường xuyên tìm

hiểu, cập nhật, tích luỹ kiến thức về kỹ năng nghiệp vụ bằng cách tự học hỏi, tự đúc rút

kinh nghiệm thông qua trao đổi chuyên môn, nghiệp vụ với đồng nghiệp cũng như qua

hoạt động thực tiễn hoạt động thi hành án dân sự. Ngoài trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,

chấp hành viên còn cần có sự hiểu biết rộng rãi về các lĩnh vực khác nhau của đời sống

xã hội, theo quy định của pháp luật, chấp hành viên cao cấp phải am hiểu sâu rộng tình

hình kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế; chấp hành viên trung cấp phải nắm chắc tình

hình kinh tế, xã hội của địa phương, của đất nước; còn chấp hành viên sơ cấp cần nắm

được tình hình kinh tế, xã hội ở địa phương.

Chấp hành viên không chỉ đơn thuần giữ cương vị của người tổ chức thi

hành bản án dân sự, mà có lúc còn phải đảm nhận vai trò tư vấn, trao đổi, gợi ý họ

nên sử dụng tài sản nào để thi hành án một cách thuận tiện và có lợi nhất. Để nâng

cao hiệu quả vận động, thuyết phục đương sự tự nguyện thi hành án, chấp hành viên

cần biết cáchấphân tích, lý giải vấn đề, đánh giá, chỉ ra cho các bên đương sự thấy

những lợi ích có được khi tự nguyện thỏa thuận với nhau và tự nguyện thi hành án.

3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả kê biên tài

sản bảo đảm tiền vay ngân hàng

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về kê biên tài sản

Thứ nhất, cần phải được hoàn thiện các quy phạm pháp luật kê biên tài sản

trong Luật thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014

Nghị định số: 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ quy

định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự. Tại

60

khoản 1, Điều 24 Nghị định này quy định: “Kể từ thời điểm bản án, quyết định có

hiệu lực pháp luật, nếu người phải thi hành án chuyển đổi, tặng cho, bán, chuyển

nhượng, th chấp, cầm cố tài sản cho người khácầmà không sử dụng khoản tiền thu

được để thi hành án và không còn tài sản khác hoặc tài sản khác không đủ để đảm

bảo nghĩa vụ thi hành án thì tài sản đất vẫn bị kê biên, xử lý để thi hành án, trừ

trường hợp pháp luật có quy định khác.”

Tại khoản 1 Điều 110 Luật thi hành án dân sự, Chấp hành viên chỉ kê biên

quyền sử dụng đất của người phải thi hành án thuộc trường hợp được chuyển quyền

sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai. Vậy, hợp đồng chuyển quyền sử

dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm thực hiện việc đăng ký chuyển quyền sử dụng

đất tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất.

Trường hợp trong thực tế có người phải thi hành án đã thực hiện hợp đồng

chuyển nhượng cho người khác tại Phòng Công chức hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã

trước khi có bản án, quyết định của Tòa án nhưng sau thời điểm đó người nhận

chuyển nhượng vẫn chưa thực hiện việc đăng ký và nộp thuế tại các cơ quan có

thẩm quyền nên chưa có hiệu lực theo pháp luật quy định. Vậy, Cơ quan thi hành án

tiến hành kê biên tài sản nói trên để đảm bảo thi hành án. Hiện nay có những quan

điểm khác nhau về việc kê biên tài sản.

- Quan điểm thứ nhất cho rằng: Việc kê biên tài sản của Cơ quan thi hành án

là đúng pháp luật, vì theo quy định pháp luật thì việc chuyển nhượng nhưng chưa

đăng ký và nộp thuế thì chưa có hiệu lực pháp luật.

Trong trường hợp này theo bản thân tôi thì pháp luật cần quy định theo

hướng bảo vệ ngay tình người thứ ba nhưng với điều kiện người này không biết

hoặc không thể biết được hành vi của người có nghĩa vụ trong Bản án, Quyết định

thực hiện giao dịch nhằm tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.

- Quan điểm thứ hai cho rằng: Việc kê biên tài sản của Cơ quan thi hành án

là không đúng quy định tại khoản 1, Điều 24 Nghị định số: 62/2015/NĐ-CP ngày

18 tháng 07 năm 2015, vì tài sản đã được chuyển nhượng trước khi có bản án, quyết

định của Tòa án có hiệu lực.

61

- Luật Thi hành án dân sự quy định tại Điều 74 về cưỡng chế, kê biên tài sản

thuộc sở hữu chung. Trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung trong hộ gia đình bị

cưỡng chế để thi hành án, luật chưa quy định rõ tài sản chung của hộ được xác định khi

nào, theo hộ khẩu tại thời điểm cấp giấy chứng nhận hợp pháp, hay theo hộ khẩu tại

thời điểm kê biên tài sản, để đảm bảo quyền lợi chính đáng của các đương sự.

Vấn đề này thường hay va chạm và gặp trong thực tế, đòi hỏi pháp luật về kê

biên tài sản cần phải dự tính được trước. Để hợp lý nhất theo tôi cần phải quy định

theo hướng hộ khẩu tại thời điểm cấp giấy chứng nhận hợp pháp thì mới phát sinh

quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong hộ gia đình.

Trong trường hợp tài sản của người phải thi hành án chỉ đủ để thi hành nghĩa

vụ theo bản án, nếu cưỡng chế thì đương sự không còn nơi ở, pháp luật về thi hành

án dân sự không có văn bản nào quy định có để lại cho đương sự diện tích để ở hay

không, trường hợp có là bao nhiêu hoặc trích lại khoản tiền theo khu vực để đương

sự lo chỗ ở mới, nhằm thể hiện tính nhân đạo của pháp luật. Pháp luật về thi hành

án c n quy định theo hướng như thế này phải tạo điều kiện cho người phải thi hành

án có một nơi sinh sống trong trường hợp người phải thi hành án không còn nơi ở

nào khác. Đồng thời đảm bảo quyền con người, quyền công dân đã được quy định

tại Điều 22 Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam, “Công dân có quyền có nơi ở hợp

pháp. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ

ở của người khác nếu không được người đó đồng ý”.

Thực tế hiện nay trong hoạt động thi hành án dân sự nảy sinh nhiều vướng

mắc về việc phải xử lý nhà ở của người phải thi hành án được xây dựng trên đất của

người khác và tài sản của người phải thi hành án do người khác đứng tên thế. Trong

nhiều trường hợp, người phải thi hành án chỉ có tài sản duy nhất là ngôi nhà đó

được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhưng nằm trên đất mượn, cơ quan thi

hành án dân sự tiến hành kê biên ngôi nhà để đảm bảo thi hành án, nhưng hầuu như

không thể xử lý tiếp được. Vì vậy pháp luật thi hành án dân sự cần phải được hoàn

thiện hơn nữa để pháp luật về kê biên tài sản thực sự đi vào đời sống dân sự một

cách hiệu quả và được cuộc sống chấp nhận.

62

Thứ hai, hoàn thiện quy định quyền yêu cầu Tòa án xác định, phân chia

quyền sở hữu, sử dụng tài sản

Theo quy định Điều 74 Luật THADS năm 2008 và khoản 2 Điều 6 Thông tư

liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26 tháng 07 năm 2010

của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao khi các

chủ thể sở hữu chung không yêu cầu tòa phân chia tài sản chung, thì người được án

hoặc Chấp hành viên cơ quan THADS hoàn toàn có quyền yêu cầu tòa xác định

phần sở hữu của người phải THA trong khối tài sản chung để đảm bảo đảm

THADS. Tuy nhiên, khi Chấp hành viên khởi kiện thì họ phải nộp tiền tạm ứng án

phí dân sự sơ thẩm và phải chịu án phí dân sự sơ thẩm khi thua kiện. Liệu Chấp

hành viên có chịu lấy tiền túi của mình để đảm bảo cho yêu cầu khởi kiện của mình

không hay là lấy từ ngân sách ngành? Hơn nữa, yêu cầu xác định tài sản chung

trong vụ việc này là quyền sử dụng đất thì ai là người phải nộp tạm ứng chi phí tiến

hành xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá cũng như cung cấp các tài liệu cần thiết để

chứng minh khối tài sản yêu cầu giải quyết... Bên cạnh đó, người phải thi hành án luôn

trốn tránh nghĩa vụ nên họ không cung cấp các tài liệu liên quan đến tài sản và không

chủ động yêu cầu khởi kiện yêu cầu phân chia tài sản chung.

Do đó, cần có quy định về quyền yêu cầu Tòa án xác định, phân chia quyền

sở hữu, sử dụng tài sản gắn với quyền, lợi ích của người được thi hành án, người

phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Thứ ba, hoàn thiện quy định thành lập hội đồng kê biên tài sản là quyền sử

dụng đất, tài sản gắn liền với đất

Trong thực tế khi kê biên QSDĐ, tài sản gắn liền với đất thì Chấp hành viên

không phải là người có chuyên môn để xác định danh giới QSDĐ của người phải thi

hành án với quyền sử dụng của các hộ liền kề, hiện trạng và vị trí của QSDĐ phải kê

biên. Do vậy, thực tế Chấp hành viên phải mời cơ quan quản lý đất đai để tham gia kê

biên xác định hiện trạng, vị trí cho chính xác. Để khắc phục khó khăn này thì pháp luật

cần bổ sung quy định khi kê biên QSDĐ, tài sản gắn liền với đất phải thành lập hội

đồng kê biên. Theo đó, Chấp hành viên là chủ tịch hội đồng, đại diện chính quyền

có thẩm quyền về đất đai tại địa phương là thành viên hội đồng.

63

Thứ tư, hoàn thiện về thứ tự kê biên tài sản

Hiện nay chưa có một quy định cụ thể nào quy định nào về thứ tự kê biên tài

sản, chỉ có quy tại khoản 1 Điều 95 Luật THADS 2008 sửa đổi bổ sung 2014 với

nội dung: “Việc kê nhà ở là nơi diu nhất của người phải thi hành án và gia đình chỉ

được thực hiện sau khi xác định người phải thi hành án không còn tài sản nào khác

hoặc có nhưng không đủ để thi hành án, trừ trường hợp người phải thi hành án đồng

ý kê biên nhà ở để thi hành án”. Tuy nhiên quy định này cũng không đủ tính khái

quát để có thể coi là một nguyên tắc trong kê biên tài sản và chỉ đặt ra trong trường

hợp kê biên nhà ở là nơi duy nhất của người phải thi hành án.

Việc quy định này nhằm khuyến khích ý thức tự nguyện thi hành án, tôn

trọng quyền tự định đoạt tài sản của đương sự nhưng vẫn đảm bảo nhưng vấn đảm

bảo hiệu quả thi hành án. Mặt khác để tránh sự tùy tiện, áp đặt của Chấp hành viên,

theo tác giả cần bổ sung quy định về thứ tự tài sản kê biên theo định hướng: “Người

phải thi hành án có quyền thảo thuận với người được thi hành án về tài sản được kê

biên để thi hành án. Nếu không có sự thỏa thuận, chấp hành viên tiến hành kê biên

theo nguyên tắc: Kê biên tài sản riêng trước, nếu không có hoặc không đủ thi kê

biên tài sản chung với người khác; kê biên động sản trước rồi mới kê biên bất động

sản. Trường hợp tài sản riêng là bất động sản, tài sản chung là động sản mà phần tài

sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung đó sau khi phân chia đủ để

thi hành án thì vẫn có thể kê biên tài sản chung trước”.

Thứ năm, việc kê biên tài sản của người phải thi hành án có tranh chấp với

người khác.

Theo quy định Điều 75 Luật THADS 2008 sửa đổi, bổ sung 2014 trường hợp

cưỡng chế đối với tài sản của người phải thi hành án mà có tranh chấp với người

khác thì Chấp hành viên tiến hành cưỡng chế và yêu cầu đương sự, người có tranh

chấp khởi kiện tại Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Thực tế cho thấy

có rất nhiều trường hợp đương sự khởi kiện tại tòa án theo hướng dẫn của Chấp

hành viên, nhưng tòa án không thụ lý vụ việc, trong khi đó Điều 75 Luật THADS

năm 2008 thì Chấp hành viên xử lý tài sản đã kê biên theo quyết định của Tòa án và

cơ quan có thẩm quyền. Việc tòa án không thu lý trong trường hợp này dẫn đến hậu

64

quả khó sử lý tài sản kê biên, vì không thể xác định được quyền sở hữu tài sản mà

Chấp hành viên đã tiến hành kê biên. Do đó, trường hợp này, bộ luật tố tụng dân sự

cần có điều luật quy định cụ thể về thời gian, căn cứ, lý do cho việc thụ lý hay

không thụ lý và bổ sung vào loại việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa

án trong bộ luật tố tụng.

Thứ sáu, sửa đổi, bổ sung quy định về việc xác định QSDĐ nào được kê biên

để thi hành án.

Để khắc phục vướng mắc trong việc kê biên tài sản, đặc biệt là vướng mắc

đối với việc QSDĐ nào được kê biên để đưa ra đấu giá, chúng tôi đưa ra hai phương

án sau: Phương án 01. Sửa đổi điều kiện kê biên QSDĐ để thi hành án trong Luật

THADS năm 2014 cho phù hợp với Luật đất đai năm 2013. Theo đó Điều 110, Luật

THADS năm 2014 chỉ quy định: “CHV chỉ kê biên QSDĐ của người phải thi hành

án thuộc trường hợp được chuyển quyền sử dụng theo quy định của pháp luật về đất

đai”. Bỏ quy định: “Người phải thi hành án chưa được cấp giấy chứng nhận QSDĐ

mà thuộc trường hợp được cấp giấy chứng nhận QSDĐ theo quy định của pháp luật

về đất đai hoặc thuộc diện quy hoạchấphải thu hồi đất, nhưng chưa có quyết định

thu hồi đất thì vẫn được kê biên, xử lý QSDĐ đó.” Ưu điểm của phương án 01 này

là có sự phù hợp giữa pháp luật hiện hành về thi hành án và quy định của Luật đất

đai, giúp cho CHV và tổ chức đấu giá dễ dàng trong việc kê biên và kiểm soát tình

trạng tài sản là QSDĐ được đưa ra đấu giá. Tuy nhiên về nhược điểm của quy định

này là không bảo vệ được tận cùng quyền đeo đuổi của người được thi hành án yêu

cầu người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ thi hành án đến cùng chỉ cần xác

định đó là tài sản của người phải thi hành án mặc dù tài sản này chưa được công

nhận về mặt pháp lý là có giấy chứng nhận QSDĐ! Phương án 02. Sửa đổi điều

kiện chuyển nhượng QSDĐ trong Luật đất đai và các giấy tờ cần có trong hồ sơ

công chứng QSDĐ đối với tài sản là QSDĐ trong THADS. Phương án này cho

phép về cơ bản là giữ nguyên quy định tại Điều 110, Luật THADS năm 2014 như

sau: “CHV kê biên QSDĐ của người phải thi hành án thuộc trường hợp được

chuyển quyền sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai. Người phải thi hành

án chưa được cấp giấy chứng nhận QSDĐ mà thuộc trường hợp được cấp giấy

65

chứng nhận QSDĐ theo quy định của pháp luật về đất đai hoặc thuộc diện quy

hoạchấphải thu hồi đất, nhưng chưa có quyết định thu hồi đất thì vẫn được kê biên,

xử lý QSDĐ đó”. Để thực hiện đượcấphương án 02 này đòi hỏi Luật đất đai 2013

phải được sửa đổi theo hướng cho phép tổ chức đấu giá được quyền đấu giá tài sản

là QSDĐ trên cơ sở kê biên của CHV đối với trường hợp đất chưa được cấp giấy

chứng nhận nhưng thuộc trường hợp được cấp giấy chứng nhận. Điều kiện để được

cấp giấy chứng nhận QSDĐ là trên cơ sở biên bản đấu giá thành của tổ chức đấu

giá. Bên cạnh đó, cần quy định các giấy tờ thay thế cho giấy chứng nhận QSDĐ khi

ký hợp đồng mua bán tài sản đấu giá này là các loại giấy tờ nào? Ví dụ như biên

bản xác minh của CHV về hiện trạng đất tại UBND về việc đất không có tranh

chấp, Công văn trả lời của Văn phòng đăng ký QSDĐ xác định đất thuộc trường

hợp được cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Trong hai phương án trên, chúng tôi cho

rằng áp dụng phương án 02 là bảo vệ được tốt hơn quyền, nghĩa vụ của các bên

trong THADS, đặc biệt là người được thi hành án.

Thứ bảy, hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan đến việc kê biên tài

sản trong thi hành án.

Một là, Bộ luật dân sự 2015. Quy định về giao dịch vô hiệu khi mục đích giao

dịch giữa các chủ thể nhằm tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án của mình.

Hai là, Luật đất đai năm 2013. Bổ sung các quy định về trường hợp hủy

giấy chứng nhận QSDĐ theo yêu cầu của CHV; Bổ sung quy định thời điểm

chuyển QSDĐ.

Ba là, Luật doanh nghiệp. Bổ sung trách nhiệm của thành viên cổ đông, hội

đồng quản trị phải liên đới chịu trách nhiệm về mặt pháp lý với giám đốc doanh

nghiệp với phần vốn góp của mình.

Bốn là, Luật thi hành án dân sự cần quy định thêm về trách nhiệm của

UBND xã (phường) trong việc cung cấp thông tin không đúng thực tế về tài sản của

đương sự, người phải thi hành án, người có liên quan đến việc thi hành án. Cần phải

có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp UBND xã phường cung cấp thông tin

không đúng thực tế về tài sản của người phải thi hành án.

66

3.2.2.. Các giải pháp nâng cao hiệu quả kê biên tài sản bảo đảm tiền vay

ngân hàng

3.2.2.1. Nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của đội ngũ chấp hành viên

Từ những thực trạng Chấp hành viên của thành phố Hưng Yên đã được đề

cập ở phần trên, vấn đề đặt ra cần nâng cao chất lượng đội ngũ Chấp hành viên bằng

những giải pháp sau đây:

- Thường xuyên bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ cho các

Chấp hành viên yếu kém, với phương châm cầm tay chỉ việc cho các Chấp hành

viên hiện có tư tưởng an vị, không chịu suy nghĩ, nghiên cứu. Đồng thời ngắn với

việc thường xuyên kiểm tra, giám sát việc làm của các Chấp hành viên này để kịp

thời điều chỉnh chuyên môn của họ theo hướng tích cực.

- Thực hiện cơ chế tuyển chọn Chấp hành viên một cách thực chất, tránh

chạy theo số lượng, quan tâm đến chất lượng để chọn ra những người có đủ sức

khoẻ, đủ đức, đủ tài thực sự để bổ nhiệm vào các ngạch Chấp hành viên. Đồng thời

có cơ chế cụ thể bãi miễn những Chấp hành viên không đủ tiêu chuẩn đáp ứng được

vị trí làm việc của mình để có chỗ dành cho người khác, người có đủ tiêu chuẩn, bổ

nhiệm thay thế cho những người không đáp ứng yêu cầu của công việc.

- Chi cục THADS thành phố Hưng Yên cần có chính sách thi tuyển công

chức đầu vào, ưu đãi những sinh viên ra trường có kết quả học tập cao, để lựa chọn

người đầu vào ngành có chất lượng đào tạo tốt, đồng đều là tiền đề lựa chọn đội ngũ

công chức làm công tác THADS có chất lượng sau này. Ngoài ra để làm tốt việc

này cần phải tổ chức thi tuyển nghiêm túc, công khai minh bạch từ khâu thông báo,

nộp hồ sơ, tổ chức thi tuyển, chấm điểm, công bố kết quả. Có như vậy mới tuyển

được những người chất lượng vào ngành THADS trên địa bàn tỉnh.

- Nhà nước có cơ chế chính sách tăng lương cho đội ngũ công chức trong

ngành THADS, vì đây là một nghề luôn tiếp xúc với mặt trái của xã hội cho nên dễ

dẫn đến vi phạm, việc tăng lương nhằm đảm bảo cho họ có đủ điều kiện tự sống

bằng đồng lương được nhận thì họ sẽ toàn tâm công tác, toàn tâm, toàn lựcấphục vụ

tốt cho công tác THADS. Mặt khác Nhà nước có chính sách khoán biên chế, khoán

lương trao quyền chủ động cho các cơ quan THADS tự sử dụng biên chế, kinh phí

67

nhằm nâng cao thu nhập cho đội ngũ công chức, người lao động trong ngành

THADS.

- Mặt khác nghề Chấp hành viên là một nghề nguy hiểm, nhiều rủi ro nếu

trong một vụ việcầmà Chấp hành viên không làm cẩn thận, bị sai phạm có hậu quả

sảy ra thì Chấp hành viên đó không có cơ hội sửa sai. Do đó, họ đối mặt với hậu

quả pháp lý như bị kỉ luật, thậm trí chịu trách nhiệm hình sự. Điều này rất khác với

Thẩm phán, nếu họ có sai sót thì có cơ chế giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm

hoặc tái thẩm bảo vệ họ. Chính vì lý do đó cần có cơ chế bảo vệ Chấp hành viên

giống như cơ chế bảo vệ chức danh Thẩm phán để họ an tâm công tác phục vụ suốt

đời cho ngành THADS.

3.2.2.2. Nâng cao sự lãnh đạo của Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự tỉnh

Để công tác THADS và công tác kê biên tài sản tạo được bước đột phá căn

bản trong thời gian tới, Ban Chỉ đạo THADS cần được củng cố và kiện toàn để tăng

cường tham mưu có hiệu quả cho cấp ủy Đảng, chính quyền về công tác THADS

trên địa bàn. Có thể nói, giai đoạn từ 2015 đến nay, Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự

tỉnh Hưng Yên đã đi vào hoạt động có nề nếp, phát huy vai trò quan trọng trong

công tác thi hành án dân sự. Đồng thời Hỗ trợ kinh phí theo Công văn Liên bộ số

17558/CVLB-BTC-BTP ngày 19/12/2013 của Liên Bộ Tài chính – Bộ Tư pháp Về

việc xin hỗ trợ kinh phí hoạt động cho cơ quan thi hành án từ ngân sách địa phương;

và Công văn số 183/UBND-KTTH ngày 11/01/2013 của UBND tỉnh Hưng Yên về

việc triển khai thực hiện kiến nghị của liên Bộ Tài chính – Bộ Tư pháp.

Vai trò của Ban chỉ đạo thi hành án dân sự vẫn rất quan trọng vì trên thực tế

công tác kê biên tài sản được xem như “miếng ăn trong dạ dày nhưng bị mất đi” đó

vẫn là công tác khó khăn, phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều địa phương,...

Uỷ ban Nhân dân mà trực tiếp là đồng chí Chủ tịch uỷ ban Nhân dân cần nhận thức

việc thành lập Ban chỉ đạo thi hành án dân sự là hết sức cần thiết, trách nhiệm của

Uỷ ban nhân dân mà trực tiếp là Chủ tịchữuỷ ban nhân dân tỉnh Hưng Yên theo các

qui định của pháp luật nhằm huy động sức mạnh tổng hợp trong chỉ đạo công tác kê

biên tài sản trong nh ng vụ án khó khăn phức tạp có ảnh hưởng đến an ninh trật tự

xã hội, tạo sự đồng thuận, phối hợp trong công tác kê biên tài sản. Chủ tịch uỷ ban

68

nhân dân tỉnh Hưng Yên phải có trách nhiệm kiện toàn lại Ban chỉ đạo thi hành án

dân sự ở tỉnh mình sau mỗi nhiệm kỳ hoặc khi có sự luân chuyển, điều động, thực

hiện chế độ bảo hiểm xã hội đối với các thành viên trong Ban chỉ đạo.

3.2.2.3. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa cơ quan thi hành án và cơ quan

chức năng

Tại điều Điều 11 Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014

quy định: “trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình cơ quan, tổ chức

và cá nhân có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong việc thi

hành án. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm thực hiện yêu cầu

của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên theo quy định của Luật này. Mọi

hành vi cản trở, can thiệp trái pháp luật đối với hoạt động của cơ quan thi hành án

dân sự, Chấp hành viên đều bị xử lý theo quy định của pháp luật”; Điều 173. Nhiệm

vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong thi hành án dân sự; Điều 174.

Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp huyện trong thi hành án dân sự;

Điều 175. Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã trong thi hành án dân

sự; Điều 178. Trách nhiệm của cơ quan đăng ký tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm

trong thi hành án dân sự; Điều 179. Trách nhiệm của cơ quan ra bản án, quyết định

trong thi hành án.

Cần xây dựng các quy chế phối hợp liên ngành giữa cơ quan THADS với các

ngành, cấp liên quan mật thiết với cơ quan THADS để tháo gỡ những điểm nghẽn,

bất cập, xung đột pháp luật giữa các ngành, nhằm thực hiện có hiệu quả trong công

tác THADS nói chung và kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng nói riêng.

Công tác thi hành án dân sự luôn cần có sự hỗ trợ, phối hợp của cơ qua chức

năng, nó không chỉ là nhiệm vụ riêng của cơ quan thi hành án mà còn là nhiệm vụ

chung của các ngành, các cấp và toàn xã hội. Như trên thực tế có nhiều nơi, nhiều

lúc sự phối hợp của chính quyền các cấp của tổ chức xã hội, của công dân chưa tốt.

Vì vậy cần tăng cương sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan.

69

- Cần tăng cường sự hợp giữa cơ quan Thi ành án dân sự với Tòa án nhân

dân trong thi hành án dân sự

Có không ít các Bản án, Quyết định Tòa án tuyên không rõ ràng, không có

tính khả thi, chậm trễ trong việc giải thích các Bản án, Quyết định tuyên không rõ

ràng của Chấp hành viên làm giảm hiệu quả của hoạt động thi hành án dân sự hoặc

việc tòa án không áp dụng các biện pháp ngăn chặn để cho người phải thi hành án

tấu tán tài sản có giá trị nhắm trốn tránh nghĩa vụ phải thi hành án. Có những trường

hợp cơ quan thi hành án đã cưỡng chế và đưa ra bán đấu giá thành thì nhận được

quyết định giám đốc thẩm với nội dung quyết định hoàn toàn ngược lại so với Bản

án, Quyết định đã có hiệu lực trước đó. Hậu quả là phải thi hành án trở lại, gây bức

xúc cho các đương sự, khiếu nại kéo dài. Vì vậy, cần tăng cường quyền hạn cho Tòa

án và yêu cầu Toàn án cần phải có trách nhiệm tích cực trong việc thi hành các Bản

án, Quyết định của mình. Đặc biệt không để tồn tại quan niệm, sau khi Bản án,

Quyết định coi như tòa án hết trách nhiệm, còn việc thi hành các phán quyết là trách

nhiệm của cơ quan THADS.

- Cần tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan thi hành án dân sự với cơ

quan công an trong thi hành án dân sự

Để nâng cao hiệu quả thi hành án, cần bổ sung và quy định rõ hơn nhiệm vụ,

quyền hạn của cảnh sát hỗ trợ tư pháp trong thi hành án dân sự. Hỗ trợ xác minh tài

sản của người phải thi hành án theo yêu cầu của cơ quan thi hành án; bắt giữ người

phải thi hành án và những người khác có hành vi cản trở, chống đối trong quá trình

thi hành nhiệm vụ của Chấp hành viên.

Đồng thời, phải có các biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với cảnh sát hỗ trợ

tư pháp nếu nguyên nhân cưỡng chế thi hành án thất bại do không có sự hỗ trợ đúng

mức của cảnh sát hỗ trợ tư pháp. Ngoài ra theo tác giả cần nên thành lập Cục cảnh

sát hỗ trợ tư pháp thuộc Bộ tư pháp có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ,

quản lý cơ sở vật chất, kỹ thuật, trang thiết bị, công cụ hỗ trợ và tổ chức bộ máy cơ

quan Cảnh sát hỗ trợ tư pháp địa phương trong hoạt động hỗ trợ thi hành án dân sự.

70

- Cần tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan thi hành án với viện kiểm sát

nhân dân

Viện kiểm sát cần phải tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động thi hành án

dân sự qua đó phát hiện kịp thời các vi phạm để đưa ra hướng xử lý tốt nhất. Viên

kiểm sát nhân dân phải có ý kiến với Toàn án nhân dân để giải quyết những vướng

mắc, tranh chấp phát sinh trong thi hành án, giải quyết hậu quả bất lợi đối với

đương sự và cơ quan thi hành án do việc kháng nghị, hoặc đề nghị hoãn thi hành án

trái pháp luật gây ra. Khởi tố hoặc yêu cầu cơ quan điều tra khơi tố về hình sự khi

phát hiện có dấu hiệu tối phạm trong thi hành án.

Ngoài các cơ quan trên cần tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức

khác như: UBND các cấp, Ngân hàng, các tổ chức tín dụng, kho bạc nhà nước, bảo

hiểm xã hội, cơ qua đăng ký tài sản… quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách

nhiệm của từng cơ quan tổ chức đó. Tạo ra cơ chế phối hợp một cách linh hoạt nhất

trong quá trình tổ chức cưỡng chế kê biên tài sản nói chung và cưỡng chế kê biên tài

sản bảo đảm vốn vay ngân hàng nói riêng.

Đồng thời cần quy định các biện pháp xử lý, các chế tài áp dụng đối với các

cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định

trong phối hợp hỗ trợ với cơ quan THADS. Qua đó tạo cơ sở pháp lý cho việc xác

định trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức, các nhân trong việc xử lý các vướng

mắc liên quan đến hoạt động thi hành án, khắc phục những tồn tại trong hoạt động

thi hành án hiện nay.

3.2.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ cho đội ngũ làm công tác

kê biên tài sản

Bộ Tư pháp cần kiến nghị với Chính phủ quan tâm đến chế độ chính sách

tiền lương đối với đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án dân sự, chính sách tiền

lương đãi ngộ đối với chấp hành viên và cán bộ thi hành án phù hợp với tính chất

đặc thù của hoạt động thi hành án. Trướcầmắt là thu hẹp khoảng cách về mức

lương, hệ số lương giữa chấp hành viên và thư ký, chuyên viên giúp việc. Có chế độ

phụ cấp đối với cán bộ thi hành án bởi hiện mới chỉ có chế độ bồi dưỡng đối với

chấp hành viên. Tăng mức khoán kinh phí trên đầu người làm cho cán bộ công chức

71

yên tâm công tác và thuận lợi cho việc điều động, luân chuyển cán bộ. Cần đẩy

mạnh xã hội hoá công tác thi hành án dân sự theo hướng tạo điều kiện để mô hình

thừa phát lại phát triển.

Nói tóm lại, cần có chính sách đãi ngộ, thu hút nhân tài, đổi mới tư duy, cách

thức tuyển dụng, thực hiện quy trình thi tuyển Chấp hành viên một cách nghiêm túc

với phương châm lấy chất lượng hơn số lượng nhằm mục tiêu xây dựng đội ngũ

công chức làm công tác thi hành án tinh nhuệ, chuyên nghiệp đáp ứng được yêu cầu

đổi mới của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất

nước. Ngoài ra, cần phải tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện, công cụ hỗ

trợ bảo vệ cưỡng chế trong công tác THADS để tránh sự lệ thuộc vào các cơ quan

khác như xe ôtô đặc chủng khi cần chở đoàn cưỡng chế, chở tài sản, súng bắn đạn

cao su để phòng vệ khi các đối tượng quá kích tấn công đoàn cưỡng chế.

72

Tiểu kết chương 3

Qua phân tích khung pháp lý chung tại chương 1 và những đánh giá, phân

tích, khảo sát thực tiễn về biện pháp kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng,

trong chương 3 tác giả đã đưa ra những định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp

luật về cưỡng chế kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng. Qua đó tác giả cũng

nêu ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực hiện kê biên tài sản bảo đảm

tiền vay ngân hàng trên địa bàn thành phố Hưng Yên tỉnh Hưng Yên.

Thứ nhất là các giải pháp về hoàn thiện pháp luật như. hoàn thiện quy định

quyền yêu cầu Tòa án xác định, phân chia quyền sở hữu, sử dụng tài sản. hoàn thiện

quy định thành lập hội đồng kê biên tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền

với đất. hoàn thiện về thứ tự kê biên tài sản việc kê biên tài sản của người phải thi

hành án có tranh chấp với người khác. bổ sung chế tài áp dụng đối với người phải

thi hành án. hoàn thiện về thời gian tự nguyện thi hành án.

Thứ hai giải pháp về tổ chức và thực hiện. Nâng cao năng lực đội ngũ Chấp

hành viên. Tạo sự phối hợp đồng bộ giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ

quan chức năng. Hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp và đẩy mạnh hơn nữa công

tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật

73

KẾT LUẬN

Đối với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, tài chính - ngân hàng được

coi là một lĩnh vực đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của tất cả các

ngành kinh tế khác. Việc đảm bảo cho hệ thống này hoạt động ổn định và bền vững

phụ thuộc nhiều vào việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh và hỗ trợ hoạt động kinh

doanh và quản trị rủi ro. Với tình hình diễn biến phức tạp của nợ xấu, việc có được cơ

chế đồng bộ hoàn thiện pháp luật về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng

thương mại có thể nâng cao hiệu quả xử lý tài sản bảo đảm là cần thiết.

Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự từ thực

tiễn thành phố Hưng Yên đã đưa ra và hệ thống được một số lý luận về tài sản bảo

đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự cách tiếp cận nghiên cứu về vấn đề

này, bằng các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học

Mác-Lê Nin, phương pháp điều tra thực tế thống kê so sánh, phân tích đánh giá về

thực tiễn và lý luận khoa học. Đã chỉ ra được Khái niệm kê biên tài sản là tính toán

và ghi chép lại theo một thứ tự nh t định tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức phải

thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành và chỉ ra được đặc điểm,

phân loại về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự; vai trò của tài sản bảo đảm

tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự thứ nhất là nhằm đảm bảo tính nghiêm

minh của pháp luật và khôi phục lại nh ng quan hệ xã hội mà pháp luật bảo. Thứ hai

là nâng cao nhận thức pháp luật của người dân, thứ ba là thước đo của quá trình xét

xử của Tòa án; Các yêu cầu về tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án

dân sự.

Hai, người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền theo bản

án, quyết định được đưa ra thi hành hoặc phải nộp phí thi hành án, thứ hai người

phải thi hành án có tài sản. Thứ hai, tài sản kê biên không có tranh chấp; cơ chế bảo

đảm tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự. Thứ ba, tăng

cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực thi hành án dân sự, không có sự

phân biệt đối xử. Cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên là chủ thể đặc biệt khi

tiến hành tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự.

74

Trên nền tảng lý luận đó, tác giả vận dụng vào thực tiễn của thành phố Hưng

Yên, đánh giá thực trạng kê biên tài sản trong thi hành án từ thực tiễn địa phương

trong Chương 2 của luận văn và đã chỉ ra được thực trạng quy định pháp luật về kê

biên tài sản trong thi hành án dân sự tại thành phố Hưng Yên, thứ nhất khái quát về

sự hình thành và phát triển của pháp luật k tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong

thi hành án dân sự, thứ hai căn cứ áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản, thứ

ba, nguyên tắc áp dụng biện pháp kê biên tài sản, thứ tư trình tự thủ tục áp dụng

biện pháp kê biên tài sản; tình hình thực hiện quy định pháp luật về tài sản bảo đảm

tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự tại thành phố Hưng Yên; Nh ng ưu

điểm và hạn chế bất cập về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự tại Hưng Yên.

Tìm ra được nh ng nguyên nhân và chỉ ra những vấn đề thực trạng về tài sản bảo

đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự trên địa phương tỉnh Hưng Yên.

Trên cơ sở và thực tiễn vấn đề thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự, căn

cứ vào đặc điểm tình hình địa phương và thực tiễn thành phố Hưng Yên trong thời

gian qua, trong Chương 3 tác giả tập trung xây dựng; phương hướng hoàn thiện

pháp luật và nâng cao về tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân

sự và giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về tài sản bảo

đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự từ thực tiễn Hưng Yên, trên cơ sở

phân tích đánh giá đó để tiếp tục nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hiện pháp luật tài

sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự. Góp phần nâng cao kết

quả, hiệu quả công tác thi hành án dân sự.

75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đinh Duy Bằng (2012) Một số vướng mắc về bán đấu giá tài sản để thi hành

án” , Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên để tháng 02/2012.

2. Bộ Chính trị (2002) Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị

về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.

3. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính

trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm

2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

4. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính

trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

5. Bộ Tư pháp (2011) Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản nhằm thúc

đẩy thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Viện

Khoa học pháp lý thực hiện, Hà Nội

6. Bộ Tư pháp (2014) Tài liệu hội nghị trực tuyến sơ kết 04 năm thi hành nghị

định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài

sản, Hà Nội.

7. Bộ Tư pháp (2016) Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-

TANDTCVKSNDTC quy định một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và

phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự của Bộ Tư pháp- Tòa án nhân dân

Tối cao- Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, ban hành ngày 01/8/2016, Hà Nội.

8. Chính phủ (2010) Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/03/2010 của Chính

phủ về bán đấu giá tài sản, Hà Nội.

9. Chính phủ (2015) Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày

18/7/2015, quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật thi hành án

dân sự, ban hànhữngày18/7/2015, Hà Nội.

10. Lê Viết Cường (2016) Một số giải pháp hoàn thiện công tác bán đấu giá tại

Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản thành phố Hà Tĩnh, Luận văn Thạc sĩ

Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.

76

11. Lê Thu Hà (2011) Tập bài giảng đào tạo nghề đấu giá, Học viện Tư pháp, Hà

Nội.

12. Nguyễn Thị Thu Hà (2017) Kê biên tài sản là quyền sử dụng đất để thi hành

án dân sự từ thực tiễn thành phố Quảng Ngãi, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học

viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

13. Bùi Thị Hiền (2014) Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự theo pháp

luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội

14. Bùi Thị Thu Hiền (2015) Nâng cao hiệu quả bán đấu giá tài sản trong thi

hành án dân sự, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 7/2015

15. Từ Trung Hiếu (2016) Xử lý tài sản thế chấp trong ngân hàng để thu hồi nợ

trong thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc

sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội

16. Đỗ Thị Hoa (2010) Bán đấu giá tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay,

Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

17. Trần Thị Lương (2018) Đấu giá tài sản để thi hành án dân sự theo pháp luật

Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện

Khoa học xã hội.

18. Ngô Thị Mỹ Ninh ( 2017) Đấu giá quyền sử dụng đất theo pháp luật đất đai

từ thực tiễn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật học,

Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

19. Võ Tuấn Phi (2017) Đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự từ thực tiễn

thành phố Bình Phước, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội,

Hà Nội.

20. Nguyễn Huy Phục (2016) Xử lý tài sản bảo đảm theo pháp luật Việt Nam từ

thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa

học xã hội, Hà Nội.

21. Quốc hội (2013) Luật đất đai, Hà Nội.

22. Quốc hội (2014) Luật thi hành án dân sự,Hà Nội.

23. Quốc hội (2015) Bộ Luật dân sự, Hà Nội.

24. Quốc hội (2016) Luật đấu giá tài sản, Hà Nội

77

25. Nguyễn Hồng Sinh (2011) Những khó khăn vướng mắc trong công tác kiểm

soát việc bán đấu giá tài sản để thi hành án, Tạp chí Kiểm sát số 23 tháng

12/2011.

26. Nguyễn Quang Thái và Đào Thị Thúy Lan (2012) “Bán đấu giá tài sản trong

thi hành án dân sự vẫn còn là điểm nghẽn”, < http:// tcdcpl.moj.gov.vn >, (

16/8/2018)

27. Hoàng Thị Thu Trang (2017) Xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để

thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Bắc Giang, Luận văn Thạc sĩ Luật

học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

28. Vũ Thị Phương Tú (2017) Kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự

theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn quận Đống Đa, thành phố Hà

Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

29. Kim Hoàng Tùng (2016) Đấu giá tài sản theo pháp luật thi hành án dân sự từ

thực tiễn thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã

hội, Hà Nội.

30. Trịnh Thanh Tùng (2017) Bán đấu giá tài sản trong thi hành án các bản án về

giải quyết tranh chấp về hoạt động tín dụng ngân hàng trên địa bàn thành

phốHưng Yên, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

78